. .

Saturday, March 28, 2009

ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 1-6 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


Vũ Thư Hiên

Tiểu Sử

Ông Vũ Thư Hiên sinh ngày 18/10/1933 tại Hà Nội trong một gia đình mà cha là ông Vũ Ðình Huỳnh và mẹ là bà Phạm Thị Tề đều là thành viên của tổ chức Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội, tiền thân của Ðảng cộng sản Ðông Dương. Sau năm 1954, ông được cử đi học viết kịch bản điện ảnh tại Liên Xô và trở về nước năm 1959 làm việc cho Xưởng phim Việt Nam tại Hà Nội. Năm 1960, ông được chuyển sang làm biên tập viên và phóng viên báo ảnh Việt Nam.

Năm 1967, ông bị bắt sau cha là ông Vũ Ðình Huỳnh hai tháng, trong vụ án được gọi là 'vụ nhóm xét lại chống Ðảng'. Ông bị giam trong xà lim cá nhân bốn năm rưỡi, qua các nhà tù Hỏa Lò, Bất Bạt, Tân Lập. Sau một lần tuyệt thực để phản đối chế độ giam giữ tàn bạo, ông được cho ra trại chung ở lẫn với các 'phần tử phản cách mạng' khác, và tù hình sự. Vụ án không xét xử lôi kéo vào trong phạm vi của nó, không kể trên ba chục người bị giam cầm, trong số đó có những nhà cách mạng lão thành và những trí thức tên tuổi, kết thúc vào năm 1976 với người tù cuối cùng được tha là ông Vũ Thư Hiên.

Ông bị quy định cư trú tại Hà Sơn Bình, một tỉnh gần Hà Nội. Theo bản án không thành văn, chỉ được phổ biến miệng trong các cơ quan gọi là thực hành chuyên chính vô sản, ông không được phép viết báo, viết văn, thậm chí không được dịch sách, không được làm việc trong các cơ quan nhà nước. Tìm việc để kiếm sống trong thời gian này rất khó khăn. Nhờ bè bạn giúp đỡ, ông làm công nhân trong một xưởng cao su chuyên sản xuất đế giày cho hậu cần, rồi làm nhuộm mạ kim loại tại nhà, chế tạo các hóa phẩm và nhiều công việc linh tinh khác. Sau này, trong thời kỳ được gọi là 'cởi trói', 'bung ra', người ta nới lỏng hơn, cho phép ông được dịch thuê cho các Viện nghiên cứu. Tới khoảng giữa thập niên 80, sự nới lỏng còn được mở rộng hơn nữa. Ông được phép viết, nhưng vẫn không được phép đề tên mình. Ngay một cuốn sách dịch in năm 1961, nhà xuất bản muốn in lại cũng phải thay tên ông bằng một tên khác. Trong thời gian này ông viết được một số tác phẩm dưới những tên ký khác nhau.

Năm 1993 Vũ Thư Hiên được đi sang Nga với tư cách phiên dịch cho một công ty thương mại. Ông vận động để được ở lại, làm đại diện cho công ty. Trong khi làm việc ông bắt đầu viết cuốn hồi ký Ðêm Giữa Ban Ngày về chín năm bị giam cầm, trong đó ông muốn chia sẻ với người đọc những điều suy ngẫm về mô hình nhà nước chuyên chính vô sản.

Tin ông viết hồi ký lọt ra ngoài, ngày 1.6.1994 chính quyền Hà Nội cho một nhóm công an giả dạng kẻ cướp đột nhập nhà ông ở, đâm ông bị thương, rồi cướp đi bản thảo, tất cả phương tiện làm việc (computer, fax, telephone) tiền nong, thậm chí cả quần áo trong. Hai ngày sau vụ cướp, giữa đêm, một tên trong bọn 'cướp' còn gọi điện báo cho ông biết có thể nhận lại bản thảo đã được chép ra diskets tại ... lãnh sự quán Việt Nam.

Ðến cuối năm 1995, thấy không thể ở Moskva lâu hơn nữa, ông tìm cách qua Ba Lan. Ðến cuối năm 1996, sau một chuyến đi Paris, trở về Ba Lan ông được mật báo về tình hình nguy hiểm có thể xảy ra cho ông nếu nấn ná ở lại nước này để hoàn thành cuốn hồi ký. Do đó Vũ Thư Hiến quyết định qua tỵ nạn tại Pháp. Tại đây, ông đã hoàn thành tập hồi ký Ðêm Giữa Ban Ngày, được xuất bản vào tháng 4/1997.


Tác Phẩm :

- Lối Thoát (kịch), 1953
- Ðêm Cuối Cùng, Ngày Ðầu Tiên (kịch bản điện ảnh), 1963
- Bông Hồng Vàng, Tập Truyện Ngắn Của Paoustovsky, Cái Xích (dịch), 1961-1962
- Khúc Quân Hành Lặng Lẽ (tiểu thuyết nhiều tập, ký tên khác) in từ 1985-1989
- Luật Rừng (kịch bản), 1988
- Miền Thơ Ấu (tiểu thuyết), 1988
- Ðêm Giữa Ban Ngày (hồi ký), 1997


Vũ Thư Hiên

ÐÊM GIỮA BAN NGÀY



Tôi tặng cuốn sách này cho:
- Những người con của nước Việt đã cống hiến đời mình cho một nước Việt Nam độc lập, tự do và dân chủ.
- Hương hồn cha tôi, và những người cộng sản đã chết bởi tay các đồng chí của họ.
- Mẹ tôi, người dạy tôi sống không cúi đầu.
- Vợ tôi, người cùng tôi chia sẻ vô vàn khốn khó trong những năm tháng đen tối của đời tôi. Các bạn tù của tôi, cộng sản cũng như không cộng sản.
- Các thế hệ sau tôi, hi vọng họ sẽ không bao giờ phải sống như tôi đã sống, dưới bất cứ gông cùm chuyên chế nào.


