. .

Saturday, March 28, 2009

ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 36-41 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên

:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 36
Sau cuộc nói chuyện với Hán Còi trong khu kỷ luật, tôi không thiết làm việc gì nữa. Trong việc bắt tôi, chính quyền có thể sai lầm, hãy độ lượng thêm một lần để cho rằng như thế. Nhưng trong việc tước bỏ quyền được luật pháp bảo hộ của công dân, chính quyền chứng tỏ nó không phải chính quyền của dân nữa. Nó không vì dân, nó không bảo vệ dân. Nó chỉ vì nó, nó chỉ bảo vệ chính nó.
Trong Hỏa Lò tôi chỉ nghĩ về nỗi đau của mình, về số phận mình. Tôi là nạn nhân của nền độc tài, là điều rõ ràng. Ðiều không rõ ràng là trong khi phục vụ chính quyền chuyên chế tôi còn là thủ phạm. Trước tòa án lương tâm, tôi là kẻ có tội. Sự phạm tội trong tình trạng vô thức được coi như tình tiết giảm nhẹ, nhưng không phải là cái để cãi trắng, để được tha bổng.
Ðồng ý rằng những đứa trẻ hư như Hán Còi cần được giáo dục. Ðó là nhiệm vụ của bất kỳ xã hội nào. Nhưng giáo dục trẻ em bằng nhà tù không phải là giáo dục. Chức năng của nhà tù xưa nay chỉ là trừng phạt và cách ly. Chức năng giáo dục không được đặt ra. Nó rất tốt với tư cách một mục đích. Nhưng đính nó vào nhà tù một cách máy móc, như thể nó là đặc tính sẵn có của nhà tù là sai lầm.
Qua việc nhốt các công dân vào tù không cần xét xử, chỉ cần một nghị quyết chứ không cần tới một pháp lệnh, ta thấy rõ một điều. Rằng với bộ máy chính quyền nào cũng vậy, phải có một chốt hãm cho nó. Không có chốt hãm nó sẽ lồng lên trong xu hướng tự tung tự tác.
Tình thế một đảng độc tôn không có đối lập trong chính quyền là sự không có cái chốt hãm đó. Nó tất yếu sinh ra những hành động tùy tiện. Sự thay đổi lãnh tụ, thay đổi chính phủ không giải quyết được vấn đề. Thể chế, đó mới là cái cần phải thay đổi. Ðến bây giờ thì ai cũng thấy chuyên chính vô sản chỉ là cái mặt nạ che giấu quyền lực vô biên của một số kẻ nắm quyền. Những người vô sản, những công nhân công nghiệp được Mác trao cho sứ mạng kẻ đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, chẳng sơ múi gì trong cái nền chuyên chính mang danh họ. Họ có chung số phận với nhân dân bị đặt dưới chân các lãnh tụ. Chẳng có gì nữa để mà trông chờ. Chẳng lẽ không phải cái Quốc Hội được gọi là của giai cấp vô sản đã ra một nghị quyết chống lại thậm chí những đứa trẻ như Hán Còi ?
Hán Còi còn gọi chúng tôi vài lần nữa, nhưng sau vài câu đối đáp đồng cảm chúng tôi chẳng biết nói chuyện gì với nó. Hán Còi là một thằng bé hiếu động. Cứ mỗi khi quản giáo không có mặt, không rình rập, là Hán Còi đã lên tiếng gọi các bạn tù xà lim bên cạnh.
Chắp nối những mẩu chuyện lại với nhau tôi hình dung ra cuộc đời Hán Còi. Con một cô giáo nghèo dạy phổ thông trung học, suốt ngày bận bịu với việc đan len thêm để kiếm sống, không có thời giờ dạy dỗ con cái, Hán Còi trở thành đứa con của hè phố. Biệt hiệu Hán Còi được bè bạn đặt cho do khổ người bé quắt vì suy dinh dưỡng từ nhỏ. Cuộc sống lang thang lôi cuốn thằng bé. Nó dạt vòm, trở thành lính đú, theo các đàn anh đàn chị đi mổ(1). Khờ khạo, ngây thơ, nó chỉ được phân công tăm, ngánh, hoặc cản địa. Ðể trở thành lính mổ, lính đột, hoặc lính cắc cùng kinh(2), thì Hán Còi quá vụng. Bị bắt trong một đợt càn quét trước ngày lễ lớn, Hán Còi bị đưa thẳng lên trại, được Nhà nước dí cho một lệnh(3). Trong trại Hán Còi bị bắt nạt đủ điều : giặt quần áo, sột sệt(4), rửa bát, đun nước pha trà, tẩm quất cho các đàn anh...Trái ý chúng một chút là ăn đòn. Trong đám sĩ quan(5) Tín Lác hành Hán Còi nhiều nhất. Hán Còi thù lắm. Nhân đợt chuyển trại, Hán Còi giấu trong tay áo một con dao rựa dài mài rất sắc, chờ đúng lúc Tín Lác lúng túng đỡ cái hòm do đàn em Hán Còi nâng lên thùng xe cho y, vung dao chém tới tấp. Tín Lác ngã gục trên vũng máu.
Sau trận trả thù oanh liệt Hán Còi trở thành sĩ quan. Trong nhà tù sự liều lĩnh được đánh giá như một phẩm chất đàn ông. Kẻ dám chọi với đàn anh là kẻ có tư cách đàn anh.
Ra khỏi xà lim kỷ luật Hán Còi vẫn liên lạc với chúng tôi. Nghe lời khuyên, nó xin đi học văn hóa. Trại có mấy lớp bổ túc văn hóa dành cho trại viên. Thỉnh thoảng nó lại lẻn đến gần khu biệt giam, tay giơ cao cuốn vở :
- Cháu vẫn đi học đây này !
Trời rét, Hán Còi phong phanh mấy tấm áo tù, mặt xám ngoét.
Tôi hỏi :
- Cháu không có áo ấm à ?
Nó lắc đầu.
- Phải kiếm áo ấm mà mặc kẻo sưng phổi.
- Cháu không có tiền.
- Nếu có thì mua được không ?
- Giá có ken tẩy(6) đem chác(7) thì có ngay, cơ mà cháu không có.
Chúng tôi ném ra ngoài cho Hán Còi hai bao Tam Ðảo. Hôm sau Hán Còi tới, rạng rỡ trong cái áo bông thùng thình.
- Nó hét ba bao. Cháu mà cả xuống hai bao rưỡi. Thiếu mất mười đồi(8).
Chúng tôi ném ra thêm một bao nữa. Cho Hán Còi, chúng tôi phải hạ mức hút xuống. Mỗi ngày mỗi người chỉ được một điếu chính phẩm. Còn lại là thuốc vê, bằng lá thuốc chúng tôi tự trồng khi còn ở trại A.
Chúng tôi vui, cảm thấy mình vẫn còn có ích cho ai đó.
Một hôm cục trưởng Cục chấp pháp tới, theo sau là cả bộ sậu thuộc hạ - người Cục chấp pháp, người Ban Giám thị. Số người đi theo đông đến nỗi một số phải đứng ở ngoài cửa.
Tôi không thích anh chàng cục trưởng. Không phải vì tôi đang ở tù. Nếu tôi có ở ngoài đi chăng nữa thì cái bản mặt của y vẫn cứ gây cho tôi cảm giác khó chịu. Ðó là một thứ phản ứng sinh vật, bản năng.
Y bước vào, vừa đi vừa lơ đãng quan sát nơi ở của chúng tôi. Phùng Mỹ đang đọc sách, đứng dậy tiếp khách. Tôi không thích lịch sự với tên hãnh tiến, tôi ngồi yên tại chỗ. Trúc giấu vẻ khó chịu, cười bả lả :
- Anh Hiên có dễ ở đây lâu đâm ra quên mất phép lịch sự, có khách đến chơi nhà mà cũng không mời ngồi.
Tôi thản nhiên :
- Anh sai rồi. Trước hết, đây không phải nhà tôi. Vì thế tôi không cần lịch sự với các anh. Sau, nếu là nhà tôi thì cũng không phải ai tôi cũng mời vào nhà, đừng nói gì tới mời ngồi, anh trách tôi là vô duyên.
Trúc ngượng, quay sang hỏi chuyện Phùng Mỹ. Rồi không lẽ không nói gì với tôi, y hỏi :
- Lâu nay anh vẫn nhận được thư nhà đều đặn chứ ? Chị với các cháu vẫn được khỏe chứ ?
Tôi nhếch mép cười :
- Tôi không hiểu câu hỏi. Thư nhà của chúng tôi các anh duyệt rồi mới cho chúng tôi nhận, gia đình chúng tôi ở ngoài ra sao các anh còn biết hơn chúng tôi. Tôi không hiểu các anh đạo đức giả để làm gì ?
Trúc không chịu được sự mất mặt với thuộc hạ. Y quắc mắt :
- Này, anh phải biết : chừng nào còn nằm trong tay chúng tôi các anh hãy giữ mồm giữ miệng, kẻo vạ vào thân...
Tôi cũng nóng mặt :
- Bây giờ mà còn dọa dẫm tôi nữa thì thật là buồn cười. Cái vạ lớn nhất tôi đã được biết, anh còn muốn mang cái vạ nào tới để dọa tôi nữa đây ?
- Anh tưởng Ðảng phạt anh thế này là nhiều rồi à ? Anh sẽ còn được biết cái hơn nữa, nếu anh muốn...
- Thế thì hãy đưa cái đó ra đây coi.
- Ðược, hãy chờ đấy !
Y vùng vằng quay ra. Thuộc hạ im thin thít, lục tục theo sau. Khi y tới cửa, tôi gọi với :
- Này, anh kia ! Về bảo với cái anh Lê Ðức Thọ nhà anh, hoặc Trần Quốc Hoàn cũng được, rằng hãy chịu khó đọc lấy vài cuốn của Mác rồi hãy xưng mác-xít. Bảo họ rằng chính Mác lên án chế độ giam người lâu ngày trong xà lim là hết sức vô nhân đạo đấy !
Y cười gằn :
- Ðược rồi, Ðảng rộng lòng đối xử tử tế với các anh, cho các anh được giam riêng, sướng như ông hoàng không muốn, lại muốn lao động khổ sai. Muốn thế thì được thế... Hừm, đồ...
- Ði đi ! Hãy nói với Ðảng của anh rằng tôi không cần cái sự rộng lòng nào hết ! Và anh, với lối ăn nói vô lễ của anh, đừng vác mặt đến gặp chúng tôi nữa...
Nhưng y đã ra tới sân.
Phùng Mỹ bảo tôi :
- Cậu phải bình tĩnh. Ðừng sa vào âm mưu khiêu khích.
Tôi cười nhạt :
- Có lẽ cậu muốn khuyên mình đừng khiêu khích chúng nó ? Thằng này đâu có định khiêu khích mình. Không hiểu hôm nay nó tới để làm gì ?
- Vì thế mới phải bình tĩnh để cho nó nói hết xem nó muốn gì, chúng nó có âm mưu gì ? Cậu nóng như lửa ấy.
Tôi nhận lỗi. Tôi nóng. Nhưng người tù vốn thế - thỉnh thoảng nó lại bị một cơn giận bùng lên, không kìm giữ được.
Vài ngày sau, tôi được gọi ra gặp vợ.
Nhìn thấy tôi, vợ tôi òa khóc. Tôi xúc động, vừa ôm lấy vợ tôi thì vợ tôi hét lên vì đau đớn. Thì ra tôi chạm phải bên vai đang sưng tấy vì gánh đồ tiếp tế cho tôi. Tội nghiệp, vợ tôi có quen gánh gồng bao giờ đâu.
- Em gánh nặng quá ! - vợ tôi nói - Mà đường thì xa.
Vợ tôi gày, xanh lướt. Trên mặt đầy những tàn hương. Khi nào vợ tôi yếu thì những vết tàn hương lại hiện lên. Chưa bao giờ tôi thấy vợ tôi yếu đến như thế. Gánh đời cũng quá nặng rồi, vợ tôi đuối sức rồi.
- Tình hình chưa có gì tốt đâu anh ạ. - nhân lúc tên quản giáo coi tù gặp gia đình bước ra ngoài, vợ tôi nói với tôi - Mẹ gặp bác Cả mấy lần, có em đi cùng, nhưng bác ấy sợ lắm, chẳng dám giúp gì mình đâu. Cán bộ cũng chỉ dám thì thào với nhau về vụ các anh, chứ không ai dám thắc mắc. Nghe nói còn nhiều người bị bắt lắm.
Tôi muốn nói với vợ tôi đừng chờ đợi tôi nữa, ngày trở về quá xa, mà cũng có thể sẽ chẳng bao giờ có, nhưng tôi không nỡ. Thôi được, tôi sẽ viết điều đó trong một bức thư gửi sau vậy.
- Anh tiếc số sách. Nhiều cuốn quý lắm. Sưu tầm nhiều năm mới được bằng ấy, đến nhà xuất bản Sự Thật(9) còn phải mượn, chưa nói gì các nhà xuất bản khác. Nếu có ai sử dụng được thì đem cho người ta khỏi phí.. Nhà mình ẩm, mối xông mất. Cả quần áo của anh nữa, đem cho đi, năm năm rồi, vải mục hết.
- Em không cho đâu. Cho như thế cứ như anh chết rồi ấy.
- Anh còn sống chỉ là nỗi khổ cho em...
- Ðừng nói bậy.
Chúng tôi nắm chặt tay nhau.
Phùng Mỹ buồn rượi. Ðã lâu chị Ðào vợ anh không lên thăm anh. Gia đình anh nhà giáo, còn nghèo hơn gia đình tôi. Chẳng gì chúng tôi cũng đã từng ra nước ngoài, khi về cũng có một số đồ vặt vãnh có thể bán đi sống qua ngày.
Một hôm chúng tôi đang ngồi đọc sách thì nghe ở đầu hồi bên kia có tiếng cãi nhau ầm ĩ.
Phùng Mỹ ôm đầu rền rĩ :
- Khổ, sao anh em chúng ta lại có thể đối xử với nhau như vậy ?!
Tôi cũng đau lòng. Nhưng biết làm thế nào ? Nếu anh em không hiểu âm mưu của kẻ thù thì xung đột tất yếu xảy ra, không sớm thì muộn. Nằm nghe anh em mình cãi nhau mãi mà không làm gì được thật khó chịu. Nhìn lên trần, tôi nói :
- Mỹ này, mình sẽ sang bên kia...
- Bằng cách nào ?
- Cái trần không thấy có vết đinh, không có ốc vặn, chắc người ta chỉ xếp các rầm gỗ lim đặt lên thôi. Họ không sợ tù trốn theo đường lên trần vì trong các phòng kỷ luật từ giường lên trần khoảng cách quá cao, không trèo lên được. Nhưng ở đây họ cho ta bàn ghế, mình bắc ghế lên bàn rồi tìm cách trèo sang bên kia...
- Sợ rầm gỗ quá nặng, hoặc bên trên người ta còn bắt gông ngang ?
- Cứ thử xem sao.
- Chúng nó bắt được thì chết...
- Từ giờ đến tối hiếm khi có người vào. Ðể mình liều một phen.
Rầm trần không đến nỗi quá nặng. Tôi đẩy được nó lên, thở rốc.
- Chúng mình sẽ mang cho anh em một số quà. - tôi quay xuống, nói.
- Phải đấy !
Chúng tôi lấy ra khoảng hai kí khoai lang thu hoạch từ luống khoai trồng được, một ít ớt tươi từ những cây ớt xum xuê, một gói kẹo Hải Châu, một bịch trà và hai bao thuốc lá vừa được tiếp tế.
Tôi đu người chui vào trong cái lỗ tối om trên trần. Ðể sang được hồi bên kia tôi phải bò qua bốn ngăn xà lim kỷ luật. Mặc dầu tôi cố bò thật nhẹ nhàng nhưng ở bên dưới một người tù kỷ luật vẫn gọi sang buồng bên cạnh :
- Hình như có người bò bên trên, mày ạ !
Tôi nín thở.
- Ma đấy !
- Thật mà.
- Con mèo vàng của Ban(10) đấy. - người ở buồng bên trả lời - Tao thấy nó luẩn quẩn ở đây.
- Béo đáo để. Ðược một xoong rựa mận ngon tuyệt.
- Chớ có đụng vào mà chết với Ban.
Sang đến hồi bên kia, tôi nhẹ nhàng nhấc một cái rầm lên, ngó xuống. Hai người bên dưới trợn tròn mắt nhìn tôi.
- Hiên đây ! Vũ Thư Hiên đây !
- Trời, sao cậu liều thế ?
Anh Lộc nói, vội vã bắc ghế cho tôi tụt xuống.
Trong hai người tôi chỉ biết Lộc, cán bộ Viện Triết học, là bạn của Vũ Huy Cương. Tôi gặp anh vài lần, nhưng không thể nói rằng quen. Huỳnh Ngự cũng vài lần bắt tôi khai về Lộc mà tôi không biết khai gì. Người kia là Ðinh Chân, đại úy, biên tập viên báo Quân đội Nhân dân.
Cả hai đều xanh xao nhưng không đến nỗi gày lắm. Tôi quyết định ngồi lại một lát. Tôi bóc bao thuốc mời hai anh hút. Họ hút say sưa. Rõ ràng từ lâu các anh không có thuốc hút. Tôi kể cho hai anh nghe kinh nghiệm của chúng tôi đối phó với âm mưu ghép hai người khác tính cách để hằn thù nhau, kể chuyện chúng tôi học tập, trồng rau, trồng khoai, trồng ớt và đưa tặng hai anh gói quà. Lộc và Ðinh Chân có vẻ ngượng ngùng.
Tôi quay về, lần này bò cẩn thận từng bước, còn nhẹ nhàng hơn cả con mèo vàng của Ban.
Một tuần sau, tôi đang ngồi nghiền cuốn từ điển tiếng Nga thì cửa xịch mở. Một đám công an xộc vào. Tôi không hiểu vì sao chúng vào đông đến thế, có tới cả chục đứa, đứa nào đứa nấy sát khí đằng đằng. Một tên có vẻ quan trọng hơn cả tiến lên trước, lừ lừ nhìn tôi, sẵng giọng :
- Anh này ! Ði !
Tôi chưa gặp tên này lần nào. Y có bộ mặt nhày mỡ và cặp môi dầy như hai miếng chả.
- Có phải mang theo đồ đạc gì không ?
Tôi hỏi lại. Phùng Mỹ mặt mày nhợt nhạt. Chúng tôi đều nghĩ đến chuyện sắp phải xa nhau. Mà chúng tôi đã quen sống có nhau rồi.
- Không ! - cặp môi dầy nói.
Tôi đi theo y. Ðám công an dãn ra nhường lối rồi rùng rùng theo sau. Chúng tôi không đi xa. Ra khỏi cổng khu biệt giam, chúng quặt ngay vào khu kỷ luật. Tên đi đầu mở cửa, những tên đi sau đẩy tôi vào trong. Chúng đè tôi xuống giường, chụp hai khong cùm sắt vào chân tôi, một tên đẩy suốt cùm vào, rồi khóa lại.
- Anh bị thi hành kỷ luật mười ngày vì tội xúc phạm lãnh tụ. Anh được phép xin ân giảm. Nếu xin, nói với ông quản giáo cho giấy bút.
Y liếc mắt ra hiệu. Một tên chồm tới lấy còng số 8 khóa chặt hai tay tôi. Rồi tất cả rùng rùng kéo đi.
Còn lại một mình, tôi cố nhỏm dậy để quan sát hai cổ chân đau rát như phải bỏng. Khi cái tên công an tống suốt cùm vào, tôi phải nghiến răng lại để chặn một tiếng thét đau đớn. Thì ra cái khong quá chật, suốt cùm sắt lại có những vết chém như răng cưa, làm tôi bị sứt sát một số chỗ ở kheo chân, máu chảy ra tong tỏng. Nhưng đó chưa phải là cái tồi tệ nhất. Khoảng nửa giờ sau tôi thấy cảm giác nặng ở hai bàn chân, sờ thấy chân sưng phồng, da lạnh ngắt. Chân bị tụ máu rồi. Loay hoay một lát, tôi nghĩ ra cách dùng ngón tay đút vào khong cùm để tĩnh mạch không bị chẹn, máu có thể trở về tim. Rồi lại phải thay chỗ chèn cho động mạch đưa được máu xuống. Kế này tốt nhưng rất mệt, tôi không dám nằm xuống sợ ngủ quên.
Phải gày đi thật nhanh thì mới cứu vãn được tình thế, tôi nghĩ. Tuyệt thực lúc này là tốt nhất. Ðàng nào thì cũng phải tỏ thái độ. Tuyệt thực là một trong những hình thức đấu tranh, là sự biểu thị ý chí. Nhưng sự biểu thị cần có người biết, mình thì lại ở một khu cách xa trại, kêu chẳng ai nghe thấy thì tuyệt thực là vô bổ. Mà bó tay mặc cho chúng hành hạ mình thế nào thì hành cũng dở. Tôi quyết định dùng hình thức bán tuyệt thực. Cho tới nay bọn công an ở đây vẫn không trực tiếp quản lý chúng tôi, chúng vẫn phải báo cáo tình hình chúng tôi cho Lê Ðức Thọ. Cần phải cho thằng này biết tôi không phải dễ bị bẻ gãy.
Tôi gõ tường thông báo cho Phùng Mỹ biết quyết định của tôi. Anh gõ lại :
- Cố gắng lên !
Lộc và Ðinh Chân cũng đã biết tôi bị cùm. Các anh cũng nghe được thông báo. Từ phòng hai anh vang lên tiếng gõ :
- Tiên sư chúng nó !
Tôi cảm thấy trong lòng ấm áp khi biết tôi đang ở đây với bạn bè bên cạnh.
Buổi chiều viên quản giáo trông khu kỷ luật, một người đứng tuổi, mặt rỗ hoa, đi cùng một người tù tự giác mang cơm vào. Tôi bảo y :
- Tôi đang bị ốm. Tôi không ăn cơm. Anh cho mang ra. Ngày mai, báo cháo cho tôi.
Y ngạc nhiên nhìn tôi, không nói gì.
Hai chân bị cùm, hai tay bị còng, lại còn phải canh chừng cho chân không bị tụ máu, tôi cứ ngồi suốt buổi chiều và cả đêm, không dám nằm xuống. Hồi ở Hỏa Lò với cái cùm gắn chết vào chân phản tôi cứ nghĩ mãi : không biết khi bị cùm người tù đại tiểu tiện ra sao. Ðến khi mình bị cùm mới biết làm mấy chuyện đó không đến nỗi khó lắm, mặc dầu rất bất tiện. Hai tay tuy bị còng vẫn có thể di chuyển cái bô đặt ngay trên phản, sau đó thì lựa tư thế khi ngồi khi nằm mà giải quyết.
Trong xà lim rất hôi hám, tanh tưởi, muỗi như trấu, lại thêm cái nạn rĩn. Những con vật bé li ti cứ rúc sâu vào trong tóc mà đốt, giết không được, hoặc chúng quá nhiều làm cho tôi có cảm giác như thế. May, ở đây rệp chỉ có ở mức độ vừa phải. Trong bóng tối tôi sờ soạng trên mặt phản thấy những con rệp cộm lên dưới tay. Lẽ ra phải dùng ngón tay giết chúng, nhưng tôi chỉ hất chúng xuống đất, hất thật xa, tính rằng với tốc độ di chuyển chậm chạp, phải cả giờ sau chúng mới bò trở lại được chỗ cũ. Từ nhỏ tôi rất sợ mùi hôi mà con vật kinh tởm tiết ra khi nó bị di bẹp. Nhưng cuộc chống chọi với lũ súc sinh không kéo dài được lâu - chỉ một ngày sau tôi đã hết sức, thôi thì mặc chúng muốn hút bao nhiêu máu tôi thì hút, máu tôi có cả vài lít, tôi không phải kẻ quá keo kiệt, chúng cũng chẳng thù oán gì tôi, chẳng qua chỉ vì để tồn tại mà chúng tìm đến tôi để kiếm ăn mà thôi.
Ngày hôm sau tôi đói cồn cào. Hai bữa sáng và chiều quản giáo cho mang cháo vào tôi chỉ húp mỗi lần một vài thìa trước mặt y rồi bảo mang đi. Tôi biết chắc y sẽ phải báo cáo lên trên về chuyện tôi ăn thế nào. Ngày hôm sau nữa cơn đói còn dữ dội hơn. Lúc nào tôi cũng mơ màng thấy một món ăn ngon miệng nào đó mà khi nghĩ tới nó tức thì nước dãi lại ứa ra.
Cùng với cái đói có một niềm vui bất đắc dĩ : hai chân đã cựa quậy được trong khong cùm. Thế là tôi đã gày đi được một chút. Không còn phải lo cho đôi chân nữa, tôi ngủ ngon lành. Tuyệt thực còn có một ưu điểm là giảm hẳn được đại tiện và tiểu tiện, đỡ phải chịu đựng mùi hôi thối. Ðến chiều ngày thứ ba thì sự lạ xảy ra - cái đói ghê gớm bỗng biến đâu mất, tôi không thấy trong bụng cồn cào như trước mà chỉ thấy một cơn đói dịu dàng không bao giờ tắt. Người nhẹ bỗng. Ðầu óc tỉnh táo. Các giác quan tự nhiên trở nên đặc biệt sắc bén. Trong bóng tối của xà lim tôi nhìn thấy rõ những vết khía trên suốt cùm. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao khoeo chân tôi bị chảy máu - chính là do những vết khía lởm chởm như vảy cá trên bề mặt cái suốt gây ra.
Tôi nằm ngửa, không động đậy, trong cảm giác lâng lâng, nhìn lên những phiến lim trên trần nhà. Như trong một ảo mộng giữa đời thực tôi thấy trước mắt mình hiện lên một cuốn phim thú vị : câu chuyện một cô gái trong trắng đối mặt với cuộc đời xô bồ, bẩn thỉu. Tôi đặt cho nó cái tên "Chuyện phiêu lưu của nàng Liberta qua ba nước - nước Mặt Nạ, nước Mặt Nạ, nước Cùm Vàng và nước Mề Ðay".
Cô bé Liberta sống sót qua một vụ đắm tàu được đôi vợ chồng già trên hoang đảo cứu sống, lớn lên giữa thiên nhiên và muông thú. Ðến một ngày, cuộc sống hiu quạnh với cha mẹ nuôi làm cho cô buồn, và cô trốn đi, bắt đầu cuộc viễn du tìm hiểu thế giới.
Cô tới nước Mặt Nạ, nơi mỗi cư dân khi trưởng thành đều tự tạo cho mình một cái mặt nạ và sống với nó cho tới chết. Họ làm những việc tồi tệ với nhau, thậm chí hãm hại nhau, nhưng bao giờ cũng dưới những cái mặt nạ tử tế. Vua nước Mặt Nạ là một con cáo thành tinh, một con quỷ đội lốt minh quân, với đám quần thần ranh ma độc ác. Cô bị vua nước Mặt Nạ bắt làm hoàng hậu, nhưng lễ cưới chưa thành thì nước Mặt Nạ bị vua nước Cùm Vàng cất quân sang đánh để giành người con gái xinh đẹp.
Khác với dân Mặt Nạ, dân Cùm Vàng này coi vàng là vật quý nhất trên đời. Nhà nào nhà nấy suốt đời chỉ chăm chăm kiếm cho thật nhiều vàng, ai nhiều vàng hơn thì được trọng, ai ít vàng thì bị coi khinh. Ðể tỏ cho thiên hạ biết uy lực của mình, rằng mình không cần động tay động chân cũng có thể trị vì đất nước, vua nước Cùm Vàng xỏ chân vào một cái cùm nặng chịch bằng vàng, hai tay đặt trong xích vàng, ngồi trên một cái ngai cũng bằng vàng ròng, chung quanh là lũ quần thần đội những chiếc mũ bình thiên bằng vàng.
Quân nước Mặt Nạ đại bại, Liberta bị bắt mang về nước Cùm Vàng. Nhờ con vẹt cụt chân mà nàng có lần cứu sống trên hoang đảo loan báo cho muông thú nước Cùm Vàng, Liberta được đánh tháo.
Nhưng số phận lại run rủi cho nàng rơi vào nước Mề Ðay, nơi từ nhà vua cho chí dân đen đều háo danh hết mức, ai nấy xủng xoảng Mề Ðay đầy người, nhà nào nhà nấy dán la liệt bằng khen, giấy khen, cái nọ đè lên cái kia. Vua nước Mề Ðay sở hữu một cái mề đay to nhất nước, to bằng cái nong, khi thiết triều thì đứng nấp đàng sau nó, chỉ hở có đôi mắt, trong mớ hỗn độn những mề đay đeo từ mũ xuống tới giày, cái nọ móc vào cái kia như vảy cá. Lần này nhờ bà tiên Natura và con trai giúp đỡ, Liberta lại chạy thoát.
Vua ba nước hợp quân lại tiến đánh, hẹn nhau ai chiếm được Liberta thì nàng thuộc về người ấy... Nàng tiên tung mặt nạ mĩ miều cho quân đội Mặt Nạ, tung tiền vàng cho lính Cùm Vàng, tung huân chương huy chương cho lính Mề Ðay. Chúng bỏ mặc ba vua, tranh cướp nhau báu vật...
Tôi hình dung câu chuyện trong hình thức một phim hoạt hình, không ngờ rằng tám năm sau tôi còn cơ hội đặt bút ký hợp đồng làm phim với Xưởng phim Giải Phóng tại Sài Gòn. Giám đốc Mai Lộc và đạo diễn Trương Qua muốn làm phim này. Nhưng cục trưởng Nguyễn Duy Cẩn thẳng tay bác nó vì "tư tưởng kịch bản không trong sáng". Ông ta nhìn thấy trong câu chuyện dạng cổ tích ý nghĩa đương đại của nó. Mà tôi cũng chẳng giấu giếm điều đó. Tôi mở đầu kịch bản bằng câu dẫn chuyện :"Ngày xửa ngày xưa, cách đây không lâu lắm, ở một vùng đất nọ, cách đây không xa lắm..." Trong đoạn miêu tả triều đình nước Mặt Nạ, các vệ sĩ "vận áo giáp Trung cổ, đầu đội mũ sắt, trước ngực lủng lẳng khẩu tiểu liên cực nhanh, chân đi ủng trận", lời quần thần tung hô nhà vua là :"Thánh thượng vạn vạn tuế. Người là mặt trời trên hết các mặt trời, vua trên hết các vua, tổng thống trên hết các tổng thống, đồng chí trên hết các đồng chí...".
Tôi được tin Phạm Viết chết cũng trong những ngày này. Chị Ðào, vợ anh Phùng Mỹ lên thăm đã mang tin buồn cho chúng tôi.
- Chúng ta hãy để một phút mặc niệm Phạm Viết ! - Phùng Mỹ gõ cho tôi.
Tôi đấm vào tường ba cái liền, dấu hiệu đồng ý.
Tôi mặc niệm Phạm Viết trong tư thế nằm. Tôi không biết chị Lan, vợ anh, đã được thả ra cho nuôi con sau hai năm rưỡi bị giam cùng với chúng tôi tại Bất Bạt.
Một hôm, ba ngày sau khi tôi bắt đầu cuộc bán tuyệt thực, tên quản giáo rỗ mặt tháo còng tay cho tôi :
- Anh dại lắm ! Bướng có được cái gì đâu, mà khổ vợ khổ con... - cho người tù tự giác ra ngoài, y nói với tôi - Tôi vẫn cầm giấy bút cho anh đây, anh nên viết đơn lên trên, hay ngại đơn từ lằng nhằng viết tự kiểm(11) cũng được, để tôi chuyển cho.
Nghe giọng nói của y thì hình như đó là lời khuyên thật lòng. Tôi cảm ơn, nói rằng mỗi người có một cách sống, và tôi thích sống như tôi đã sống, tôi không chọn cách sống khác, cho dù nó hay hơn.
- Anh nên ăn cơm, húp có một ngụm cháo rồi bỏ hại người lắm. Còn phải nghĩ đến ngày về chứ !
Y nói trước khi khóa cửa lại. Thì ra y chuyển lời của người khác.
Tôi vẫn tiếp tục tuyệt thực.
Mấy ngày sau tình hình còn dễ chịu hơn nữa. Dường như dự trữ trong người bắt đầu được huy động từ từ, có tính toán, bù đắp dần cho sự thiếu hụt. Cảm giác đói vẫn còn đó, nhưng hoàn toàn không nặng nề. Tôi cảm thấy mình tồn tại trong một trạng thái lạ lùng : tôi nằm thiêm thiếp nửa mê nửa tỉnh, có vẻ như hơi mệt mỏi, nhưng cơ thể lại nhẹ nhàng.
Sáng ngày thứ bảy, tôi bị đánh thức bởi tiếng ồn ào của nhiều người. Viên quản giáo mặt rỗ mở cửa rồi đứng né sang một bên, nhường lối cho tên mặt nung núc thịt với cặp môi dầy.
- Anh có kêu xin gì không ?
- Không !
Tôi đáp và quay mặt đi. Tưởng chúng sẽ bỏ đi, nhưng một tên đi sau tiến lên, mở khóa, tháo cùm cho tôi. Tôi đứng lên, nhưng đôi chân không nghe lời, làm tôi suýt ngã. Y vội đỡ, nhưng tôi gạt ra :
- Tôi tự đi được !
Họ giải tôi về phòng giam. Phùng Mỹ ái ngại nhìn tôi lảo đảo vịn cửa bước vào. Chắc tôi xanh và gày đi nhiều. ấy là người ta đã bớt cho tôi ba ngày cùm, kết quả của việc tôi tuyệt thực. Nghe nói có người bị cùm liền mấy tháng khi ra không đi được, phải bò. Càng phục anh tù tử hình Hỏa Lò, cùm suốt mà không sao cả.
- Thu xếp đồ đoàn !
Anh chàng môi dầy ra lệnh.
Tôi mặc y, đi đến chỗ cái xô đựng nước san ra chậu rửa mặt, cạo râu và gội đầu. Nước mát làm cho tôi tỉnh lại. Chỉ cần nghỉ một lát, vận động qua loa cho máu chạy đều trong huyết quản là đâu sẽ vào đó.
Như vậy, tôi sẽ không được ở với Phùng Mỹ nữa, tôi nghĩ. Không biết người ta định đưa tôi đi đâu ? Tôi bắt đầu nhớ anh. Nhớ và thương, bởi vì Phùng Mỹ sẽ phải chịu đựng cuộc sống cô đơn một cách cực nhọc. May, chúng tôi đã tạo được thói quen học tập. Anh ở lại một mình cũng khó khăn, nhưng dễ vượt qua. Chỉ sợ cùng với sự chia lìa chúng tôi bắt đầu một chế độ giam cầm mới, chưa biết là thế nào.
Phùng Mỹ pha trà. Chúng tôi uống và nhìn nhau lưu luyến.
- Nhanh lên ! - viên quản giáo ra lệnh.
Tôi đặt chén nước xuống.
- Xong rồi !
Y trợn mắt :
- Anh không mang theo đồ đoàn à ?
Tôi lẳng lặng bỏ vào cái túi vải đựng đồ tiếp tế mấy cuốn sách, bàn chải, dao cạo râu, nhét thêm vào đó một bộ quần áo rồi bắt tay Phùng Mỹ. Chúng tôi ôm lấy nhau, từ biệt.
- Có thể đi được rồi ! - tôi tiến ra cửa.
- Anh không mang đồ tới chỗ ở mới không có cái mà dùng đâu. Mang hết đi !
Tôi bỏ lại tất : chăn, màn và thức ăn gia đình tiếp tế. Phùng Mỹ sẽ dùng. Anh còn ở lại một mình.
- Tôi yếu, không mang được nặng !
- Ði !
Y dẫn tôi ra khỏi trại. Ban ngày, sân trại vắng ngắt. Xa xa tôi thấy mấy người tù mặc áo chàm xám ngồi trên hè. Ðó là những người tù ốm, không phải đi lao động.
Tôi được giao cho hai công an viên trẻ, mặt lầm lì.
- Ði !
Một trong hai tên hất hàm, lia mũi tiểu liên chỉ ra con đường trước mặt.
Thì đi.
Rời khỏi khu trại chừng một cây số thì hết con đường rộng. Hai tên áp giải chỉ cho tôi đi vào đường rừng.
Ðến đây thì đầu óc tôi căng thẳng. Chúng dẫn tôi đi đâu ? Con đường trước mặt thấp thoáng, heo hút. Quanh đây tịnh không một bóng người. Người tôi căng ra như sợi dây đàn.
Làm ra vẻ uể oải bước, tai tôi vẫn bắt được từng tiếng sỏi đá lạo xạo dưới đế giầy vải của hai tên cầm tiểu liên đi sau. Không nhìn lại tôi vẫn cảm thấy hai nòng tiểu liên hướng vào lưng tôi.
Nếu chúng có ý định thủ tiêu tôi thì con đường rừng hoang vắng thích hợp lắm, tôi nghĩ. Hai tên áp giải có thể bất thần nhả đạn vào tôi, rồi hất xác tôi xuống vực. Kịch bản tuyệt vời : tên tù vùng chạy, người áp giải nổ súng.
Không có lẽ tôi sẽ chết ở đây, bên con đường heo hút này ?
Không thể chết như thế được ! Tôi không chịu được một cái chết thụ động. Dù sao tôi cũng đã là người lính. Người lính không thể chết mà không chống cự, dù trong tình thế hiểm nghèo nhất, tuyệt vọng nhất. Nếu sự xấu đó xảy ra, và viên đạn đầu tiên không trúng tim, tôi sẽ phải nhảy ngược lại, rất nhanh, giật lấy súng mà chiến đấu cho tới hết giây phút cuối cùng của đời mình.
Tôi nhớ tới những miếng võ đoạt súng mà anh Báu, một sĩ quan Nhật, dạy chúng tôi ở Trường lục quân Trần Quốc Tuấn. Sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng viên sĩ quan này đã không nộp súng cho quân Tưởng mà chạy sang hàng ngũ Việt Nam. Tôi không gặp lại anh sau khi hòa bình lập lại. Không biết giờ anh ở đâu. Có người nói do ngờ vực lòng trung thành của họ, tất cả sĩ quan và hạ sĩ quan Nhật bị tập trung lại trong một lớp rèn cán chỉnh quân, và khi họ xuống suối để rửa ráy sau bữa ăn thì những khẩu trung liên được bố trí sẵn trong rừng nhả đạn vào họ. Không rõ thực hư ra sao.
Có lẽ sự căng thẳng tột độ đã làm cho tôi đi nổi đoạn đường rừng mười cây số sau bảy ngày bị cùm trong phòng kín không ăn uống. Nhớ lại chuyến đi đó tôi gọi nó là "mười cây số đi bên Thần Chết". Tôi lo lắng vô ích - người ta căm ghét chúng tôi, nhưng chưa đến độ dám làm điều đó !
Khi con đường rừng kết thúc trước mặt tôi hiện lên một ngôi nhà hai tầng mà tầng dưới là cái cổng lớn, với hai bức tường dài hai bên. Tôi không nhận ra cái trại giam tôi bị đưa tới vào ban đêm.
Ðưa tôi vào bên trong cổng, hai tên áp giải bảo tôi ngồi đợi ở đó rồi bỏ đi. Tôi buồn rầu nhìn cái sân trại trắng lốp đất sét, với mấy ngọn cỏ lơ thơ. Xa xa là dãy nhà giam quét vôi trắng, rất đông tù đi đi lại lại. Chủ nhật, họ được nghỉ lao động. Trong mấy nhà giam này có một cái tôi đã ở qua cùng với Phùng Mỹ. Nắng xiên khoai chiếu vào chỗ tôi ngồi, một mình, bên dưới cái ban-công có quả bom chết, tiếng lanh lảnh của nó đã làm khổ tôi và Phùng Mỹ trong những buổi sáng trước đây.
Mải suy nghĩ tôi không thấy một sĩ quan công an đeo quân hàm trung úy đã đến trước mặt tôi :
- Anh là Vũ Thư Hiên, hả ?
- Phải.
Tôi lạnh lùng đáp, hơi ngạc nhiên trước giọng nói của viên trung úy. Rất hiếm người Nam Bộ tập kết ra Bắc làm việc trong ngành công an. ớt nhất thì tôi cũng không gặp Nét mặt khắc khổ, người xương xương, anh ta lớn hơn tôi chừng vài tuổi.
- Anh theo tôi !
Tôi nặng nhọc chống tay vào đùi đứng lên, quơ cái túi xách, bước theo.
Viên sĩ quan đưa tôi vào một căn phòng trong tầng dưới ngôi nhà, ngay sát cổng trại. Vừa bước vào nhà, anh ta khóa chặt cửa lại.
Tôi nhìn anh ta, cảnh giác. Tại sao anh ta lại khóa cửa ? Ðể làm gì ? Ðể đánh tôi chăng ? Không phải, để làm việc đó ít nhất phải có vài tên. Công an bao giờ cũng cẩn thận.
Khóa cửa rồi, anh ta quay nhìn tôi trân trân. Thế rồi, dường như không kìm nổi xúc động, anh ta lao tới, ôm chầm lấy tôi. Tôi cảm thấy những giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống vai tôi, thấm qua lần áo mỏng.
- Tôi biết hết những việc xảy ra. Không ngờ chúng nó đối với các anh tàn nhẫn đến thế ! Tội nghiệp quá !
Tôi ngượng nghịu gỡ tay anh ta :
- Chuyện thường tình mà ! Có gì tội nghiệp đâu.
Tôi không tin cả những giọng nước mắt. Một diễn viên thượng thặng chăng ? Anh ta làm thế để làm gì ?
- Anh ngồi xuống đây đi !
Anh ta dẫn tôi đến bên bàn, rót trà. Chúng tôi uống trong im lặng. Nhìn tôi đăm đăm một lát, anh ta thở dài, buồn rầu :
- Tôi hiểu, anh hổng tin tôi. Mà cũng phải. Tin sao được khi tôi đang vận bộ quần áo nầy !
Ngừng lại một lát, anh ta cúi xuống, nói tiếp, giọng trầm hẳn xuống, bùi ngùi :
- Ông già tôi được bác Ung Văn Khiêm giác ngộ cách mạng, là đàn em của bác Khiêm, anh à. Ông già hy sinh lâu rồi. Tôi lớn lên, vô bộ đội, rồi chuyển qua ngành nầy...
- Bác Khiêm có được khỏe không ? - tôi ngước mắt nhìn người ngồi trước mặt.
- Nghe nói bác Khiêm vẫn mạnh giỏi.
Anh ta có giọng nói ấm, từ trong ngực. Trực giác mách tôi rằng con người này có thể tin được.
- Tại sao lại nghe nói ? Anh không gặp bác Khiêm ?
- Không gặp được. - anh ta buồn bã lắc đầu - Bác bị khai trừ Ðảng, không còn chức vụ gì hết, lại bị theo dõi chặt... Tôi là công an, tôi không được phép gặp bác.
Ðến bấy giờ tôi mới biết ông Ung Văn Khiêm bị khai trừ Ðảng.
- Anh em chúng tôi ở cả đây ?
- Chỉ một số thôi.
Tôi thấy không nên hỏi thêm nữa. Hãy tạm tin rằng anh ta không nói dối. Nhưng cho dù những điều anh ta nói là thật thì mình cũng không vội tin được. Mà cũng không thể đòi hỏi ở anh ta những điều không thể nói. Về phía anh ta, anh ta cũng phải giữ gìn.
- Tôi tên là Dứa, làm cán bộ trực trại(12). - anh ta nói và thở dài - Anh tin tôi hay không tin tôi, điều đó không quan trọng. Tôi vẫn có trách nhiệm bảo vệ anh. Vì, anh biết đấy, những người cách mạng trước đây đối với nhau như thế nào ... Tôi là con của ba tôi, là cháu của bác Khiêm, tôi tự hiểu trong trường hợp này tôi phải làm gì cho anh, cho các anh.
- Tôi tin anh.
- Tóm lại, tôi vẫn là người trong gia đình lớn của cách mạng. Khi có việc gì cần đến tôi, hoặc nghi ngờ có sự nguy hiểm xảy ra với anh, anh cứ chạy thẳng ra đây đòi gặp trực trại, đừng ngại. Tôi có trách nhiệm bảo vệ anh, tôi nhắc lại, đó là trách nhiệm của lương tâm. Trong cương vị tôi, tôi có thể làm được việc đó.
Tôi cảm động. Tôi đặt tay mình lên tay anh mà bóp nhẹ để bày tỏ sự cảm thông và lòng biết ơn. Nước mắt tôi ứa ra, không sao giữ được. Tôi mừng biết bao nhiêu - ở chốn tận cùng của cuộc đời tôi vẫn gặp được người anh em của mình. Cách mạng vẫn đẹp lắm. Những người cách mạng vẫn còn đấy.
Dứa đứng lên. Thời gian gặp tôi đã hết.
- Anh sẽ phải ở trong một toán tù chính trị. Hàng ngày phải đi lao động. Nặng nhọc đấy ! - Dứa trầm ngâm, cái nhìn mệt mỏi - Ðây là sự hành hạ, người ta chủ trương như thế, cho anh biết thân. Ráng chịu đựng nghen. Khi nào mệt quá, anh báo ốm mà nghỉ lấy một buổi cho lại sức. Tôi sẽ nói trước với y sĩ trại chuyện này...
Tôi lắc đầu :
- Như thế sẽ lộ ra anh có sự đối đãi đặc biệt đối với tôi. Không nên. Tôi đã ở bộ đội, tôi quen lao động. Tôi sẽ chịu đựng được.
Dứa đặt tay lên vai tôi :
- Tôi biết phải làm thế nào. Anh nhớ lấy nghen : mọi sự tới nay chưa phải là đã kết thúc đâu. Vô trại anh sẽ thấy một tên tù săn đón anh - tên hắn là Trần Chấn Hoa. Tên nầy được Ban Giám thị chiêu mộ để theo dõi anh, báo cáo mọi hành động của anh trong trại. Người được Bộ giao trách nhiệm quản lý các anh tên là Thùy, trung úy Nguyễn Huy Thùy, một tên ra đời để làm đầy tớ cho bọn có quyền, anh phải rất cẩn thận với tên này...
Chúng tôi ôm lấy nhau.
Ngày hôm sau Dứa gặp tôi với bộ mặt vô cảm.