Tự Bạch

Ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi ở miền Bắc Việt Nam nổ ra một vụ án lớn, cho đến nay vẫn còn là chuyện khó hiểu đối với nhiều người. Trong nhân dân, vụ án này có tên nôm na là vụ "xét lại chống Ðảng". Tên chính thức của nó ít ai được biết, kể cả các đảng viên cộng sản, là "Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài"(1). Ðây là tấn bi kịch lớn nhất trong hàng ngũ những người cộng sản ở Việt Nam, từ nhà cách mạng lão thành suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc cho tới đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ trong nền độc lập đã giành được(2). Trong vụ án này Ðảng(3) cầm quyền bất chấp luật pháp do chính mình đặt ra đã xuống tay hạ ngục, giam cầm và lưu đầy nhiều năm không xét xử những người có tư tưởng bất đồng. Nằm trong phạm vi trấn áp của vụ án do Ban tổ chức Trung ương Ðảng khởi xướng còn phải kể rất nhiều cán bộ, đảng viên có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với những người bị bắt. Ngoài ra, một số dân thường cũng bị Ðảng nhân tiện chụp cho cái mũ xét lại hiện đại để xử lý. Tất tật bị nhét chung vào một rọ, bị Ðảng trừng phạt bằng nhiều cách khác nhau, với mức độ khác nhau. Bị bắt năm 1967, những người tù không có án, còn gọi là tù "xử lý nội bộ", tới năm 1973 mới lần lượt được thả. Chưa hết. Sau sáu năm giam cầm họ còn phải chịu đựng những năm lưu đầy biệt xứ và quản thúc tại gia. Tưởng chừng vụ án đến đấy là kết thúc, nhưng không phải. Người cuối cùng trong số tù nhân được Ðảng ban cho ân sủng "xử lý nội bộ" mãi tới tận tháng Chín năm 1976 mới được ra khỏi cổng nhà tù. Người tù ấy là kẻ viết những dòng này. Ðáng ngạc nhiên là sau nhiều năm im lặng đáng sợ, nói theo cách của nguyên tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, những ban lãnh đạo Ðảng kế tiếp nhau tính từ thời tổng bí thư Lê Duẩn trở đi, vẫn khăng khăng khẳng định đảng của họ đúng trong cách xử lý vụ án, rằng những kẻ vi phạm luật pháp (của Ðảng và chỉ của Ðảng mà thôi) xứng đáng chịu những án hình lẽ ra phải nặng hơn những án hình mà Ðảng nhân từ đã ban cho. Trong chín năm tù tôi chỉ làm được một việc có ích, cho bản thân và cho những người mà tôi thương yêu, là giã từ được ảo ảnh về một chủ nghĩa cộng sản được tô vẽ như là thiên đường dưới thế. Sự nhìn lại đời mình cũng như sự quan sát số phận của đồng bào trong những nhà tù tôi đi qua đã mang lại cho tôi cái nhìn tỉnh táo không riêng đối với những hành động phi nhân của những vua chúa mới, mà cả một thể chế xã hội trong đó con người dù muốn dù không đều đánh mất mình. Cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay là một phần những quan sát của tôi, một phần những suy nghĩ của tôi, về cái xã hội khó hiểu mà số mệnh đã an bài cho tôi sống trong lòng nó. Xã hội này là khó hiểu bởi vì, căn cứ những gì tôi biết, nó khởi sinh từ những ý muốn tốt đẹp, bắt đầu bởi những con người lương thiện. Cũng căn cứ những gì tôi biết, tôi dám đoan chắc rằng trước kia, khi mới nhập vào dòng chảy không bao giờ ngưng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, họ không hề ấp ủ những mưu đồ xấu xa. Trong sự biến dạng của những người cộng sản, trong sự tha hóa của họ, cái gì là tác nhân - chủ thuyết mà họ theo đã nhào nặn con người họ thành ra như thế hay chính họ tự biến đổi để trở lại nguyên hình, cho đúng với bản thể do trời đất tạo ra, hay là cả hai cái đồng thời, tôi không rõ. Cuốn sách này chỉ là một chút ánh sáng soi rọi vào một vụ án cụ thể nhưng mang tính đại diện cho một thời kỳ cai trị của Ðảng cộng sản, một mảnh gương con phản ánh một số mặt ít người biết đến của xã hội Việt Nam. Là cái nhìn từ phía người trong cuộc, mọi hồi ức đều mang tính chủ quan. Nhưng, cũng lại với tư cách hồi ức, nó vẫn là bằng chứng đáng được chú ý, cho dù chỉ là bằng chứng từ một phía. Tôi cố gắng, trong chừng mực có thể, đưa ra bằng chứng của tôi về vụ án nói trên bằng ngòi bút công bằng. Trong cuốn sách này chỉ có sự thật. Hình thức văn học mà tác giả sử dụng trong cuốn sách chỉ vừa đủ cho bức tranh sự kiện không thành quá tẻ nhạt. Văn học đích thực không có chỗ nơi đây. Vì mục đích cuốn sách giới hạn trong một vụ án, cho nên nó không thể là cuốn sách nói về chế độ lao tù ở Việt Nam. Ðể nói về nhà tù Việt Nam cần một cuốn sách khác. Mà đó là một đề tài đáng được chú ý, chí ít cũng là một sự quan tâm không thể thiếu đối với số phận đồng loại trong một nửa thế kỷ. Quá khứ sẽ chẳng có ích cho ai bởi sự hồi tưởng đơn thuần. Quá khứ chỉ có ích khi con người lấy nó làm cái để mà suy ngẫm, rút ra từ trong lòng những sự kiện của nó bài học cho tương lai. Cuốn sách này không phải là lời lên án một xã hội nay mai sẽ trôi vào quá khứ. Tôi không dám đặt cho mình mục đích buộc tội. Chỉ vì lịch sử thường có sự lặp lại, cho nên tôi muốn gióng lên hồi chuông cảnh báo. Tôi cũng không thể đóng vai người buộc tội được bởi trong xã hội mà tôi sống tôi không đơn thuần là nạn nhân. Về mặt nào đó, trong chừng mực nào đó, tôi còn là thủ phạm. Tôi viết vì tôi không thể không nói lên tiếng nói của mình. Tôi quan niệm kẻ không dám nói "không" trước tội ác là kẻ đồng lõa với tội ác. Và sau hết, theo cách biểu đạt của nhà văn Nga Prishvine, tôi chỉ là "một cái lá trong hàng triệu cái lá của cây đời, và nói về một cái lá thì cũng là nói về những cái lá khác". Số phận tôi được nói đến trong cuốn sách này cũng là số phận của nhiều người cùng thế hệ. Xin hãy coi cuốn sách này là lời sám hối trước đồng bào của cha tôi nay đã không còn. Nó được thực hiện theo lời trăn trối của Người. Cuốn sách còn là một vòng hoa muộn, một nén hương thêm đặt lên mồ những nạn nhân xấu số của một thời kỳ đen tối, những con người bất hạnh đã không chờ được đến ngày cuộc đời lập lại lẽ công bằng cho họ.

(1) Mãi tới năm 1995 tôi mới được biết tên gọi chính thức của vụ án nhờ bức thư của ông Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng thời kỳ đó, đề ngày 3.2.1995, gửi Bộ Chính trị Ðảng cộng sản Việt Nam, trong đó ông Thành yêu cầu giải oan cho hơn 30 đồng chí bị bắt và bị xử lý. Tính riêng số người bị bắt không thôi đã vượt quá con số do ông Thành đưa ra. Có lẽ ông chỉ nói tới những người là đảng viên.
(2) "Có thể nói, sau những sai lầm, oan trái rộng rãi trong Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức (1956), thì đây là vụ án oan sai lớn nhất trong lịch sử Ðảng ta, xét về quy mô, tính chất. Và, có thể nói không ngoa, đây là vụ án oan sai lớn nhất trong hàng ngũ những người yêu nước Việt Nam của thế kỷ XX" (trích thư của ô. Lê Hồng Hà, nguyên Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ tổng hợp Bộ Nội vụ, trong thời gian xảy ra vụ án, gửi cho Ban chấp hành Trung ương Ðảng cộng sản Việt Nam khóa VII, đề ngày 18/7/1995, về vụ "nhóm xét lại chống Ðảng").
(3) Trong các tài liệu chính thức ở Việt Nam từ Ðảng viết hoa được dùng để chỉ Ðảng cộng sản Việt Nam, với ý nghĩa tôn sùng. Trong cuốn sách này nó cũng được viết hoa như vậy cho tiện, cho vắn tắt, chứ không hàm nghĩa đó.






:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 1

Lễ mừng Thiên chúa Giáng sinh năm 1967 tại Hà Nội chẳng hứa hẹn một sự náo nhiệt thường có. Quá nửa số dân đã sơ tán khỏi thành phố. Người ở lại phần nhiều là cán bộ nhân viên các cơ quan Trung ương và địa phương, dân quân tự vệ, cộng với một số dân thường vì lý do này hay lý do khác không thể đi được. Phố xá mất đi vẻ sầm uất. Nhiều nhà đóng im ỉm. Bên trên mái đá đen các công thự cũ thời thuộc địa, trên nóc các nhà cao tầng mới xây, tua tủa nòng đại liên trung liên ngóc lên trời xanh nhiệt đới. Vỉa hè lỗ chỗ hầm trú ẩn cá nhân làm bằng ống cống.
Chiến tranh thực sự chưa dạo bước trên ba mươi sáu phố phường, nhưng bóng đen của nó đã trùm lên mái ngói âm dương thanh bình của kinh thành Thăng Long cổ kính. Trong phố vắng những người ở lại, phần lớn thuộc lớp tuổi trẻ, quần áo gọn gàng, dáng tất bật, cắm cúi đi sát tường, khẩu AK trên vai. Phóng viên AFP ở Hà Nội nhận xét: "Hà Nội bình thản và nhanh chóng hòa nhập với nếp sống thời chiến, cho dù ở bờ bên kia Thái Bình Dương Lầu Năm góc chưa vội vã tuyên bố chiến tranh với nước Việt Nam cộng sản". Hà Nội sẵn sàng để chống trả.
Người Hà Nội làm việc, ăn, ngủ, yêu đương, sinh con đẻ cái trong bầu không khí căng thẳng chốc chốc lại vỡ ra bởi tiếng nổ của mọi cỡ súng lớn nhỏ rộ lên từng đợt mỗi khi máy bay Mỹ bay ngang; trong tiếng cô phát thanh viên quen thuộc vang vang trên các phố vắng "Ðồng bào chú ý! "Ðồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội ba mươi cây số! Máy bay địch cách Hà Nội hai mươi cây số! Máy bay địch cách Hà Nội mười lăm cây số!"; dưới những vệt khói trắng mỏng manh của tên lửa đất đối không SAM-1, SAM-2... vun vút kẻ chỉ lên trời xanh nhiệt đới.
Cuộc xung đột vũ trang của dân chúng miền Nam chống lại chính quyền Sài Gòn bắt đầu bằng những trận đánh lẻ tẻ từ đầu thập niên 60, được Hà Nội khuyến khích và yểm trợ, đã mau chóng lớn lên thành nội chiến. Người Mỹ nhảy vào, biến nó thành chiến tranh Việt-Mỹ, thành cuộc đối đầu giữa hai phe cộng sản và tư bản thế giới. Trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu đã kéo dài nhiều năm, cuộc chiến tranh nóng ở Việt Nam còn kéo thêm một số quốc gia vào lò lửa của nó, hứa hẹn một sự dai dẳng không biết khi nào mới kết thúc. Trên lãnh thổ Bắc Việt Nam cuộc giao tranh độc đáo và dữ dội chưa từng có giữa bầu trời và mặt đất, bắt đầu từ năm 1965, là sự phát triển tất yếu của cuộc chiến tranh cục bộ nọ. Bằng những trận không tập ồ ạt, rất ác liệt, không ngưng nghỉ, tổng thống thứ 36 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ quyết tâm bắt miền Bắc Việt Nam phải quỳ gối trước sức mạnh của vũ khí(1).
Ðêm trước, người Hà Nội thở phào nhẹ nhõm nghe giữa lao xao sóng điện đài gần đài xa tin các bên tham chiến trên bán đảo Ðông Dương đã thỏa thuận được với nhau một ngày ngừng bắn nhân dịp kỷ niệm Chúa Kirixitô ra đời. Lễ mừng Thiên Chúa Giáng sinh 1967 đến với Hà Nội như một ngày hòa bình bất ngờ, một ngày không bình thường trong cuộc chiến, không phải nhờ ơn người mà nhờ ơn Chúa.
Thành phố yên tĩnh như thể chưa bao giờ nó yên tĩnh như thế. Từ sáng sớm không có còi báo động. Chỉ có tiếng loa lanh lảnh nhắc nhở mọi người cảnh giác trước hành động bất trắc của kẻ thù. Quanh Hồ Hoàn Kiếm dân đi lại nhộn nhịp hơn ngày thường. Nhân đợt ngưng chiến ngắn ngủi, những người sơ tán gần thành phố hối hả đạp xe về nhà. Họ tranh thủ khoảng thời gian yên tĩnh ngắn ngủi để đi khám bệnh, đi mua bán, thăm hỏi người thân, đến chơi với bè bạn, ăn với nhau một bữa cơm, uống với nhau một tuần trà, để rồi sớm hôm sau lại tất tả lên đường. Bên miệng hầm tập thể vắng bóng những bà mẹ nhỏ bé bế con nép dưới những khẩu hiệu nhiều kiểu nhiều cỡ "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nước hồ phẳng lặng. Tháp Rùa hiện lên không rõ nét trong sương mù lãng đãng. Gió bấc thổi nhẹ. Trời se lạnh. Hà Nội vào đông muộn hơn mọi năm.
Tôi đang thong thả đạp xe từ Hàng Trống qua Hàng Bài thì bỗng nghe tiếng người gọi tên mình. Mải suy nghĩ tôi không nghe thấy ngay, đến khi nghe thấy thì đã đạp quá mất một quãng. Người gọi tôi dừng xe, khua tay loạn xạ để tôi nhận ra anh ta. Thấp béo, đầu sùm sụp cát-két dạ trên cái mặt tròn, trong bộ đồ bảo hộ lao động nhàu nhã, anh ta hớn hở khi thấy tôi quay mặt về phía mình. Ai thế nhỉ?
Ðành phải tạt vào vỉa hè, dừng xe trước một cửa hàng đóng im ỉm trong những cánh gỗ nham nhở, trước kia là hiệu chuyên doanh đồ sơn mài.
- Gớm, tìm anh gần chết! - anh chàng phanh xe lại ngay trước mặt tôi, cười tít, người chúi về phía trước, hai mắt chỉ còn là hai đường chỉ - Anh về ngay cơ quan, thủ trưởng đang đợi anh. Nhanh lên, để kịp tiếp khách! Em qua nhà, chị nói anh vừa đi, em phóng theo ngay, nhưng không kịp...
Ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài, cơ quan cấp trên của báo ảnh "Việt Nam", thỉnh thoảng lấy tôi qua làm việc cho ủy ban. Công việc tôi được giao là giúp thủ trưởng Ủy ban tiếp khách. Người ta dùng tôi vào việc này chẳng qua để cho đỡ tốn, bớt được một phiên dịch. Chả là khách đến phần nhiều từ Liên Xô hoặc các nước Ðông Âu, đều biết nói tiếng Nga, là thứ tiếng tôi thông thạo. Tôi lại có thể kiêm hướng dẫn viên du lịch đưa khách đi thăm danh lam thắng cảnh thủ đô hoặc các địa phương, lại có thể giới thiệu cho họ đôi nét về lịch sử Việt Nam. Công việc kể ra cũng dễ chịu, nếu như khách toàn là nghệ sĩ hoặc nhà hoạt động văn hóa. Nhưng đôi khi rơi vào số khách lại là những nhà chính trị được cử sang lãnh đạo văn nghệ. Những người khách này lập tức phương xa, phần lớn lịch sự và phong nhã, mang lại cho tôi những giờ phút vui vẻ và hơi hướng xứ lạ, là cái bao giờ cũng làm cho cuộc sống hàng ngày đơn điệu bớt tẻ nhạt.