(1) Tiếng lóng : dạt vòm (bỏ nhà đi lang thang), lính đú (tên theo đòi, a dua đi ăn cắp ăn trộm), mổ (móc túi).
(2) Tiếng lóng : lính mổ (tên ăn cắp chuyên móc túi), lính đột (tên ăn trộm), lính cắc cùng kinh (tên ăn cắp chuyên lấy củ đèn (dinamo), yên xe đạp.
(3) Cách những người tù gọi tắt một hạn 3 năm của lệnh tập trung cải tạo.
(4) Tiếng lóng : nấu nướng.
(5) Anh chị lưu manh, phân biệt với các đàn em trong trại.
(6) Tiếng lóng : thuốc lá.
(7) Tiếng lóng : đổi.
(8) Tiếng lóng : điếu thuốc lá.
(9) Nhà xuất bản sách chính trị, lý luận của Ðảng.
(10) Ban giám thị.
(11) Tự kiểm thảo, nhận lỗi.
(12) Cán bộ trực trại trong một trại giam làm công việc quản lý số tù xuất nhập trại khi đi lao động hoặc được giữ trong trại ban đêm, cùng công tác an ninh trong khu vực trại giam. Có nơi gọi là đội trưởng. Từ toán trưởng thường được tù chính trị gọi người được Ban Giám thị chọn cho làm công việc cầm đầu một toán tù (hoặc đội tù). Toán là từ được tù chính trị ở Hà Giang chuyển về dùng quen miệng.



:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 37

Tù chính trị ở trại Tân Lập đông chứ không phải ít. Tại nơi tôi được đưa tới, sau mới biết tên là Trại A, có tới trên hai trăm người. Sáng hôm sau, khi người ta chỉ cho tôi ra sân trại để nhập vào cái khối xám xịt lúp xúp nón mê đang ngồi xổm úp mặt vào lưng nhau chờ bị gọi đi lao động, tôi thật sự sửng sốt :"Thế này mà là những người làm chính trị ư ?!!".
Những nhà chính trị bị bỏ tù, chính trị phạm, nay gọi là trại viên số lẻ, sống trong mấy nhà giam. Những ngôi nhà bề ngoài bình thường, hơi dài một chút, tường quét vôi trắng, nền cao, với những cửa sổ lớn. Phân biệt với nhà ở là cái cửa ra vào - nó không có hai cánh mà chỉ có một, nhưng rất dày, chắc nịch, bằng gỗ lim, lốm đốm những bù loong, then, chốt đen xì. Dãy nhà giam thẳng hàng nằm trong một khu đất có tường rào dây thép gai bao quanh làm thành một tứ giác không đều, mỗi góc có một vọng gác.
Tù số lẻ được phân chia thành từng toán, mỗi toán hơn bù kém độ ba chục người do một quản giáo trông coi. Dưới quyền quản giáo là một cai tù, gọi là toán trưởng, được Ban Giám thị lựa chọn trong số tù cải tạo tốt.
- Phải cẩn thận với toán trưởng1. - một người nói khẽ trong khi đi ngang - Gia-ve(1) có hạng đấy !
Tôi ngẩn ngơ nhìn anh ta, nhưng anh ta đã đi khuất, nhanh như cắt, lẫn vào trong đám áo xám.
Lát sau, một anh chàng không còn trẻ, nhưng cũng chưa già, ăn vận bảnh bao, tuy vẫn đồ tù đấy nhưng mới và sạch, lại không có hai chữ CT(2) to bằng bàn tay trên lưng áo như những người tù khác, đến trước mặt tôi :
- Tôi là toán trưởng. Anh tên chi ?
Tôi nói tên họ. Anh ta giở sổ, hí hoáy ghi.
- Số tù bao nhiêu ?
Chưa bao giờ người ta nói với tôi rằng tôi là một con số.
- Tôi không biết !
- Sao lại không biết ? - anh ta gắt lên - Mỗi người phải có số của mình. Nó là cái tên của anh trong tù, sao lại không biết ? Anh dở người chắc ?
Tôi lạnh lùng nhìn thẳng vào mắt y :
- Này, anh hãy ăn nói cho cẩn thận. Tôi nói không biết là không biết. Anh đi mà hỏi Ban Giám thị !
Trên mặt toán trưởng thoáng một nét ngạc nhiên pha lẫn bối rối. Chắc chưa có người tù nào nói với anh ta bằng giọng sẵng như vậy.
Những người tò mò ùa tới, vây quanh chúng tôi. Nhìn họ, tôi biết họ không muốn tôi bị toán trưởng bắt nạt. Họ nhao nhao :
- Anh ta vừa ở biệt giam ra. Có khi chưa có số thật.
- Thì phải từ từ giải thích cho anh ấy.
- Số lẻ với nhau cả. Ðừng làm cái trò ma cũ bắt nạt ma mới.
Toán trưởng phân trần :
- Thì tôi chỉ hỏi số anh ta để ghi vào sổ thôi. Anh ta lại bảo không biết. Biệt giam thì cũng phải có số chứ.
- Có phải thứ biệt giam nào cũng giống thứ biệt giam nào đâu.
- Chưa có số thì cứ tạm ghi tên vào sổ cái đã, hỏi sau. Ði đâu mà vội.
- Mới, ai người ta biết phải làm gì.
Toán trưởng xua xua tay :
- Ðể cho tôi làm việc !
Y muốn lên mặt, rõ ràng thế.
- Tôi khuyên anh hãy để việc đó cho Ban Giám thị. - tôi nói, lạnh lùng - Họ có trách nhiệm, chứ không phải anh.
Toán trưởng bối rối :
- Nhưng tôi là toán trưởng, tôi phải nắm quân số.
- Anh cứ nói toán anh có một người tù không biết số bao nhiêu. Thế là xong !
Mọi người cười ồ.
- Thôi được, lát nữa anh lên Ban Giám thị hỏi số của anh bao nhiêu, nhé ! - toán trưởng hạ giọng - Phàm là tù thì phải có số chứ.
Tôi đáp :
- Tôi đã nói rồi - đó là việc của công an. Số tù đối với tôi chẳng để làm gì, tôi không cần đến nó, tôi không xin.
Mọi người lại cười ồ. Toán trưởng phẩy tay, bực dọc bỏ đi,
Trần Chấn Hoa lẳng lặng theo dõi cuộc đấu khẩu đầu tiên của tôi với toán trưởng, Tôi vừa xách túi quần áo bước vào ngôi nhà ồn ào y đã chạy tới, vồ vập săn đón.
- Anh Hiên, phải không ?
- Ai vậy ?
- Em nhận ra anh ngay. - Trần Chấn Hoa liến thoắng - Khi còn ở ngoài em đã được tin anh bị bắt. Anh có nhớ gặp em ở đâu không ?
Tôi mỉm cười, giả vờ chăm chú nhìn y :
- Chịu, trông thì quen, mà không nhớ ra được.
Y cười hì hì :
- Anh hay quên quá ! Ở nhà anh X. phố Y., anh còn nhớ không ?
Tôi nhớ Dứa đã cho tôi biết tên chỉ điểm tôi sẽ gặp là Trần Chấn Hoa.
- Ờ, bây giờ nhớ ra rồi. Nhưng nhớ mặt thôi, tên thì quên mất. Chú tên là gì nhỉ ?
- Em là Hoa, Trần Chấn Hoa.
Thì ra Hoa là anh chàng này.
Thời gian cuối ở Bất Bạt tôi đã đóng khá đạt vai kịch người tù kém trí nhớ. Trả lời những câu hỏi của chấp pháp, tôi làm ra vẻ thành thật nhưng trong bản khai thì lẫn lộn lung tung, sự kiện này với sự kiện kia, thời điểm này với thời điểm khác. Lợi dụng cái trí nhớ tồi tàn của tôi, người ta cho Trần Chấn Hoa bịa ra cuộc gặp gỡ ở nhà anh X. ở phố Y. Anh X. ở phố Y. là có thật, nhưng dù có muốn tôi cũng không thể nào kiểm tra được.
- Cậu bị bắt hồi nào ?
- Sau anh chừng một năm.
- Vì sao mà bị ?
Sau một phút ngần ngừ, y ghé vào tai tôi :
- Em là người Hoa.
- Cậu mà là người Hoa ?
- Nói chẳng ai tin, em thạo tiếng Việt quá. Nhưng em sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, có khác gì người Việt đâu. Hồi sáu ba sáu tư Hội Tứ Liên phát triển sang bên này. Em gia nhập. Anh biết Hội Tứ Liên chứ ? Nó là một tổ chức chống Mao bên Trung Quốc. Việc bại lộ, em với mấy người nữa bị bắt.
- Thế người ta không trả cậu sang Trung Quốc à ?
- May, họ không trả về bên ấy. Về bên ấy thì chết.
Câu chuyện có vẻ giống thực. Tôi chẳng biết Hội Tứ Liên Ngũ Liên nào. Người Tàu vốn thích các con số, cái gì tương chúng vào - Bát lộ quân, Tân tứ quân, Tam phản, Ngũ phản...Cái tổ chức Tứ Liên mà Trần Chấn Hoa khoe tôi chưa nghe nói, nó có thật hay không tôi không biết, nhưng tôi gật đại. Ở bên kia biên giới vào thời gian Ðại nhảy vọt nghe nói có một số tổ chức chống Mao. Không có người chống Mao mới là sự lạ.
Trước khi bị bắt tôi gặp Nguyên Hồng ở nhà Bùi Ngọc Tấn. Bùi Ngọc Tấn hồi ấy đang làm trong một xí nghiệp hải sản ở Hải Phòng. Anh đãi chúng tôi một bữa tối rất sang, toàn đồ biển. Ðang thời thực phẩm hiếm hoi, mọi sự phụ thuộc vào tem phiếu, một bữa như thế phải coi bằng đại tiệc. Chị Bích, vợ anh Tấn, lại là tay nấu nướng có hạng.
Tôi thích những cuộc gặp gỡ với Nguyên Hồng. Tác giả Bỉ Vỏ là người uyên bác trong lĩnh vực đời sống dân dã. Lần nào gặp nhau tôi cũng kiếm được ở anh một chút kiến thức thú vị. Nguyên Hồng là người phàm tục. Anh thích nhắm ngon, thích rượu ngon, nhưng thích nhất là khi có những thứ đó mà quanh anh là bè bạn. Nhưng trong bữa ăn khoái khẩu hôm ấy anh chỉ lẳng lặng uống. Sau mỗi miếng nhắm anh chống đũa, tư lự. Có vẻ anh buồn.
- Bên Tàu loạn to. Nhiều người chạy sang ta, chạy loạn hay là chạy chính phủ không biết, trông tội lắm. - anh nói, giọng rầu rầu - Mình ở Hải Phòng lâu, các cậu biết đấy, cả thời trẻ mình sống lẫn với người Hoa, mình có cảm tình đặc biệt với người Hoa. Họ chăm làm, tử tế... Trông những người chạy loạn gày còm, đen đủi, nhếch nhác, mình thương quá. Họ tưởng mình cũng là công an, quỳ xuống mà lạy, nước mắt lã chã. Họ xin đừng đem họ trả Trung Quốc, đem trả họ sẽ bị giết hết, họ nói thế. Mình can mấy cậu công an, bảo từ từ xem thế nào đã, nhưng mấy cậu không nghe, một hai đem trả, nói luật biên giới là thế, không trả không được. Những người Hoa kia lăn lộn, kêu khóc ầm ĩ, phải lôi xềnh xệch... Thảm lắm !
- Rồi sao ? - chúng tôi hỏi.
- Ðồn biên phòng ta cách đồn bên kia có một quãng. Lát sau, mình vẫn ngồi đấy, nghe phía bên kia có tiếng súng nổ. Hôm sau, những người khác chạy sang nói mấy người bị trả về bị bắn chết hết, bắn tại trận...
Một giọt nước mắt đục lăn trên má anh.
Trần Chấn Hoa thấy tôi không có chăn màn, rủ tôi nằm chung. Tôi vui vẻ nhận lời. Chăn màn tôi để hết ở trại B rồi. Hoa nhanh nhảu thu xếp việc đổi chỗ cho tôi.
Những người tù số lẻ, kẻ thù của cách mạng, xem ra cũng dễ mến. Bên trong bộ đồng phục tù họ giống hệt nhau khi thoạt nhìn. Nhưng chỉ vài ngày sau, tôi bắt đầu đoán được ai người thành phố, ai người nông thôn. Người thành phố phần nhiều là viên chức, sĩ quan chính quyền Bảo Ðại hoặc từng phục vụ quân đội Pháp trong thời kỳ kháng chiến chín năm. Những người này đông nhất, được gọi chung là "ngụy". Kế đến những tu sĩ Thiên Chúa giáo, chánh trương, trùm trưởng các họ đạo, các chức sắc đạo Phật, phần lớn là các đại đức và cư sĩ. Họ rơi vào tù không phải do có hành vi chống lại chính quyền mà do những hoạt động tôn giáo đơn thuần nhưng lại không nằm trong khuôn khổ những tổ chức tôn giáo yêu nước do Ðảng nặn ra. Ngoài ra, rất linh tinh, không thuộc về những khối rõ rệt là những người bị bắt vì có chân trong các đảng phái phản động có thật và không có thật, cùng là các thứ phần tử được gọi chung chung là có hại cho an ninh xã hội. Chẳng hạn như Toán Xồm và Lộc Vàng, một cây ghi-ta nổi tiếng và một giọng nam trung nổi tiếng trong lớp thị dân thời ấy ở Hà Nội. Họ bị bắt vì tội hát những lãng mạn thời tiền chiến và những bài "nhạc vàng" lọt ra từ miền Nam. Mà lại không phải boọc, có án hẳn hoi mới lạ.
Những người nói trên mắc vào tội chính trị còn có một cái lý nào đó, còn lên gân lập trường mà giải thích được. Nhưng lẫn vào họ có một số ít tù số lẻ nhà quê chất phác và thực thà đến nỗi không thể tưởng tượng nổi họ có thể mắc một tội gì, đừng nói tội chính trị. Chỉ cần nhìn những gương mặt rất mực hiền lành của họ cũng biết ngay đó là những người dân quê chân lấm tay bùn, mà niềm vui nỗi buồn của họ xưa nay chỉ gắn liền với những vụ mùa được mất và sự vơi đầy của nồi cơm. Hỏi ra mới biết mỗi người trong số họ đều có một thiên ngục sử kỳ lạ, vừa bi lại vừa hài, cái nào cũng xứng đáng với một cuốn tiểu thuyết.
Hầu hết tù số lẻ đều là tù không có án, đều là tù tập trung cải tạo. Những người bị tập trung cải tạo, những trại viên, có số tù, y như tù thật, tức là tù có án, tù chính cống. Mọi tiêu chuẩn ăn, mặc, ở của cả hai loại là y như nhau, trừ một chút khác biệt : tù tập trung cải tạo được lĩnh một khoản tiền hàng tháng tương đương với giá hai phong thuốc lào. Cái sự phân biệt trại giam và trại cải tạo như thể đó là hai thứ trại khác nhau chỉ lừa được những người không biết thực tế Việt Nam, hoặc chỉ biết nó qua sách báo chính thống của nhà nước(3).
Nổi bật lên trong những người nhà quê này một anh chàng mặt dài thượt và rỗ chằng rỗ chịt, tên là Dịp Pún Mằn, người Hoa. Không hiểu sao người Hoa rơi vào tù nhiều thế ! Mà lại toàn là tù chính trị.
Người Hoa ở Việt Nam rất đông, là một sắc dân đặc biệt. Có những dòng họ ở Việt Nam lâu đời đến nỗi chỉ có thể nhận ra họ là người Trung Quốc bằng những họ tên không Việt, còn thì về sinh hoạt, ngôn ngữ, thậm chí hình hài, họ chẳng khác gì người bản địa.
Tại Hà Nội trước kia có cả một cộng đồng đông đảo người Hoa, gọi là bang, đứng đầu là một bang trưởng. Nay thay vào tổ chức đó có Hội Hoa Liên (Liên hiệp Hoa kiều). Hội có tờ báo riêng là tờ Tân Việt Hoa. Cả Hội Hoa Liên và báo Tân Việt Hoa đều chịu sự lãnh đạo phối hợp của Ðảng Lao động Việt Nam và đại sứ quán Trung Quốc, theo một thỏa thuận ngầm giữa hai nước. Từ khi có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, vai trò Trung Quốc quan trọng hẳn lên trong thế giới thứ ba, thì chính sách Hoa kiều vận của Bắc Kinh thay đổi. Ðược Bắc Kinh khích lệ, những ông con giời thế hệ mới liền vênh mặt với chính quyền sở tại. Hội Hoa Liên và tờ Tân Việt Hoa tách hẳn khỏi sự lãnh đạo của Ðảng Lao độngViệt Nam, giao thiệp với chính quyền Việt Nam cũng theo kiểu ngang hàng. Hoa kiều vụ của Trung Quốc chỉ chăm chút đám Hồng vệ binh ở xa Tổ quốc, chứ không phải tất cả đồng bào. Cho nên những người Hoa không dính dáng với các phong trào đấu tranh cách mạng ở quê hương chẳng được Bắc Kinh bảo vệ. Họ rơi vào nhà tù Việt Nam cả đống, không hiểu vì những tội phản cách mạng loại gì.
Anh chàng người Hoa mà tôi nói tới thường qua lại các nhà giam để mua bán đổi chác. Hàng của anh ta là cá, lươn, trạch, còn sống hoặc kho mặn, giá cả phải chăng. Những người tù đói khát chất tươi lấy áo, lấy quần, hoặc phong thuốc lào, bánh xà phòng, tuýp kem răng vv... ra đổi. Ðồ đổi được Dịp Pún Mằn mang ra ngoài trại bán cho dân, giá của anh bao giờ cũng rẻ hơn giá mậu dịch(4). Hiếm khi thấy anh ta dùng thứ gì mới - quần áo thì rách bươm, chân không mang dép, đồ xa xỉ như xà phòng hay bàn chải răng chẳng bao giờ anh ta dùng đến. Không hiểu anh ta để dành tiền kiếm được làm gì ?
Bên trong vẻ ngoài xấu xí Dịp Pún Mằn là người rất tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè cũng như bất cứ ai cần tới anh. Anh sẵn sàng bỏ cả ngày lang thang trong rừng để kiếm lá thuốc cho một người ốm, người Hoa cũng như người Việt. Người như anh khó mà mắc tội gì. Ông bạn mới quen, một công chức ngụy quyền tóc bạc trắng, phong thái ung dung tự tại, không hiểu sao lại thân với Dịp Pún Mằn, giới thiệu về Dịp Pún Mằn :
- Anh ta là gián điệp quốc tế đấy !
Trời hỡi, thế kia mà là gián điệp quốc tế ư ? Ông bạn nói đùa, tôi nghĩ.
Hóa ra không phải. Tội danh Dịp Pún Mằn đúng là như thế. Nó được đọc to, rất rõ ràng, trước toàn trại trong một lần tổng điểm danh(5) ít lâu sau.
- Anh là gián điệp quốc tế thật hả ?
Tôi hỏi Dịp Pún Mằn nhân một hôm anh rẽ vào chỗ chúng tôi để bán cá. Gương mặt rỗ ngẩng lên nhìn tôi, ngơ ngác một thoáng.
- Thật. - anh nói bằng giọng không thể thật thà hơn.
Trong nhà tù có một quy ước không thành văn : những người tù không hỏi tội danh của nhau. Tôi là lính mới, không biết quy ước đó, và vì tôi không nén nổi tò mò. Nhưng Dịp Pún Mằn không giận. Anh cười, phô những chiếc răng dài.
- Mà làm gián điệp thế nào ?
- Là dắn tệp côốc tế.
Tôi lấy làm lạ : là gián điệp quốc tế, nhưng Dịp Pún Mằn không bị Ban giám thị coi là phần tử nguy hiểm, không bị biệt giam, không bị theo dõi từng bước, đã thế lại còn được tín nhiệm cho đi tự giác.
Công việc chính của Dịp Pún Mằn là chăn đàn trâu trại. Những con trâu ngu ngốc quấn lấy anh không rời. Chúng hiểu anh yêu chúng. Mà Dịp Pún Mằn yêu những con vật to kềnh càng và đen trùi trũi đó thực sự, bằng tất cả tình yêu của con người không còn ai để mà yêu. Trong đàn trâu trại có một con nổi tiếng hung dữ. Với cặp sừng dài, nhọn hoắt nó húc lòi ruột một phạm nhân chăn trâu khi anh này dùng roi song trừng phạt nó vì một tội gì đó. Thế mà từ khi vào tay Dịp Pún Mằn chăn dắt nó liền trở thành con trâu rất hiền. Chỉ cần Dịp Pún Mằn huýt một tiếng sáo hoặc gọi tên nó là nó đã tơn tớn chạy lại để được cọ mình vào anh. Xiêu vẹo bởi tình yêu của con vật, Dịp Pún Mằn toác miệng ra cười, cả gương mặt bừng sáng niềm vui. Anh vừa mắng yêu con trâu vừa vuốt ve nó. Con trâu cũng khoái chá lúc lắc cặp sừng kềnh càng mà rên lên khe khẽ. Anh tắm cho những con trâu mà như bà mẹ tắm cho lũ con nhỏ, kỳ cọ cho chúng từng li từng tí, cậy từng chút rử mắt, cọ cả răng cho chúng. Những đứa con to đùng nằm yên, mắt lim dim tận hưởng cái khoái được mẹ chăm sóc. Anh đi trước, cả đàn trâu lững thững theo sau, con nào con nấy béo núc ních, hõng phẳng lì. Trâu có tật mỗi khi gặp bãi nước đái đồng loại thì dừng lại, cúi xuống hít hít ngửi ngửi rồi vươn dài cái cổ, nhe răng ra cười một cách ngây ngô. Dịp Pún Mằn thấy trâu cười thì cũng cười im lặng, không có tiếng, y như trâu vậy.
Trông toán tự giác là một viên quản giáo trẻ tên là Nguyễn Văn Nhẩm. Ðó là một con người nhân hậu lạ thường, hiện tượng dị biệt trong giới cai ngục. Thấp, đậm người, không đẹp giai, nhưng hồn nhiên và dễ tính, Nhẩm thương tù bằng một tình thương bẩm sinh, không phải tình thương chiếu cố. Biết đánh giá tình thương từ trong tim ấy không ai bằng những người tù. Trong toàn trại(6) toán ông Nhẩm nổi tiếng là toán dễ chịu nhất.
- Ai gửi cho tôi vậy ?
- Ông Trần mà. Ông ở nhà B. Ông sang chơi chứ ?
Nghe giọng anh ta, một người đàn ông dài ngoẵng, gày quắt và đen nhẻm, chẳng cần giới thiệu cũng biết là người Hoa. Tôi đưa bức thư cho ông bạn già vừa đến chơi với tôi. Ông tên là Trúc, làm chức gì đó nghe rất kêu nhưng vô giá trị, từ thời ông Bảo Ðại còn được người Pháp dùng. Cũng là một người tù vì tính cẩn thận của chính quyền, chứ ông không có đảng phái phản động hay làm gì chống nhà nước hết. Ông đã qua vô số trại, biết vô số tù số lẻ, là người có kinh nghiệm sống trong môi trường tù.
Ông nhón tờ thư, đọc lướt qua rồi nói :
- Lão Trần, đại tá đặc vụ. Tôi biết lão từ trại tạm giam Hải Phòng, hơi toqué(7) nhưng là người đàng hoàng. Anh cứ sang chơi.
- Ðược, anh về trước đi. Tôi sẽ sang. - tôi nói với anh chàng đưa thư.
Anh ta vui vẻ chạy đi.
Trần Chấn Hoa nói :
- Ðể em đưa anh đi. Em cũng quen bác Trần.
- Không tiện. Người ta mời một mà mình đi hai là không lịch sự.
Y tiu nghỉu.
Tôi thay quần áo. Không thể không thay quần áo để yết kiến một người già đối xử trịnh trọng với mình như thế. Chúng tôi chẳng có nhiều quần áo để thay đổi. Không kể bộ pi-gia-ma vợ tôi mang lên khi tôi còn ở trại quân pháp đã rách nát tôi có hai bộ đồng phục tù do Trần Chấn Hoa đem thuốc lá đi đổi cho tôi.
Thì ra lão Trần chính là cái ông già lụ khụ, tuổi có dễ suýt soát tám mươi, với gương mặt nhăn nhúm ló ra từ cái mũ len tứ thời. Nặng nề và chậm chạp trong bộ quần áo không giống ai, bó chẽn cả vạt áo lẫn gấu quần, với đôi tất to sù của vận động viên bóng đá, ông được miễn lao động, sáng sáng cầm cái chổi xể cán dài quét xoèn xoẹt trước cửa nhà B. Tôi biết mặt ông, chỉ không biết ông là đại tá đặc vụ.
Lão Trần ở giường trên lập cập trèo xuống, chắp hai tay vái tôi :
- Thỉnh tiên sinh.
Tôi nói :
- Chào bác. Xin miễn lễ.
Chúng tôi theo nhau trèo lên.
- Tiên sinh an vị.
- Ða tạ.
Tôi ngồi vào chỗ lão chỉ, xếp chân bằng tròn.
Anh chàng đưa thư - đệ tử của lão Trần - nhanh nhảu dọn bàn trà. Trong tù mỗi nhân vật khác thường một chút bao giờ cũng có vài đệ tử. Người thì do cao tuổi, tư cách đáng trọng, người thì do giàu có, được người nhà tiếp tế thường xuyên. Lão Trần thuộc loại thứ hai, loại giàu có. Những người tù nghèo, không có đệ tử thì có anh em kết nghĩa, bố con kết nghĩa, tạo thành một gia đình. Thứ gia đình thế phẩm này là biểu hiện của xu hướng quần tụ tự nhiên, nhưng trong nhà tù, đôi khi nó cũng bệnh hoạn lắm. Những vụ đánh ghen xảy ra thường xuyên, có máu chảy.
Ðể tiếp khách quý, lão Trần mua hẳn một lạng trà "tự biên tự diễn" của cánh lâm sản(8). Trên cái đĩa sắt tráng men cóc gặm cả một gói Polyvitamine được đổ ra. Trong tù đây là sự chiêu đãi long trọng.
- Thỉnh tiên sinh khai trà.
Viên đại tá đặc vụ trong bộ quần áo xơ xác, trông như con chuột cống già, giơ bàn tay với những ngón cong queo vì phong thấp kính cẩn mời tôi. Tôi lễ phép nâng chén lên ngang tầng mắt, nhìn ông qua làn hơi nước. Cuộc thưởng trà diễn ra trịnh trọng, giống như trong tuồng cổ.
Không để ý tới đám tù ồn ào nằm ngồi lộn xộn, người chơi cờ, người may vá, người bắt rận, chúng tôi im lặng cạn chén trà đầu tiên. Bằng cách đó chúng tôi đồng tình tạo ra một sự tự kỷ ám thị như thể không phải chúng tôi đang ở trong tù mà ở một nơi nào khác của xã hội văn minh, nơi con người có thể nhẩn nha đàm đạo văn chương.
Sau tuần trà thứ hai buổi chuyện thơ bắt đầu. Lão Trần là một thi sĩ bất phùng thời. Lão yêu thơ và rất thuộc thơ Lý Bạch, Ðỗ Phủ(9) cũng như những nhà thơ danh tiếng khác của nước Trung Hoa cổ. Tôi thì nhớ lõm bõm, câu được câu chăng, luôn nhầm lẫn nhà thơ này với nhà thơ khác. Lão Trần rộng lượng không để ý chuyện đó. Tôi chẳng qua là cái cớ cho cuộc trở về với thơ của lão. Cứ mỗi bài thơ qua lão Trần lại biến đổi trước mắt tôi. Không phải là ông già lẩn thẩn quét rác nữa mà là một lão nho thư thái, ung dung tìm được phút giây hạnh phúc trong những vần thơ bất tử.
Tôi thích cách thưởng thơ của lão Trần. Lão có những lời bình độc đáo cho những vần thơ đa nghĩa khi người đọc chuyển dịch những dấu ngắt câu không có mặt trong thơ Trung Quốc. Sau mỗi bài thơ chúng tôi trịnh trọng mời nhau uống trà đặc sệt và chát xít đựng trong khúc nứa tép cắt ngắn và nhấm nháp mấy viên Polyvitamine vàng khè.
Ðại tá đặc vụ họ Trần thời trẻ là giáo viên dạy văn trung học. Vui chuyện, lão kể cho tôi nghe đời lão. Thì ra lão là nhân viên tình báo Trung Quốc thật.
- Bác công tác trong ngành tình báo được bao lâu ?
Lão cười không có tiếng :
- Công tác khỉ gì đâu, thưa tiên sinh. Tôi chỉ ghi tên vào đấy thôi.
- Tức là ...
- Có tên ở đấy coi như đã vào lính, hức. - lão bật nấc - Cái nghề tình báo có lợi là thế. Mình vẫn được là mình, hức, mà lại cứ như có mặt trong quân ngũ, Tôi vào được ngành này cũng là nhờ, hức, một người quen thân gia đình giới thiệu...
- Tôi chưa hiểu lắm...
- Thì để trốn lính mà. Tình báo tình biếc gì đâu, hức. Tháng tháng chỉ có việc ký vào giấy nhận lương là xong. Lương tôi đã có người khác lĩnh, hức, ai lĩnh tôi cũng không biết. Thế rồi tuần tự như tiến, hức, tôi được thăng cấp, được lên lương, cấp trên tôi không biết ai, cấp dưới tôi không có, đã bảo hoạt động tình báo mà. Thỉnh thoảng, hức, người ta còn bịa ra thành tích cho tôi nữa, để cho lương tôi tăng nhanh, họ được lĩnh nhiều thêm. Thời bấy giờ lạm phát đại phi mã, chắc tiên sinh còn nhớ ...
Anh chàng đệ tử dài ngoẵng vội lết lại đấm lưng cho ông lão.
Tôi nhớ cái sự lạm phát ấy. Năm 1945, quân Tưởng vào miền Bắc giải giáp quân đội Nhật bại trận, mang theo hai thứ tiền : Quan kim và Quốc tệ, bắt người Việt phải tiêu. Tiền Quan kim còn có giá chứ tiền Quốc tệ thì chỉ đắt hơn giấy lộn chút ít. Ngày quân Tưởng sắp rút về nước, giá một bát phở gánh tương đương với một bị Quốc tệ. Những ông hàng phở bực dọc với khách Tàu phù(10) liền quẳng luôn vào bếp. Tiền Quan Kim in trên giấy tốt, rất đẹp, nhưng rồi cũng vứt đi. Nhóm bếp không được, nó cháy chậm và dễ tắt, còn kém cả tiền Quốc tệ. Mãi tới năm 1950 ở trong kho ẹy ban Tuyên Quang vẫn còn vài chục bao tải tiền Quan kim không biết dùng làm gì.
- Ðể theo kịp lạm phát, tôi được thăng cấp vèo vèo. Rồi Hoa quân nhập Việt, tôi được lệnh theo sang, ở Hải Phòng, vẫn làm giáo viên dạy văn trong trường trung học Trung Hoa. Tôi lấy vợ Việt Nam. Hoa quân rút, người ta chẳng gọi tôi, họ quên hay là họ mặc kệ không biết. Thế là tôi ở lại hẳn. Người Pháp đến, họ cũng chẳng đụng đến tôi. Người Trung Hoa chúng tôi rất dễ sống trên đất lạ, ông ạ - ở đâu có cỏ mọc, ở đó có người Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam tiếp quản Hải Phòng, tôi vẫn ung dung dạy học. Thế rồi chẳng biết ai báo cáo, tôi bị công an gọi ...
- Bác nhận bác là đặc vụ ?
- Vâng. Chối sao được khi người ta biết rồi. Tại sao người ta biết được tôi không hiểu. Chắc khi Hoa quân rút đi giấy tờ vương vãi thế nào đấy, một cái bảng lương chẳng hạn. Ông công an hỏi tôi người hiền lành lắm, tử tế lắm. Nghe tôi kể tình đầu ông chỉ cười khà khà rồi khuyên tôi phải khai báo thành khẩn để Ðảng xét. Tôi khai hết, chuyện là như thế như thế. - ông già cười, nhe hai hàm răng thủng lỗ chỗ - Tiên sinh nghĩ, phận mình là dân, cứ thật thà là hơn, người ta hiểu người ta sẽ cho về, giữ mình làm quái gì...
- Bác ở đây mấy năm rồi ?
- Mười năm có hơn, thưa tiên sinh.
- Người ta xử bác mấy năm ?
- Thiên nả(11) ! Nào có được xử. Xử thì phải có tội mới xử được, đàng này tôi chẳng có tội gì...
Lão đại tá thở dài :
- Lẽ ra tôi nhận cái nhiệm vụ ở lại, để làm gì đấy...- ông ngẩn người, nghĩ ra một nhiệm vụ làm thí dụ, nhưng nghĩ không ra - tức là phải có một cái tội bé bé để người ta đưa ra xử. Nhưng tôi không biết, ngu quá ! Không có tội ở chế độ ta khổ hơn có tội, tiên sinh ạ.
Tôi bàng hoàng. Chẳng lẽ đó là chuyện có thật ? Nhìn vào mắt lão tôi tin lão không nói dối. Mà nói dối tôi phỏng có ích gì ?
- Bác phải viết đơn khiếu nại chứ. Người này không tin còn có người khác.
- Tôi viết nhiều nhiều rồi đấy, nhưng chẳng có ai trả lời.
- Phải kiên trì, bác ạ.
- Vô ích mà, tiên sinh.
Lý Bạch, Ðỗ Phủ đã ba chân bốn cẳng chạy xa khỏi những chuyện thế tục kiểu này. Thời các vị luật pháp chắc không thế. Ðến đấy chúng tôi cũng ngừng buổi thưởng thơ.
Tôi đang bùi ngùi cho số phận lão Trần thì Dịp Pún Mằn la đà xách giỏ tới nhà B. Mọi người lập tức bâu quanh anh ta. Lão đại tá đặc vụ cử anh chàng dài ngoẵng leo xuống sàn đi trinh sát. Anh ta lôi Dịp Pún Mằn về. Dịp Pún Mằn leo lên tầng trên, ngồi vào chiếu lão Trần :
- Tài cố, hẩu ma(12) ?
- Còn gì không, Dịp đệ ?
- Cồn cố cồn cố nhều nhều.
- Bán cho tôi hết.
- Pán thì pán. Kho lồi có, cồn sống có.
- Kho rồi thứ gì ?
- Cá trê a ! Tố hảo sực(13). Ngôn nhều nhều.
- Tôi đãi khách, Dịp đệ à, không ngon không lấy đâu.
- Ðã pảo ngôn mà. Ngộ ăn cùng, tược chớ ?
- Tốt. Biết tiên sinh đây không ?
- Pết, pết lắm chớ.
-Tiên sinh ở đây dùng cơm với tôi, chẳng mấy khi. - lão Trần xoa hai tay vào nhau, trịnh trọng. - Chú Dịp kho cá ngon, lại vệ sinh lắm lắm nên mới dám mời tiên sinh.
Cứ như thể lão không biết cơm trại thế nào. Chúng tôi thường xuyên ăn cơm độn sắn với rau muống tần đại dương, thỉnh thoảng được thêm món ca la thầu(14). Ca la thầu do Trung Quốc viện trợ cho quân đội, quân đội không ăn được, mới chuyển cho tù. Một chiếc xe tải quân sự chở ca la thầu đến, thối um cả khu bếp trại. Ca la thầu được đổ vào trong một cái bể lớn, nhà bếp vớt ra cho trại ăn dần. Người nhà bếp không ai đụng đũa vào món ca la thầu. Có người nói rằng trong bể ca la thầu có cả xác chuột, nhưng tù vẫn ăn như thường, còn mút mát đàng khác - nó mặn vô cùng.
Tôi ăn bữa trưa ngon lành cùng với đại tá đặc vụ của một quân đội không tồn tại.
Lão Trần ra dáng phong lưu lắm. Tôi không cần phải quay về đội lĩnh cơm trại. Suất của tôi để cho Cao và Tôn Thất Tần. Ông đại tá sai đệ tử mua thêm ba suất nữa, gọi là ăn đúp. Ðồn rằng lão có hai cô con gái xinh xắn lấy chồng Việt, hai ông chồng lại là cán bộ lương thực thực phẩm, cửa hàng trưởng hay cửa hàng phó chi đó, tiếp tế cho cha khá lắm.
Nhân tiện, tôi hỏi chuyện Dịp Pún Mằn. Lão Trần cười hề hề :
- Dịp đệ kể cho tiên sinh nghe đi !
Dịp Pún Mằn chống đũa nhìn tôi, bẽn lẽn :
- Cố dề mà kể chớ ! Hổi lồi mà, kể lồi mà.
- Thì cứ kể lần nữa đi ! - lão Trần giục.
Bằng giọng ngọng ngoẹo, chỗ nào khó hiểu quá đã có lão Trần thông ngôn, Dịp Pún Mằn kể cho tôi nghe vụ án của anh.
Số là anh chàng Dịp Pún Mằn làm nghề cu-li bắt-tê(15). Cu-li bắt-tê ở Sáu Kho Hải Phòng toàn người Tàu, cha truyền con nối. Người Việt không làm nghề này, vì không làm nổi chứ không phải vì chê nó hèn. Người Tàu to con hơn, khỏe hơn. Với một cái móc sắt trong tay phu bắt-tê Tàu có thể quật lên lưng cả tạ hàng mà không cần ai giúp đỡ.
Một thủy thủ người Hoa làm việc trên tàu Hi Lạp làm quen với Dịp Pún Mằn trong một lần cập bến ngắn ngủi. Anh ta đưa tiền cho Dịp Pún Mằn, nhờ anh mua báo Việt Nam rồi gửi cho anh ta hàng tuần bằng đường bưu điện theo một địa chỉ ở Hồng Kông.
Dịp Pún Mằn nhận lời liền. Tính Dịp Pún Mằn thế, hay giúp đỡ. Tiền thì người ta đưa trước cả năm, lại đưa thừa chứ không thiếu. Từ cầu cảng về nhà có tới hai ba quầy báo và một trạm bưu điện. Mỗi hôm đi về Dịp Pún Mằn mua một loạt báo, tích lại đến cuối tuần ra bưu điện gửi. Còn có việc gì dễ hơn !
Ba tháng sau cuộc gặp gỡ định mệnh với ông bạn đồng hương, Dịp Pún Mằn bị công an tóm ngay tại trận với bó báo chăng kịp gửi rồi đưa thẳng về nhà giam. Người ta tra hỏi Dịp Pún Mằn : mua báo cho ai ? để làm gì ? địa chỉ gửi báo là của cơ quan gián điệp nước nào ? đã gửi những thông tin gì ra ngoại quốc ? bằng hệ thống mật mã nào ?
Nói tóm lại, Dịp Pún Mằn hoa mắt trước những câu hỏi anh không hiểu nổi. Vốn tiếng Việt của anh quá nghèo. Họ hỏi anh sáu tháng liền. Câu nào Dịp Pún Mằn không trả lời được thì người ta gà cho anh. Chấp pháp ghi biên bản rồi đưa cho anh ký. Dịp Pún Mằn ký. Anh biết ký tên mình từ đó.
Hoàn cung, anh ra tòa. Bào chữa viên do tòa cử ra không cãi cho anh mà khẳng định ngay tội anh rất nặng - làm tay sai cho bọn đế quốc và bè lũ phản động quốc tế. Sau một hồi ca ngợi Ðảng và lên án bị can đủ điều ông ta mới xin tòa mở lượng khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị can vì bị can "thuộc thành phần nhân dân lao động, do kém giác ngộ nên bị gián điệp nước ngoài dụ dỗ, mua chuộc mà phạm pháp". Ðược bồi dưỡng đến nơi đến chốn trong trại tạm giam rồi mà trước vành móng ngựa Dịp Pún Mằn vẫn run như cầy sấy. Anh đáp lại những câu hỏi của tòa bằng những câu trả lời đã thuộc lòng :
- Dà, túng thế (đúng thế) !
- Dà, khôông cốô sai !
- Dà, túng là dắn tệp cốôc tế lồi (đúng là gián điệp quốc tế rồi) ! Túng lắm (đúng lắm) ! Túng lắm !
Tòa thương tình ban cho Dịp Pún Mằn, người con của nhân dân lao động, mười lăm năm tù. Dịp Pún Mằn rưng rưng nước mắt chắp hai tay vái bào chữa viên rồi phát biểu trước tòa, bày tỏ lòng biết ơn của anh :
- Cấy Tảng Duỵt Nàn tốt nhều nhều (cái Ðảng Việt Nam tốt nhiều nhiều) lớ !
Khi tôi lên trại Tân Lập thì Dịp Pún Mằn đã ở được chín năm. Do an tâm cải tạo và chăm chỉ lao động anh được giảm án hai lần, chắc chỉ một hai năm nữa là được tha.
- Anh sắp về rồi, vui hả ? - tôi hỏi Dịp Pún Mằn.
- Cố dề mà vui ? Mềnh ở tâu cũng làm vệc, ổ Hẩy Phoòng cũng lầm vệc, ổ tây cũng lầm vệc à.
- Nhưng ở nhà thích hơn chứ.
- Khôông thếch tâu. Pá pá chếch lồi (chết rồi), má má dà nhều nhều (già lắm), lói khôông tược, khôông vui tâu. Mà ổ tây nhàn hơn nhều nhều...
Khi tôi sắp rời trại Tân Lập thì Dịp Pún Mằn được giảm án thêm một lần nữa. Mọi người xúm đến chúc mừng, còn anh thì lầu bầu :
- Về dà làm dề (về nhà làm gì), ổ tây cố pạn (có bạn) nhều nhều, về dà pây dờ ổ vấy ai ? Má má mình sắp chếch lồi. Êm cấy (em gái) lấy chồông ổ nhà chồông, không ổ tược vấy ló tâu...
Có những con người như vậy : họ ra đời để chịu lầm than. Họ sống trong lầm than như trong lẽ tự nhiên của trời đất, chẳng kêu ca, chẳng phàn nàn. Cái số nó vậy, biết làm sao, họ nói. Trong đời tù của tôi không phải Dịp Pún Mằn là người duy nhất có thái độ dửng dưng đối với sự tù oan. Có người còn oan hơn anh nhiều. Anh có thể là gián điệp quốc tế lắm trong sự hình dung nghèo nàn của những cái đầu ngốc nghếch với tinh thần cảnh giác cách mạng quá cao.
Một số người được tha không về nữa mà xin ở lại trại. Ðó là những người không có đâu để mà về, những người đã chán ngán đến tột độ cuộc đời cũ. Không có "tiêu chuẩn" được ở trong trại nữa, họ xin đất trại dựng nhà để sống cuộc sống đã trở thành quen thuộc, thỉnh thoảng lân la tới khu vực trại để mua bán đổi chác với tù tự giác.
Buổi chiều trước hôm tôi bị chuyển đi trại Phong Quang, Dịp Pún Mằn tìm tôi, giúi cho tôi một lạng trà tự biên tự diễn :
- Mai chuển trại tấy ! Chắc chắn mà ! Anh cầm xà lày (trà này) mà ôống. Lênh chỗ mới, khôông kếm tợc xà ngay tâu. Hôm lay các ôông cán pộ xếp hồ sơ nhều nhều, là ti tấy...
- Anh ở lại mạnh khỏe nhé !
- Anh nhớ trôông pác Trần. Pác ấy íu (yếu) lắm, khôông pết cồn sống tược pao lâu.
- Tôi sẽ săn sóc bác ấy !
- Hảo lớ !
Nhưng đại tá tình báo gặp may. Ông không bị chuyển đi cùng với chúng tôi. Ông được ở lại với gián điệp quốc tế.