Ðiều làm tôi ngỡ ngàng là khoảng nửa năm nay người ta đã không còn dùng tôi vào việc tiếp khách nữa, không hiểu sao nay lại gọi đến?
Kể từ năm 1964, khi cuộc đối đầu Trung Xô trở thành căng thẳng, thì bầu không khí chính trị ở Việt Nam cũng nóng lên theo. Khắp nơi người ta la lối về nguy cơ của chủ nghĩa xét lại hiện đại và sự cần thiết phải chống lại nó. Những cán bộ bướng bỉnh dám phát biểu những lời nói không vừa tai nhà cầm quyền về bất cứ vấn đề gì, không cứ về đường lối đối nội hay đối ngoại của Ðảng, đều bị lập tức coi là phần tử xét lại, chí ít thì cũng là phần tử hữu khuynh không đáng tin cậy. Tôi bị liệt vào số đó.
- Anh hôm nay không bận gì đấy chứ?
Một câu hỏi để mà hỏi. Vớ vẩn. Ủy ban đã cho gọi thì tôi nhất định phải đi rồi, có thoái thác cũng chẳng được.
- Anh về trước đi! - tôi càu nhàu - Tôi qua nhà một lát, thay quần áo cái đã.
Tôi đã có chương trình cho hôm nay. Tôi không thích nó bị phá vỡ. Tôi đã tính đưa vợ con đi chơi. Ðược đi chơi trong một ngày hiếm hoi không có báo động thật là tuyệt. Chúng tôi sẽ đến thăm một người bạn cũ lâu không gặp. Có thể chúng tôi sẽ ăn cơm ở đó. Vợ tôi muốn cho các con đi cùng, nhân thể mua sắm mấy thứ lặt vặt.
Tôi ngán ngẩm nhìn thằng cha phá quấy. Chán quá, Ủy ban không báo trước để tôi có thể sắp xếp công việc của mình. Mà tay này ở đâu ra nhỉ? Có lẽ ở phòng bảo vệ. Ngoài bộ phận đó ra, có ai đi làm chủ nhật ?
- Dào, chẳng sao đâu. - y nhe hàm răng cải mả, cười không có tiếng - Ðang đánh nhau, mặc thế nào chả được. Thế này tươm chán. Khách lại đang đợi.
Trên người tôi là cái áo bông xanh, cái quần ka ki, cả hai đều mới, nhưng nhàu nát. Ðã lâu chúng tôi quên hẳn là quần áo. Không ai trách ai vận đồ không có nếp. Thời chiến quần áo phẳng phiu quá, nếp là rõ quá, còn bị phê phán là sang trọng rởm. Nó là cái gì nếu không phải tàn dư của nếp sống tư sản? Tôi còn lưỡng lự, thì anh chàng đã trườn về phía tôi.
- Anh về làm gì?! - y nắm chặt ghi-đông xe tôi - Xe đến rồi kìa!
Một chiếc com-măng-ca Liên Xô phanh két bên cạnh tôi. Cửa xe bung ra. Hai thanh niên đen nhẻm phóng xuống. Không nói không rằng chúng kéo tôi lên xe. Tôi nhìn anh chàng vừa gọi tôi. Bộ mặt nhăn nhở biến mất, thay vào đó là đôi mắt cá và tiếng cười gằn:
- Lên xe ngay! Biết điều đừng chống cự!
Giờ thì tôi nhớ ra: thằng cha này thường lẽo đẽo theo tôi mấy ngày gần đây. Vận đồ bộ đội, cái xà-cột lủng lẳng bên hông, y lấp ló như một con chuột trong đám đông. Cũng trong thoáng ấy tôi nhìn thấy hơn một chục xe đạp tản ra từ chỗ chiếc com-măng-ca vừa đỗ. Ðó cũng là những tên tham gia vụ bắt cóc, nhưng sự việc diễn ra gọn gàng, chúng chưa phải động thủ. Mọi tình huống đã được lường trước, được sắp xếp trước, y như trong một phim gangster.
Không một người qua đường nào biết ở nơi này vừa xảy ra chuyện gì. Những chiếc xe đạp vẫn vun vút phóng qua. Trong tiệm đồng hồ, sau tủ kính, tôi nhìn thấy Sinh cắm cúi làm việc. Anh là người quen của tôi. Nếu anh ngẩng lên hẳn anh nhìn thấy tôi bị lôi lên xe. Nhưng anh không ngẩng lên. Hình ảnh ghi lại trong trí nhớ của tôi vào mấy giây cuối cùng là một người đàn bà bồng con vượt qua mũi xe. Ðứa bé ngủ say trong tấm ni-lông cứng quèo, má hồng lên trong gió bấc. Theo cái cách kỳ cục như thế, tôi trở thành kẻ tham gia cái gọi là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế. "Thế là cái việc phải đến đã đến!", tôi tự nhủ, ngả người trên tựa ghế xe, lòng hoàn toàn bình thản.
Không hiểu sao, vào đúng cái khoảnh khắc gay cấn nhất, tệ hại nhất trong đời mình, tôi không nhớ đến cái gì khác mà lại nhớ tới một câu nói nổi tiếng của Nguyễn Tuân(2): "Nước ta là một pháp trường trắng. Không có đầu rơi, không có máu chảy, nhưng có người chết!".
Bác Nguyễn ơi, bác sai mất rồi. Pháp trường Việt Nam, kể từ năm 1945, không hề trắng. Ðã có đầu rơi, đã có máu chảy. Và có nhiều người chết. Bằng nhiều kiểu chết khác nhau. Bây giờ tôi mới hiểu Nguyễn Tuân thốt lên câu đó trong hoàn cảnh nào. Mấy năm trước, trong một phút phân thân, nhà văn già bỗng bàng hoàng nhìn thấy trước mắt mình một quần thể nhân sinh kỳ lạ không hiểu sao lại kết thành hàng ngũ để sống trong nghi kỵ và thù hằn, trong cuộc chiến không lúc nào ngưng nghỉ. Một cuộc chiến âm thầm, không tiếng súng, với những xác chết không thương tích, hoặc sống vật vờ, với bộ não vô dụng, như những dômbi(3).
Giờ đây, trong cuộc chiến mà Nguyễn Tuân nói tới, tôi đã thành con mồi của nó. Tôi đang được đưa đi đâu đây? Tới pháp trường nào?
Ðó là chủ nhật 24 tháng 12 năm 1967.
Tôi nhớ từng chi tiết của ngày hôm đó. Trong hồi tưởng, tôi thấy rõ mồn một, như trước mắt tôi mọi chuyện được diễn ra một lần nữa. Thời gian đang trôi đột ngột dừng lại. Như một cadre-stop trong cuốn phim đang chiếu. Nó là ngày bước ngoặt, ngày cắt đôi, ngày ranh giới của đời người. Về sau tôi mới biết cảm giác đó chẳng phải của riêng tôi - bất cứ ai từng bị bắt cũng nhớ từng chi tiết vụn vặt nhất của cái ngày đáng nguyền rủa đó.
Tôi ra khỏi nhà lúc chín giờ sáng và mất tăm từ đó. Cả nhà tôi bổ đi tìm, nhưng không thấy tôi ở bất cứ đâu, ở nhà họ hàng cũng như ở nhà bè bạn. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, vẫn biền biệt. Thẻ Nhà báo, giấy chứng minh nhân dân tôi thường mang theo người được tìm thấy trong ngăn kéo bàn viết. Như vậy, nếu chẳng may xảy ra tai nạn giao thông người ta cũng chẳng biết nạn nhân là ai.
Vợ tôi đạp xe khắp Hà Nội, đập cửa bè bạn báo tin dữ. Bè bạn tôi nháo nhác. Họ lao tới các bệnh viện, các trạm cấp cứu, xục tìm trong những nhà xác tanh tưởi với những xác chết đủ mọi dạng, trong mọi tư thế. Thời chiến, trong nhà xác la liệt cả đống thi thể vô thừa nhận, nhưng không ở đâu có xác tôi. Mẹ tôi bình tĩnh hơn mọi người. Bà im lặng, suy nghĩ. Không khí hoảng hốt trong gia đình không lây được sang bà. Ngay từ đêm đầu tiên không thấy tôi trở về nhà, mẹ tôi đã đoán tôi bị bắt. Hai tháng trước, đêm 18 tháng 10 năm 1967, cha tôi đang nằm đọc báo thì một toán công an hùng hổ xông vào nhà dựng ông dậy, đọc lệnh bắt khẩn cấp và lệnh khám nhà. Một nhóm đẩy ông lên xe chở đi, nhóm còn lại chia nhau ra lục lọi các phòng cho tới gần sáng, lấy đi nhiều giấy tờ, sách báo và ảnh chụp. Ðêm cha tôi bị bắt, cũng là sinh nhật tôi, tôi đang ở Nam Ðịnh. Thành phố thợ dệt chìm trong bóng tối. Ðèn đường tắt ngấm.
Tôi lang thang trong các phố hiu quạnh, dưới ánh sáng nhợt nhạt của trăng rằm lọt qua kẽ lá. Cuộc leo thang của không lực Mỹ đã vượt quá Nam Ðịnh lên phía Bắc. Thành phố chịu bom hàng ngày. Nhà máy sợi sập từng mảng, khu dân cư Hàng Thao bị san bằng. Dưới chân tôi là gạch vỡ nhà đổ lẫn với đủ mọi thứ tạp nham của đời thường bị thuốc nổ và mảnh bom phá nát - những cái bát vỡ, manh chiếu cháy dở, những trang vở học trò phất phơ trong gió thoảng, con búp bê cụt đầu lăn lóc bên cạnh cái xe nôi tơi tả... Trong những ngày đó tôi không nghĩ tới cuộc chiến tranh nào ngoài cuộc chiến tranh với nước Mỹ. Thế nhưng một cuộc chiến tranh khác, hoàn toàn không ngờ tới, đã xảy ra. Vụ bắt bớ những người có quan điểm bất đồng với Ðảng cầm quyền trong cái gọi là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối bắt đầu từ tháng 7 năm 1967.
Nạn nhân đầu tiên của nó là viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính(4), phó tổng biên tập tờ Hà Nội Mới Phạm Viết, phó tổng biên tập tạp chí Học Tập Kỳ Vân và vài người khác. Như một cơn gió đen, tin Ban tổ chức Trung ương Ðảng phát hiện kịp thời và bóp chết từ trong trứng một âm mưu phản loạn lan nhanh trong thành phố. Ðến lượt cha tôi và thiếu tướng Ðặng Kim Giang(5) cũng bị bắt thì dư luận ồn hẳn lên. Chỗ nào người ta cũng thì thào bàn tán về sự kiện này. Những người cộng sản thuộc thế hệ già ngán ngẩm: "Thôi thôi, lại như cái đận Cải cách ruộng đất rồi, có khác gì đâu. Mấy ông lãnh đạo nhìn đâu cũng thấy phản động, bắt bớ lung tung, sau đó thì lại xin lỗi, lại sửa sai, rõ chán chuyện! Mạng cán bộ thời nay đúng là không bằng mạng ngóe". Số cán bộ cấp thấp hơn to nhỏ với nhau: đây rõ ràng là một cuộc sát phạt, chứ các đồng chí lão thành cách mạng thế kia sao có thể là phản động được? Ðàng sau vụ bắt bớ này chắc chắn là một âm mưu gì đó, vì cái ghế, vì hưởng thụ thôi; bây giờ các ông kễnh chỉ nghĩ tới cái đó, tới tiêu chuẩn, chứ xét đi xét lại cái gì đâu? Những người trước nay không ưa chế độ thì mở cờ trong bụng: "Chúng bắt đầu thịt nhau rồi! Ðã bảo cộng sản là thế mà, chúng không sống yên được một ngày không có máu. Chỉ tội nghiệp cho mấy người hiền lành không cùng phe cánh với chúng, tuy họ cũng là cộng sản".
Ngày hôm sau, không thấy tôi trở về, mẹ tôi tức tốc đạp xe tới Hỏa Lò. Trước một bà mẹ hung dữ vì vừa mất chồng nay lại mất con, các cán bộ công an chối đây đẩy rằng ở chỗ họ không có ai tên là như thế. Viên giám thị Hỏa Lò lật đật mang cả sổ tù ra tra trước mặt mẹ tôi cho bà thấy: bác đừng nghĩ quẩn, nếu anh ấy ở đây thì phải có tên trong sổ, anh ấy phải làm gì phạm pháp thì mới bị bắt chứ. Không, không có tên anh ấy ở đây đâu, tôi tra hết rồi, xem kỹ lắm rồi, hay là bác sang bên Bộ mà hỏi.(6)
Tại phòng tiếp khách Bộ Nội vụ ở 16 Trần Bình Trọng, một sĩ quan mặc áo dạ(7) không quân hàm tiếp mẹ tôi. Anh ta làm bộ ngạc nhiên: - Chết chết, sao bác lại nghĩ thế! Bắt người thì phải có lệnh bắt chứ, kể cả trong trường hợp bắt khẩn cấp bộ phận trực ở Bộ cũng phải được biết. Không phải đâu, bác ạ, làm gì có chuyện bắt cóc thời bây giờ. Bác đợi cho một chút, tôi kiểm tra ngay lập tức xem có chuyện gì xảy ra với anh Hiên mà các quận được biết không. Trước mặt mẹ tôi anh ta gọi điện hỏi các khu công an Hà Nội. Không ở đâu có tin về tôi. Tiễn mẹ tôi, viên sĩ quan còn ân cần dặn bà khi nào tôi về nhà thì xin báo ngay cho Bộ Nội vụ biết.
"Phải công nhận hắn ta đóng kịch cũng khéo. - mẹ tôi kể lại - Nhưng khéo thì khéo, không qua được mặt mẹ. Miệng hắn leo lẻo, nhưng mặt mày thì lại nhớn nhác, tay chân quýnh quáng. Bụng bảo dạ: nếu bọn này có tập quán giống bên công giáo chắc hắn sẽ kêu tên Mác mà thề quá". Như bao lần gia đình tôi gặp bão táp mẹ tôi chứng tỏ bà là cây cột cái vững chắc gánh toàn bộ sức nặng của ngôi nhà trên vai, quyết không cho nó sụp đổ. Bà lau nước mắt, chu đáo lo toan trăm thứ việc có tên và không tên cho con cái như thể không có chuyện gì xảy ra. Trong những ngày này, mẹ tôi kể, bà nghĩ đến thần tượng của bà rất nhiều.
Ðêm đêm bà ngồi một mình trong căn nhà vắng lặng. Bà đã tin ông Hồ Chí Minh. Bà đã tin ông lắm lắm. Còn hơn tin, bà sùng kính ông, người anh cả của cách mạng, lãnh tụ của bà. Bức chân dung cỡ 18x24 ông Hồ Chí Minh tặng bà với dòng chữ "Thân ái tặng thím Huỳnh" trước ngày ông lên đường dự hội nghị Fontainebleau năm 1946 được bà gìn giữ như của gia bảo. Suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều lần chạy giặc càn mất hết đồ đạc nhưng tấm ảnh vẫn còn đó. Nó chỉ bị thu khi công an khám nhà.