(1) Chỉ điểm, mật thám. Từ tên một nhân vật phản diện trong cuốn Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo.
(2) Trên lưng áo của người tù người ta in hai chữ CT (Cải Tạo) bằng hắc ín. Áo của toán trưởng cũng bị in chữ nhưng anh ta tẩy đi, để phân biệt mình với tù thường. Cán bộ biết nhưng không khiển trách, coi đó là đặc ân dành cho anh ta.
(3) Trại tập trung với 3 đặc điểm : 1/ người bị giam không được xét xử, 2/ thời hạn giam giữ là tùy tiện, 3/ chế độ giam giữ, trừng phạt là tùy tiện, xuất hiện từ cuối thế kỷ thứ 19. Người Tây-ban-nha đã lập các trại tập trung tại Cuba từ năm 1898, người Anh đã lập các trại tập trung giam 20.000 người mà đa số là đàn bà và trẻ em tại Nam Phi. Tại Mỹ 70.000 công dân Hoa Kỳ gốc Nhật và 42.000 người Nhật định cư tại Mỹ bị dồn vào những trại tái định cư trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II... Tại Liên Xô, trại tập trung được lập ra từ năm 1918 để giam giữ những "kẻ thù bên trong", hệ thống trại tập trung này đặc biệt phát triển trong thập niên 30-40. Tại Ðức, nhà nước Quốc Xã sau khi giành được chính quyền năm 1933 lập tức thiết lập hệ thống trại tập trung với chế độ giam giữ hà khắc và sự thủ tiêu tàn bạo nổi tiếng thế giới.
(4) Trong nghĩa cửa hàng tạp hóa quốc doanh.
(5) Thường mỗi năm một lần trại tổng điểm danh tù để kiểm tra lại hồ sơ.
(6) Khi nói toàn trại, tôi gộp cả các phân trại khác vào đấy.
(7) Gàn, khùng,dở người (tiếng Pháp).
(8) Tù tự giác chuyên hái lượm lâm thổ sản và trông đồi chè của trại. Trà "tự biên tự diễn" có nghĩa không phải trà do quốc doanh sản xuất mà do tù hái và sao thủ công.
(9) Lý Bạch (chết năm 762), Ðỗ Phủ ((712-70), hai nhà thơ lớn của Trung Hoa cổ đại.
(10) Gọi là Tàu phù vì quân đội Tưởng vào Việt Nam gồm dân đói ở Lưỡng Quảng, lê lết vì phù thũng.
(11) Trời ơi ! (tiếng Trung Quốc).
(12) Ðại ca, khỏe chứ ? (Tiếng Trung Quốc).
(13) Rất ngon (tiếng Trung Quốc)
(14) Xu hào muối, tên gọi Trung Quốc đã Việt hóa.
(15) Phu khuân vác.


:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 38

Ở Hỏa Lò tôi đã được nghe Thành kể về con người huyền thoại đã ở liền một mạch hai mươi hai năm trong tù. Anh nói có lần chưa hoàn cung anh bị đưa đi trại chung, tôi không nhớ trại nào, tại đây anh gặp những người đã ở chung với một tù nhân có thâm niên cao nhất : tù suốt từ 1946 cho tới tận bây giờ (tức năm 1968). Kỷ lục ấy chưa có ai vượt qua. Vì sự chịu đựng ghê gớm ông ta được mệnh danh là "Jean Valjean(1) gọi bằng cụ".
Tôi nghe, nhưng không tin. Tin làm sao được chuyện tào lao đến thế ! Chúng tôi đang sống giữa thế kỷ XX, chứ đâu phải thời Trung cổ.
Không ngờ chuyện đó có thật và rồi tôi được gặp "Jean Valjean gọi bằng cụ" bằng xương bằng thịt ở trại A Tân Lập.
Một hôm Trần Chấn Hoa dẫn tôi sang nhà C, nơi có đám số tù số lẻ ở trại Vĩnh Quang (tỉnh Vĩnh Phú) vừa chuyển lên, chưa phân vào các toán. Trần Chấn Hoa cũng đã ở Vĩnh Quang vài năm, y có nhiều người quen. Nghe Trần Chấn Hoa tả thì trại nằm dưới chân Tam Ðảo, một bình nguyên rộng ngút tầm mắt, nơi trâu ấn Ðộ và cừu Mông Cổ được nuôi thí nghiệm để nhân giống. Cuộc thí nghiệm không thành công. Những con trâu to kềnh không cho sữa, cừu thay nhau lăn ra chết. Tôi đã đến đây làm phóng sự, nhưng không thành. Người ta chỉ in các phóng sự về thành công thôi. Bù lại, tôi được ăn thỏa thích thịt cừu hoi rình trong những món chém to kho nhừ của bếp nông trường. Thịt cừu nấu plow (pilaw) hoặc súp kharcho(2) rất tuyệt, nhưng không ai biết làm.
Trần Chấn Hoa số chẵn, nhưng ở trại A Tân Lập y lại nằm trong số lẻ. Xem ra cái việc cài chỉ điểm của công an thật vô nguyên tắc. Người ta sẽ làm gì với những báo cáo về tôi của một tên ba hoa ?
- Ta đến xem "Jean Valjean gọi bằng cụ" đi. - y nói.
- "Jean Valjean gọi bằng cụ" là ai ?
Y giải thích. Tôi nghe, làm ra vẻ chăm chú.
- Ông này quán quân ở tù cơ anh ơi ! Hai mươi sáu năm liền tù tì.
- Làm gì có chuyện ! Bịa.
- Anh gặp khắc biết, em không bịa đâu. Kia, cái ông gày gày khoác áo bông ngồi đàng kia kìa !
Theo tay Trần Chấn Hoa chỉ tôi nhìn thấy một người đàn ông đứng tuổi, gày và xanh, đang ngồi chăm chú đọc sách. Hôm ấy chủ nhật, tù được nghỉ, không đi lao động.
Tôi đến, ngồi xổm trước mặt ông :
- Chào bác !
- Chào anh ! - ông ta ngẩng lên, không vồn vã.
Người tù ngồi liền tù tì hai mươi sáu năm trông chẳng khác gì mọi người ở đây. Tôi hình dung ông phải già lắm kia, phải lụ khụ lắm kia, hóa ra không phải. Bề ngoài ông còn trẻ, thậm chí trông không già hơn tôi bao nhiêu.
- Có phải bác là "Jean Valjean gọi bằng cụ" không ?
- Ai bảo anh rứa ?
- Những người tù ở đây.
Ông mỉm cười hiền lành :
- Hay nhỉ ? Rứa mà tui không biết.
- Bác là nhân vật nổi tiếng. Người như bác hiếm.
- Còn anh ?
- Tôi chẳng là gì sất. Tôi chỉ là một người tò mò.
"Jean Valjean gọi bằng cụ" nhìn lên trời, cười không có tiếng. Im lặng một lát, ông nói khẽ :
- Anh là Vũ Thư Hiên, phải không ? Tui cũng đã nghe nói về anh...
Tôi sửng sốt. Tù Vĩnh Quang mới lên hôm qua. Ai đã kể cho ông nghe về tôi ?
- Trong đám tui ở Vĩnh Quang có người đã gặp anh ở ngoài. Anh ta nhận ra.
- Ai nhỉ ?
- Anh không biết anh ta. Nhưng anh ta biết anh.
Người biết tôi là một nhà thơ địa phương, theo sự tự giới thiệu của anh ta sau này. Tôi không nhớ đã gặp anh ta trong trường hợp nào. Những nhà thơ dân gian với những bài thơ xỏ xiên, châm chọc chính quyền rơi vào tù khá nhiều. Cả những nhà văn dân gian chuyên sáng tác chuyện tiếu lâm cũng vậy. Ba Giai, Tú Xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ được phép sống trong nhà tù.
Ngày hôm sau "Jean Valjean gọi bằng cụ" được nhập vào toán tôi. Theo sự điều đình của Trần Chấn Hoa, người tù nằm bên cạnh chúng tôi dọn đi nơi khác, nhường chỗ cho "Jean Valjean gọi bằng cụ".
- Tui tên Tôn Thất Tần. - ông ta nói.
Nể tôi lắm Trần Chấn Hoa mới làm theo ý tôi. "Ông ta bị lao đấy", y thì thào. Nhưng tôi biết - y phải chiều tôi. Không chiều tôi thì y không thực hiện được trọng trách mà Ban giám thị trao cho. Cho nên tôi có thể bắt bí.
Tôi thích chơi với "Jean Valjean gọi bằng cụ". Ðó là người tù trí thức đầu tiên mà tôi gặp ở Tân Lập. Tôn Thất Tần thỉnh thoảng có húng hắng ho thật, nhưng dấu hiệu khác của bệnh lao không thấy. Ông gày nhẳng, da xạm, nhưng tù đều gày và xanh, chẳng có ai béo tốt. Hồng hào nhất ở đây có lẽ là Trần Chấn Hoa. Y được gia đình tiếp tế thường xuyên. Tù số lẻ phần nhiều là tù lưu niên, trên dưới mười năm cả. Những người tù ở lâu ít được tiếp tế : người thì cha mẹ quy tiên, người thì vợ đi lấy chồng, con cái còn nhỏ dại. Nguyên nhân là tù lâu quá, gia đình nào rồi cũng mệt mỏi, cũng phát chán.
Tôi không sợ lây bệnh Tôn Thất Tần, nếu như ông lao thật. Tôi đã bị lao trong kháng chiến chống Pháp, hậu quả lần chấn thương phổi do pháo bầy trong trận chống càn Bretagne năm 1952. Bác sĩ Hoàng Ðình Cầu(3) hồi ấy ở Nông Cống khám cho tôi, tiên đoán tôi sẽ chết. Nhưng tôi vẫn sống để đi đón anh ở ga Iaroslavsky tại Moskva khi anh sang Liên Xô bổ túc nghiệp vụ. Không hiểu sao, nhưng tôi đinh ninh tôi chết không dễ dàng.
- Anh nên thận trọng trong khi giao thiệp với Trần Chấn Hoa. Tui muốn nói không nên gần gụi anh ta nhiều quá ! - Tôn Thất Tần dặn tôi. - Khi gần gụi nhiều người ta sẽ tin những lời anh ta nói về mình là đúng. Nói chung, ở trong tù anh nên cẩn thận. Giao thiệp với bất cứ ai cũng vậy, có khi mình sơ suất gây ra những hậu quả rất xấu.
Tôi trân trọng lời khuyên của bậc đại trưởng lão trong bộ lạc tù. Không nghe lời ông thì còn nghe ai ? Ông có đàng sau lưng một thâm niên tù không ai sánh bằng, kinh nghiệm đời tù ông tích lũy đủ cho mấy thế hệ đi sau.
- Cả với bác nữa chứ ? - tôi nói đùa.
- Tất nhiên. - ông trả lời ráo hoảnh - Trong tù có quá nhiều điều bất ngờ, đến nỗi lắm lúc mình chỉ còn biết trợn mắt lên mà ngạc nhiên, anh ạ. Thật vậy, con người ta lạ lắm, thay đổi nhanh lắm ! Người mình ngỡ trung thành khi lâm sự hóa ra tên phản bội. Kẻ hôm qua bị cả trại chê hèn nhát thì hôm nay bỗng làm mọi người kinh ngạc vì một hành động anh hùng xuất chúng. Cuộc đời, nó lạ lắm ! Nói bất ngờ là nói quen miệng, chớ mọi tính cách có sẵn trong con người ta hết, tốt có, xấu có, gặp dịp là bùng ra, là nổi lên...
- Bác không cho rằng có người tốt, người xấu ?
- Có chớ. Người tốt là người biết phân biệt cái xấu và cái tốt, điều nên làm và điều không nên làm, là người có ý chí mạnh mẽ đè nén được cái xấu, không cho phép nó hoành hành... Người tốt là người sống thật thà với mọi người cũng như với chính mình, tức là tui muốn nói những người không đạo đức giả, làm ra vẻ tốt nhưng trong lòng xấu xa...
Hoàng hôn ở Tân Lập ngắn ngủi. Khi mặt trời vừa khuất sau những rặng núi xa thì bóng tối liền đổ ập xuống. Tù xếp hàng điểm danh khi những tia nắng cuối cùng chưa tắt trên những ngọn cây. Ðiểm danh xong là tối. Chúng tôi bị lùa vào phòng, khóa cửa lại.
Câu chuyện được tiếp tục bên trong song sắt.
- May một cái là ở trong tù mình mau chóng nhận ra người tốt người xấu. Nhà tù không có chỗ cho những âm mưu lâu dài. Người tù không biết mình sẽ ở địa điểm nào vào ngày mai, hắn đểu cũng vội vàng đểu, cũng hấp tấp đểu, sợ không kịp...
Tôn Thất Tần chỉ sống với quá khứ, bằng quá khứ. Mà quá khứ cũng chỉ được tính từ năm 1946 trở về trước. Những sự kiện sau đó, cho dù chúng lớn tới mấy, ông không tính, không nhớ, hoặc không thèm nhớ.
- Tui đã có vợ con.
Ông bắt đầu câu chuyện, rồi im bặt.
- Bác có được tin của bác gái không ?
- Không. Từ năm 1946 tui không còn được tin gì của nhà tui nữa.
- Bác có biết mặt con chứ ?
- Biết. Nó là con gái.
Người ta kể Tôn Thất Tần đã tham gia cuộc nổi loạn của tù nhân ở chiến khu Bình-Trị-Thiên. Những người tù phá trại, giết lính gác rồi bỏ trốn vào rừng. Họ lần lượt bị bắt lại hết, không sót một ai. Hai người bị kết án tử hình. Tôn Thất Tần lĩnh án chung thân, sau được giảm xuống 20 năm. Về chuyện này dường như Tôn Thất Tần không muốn nhắc lại, không muốn nói tới, mặc dầu tôi có vài lần hỏi ông. Mãi một năm sau ông mới kể cho tôi nghe, nhân câu chuyện tình báo Việt Nam đánh đắm một thông báo hạm của Pháp tại vùng biển Sầm Sơn năm 1950, tôi nhắc tên Hoàng Ðạo.
- Anh biết hắn ta à ?
- Chúng tôi quen nhau khá lâu.
Ông cúi xuống, lầm rầm câu gì nghe không rõ. Hình như ông văng tục. Bình thường không bao giờ Tôn Thất Tần văng tục hoặc chửi bậy, cho nên tôi nghĩ tôi nghe nhầm.
- Bác bảo sao ?
- Tui nói hắn là thằng chó đẻ !
Tôi thấy mếch lòng. Dù sao Hoàng Ðạo cũng là người quen của tôi.
- Tại sao bác lại gọi anh ấy là thằng chó đẻ ?
- Bởi vì hắn là một thằng như rứa.
Tôn Thất Tần nói như gắt.
Thì ra chính Hoàng Ðạo là nguyên nhân, hay nói cho đúng, là khởi điểm cho đời tù lê thê của Tôn Thất Tần.
Hai người vốn là bạn bè. Khi Tôn Thất Tần rời Huế đi học Trường thể thao Phan Thiết thì Hoàng Ðạo hoạt động cách mạng. Cách mạng Tháng Tám nổ ra ở Huế, Hoàng Ðạo trở thành giám đốc công an thành phố. Tôn Thất Tần trở về, họ vẫn chơi với nhau.
Cho tới khi chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp ước 6-3 năm 1946, cho quân Pháp quay lại Ðông Dương thay quân đội Ðồng Minh làm nốt việc giải giáp quân đội Nhật Bản và giữ trật tự trên lãnh thổ do Nhật chiếm đóng, thì ở Huế một số chính khách xa-lông bất bình. Họ nói Hồ Chí Minh bán nước. Tôn Thất Tần ở trong số thanh niên phản đối Hiệp ước.
- Bây giờ bác có còn nghĩ rằng lúc ấy bác đúng không ?
- Không. Tui sai. Cụ Hồ đã đi một nước cờ cao. Nếu quân Tưởng ở lại cái họa còn lớn hơn. Bọn Pháp ở xa chính quốc, quân số không nhiều, quân Tưởng có hậu cứ sát nách ta, lại ô hợp, chơi nhau với nó mệt lắm ...
Tôn Thất Tần tìm Hoàng Ðạo nhờ Hoàng Ðạo in truyền đơn chống chính phủ Hồ Chí Minh. Hoàng Ðạo không nhận lời, một hai khuyên can Tôn Thất Tần đừng làm chuyện thọc gậy bánh xe, nhưng Tôn Thất Tần không nghe. Không nhờ được Hoàng Ðạo, ông đưa in nơi khác. Tờ truyền đơn chưa kịp in thì Tôn Thất Tần bị bắt. Người ra lệnh bắt Tôn Thất Tần chính là Hoàng Ðạo.
- Sau, hắn có cho người gặp tui, biểu chỉ cần tui chịu xin gặp hắn nhận có lầm lỡ thì hắn tha... Tui tống cái thằng đến phủ dụ ra khỏi xà lim. Sau đó thì... không biết Hoàng Ðạo đi đâu, hay là hắn tránh mặt tui, nhưng không thấy vân mòng chi nữa. Rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tù ở lao Thừa Phủ bị tống lên chiến khu.
- Hồi đó anh Hoàng Ðạo bị gọi ra Hà Nội. - tôi nói - Anh ấy không trở về Huế, mà làm trưởng ty công an Thanh Hóa. Ðến lúc đó Hoàng Ðạo có muốn thả bác cũng đã muộn. Liên lạc giữa các địa phương trong thời kỳ đầu kháng chiến rất khó khăn...
Tôi muốn an ủi Tôn Thất Tần. Chứ nếu Hoàng Ðạo muốn, anh vẫn tìm được cách để thả bạn mình. Anh đã quên bạn, hoặc anh muốn cho người ta thấy trong anh ngoài lợi ích của cách mạng ra không còn có chỗ cho cái gì khác.
- Từ đó, ở trong tù, tui cũng không nghe ai nói tới Hoàng Ðạo nữa...
- Rồi bác tham gia cuộc nổi loạn phá trại ?
Tôn Thất Tần cười, vẻ cay đắng.
Dần dà, chắp nối những mẩu chuyện rời rạc của ông lại với nhau tôi mới biết Tôn Thất Tần rơi vào trong số những người cầm đầu cuộc nổi loạn như thế nào. Người cầm đầu thật sự là Bửu Viên (có thể tôi nhớ tên không được chính xác), sau bị xử tử, từ lâu đã ngấm ngầm chuẩn bị vượt ngục. Trong số người cùng đồng tâm với ông ta không có Tôn Thất Tần. Khi những người vượt ngục lọt ra ngoài nhà giam, họ gọi Tôn Thất Tần đi theo. Lính canh phát hiện, nổ súng. Những người vượt ngục chống lại. Cuộc vượt ngục biến thành cuộc nổi loạn phá ngục có đổ máu, có người chết, người bị thương cả ở hai phía. Sau nhiều ngày lẩn quất trong rừng tất cả lần lượt bị bắt lại. Công an cho rằng không có lý nào hai người trong hoàng tộc, một Bửu một Tôn Thất, mà không bàn bạc với nhau. Không thể nào cãi lại những ông chấp pháp dai hoi, Tôn Thất Tần nhận đại cái tội mà ông không có.
Một cuộc đời tan nát bắt đầu từ một chuyện không đâu.
Chúng tôi chơi thân với nhau, mặc dầu đứng giữa tôi và Tôn Thất Tần là Mác. Ðược cái Tôn Thất Tần không quan tâm tôi cộng sản hay không cộng sản như những người tù số lẻ khác. Người như tôi dễ được Ban Giám thị chọn làm ăng-ten lắm, bọn họ nghĩ thế và có thái độ lạnh nhạt hoặc xa lánh tôi. Có người còn xưng xưng rằng đúng thế. Tôi kệ. Dù sao thì tôi vẫn là kẻ tình cờ rơi vào hàng ngũ họ từ phía bên kia. Tôi không phải người của họ.
Tôn Thất Tần ham hiểu biết. Ông còn bắt tôi nói cho ông nghe lý thuyết chủ nghĩa Mác, là cái ông không hề được đọc. Những bài giảng chính trị của các ông cán bộ dĩ nhiên không phải chủ nghĩa Mác rồi. Các chủ nghĩa, kể cả chủ nghĩa Mác, theo quan niệm thông thường, không cần đi cặp kè với còng tay và cùm sắt. Tôi nói lại cho ông nghe những điều tôi biết, một cách hờ hững. Tôi đã ngán mọi thứ chủ nghĩa mà vì chúng người ta thịt nhau.
- Như vậy, anh cho rằng nó không hiện thực ?
- Tất cả đều mò mẫm. Mác mò mẫm trong lý thuyết, các nhà mác-xít mò mẫm trong thực hành. Cái khác nhau là trong một lý thuyết sai lầm chỉ có chữ nghĩa là bị xây xát chút ít, còn trong thực hành là những số phận người, sai lầm gây ra bi kịch.
Tôn Thất Tần thở dài.
- Vậy cái gì còn lại trong chủ nghĩa Mác sau khi anh thất vọng với nó ?
- Phần nhân bản của nó, đấy là tất cả những gì còn trong tôi. Tôi thích mục đích của cái xã hội mà Mác tưởng tượng ra :"Ðưa con người từ vương quốc tất yếu qua vương quốc tự do" Con người chỉ được tự do thật sự khi nó thoát khỏi sự ràng buộc của những cái tất yếu...
- Tất yếu là cái gì trong khái niệm của Mác ?
Tôi giải thích. Tôn Thất Tần chăm chú nghe. Trong nhà tù không có sách, không có báo, thảng hoặc có chút gì thuộc nền văn minh ấn loát lọt được vào đây thì đó lại là sản phẩm của ngành tuyên giáo(4), mang theo những ngôn từ, những khái niệm hoàn toàn xa lạ với những gì mà chàng trai hai mươi ba tuổi vào năm 1946 giữ lại từ một thời đã mất.
- Như vậy Mác là người tìm tòi, còn những đệ tử của Mác thì kiếm chác.
- Có thể hiểu như vậy.
- Cái xã hội cộng sản mà Mác mơ tưởng có khác gì thiên đường của Thiên Chúa giáo hay Nirvana của Phật giáo ? Tại sao cộng sản các anh lại chống các tôn giáo ?
- Tôi không chống.
- Vậy anh không phải là cộng sản rồi.
Nói chuyện chủ nghĩa Mác trong tù thật vô duyên. Ngán lắm. Tôi đề nghị dẹp nó qua một bên để chơi cờ. Tôn Thất Tần chiều tôi. Ông chơi cờ vào loại giỏi trong trại. Tôi không thể là đối thủ của ông. Ðối thủ của ông chỉ có hai : Phún Nàng Cái và Lầm Sì Lần, hai ông nông dân người Hoa ở Lạng Sơn.
Tôi lấy làm thú vị cách phiên âm Hán-Việt những cái tên dân dã của người Tàu. Dịp Pún Mằn nghe xấu xí là thế mà khi phiên thành Diệp Bản Minh nghe thật đẹp, sướng cái tai. Phún Nàng Cái nghe chẳng ra gì, nhưng thử đọc theo cách phiên âm Hán Việt mà xem. Nó sẽ thành Phan Hành Giai, tuyệt. Phún Nàng Cái có ông bạn không lúc nào rời là Lầm Xì Lần, hình như đọc theo âm Hán Việt là Lâm Sĩ Liên thì phải.
Hai ông nông dân ở một làng biên giới Việt-Trung trở thành tù số lẻ vì một nguyên nhân lăng nhăng. Theo các bạn tù thì đâu như chỉ vì một câu nói không đẹp đối với lãnh tụ họ Mao trong một bữa rượu, thậm chí tỉnh dậy hai ông chẳng nhớ họ đã nói gì. Cũng như trường hợp Dip Pún Mằn, tuy là phản động chống chế độ, nhưng Ban Giám thị trại biết rõ họ là ai. Ðã không sợ hai tên phản cách mạng kích động tù nổi loạn hoặc làm chuyện tầm bậy nào khác trong trại, họ còn cho hai ông vào toán tự giác chuyên về nông nghiệp. Ngoài cái sự phải xa vợ xa con và buổi tối phải vào nhà giam có khóa ngoài, hai ông nông dân vẫn i xì là hai ông nông dân cày sâu cuốc bẫm. Phún Nàng Cái và Lầm Sì Lần đã ở tròm trèm hai lệnh, có triển vọng được thêm một lệnh thứ ba, nhưng xem ra họ yên tâm lắm. Là dân của cái nhà nước này tốt nhất là yên tâm. Không yên tâm cũng chẳng được. Nó cho sống được sống, bắt chết phải chết, suy nghĩ mà làm gì ! Mà họ cũng chẳng buồn trốn. Ngoài cái làng quê chôn nhau cắt rốn ra mãi tận Lạng Sơn, hai ông chẳng biết nơi nào khác, kể cả nước Tàu, từ đó các cụ tổ của hai ông đã tới đây. Ngoài giờ làm việc Phún Nàng Cái và Lầm Xì Lần bầy bàn cờ ra, dìm mọi sự đời trong những trận chiến ác liệt không có tiếng súng.
Cờ tướng ở trong tù là thú vui duy nhất của những ông già. Nhìn họ tập trung tư tưởng vào những nước cờ hiểm hóc để giành chiến thắng thì biết. Không có gì làm cho những con người đau khổ quên đi được thực tại tàn nhẫn bằng cái bàn cờ bằng giấy và những quân cờ cũng bằng giấy bồi, hoặc bằng gỗ tự gọt lấy. Nhờ bàn cờ họ đặt cuộc sống đáng nguyền rủa xuống chân để thoát tục.
- Ông Hồ cũng là một tay cờ giỏi. - Tôn Thất Tần nói.
- Sao bác biết ?
- "Lạc nước, hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành công". - ông trích dẫn - Không giỏi cờ không thể đúc kết chân lý nhẹ nhàng như rứa được.
- Bác có nghĩ tới một ngày bác sẽ ra khỏi đây không ?
- Anh muốn nói tới cái thời sẽ khác đi ?
- Cho dù cái thời có không khác đi thì người ta cũng không thể giam một con người mãi mãi.
- Tại sao lại không thể ? Anh quên anh đã nói với tui về chuyên chính vô sản ở Liên Xô ra răng rồi sao ? ê Việt Nam mình còn may, người ta không giết. Người châu Âu thẳng ruột ngựa, chứ người Việt mình thâm. Nuôi thằng tù chẳng hết bao nhiêu mà lại thu về được rất nhiều ...
Nhìn con người gày còm xanh xao ngồi trước mặt mà thương. Tôn Thất Tần sau khi được giảm án xuống hai mươi năm còn được giảm nhiều lần nữa. Cho tới khi sạch án. Tính ra tới nay ông đã ngồi hết nợ nhà nước từ lâu. Thế nhưng ông vẫn không được tha, vẫn cứ ở tù. Không còn án thì có lệnh.
- Người ta không thả tui là do hoàn cảnh. - Tôn Thất Tần giải thích - Ðất nước bị chia cắt. Gia đình tui ở phía bên kia, chẳng lẽ họ thả tui về Nam à ? Còn thả ở miền Bắc thì biết thả tui về đâu ?
- Về đâu là chuyện của bác. Hết hạn thì phải tha.
- Ðâu có rứa được. Thả ra để tui đi lang thang tuyên truyền phản động à ?
Cứ như thể tôi đang nói chuyện với một cán bộ tuyên huấn vậy.
Tôn Thất Tần không nghĩ tới ngày về. Ông sống bởi vì ông chưa chết.
- Có số cả đấy anh ạ ! - ông nói khi ngồi bên cạnh tôi đang thoi thóp trong một trận dịch kiết lỵ làm chết cả chục tù trong trại. - Xem ra số anh số tui còn sống dai lắm.
Trận dịch bắt đầu từ chuyến tù hình sự được chuyển bằng xe ca từ trại Hà-Nam-Ninh(5) lên. Trong đám tù nhét chặt cứng trong xe có một người đang hấp hối vì bệnh kiết lỵ. Người hấp hối thì để cho họ được chết yên, còn chuyển lên làm gì, tôi không hiểu. Chắc hẳn người ta muốn tống khứ tất tật đám tù cũ đi để giải phóng mặt bằng đón tù mới. Anh tù hấp hối không phải nhập trại, mà được đưa thẳng vào nhà xác. Ðàng nào thì y cũng không trốn được nữa rồi. Ði còn chẳng nổi, nói gì trốn.
Ban đêm người hấp hối tỉnh lại, kêu gào thảm thiết. Nằm trong nhà giam tôi nghe tiếng y kêu khàn khàn yếu ớt như tiếng mèo. Chẳng có ai trong số lính gác rẽ vào xem y làm sao. Sáng ngày ra không thấy y trong nhà xác, mới đi tìm thì thấy y nổi lềnh bềnh trong bể nước. Thì ra y khát, gào mãi chẳng thấy ai đến. Y liền bò ra ngã xuống bể nước và chết chìm trong đó. Những người tù nói lính gác sợ cái nhà xác. Ðồn rằng ở đó có ma. Những con ma tù không giống các loại ma khác, chết rồi chúng vẫn cứ luẩn quẩn ở nơi chúng qua đời. Tại sao không còn gì kiềm tỏa mà chúng không về nhà thì không ai giải thích được. Vào những buổi mơ thâm tối trời hay là sáng trăng suông lại hiện lên dọa lính, lính sợ bỏ chạy thì chúng cười khanh khách.
Trong trại Tân Lập có một số bể chứa nước cho trại viên dùng. Nước được bơm từ trạm thủy điện đặt bên ngoài trại vào trong các bể trong một hệ thống bình thông nhau.
Buổi sáng bắt đầu trận dịch : toàn trại ngã bệnh. Không có thuốc, hết người này đến người khác theo nhau ra bãi tha ma dành cho tù.
Thêm một lần tôi được mục kích sức đề kháng mãnh liệt của cơ thể Việt Nam. Những người tù ốm vốn đã gày còm vì thiếu ăn vật vờ ngoài sân trại như những bộ xương biết đi, chẳng được chữa chạy gì, chẳng có thuốc gì để uống, mà không chết.
Khi dịch tắt thì đến lượt tôi bị bệnh. Trong thời gian có dịch tôi rất giữ gìn, không dám dùng một chút nước lã nào, đến cả nước rửa mặt đánh răng cũng dùng nước đã đun sôi. Nhà bếp ưu ái tôi, tôi muốn xin bao nhiêu nước chín cũng được.
Kiết lỵ là một bệnh rất khó chịu. Sức khỏe xuống rất nhanh cùng với những cơn đau quằn quại. Diệp Bản Minh, Tôn Thất Tần, cả hai ông nông dân phản cách mạng Phún Nàng Cái và Lầm Xì Lần đều lo cho tôi. Chốc chốc mở mắt ra tôi lại thấy hoặc người này hoặc người kia ở bên mình. Trần Chấn Hoa những ngày ấy chuyển đi chỗ khác - y sợ lây. Vả lại, y cũng chán. Tôi kín như bưng. Chẳng có thể gợi ở tôi câu gì. Ðôi khi, sốt ruột, y hỏi thẳng vào chuyện vụ án. Tôi bảo công an dặn đây là bí mật của Ðảng không được nói với ai, thế là xong.
Một đêm tôi thức giấc vì nghe mơ hồ có tiếng người gọi.
- Ai đấy ?
- Em đây, Cao đây !
Trong bóng đêm tôi thấy một bóng người lờ mờ cúi xuống. Cái bóng ghé sát tai tôi :
- Anh ơi, anh đừng chết !
Tôi bật cười. Làm sao có thể đừng chết được ? Chết là cái không thể đừng. Sức mạnh của cái chết là không thể ngăn cản.
Cao ghé người nằm xuống. Ðó là một thanh niên nhỏ bé, nhưng rất nhanh nhẹn, bị tập trung cải tạo với tội danh biệt kích. Tôi không hiểu tại sao Cao bị tập trung cải tạo. Nhưng tôi cũng chẳng buồn tìm hiểu. Trong nhà tù có quá thừa những điều làm tôi ngạc nhiên. Ðây là nơi tập trung những điều phi lý nhất nhưng có thật. Nói theo cách Descartes(6), chúng tồn tại chỉ vì chúng hữu hình.
- Trong trại chỉ có hai người cộng sản là anh và em. - tôi nghe tiếng Cao thì thào bên tai - Em có trách nhiệm bảo vệ anh.
Tôi cố cựa quậy cánh tay nặng như chì để nắm lấy tay Cao :
- Cảm ơn em.
- Em đã bàn với bác Tần. Bác với em sẽ cố gắng chăm nom anh để anh chóng khỏe...
Tôi cười cay đắng. Giờ đây tôi có hai người đang ra sức giúp tôi chống lại cái chết : một phản cách mạng và một cộng sản.
Sáng hôm sau, theo lời khuyên của Cao, tôi viết một bức thư gửi về cho gia đình để gia đình xin thăm đột xuất, mang thuốc cho tôi. Tôi viết, không mấy tin tưởng ở kết quả bức thư. Nó đến được hay không là một chuyện. Nhà cầm quyền có cho gia đình lên thăm tôi hay không là chuyện khác. Bức thư đã đến. Vợ tôi tức tốc lên ngay. Bằng cách nào Cao gửi được bức thư tôi không biết. Chắc Cao bàn với Dịp Pún Mằn và gián điệp quốc tế đã liều mạng để cứu tôi.
Từ hôm đó hàng ngày đi làm về là Cao đến giặt giũ quần áo cho tôi, lo lắng cơm nước cho tôi, mặc dầu Cao ở một toán khác. Tôi được ăn nhiều rau hơn, thức ăn ngon hơn, cơm cũng nhiều hơn, có hôm là ngô tươi. Thức ăn của trại được hâm lại, nóng hổi. Trong bữa ăn, Tôn Thất Tần và Cao ngồi bên, khuyến khích tôi ăn từng miếng.
Tôn Thất Tần mách tôi :
- Anh phải ngăn thằng Cao. Ai lại nó leo vào cả vào trong kho của Ban lấy cắp mì chính, muối, cả ngô nữa. Họ mà bắt được thì chết !
Cao nghe tôi trách, cười hì hì :
- Nghề em mà, anh đừng lo.
Lúc ấy tôi chưa biết Cao là chiến sĩ đặc công.
Cũng trong những ngày này Cao kể cho tôi nghe vì sao cậu ta mang tội danh biệt kích.
Hai năm trước, tại vùng chiến thuật 1(7), tiểu đội trinh sát của đơn vị đặc công mà Cao là tiểu đội trưởng đang len lỏi trong rừng thì gặp một trung đội thám báo địch từ trực thăng đổ xuống. Một trận tao ngộ chiến dữ dội nổ ra. Kém hẳn đối phương về quân số và trang bị, các chiến sĩ trong tiểu đội Cao lần lượt ngã xuống. Còn lại một mình Cao và một đồng đội bị thương nặng. Cao bắn trả cho tới khi khẩu AR15 hết đạn. Ðúng lúc Cao đập khẩu súng, cõng đồng đội xông ra để cướp khẩu súng khác quyết tử với địch thì viên sĩ quan phía bên kia kêu lên :"Không được bắn ! Phải bắt sống !"
Ðưa Cao về vị trí đổ quân, viên sĩ quan ra lệnh cởi trói cho Cao, rồi rót rượu mời Cao :"Tôi hân hạnh được mời rượu một người anh hùng ! Hãy bỏ qua một bên những bất đồng chính kiến, chuyện bên này bên kia, để uống với tôi, một người Việt, đồng bào anh !". Cao uống. Theo yêu cầu của Cao viên sĩ quan chôn cất cẩn thận các bạn đồng đội của Cao trước mặt Cao, rồi gửi trực thăng đưa Cao về Sài Gòn.
Cao bằng lòng chiêu hồi. Quân đội Sài Gòn cho Cao đi học tại khu biệt kích Long Thành. "Không dễ dàng gì mà vào trinh sát trong một trường huấn luyện biệt kích của địch, Cao nghĩ. Mình tương kế tựu kế vào trong đó tìm hiểu rồi trở về báo cáo với trên, hóa hay !". Xong lớp huấn luyện Cao được ném ra miền Bắc, xuống khu vực Yên Bái. Sau khi giết toán trưởng biệt kích, Cao ôm điện đài chạy ra quốc lộ, giơ súng chặn một chiếc xe tải, bắt chở thẳng về Hà Nội.
Cao được đón tiếp tử tế, được nuôi nấng chu đáo, sang trọng nữa là khác, trong suốt thời gian ngồi ở cơ quan Bộ Tổng Tham mưu. Người ta bảo Cao viết lại toàn bộ những gì cậu ta trinh sát được tại khu Long Thành. Viết xong thì cán bộ quân pháp tới bắt đi giao cho bên công an. Ðó là lý do vì sao Cao có tội danh biệt kích mà không có án hình.
Tôn Thất Tần biết chuyện, lắc đầu :
- Người ta đối với cậu rứa tệ quá !
- Thế người ta đối với bác không tệ à ?
- Tui khác, cậu khác. Tui là phản cách mạng. Cậu là cách mạng.
Sau khi bị tôi trách, Cao không dám leo vào kho công an ăn trộm nữa. Có vẻ cậu ta coi ý kiến của tôi là mệnh lệnh cấp trên, không thể cưỡng.
Cơn bệnh qua, tôi ăn giả bữa, lúc nào cũng thấy đói. Tôi không nghĩ tới cái gì khác ngoài miếng ăn. Thèm đủ thứ. Thậm chí nghĩ tới một miếng cháy nước dãi đã ứa ra.
Còn nhớ một hôm toán tôi được lệnh đi chữa nhà cho Ban Giám thị, mấy ông bạn tù già mừng rơn khám phá ra lu nước gạo của Ban đầy cơm thừa đổ đi lẫn lộn với trăm thứ bà dằn khác. Tôi được phân công ở trên mái để dặm lại mấy chỗ tranh mục, đồng thời canh chừng cho các bạn tù xột xệt(8) bên dưới. Tôi vờ cặm cụi làm, nhưng mắt vẫn bao quát một vùng chung quanh. Chỗ cơm thừa trong phút chốc đã trở thành nồi cháo ngon lành, tuy phảng phất mùi chua của dấm bỗng.
Ở bên dưới người ta gọi lên :
- Bác Hiên ơi ! Bác xuống ăn với chúng tôi.
Tôi cảm thấy ruột gan cồn cào, nhưng tôi rùng mình khi nghĩ tới lu nước gạo.
- Cảm ơn các bác. Các bác cứ ăn đi. Ðể tôi gác cho.
- Chúng tôi sẽ để phần bác.
- Tôi không ăn đâu. Mấy bữa nay bụng dạ tôi không tốt.
- Vậy cũng được. Chúng tôi ăn hết nhá ?
Trong nhà tù cuộc đánh nhau với bản thân không bao giờ kết thúc. Chỉ có thể thắng từng trận một. Câu chuyện năm xưa với ông Ðặng Xuân Thiều trở về trong trí nhớ. Biết ông được các đồng chí gọi là "anh hùng thành Ký Con(9)", vì ông đã chịu đựng được hai mươi bảy trận đòn tra liên tục, tôi hỏi ông :
- Chú ơi, làm thế nào mà chú chịu đựng giỏi thế ?
Ông cười hà hà :
- Giỏi gì ! Tao cứ cố chịu từng trận một, Chịu được đến đâu biết đến đấy. Có thể trận thứ hai mươi tám thì tao gãy, biết đâu đấy, ai dám nói chắc, nhưng chúng nó mệt, chúng nó bỏ cuộc thì tao được anh em bốc lên tôn làm anh hùng, chứ anh hùng cái gì đâu ...
Ông không khiêm tốn giả vờ. Ông nói sự thật "chúng nó mệt, chúng nó bỏ cuộc", nhưng chất anh hùng thật lại ở chính trong lời thú nhận "biết đâu đấy, ai dám nói chắc". Cái chất ấy ông vẫn giữ được khi cách mạng thành công rồi, có thể nhân danh những hy sinh để đòi hỏi đãi ngộ. Là anh em với tổng bí thư Trường Chinh, ông có thể kiếm được một chức to hơn chức vụ trưởng, nhưng ông thích làm vụ trưởng Bảo tồn bảo tàng để chăm lo cho những gì tổ tiên để lại không bị mai một. "Thấy đền chùa bị phá nhiều quá, tao sót, ông nói. Hết Bắc thuộc lần thứ nhất đến Bắc thuộc lần thứ hai, rồi trải qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh khác, các công trình kiến trúc của các cụ có còn được là mấy. Phải có người giữ gìn chứ !"
Những tấm gương của thế hệ đi trước nâng đỡ tôi rất nhiều trong những năm tù, từ ngày đầu tiên cho tới ngày cuối cùng. Khi bị những cơn đói dày vò tôi thường nhớ tới các bậc tiền bối cách mạng đã chịu đựng thế nào trong nhà tù đế quốc để động viên mình vượt qua sự khốn khó.
Những cơn đói cồn cào vào cái đận giả bữa bớt hành hạ tôi còn nhờ những ván cờ của Tôn Thất Tần. Về cờ tướng tôi không đáng học trò ông. Nhiều hôm, mải đánh cờ, tôi quên cả ăn. Tôi quên thì đã có Cao nhớ. Thấy chúng tôi đang mê mải chơi cờ cậu ta vác bát ra lĩnh cả cho tôi lẫn Tôn Thất Tần.
Tôi cũng thích để Cao nhận phần cơm cho chúng tôi. Tuy việc chia cơm trong các toán số lẻ có tiếng là công bằng, nhưng không phải vì thế mà được phép lơ là. Cao không hổ danh chiến sĩ trinh sát. Mắt cậu ta tinh như mắt mèo, không cho phép ai qua mặt.
Tù số lẻ chia cơm bằng cân. Người ta làm lấy một cái cân thô sơ để cân cơm. Cái cân tự tạo giống như cân tiểu ly, chỉ cần thêm hoặc bớt một chút xíu cơm bằng đầu ngón tay là nó đã mất thăng bằng. Tù số chẵn, dù boọc, dù có án, đều nhìn cái cân bên số lẻ bằng con mắt khinh bỉ. Quen ăn tiêu về nhiều ngoài xã hội, họ coi cái sự cân cơm là ti tiện. Tù số chẵn dùng bát để đong khi chia cơm, bát vục mạnh thì cơm được nêm chặt, vục yếu thì cơm xốp, cho nên suất cơm của các sĩ quan bao giờ cũng lớn hơn suất cơm lính.
Về chuyện chia thịt thì cả số lẻ lẫn số chẵn đều chia như nhau, theo cùng một cách. Tù sắp bát thành hàng, người chia thịt chọn từng miếng đều nhau gắp vào mỗi bát. Chia cho thật đều rất khó vì nhà bếp chặt miếng to miếng nhỏ, miếng nạc miếng xương, không bằng nhau. Người ta giải quyết chia cho công bằng bằng cách viết tên cả toán vào một mảnh giấy, một người cầm mảnh giấy quay lưng lại những bát thịt đã được chia, một người khác gõ bất ưng vào một cái bát nào đó, người cầm giấy xướng lên một cái tên, thế là người có tên lĩnh phần thịt mang đi. Cách này gọi là quay mặt đặt tên. Như thế, mỗi lần trại cho ăn thịt là mỗi lần mình phải nhận phần trong bát người khác. Có những cái bát cóc cáy, nhìn mà ghê, lúc đầu tôi rất sợ, mãi mới quen. Mọi người đều cho rằng Tôn Thất Tần bị lao phổi, nhưng đến bữa có thịt, người nào vớ phải bát của Tôn Thất Tần cũng vẫn ăn ngon lành như thường. ê trong tù mà khắt khe chuyện vệ sinh cũng chẳng được. Ðã ở tù thì phải chịu ở lẫn với đủ thứ bệnh tật. Trong trại có cả người hủi. Anh ta ở chung với mọi người, nhưng chưa thấy ai bị lây. Về sau, gặp được viên giám thị tốt bụng, anh ta được ở cách ly trong một phòng con tí xíu ở đầu hồi trạm xá(10) và từ đó thôi không phải đi lao động hàng ngày nữa.
Trong trại giam dù anh có án hay anh boọc, dù anh mang số lẻ hay số chẵn, dù anh là tù thường hay tù binh, đều là tù tuốt. Tù thì phải lao động. Nhưng nếu lao động để mà sống thì chuyện dễ hiểu. Khó hiểu ở chỗ lao động cải tạo kia.
Người nước ngoài thường có sự hiểu lầm cụm từ lao động cải tạo. Họ tưởng chỉ có tù mới phải lao động cải tạo. Hoàn toàn không phải thế. Sau năm 1950, biên giới Việt - Trung thông thương, khái niệm lao động cải tạo được du nhập vào Việt Nam lần đầu. Nó tới cùng với sự học tập giáo trình Lịch Sử Tiến Hóa Nhân Loại, trong đó Charles Darwin(11) được nhắc đến một chút, Mác và Engels một chút, còn lại là sự phát triển tư duy của Mao Trạch-đông và các lý thuyết gia nội hóa. Chúng tôi, con cháu loài khỉ(12), phải biết ơn lao động, mà là lao động chân tay kia, chứ lao động trí óc không được tính đến, nhờ có nó mà tổ tiên chúng tôi mới thành người.
Câu nói "Trí thức mà không có thực hành giá trị không bằng cục phân" của Mao chủ tịch được nhắc đi nhắc lại là trong thời kỳ này. Người mác-xít chỉ biết có một thứ trí thức ứng dụng, trí thức lý thuyết là đồ bỏ. Trong chính sách cán bộ, khi xem xét khả năng cán bộ để cất nhắc, để điều động, tiêu chuẩn lao động chân tay được coi như một thử thách không thể thay thế. Nói cách khác, người ta thành tín cho rằng có thể cải tạo con người bằng lao động. Thành thử cán bộ bên ngoài cũng phải đi lao động chân tay thường xuyên, gọi theo cách Trung Quốc là hạ phóng. Tôi đã hạ phóng một lần về mấy xã huyện Ðông Quan tỉnh Thái Bình với ông Nguyễn Ðức Quỳ, thứ trưởng Bộ Văn Hóa. Chúng tôi đi cầy, đi cấy, be bờ, tát nước cùng với nông dân. Tôi làm giỏi hơn các cán bộ thành phố nhờ những năm ở làng với bà cô trọn đời đồng trinh. Nhưng cả tôi, cả ông thứ trưởng có học đều không tin lao động có thể làm cho chúng tôi người hơn con người chúng tôi hiện có. Cứ tới thứ bẩy, chủ nhật là chúng tôi lấy cớ đi họp trên tỉnh để lên thị xã Thái Bình tắm nước nóng.
Người tù, theo quan điểm của các nhà lãnh đạo, lại càng cần phải cải tạo bằng lao động. Họ cho rằng người tù bị tù là do có những tư tưởng xấu, tư tưởng địch, nếu chịu khó lao động, anh ta có thể tự cải tạo mình để trở thành người tốt. Những người tù chăm chỉ lao động được giảm án nhiều hơn những người tù lười lao động. Những người yếu đuối không có khả năng lao động cũng bị coi là lười, đâm ra bị thiệt.
Toán tôi là toán tạp dịch, nay đi nhổ cỏ lúa, mai đi cuốc ruộng. Từ trong xà lim ra, bốn năm có lẻ không đụng tay đụng chân đến việc gì, nay cầm cuốc cầm cày, tôi rất mệt. Nhưng tôi cố gắng để không kém mọi người, bởi vì công việc được khoán theo tổ (nhóm nhỏ), mình làm ít thì người khác làm nhiều. Hơn nữa tôi không muốn để cho những kẻ muốn hành hạ tôi được thấy tôi khổ sở vì lao động vất vả. Tôn Thất Tần biết ý, nói nhỏ với anh em bên cạnh chỉ làm túc tắc thôi, đạt mức thì tốt, không đạt thì thôi, cho tôi nương vào. Ðược cái người ta chỉ có thể quở trách một cá nhân làm không đạt mức, chứ khi cả tập thể không đạt thì huề, bao giờ cũng có cả đống lý do để mà biện bạch.
Một hôm toán được phân công cuốc đồi trồng sắn. Trời nắng chang chang, quanh chỗ làm không một bóng râm, đồi lại toàn sỏi lổn nhổn, tôi vừa làm vừa thở hồng hộc. Quản giáo ngồi nấp dưới một cây sắn còn sót lại, phanh áo ra mà quạt, mặt đỏ lựng. Khi được lệnh nghỉ, tôi nằm vật ngay ra chỗ đất vừa cuốc, thiếp đi. Tôi mơ thấy mình đang nằm bên một dòng sông trong vắt, nước ụp oạp mênh mông, cái transistor đặt trên bụng. Từ trong máy phát ra bản Concerto Số Một của Tsaikovsky(13) do Van Klibern chơi. Tôi đang sung sướng tận hưởng khúc nhạc tuyệt vời, nhờ nó Van Klibern được giải thưởng quốc tế về dương cầm năm 1956, được nước Mỹ trải thảm đón mừng, được tổng thống Mỹ đích thân tiếp, thì nó nhỏ dần rồi mất hẳn, như thể sóng điện bị lạc. Tôi cuống quít vặn núm đài nhưng không tìm ra. Tỉnh dậy, thấy tay mình vẫn còn đang loay hoay cái núm vô hình, trên đầu mắt trời chói lòa.
- Anh ngủ tài thiệt ! - Tôn Thất Tần nói - Ðược một giấc rồi đấy.
Tôi đứng lên, bàng hoàng. Dưới chân tôi là một hình người in rõ nét trên mặt đất lổn nhổn.
- Tôi được một giấc mơ đẹp.- tôi nói - Hoài của, có một bản nhạc hay ơi là hay mà không nghe được hết. Bác không chợp mắt một chút à ?
- Chợp răng được. Nắng rọi vào mắt như ri. Tui đang mải ngắm con trâu.
Chênh chếch dưới chân chúng tôi một con trâu đang lười biếng vặt từng nạm cỏ hiếm hoi. Cái đuôi trần trụi với túm lông thưa quật đi quật lại không mệt mỏi.
- Nó có gì lạ ?
- Tui ghen với nó. Nó sướng quá !
- Sướng cái gì chứ ?
Một nụ cười chua chát thoảng bay trên khóe miệng "Jean Valjean gọi bằng cụ" :
- Nó không bao giờ phải cải tạo. Ra đời đã lao động rồi. Ðỉnh cao của vinh quang(14) ! Loài người từ khỉ mà lên nhờ lao động. Chúng mình lao động mãi như ri rồi sẽ tiến lên loài chi nhỉ ?

(1) Nhân vật chính trong cuốn Những Người Khốn Khổ (xuất bản năm 1862) của đại văn hào Pháp Victor Huygo (1802-1885).
(2) Món ăn vùng Trung Á
(3) Nguyên thứ trưởng Bộ Y tế nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
(4) Việc không cho tù được đọc sách còn lại cho tới bây giờ. Năm 1995, khi Hoàng Minh Chính bị bỏ tù (xã hội chủ nghĩa) lần thứ ba, ông muốn đọc các sách về luật pháp để tự bào chữa khi ra tòa người ta cũng không cho. Kể cả đến cuốn sách về luật Việt Nam do Nhà xuất bản Pháp lý (của Nhà nước) ấn hành ông cũng không được nhận.
(5) Một tỉnh gồm Nam Ðịnh, Ninh Bình và Hà Nam nhập lại dưới thời Lê Duẩn.
(6) René Descartes (1596-1650), triết gia Pháp. Câu nói nổi tiếng của ông :"Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại".
(7) Vùng từ Quảng Trị - Thừa Thiên kéo dài tới Ðà Nẵng.
(8) Tiếng lóng trong nhà tù = nấu nướng.
(9) Tên thành phố Hải Phòng do những nhà cách mạng tiền bối đặt.
(10) Nơi chữa bệnh cho tù, bệnh xá.
(11) Charles Robert Darwin (1809-1882), nhà cách mạng trong sinh vật học, giải thích sự tiến hóa của nhân loại theo quan điểm duy vật.
(12) Vì nghe thế nó... khỉ quá, nên ông Trần Văn Giàu đã sửa lại trong giáo trình Duy Vật Lịch Sử của ông thành hầu nhân.
(13) Tchaikovsky Piotr Ilich (1840-1893), nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nga
(14) Khẩu hiệu của Ðảng : "Lao dộng là vinh quang !".



:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 39

Nguyễn Xuân Cao được ra trại bất thình lình.
Một sáng, toàn trại đang ngồi ngoài sân chờ đi lao động thì phó giám thị kiêm cán bộ phụ trách giáo dục gọi tên Cao.
Cao lững thững đi lên trước hàng. Bao giờ cậu ta cũng lững thững như thế. mặc dầu cán bộ trại uốn nắn nhiều lần. Cái dáng đi ngang tàng như có ý nói :"Tao đây ! Chúng mày muốn gì ?"
Tôi ngồi ở hàng không nghe được họ nói gì với nhau. Chỉ thấy Cao quay lại nhìn tôi rồi đi theo cán bộ giáo dục. Lát sau, từ phía nhà giam Cao cắp quần áo chạy như bay về phía tôi. Một quản giáo chặn Cao lại.
- Em đi nhááá ! - Cao kêu lên từ xa.
- Ði đâu ? - tôi hỏi với.
- Em được thaaa... !
Viên quản giáo nắm lấy tay Cao lôi tuột về phía cổng.
Từ đó tôi không gặp lại chàng trai đáng mến nữa.
Tôn Thất Tần trở nên đăm chiêu.
- Tui không tin cậu ta được tha. - ông nói, mấy hôm sau - Anh có nghĩ rứa không ?
Tôi hơi ngạc nhiên trước ý nghĩ của ông.
- Tha là chuyện bình thường. có gì lạ đâu ? Cậu ta có thể bị oan, hoặc có những tình tiết giảm nhẹ...
- Tha chi mà mần rứa. - ông nhăn trán - Cao lại chưa hết một lệnh. Cũng không tha theo đợt, mà gọi ra một mình. Có khi nó bị chuyển đi trại khác cũng nên.
Tôi thì tôi tin Cao được tha. Có gì lại đâu, người ta xác minh xong rồi thì người ta tha. Chuyện xác minh kéo dài hàng nhiều năm là chuyện thường. Ðã từng có những chiến sĩ cách mạng bị vu oan có khai báo bị ngồi chơi xơi nước cả chục năm. Giờ đây người ta đã biết chiến sĩ trinh sát Nguyễn Xuân Cao đúng là đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng trước khi bị bắt, trên lưng cõng đồng đội bị thương. Báo cáo tỉ mỉ của Cao về khu biệt kích Long Thành cũng chính xác. Nó rõ ràng là một chiến tích. Chẳng lẽ một việc dễ như vậy mà lại không xác minh được ? Với tất cả sự giỏi giang của ngành quân báo.
Cách tha kỳ cục, không dám cho người được tha tiếp xúc với ai, không làm tôi ngạc nhiên. Trong một xã hội mắc bệnh sân khấu cuồng thì mọi sự đều có thể. Chẳng qua người ta thấy Cao thân với tôi, không muốn trước khi Cao ra về tôi nhắn Cao làm hộ việc gì đó, chuyển lời tới ai chẳng hạn. Có thể là như thế.
Cao để lại tất cả tài sản : hai cái tô men, thìa, đũa. Tôi đem cho một bạn tù nghèo. Anh chàng gày còm da bọc xương có cái bát men đại lại thủng lỗ chỗ. Ngày nào tôi cũng thấy anh ta hàn vá bằng nhựa PE đốt cháy thành những giọt đen như nhựa đường. Có hôm được xuất canh trại nấu xương bò, vừa được chia nước đã chảy tong tong. Canh nấu xương là quý lắm, anh ta húp vội húp vàng nhưng không kịp, nước canh chảy ướt cả ngực áo. Vả lại, tôi không muốn nhìn thấy những kỷ vật gợi nhớ tới chú em đã chăm chút tôi trong những ngày tôi tưởng là cuối cùng của đời mình.
-Tui e thằng Cao bị đưa lên Cổng Trời. - Tôn Thất Tần buồn rầu - Dễ rứa lắm !
Tội nghiệp, nếu Cao bị đưa lên đó.
Cổng Trời là một trại giam ở xa tít mù tắp mãi tận Hà Giang, bên kia Mù Cang Chải, giáp giới Trung Quốc. Cổng Trời đi vào huyền thoại, là nỗi kinh hoàng của tù. Những người đã từng sống ở Cổng Trời thậm chí không muốn kể về nó, không phải chỉ vì sợ công an trừng phạt (nghiêm cấm nói tới bí mật của các trại), mà còn vì sợ người nghe ngỡ mình bịa đặt. Dường như Tôn Thất Tần đã ở cái trại kinh khủng đó, nhưng ông ngậm tăm. Những người tù nói rằng ai đã lên Cổng Trời mà còn về được coi như sống lần thứ hai. Không giống những trại khác, Cổng Trời là nơi chỉ có tù số lẻ, và là tù đặc biệt quan trọng, đặc biệt nặng. Chế độ giam giữ ở đây rất khe khắt. Hơi một tí là bị khóa cánh tiên, bị hạ huyệt, còn nếu bị cùm hộp thì coi như đời đi tong.
Khóa cánh tiên là thế nào thì khi chuyển tới trại Phong Quang ở Lao Cai tôi mới được biết. Người tù bị khóa cánh tiên phải dang hai tay ra, lòng bàn tay mở ngang với ngực, sau đó hai tay sẽ bị kéo vào từ từ cho tới khi cổ tay sát nhau, lúc bấy giờ mới bập khóa số 8 lại. Với cách khóa này, lồng ngực người tù bị căng ra hết mức, rất đau đớn. Có người chỉ chịu được vài phút là ngất xỉu, nhưng cũng có những người chịu được hàng tiếng đồng hồ liền.
Hạ huyệt thì mắt tôi chưa thấy. Mà hạ huyệt hoặc cùm hộp cũng chỉ có ở một trại Cổng Trời mà thôi. Hạ huyệt, theo người ta kể, là thế này : người tù nằm vào một mảnh ván, bị cùm, mảnh ván được hạ xuống một hố sâu như cái huyệt, sau đó nắp được đậy lại. Trong huyệt ngộp lắm, không khí chỉ rỉ vào qua những lỗ nhỏ, người tù ở dưới phải há mồm như cá ngão để đớp từng ngụm không khí.
Kinh khủng nhất là cùm hộp. Ðó là hai thớt gỗ to được khoét lõm theo hình hai cẳng chân người. Người tù bị cùm hộp là chắc chết, bởi vì chỗ lõm vào rất nhỏ, khi thớt gỗ trên hạ xuống cũng là lúc người tù chỉ kịp hét lên một tiếng rồi ngất liền - xương cẳng chân đã vỡ vụn. Bị cùm hộp người tù sẽ chết sau một hai ngày, giỏi lắm thì được một tuần. Nhưng đã có người chịu được tới hơn hai chục ngày, làm cho Ban Giám thị phải báo cáo trước toàn trại :"Tên X. sau hai mươi ba ngày chịu kỷ luật đã đền tội !". Trong ngôn ngữ công an, đền tội có nghĩa là chết. Xác tù chết bị vùi nông trong các hố, đàn lợn trại thường ra nghĩa trang lấy mõm cầy lên, nhai rau ráu.
Tôi xếp những chuyện kinh khủng đó vào lĩnh vực huyền thoại. Tôi không tin những người mà trước đây tôi gọi bằng đồng chí lại có thể tàn ác đến thế. Tôi ghi lại chuyện này để sau có ai nghiên cứu chế độ nhà tù Việt Nam thì tìm hiểu thêm - không có lửa sao có khói ? Mặt khác, tôi cũng không nghĩ những người tù bịa chuyện.
"Jean Valjean gọi bằng cụ" yên trí với sự ở tù. Ông coi tù là nhà.
- Tui sẽ ở nơi ni cho tới chết ! - ông nói.
- Bậy nào. Rồi cũng có lúc bác phải ra khỏi chốn này chứ ! Nó đâu phải chốn vĩnh cửu cho con người.
- Ðó là karma(1) của tui.
Mùa đông đến, gió bấc thổi ù ù, mặt người nào người nấy tím tái, nhưng chúng tôi vẫn phải ra đồng từ sớm. Cực hơn cả là đúng vào lúc giấc ngủ say sưa nhất thì quả bom chết treo trên cổng trại bỗng đùng đùng thét lên làm chúng tôi giật bắn mình. Lồm cồm bò dậy, những người tù ngơ ngác nhìn cảnh thực tại - những bóng người lồm cồm bò dậy từ những manh chiếu trải sát nhau trên hai tầng giường, khói thuốc lào khét lẹt.
Giấc mơ về cuộc sống khác đã rời xa. Tôi bất giác nhớ tới bài thơ Kèn La-Vầy(2) Ở Ngục Kontum của Hà Phú Hương(3) :
Kèn ai đó ! Linh hồn đang cơn say đắm.
Kèn kêu, cố bừng mắt ngay,
Ðể cùng sắn tay, khúc đường chờ đây !
Bài này được in trong nhiều tập tuyển thơ ca cách mạng. Tác giả đọc nó cho tôi, một thằng bé con mặc áo lính, trong một đêm lạnh giữa rừng Việt Bắc.
Nhà thơ cách mạng cao ngồng, gày nhẳng, đung đưa trong ánh sáng lay động của đĩa đèn dầu lạc, mái tóc bạc xõa xuống trán, ngẩng cao đầu bắt chước điệu kèn Tây : "Tò te tí, te tò te te te tí ! Tò te, tí tò tí te, tí tó tí te, tí tò tò te !" Nhìn ông hào hứng cất giọng trầm bổng "Nó rung lên gắt gỏng bỏ vào tai. Hơn cả tiếng mẹ chồng đay lúc dỗi. Trời chưa sáng, đây phòng lan bóng tối...", tôi hình dung những bậc tiền bối cách mạng chân xiềng tay xích bừng tỉnh giấc nồng giữa một banh tù chật ních mà rùng mình. Tôi nghĩ mình mà phải ở tù thì eo ơi, chết mất, không sống nổi.
Nghe tiếng kẻng báo thức đinh tai, xoáy vào óc như một mũi khoan, làm sởn gai ốc tôi muốn bắt chước Hà Phú Hương làm một bài thơ về nó lắm. Phùng Mỹ nói đùa :"Âm mưu đế quốc gớm thật. Này nhé, đế quốc Mỹ làm bom. Ðế quốc Pháp ném. Bom từ đại chiến thế giới lần thứ hai để lại quả nổ quả tịt. Quả này tịt hẳn rồi mà vẫn tiếp tục giết, không giết người được nữa thì nó giết tế bào não của người ! Thù này muôn đời muôn kiếp không phai !". Một tứ thơ vui, đầy ngạo nghễ. Nhưng không được như tiếng kèn, quả bom chỉ phát ra một âm điệu đều đều. Nếu lúc đầu nó la hét thì ở đoạn cuối nó thở rốc vì mệt mỏi. Hoặc vì chán ngán. Bài thơ không thành. Nó cần âm điệu. Âm điệu lại không có.
Tiếng Việt có những từ "đói" và "rét", "đói" và "rách" hay đi liền với nhau thành cặp. Cái sự liên kết xem ra có lý lắm. Người tù rét vì đói. Chúng tôi người nào cũng gày, chẳng ai có lấy một lớp mỡ mỏng dưới da để ngăn cái lạnh luồn vào sâu trong cơ thể. Những ván cờ không làm chúng tôi quên được cái đói cồn cào. Tôi kiên trì tập lại hatha yoga mỗi đêm, trước khung cửa sổ mở toang, trong tiếng ngáy rầm rĩ của một trăm cuống họng.
Cái đói làm cho con người mụ mẫm đi, sinh ra những quái tượng. Chẳng hạn, ở bên số chẵn tù thường bắt chuột, nghóe, chão chàng, thằn lằn, nướng qua quít ăn tại trận. Có lần tôi thấy một anh tù bắt được ổ chuột con chưa mở mắt. Lại đúng vào lúc kẻng hết giờ làm, củi lửa phải rập hết, không nướng được nữa. Thế là anh ta nhai sống luôn mấy con chuột con, máu chuột chảy ròng ròng xuống mép.
Lại có anh chàng mỗi ngày ăn hết hai tờ Nhân dân. Nếu không thấy tận mắt chắc tôi cũng không tin. Anh chàng này thấy ai có tiếp tế là sà đến xin. Không phải xin tiền, xin ăn, nghề hành khất không tồn tại trong trại, mà là xin giấy gói. Xin được rồi, bất kể giấy gì, phần nhiều là báo Ðảng, anh ta ăn tại chỗ trước con mắt kinh hoàng của mọi người.
- Anh chàng ni mới là tay có lập trường cao nhứt trong chúng ta ! - Tôn Thất Tần bình luận - Chúng ta năm thì mười họa mới được nghe cán bộ giảng giải đường lối chính sách của Ðảng và Nhà nước. Nghe thời cũng câu được câu chăng, tam sao thất bản. Hắn ta nuốt chửng lời của Ðảng vào bụng, phỏng có ai bằng ?
Ai cũng biết dạ dày không tiêu hóa được vỏ khoai lang. Thế nhưng đám lính vét bên số chẵn, vật vờ như những cô hồn, cứ đến bữa cơm lại mò sang các nhà số lẻ nhặt nhạnh bằng hết những vỏ khoai ở dưới đất. Tù số lẻ cũng đói, nhưng phần lớn đã đứng tuổi, giữ được sự tỉnh táo. Ðám trẻ khi đói thì rơi vào cơn hôn mê.
Trong đám tù số lẻ có một nhân vật đặc biệt, người miền Nam tập kết. Anh ta có một bộ mặt kỳ dị. Tôi chưa từng gặp bộ mặt nào kỳ dị như thế. Nếu nhìn anh ta từ bên trái trong tư thế nghiêng ta sẽ thấy một con người hiền lành, phúc hậu, nhưng chỉ cần bước một bước sang bên phải thì ta sẽ rùng mình thấy trước mắt mình một quái vật, một con quỷ. Tôi không nói ngoa : một cái sẹo lớn chạy từ đỉnh đầu xuống trán, bạt đi một nửa lông mày, kéo xệch mi mắt lên trên để lộ một con ngươi trợn trừng, lòng trắng nhằng nhịt những tia máu đỏ. Một cái sẹo khác trên má chạy xuống tới tận cổ, kéo khóe miệng bất động về phía mang tai, phô ra nửa hàm răng lởm chởm. Bên dưới cái vai lẹm vì một vết chém thứ ba là cánh tay cụt tới cùi chỏ.
Anh Nguyễn Hữu Muôn, cũng dân tập kết, nhà báo, bị tập trung cải tạo (vì một cuốn tiểu thuyết chưa kịp viết, theo anh kể, hoặc do dám nói xấu lãnh tụ, theo những người khác) cho biết Dần Cụt tham gia cách mạng suốt từ tổng khởi nghĩa cho tới khi tập kết. Hồi mới đầu anh ta làm đao phủ, nghe nói chém nhiều người lắm. Những vết sẹo trên mặt Dần Cụt là do một tội nhân chết hụt ném lựu đạn để trả thù. Một người Nam bộ khác, anh Thạch Mười, tín đồ Hòa Hảo, làm nghề đánh xe trâu trong trại, nói rằng Dần Cụt bị tù là do các oan hồn báo oán. Chứ anh ta nông dân, trình độ chính trị thấp tè, văn hóa mới thoát nạn mù chữ, chẳng có lý do gì để trở thành số lẻ cả.
Tôi ngạc nhiên gặp quá nhiều người Nam bộ tập kết trong tù. Cái đó giống như một điều vô lý : họ trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, là những cán bộ, chiến sĩ cách mạng, tập kết ra Bắc theo Hiệp nghị Genève. Có ai bỏ quê hương ra Bắc để vào tù đâu ? Tiểu sử của Thạch Mười có tính chất đại diện cho nhiều người tù gốc Nam bộ. Anh cho rằng anh bị bắt là phải - người ta nghi anh chạy theo địch. Hai năm sau đã trôi qua, chẳng thấy có tổng tuyển cử như Hiệp nghị Genève quy định, nhớ nhà quá, anh tự động bỏ về Nam, bị bắt khi vượt vĩ tuyến 17. Xử tù anh không được, người ta cho anh tập trung cải tạo. Dần Cụt chắc cũng mắc tội tương tự, nhưng khi tôi hỏi thì nửa mặt bên trái anh ta nở nụ cười trừ, nửa bên phải căng ra, nhâng nháo, đầy vẻ khiêu khích.
Dần Cụt thuộc toán lâm sản chuyên khai thác nứa. Mất một tay nhưng sức vóc anh ta hơn bất cứ ai lành lặn trong toán. Và ăn khỏe vô cùng. Có lần anh em tù đố Dần Cụt ăn hết một thùng cháo sắn (nghĩa là lưng thùng sắn, còn lại là nước). Trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, kể cả cán bộ quản giáo, Dần Cụt điềm nhiên ăn từ từ cho tới khi cái thùng gánh nước còn trơ đáy. Sức khỏe kỳ lạ của Dần Cụt chỉ mất đi sau một tai nạn lao động. Anh ta thường bó nứa lại thành bè rồi ngồi lên trên cho trượt dốc, chứ không lao nứa xuống rồi bó lại dưới chân dốc như người khác. Cái bè lần ấy không tuân theo tay lái của Dần Cụt. Nó băng băng theo lối mòn rồi bất thình lình chồm lên, bay qua một hướng khác, nơi dốc núi dựng đứng vách thành, quăng Dần Cụt từ trên cao xuống đất. Anh ta ngất đi, người đẫm máu. Khi Dần Cụt được khiêng về trạm xá, mọi người đổ đến xem, ai cũng cho rằng anh ta khó qua khỏi. Thế mà Dần Cụt vẫn sống cho mọi người được thêm một lần ngạc nhiên.
Trong những ngày Dần Cụt lâm nạn Tôn Thất Tần thường đến thăm anh cựu đao phủ Việt Minh. Thấy ông năng lui tới trạm xá để theo dõi diễn biến bệnh tình Dần Cụt tôi nói đùa : "Bác Tần không bao giờ vào Ðảng được. Bác có khuyết điểm rất lớn là không có lập trường bạn thù rõ rệt". Không hiểu Tôn Thất Tần kiếm đâu ra những kiến thức y học trong đời tù, nhưng ông góp được nhiều ý kiến hay cho anh y sĩ nửa mùa rất lóng ngóng trong việc điều trị không riêng cho Dần Cụt mà cả cho những người tù khác. Anh y sĩ tù rất khâm phục "Jean Valjean gọi bằng cụ". Gặp ca hiểm nghèo bao giờ anh cũng hỏi ý kiến ông. Những người tù cũng vậy, họ thường tìm đến "Jean Valjean gọi bằng cụ" trước khi trao mình cho y sĩ.
Cái đói cũng đẻ ra những phát hiện, tốt có xấu có. Nguyễn Xuân Cao tìm ra rau cần dại mọc ven suối. Cần dại cũng có mùi cần, nhưng kém hăng. Khi đi làm ngoài trại thể nào anh biệt kích của chúng tôi cũng tha về khi rổ rau má, khi vài bó cần. Rau má, rau xương cá, rau muối, rau tàu bay chỉ còn ở những nơi xa trại, những cây mọc gần bị tù vặt sạch, không kịp mọc lại. Chỉ từ ngày Cao được tha, những rổ rau cải thiện mới vắng bóng trong bữa cơm của chúng tôi.
Một hôm người ta khiêng về trạm xá hai anh tù số chẵn bị ngộ độc. Ðược đi tự giác hai tay lang thang trong rừng gặp một cây vải dại, quả giống quả chôm chôm hơn là quả vải, lông tua tủa, ăn ngọt lịm. Chẳng hiểu thứ vải có độc tố gì hay hai người ăn quá nhiều, chỉ biết đến giờ không thấy họ trở về, công an đi tìm thì thấy cả hai nằm dưới gốc cây, bọt mép sùi ra.
Mùa đông đến. Tôi biếu Tôn Thất Tần đôi bát-kết vợ tôi mang cho. Không thể đành lòng nhìn ông bạn già mặt xám ngoét run rẩy trong cái áo bông mỏng với sợi dây chuối thắt ngang lưng cho gió rét và sắc như dao khỏi luồn vào trong. Tôi vẫn giữ đôi giày da Mông Cổ. Ðã mấy lần toan quẳng đi cho nhẹ, nhưng nghĩ đi nghĩ lại : quẳng làm gì, cứ để đấy có lúc dùng đến, biết tương lai thế nào ? Không được đánh xi một lần trong bốn năm, da giày cứng như mo nang, nhưng đi vào chân một lát nó vẫn mềm ra. Tôi chỉ dùng giày vào mùa đông. Mùa hè tôi có đôi dép lốp chác được bằng hai bao Tam Ðảo. Thời gian cuối vợ tôi không mang cho tôi Ðiện Biên. Nhìn những bao Tam Ðảo tôi biết gia đình tôi còn khốn khó hơn trước - vợ tôi phải tiết kiệm không phải từng đồng mà từng hào.
Người duy nhất trong trại không bao giờ có tắc là Tôn Thất Tần. Nhưng ông quen rồi. Hai mươi bốn năm không có tắc ông chịu được. Những thứ ông có mà không phải do trại phát đều là của anh em tù cho. Nhưng ông là người khí khái, không phải bất cứ ai cho ông cũng nhận. Nhớ hồi mới gặp nhau, nhân gia đình tiếp tế, tôi mời ông ăn một bữa tươi cùng tôi (xôi gà, bánh xốp, bánh quy...) nhưng ông nhất định từ chối, làm tôi phát giận.
Ông nhận đôi bát-kết với vẻ cảm động. Thường các bạn tù cho ông đồ dùng rồi, gia đình họ nghèo, cũng chẳng có đồ mới để gửi cho người trong tù. Còn đây là đôi bát-kết mới tinh, thơm mùi cao su lưu hóa. Thế nhưng đến một hôm trời rét lắm, rét căm căm, mọi người có gì đều đắp lên người hết mà ông vẫn cứ diễn đôi dép cao su muôn thuở, lỗ xỏ rộng hoác, quai luôn tụt. Tôi trách ông sao có giày không dùng thì Tôn Thất Tần nói :
- Tui biết anh thương tui. Nhưng đôi giày quý lắm. Bây chừ tui còn khỏe, còn chịu được. Thôi thì để đấy, dành cho một mùa đông nào tui không còn sức...
Chao ôi, ông còn nghĩ tới những năm nào nữa, những mùa đông nào nữa khi sau lưng ông đã có một phần tư thế kỷ bên trong song sắt !
Năm 1976, tôi ra tù, Tôn Thất Tần vẫn chưa dùng tới đôi bát-kết.
Những năm tù cho tôi một nhận xét là không có sự cân bằng giữa số tù được tha và số tù nhập trại - những đợt tha lẻ tẻ, thường chỉ vài chục người, đa số là tù có án, thoảng hoặc mới có vài dân boọc, số tù bổ xung thì ngày một đông. Lâu lâu lại có một cuộc chuyển trại, tù cũ đi, được chở tới trại khác hoặc trại mới xây dựng, nhường chỗ cho tù mới bị bắt. Ngay ở những trại tù cũng thấy có sự xây dựng thêm, hết phân trại này tới phân trại khác. Nếu có một biểu đồ thì đường biểu diễn số lượng tù chắc chắn ngày một cao.
Người ta cũng không để tù ở lâu một chỗ, như thế tù ít trốn trại. ê lâu thì quen nơi chốn, thuộc địa hình địa vật chỗ bị giam, mới tính kế trốn được, những người tù lâu năm giải thích như vậy.
Tôi được biết vài cuộc trốn tù của dân số chẵn, số lẻ thì chưa thấy lần nào. Những người tù số lẻ thuộc dân boọc không trốn bởi họ chẳng có nhu cầu ra ngoài xã hội để tiếp tục làm chuyện số lẻ của họ, nói cách khác phần đông họ chẳng hề là phạm nhân chính trị, họ bị vào tù chẳng qua vì tính cẩn thận của chính quyền mà thôi. Những người số lẻ không phải boọc, mà được xử án hẳn hoi như phạm nhân một số vụ nổi dậy của tín đồ Thiên Chúa giáo cũng không trốn vì nhiều người trong đám họ, các ông chánh trương trùm trưởng các họ đạo xứ đạo, là những người đã có tuổi, có muốn trốn cũng không trốn nổi. Những người trẻ tuổi trước theo chân các vị trong cuộc nổi dậy thì nay phải ở lại trại để trông nom các bậc trưởng lão gần đất xa trời . Những người Hoa dù có mở cổng trại cho họ trốn họ cũng không trốn. Trốn về Tàu thà ở tù Việt Nam còn hơn.
Tù trốn cũng nhiều kiểu kỳ lạ. Chẳng hạn, một tên số chẵn đã lách được qua một thanh gỗ chắn ở đầu hồi nhà giam ra ngoài. Lúc đầu, người ta không hiểu y trốn bằng đường nào. Cứ như thể tên tù đã thăng thiên hoặc độn thổ vậy. Sau chính tù phát hiện ra đường trốn, thấy kẽ hở giữa hai thanh chắn lớn hơn bình thường. Công an cho mấy người tù gày nhất lên thử, nhưng không ai chui lọt. Tù số chẵn còn kể có tên trộm trèo tường theo cách của thạch sùng, cứ ép cả người vào tường mà bò lên, không biết có thật hay không ?
Vụ vượt ngục của Thắng Hòa cũng đáng được kể lại vì tính chất bi hài của nó. Hơn nữa, một nhân vật trong cuộc vượt ngục về sau này lại có liên quan tới Hán Còi đã được nói tới ở trên.
Thắng Hòa là một lính đột có tên tuổi. Tầm thước, ít nói, lễ độ, y có tính cách khá độc đáo trong đám số chẵn. Là dân boọc không biết ngày về, Thắng Hòa âm thầm chuẩn bị cuộc vượt ngục, không cho ai biết. Bằng cách cổ điển dùng muối trộn nước tiểu mà Thành đã kể cho tôi nghe, y kiên trì đợi cho đến khi chân chấn song mục ruỗng - mất tháng rưỡi hai tháng gì đấy. Biết đã chắc ăn, một hôm vào nửa đêm, đợi cho các bạn tù ngủ thật say y mới bẻ cong chấn song trườn ra. Ðúng lúc y sắp chui cả người ra khỏi thì có đứa nào nắm lấy chân. Ngoảnh lại thì ra Nhân, một lính vét. "Anh ơi, cho em đi với !", Nhân khẩn khoản.
Thắng Hòa ngán quá, nhưng trong trường hợp đó thì không thể từ chối được nữa rồi, đành cho Nhân theo. Bẻ chấn song lại nguyên như cũ, lấy cơm nguội trộn với bột tro bịt vào chỗ đứt để cho nó trông hệt như chấn song bình thường, hai tên tù vượt ngục bò ra ngoài tường rào. Thắng Hòa đã để sẵn ở chân tường một thanh tre đực dài. Hôm trước trại sửa nhà, chẳng ai chú ý tới mấy thanh tre lăn lóc ở đó - tù làm việc có bao giờ gọn gàng đâu. Uốn thanh tre lại, buộc hai đầu với nhau, Thắng Hòa được một cái vòng dẻo, quăng lên cột dây thép gai là đã có thể bám vào nó mà đạp chân vào tường leo lên.
Ði bộ dọc theo đường sắt cách trại được một quãng xa, Nhân mỏi chân, kêu đói. Gần đấy có một thị trấn nhỏ, Thắng Hòa sai Nhân đi kiếm cái ăn và quần áo. Nhân mò vào một quán phở, lấy được hai bộ. Nhân thể quơ thêm một con gà và một chai rượu nịnh ông anh, nhưng lại quên khuấy không lấy muối, không lấy nước mắm. Hai đứa đành nhắm rượu với thịt gà nhạt. Rượu vào, đâm buồn ngủ. Nhân nằm ngay trên đường sắt đánh một giấc say sưa. Tàu chạy tới, Thắng Hòa tỉnh thức hơn, chỉ còn kịp lăn Nhân ra ngoài, chính y lại bị chắn sốc của đầu tàu chạm phải. Nhân không bỏ bạn, cõng Thắng Hòa vào bệnh viện tỉnh. Không hỏi giấy tờ lôi thôi, người ta cấp cứu cho y. Sau cơn choáng vì say rượu bị tàu húc, Thắng Hòa tỉnh dậy trong bệnh viện, nhưng y vờ mê man, cho tới khi đột được quần áo, tiền nong, cả một cái đồng hồ báo thức của bệnh nhân cùng phòng, nó mới đào tẩu đi tìm Nhân. Hai đứa nhảy tàu về Hà Nội.
Ðến Gia Lâm, chúng xuống. Nhân lên cơn nhớ mẹ, nằng nặc đòi về nhà. Thắng Hòa can không được, nhằm hướng Vinh đi tiếp.
Về tới nhà Nhân được chỉ nhìn thấy mẹ sau khi bị còng tay. Một quản giáo trại đã phục sẵn ở trong nhà. Bà mẹ lạy van anh công an, xin cho con ăn cùng một bữa cũng không được, khóc ngất nhìn theo bóng con bị giải đi.
Thắng Hòa bị bắt ở một nhà ga. Cái mũ cối vừa đột(4) được úp trên mặt, y đang ngủ vùi trên ghế dài dành cho khách đợi tàu thì có ai đó càu nhàu bảo y nằm dịch vào dẹp chỗ cho người khác. Thắng Hòa gầm lên :
- Ði chỗ khác ! Có muốn ông xin tí tiết không thì bảo ?
Vùng dậy, y thấy trước mặt mình là... quản giáo coi đội.
Hai tên tù vượt ngục lập tức được giải về trại cho chúng tù thấy : đã bảo mà, lưới công an lồng lộng, thưa mà chẳng lọt, có đứa nào vượt mà thoát đâu !
Tôi bị chuyển từ biệt giam ra trại chung ít lâu thì Hán Còi cũng được chuyển từ trại B qua trại A.
Tôi đến chỗ tù vừa được chuyển tới, tìm Hán Còi. Lần đầu tiên tôi nhìn rõ nó ở khoảng cách gần. Ðó là một thằng bé còi cọc, đúng với biệt hiệu bè bạn đặt cho. Nó đi qua mặt tôi, không biết tôi là ai. Mấy ngày sau, tôi tới gần nó khi nó đứng một mình.
- Hán Còi phải không ?
Nó ngẩng lên, gườm gườm nhìn tôi :
- Chào anh giề(5). Anh giề cần gì ? Ken tẩy (6)hở ?
Tôi im lặng.
- Ờ, anh giề hỏi choáng(7). Ðẩy mẹ nó hôm qua rồi, còn đâu.
Tôi mỉm cười. Thì ra thằng bé còn kiêm mua bán đổi chác nữa.
- Chào cháu !
Nó giương mắt nhìn tôi.
- Cháu chưa nhìn thấy chú. Chú thì thấy cháu rồi. Cháu vẫn đi học đấy chứ ?
Nó reo lên :
- Chú đấy ư ? Cháu tưởng các chú đi hết rồi.
- Không, chú ở đây.
- Chú kia đi sau chú độ nửa tháng.
Như vậy Phùng Mỹ không còn ở đây nữa. Không biết anh bị chuyển đi đâu ? Sau mới biết anh bị đưa đi một trại khác ở ít ngày rồi được thả ra, nhưng phải đi lao động ở một hợp tác xã. Hình thức lưu đầy này được áp dụng cho tất cả tù trong vụ "nhóm xét lại chống Ðảng", trừ tôi.
Thằng bé có vẻ thất vọng. Nó thích tôi là con người bí ẩn nằm trong biệt giam hơn một người tù thường, trong bộ quần áo giống nó. Khi ở biệt giam tôi có nhiều thứ để cho nó, ở đây tôi chẳng có gì. Tuy nhiên, nó cũng quyến luyến tôi, như thể tôi là một người thân tình cờ gặp trong tù. Sau vụ chém Tín Lác, Hán Còi được nhập bọn với đám sĩ quan, không được ngang hàng cho lắm, nhưng cũng không đến nỗi kém vế. Trong vai trò tên liều mạng, tên không sợ cho tóe me bất cứ đứa nào, Hán Còi luôn phải lên gân cho đúng vai, và sự lên gân thường trực làm nó mệt. Những lúc mệt nó chạy sang chỗ tôi, nằm bên tôi mà nỉ non chuyện này chuyện nọ. Trong nó còn một đứa trẻ, con người thật của nó.
Hán Còi rất thương mẹ. Mọi câu chuyện giữa hai chú cháu có lan man tới đâu rồi cũng quay về với mẹ Hán Còi. Trước mắt tôi hiện lên hình ảnh một cô giáo hiền lành, có gương mặt cam phận, vừa buông bút chấm bài đã cặm cụi đan len để kiếm thêm vào đồng lương còm cõi. Không hiểu sao Hán Còi không nhắc tới bố, như thể ngoài mẹ ra nó không còn ai nữa. Chắc bố mẹ nó bỏ nhau, hoặc bố Hán Còi đã bỏ mẹ nó một cách thế nào đấy làm cho nó hận. Chứ những đứa khác bằng tuổi Hán Còi thì nói khoác lác về bố mẹ dữ lắm - nghe chúng nói thì nhà đứa nào cũng giàu có, bố mẹ đều làm chức to. Cũng có trường hợp như thế thật, nhưng rất hãn hữu, con cái các ông to được nuông chiều hư hỏng nhiều lắm, nhưng chúng ít bị rơi vào tù, - thường chúng được gia đình xin cho về giáo dục tại gia đình.
- Anh không nên cho bọn số chẵn lên nằm chơi trên chỗ anh ! - Tôn Thất Tần khuyên - Trong toán người ta không thích !
- Tại sao họ không thích ?
- Bọn lưu manh trước sau vẫn là lưu manh. Xểnh ra, chúng nẫng liền.
- Nó là cháu tôi.
- Rứa thời khác !
Ðến chơi với tôi không phải chỉ có Hán Còi. Ðám sĩ quan bên số chẵn thỉnh thoảng cũng đáo qua, nhưng không lên chỗ tôi nằm tán gẫu mà để mời tôi qua uống trà (nhặm xà, bắt chước lối nói của người Quảng Ðông hoặc Phúc Kiến, dấu ấn cuộc sống chung với họ). Bắt đầu bằng một sĩ quan có học, từng đọc tôi, sau đó tới các sĩ quan khác. Thành thử tôi quen được khá nhiều nhân vật trong giới giang hồ. Về những nhân vật này, rất thú vị, nếu kể ra phải được một cuốn sách dày.
Ðến với tôi có cả những dũng sĩ diệt Mỹ từ miền Nam ra Bắc. Ðó là những cháu trẻ măng nhưng đã chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm, được ban chỉ huy chiến trường tặng danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ. Trung úy Dứa, với tư cách cán bộ miền Nam tập kết, được phân công phụ trách các cháu. Một hôm Dứa sai trật tự trại(8), một anh trung úy biên phòng phạm tội giết vợ vì ghen tuông, nhắn tôi đi khám bệnh lấy một ngày nghỉ để tới gặp anh.
- Tội nghiệp sắp nhỏ. Chúng ra Bắc, đứa gặp công an nạt nộ nổi xung lên uýnh liền, đứa đi học chịu cực không thấu tìm đường chuồn về trỏng, bi bắt lại... - Dứa nói - Cũng là dòng cách mạng cả...
Tôi hiểu anh muốn gì ở tôi :
- Tôi có thể làm gì được cho các cháu ?
- Anh qua chơi với các cháu luôn, giúp các cháu học.
- Biết chúng nó có chịu học không ?
- Nhiệm vụ chung mà, anh Hiên. Chẳng lẽ khoanh tay nhìn các cháu biến thành những tên đầu trộm đuôi cướp.
Tôi nhận lời. Chiến tranh đã làm hư lũ trẻ - chúng không thích học nữa, chúng quậy trong trại giam, theo đòi đám lưu manh.
- Học làm chi, chú ơi. - các cháu nói với tôi - Chúng cháu đi đánh Mỹ, ra ngoài nầy tưởng ngon lắm, đứa nào cũng háo hức, hóa không phải. Chúng cháu chỉ muốn về thôi.
- Trước khi về các cháu phải sống ở đây một thời gian đã. Trong thời gian đó các cháu nên tiếp tục học văn hóa để trở thành người hiểu biết.
- Người ta boọc chúng cháu, chứ chúng cháu đâu có khoái ở đây. Ðể coi, nếu không cho chúng cháu ra, chúng cháu sẽ tự ra. Ba cái hàng rào kẽm gai đối với chúng cháu có nhằm nhò chi...
Tôi không dạy được chúng học, nhưng vài ngày một lần sang chỗ chúng chơi, kể chuyện cho chúng nghe. Những câu chuyện có tính chất giáo dục của tôi có tác dụng phần nào ngăn các dũng sĩ diệt Mỹ không trốn trại, ít nhất thì cũng trong thời gian tôi còn ở đó. Sau số phận các cháu thế nào tôi không rõ. Ðó là những đứa trẻ trong sáng, rất đáng yêu. Tôi thương chúng vô cùng. Chúng cũng quấn quít tôi.
Một lần cháu Ðiền, người Thừa Thiên, bị bí đái, lăn lộn kêu khóc. Y sĩ trại chữa không khỏi. Tôi nhắn Dứa :
- Anh xin Ban Giám thị cho áp giải tôi lên núi kiếm thuốc. May chăng chữa được.
Dứa đề nghị Ban Giám thị. Ban Giám thị đồng ý. Không những không cần Dứa áp giải mà cho tôi đi một mình, không có sự áp giải nào.
Tôi trèo lên mấy ngọn đồi gần đấy đào rễ cỏ tranh, lấy cỏ thài lài, cây cúc áo. Trở về trại, đi ngang suối tôi xuống tắm một bữa thỏa thích. Cả ba thứ sao vàng sắc đặc lên cho cháu uống. Một tiếng đồng hồ sau, Ðiền chạy sang, bẽn lẽn :
- Chú ơi, cháu đái được rồi !
Sau vụ chữa cho cháu Ðiền tôi cũng nổi tiếng biết chữa bệnh.
Hán Còi không thích các dũng sĩ diệt Mỹ. Nó ghen. Thấy tôi hay qua với lũ trẻ từ miền Nam ra, nó tỏ ra không bằng lòng. Về sau. khi các dũng sĩ diệt Mỹ đã hòa nhập với đám lưu manh, được bọn đầu gấu kính nể sau vài lần đụng độ, chính Hán Còi lại chơi với chúng.
Ðứng bên ngoài những mối quan hệ này là một thằng bé đen đủi, cóc cáy, đi theo Hán Còi như một đệ tử tự nguyện. Khi nào Hán Còi lên chỗ tôi, nó không dám lên theo, mà lảng vảng bên ngoài.
- Cháu với nó là thế nào ? - tôi hỏi Hán Còi.
- Thằng vét đĩa í mà. Nó bị đánh quá, cháu bênh nó một lần, thế là nó theo cháu. Bây giờ cháu lại đánh nó.
- Chết, đánh nó làm gì ?
- Cháu đánh nó là cháu dạy nó. Yêu cho vọt, ghét cho chơi. Thằng này ngu lắm !
- Thì lựa lời mà dạy.
- Ở đây khác, cứ phải tiu(9) mới xong.
- Nó có gia đình không ?
- Không. Tội nghiệp, đã vét đĩa còn dạt vòm.
Ðùng một cái, thằng bé có người nhà lên thăm. Quả tắc không lớn, nhưng sự kiện lớn - đã năm năm có lẻ, nó bị coi là thằng sống vô gia cư chết vô địa táng, bị dày đạp, bị khinh rẻ, bây giờ nó là thằng có gia đình hẳn hoi, như mọi người.
Tôi được thằng bé mời ăn bánh chưng, bánh rán, bánh quy, nhặm xà và hút ken tẩy. Hai món sau không phải gia đình mang cho. Nó lấy bánh đem chác. Ðàng hoàng lắm. Trong bữa ăn ngoài Hán Còi còn có Châu Bún, Ba Xuyên, Quang Coóng. Châu Bún cũng là thiếu nhi miền Nam ra Bắc tập kết năm 1954, một thứ dũng sĩ diệt Tây, vào thời kỳ chưa có danh hiệu đó. Ba Xuyên và Quang Coóng là đàn anh lừng danh đất Cảng.
- Anh cháu lên thăm cháu. - thằng bé nói.
- Anh cháu làm gì ?
- Anh cháu nhà báo. - nó ngẩng nhìn mọi người, giọng tự hào.
- Thật đấy ! - Hán Còi nói.
Thằng bé đưa ra một tờ giấy bẩn thỉu. Tôi đỡ lấy, trải xuống chiếu. Ðó là một bài báo với một tên ký không quen. Bài báo chán ngắt, loại văn hàng loạt, nhưng đúng anh nó là nhà báo thật.
- Thế tại sao bằng ấy năm anh cháu không thăm cháu ?
Nó nhoẻn cười rất tươi :
- Anh cháu nỏ biết ! Cháu ở đây nhà cháu nỏ ai biết !
Nó kể cho tôi nghe tường tận chuyện nó đi tù thế nào.
Thằng bé từ một làng heo hút ở Nghệ An ra Hà Nội. Nó nghe nói thủ đô đẹp lắm, có Hồ Hoàn Kiếm, có Tháp Rùa, tàu điện chạy leng keng, ô tô đầy đường. người đi lại như nêm cối, sắp tới là lễ Quốc Khánh còn đẹp hơn, đêm đến đèn điện lung linh, phố xá sáng như ban ngày, đánh rơi cái kim cũng thấy. Bèn ăn cắp tiền của bố đi ra Vinh, mua vé leo lên tàu hỏa.
Hà Nội đẹp thật. Ðúng như thiên hạ đồn. Nhưng Quốc Khánh đông người quá, nó lạc lung tung, thành thử không được nhìn thấy Bác Hồ.
- Hoài ! - Hán Còi nói - Năm í tao cũng đi theo anh Thiện Bò với anh Lộc Tàu, cả chị Huyền Rô nữa thì phải. Tao được nhìn thấy Bác Hồ hẳn hoi. Mít-tinh đông, tụi tao đá mấy quả đẹp lắm, hôm í dầm láng(10). Anh Châu Bún ơi, hồi í có ở Hà Nội không ?
- Không ! Hồi ấy tao đi bè dài(11) với Bút Miền.
Thằng bé kể tiếp. Nó tiêu hết tiền. Ðói quá, liều vào một hàng bún riêu. Ăn một bát, vẫn thòm thèm, ăn hai. Ðứng dậy, vờ móc túi trả tiền, móc hết túi này đến túi khác, mếu máo nói mất sạch tiền rồi, xin bà hàng cho gán đôi dép. Gặp phải bà hàng đanh đá, bà ta chu chéo lên, nắm chặt lấy thằng bé, rêu rao nó ăn cắp. Người đi đường ùa lại. Công an thổi còi chạy tới, giải luôn về đồn.
Thằng bé sợ mất mật. Nó sợ nhất là bị trả lại gia đình. Bố nó sẽ đánh chết vì cái tội ăn cắp tiền của nhà. Nó khóc thút thít. Một đàn anh ngồi bên cạnh thương tình dạy nó cách khai. Nó bèn khai bịa tên Mỗ, quê quán Lông bông tỉnh, Lang bang huyện, Lung tung xã, Linh tinh thôn. Tra không ra nơi ở của thằng bé, công an kết luận nó là lưu manh chuyên nghiệp, không nơi cư trú nhất định, cho đi boọc.
Vốn không hề là lưu manh, thằng bé trở thành lính vét. Năm đầu nó còn ngồi khóc ti tỉ. Năm sau nó quen. Cuộc sống trong tù đối với nó cũng chịu được. So với cuộc sống ở nông thôn có khi còn khá hơn, nhất là mặt ăn uống. Chỉ khổ nỗi bị bọn đàn anh bắt nạt, bắt giặt quần áo hầu chúng, bắt tẩm quất cho chúng mỗi tối. Nhưng nó chẳng sá chi mấy chuyện vặt, ở đâu mà chẳng phải làm. Cuối năm thứ ba, xảy ra một vụ ẩu đả. Một tên đầu gấu hành nó quá, nó nổi khùng, đánh lại. Nó bị tên đầu gấu cho một trận nhừ tử. Hán Còi can, rồi bao bọc nó, cho làm đệ tử.
Hết một lệnh nó không được tha. Không ai tha một tên tù không biết quê quán ở đâu, đã thế còn cải tạo không tốt. Tha cho nó ra ngoài xã hội để ngựa quen đường cũ à ?
Cho đến một ngày kia, nó bắt gặp một mảnh báo có tên anh nó. Nó mang mảnh báo đi khoe. Bọn lưu manh cười ha hả : "Mày mà có anh là nhà báo !! Ðừng có bốc láo". Nó tức lắm, nhưng không biết làm thế nào. Nó khóc tức tưởi. Bọn lưu manh lại càng cười.
Ông quản giáo trông đội nó đã học hết trung học. Thấy nó khóc, ông hỏi chuyện, cầm bài báo đọc. Nhân dịp nghỉ phép ông tìm đến tòa soạn, gặp tác giả. Hóa ra đúng - chính là anh ruột thằng bé. Gia đình tưởng nó chết đường chết chợ đâu rồi, được tin nó còn sống, mừng quá, vồ lấy người báo tin, coi như ân nhân cứu tử. Người anh vội vã mang giấy chứng nhận cơ quan lên trại xin nhận em về. Mấy lần đi lại chưa được. Lần thì người ta đòi giấy xác nhận của địa phương, kèm theo hình chụp thằng bé khi nó còn ở nhà. Lần thì Cục chưa xác minh xong. Lần thì xác minh xong rồi nhưng chưa hết lệnh, chưa tới kỳ xét tha. Là người hiểu biết, anh nhà báo không bao giờ dám cãi lại chính quyền. Anh cảm ơn Ðảng và Nhà nước, yên tâm chờ đợi. Lần này anh lên thăm em với một quả tắc dầm.
Chiến tranh ngày một ác liệt. Trên bầu trời Tân Lập vốn yên tĩnh bắt đầu xuất hiện những máy bay tiêm kích Mỹ, phần lớn là loại Thunderchief và Phantom. Nhiều đêm chúng vọt qua rất thấp. Tôi và Tôn Thất Tần nằm yên ở tầng trên, tiếp tục ngủ. Quản giáo soi đèn pin thấy chúng tôi không chịu xuống đất như những người tù khác, càu nhàu :
- Quy định có máy bay phải xuống đất sao hai anh không xuống ?
Tôn Thất Tần lễ phép :
- Thưa ông cán bộ, máy bay chi mà bay nhanh rứa không biết, vừa nghe kẻng báo động chúng hắn đã tới rồi. Già cả như chúng tôi, vội vàng quá có khi lợi bất cập hại, lập cập leo trèo có khi ngã gãy tay gãy chân, lại phiền cán bộ phải thuốc men...
Ban Giám thị quyết định để tránh địch oanh tạc, hàng ngày tù phải dậy sớm, đi ra khỏi trại, làm lao động rồi nghỉ trưa tại chỗ, tối mịt mới được về. Thời gian này gần như cả trại đan tranh nứa, kể cả mấy toán số lẻ. Không hiểu người ta cần tranh làm gì mà nhiều thế ?
Một buổi trưa, tôi nằm trên đống tranh vừa đan, đang thiu thiu ngủ thì bị Tôn Thất Tần lay dậy :
- Anh Hiên ! Thằng Hán Còi chết rồi !
Tôi bật dậy :
- Sao ? Hán Còi sao ?
Mặt tái mét, ông thông báo :
- Thằng Hán Còi bị chém chết rồi !
- Ai chém nó ?
- Không biết. Nhưng đúng là Hán Còi ! Ông cán bộ vừa từ đàng nớ về nói rứa !
Từ đàng xa, trong rừng cây, những bóng áo vàng thấp thoáng. Mấy anh bộ đội gác cũng bỏ toán chạy đi xem đã trở về. Tôi nghe họ loáng thoáng :
- Thằng này chắc chết. Máu chảy một vũng, khiếp quá !
- Ðứt động mạch ở cổ là dứt khoát toi.
- Gọi là động mạch cảnh...
- Không biết. Toán ông Thạch. Thằng chém tên chi, há ?
- Nó ác thật ! Mà trông hiền như đất !
- Thằng mô trông hiền, nổi nóng lên là cục lắm !
Tôi muốn chạy ngay tới với Hán Còi. Nhưng làm sao đi được. Hán Còi ơi, chú thương cháu lắm, chú muốn biết cháu bị làm sao, may chăng có giúp được cháu chút gì, nhưng thân chú cũng là thân tù, biết làm thế nào.
Về sau tôi ân hận mãi đã không xin phép quản giáo chạy tới đó. Có khi anh ta cho phép cũng nên.
Câu chuyện xảy ra như sau :
Sau vụ vượt ngục với Thắng Hòa bị bắt trở lại, Nhân bị cùm một tháng. Ở kỷ luật ra, Nhân sống vật vờ trong đời lính vét. Thắng Hòa cũng trở nên nhũn nhặn, mặc dầu trước nó từng nổi danh đầu gấu. Trong cộng đồng tù kẻ vượt ngục không thành lập tức bị xuống giá.
Một hôm Nhân nhặt được một con gà chết. Các gia đình cán bộ đều nuôi gà tăng gia. Gặp trận dịch Tân Thành, gà chết la liệt, ăn không kịp. Những con gà rù đi lang thang, chết rụi ở mọi xó xỉnh. Con gà mà Nhân nhặt được là một con gà chết như thế. Nó đã hơi trương, nhưng với miệng người tù đói, con gà vẫn là con gà, dù nó có bốc mùi thum thủm. Nhân vặt lông, xé con gà ra ấn vào hăng-gô nổi lửa lên sột sệt.
Hán Còi đi qua :
- Người lính (12)! Sột sệt gì đấy ?
Nhân cười :
- Em nhặt được con qué.
- Nhặt gì ? Bắt của Ban hả ?
- Em không dám. Nó chết toi trong bụi nứa.
- Thối chưa ?
- Chưa, còn tốt.
- Thế à ?
Hán Còi bỏ đi, huýt sáo miệng.
Hán Còi chuyện trò với đám sĩ quan một lát rồi quay lại :
- Ðược chưa, người lính ?
- Sắp được rồi, anh Hán ạ.
Hán Còi mở nắp hăng-gô ra xem, giật cái que trong tay Nhân chọc thử :
- Ðược rồi đấy !
Nói rồi cầm lấy quai hăng-gô xách đi :
- Tụi tao đang có liên hoan, người lính sẽ được tính bốn suất cơm lấy sau, bở nhá !
Nhân bầm gan tím ruột, nhưng gượng cười :
- Hôm nay hai nhớ ?
- Hai có hai. Ðến thằng Bình thọt, bảo anh Hán đòi. Nó còn nợ tao hai chục suất.
Bình thọt là một con ma đói. Khi nào đói quá nó sẵn sàng chịu nợ một gấp đôi, gấp ba, miễn lấp được cái dạ dày trống rỗng. Cả tuần nay nó bị cúp cơm, đang nằm ép rệp, làm sao đòi được nó. Có thể giã cho nó một trận, nhưng cái đó phỏng có ích gì ?
Nhân mài con dao chẻ tranh cho tới khi nó sắc như nước. Hán Còi đang ngủ trưa. Nhân đến, xoạc chân trên ngực kẻ thù :
- Hán Còi !
Hán Còi choàng tỉnh.
- Nhìn tao trả thù này !
Nhân chém một nhát, như bổ củi. Ðó là nhát quyết định.
Hán Còi bật dậy, ôm lấy cổ :
- Ối Nhân ơi, sao mày ác thế ?
- Ác này !
Nhân gầm lên, bổ tiếp nhát thứ hai vào bàn tay ôm cổ của Hán Còi.
Người ta xô tới, giằng lấy dao. Bộ đội gác khóa tay Nhân. Nó ngồi ở gần đấy, mặt bất động, không nhìn đám đông vây quanh kẻ thù của nó đang hấp hối.
Hán Còi nằm trên vũng máu, da trắng bệch. Nó không nói được. Từ vết thương máu phun ra từng tia theo mạch đập. Y sĩ trại chạy tới, lấy khăn mặt bông áp vào chỗ bị chém, băng bó mấy ngón tay gần đứt lìa. Chẳng mấy chốc cái khăn mặt băng cổ Hán Còi đã ướt đẫm. Ban Giám thị điều ngay một xe com-măng-ca đưa nạn nhân đi cấp cứu. Bệnh viện huyện cách đó chừng mươi cây. Chưa tới nơi Hán Còi đã trút hơi cuối cùng.
- Trường hợp ni phải lấy miếng ni-lông mà bịt, lấy tay khum khum mà giữ. - Tôn Thất Tần giảng giải cho tôi về cái chết của Hán Còi - Máu phun ra sẽ đông lại, làm thành một màng bùng nhùng nhưng ở bên trong máu vẫn đưa được lên óc, vẫn nuôi được óc. Ðể cái khăn bông thấm máu là nhà quê. Máu con người có được là bao nhiêu, thấm hết vô đó còn lấy chi nuôi óc. úc chết là sự sống không còn.
Sau vụ hạ sát Hán Còi, Nhân bị xử hai mươi năm. Nó rời hàng lính vét để trở thành một sĩ quan.
Tôi nhìn thấy thằng bé em ông nhà báo. Nó đi lủi thủi trong sân trại, mặt mũi phờ phạc. Nó trở thành đưa bé mồ côi.
Từ trong xà lim kỷ luật Nhân nhắn ra :
- Ông đã cho tóe me một thằng, ông không ngán thằng nào hết !
Nó nói, y như Hán Còi đã nói.

(1) "Nghiệp", theo khái niệm Phật giáo.
(2) Kèn báo thức, la-vầy là tiếng Tây bồi từ réveille của tiếng Pháp.
(3) Nhà cách mạng thuộc thế hệ 30, sau cách mạng giữ một chức vụ nhỏ bé, không ai biết đến, rồi chìm trong quên lãng.
(4) Tiếng lóng : ăn trộm, ăn cắp.
(5) Tiếng lóng : già.
(6) Tiếng lóng : thuốc lá.
(7) Tiếng lóng : kính.
(8) Tù được Ban Giám thị chọn cho trông nom trật tự bên trong trại . Thường là những người có án, nhưng đứng đắn , hoặc có thân thuộc ở ngoài bằng con đường quen biết với người trong ngành quản lý trại giam lo lót xin cho làm . Cũng có nơi Ban Giám thị chọn trong đám đầu gấu (tù hung hãn) để trị bọn đầu gấu khác. Nói chung, trật tự trại là tay sai cho Ban Giám thị .
(9) Tiếng lóng : đánh, đấm.
(10) Nhiều tiền (tiếng lóng).
(11) Ðường dài, đi tàu hỏa (tiếng lóng).
(12) Cách bọn lưu manh gọi nhau.

:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 40

So với mấy cuộc chuyển trại trước, cuộc chuyển trại cuối năm 1973 đến với tôi hoàn toàn không bất ngờ.
Từ mấy hôm trước tôi trong trại đã có tiếng xì xào về một sự kiện không bình thường. Trên văn phòng Ban Giám thị người ta khuân ra khuân vào những chồng hồ sơ cao ngất. Việc rõ ràng bí mật, cho nên công an tự làm lấy. Mấy cái máy chữ gõ rào rào không nghỉ.
Những người tù là những người mơ mộng cực kỳ. Có khi chuyến này đại xá, họ thì thào, mặt tươi nở. Tại sao lại không thể có đại xá trong khi những chiến thắng giòn giã cứ theo nhau mà phơi phới mà tưng bừng trên mặt báo ? Hội nghị bốn bên ở Paris (1973) đã buộc người Mỹ phải ngừng ném bom miền Bắc, phải rút quân Mỹ về từ mấy tháng trước. Ðã lâu, năm nào Nhà nước cũng có đặc xá, thì nay có đại xá cũng không phải là điều không thể xảy ra. Ðã đến lúc rồi.
Nhưng chiều hôm trước cuộc chuyển trại tất cả tù nhân, số chẵn cũng như số lẻ, mới ngã ngửa người ra rằng than ôi, chẳng có đại xá đại xiếc gì hết, mà chỉ có một cuộc đại tan đàn xẻ nghé đến với họ mà thôi. Tin tức lọt ra từ những cán bộ có quan hệ thân tình với mấy anh tù tự giác. Cả trại nháo lên. Người ta chạy ầm ầm từ nhà này qua nhà khác, chia cho nhau thứ nọ thứ kia kẻo đến lúc hấp tấp kẻ ở người đi lại không kịp.
Những người tù không bao giờ thích chuyển trại, cho dù cái trại họ đang ở là tồi tệ. Cái tồi tệ đã biết rồi bao giờ cũng dễ chịu đựng hơn cái tồi tệ chưa biết. Sau, những người đã kịp thân thiết với nhau trong cảnh tù đầy, đã hợp thành một gia đình để nương tựa vào nhau, an ủi nhau, nay lo lắng lắm trước cảnh mỗi người một nẻo. Họ ngồi ăn với nhau đấy, cười nói như thường đấy, nhưng nước mắt đang chảy vào trong. Ngày mai chưa biết rồi ai ở ai đi. Ðêm hôm ấy hầu hết tù không ngủ. Nhìn qua song sắt thấy ánh lửa bập bùng ở các cửa sổ nhà giam gần bên thì biết tù đang sột sệt - nấu cháo sắn hoặc đun nước pha trà, bất kể kỷ luật trại. Từ một ngôi nhà nào đó bên số chẵn suốt đêm vẳng ra tiếng ghi-ta chơi mãi một câu trong bản Nhạc Rừng "tình tinh tinh, tinh tình tinh tinh, tinh...tình !".
Ðêm đó cả trại thức trắng.
Ðến sáng bạch mới thấy cán bộ xủng xoảng chìa khóa đi vào trại. Tù đã mừng. Thường người ta chuyển tù đi vào ban đêm. Khéo mà tin đồn kia là nhảm cũng nên. Nhưng cán bộ chỉ mở một số nhà giam tù số lẻ. Người ta gọi tên. ền ào. Nhốn nháo. Ði thật rồi. Nhưng tù số lẻ không đi hết. Những người ra đi hối hả sắp xếp đồ đoàn.
Tôi ném cái túi đồ lên xe tải, leo lên theo. Que sera sera, tôi nghĩ ! Tôn Thất Tần leo lên theo, ngồi bên tôi, mặt bất động. Không biết đây là lần thứ bao nhiêu trong đời ông, hay đời tù thì cũng thế, ông đã lắc lư trên xe như thế này ?
Tôi bắt đầu già. Khi anh không muốn có sự biến đổi nào nữa, khi anh chỉ muốn sống với những thói quen là anh bắt đầu già đấy. Bao giờ mình mới ra khỏi đây ? Bao giờ cũng được, nhưng cúi đầu thì không. Mình có sống được hai lần đâu. Thế giới rồi sẽ thay đổi chứ. Nó không thể không thay đổi khi trên mình nó còn những quốc gia kiểu thế này.
Trước ngày chuyển trại mấy hôm, Nhân tới gặp tôi. Nó chỉ bị cùm một tháng rồi được ra. Tòa xử vụ giết Hán còi được thiết lập trong trại. Nhân bị xử hai mươi năm.
- Hán Còi là cháu chú thật à ? - Nhân nói, ngồi xuống bên tôi.
- Thì sao ?
Nó buồn rầu :
- Cháu xin lỗi chú. Cháu không định thế.
Tôi nhìn bộ mặt non choẹt, mới lún phún những sợi ria như những lông tơ của tên giết người :
- Chú hiểu.
- Cháu đâu có định làm thế. Nhưng nó làm cháu tức quá !
Thế đấy, một nỗi tức giận, một mạng người.
Trước đấy vài tháng tôi được gặp gia đình. Chính sách đối xử với tôi bây giờ rộng rãi hơn, tôi được ở với vợ một ngày đêm. Cùng ở trong nhà khách của trại có một người đàn bà đi tiếp tế gày tong teo, âm thầm như một cái bóng. Vợ tôi làm cơm, mời bà ta ăn cùng.
Thì ra đấy là mẹ của Nhân. Bà kể mọi sự khốn khó trong gia đình bà đều do ông chồng gây ra hết. Ông là đảng viên, làm giám đốc một xí nghiệp đồ điện. Họp suốt, chẳng quan tâm gì con cái. Bố mẹ không giáo dục chúng nó thì hè phố giáo dục. Nhân trở nên hư hỏng. Bị công an bắt mấy lần, bà lạy lục xin tha, nó được ra. Nhưng chứng nào tật ấy, không chừa. Rồi đến một ngày ông bố không chịu nổi nữa, ông điệu nó lên đồn : "Nhờ Ðảng và Chính phủ, nhờ các đồng chí giáo dục". Bà khóc lóc, ông không chuyển lòng. Ông chịu đựng được tiếng khóc của bà một tháng. Lại lên đồn :"Xin cảm ơn các đồng chí, chắc một tháng qua cháu nó đã biết sợ, xin các đồng chí cho cháu về, kẻo mẹ cháu khóc quá". Công an bảo :"Ơ hay, về là thế nào ? Ðâu có thế được ! Ðồng chí xin chính quyền giáo dục cháu, chúng tôi cho cháu đi trại". "Thì các đồng chí thông cảm cho, cấp cho tôi cái giấy, tôi lên trại đưa cháu về". "Ðưa về là làm sao ? Cháu đã được thành phố cho một lệnh tập trung cải tạo rồi. Hết ba năm nó mới về được".
Hết lệnh, thằng bé được một lệnh tiếp. Người ta bảo : nó cải tạo chưa tốt. Sau đấy nó trốn trại, rồi trở thành tên giết người.
Cùng đi chuyến này với tôi còn có những người bạn mới từ Vĩnh Quang vừa chuyển lên Tân Lập. Phần lớn, đó là những sĩ quan trong quân đội Pháp và quân đội Bảo Ðại. Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ (8.1964) hầu hết những ai đã ở trong quân ngũ phía bên kia trong chiến tranh Việt-Pháp đều bị gom vào các trại tập trung(1). Người ta sợ Mỹ tấn công ra miền Bắc thì những người này sẽ theo Mỹ.
Cựu đại úy quân đội viễn chinh Pháp Kiều Duy Vĩnh là người đối với tôi thân tình hơn cả. Anh không nhìn tôi như người của cái chính quyền đưa anh đi tù. Hình như cái sự tù không gây ra cho anh nhiều phiền nhiễu lắm. Anh ta ít có vẻ tù nhất trong những người tù, "Jean Valjean gọi bằng cụ" nhận xét. Kiều Duy Vĩnh thản nhiên đối với số phận, như thể anh chỉ đến thăm thú trại tù ít lâu rồi đi, chứ không có ý định ở lại.
Vĩnh tâm sự :" Các anh ở ngoài kháng chiến không hiểu tâm trạng tụi tôi, chứ trong lòng địch chúng tôi đâu có thích cầm súng cho Pháp. Trong đám chúng tôi hiện ở đây ít người theo Pháp thực lòng lắm. Người thì bị bắt lính, người thì thất nghiệp phải đăng lính để kiếm cơm, chứ đều hướng về kháng chiến đấy. Phàm người Việt Nam, ai không muốn độc lập, tự do ? Thế rồi kháng chiến thành công, chúng tôi ở lại. Chúng tôi vui lắm chứ ! Chúng tôi tin các anh không trả thù, các anh hứa thế mà. Qua cuộc bắt bớ này mới thấy - các anh là những con người quay quắt, tiền hậu bất nhất". Kiều Duy Vĩnh kể trong trận càn Mandarine ở Thái Bình, lính của anh bắt được một cán bộ Việt Minh, anh đã giả lệnh trên đưa về khai thác rồi bỏ lên xe chở đi. Giữa đường, anh dừng xe, mở khóa cho anh cán bộ :"Tới lũy tre kia là vùng các anh rồi, chạy đi !" Anh ta chạy, vừa chạy vừa ngoái lại, sợ bị bắn sau lưng. Vĩnh nói thêm :"Nếu anh ta đừng quá sợ, nếu anh ta can đảm một chút, dừng lại thêm vài giây bảo tôi đi theo có dễ hôm đó tôi đã theo các anh rồi !"
- Ðáng tiếc ! - tôi nói.
Vĩnh nhún vai :
- Không biết có đáng tiếc hay không, nhưng trong chín năm chống Pháp các anh luôn luôn là hình mẫu lý tưởng của chúng tôi, chúng tôi nhìn các anh trong ánh hào quang rực rỡ của những nhà ái quốc.
Cựu trung úy Lê Trình, tức Trình Hàng Vải, kể cho tôi nghe một lần anh thấy tên lính lấy báng súng đánh tù binh, anh đã nện cho nó một trận trước mặt đồng ngũ rồi bắt nó đi khuân những thùng casse-croute về cho tù binh ăn. Một trong những tù binh gặp anh sau hòa bình đã mời anh đi ăn một bữa tái ngộ rất vui vẻ. "Tách từng người ra, các anh dễ thương lắm. Nhưng gộp lại, các anh có nhiều chất quái vật".
Kể cho tôi những chuyện đó chẳng phải các anh muốn kể công với tôi. Tôi có là cái gì để mà họ kể công. Tôi cũng tù như họ. Cũng chẳng phải họ nói tốt để tôi báo cáo với Ban Giám thị - họ thừa biết tôi không phải chỉ điểm. Ðáng lẽ họ còn phải trút lên đầu tôi nỗi căm giận chất chứa trong lòng nữa kia. Gì thì gì, tôi đã là một cán bộ cộng sản. Tôi cho rằng họ kể những chuyện đó cho tôi nghe vì trong những ngày ấy lòng họ vẫn còn một chút gì ấm áp dành cho những người cộng sản thật tâm vì đồng bào, vì đất nước. Tôi hiểu thế nên không cãi, không trần tình. Tôi cười.
Chúng tôi trở thành bạn của nhau, những người đã từng ở hai bên chiến tuyến. Những viên đạn của chúng tôi đã bay vèo vèo sang nhau, nhưng may mắn, hay không may mắn, đã không trúng.
Cùng nhóm với các anh còn có anh Văn Thợ Mộc, tôi không nhớ họ anh, cũng chẳng nhớ anh cấp bậc gì, cũng trung úy đại úy chi đó, không hơn. Anh cực kỳ hiền lành, tính lại hay giúp đỡ người, được cả trại mến, từ người tù cho tới viên quản giáo coi đội. Anh ngồi lắc lư trên xe, trong một góc khuất, chẳng buồn ngó nghiêng ra ngoài. Cuộc chuyển trại này làm anh khổ tâm lắm - anh phải xa thằng con nuôi. Ðó là một thằng bé có gương mặt thông minh, và cũng hiền lắm, chẳng hiểu sao lại rơi vào đám số chẵn. Trong đám lưu manh, nó không ở trong hàng sĩ quan, cũng không phải lính vét, một thằng bé rất trì, nghĩa là lì lợm, cứng đầu, không chịu một ai. Bọn sĩ quan vẫn phải kiềng nó ra. Bạn tù nói nó là con người tình năm xưa của anh. Anh chăm sóc nó bằng tấm lòng của người cha, nhường nhịn mọi thứ hiếm hoi trong tù cho nó. Bù lại, thằng bé cứng đầu mềm nhũn ra bên cạnh cha nuôi, như một con mèo con.
Phổ Gián Ðiệp lầm lì ngồi bên Văn Thợ Mộc. Anh sống trong tù như một ốc đảo, không dính dáng với ai, không chơi với ai. Có người nói anh trước hoạt động trong nội thành, sau mất liên lạc với cấp chỉ huy. Một hôm thợ sửa mái phát hiện trên trần có một máy phát tin, thế là anh bị bắt, bị buộc tội làm gián điệp. Những người hoạt động cùng với anh đã đi Nam, xác minh không được vì trước anh chỉ liên lạc với họ bằng mật danh, mật hiệu bây giờ không dùng nữa...
Khi qua thị xã Yên Bái, xe dừng, tôi được thiếu úy Nhẩm rủ xuống đi xem phố. Trong chuyến đi này những người tù số lẻ không bị khóa tay. Trên xe chỉ có hai công an đeo tiểu liên canh chừng với tinh thần cảnh giác không sắc bén. Những người tù bị bắt vì cẩn thận không bao giờ trốn. Họ đã đứng tuổi, hoặc đã già, không thích hợp với sự phiêu lưu.
Tôi đi lang thang dọc phố ngắm cảnh. Không giống như khi vừa từ xà lim ra, tôi không còn háo hức muốn nhìn ngó. Thị xã là một dãy nhà thấp tè, ám khói nằm ven đường ô tô. Một cửa hàng ăn mậu dịch đông đúc bán cơm phiếu, phở không người lái. Một cửa hàng bách hóa lèo tèo. Còn lại là những ngôi nhà xiêu vẹo, tạm bợ. Từ những mái tranh xập xệ mùi mốc thếch của cái nghèo phả ra đường. Lác đác mấy cái máy khâu im lìm chõ ra mặt phố, mấy ông thợ cạo ngẩn ngơ bên những cái ghế không khách. Những tấm biển gày còm : ê Ðây Lộn Cổ Lộn Gối, Vá Chữa Quần ỏo Lấy Ngay, Cắt Tóc, CắTóc.. Cứ như thể người ở đây ra đời chỉ để cắt tóc, đem sơ mi đi lộn cổ, đem quần đi lộn gối, vá mông rồi chết.
- Nước mình nghèo quá, phải không anh ? - Nhẩm đi bên tôi, nói. - Khác Liên Xô quá, phải không ?
Tôi cười thay lời đáp.
Nhẩm rủ tôi vào quán. Tất nhiên, anh ta muốn chiêu đãi tôi. Nhưng tôi từ chối. Cái việc tôi được đặc cách xuống xe đi lông nhông cũng đã làm các bạn tù ngứa mắt rồi.
Trại Phong Quang nằm trong một lòng chảo sát biên giới Việt-Trung, cách đường Hữu Nghị là con đường do nước bạn Cuba mới xây dựng giúp khoảng hơn chục cây số. Ðó là theo những gì người ta kể, một hình dung địa lý mờ mịt được chắp vá bởi những câu nói không rõ ràng của những người đi tiếp tế và dân địa phương, chứ tù thường bị chuyển tới nơi ở mới vào ban đêm không bao giờ biết chính xác nơi mình đến là đâu.
Khi tôi vừa tới, những câu chuyện về khí hậu độc địa của vùng này làm tôi phát ớn. Trước hết là sự vắng bóng chim sẻ, được những người tù có học giải thích bằng bản năng trời cho của loài vật - chúng mẫn cảm với tai họa nên tránh xa những vùng nguy hiểm. Thật vậy, chim sẻ có mặt khắp nơi, nhưng ở Phong Quang tịnh không thấy chúng. Các giống chim khác cũng không. Chỉ đêm đến mới nghe văng vẳng tiếng từ quy khắc khoải gọi nhau. Nước Phong Quang có độc hay không, độc đến mức nào, không ai biết, nhưng tù ở các đội nông nghiệp nói rằng ở đây có những khu ruộng sình mà lội xuống bước lên đã thấy lông chân tuột hết không còn cái nào.
Trong các trại tôi đã qua, Phong Quang bị liệt vào loại trại khắc nghiệt. Không người tù nào muốn bị chuyển tới trại này. Những người tù lâu năm an ủi những người tù ít năm rằng dù sao Phong Quang cũng chưa phải trại dữ nhất. Dữ nhất, theo họ, vẫn là Cổng Trời mà tôi đã nói tới ở trên.
Xe tù vừa tới Phong Quang tôi đã thấy ngay trại này khác hẳn trại Tân Lập. Cán bộ công an ở đây sát khí đằng đằng, đi lại hùng hổ, luôn miệng quát tháo. Ðập vào mắt tôi là cảnh mấy người tù bị khóa cánh tiên, lồng ngực căng ra hết mức, mặt đỏ bừng, lử lả ngoài cổng trại. Sau mới biết người bị khóa cánh tiên bao giờ cũng bị khóa ở đấy, nơi mọi người tù đều thấy rõ, một kiểu triển lãm ngoài trời. Thảo nào, khi chia tay với tôi, Nhẩm tần ngần :"Thôi, tôi về nhá, anh Hiên nhá ! Anh ở đây cố gắng mà chịu đựng. Tôi đã bàn giao với cán bộ ở đây cẩn thận về trường hợp của anh rồi. Nhưng dù sao thì đây cũng không phải Tân Lập. Mong anh chóng được ra. Cơn bĩ cực nào rồi mà chẳng có lúc hết".
Cơn bĩ cực của tôi xem ra còn dài.
Trời bù cho tôi. Trại Phong Quang thú vị bởi những nhân vật đặc sắc. Tôi gặp ở đây một bộ sưu tập tù độc đáo. Không kể tín đồ các đạo và các bậc chức sắc của họ, các thứ đảng phái tôi chưa một lần nghe tên, tôi còn gặp một người Âu, mấy anh Lào, mấy anh Miên, cả những anh hùng lao động nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Lại có cả hai anh xét lại chẳng dính dáng gì tới vụ chúng tôi. Tôi nhớ tới Paustovsky :"Nhà văn cứ thản nhiên mà sống. Chẳng có gì của cuộc đời đi qua mà không để lại dấu vết, không trở thành tài liệu văn học". Ông đúng. Những bức chân dung không cố ý giữ lại trong trí nhớ mà cứ còn mãi, như thể chúng được khắc sâu bằng dao, xù xì, góc cạnh, không thể tẩy xóa.
Nghe nói có tù xét lại ở đây tôi vội vã bổ đi làm quen.
Thì ra có thật. Một người là sinh viên du học ở Hungari, yêu một cô gái Budapest, bị sứ quán quyết định đuổi về nước. Anh ta trốn ở lại với người yêu thì bị Công an Hungari bắt trao trả theo yêu cầu của sứ quán(2). Bị áp giải về Việt Nam, anh này ở Hỏa Lò một thời gian rồi lên Phong Quang. Anh thứ hai là một thanh niên đã học ở Nga, về ngôn ngữ hay văn học gì đó tôi không nhớ. Hỏi làm sao anh bị bắt thì anh ấp úng, nói có lẽ do anh có qua lại với mấy người Nga dạy học ở Hà Nội. Cả hai đều bị gọi là xét lại, ít nhất thì cũng là cách gọi của công an. Không rõ trong hồ sơ tập trung cải tạo của hai anh người ta ghi tội danh gì, nhưng rõ ràng họ không thuộc vụ chúng tôi.
Thế là vẫn như trước, ở đây tôi chỉ có một mình.
Trong những người tù Phong Quang mà tôi quen đầu tiên, tôi đặc biệt nhớ một thanh niên Trung Quốc bởi ý chí kiên cường của anh ta. Theo anh ta tự giới thiệu thì ở Trung Quốc anh ta trước kia là sinh viên một trường đại học Vũ Hán. Mấy ông già biết phiên âm Hán Việt gọi anh ta là Lý Phương, phiên âm từ tên Trung Quốc Li Fen hay Li Feng, không biết có đúng hay không. Những người Trung Quốc mới sang trong đợt chạy cách mạng văn hóa vô sản đều không có tên gọi theo âm Hán Việt. Không hiểu nghe ai nói tôi là nhà báo nhà văn, Lý Phương tự tìm tới tôi :
- Tôi có việc muốn nhờ anh. - Lý Phương nói bằng tiếng Việt, rất rõ ràng, quá chuẩn, do đó không được Việt lắm.
- Có chuyện gì vậy ?
- Tôi muốn anh giúp tôi trong việc tìm cách la-tinh hóa tiếng Trung Quốc.
Tôi ngần ngừ :
- Tôi không biết tiếng Trung Quốc, không biết những đặc điểm của cách phát âm Trung Quốc, làm sao giúp anh được ?
- Anh giúp được. Tôi chỉ hỏi anh khi cần thôi. Tự tôi nghiên cứu là chính. Anh người Hà Nội, phát âm tiếng Việt chuẩn, lại có hiểu biết về ngôn ngữ, thế là tốt cho tôi lắm rồi. Anh biết không, tôi thấy tiếng Việt được la-tinh hóa rất hay. Cần phải bắt chước cách la-tinh hóa tiếng Việt để ký âm tiếng Trung Quốc, la-tinh hóa nó ...
Không một lời nào nói tới cuộc sống tù tội, không một câu hỏi thăm về án hình, vốn là đề tài muôn thuở trong những cuộc làm quen ở chốn này.
Trung Quốc không bao giờ hết những con người vĩ đại.
Cho đến lúc rời Phong Quang tôi vẫn không biết chính xác lý do Lý Phương rơi vào nhà tù Việt Nam. Có người nói anh ta ở trong một tổ chức chống Mao. Trong cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản, Lý Phương bị bắt, vượt ngục chạy sang Việt Nam. Trong trường hợp một người ở nước mình nhân thân bị đe dọa vì nguyên nhân chính trị đến xin tá túc một nước khác, gọi là xin cư trú chính trị, thì nước nọ thường cho phép anh ta cư trú, thậm chí còn giúp đỡ điều kiện sinh sống. Trừ Việt Nam.
Lý Phương không bị bắt trả về Trung Quốc là may. Nhưng có thật anh ta chống Mao không thì tôi không biết. Chỉ biết trong trại Phong Quang Lý Phương kết nghĩa anh em với một người tù, cũng rất đặc biệt, là Lý Cà Sa.
Về Lý Cà Sa tôi đã được nghe từ Tân Lập. Người tù này đã qua nhiều trại, do đó anh em tù biết nhiều. Anh ta hình như mang tội danh thổ phỉ thì phải. Tôi nói hình như vì chính tai tôi chưa nghe Lý Cà Sa nói về tội trạng mình lần nào, cũng không nghe cán bộ trại giam nói, hoặc nghe người ta đọc tội danh trong khi kiểm kê tù hàng năm. Anh ta, theo tôi, có vẻ giống tù số lẻ hơn tù số chẵn. Ðó là một người Trung Quốc hoàn toàn, nhưng không phải một người Trung Quốc hiện đại, mà từ thời hòa thượng Lỗ Trí Thâm, ít nhất thì cũng từ thời đề mục Lâm Xung, lạc vào đây. Cao, to, nhưng cân đối, gương mặt sáng sủa, với đường nét ngay thẳng, trông thoáng cũng thấy là người trung thực, Lý Cà Sa nổi tiếng là người có sức khoẻ kỳ lạ. Tám người tù lẻo khuẻo ì ạch kéo một cái xe bò lên dốc không nổi, Lý Cà Sa chạy lại giúp, lôi nó đi băng băng bằng một tay. Hơn một chục tù tát từ sáng tới trưa không cạn một cái giếng, Lý Cà Sa xua họ đi, một mình một gầu thau xong giếng trước khi trời tối. Vì sức khỏe, và vì cả nết chăm làm của anh, Ban giám thị các trại đều trọng nể anh. Họ cho anh một đặc ân không người tù nào có được là suất ăn hàng ngày gấp đôi tù thường. Có điều, với sức khoẻ của Lý Cà Sa, suất ăn như thế chẳng đi đến đâu, theo tôi nghĩ.
Lý Cà Sa rất thương Lý Phương. Kiếm được cái gì anh cũng nhường cho Lý Phương. Lý Phương nhận sự nhường nhịn của đàn anh như lẽ đương nhiên, suốt ngày chỉ chăm chú vào việc cải tiến chữ Trung Quốc. Trông cách làm việc của Lý Phương thì có thể nghĩ rằng anh thanh niên này không phải bị tù, mà anh ta sang Việt Nam để có điều kiện nghiên cứu cho việc hoàn tất một công trình ngôn ngữ học rất quan trọng.
Không biết rồi công trình của nhà ái quốc Lý Phương có giúp ích gì cho ngôn ngữ Trung Hoa hay không, nhưng anh ta đã làm việc, như chúng ta thường nói, quên mình.
Về sau tôi có điều kiện giúp Lý Phương được nhiều hơn nữa nhờ ông Lê Hữu Qua, cục trưởng Cục quản lý trại giam. Sau đợt lên thanh tra trại của ông cục trưởng, trung úy Bưởi, cán bộ phụ trách giáo dục, người Hà Tĩnh, một thanh niên trẻ và đẹp trai, gọi tôi lên :
- Ban giám thị có ý để anh làm văn hóa trại, ý anh thế nào ?
- Tôi muốn biết công việc gồm có những gì ?
- Cũng chẳng có chi mô. Rất đơn giản. Ðại khái là thông báo cho phạm biết những quyết định của Ban(3), kiểm tra vệ sinh, nếp sống văn hóa mới, thỉnh thoảng phát tin trong báo Ðảng cho phạm nghe, trong trại có hiện tượng gì thì báo cáo cho Ban biết ...
- Tôi nhận công việc này, trừ hai việc.
- Việc chi ?
- Tôi không báo cáo về những việc xảy ra trong trại. Tôi không làm công việc chỉ điểm.
Bưởi cau mặt lại.
- Nhưng nếu trong trại có một âm mưu giết nhau, chẳng lẽ anh cũng không báo cáo để chúng ta cùng nhau ngăn chặn ?
- Những chuyện như thế tôi sẽ báo cáo.
- Còn việc thứ hai ?
- Tôi sẽ không khóa cánh tiên các trại viên khi cán bộ hạ lệnh.
Bưởi ngần ngừ :
- Anh cho đó là nhục hình ?
- Hơn thế, nó còn hạ thấp nhân phẩm của người bị khóa lẫn người hạ lệnh khóa.
- Anh sẽ không phải làm việc đó. - Bưởi nói - Công việc của anh trực thuộc Ban giáo dục trại. Có chi anh cứ trực tiếp gặp tôi để giải quyết.
Anh ta đã giữ đúng lời hứa. Tôi được tự do trong công việc của mình. Tôi xin phép tổ chức một trường bổ túc văn hóa trong trại, bố trí giáo viên, khuyến khích trại viên đi học. Kỳ thi tốt nghiệp cấp hai được tổ chức ngay trong trại, do các giám thị ở ngoài đưa vào coi, rất có kỷ luật, sĩ số đủ điểm tốt nghiệp thuộc loại cao nhất tỉnh Hoàng Liên Sơn. Trại Phong Quang được coi là lá cờ đầu về bổ túc văn hóa trong khu vực các trại giam. Bưởi ngày một gần tôi hơn.
Tôi phải mà cả rõ ràng vì tôi không muốn các bạn tù hiểu nhầm tôi làm tay sai cho công an. ê trại Phong Quang có một anh cán bộ Bộ Ngoại giao, cũng bị bắt về tội liên lạc với người nước ngoài, trong đó có cả tội giao thiệp với sứ quán Liên Xô, cũng là một dạng xét lại, mặc dầu anh không được hân hạnh nằm trong sự quản lý của Ban Tổ chức Trung ương và Bộ Nội vụ. Anh ở trại này trước tôi, được Ban giám thị trại cho làm trật tự. Nếu như họ cho tôi làm cái chân này, chắc chắn tôi chối từ. Nhưng anh bạn đã nhận, vì anh em yêu cầu, như anh kể. Trong số lẻ có người làm trật tự thì vẫn hơn trật tự toàn số chẵn. Nhưng làm trật tự có nghĩa là làm tay sai trực tiếp của đủ mọi loại cán bộ, kể từ Ban giám thị trở xuống. Họ bắt lấy roi quất anh em thì phải quất, bắt khóa cánh tiên anh em thì phải khóa. Theo sự thỏa thuận giữa tôi và trung úy Bưởi, các quản giáo sai tôi khóa cánh tiên tù, tôi từ chối thẳng. Họ giận dữ, kiện lên Ban giám thị, nhưng không thấy ai khiển trách tôi cả. Tôi sẵn sàng trở lại đội thợ xẻ chứ kiên quyết không làm chuyện bất nhân đó. Vả lại, tôi hiểu rằng nếu có lệnh của cục trưởng Ban giám thị trại mới cho tôi làm văn hóa trại, không cho tôi làm nữa cũng phải có ý kiến của cục trưởng(4).
Trung úy Bưởi là người nhân hậu. Tôi chưa thấy anh hạ lệnh khóa tay một người tù nào. Anh băn khoăn rất nhiều khi phải cho một phạm nhân đi cùm. Còn nhớ một hôm có anh chàng số chẵn tên Lộc, biệt hiệu Lộc Ca-lô-ba, đến giờ đi lao động cứ nằm ì, nhất định không chịu đi. Bưởi hỏi tại sao không chịu đi, Lộc Ca-lô-ba chỉ khóc, rồi nói "việc của tôi ông không giải quyết được, chỉ có chú Hiên mới giải quyết được thôi". Bưởi gọi tôi. Thì ra anh chàng này, ở ngoài là một võ sĩ quyền Anh hạng ruồi, vào tù đói quá, thế là vay nợ lung tung. Lệ trong tù vay một trả hai, vay một cái bánh mì hôm nay, mai phải trả bằng hai suất cơm, không trả được thì hôm sau nợ nhân lên gấp đôi. Lộc Ca-lô-ba vay bừa, trả thì bữa đực bữa cái, nợ cứ thế tăng lên, cho tới hôm đó đã là một trăm bốn mươi suất. Lộc đói lả do bị chủ nợ cúp cơm liên tục. Y xin tôi giúp đỡ.
- Anh mần răng giúp hắn ? - Bưởi hỏi.
- Tôi đang nghĩ. Nhưng phải giúp. Cứ đà này hắn sẽ chết đói.
- Ðể tôi cho lũ chủ nợ đi cùm. Chúng nó làm loạn quá !
- Không được đâu. Ðây là quy ước hai bên thỏa thuận. Không ai bắt buộc Lộc Ca-lô-ba phải vay nợ. Anh làm thế, người ta cho là bất công.
- Rứa thì chịu à ?
Tôi gọi các chủ nợ đến :
- Hôm nọ chúng mày có thấy mẹ thằng Lộc Ca-lô-ba không ?
- Có. Quả tắc của nó còm lắm.
- Chúng mày siết cả rồi, phải không ?
- Nó nợ chúng em nhiều lắm.
- Tao có gặp bà ta. Mới biết nó là con một. Bà lão già rồi, chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ nó ra.
Các chủ nợ đoán được tôi định dẫn câu chuyện tới đâu.
Tôi nói tiếp :
- Mấy hôm nay thằng Lộc Ca-lô-ba xem ra yếu lắm rồi. Cứ bị cúp cơm thế này nó sẽ chết.
- Chúng em không bắt nó vay. Nợ thì phải trả.
- Ðành là thế. Nhưng nếu nó chết, mẹ nó sẽ không còn nơi nương tựa trong tuổi già. Vậy thì thế này. Anh, chúng mày biết đấy, vẫn tập yoga. Mà người tập yoga ngày ăn một bữa là chuyện thường. Anh thương bà lão, chứ không thương thằng Lộc, anh đề nghị chúng mày cho anh trả thay cho nó, với điều kiện là số nợ đến đây là dừng, không tính thêm nữa.
- Không được. - các chủ nợ phản đối - Chúng em mà lại cúp cơm anh sao được !
- Cứ bữa chiều chúng mày lên lấy. Anh chịu được mà.
- Không.
- Vậy thì cho anh xin chúng mày số nợ ấy. Vì mẹ thằng Lộc. Nhưng thằng này thì phải trừng trị cho sáng mắt ra, để từ sau nó chừa, không dám thế nữa... Chúng mày cho anh chứ ?
- Vâng. Nhưng anh phải để chúng em cho nó một trận.
- Thì anh vừa nói rồi, thằng ấy không tha được. Nhưng nó yếu quá rồi, chúng mày được phép đánh nó, nhưng anh sẽ giám sát, chỉ được đánh nó bằng bàn tay xòe, thằng nào nắm tay đừng trách...
Sáng hôm sau Lộc Ca-lô-ba bị một trận tơi bời. Những bàn tay xòe không làm cho võ sĩ hạng ruồi bị đo ván. Nhưng mặt y sưng lên như cái bị.
Bưởi quan sát cách giải quyết của tôi, cười tủm tỉm :
- Hay thật đấy ! Tôi được một bài học : phải tôn trọng những quy ước, dù chúng là thế nào.
Bưởi cũng nương nhẹ đối với những người cộng sản Trung Quốc thuộc "vụ Quảng Ninh".
- Họ vẫn giữ tư cách đàng hoàng lắm - Bưởi nhận xét - Ðáng phục.
- Căn cứ tuổi họ thì đây là những người đã tham gia giải phóng Trung Quốc. - tôi nói - Vào thời gian đó chỉ những người có tư cách mới lãnh đạo được quần chúng.
Những người cộng sản này đến Việt Nam bằng con đường khá vòng vèo. Khoảng đầu thập niên 60, tôi không còn nhớ rõ năm nào, vùng Hoa Nam bị lâm vào nạn đói khủng khiếp. Dân đói ùn ùn kéo đi Hồng Kông, nghe nói cả triệu người. Dưới chế độ kiểm soát ngặt nghèo của chính quyền Trung Hoa lục địa, một cuộc di dân ồ ạt như thế không thể xảy ra được nếu không có lãnh đạo. Chính những người cộng sản địa phương đã tổ chức cuộc chạy trốn. Chính quyền Hồng Kông giam dân di tản lại rồi báo cho Bắc Kinh biết. Bắc Kinh tuyên bố :"Không hề có chuyện các công dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bỏ chạy tới Hồng Kông". Ðảo quốc Ðài Loan giang tay đón những đứa con đói khát của tổ quốc, nhưng không phải chỉ vì tình thương, mà còn vì những mục đích chính trị - họ nghĩ tới những đội biệt kích sẽ phái về "giải phóng tổ quốc". Những người cộng sản được lọc ra, được huấn luyện, rồi được bỏ lên những con thuyền buồm, nhằm hướng Hoa lục. Không hiểu la bàn hỏng, thuyền trưởng tồi, hay vì trục trặc nào khác, nhưng họ lại cập bến Quảng Ninh sau một cơn bão, tưởng mình đã ở trên đất đai của tổ tiên.
Tôi hỏi một cựu bí thư huyện ủy (huyện của Trung Quốc to bằng tỉnh của ta) :
- Anh thất vọng về chủ nghĩa cộng sản, và chống lại nó ?
- Ðâu có. Tôi vẫn thích chủ nghĩa cộng sản. Tôi vẫn tin chỉ có nó mới mang lại cho chúng tôi công bằng và hạnh phúc.
- Thế mà anh đã ra đi khỏi nơi đang xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Tại sao ?
- Mao Trạch-đông không phải cộng sản. Tôi có trách nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo. Họ đói. Ðã có những người chết. Chủ nghĩa cộng sản thì xa. Nồi cơm gần hơn.
Anh Nguyễn Chí Thiện, một tù nhân có thâm niên đáng kính, một nhà thơ được ưu ái trong tầng lớp trí thức của xã hội tù, bĩu môi :
- Các anh nói thối bỏ mẹ :"trách nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo". Dân chúng chẳng cần tới sự lãnh đạo của các anh. Vì các anh dân mới đói. Vì các anh dân Trung Quốc mới thân tàn ma dại.
Ông bí thư huyện, anh hùng lao động nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, im lặng.
Những người cộng sản Trung Quốc trong nhà tù Việt Nam như khách. Họ chỉ quan tâm tới tình hình Việt Nam trong chừng mực những gì liên quan tới họ. Họ không quỵ lụy cán bộ trại, cũng không hòa nhập với cộng đồng tù Việt. Cán bộ có quát nạt họ cũng giả vờ điếc, không nghe thấy, không hiểu. Thỉnh thoảng hứng lên họ hát đồng ca những bài hát cách mạng của Trung Quốc, như bài "Xì lai (5)!" mà chúng tôi cũng biết. Hoặc "Quốc tế ca". Nhưng không bao giờ họ hát bài "Ðông phương hồng, mặt trời lên. Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch-đông !".
- Nạn đói là kinh niên đối với một nước như Trung Quốc. - tôi nói với Thiện -Không phải những người cộng sản là nguyên nhân duy nhất. Thời Tưởng, tôi biết, nạn đói còn xảy ra nhiều hơn. Hãy nhớ lại bọn Tàu phù sang ta năm 1945. Không phải chỉ đói, mà còn man rợ nữa...
Thiện trợn mắt nhìn tôi. Anh không thích một câu đế ngang xương như thế. Với anh, cộng sản là xấu, là tồi tệ, là kinh tởm, chấm hết. Không một cái gì của cộng sản có thể là tốt. Cái cách tôi đánh đồng loạt chính quyền Tưởng Giới-thạch với chính quyền Mao Trạch-đông như thế là không được. Không hiểu sao anh vẫn chấp nhận tôi như một ngoại lệ.
Nguyễn Chí Thiện làm nhiều thơ. Chiều chiều chúng tôi tụ họp nhau ở sau trại ngắm hoàng hôn, uống trà và nghe thơ. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Tôn Thất Tần... kẻ đứng người ngồi trong ráng chiều bàng bạc của một vùng rừng núi âm u bắt đầu ngả sang màu tím, tôi nhớ tới bức tranh vẽ Những Người Tháng Chạp(6) trong cảnh lưu đầy ở Sibir thời Sa hoàng.
Những bài thơ của Nguyễn Chí Thiện không hợp với tạng tôi. Thơ của anh trần trụi, bỗ bã, nói thẳng vào vấn đề, mà tôi thì lại thích thơ gợi, thơ kích thích trí tưởng tượng, thứ thơ cho phép người đọc được tham gia thêm vào cái đã có sẵn trong bài thơ, câu thơ, một chút tâm hồn mình. Nhưng cũng có bài của anh đọng lại trong trí nhớ :
Không có chỗ trên con tàu Trái đất
Tôi là người hành khách bơ vơ.
Lỡ chuyến, lầm ga, mất cắp, bây giờ
Tôi ủ rũ trên sàn toa lạnh ngắt,
Cái toa đen dành cho súc vật.
hoặc :
Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ cố hương...
Còn tôi đây ngẩng đầu nhìn nhện chăng tơ vướng
Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương...
Cao lênh khênh giữa các bạn tù, Nguyễn Chí Thiện nhìn đời qua cặp kính trắng mà đàng sau chúng là cặp mắt lồi ngơ ngác. Bộ quần áo trại phát, dự tính cho người tù có chiều cao trung bình, quá cũn cỡn trên người anh, làm thò đôi cẳng chân khẳng khiu ra ngoài. Thiện không bao giờ đi dép, tứ thời anh diện đôi guốc mộc tự đẽo, làm anh cao thêm mấy phân nữa. Thiện không phải là người tù bướng bỉnh, chống đối bất cứ ai vào bất cứ lúc nào. Anh còn thuộc loại hiền lành nữa là khác. Có vẻ lúc nào anh cũng ngơ ngác, cũng ngạc nhiên trước cuộc đời bụi bặm và uế tạp. Anh ghê tởm nó, nhưng cũng không có ý định dọn dẹp nó hay sửa chữa nó. Nói tóm lại, anh chẳng gây sự với cán bộ trại giam. Nhưng đó là một người tù không thể bẻ gãy. Tinh thần bất khuất trong những người tù không biểu hiện ở thái độ ngang tàng mà ở thái độ bất cần, thái độ khinh mạn.
Có lần đi lao động về tôi thấy Nguyễn Chí Thiện đã bị khóa cánh tiên ngoài cổng trại. Trông anh như bộ xương người trong giờ cách trí - lồng ngực ưỡn ra nhìn rõ từng rẻ sườn. Nhìn thấy tôi Thiện mặt đỏ gay còn cố mỉm cười thay lời chào.
Trình Hàng Vải thì thào với tôi :
- Chúng nó bắt được mấy bài thơ của Thiện.
Những người tù số lẻ lặng lẽ đi ngang bạn mình đang bị hành hạ. Mặt họ đanh lại. Tôi nghĩ : chỉ cần nhìn thấy cảnh này chứ không cần nếm nó người dân cũng khó mà yêu được chế độ.
Kiều Duy Vĩnh đánh giá cao cái ngoại lệ mà người tù chống cộng cực đoan dành cho tôi :
- Thiện nó tin anh lắm đấy ! Mà cũng trọng anh lắm đấy ! Nếu không nó chẳng đọc thơ cho anh nghe đâu.
Tôi hiểu Kiều Duy Vĩnh quý tôi. Trong cái sự trọng tôi của Nguyễn Chí Thiện có ảnh hưởng tình cảm của Kiều Duy Vĩnh dành cho tôi. Nhưng không có Kiều Duy Vĩnh thì Nguyễn Chí Thiện cũng vẫn tin tôi không làm ăng-ten. Những người tù trí thức khác cũng tin như vậy.
Nguyễn Chí Thiện có trọng tôi hay không là chuyện không quan trọng. Trong tù tôi học được cách sống tự tại, mặc kệ người ta nghĩ về mình thế nào. Tôi mãi mãi vẫn là tôi, không phụ thuộc vào sự đánh giá của bất kỳ ai.
Vả lại, tôi chẳng việc gì phải đấm ngực trước Nguyễn Chí Thiện hay người tù chống cộng nào khác chỉ vì tôi đã chân thành đi theo sự vẫy gọi của niềm tin mang tên chủ nghĩa cộng sản.