Nhiều người khuyên bà hãy cầu cứu ông Hồ. Dù muốn dù không Lê Duẩn(8) và Lê Ðức Thọ(9) vẫn còn phải nể ông, họ nói. Mọi người tin chắc ông không biết việc xảy ra. Nếu ông biết, ông không bao giờ để xảy ra chuyện nồi da nấu thịt thế này. Vài năm nay, do sức khỏe kém, ông Hồ không còn trực tiếp điều khiển công việc đất nước.
Mẹ tôi không tin. Bà cho rằng để khởi lên một vụ lớn như thế này, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ không thể không hỏi ý kiến ông Hồ, ông không thể không biết. Vụ bắt bớ chỉ được tiến hành một khi có sự đồng ý của chủ tịch nước. Bà nhận xét: không phải vô cớ mà trong khi khám nhà, công an quan tâm đặc biệt những tấm ảnh cha tôi chụp chung với ông Hồ, những tư liệu liên quan tới ông Hồ, tất cả đều bị mang đi. Cha tôi bắt đầu giữ những tư liệu về cách mạng, đặc biệt về ông Hồ Chí Minh kể từ khi ông nhận sự phân công của Trung ương Ðảng làm bí thư cho chủ tịch nước.
Vào những năm đầu cách mạng chưa có cơ quan chuyên trách lo bảo quản những tư liệu lịch sử, cho nên cha tôi cho rằng ông có trách nhiệm lưu trữ những gì trong tầm tay của ông, không để chúng bị mất. Cha tôi giữ được khá nhiều ảnh - từ những bức chụp ông Hồ tại chiến khu Tân Trào với đội liên quân Việt Mỹ, những ngày ông Hồ vừa từ chiến khu về Hà Nội, Lễ Tuyên bố Ðộc lập tại vườn hoa Ba Ðình, chuyến chủ tịch nước sang Pháp năm 1946, nhiều nhất là ảnh trong An toàn khu của chính phủ kháng chiến. Những ảnh khác cha tôi chụp chung với các nhà lãnh đạo cũng bị thu hết ... Mấy bức ảnh chân dung họa sĩ Pablo Picasso, nhà văn Ilia Ehrenburg(10) với lời đề tặng cha tôi tại Paris năm 1946, chẳng liên quan gì tới vụ án, bọn chúng cũng thu tuốt. Tuy nhiên, đây là chuyện dễ hiểu - vào thời kỳ này nhân viên công an thường được chọn lựa trong nông dân ít học. Họ chẳng biết Picsso hoặc Ehrenburg là ai. Dưới mắt họ, ảnh những thằng Tây mũi lõ tìm được trong nhà một đối tượng của cách mạng, gợi nên sự nghi ngờ - hẳn đây phải là ảnh của bọn phản động quốc tế. Chính do những suy nghĩ như vậy mà mẹ tôi không nghe theo lời khuyên của bè bạn. Bà không xin gặp, không thèm viết một dòng nào cho ông Hồ Chí Minh. Bà cũng không nghĩ tới chuyện cầu cứu Trường Chinh(11). Từ khi mất chức tổng bí thư, Trường Chinh lầm lũi ở ẩn trong sự đường bệ còn lại, tránh can thiệp vào công việc của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ. Vả lại, cho dù trong khi còn đương chức Trường Chinh bây giờ không hề giống Trường Chinh trước tổng khởi nghĩa. Nếu như trong thời kỳ bí mật Trường Chinh chu đáo với anh em bao nhiêu thì bây giờ ông ta lạnh nhạt với đồng chí bấy nhiêu. Hệt như đã xảy ra một cuộc đánh tráo vậy.
Tôi kể chuyện này làm thí dụ. Ông Trần Ðình Long(12), người bạn và đồng chí gần gụi của Trường Chinh bị Quốc dân đảng thủ tiêu năm 1946, để lại vợ và ba đứa con. Hòa bình lập lại, bà Long từ vùng tản cư Phát Diệm trở về Hà Nội. Năm lần bẩy lượt bà tìm đến Trường Chinh, nhưng không được ông tiếp. Người kể cho tôi nghe câu chuyện đáng xấu hổ này là ông tài xế Ðoàn Xuân Sơ, từng là cơ sở cách mạng. Khi ông Sơ chất vấn ông Bùi Lâm(13) chuyện xử sự của Trường Chinh thì Bùi Lâm giải thích : "Con mẹ Long làm như có mình chồng nó hy sinh cho cách mạng. Hy sinh cho cách mạng có hàng đống, nó làm mình làm mẩy, nằng nặc đòi cách mạng phải lo cho các con thằng Long, rõ ngu! Anh Thận(14) không tiếp nó là phải". Nóng mắt, ông tài xế Ðoàn Xuân Sơ tống ông quan tòa Bùi Lâm ra khỏi cửa : "Vợ đồng chí gặp khó khăn thì tìm đến đồng chí chứ còn tìm ai? Biết chúng mày là giống ăn cháo đá bát chắc vợ thằng Long đã chẳng thèm gặp. Cút ngay khỏi nhà tao! Ðồ đểu! Cả lũ chúng mày đểu! Cút!". Người vợ và ba đứa con của người cộng sản Trần Ðình Long, bị các đồng chí chối bỏ, lếch thếch dắt nhau xuống Hải Phòng nhập vào dòng người di cư vào Nam. Hai con trai ông Long sau năm 1975 vượt tiếp sang Ữc. Chỉ còn lại một người con gái lấy chồng ở lại Sài Gòn. Nhân tiện cũng xin nói rằng ông Bùi Lâm này, hồi hoạt động bí mật đã ở nhà tôi, là đồng chí rất thân thiết của ông Long và cha tôi. Với gia đình tôi ông là người trong nhà, nhưng sau khi cha tôi bị bắt ông cũng không hề lai vãng một lần.
Ðó là tình đồng chí trong những người cộng sản khi đã giành được chính quyền, đã phân chia ngôi thứ.
Những người vẫn còn đến với gia đình tôi trong những ngày sóng gió đều vì tình bạn, chứ không phải vì tình đồng chí, cho dù họ có là cộng sản.
Bà cũng không nghĩ tới Phạm Văn Ðồng(15). Ông quen cha mẹ tôi từ những năm 40 khi còn thanh niên, đang săn đón người vợ tương lai ở hàng kem Zephyr Bờ Hồ. Mẹ tôi biết có tới gặp ông cũng vô ích. Phạm Văn Ðồng, theo bà nhận xét, là người không xấu, nhưng ba phải, vụng về và vô tích sự. Ông lúng túng trước bất cứ một việc cụ thể nào, dù chỉ để đóng một cái đinh giúp hàng xóm, như các bạn ông thường giễu cợt. Dư luận ca ngợi ông liêm khiết, ông đứng đắn, nhưng những ai quen biết ông đều hiểu ông không làm nổi trò gì trong những việc lẽ ra ông phải làm. Những người từng là bạn ông khi gặp chuyện rắc rối với chính quyền buộc lòng phải cầu cứu ông còn thất vọng hơn. Họ tìm đến ông vì chẳng gì ông cũng là một trong các nhà lãnh đạo quốc gia, ông mà nói cho một câu thì cũng đỡ. Của đáng tội, ông cũng không nhẫn tâm xua đuổi họ, ông an ủi, ông hứa hẹn, rồi ông chẳng làm gì hết. Có khi những gì người ta nhờ ông cũng nhớ, cũng muốn giúp họ lắm, nhưng để tránh tiếng ông lại đi nhờ người khác, rồi ra cái sự nhờ lại ấy có được việc hay không ông không quan tâm. Ông đã nói hộ rồi mà, có phải không nói đâu, khốn nỗi là việc khó giải quyết, các đồng chí từ chối không giúp có nghĩa là không giúp được. Ông không muốn mất lòng một ai, nhất là mất lòng cấp trên. Quả nhiên đúng. Một đồng chí cũ thương mẹ tôi đến nói với Phạm Văn Ðồng chuyện cha tôi bị bắt. Ông nghe rồi thở dài nói: "Việc tập thể quyết định, tôi làm gì được!"