(1) Trừ một số đã chứng minh được lòng trung thành với chính quyền cách mạng.
(2) Chuyện nghiêm cấm sinh viên Việt Nam yêu người nước ngoài cũng là chuyện có thật. Người ta nói rằng chính ông Hồ Chí Minh ra lệnh này từ năm 1953, khi những sinh viên của nước Việt Nam kháng chiến lần đầu tiên được xuất ngoại. Người phá rào cấm của ông Hồ năm 1957 là một nữ sinh viên. Sau này chị mang quốc tịch Ba Lan, trở thành một chuyên gia xuất sắc trong ngành kiến trúc. Vào cuối thập niên 60, khi con gái Lê Duẩn ngang nhiên lấy chồng người nước ngoài thì lệnh này hoàn toàn mất hiệu lực.
(3) Các Ban giám thị cũng xưng Ban với tù.
(4) Sau khi ra tù tôi mới biết ông Lê Giản đã nói với cục trưởng Lê Hữu Qua tìm cách giúp tôi. Lê Hữu Qua là cán bộ dưới quyền ông Lê Giản khi ông còn là Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam. Ông Qua là một trong số ít cán bộ công an có học cũ còn được giữ lại làm việc khi thủ trưởng ra đi. Vừa nhậm chức Trần Quốc Hoàn đã gạt hết các cán bộ của Lê Giản ra ngoài.
(5) Vùng lên ! Bài hát cách mạng phổ biến ở Trung Quốc, mở đầu bằng câu :"Vùng lên, không cam tâm làm ngựa trâu ngu dân !"
(6) Các sĩ quan trong trào lưu đấu tranh cho tự do đã nổi dậy chống lại Nga hoàng Nicolai Ðệ nhất vào năm 1825. Cuộc nổi dậy bị đè bẹp, Những Người Tháng Chạp bị đầy đi Sibir. Những người vợ dũng cảm của họ đã đi theo chồng tới tận nơi lưu đầy, nêu một tấm gương sáng cho phụ nữ Nga.


:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 41

- Malêlết ló mốn cặp (gặp) mày ! - Cố Thủ Chẩu đứng trước mặt tôi, ngúc ngắc cái đầu húi cua, nói bằng giọng khàn khàn.
- Có chuyện gì thế ? - tôi nhìn đôi mắt một mí không chớp của anh ta.
- Khôông pết ! - Cố Thủ Chẩu nói.
- Sao lại không biết ?
- Ló bảo ngộ tến lói.
- Sao anh ta không tự đến ?
Cố Thủ Chẩu nhăn nhó :
- Mà mày pằng lòng chớ, có không ?
Cố Thủ Chẩu dặng hắng, đôi mắt tròn xoe đã bắt đầu mờ đục buồn rầu nhìn tôi. Tôi kiên nhẫn chờ, nhưng mãi vẫn chẳng thấy anh ta nói gì. "Rõ ngốc !" Tôi rủa thầm tôi ngu. Ai cũng biết Cố Thủ Chẩu nói tiếng Việt không sõi. Mỗi lần phải dùng đến tiếng Việt là một lần anh ta mệt. Chỉ nghĩ đến phải nói tiếng Việt là anh ta đã muốn thở rốc, gương mặt đặc Tàu đờ đẫn hẳn ra trên cái cổ bạnh như cổ trâu. Trong đám tù chính trị họ Cố nổi tiếng hà tiện lời vì lẽ đó. Ngay cả với cán bộ trại anh ta cũng chẳng buồn trả lời khi họ hỏi. Lúc đầu họ còn nổi sùng, riết rồi quen.
- Thì ít nhất cũng phải cho tôi biết có chuyện gì chứ. - tôi nói.
Tôi vừa viết vội cho xong bản báo cáo hình thức hàng tháng về lớp bổ túc văn hóa trại để nộp lên Ban giáo dục trại vừa cố đoán tiếp lý do khiến Marinết muốn gặp tôi. Trong trại mấy ngày qua mọi chuyện đều bình thường. Cả tuần chẳng có sự cố gì đặc biệt. Mà Marinết muốn gặp tôi theo kiểu này, có hỏi trước, nghĩa là phải có vấn đề. Từ khi tôi được Ban Giám thị cử làm chân văn hóa thì, theo một thỏa thuận không thành văn được toàn thể tù nhân tán thành, những người tù có chuyện lủng củng với nhau không báo cáo vụ việc thẳng với cán bộ như trước nữa mà đến bàn với tôi để tìm cách giải quyết nội bộ.
Cố Thủ Chẩu cụp mắt xuống, chân nọ gãi chân kia :
- Malêlết pảo thế ! Ló mốn nhều.
Tôi gật đầu :
- Ðược, tôi sẽ đến.
- Tố hảo a !
Cố Thủ Chẩu nhe răng cười hài lòng, bỏ đi.
Tù ở trại A Phong Quang không đông, lối năm trăm nhân mạng là cùng, phần lớn là số lẻ. Như ở bất cứ trại nào, những người tù ít khi chơi thân với nhau. Người ta sợ, cái sợ cố hữu bám theo họ từ bên ngoài xã hội vào, cộng thêm cái sợ có sẵn trong tù sinh ra bởi hệ thống ăng-ten dày đặc và thói quen bẩm báo để kiếm chác trong cảnh thiếu thốn. Ðể tạo ra những ốc đảo an toàn, những người tù họp lại với nhau thành những nhóm nhỏ, gồm những người đã quen biết nhau ở ngoài hoặc những người đã được quan sát kỹ, thậm chí đã được thử thách trong cuộc sống giam cầm. Thường mỗi nhóm như thế chỉ hai người một, ba người một, gọi là gia đình, hiếm khi đông hơn. Tuy không giao du với nhau, nhưng cùng trong một trại, ra đụng vào chạm chan chát, mọi người đều nhẵn mặt nhau, thậm chí quen nhau tuốt tuột, có thể nói như thế. Chẳng hạn, tôi không phải bạn Cố Thủ Chẩu, ấy thế mà gặp nhau chúng tôi bao giờ cũng vồn vã chào hỏi xã giao như những người quen lâu ngày, dù sau đó chỉ nói với nhau đôi ba câu bâng quơ.
Marinết, hay Malêlết theo cách phát âm của Cố Thủ Chẩu, là một cái lạ của trại Phong Quang. Lần đầu tiên tôi gặp trong bộ lạc tù số lẻ một người Âu. Một người Âu trăm phần trăm, Âu hoàn toàn, mũi lõ tóc vàng, mắt xanh, da trắng. Không phải tây lai. Không phải phi công Mỹ. Không phải tù binh còn sót lại của chiến tranh Ðông Dương. Nghĩa là không thể nào giải thích được vì sao anh ta lại có mặt giữa vùng lam sơn chướng khí chỉ dành cho bọn tù số lẻ, lũ kẻ thù giai cấp của chính quyền vô sản. Mà khốn nạn làm sao, anh chàng lại không biết tiếng Việt để có thể trò chuyện với bạn tù, để cảm thấy đỡ cô đơn trong cảnh sống bị trói buộc. Cán bộ trại gọi tên anh ta theo hồ sơ hay anh ta tự xưng không biết, nhưng mọi người đều gọi anh ta là Marinết. Chắc là tên chứ không phải họ.
Lầm lũi như một cái bóng, cao lênh khênh, nước da xanh xao, cái nhìn bất động, Marinết ngồi yên lặng xếp hàng trên sân trại mỗi buổi sáng chờ đi lao động. Khi đội anh ta được gọi tới, anh ta lẳng lặng đứng lên cùng với các bạn tù, như một Gulliver nhẫn nhục, lẳng lặng đi, lẳng lặng làm.
Theo lời kể của những người tù, thường tò mò và thích ngồi lê đôi mách, thì Marinết là một thương gia Hà Lan chuyên buôn bán mễ cốc trong vùng Thái Bình Dương. Sự có mặt của anh ta ở đây được giải thích bằng một nguyên nhân không cần tới lô-gích - do Chúa trừng phạt. Họ kể do Marinết quá sốt ruột muốn hưởng ngay lập tức phần gia tài kếch sù được ghi trong di chúc của ông nhạc, đã mưu mô với vợ đầu độc ông ta. Cái chết của ông già không bị phát giác. Nhưng trong một chuyến đi áp tải hàng Marinết say túy lúy trong bữa rượu mừng sinh nhật đã rơi tõm xuống biển mà không ai biết rồi dạt vào Việt Nam. Chắc hẳn Marinết có kể cho ai đó, cho nên người ta mới biết chuyện này. Mà chẳng cứ bạn tù, các cán bộ trại cũng tin câu chuyện đó. Hẳn Marinết đã khai với công an như vậy. Mà cũng có thể Marinết kể cho Cố Thủ Chẩu nghe, rồi Cố Thủ Chẩu kể lại cho người khác. Trong trại Marinết chẳng chơi với một ai trừ Cố Thủ Chẩu.
Cố Thủ Chẩu là thổ phỉ. Nhưng trông họ Cố lại chẳng có thớ ăn cướp tẹo nào. Ðậm người, đi đứng chậm chạp, tay chân vụng về, da mặt bóng nhẫy, trông Cố Thủ Chẩu có vẻ một ông chủ tiệm chạp phô thị trấn biên giới. Ðể làm một tên cướp họ Cố lù đù quá, khờ khạo quá, trong đối nhân xử thế thì lại tử tế quá, ân nghĩa quá. Cố Thủ Chẩu cũng dân boọc, cũng án tù mù. Từ bên Lào sang họ Cố được phiên vào một toán số lẻ, mặc dầu thổ phỉ là tội thuộc số chẵn.
Làm xong công việc hàng ngày của anh văn hóa trại, nghĩa là có mặt trong giờ điểm danh, đi kiểm tra vệ sinh lán trại, treo báo luân phiên trong các khu cho anh em tù đọc, tôi lững thững đi gặp Marinết.
- Chào đồng chí !
Ðôi mắt xanh biếc của Marinết cười rộng, bàn tay to và xương xẩu xiết chặt tay tôi.
- Chào anh Marinết !
Chúng tôi theo nhau trèo lên tầng trên cái giường chạy dài suốt năm gian nhà. Giang sơn của Marinết là một manh chiếu, sát vách là khối chăn màn vuông vức, kể cả tay nải. Marinết nghèo, anh không có cái hòm gỗ mộc như những dân boọc số lẻ khác (là những người ít tin ở ngày về hơn bất cứ thứ tù nào). Cũng khác với tất cả, bên trên vách, ở đầu chỗ nằm của anh, có một thập giá tết bằng lá cọ non, khô cứng và xám xịt vì lâu ngày. Theo nguyên tắc trại giam, những người tù theo đạo Thiên Chúa không được phép treo thập giá ở đầu giường, nhưng Marinết được hưởng ngoại lệ. Dù sao anh cũng là người nước ngoài.
Không vội vã Marinết châm đóm. Lửa bùng lên trong bóng tối ẩm ướt buổi sáng đầu đông có sương mù, tạo ra không khí ấm cúng. Tay phải Marinết cầm đóm huơ những vòng lửa nhỏ dưới trôn cái ống bơ cầm chắc trong tay trái, nước trong ống bơ chẳng mấy chốc đã sôi sùng sục. Trong tù thủ tục tiếp khách bao giờ cũng trang trọng. Cái bát men thủng làm bếp, ống bơ sữa bò làm ấm đun, cái ca men sứt sẹo thay ấm pha, chén đựng trà làm bằng nứa tép cắt ngắn - bộ đồ trà của tù là thế.
- Mời ! - Marinết đưa cho tôi một chén trà nóng bỏng bằng hai tay.
- Mời ! - tôi nâng chén, cũng bằng hai tay.
Chúng tôi lẳng lặng thưởng trà như hai nhà ngoại giao đại diện cho hai dân tộc Âu- ỏ trong một cuộc gặp gỡ vào đầu thế kỷ trước.
- Anh không lấy làm lạ thấy tôi gọi anh bằng đồng chí sao ?
Marinết nheo mắt cười qua hơi nước sôi nghi ngút. Hóa ra anh ta biết tiếng Việt.
- Thú thật, tôi lấy làm lạ. ê trong tù người ta không gọi nhau như thế. Tôi nghĩ anh chưa rành tiếng Việt.
- Tôi cố ý. Tôi nói có cân nhắc - Marinết nói.
- Thật vậy à ?
- Tôi quan sát anh từ khi anh vừa tới trại này. Mọi việc anh làm, nhân cách của anh, kể từ khi anh làm văn hóa trại, đều được chúng tôi theo dõi. - Marinết nhẩn nha giải thích - Và tôi kết luận : anh là một người cộng sản.
Một kết luận kỳ cục, tôi nghĩ.
- Vâng, một người cộng sản. - Marinết nói thêm - Như tôi.
Tôi nhìn Marinết, không nói được lời nào.
- Anh còn ngạc nhiên hơn nữa khi nghe điều tôi sẽ nói đây : tôi là đảng viên Ðảng cộng sản Trung Quốc.
Tôi còn sửng sốt hơi nữa.
- Anh ? Là đảng viên Ðảng cộng sản ... Trung Quốc ?
- Vâng.
- Cả Cố Thủ Chẩu ?
- Không, Cố Thủ Chẩu khác. - Marinết cười khe khẽ, lắc đầu - Anh ta là người của Khun Sa(1).
- Tôi lại càng không hiểu... - tôi nói.
- Người ta nói anh còn là nhà văn, phải vậy không ?
- Trước kia tôi có làm công việc viết lách.
Marinết pha tuần trà thứ hai.
- Hôm nay tôi muốn gặp anh chính là để kể cho anh về những cái tôi vừa nói, về cuộc đời tôi... Nếu anh muốn nghe ...
- Tất nhiên, tôi muốn nghe.
Marinết cười :
- Tôi biết mà, tôi không lầm khi chọn anh để nói về những bí mật của đời tôi. Mà cuộc đời tôi đáng được kể lại... Nó không giống những gì anh đã nghe đâu. Ðó là chuyện bịa. Gặp anh tôi mừng lắm. Không phải ai cũng may mắn được gặp một nhà văn ở trong tù.
Chao ôi, cuộc đời tôi mới kỳ cục làm sao ! Cứ như thể tôi sinh ra chỉ để làm một việc duy nhất là làm nhân chứng cho những sự kiện không bình thường. Mà những sự kiện không bình thường thì ở trong nhà tù vô số kể. Chẳng hạn như Marinết đây.
Mà anh cũng chẳng phải là người nước ngoài đầu tiên tôi gặp trong tù. Trước Marinết tôi đã gặp một người khác - một thanh niên Triều Tiên. Tôi gặp anh chàng họ Kim này tại Tân Lập, mùa thu năm 1971. Cũng là một dân số lẻ, cũng boọc. Lạ lắm. Mà cũng bi thảm lắm. Tôi sẽ kể về anh chàng này sau.
Marinết nói tiếng Việt còn kém, nhưng hiểu tốt. Anh sợ người ta tò mò về anh, thành thử anh chỉ chăm chú nghe mọi người nói rồi quay mặt vào vách mà lẩm bẩm những lời học được ban ngày, người không biết tưởng anh cầu nguyện Chúa. Gặp những từ anh chưa biết, hoặc quên mất, Marinết chêm tiếng Pháp, tiếng Anh vào. Cuộc đối thoại lúc đầu có trục trặc chút ít, nhưng chúng tôi mau chóng tìm được cách hiểu nhau.
Câu chuyện Marinết kể như sau :
Anh là người Trung Quốc tính theo quốc tịch. Nhưng về dòng máu, Marinết là người Hà Lan. Cha của Marinết, một bác sĩ, là con một gia đình trí thức nghèo ở Amsterdam. Ông học nghề thày thuốc theo truyền thống gia đình - cụ nội Marinết làm nghề cứu nhân độ thế, ông nội Marinết nối nghiệp. Có một con trai, cụ cho vào trường y. Ngay sau khi ra trường, cha của Marinết đã xin đi thực tập tại Trung Quốc. Sở dĩ ông chọn nước này vì ở đây có điều kiện tốt cho một bác sĩ trẻ trưởng thành, có thể mau chóng trở thành bác sĩ lành nghề. Trung Quốc vào đầu thế kỷ là một nước lạc hậu, nghèo nàn, luôn có dịch bệnh. Người thày thuốc được điều trị nhiều thì chóng giỏi. Hơn nữa, lương trả cho bác sĩ thực tập ở một bệnh viện Hà Lan tại Thượng Hải, nơi ông phải tới, cũng cao hơn ở các nước khác. Mẹ Marinết người Trung Quốc chính gốc, cũng sinh viên ngành y. Là một thanh niên đầy nhiệt huyết cách mạng, bà lôi kéo người bạn Hà Lan vào những hoạt động của lớp thanh niên thiên tả thuộc thế hệ bà. Họ yêu nhau, rồi cả hai cùng gia nhập Ðảng cộng sản. Khi lực lượng cách mạng rời các thành phố duyên hải chuyển vào sâu nội địa, tiếp đến cuộc Vạn lý Trường Chinh lên phía Bắc, đôi vợ chồng trẻ với đứa con năm tuổi đã cùng Mao Trạch-đông, Bành Ðức Hoài, Chu Ðức vượt qua những gian khổ không kể xiết lên tới tận căn cứ địa Diên An.
Marinết lớn lên trong lòng cuộc cách mạng Trung Quốc. Mẹ anh qua đời vì một cơn bạo bệnh thiếu thuốc chữa. Cha anh suy sụp hẳn sau cái chết của bà. Ông làm việc như một cái xác không hồn. Sau này, lớn lên, Marinết mới biết ông không bao giờ tha thứ cho Ðảng của ông về cái chết của vợ ông. Dường như thuốc để chữa cho mẹ anh lúc bấy giờ có, nhưng nó đã được dùng một cách vô ích cho một trường hợp khác, chỉ vì Mao Trạch-đông muốn biểu diễn sự quan tâm của ông ta tới một đối thủ chính trị.
Marinết trở thành chiến sĩ Hồng quân rất sớm, anh vào Ðảng cộng sản Trung Quốc ngay từ khi 17 tuổi. Trung Hoa lục địa hoàn toàn giải phóng, anh được cử đi học một lớp huấn luyện công an và chuyển hẳn sang ngành này. Học xong anh được điều về Quảng Châu, địa đầu của nhiều ngả thông thương giữa Trung Quốc và nước ngoài, phụ trách công tác phản gián. Chính ở đây Marinết gặp Cố Thủ Chẩu.
- Anh ta người Quảng Châu ?
- Không phải. Chính anh ta cũng chẳng biết mình quê ở đâu. Họ Cố là một tay mất gốc. Trông lù đù thế mà, anh biết không, Cố Thủ Chẩu đã lê gót khắp thế giới rồi đấy. Anh ta đã ở trong những khách sạn sang nhất của Washington, New York, Paris...
- Cố Thủ Chẩu làm nghề gì ?
- Cố Thủ Chẩu không có nghề. Anh ta là một trong những boss(2) của Tam Giác Vàng, vựa thuốc phiện của thế giới...
- Anh quen Cố Thủ Chẩu ở Quảng Châu ?
Marinết chưa kịp trả lời thì Cố Thủ Chẩu trở về. Anh ta cười hể hả, lồm cồm leo lên nhậm xà(3) cùng chúng tôi.
Cố Thủ Chẩu được coi là một người tù cải tạo tốt nhờ tính tình hiền lành và đức cần mẫn. Ðã hơn một năm nay anh được Ban Giám thị cho tự giác, trông nom trạm thủy điện. Công việc này nhàn lắm. Trạm thủy điện nhỏ dùng dòng chảy chạy suốt ngày đêm. Người trông trạm chỉ phải đóng mở mấy cái cầu dao cho dòng điện lúc thì chạy máy bơm nước, lúc thì thắp sáng. Trong những ngày nước lũ thì vất vả hơn một chút, phải thức khuya dậy sớm trông nom cái tua-bin và máy phát điện, không để chúng bị trôi đi.
- Tang lói chuện dề ? - Cố Thủ Chẩu khề khà hỏi. Anh đặt lên chiếu trước mặt chúng tôi một gói trà tự biên tự diễn, có tới ba lạng. - Hôm lay ngộ hên lắm, vớt lờ ngoài suối tược cả kí lô cá, mới sang pên lâm sản tổi xà (đổi trà) ngon về cho các pạn...
- Ðang hỏi chuyện hai anh quen nhau thế nào ? - tôi nói.
- Quen quen cấy chi ! - Cố Thủ Chẩu ngửa mặt cười hắc hắc - Malêlết ló pắt ngộ chớ. Chính cấy thằng lày lày. Pỏ tù a. Hổi cung a. Tủ cả. Malêlết pắn chếch ngộ lồi lếu ngộ không có cấy hộ chếu Mỹ, phảy thế khôông ?
- Bậy nào. Bắn là bắn làm sao !
- Thì pắn pằng cấy tạn (cái đạn) tùng tùng chớ pằng cấy chi. Trung Cộng cố tạn nhều nhều. Người cũng nhều nhều. Pắn không cố tếc.
Marinết ở Quảng Châu được ít lâu thì xảy ra tam phản hay ngũ phản chi chi đó, anh kể nhưng tôi không nhớ. Trong những cuộc phản thường trực như vậy cán bộ cách mạng đều lần lượt bị dính, hết người này tới người khác đi tù, đi học "trường thất ngũ", một thứ trại cải tạo. Marinết gặp may - anh không hề hấn gì. Ðùng một cái, các bạn đồng đội từ thời Diên An đang đêm bí mật đến lôi anh khỏi nhà, bỏ anh lên một chiếc thuyền nhỏ, dùng ca nô hải quân kéo ra hải phận quốc tế. "Ðồng chí thấy có tàu thuyền treo cờ nước ngoài thì vẫy họ xin cứu, họ dặn anh. Còn hơn chết trong trại tập trung, mà đồng chí thì chắc chắn bị bắt nếu chúng tôi không đến kịp. Thôi, vĩnh biệt Marinết !"
Lênh đênh trên biển hai tuần liền, Marinết không gọi được một chiếc tàu nước ngoài nào. Anh có nhìn thấy chúng trên đường chân trời, nhưng con thuyền nhỏ bé của anh chỉ là một chấm đen trên mặt biển mênh mông, người ta đã không thấy anh. Nắng như đổ lửa trên đại dương vô vọng. Nhờ những đồng đội thông minh, anh đã không chết khát sau khi lượng nước ngọt dự trữ cạn - trong đám lương khô anh tìm thấy cả một bao tải khoai lang, thứ khoai ngoài tinh bột còn chứa rất nhiều nước trong củ.
Thế rồi bão nổi, tung lên dìm xuống con thuyền của anh. Nó tơi tả bay lượn trên những ngọn sóng như một cọng rơm. Marinết tỉnh dậy khi chân anh đụng thềm cát của đất liền. Trong cơn u mê anh vẫn còn đủ tỉnh trí để trút bỏ bộ quần áo. Không thể để cho người ta biết anh từ đâu tới trước khi anh biết những người cứu anh là ai. Những người du kích Việt Nam tìm thấy Marinết trong trạng thái bất tỉnh trên bờ biển. Họ đưa anh về trụ sở ủy ban xã. Marinết nhận ra chân dung ông Hồ Chí Minh, anh hiểu anh đang ở đâu. Biết chắc nếu khai thật anh sẽ bị chính quyền Việt Nam trả cho Trung Quốc, anh trút nốt cái quần lót trong nhà vệ sinh khi xin đi đại tiện. Nó là vật chứng duy nhất tố cáo anh là người Trung Quốc. Sau đó anh sáng tác ra chuyện anh đầu độc bố vợ và bị Chúa phạt.
Anh không ngờ lại gặp Cố Thủ Chẩu trong nhà tù Việt Nam.
- Tôi ngẩn người, không nói được câu nào khi thấy Cố Thủ Chẩu trước cổng trại, đang chăn mấy con trâu.
- Ngộ cũng thế. Ngộ há cấy mồm.
Cố Thủ Chẩu kể anh đi ăn cưới em gái một người anh em kết nghĩa ở Thượng Lào. Không thể nào từ chối người anh em thân thiết cho được. Họ uống say bí tỉ. Tỉnh dậy Cố Thủ Chẩu thấy mình bị trói gô. Người anh em kết nghĩa bị bắt về tội làm thổ phỉ. Không biết Cố Thủ Chẩu là ai, người ta buộc anh là thổ phỉ nốt. Cho tiện. Sau đó là các nhà tù Lào, rồi nhà tù Việt Nam.
- Tôi dặn Cố Thủ Chẩu chớ nói với công an Việt Nam tôi là ai.
- Ngộ cũng pảo ló thế. - Cố Thủ Chẩu nói - Công an Vệt Lam ló pết mềnh ở Tam Dác Vàng thì lôi thôi lắm, rách vệệc lắm.
Tôi hỏi Marinết :
- Công an Việt Nam hoàn toàn không biết tí gì về anh ?
- Không. Nếu họ biết tôi đã không còn ngồi đây nói chuyện với anh.
- Và anh dám tin tôi ?
Marinết nhún vai.
- Tại sao lại không tin ?
- Cảm ơn anh đã tin.
- Tôi phải cảm ơn Chúa đã cho tôi được gặp anh để mà tin.
Marinết ngước mắt nhìn lên cái thập giá và tôi hiểu : người cộng sản Marinết bây giờ tin thật có Chúa Trời.
- Vì sao anh muốn kể cho tôi nghe cuộc đời anh ?
Trên mặt Marinết thoảng qua một nụ cười cay đắng.
- Bởi vì tôi biết tôi không còn sống lâu nữa. Anh là nhà văn, tôi kể cho anh nghe cuộc đời tôi để một lúc nào đó anh kể lại cho người khác.
- Anh nghĩ rằng tôi còn cơ hội để kể lại ?
Tới năm thứ tám của đời tù tôi gần như không tin mình sẽ còn sống cho tới ngày trở về. Thời hạn ba năm cho một lệnh tập trung cải tạo là thời hạn hình thức, nó chẳng được ai tính đến, trừ thói quen của guồng máy quan liêu, đến ngày thì cho đánh máy thêm một lệnh mới, kéo dài thêm cái lệnh cũ. Tôi là tên tù xử lý nội bộ, tức là số phận tôi do Ðảng quyết định, nếu tin vào lời người đứng đầu Ban bảo vệ Ðảng. Mặt khác tôi lại là tên tù tập trung cải tạo, tức là tên tù-không-phải-tù có hạn ba năm một, nếu tin lời phổ biến của tên đại úy công an.
- Tại sao lại không tin ? - Marinết phản bác - Anh còn trẻ mà.
- Chúng ta đều còn trẻ. Có điều chúng ta đang già đi ở đây...
- Nhưng anh sẽ còn sống.
- Anh cũng vậy.
- Không, tôi sẽ không còn sống đến ngày ra khỏi đây đâu, tôi biết. Anh xem này.
Marinết lê ra gần cửa sổ, húng hắng ho rồi khạc vào một tờ giấy. Anh vẫy tôi lại gần. Trên tờ giấy, lẫn trong đờm là những tia máu kéo dài. Anh gập tờ giấy vứt ra ngoài cửa sổ.
- Anh bị lao ?
- Rõ ràng là thế.
- Cần phải chữa.
Nghe tôi nói Cố Thủ Chẩu kêu lên bằng một thổ ngữ Trung Quốc lạ tai, nhưng tôi hiểu - anh ta chửi thề. Marinết lườm bạn :
- Này, đừng nói bậy nhá !
- Chỡ, chỡ cấy...tỉu na má(4) ! Khám lồi, khám nhều nhều lồi, thằng ê sĩ cho mấy vên thốc ho lồi pảo ti về, ti về.
Marinết cười hiền lành :
- Nhà tù chứ có phải an dưỡng đường đâu. Nơi này là nơi để chết chớ không phải nơi để sống...
Anh chàng Triều Tiên họ Kim mà tôi nhắc tới ở trên chắc đã chết. Tôi vẫn quan tâm tới anh ta, nhưng không nghe ai nói tới một người Triều Tiên ở trại nào nữa, mặc dầu ở Phong Quang có đủ mặt tù từ các trại khác tới.
Kim đến Tân Lập trong một chuyến tù từ Hà Nội. Những người tù mới chỉ trỏ anh ta cho chúng tôi thấy, khoe với chúng tôi của lạ trong đám họ. Anh chàng Triều Tiên đứng ngẩn ngơ một mình, không biết nói chuyện với ai. Tôi nỉ hảo(5) với anh ta bằng tiếng Trung Quốc rồi hỏi có phải anh ta là người Triều Tiên không ?
- Hẩn tuây(6) !
Nhưng vốn liếng tiếng Trung Quốc của tôi chỉ có thế. May, Kim biết tiếng Nga. Tôi hỏi vì sao anh bị bắt.
- Tôi không hiểu. - Kim nói, mặt ngây độn - Tôi không hiểu gì cả. Tại sao người ta lại bắt tôi ? Tôi là sinh viên Triều Tiên học ở Bắc Kinh. Tôi yêu Việt Nam. Tôi tình nguyện đi kháng Mỹ viện Việt, chẳng ai nhận tôi cả. Tôi mới đáp tàu hỏa xuống phía Nam, ở đó chắc chắn có đường qua Việt Nam. Tới Ping Seng, tôi thấy hàng dãy xe tải chở những ống lớn chờ qua biên giới. Mới chui vào một ống, quả nhiên sang được. Ðó là những ống dẫn dầu viện trợ cho Việt Nam. Ðến Bắc Giang, tôi chui ra. Tôi đi tìm chính quyền Việt Nam xin chiến đấu chống Mỹ thì bị bắt...
- Người ta không tin ?
- Họ chẳng nói gì hết. Cho ăn uống. Bảo sẽ kiểm tra việc này. Họ hỏi sứ quán nước tôi tại Hà Nội...
- Sứ quán trả lời ra sao ?
- Qua lời anh phiên dịch thì hình như sứ quán nói : ở Triều Tiên không có những công dân vô kỷ luật, tùy các đồng chí Việt Nam xử lý. Tôi bị tù.
- Anh phản đối chứ ?
- Tôi phản đối. Họ bảo : hãy yên tâm, cứ ở tạm đây đã để người ta còn điều tra thêm.
Kim thở dài.
Không hiểu sao lúc ấy trong tôi lại nảy ra một ý nghĩ đùa cợt, bây giờ nghĩ lại thấy thật là ác.
- Anh Kim à, - tôi nói - tôi nghĩ anh bị tình nghi về một tội khác... Mà người ta không nói ra với anh.
- Tội gì ? Tôi đã khai thực với họ : tôi chỉ muốn tham gia chống Mỹ cùng với nhân dân Việt Nam.
Tôi làm bộ suy nghĩ một lát.
- Có thể, người ta nghi anh là gián điệp.
- Bôgiê môi(7) ! Tại sao người ta có thể nghĩ bậy thế được ! Tôi mà làm gián điệp cho Mỹ sao ?
- Chắc anh biết một trong những thế mạnh của nền xuất khẩu Triều Tiên là nhân sâm, jinseng...
- Ðúng !
- Việt Nam cũng có một thứ jinseng. Chỉ có nó mới cạnh tranh được với jinseng Triều Tiên, và nhà nước Việt Nam rất bảo vệ bí mật ginseng của mình...
- Chà !
- Có phải jinseng Triều Tiên to chừng này không ? - tôi chìa ngón tay cái - ớt có củ to hơn.
- Phải. Một củ và hai hoặc ba chẽ.
- Anh chờ một lát sẽ thấy jinseng Việt Nam lớn đến thế nào !
Khi những đội nông nghiệp kìn kìn gánh sắn thu hoạch về cho nhà bếp thì Kim trợn tròn mắt, kêu lên mấy thán từ bằng tiếng Triều Tiên mà tôi không hiểu.
Tối hôm đó, tôi tưởng anh chàng Triều Tiên sau khi đã được đứng lẫn với tù Việt Nam thì sẽ được đưa vào một toán số lẻ nào đó, nhưng không phải. Anh ta bị biệt giam trong một xà lim kỷ luật. Ban đêm tôi nghe tiếng Kim đập phá, la hét cho tới tận sáng. Mấy ngày kế tiếp cũng vậy. Rồi khu biệt giam im lặng hoàn toàn - anh ta đã được đưa đi nơi khác, hoặc còn sống hoặc đã chết.
Marinết nói :
- Anh hứa sẽ viết về cuộc đời tôi chứ ?
- Nếu tôi còn sống.
Marinết đưa tay ra, buộc tôi phải ký kết giao ước vừa thỏa thuận với nhau bằng cái bắt tay chặt.
- Chủ nghĩa lãng mạn giết chết con người chẳng kém gì dịch hạch. - Marinết trầm ngâm - Anh thử nghĩ mà xem : có biết bao nhiêu người đã thành tâm đi theo chủ nghĩa cộng sản và trở thành nạn nhân của nó ?
Tôi nghĩ tới Kim. Trường hợp của Marinết, của tôi, còn phải lý giải dài dài, nhưng trường hợp của Kim thật rõ ràng.
Chủ nghĩa lãng mạn không phải chỉ có mặt trong những bi kịch có dính líu tới chủ nghĩa cộng sản. Một tù nhân chính trị mà tôi gặp ở Phong Quang còn làm cho tôi sửng sốt hơn bởi lòng yêu nước kỳ lạ trong anh ta. Là một thanh niên nông dân, trình độ học vấn chỉ khoảng lớp bốn lớp năm, Phong rơi vào tù (cũng không có án xử) do những bức thư gửi cho Trung ương Ðảng, trong đó anh ta lên án các bậc chèo lái quốc gia mời quân Trung Quốc vào Việt Nam là "cõng rắn cắn gà nhà". Ðể bàn về chuyện đúng sai trong việc này còn phải mất nhiều giấy mực, nhưng điều không phải bàn là lòng yêu nước trong anh ta.
Phong không có chân trong bất kỳ đảng phái "phản động" nào, cũng không giáo điều hoặc xét lại - anh ta chỉ có trần trụi một lòng yêu nước chẳng cần biết đến đúng sai.
Lòng yêu nước này có thể gọi là cực đoan hay mù quáng là tùy ở mỗi người, nhưng nó gợi lên trong tôi sự kính trọng. Mà không phải chỉ trong tôi.
Một hôm trung úy Bưởi mời tôi tới phòng giáo dục rồi đưa cho tôi một tập hồ sơ.
- Anh đọc đi.
Ðó là những bức thư Phong gửi Trung ương Ðảng. Không phải những bức thư đã đưa anh ta vào tù, mà những bức thư kế tiếp, vừa mới viết, những bức thư nằm trong tiêu chuẩn hiếm hoi mà người tù được phép gửi ra ngoài. "Tôi kêu gọi các người hãy tỉnh lại, đừng mơ hồ với mưu toan bành trướng của Trung Quốc. - một bức thư viết - Tham vọng mở mang bờ cõi của họ tổ tiên ta đã biết từ lâu. Nếu con cháu không nghe lời để chúng xâm lấn đất đai tổ tiên một lần nữa thì tội ấy ngàn đời không rửa sạch..." Trong một bức thư khác Phong dọa Trung ương Ðảng rằng lịch sử sẽ không tha thứ cho họ, nếu như họ ngoan cố kết liên với kẻ thù truyền kiếp để mang họa cho đất nước.
- Anh này thậm chí nhịn đói chứ không ăn cơm nấu bằng gạo Trung Quốc viện trợ.
- Tôi cũng có nghe chuyện này. Những ngày trại ăn gạo Trung Quốc anh ta ăn sắn mót trên nương.
Bưởi lắc đầu buồn bã.
- Anh muốn nghe ý kiến gì ở tôi ? - tôi hỏi Bưởi.
- Tôi muốn hỏi anh : nếu ở địa vị tôi anh sẽ xử trí với những bức thư này như thế nào ?
- Tôi có thể không đồng ý cách nhìn bất biến của anh ta với Trung Quốc cũng như với bất cứ kẻ thù cũ nào. - tôi nói chậm, tìm những lời lẽ không thể bắt bẻ được - Lịch sử là lịch sử. Nếu dân tộc Chàm nhìn người Kinh hiện nay như kẻ thù thì sẽ ra sao(8) ? Tôi không nói anh ta sai trong cách nhìn nhận cụ thể đối với Trung Quốc hiện tại. Hình như cách nhìn Trung Quốc của Ðảng năm nay, 1974, cũng đã thay đổi so với năm 1964...
Trung thành với nghề nghiệp, Bưởi nín lặng. Qua báo Nhân dân là tờ báo duy nhất tù được đọc, tôi nhận thấy giọng tờ báo không còn nồng nàn đối với Trung Quốc như hồi ban lãnh đạo Ðảng còn hào hứng thấy "trung tâm cách mạng đã chuyển về phương Ðông".
- Ðiều rõ ràng là những bức thư này được viết ra dưới sự thôi thúc của lòng yêu nước, - tôi kết luận - còn yêu theo cách nào là chuyện khác, tôi không bàn đến.
- Nếu những bức thư này được đính thêm vào hồ sơ anh ta, chắc chắn anh ta sẽ còn ở tù còn lâu... - Bưởi nói - Theo anh, ta nên làm gì với những bức thư này ?
- Tôi nghĩ chúng chẳng có ích gì, tức là tôi muốn nói, chẳng thay đổi được gì trong đường lối của Ðảng nếu nó được gửi tới đúng địa chỉ...
- Chính vì vậy mà tôi đã không gửi.
- Anh nên đốt đi. - tôi khuyên Bưởi - Ðó có lẽ là cách tốt nhất, nếu ta còn biết kính trọng lòng yêu nước của một con người.
Bưởi đưa cho tôi cái bật lửa.
- Anh đốt hộ tôi.
Tôi ra đầu hồi châm lửa vào mấy bức thư. Chúng cháy cong queo, tàn bay lả tả trong gió. Tôi hiểu vì sao Bưởi không tự tay đốt những bức thư. Chẳng phải Bưởi sợ cái gì. Chẳng qua anh ta muốn tôi thấy anh ta tin tôi tới mức nào.
Marinết mỗi ngày một yếu. Tôi không có cách nào cứu anh. Tôi viết một bức thư về cho vợ tôi, bảo vợ tôi tới bác sĩ Phan nhờ anh kiếm thuốc chữa lao gửi lên cho tôi. Tôi hơi ngần ngại khi viết bức thư này, sợ vợ tôi tưởng tôi bị lao. Nhưng bức thư không có hồi âm. Người đi tiếp tế mà Cố Thủ Chẩu nhờ chuyển thư đã không chuyển.
Marinết bảo tôi :
- Ðừng lo lắng cho tôi, đồng chí ! Tôi đã cố gắng vật lộn với cái bệnh khốn kiếp này, nhưng xem ra không ăn thua. Tôi đã nuốt cả những con thạch thùng sống theo lời khuyên của những người tù già, họ nói đó là bài thuốc dân gian cổ truyền. Tôi đã ăn những con giun, nghe nói chúng làm tăng sức đề kháng. Có người còn bảo tôi nướng những con gì giống con cóc nhưng bụng rất to mà da nhẵn thín, tôi ăn và nôn mửa gần chết ... Tất cả đều vô ích. Tốt nhất là thỉnh thoảng chúng ta kiếm cách gặp nhau để tôi có thể kể thêm cho đồng chí về cuộc đời tôi và về số phận những người cộng sản Trung Quốc. Biết đâu đấy, đồng chí lại chẳng cho người đọc biết thêm một chút gì bên trong bức màn sắt của Trung Quốc bao la đầy bi kịch ...
Tôi đã không viết gì hết sau khi ra khỏi nhà tù. Tôi sợ. Và tôi không thích sự nửa vời. Nếu tôi viết tôi phải viết tất cả những gì tôi nghĩ. Những người Trung Quốc dũng cảm đã làm việc đó hơn người Việt Nam. Thế giới được biết những việc xảy ra ở Trung Quốc nhiều hơn những gì xảy ra ở Việt Nam. Việt Nam, xét cho cùng, là một quốc gia nhỏ bé. Người ta không biết đến cũng phải.
Tôi cũng đã không viết về cuộc đời của ông già Bát(9). Ông ở cùng đội với tôi, nhưng giống như những người tù số lẻ khác, ông lầm lì và không thích nói tới nguyên nhân dẫn ông vào tù. Cái sự vào tù một cách dớ dẩn, chẳng ra đâu vào đâu, tưởng chừng chỉ riêng kẻ bắt người bỏ tù oan phải xấu hổ, hóa ra nó còn làm cho cả người bị tù oan cũng cảm thấy ngượng ngùng mới lạ. Cứ như thể họ không xứng đáng với danh hiệu tù chính trị bị khoác cho một cách bất đắc dĩ, như thể họ là kẻ nhận vơ, mà nhận vơ cái không phải của mình là sự rất đáng chê cười.
Tôi thường chọn một góc vắng ngồi đan tranh cùng ông trong thời kỳ trại sơ tán vào rừng để tránh máy bay Mỹ. Ngồi với ông thú vị ở chỗ mình có thể tha hồ suy nghĩ mà không bị cản trở - ông lão cậy miệng cũng chẳng nói một câu. Tán lá rừng xòe ra, đan kết với nhau, làm thành một tấm che khổng lồ, chỉ ở phía dưới là thoáng đãng, lác đác từng nhóm tù ngồi cặm cụi đan lát. Một anh lính canh ôm súng nhìn bao quát tất cả, canh chừng. Những người tù số lẻ hiền lành, chẳng bao giờ trốn, đôi khi anh lính tự cho phép mình gà gật một lát hoặc cặm cụi viết thư về nhà. Cái đời lính đóng trên vùng sơn cước chẳng khác đời tù là mấy. Cũng sáng dậy đi làm, tối về chui vào màn, không vợ con, không bếp lửa gia đình.
Một hôm, ông Bát đang làm, bỗng nổi khùng, vứt toẹt con dao xuống đất, ngồi thừ ra, không thèm đan nữa. Rồi hai hàng nước mắt lã chã, ông vật vã ngiêng ngả như lên đồng, miệng lẩm bẩm xuýt xoa những tiếng vừa run rẩy vừa luống cuống, nghe não lòng lắm, như trong một cơn đau vật vã. Tôi cuống lên, chồm tới bên ông :
- Bác làm sao thế ?
Ông không trả lời mà chỉ rền rĩ :
- Ốii giời cao đất dày ôi ! Tôi đau quá, đau quá, ông ơi ! Sao cái số kiếp tôi khổ thế này hả trời ?!
Tôi hiểu. Ông không lên cơn đau bệnh, mà lên cơn đau lòng. Tôi đã vài lần chứng kiến cảnh tượng tương tự. Những người tù đang yên lành bỗng nổi cơn điên khùng, chửi bới, đập phá lung tung. Công an sầm sập chạy vào, trói tay trói chân, nhét giẻ vào miệng, sai trật tự(10) khiêng đi. Sau mấy ngày nằm xà lim kỷ luật họ trở ra, mặt mũi phờ phạc, cái nhìn vô cảm, bước chân đờ đẫn, đi mà như không đi.
Anh lính canh khoác súng lên vai đủng đỉnh bước lại :
- Ê, hai anh kia, mần đi chớ !
- Bác ấy bị trúng gió. - tôi nói.
Anh lính nheo mắt nhìn ông già vật vã trên đống tranh, nói nhẹ nhàng :
- Rứa nghỉ đi chút. Tôi có hộp dầu xoa đây.
Anh lục túi, đưa cho tôi hộp dầu cao.
Tôi đỡ lấy, cảm ơn anh lính tốt bụng. Không phải anh lính canh nào cũng được như anh. Nhưng có thứ dầu nào xoa dịu được nỗi đau trong lòng ông bạn già của tôi lúc này. Tôi ôm lấy ông Bát trong vòng tay, đung đưa ông như ru đứa trẻ. Ông nhẹ bỗng, không thể tưởng tượng nổi ông già có thể nhẹ như thế. Trông bề ngoài ông cũng không đến nỗi nào. Có lẽ những tấm áo bông mặc đắp lên nhau làm cho tôi có cảm giác ông to hơn, nặng hơn.
Ông choàng tay ôm lấy tôi :
- Ðời tôi khổ lắm, ông ơi !
- Chúng mình ở đây có ai sướng đâu !
- Nhưng tôi khổ hơn cả. Người ta còn có tội, chứ tôi thì tội tình gì đâu !
- Cũng nhiều người không có tội đấy.
- Ông nghe tôi nói này. - ông thì thào - Ông chớ có tin chúng nó. Ðám số lẻ này toàn chống chế độ cả đấy ! Chúng nó phản động cả đấy. Không oan đâu. Tôi ở tù lâu, tôi biết. ông thì không, ông cũng như tôi...
Tôi cười buồn :
- Tôi cũng chống chế độ đấy chứ. Người ta bảo thế.
- Người ta nói mặc người ta ! Mình biết mình - không là không !
- Bác làm sao bị bắt ?
Ông già nấc lên từng chặp.
- Tôi theo cách mạng cướp chính quyền, cũng đã làm thôn đội rồi xã đội một hồi kháng chiến chống Pháp... Tôi theo cụ Hồ, sao, ông không tin hở ?
- Tôi tin chứ.
- Sau, hòa bình lập lại rồi, tôi nghỉ. Mọi sự khốn khó bắt đầu từ đấy.
- Người ta bảo bác bất mãn ?
- Không. Nhưng ở chế độ ta không làm cán bộ nữa là hết, thì người ta không tin mình nữa, không còn coi trọng mình nữa. Mà làm dân thì, ối giời ơi, khổ lắm, khổ đủ đường, ông chắc cũng biết, có cần kể cho ông nghe không ?
- Không cần.
- Cho nên các cháu nhà tôi đều nhao đi làm cán bộ. Thằng cả chưa đủ tuổi xung phong đi bộ đội. Con bé sau nó xin làm chân văn thư cho ủy ban xã không được, xin làm công an xã. Rồi nó được cảm tình Ðảng(11)...
- Tiến bộ quá !
- Tiến bộ gì. Con bé nhà tôi năm nay hăm nhăm rồi. Vẫn chưa chồng. Khốn nạn, nó xinh, ông ạ. Mắt đen lay láy, mà nhanh lắm. Má lúm đồng tiền. Da cứ trắng hồng. Nó trông mẹ nó, như lột.
Ông nấc lên, kéo vạt áo lau mắt.
- Cô ấy làm sao ?
- Chẳng làm sao cả. - ông mếu máo - Thằng công an xã, chi ủy viên, cứ gọi nó đi hội ý hội báo, bồi dưỡng...Rồi con bé nhà tôi phễnh bụng ra.
- ...
- Tôi phẫn chí. Chưa ai biết cả, nhưng bà nhà tôi biết, tôi biết. Tôi uống rượu, say rồi, tôi chửi cha chúng nó, chửi cả lò nhà chúng nó ...
- Chết thật !
- Ðến khi làng phong phanh biết con tôi chửa hoang, thì tôi chửi cả cái Ðảng của chúng nó...
- Chậc chậc, khiếp quá ! Sao bác dại thế ?
- Không chửi để cho chúng nó muốn làm gì thì làm à ? Ðảng gì mà họp thì thọt, bồi dưỡng đảng viên mới gì mà cứ tối đến mới í ới gọi nhau đi bồi dưỡng, bồi dưỡng cái mả cha chúng bay à ?!
Rác tai quá, bí thư xã, chủ tịch xã cho con gái ông đi dự lớp huấn luyện, kỳ thực là đi phá thai. Ông biết, ông cấm con gái ông phá. Cái thai nó tội tình gì ? Nó cũng là một con người chứ. Nó chưa ra đời. Nó chưa làm hại ai. Nó không như cái quân chó dái chạy nhông, quân ăn cứt uống đái làm hại đồng bào. Không được phá thai, cứ đẻ ra tao nuôi, giết cái thai là bất nhân, là vô đạo, ông trói con và chân giường mà dạy. Nhưng con ông xấu hổ, không nghe ông, cứ đi phá thai. Ông uống rượu nhiều hơn nữa, chửi dữ hơn nữa.
Tóm lại, ông Bát chửi sướng miệng thì thôi. Còn những đứa bị ông chửi thì thù ông mục mả. Trưởng công an xã báo cáo công an huyện. Công an huyện lập hồ sơ. Cứ mỗi lần ông Bát chửi là một lần công an xã báo cáo, mỗi lần báo cáo được gửi lên là hồ sơ tên phản động Nguyễn Thái Bát lại dày thêm một chút. Cho tới ngày người ta bắt ông đi cải tạo về tội "tuyên truyền phản động, chống Ðảng, chống chế độ".
Tôi dửng dưng nghe ông kể. Những câu chuyện tương tự nghe nhiều rồi, đâm ra ngán.
- Tôi kể cho ông nghe để ông là nhà văn ông nhớ lấy, ông kể cho mọi người biết. Ðừng nói đến tên tôi là được rồi, kẻo tội cháu. Nó còn lấy chồng.
Ông Bát dặn tôi thế. Tôi ậm ừ :
- Nhà văn gì tôi ! Ở nước ta cứ viết dăm bài báo là người ta bốc nhau lên, gọi là nhà văn rồi.
- Thì ông đưa lên báo cũng được.
- Biết bao giờ tôi về ? Tôi cũng như bác thôi, cũng án cao su cả...
Ông thở dài :
- Ừ nhẩy !
- Mà giá có ra được, viết thế lại đi tù nữa, tôi ngán lắm rồi !
Ông không nói gì nữa.
Ông chết vào ngày Quốc Khánh, cái ông Bát đã đi cướp chính quyền năm bốn lăm. Ông đã ốm liệt trước đó gần một tháng, được trại cho đi nằm bệnh xá. Nằm được một ruần ông nằng nặc đòi về đội. Người ông phù thũng, trong ra như một con búp bê chứa đầy nước. Trại cũng không bắt ông đi làm lao động nữa, cho ông ở nhà. Hàng ngày ông ra đầu hè bắt rận.
Hai ngày trước khi chết ông không dậy, cứ nằm thiêm thiếp. Ông chỉ tỉnh lại khi nghe tiếng dao thớt ầm ĩ phía nhà bếp vọng lại. Ông mở mắt ra, vẫy tôi lại gần rồi thều thào bảo tôi :
- Ông xem giúp chúng nó chia có đều không ?
Tôi nể ông, giả vờ ra ngoài, chỗ tù đang xúm đông xúm đỏ chia thịt. Nhưng tôi chỉ đứng đó, chứ chẳng buồn nhìn. Tôi biết ông Bát chẳng còn sống được bao lâu. Không hiểu sao ông còn quan tâm tới suất thịt đến thế ? Mà có theo dõi hộ ông cũng vô ích. Tôi đã kể, tù số lẻ chia theo kiểu quay mặt đặt tên, nói chung là công bằng, hơn kém nhau không đáng kể. Vả lại, cảnh tượng những con người đói khổ hau háu theo dõi những miếng thịt tí xíu được đặt vào những cái bát sứt sẹo trông thảm lắm, tôi không muốn nhìn.
Cuộc chia thịt đã xong, ông bạn nằm cạnh ông Bát mang cái tô tráng men có ba miếng thịt to bằng ba quân cờ với bát canh sắn - khẩu phần của ông Bát - đến bên ông. Ông Bát đang khò khè, ngửi thấy hơi thịt là tỉnh hẳn.
- Phần ông đây ! - ông bạn ông Bát nói - Dậy mà ăn đi. Ngon lắm !
- Tôi xem cho bác rồi. Chia đều. - tôi nói - Suất của bác có phần còn nhỉnh hơn các suất khác kia đấy. Bác cố dậy mà ăn kẻo nguội.
Ông gật đầu, hoặc tôi nghĩ rằng ông gật đầu. Cố gắng một lát để ngồi lên, nhưng ngồi không được, ông ngã xuống. Cố thêm một lần nữa, ông nghển lên được, ngó vào bát thịt một cái rồi nói :
- Thịt rang à ? Tí nữa tôi ăn.
Ông nằm xuống và đi ngay, theo mọi người nhận xét. Tôi không có mặt lúc ông Bát đi.
Anh em tù ăn xong, vào tận chỗ ngó ông, mặt buồn rầu. Không ai nói câu nào. Như thế gọi là viếng.
Suất cơm của ông để chỏng chơ. Mọi người bảo cứ để đó, khi chôn thì đặt nó lên mộ ông thay cho bát cơm quả trứng.
Xác ông được đưa xuống trạm xá chờ cán bộ trại mang hồ sơ xuống xác nhận chính là tên phản động Nguyễn Thái Bát đã chết chứ không phải tên nào khác.
Khi cửa các phòng giam đã khóa lại rồi, tôi cứ ngồi bên cửa sổ mà nhìn về phía trạm xá. Trời tối hẳn mới thấy nghe tiếng búa nện chan chát trên ván thiên - dấu chấm hết cho một kiếp người. Rồi quan tài được khiêng ra dưới ánh sáng của một bó đuốc. Ði lững thững sau quan tài là một anh công an mang AK.
Không thấy suất ăn tươi của ông đâu. Chắc hẳn ai đó tiếc của giời đã ăn rồi. Còn hai cái bát họ sẽ đánh bóng mạ kền rồi đem chác cho tù mới.

(1) Người dứng đầu các lực lượng vũ trang sản xuất và buôn bán ma túy ở Tam Giác Vàng.
(2) Ông chủ (tiếng Anh).
(3) Uống trà, thưởng trà (tiếng Trung Quốc miền Nam).
(4) Tiếng chửi bậy.
(5) Chào ! (tiếng Trung Quốc).
(6) Ðúng thế ! (tiếng Trung Quốc).
(7) Trời hỡi ! (tiếng Nga).
(8) Vương quốc Chàm (Champa) nằm ở vùng Trung-Nam Việt Nam hiện nay, là một bộ lạc đi biển cùng nguồn gốc với dòng Indonesia, đã cát cứ tại đây từ thời kỳ đồ đá. Thủ đô là Indrapura Khoảng năm 1470 nước Việt Nam đã chiếm hoàn toàn vương quốc này.
(9) Tên đã thay đổi vì lý do tế nhị.
(10) Thường một trại có vài trật tự, lấy trong tù số chẵn và cả trong tù số lẻ. Có trại không một người tù số lẻ nào chịu làm trật tự, chỉ có trật tự số chẵn.
(11) Nghĩa là được Ðảng chú ý tới để bồi dưỡng thành đảng viên.


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY Thay Lời Cuối -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên




.

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...