Mẹ tôi chỉ còn biết tìm người bạn thân thiết nhất của cha tôi trong thời kỳ hoạt động bí mật là ông Nguyễn Lương Bằng(16). Những ngày ấy ông đi vắng, người ta nói. Mà cũng có thể ông tránh mặt.
Từ Nam Ðịnh trở về, nhìn cảnh nhà tan hoang, tôi hỏi mẹ chuyện xảy ra thì bà cười cay đắng, mắt ướt nhòe:
- Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa bằng được. Ðến khi biết không khóa nổi, chúng nó lấy thừng trói giật cánh khuỷu rồi điệu bố ra xe bịt bùng chở đi. Lúc chúng nó khám nhà, mẹ quẳng cái khung kính có giấy chứng nhận Huân chương Kháng chiến hạng nhất của bố vào mặt chúng nó: "Các người khám kỹ cái này đi, xem ở mặt trái nó có gì?". Chúng nó xử sự, hừm, đúng như cụ Nguyễn Du tả:" Người nách thước, kẻ tay đao. Ðầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi..." Trong lòng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt.
- Lòng người khôn lường, con ạ! Mới biết không thiếu gì kẻ quên đạo làm người khi ngồi vào ghế vương giả. Bàng hoàng trước sự việc bất ngờ, bà không sao tin được rằng nó xảy ra, không sao tin được rằng chính quyền được xây dựng nên bởi cuộc cách mạng mà vợ chồng bà hiến dâng cả đời mình lại có thể nhẫn tâm với vợ chồng bà đến thế. Khi tôi mất tích, có nhiều người cho rằng tôi trốn. Mẹ tôi không tin. Là mẹ, bà hiểu con bà. Hơn bất cứ ai, bà tin tôi vô tội. Không những tin tôi vô tội, bà tin tôi đủ dũng khí để đương đầu với bọn tiếm quyền cách mạng. Chạy trốn, theo quan niệm của mẹ tôi, không phải là hành động của người quân tử. Bà muốn thấy chồng con mình đàng hoàng bảo vệ chính nghĩa trước công luận.
Bà buồn rượi khi nghe những đồng chí cũ đến thăm bà, phân tích tình hình đất nước, rồi kết luận rằng sẽ chẳng bao giờ có một phiên tòa mà bà muốn có.
Khoảng một tuần trước khi tôi bị bắt anh Nguyễn Trọng Luật, vụ trưởng Vụ bảo tồn và bảo tàng Bộ Văn hóa, nhắn tôi tìm cách cắt đuôi đến gặp anh tại nhà riêng ở ngõ Chân Cầm. Trong số các vụ trưởng của Bộ tôi quý anh nhất. Bề ngoài giản dị, thậm chí hơi thô kệch, thoạt trông ai cũng nghĩ anh là một nông dân nòng cốt được Ðảng bồi dưỡng lên làm lãnh đạo. Nhưng chỉ nói chuyện với anh một lần là người ta biết bên trong vẻ chân quê làm cho họ lầm anh Luật là người lịch lãm, hiểu nhiều biết rộng. Tôi quyết định đến gặp anh. Tôi muốn nghe ở anh một lời khuyên. Anh dặn tôi coi chừng bị mật thám theo. Cắt đuôi là việc chẳng khó gì đối với người trong một gia đình có nhiều năm hoạt động bí mật. Thời Pháp thuộc, cha mẹ tôi đã dạy tôi những cách đánh lạc hướng mật thám. Ông bà thường sai tôi mang mật thư đến nơi này nơi khác trong thành phố. Tôi là trẻ con, mật thám không để ý. Anh Luật có hồi cùng hoạt động với cha tôi tại vùng ven sông Hồng. Ðối với cha tôi anh kính trọng, coi như người anh tinh thần. Vì tình cảm với cha tôi mà anh quý tôi.
Gặp tôi, anh vồ lấy, hối hả: - Tình hình gay lắm, chú phải trốn ngay lập tức, đừng để bị bắt! Tôi nghĩ mình sẽ làm thế này ...
Theo kế hoạch của anh Luật, tôi sẽ chọn ngày giờ thuận lợi rồi báo cho anh biết. Tốt nhất, tôi báo qua bác sĩ Phan, em nuôi anh, cũng là bạn thân của tôi. Tôi sẽ tới Chùa Thầy, nơi sơ tán của Vụ bảo tồn và bảo tàng Bộ Văn hóa. Từ đây anh Luật sẽ dùng xe cơ quan đưa tôi về Hưng Yên, nơi trước Cách mạng Tháng Tám có thời kỳ anh làm bí thư tỉnh ủy. Con trai một cơ sở cách mạng nay là trưởng công an một huyện là em kết nghĩa của anh đã nhận bảo vệ tôi. Anh này sẽ lo việc thay tên đổi họ cho tôi rồi đưa tôi tới một vùng hẻo lánh. Tôi sẽ nương náu ở đó chờ cho tình hình sáng sủa sẽ trở về.
Tôi im lặng. - Chú nghe anh đi, anh nghĩ kỹ lắm rồi, phải trốn thôi. - anh ra sức thuyết phục tôi - Thử nghĩ mà xem, nếu trong Cải cách ruộng đất tất tật những người bị xử trí oan đều trốn thoát cả thì sai lầm của Ðảng đâu đến nỗi trầm trọng đến thế. Ðảng làm sao hiểu được ta bằng chính ta? Biết mình vô tội bị Ðảng ngờ oan mà lại vẫn xuôi tay mặc cho Ðảng bắt, mặc cho Ðảng giết, không phải là tuân thủ kỷ luật cách mạng đâu, không phải trung thành với Ðảng đâu, mà là làm hại Ðảng đấy, chú hiểu không? Tôi hiểu Ðảng lần này lại đang sa vào sai lầm nên tôi mới khuyên chú trốn.
Thấy tôi vẫn không hưởng ứng, anh bần thần một lát rồi tiếp: - Tùy chú thôi, nghe anh thì nghe, không nghe thì thôi, nhưng chú phải nhớ: tuy hiện nay Ðảng bị thằng Duẩn, thằng Thọ lũng đoạn, nhưng trước sau Ðảng vẫn là Ðảng của ta, chẳng chóng thì chầy Ðảng sẽ thanh lọc bọn chúng. Tôi muốn cười mà không dám cười. Ngẫm ra cách lập luận của anh có cái lý của nó, cái lý chỉ tồn tại được trong lòng người đảng viên trung thành, lúc nào cũng lo lắng cho sức chiến đấu và uy tín của Ðảng.
Bằng nhiều dẫn chứng rút ra từ những huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh, anh Luật khẳng định chuyện này ông Hồ không biết, hoặc giả ông bị désorienté(17) bởi Lê Ðức Thọ mà đã đồng ý cho Thọ bắt các đồng chí trung kiên, chứ ông quyết không phải người xấu.
- Lê Duẩn là thằng nhiều tham vọng, điều này ai cũng biết, nhưng anh nghĩ: tự hắn, hắn không muốn gây gổ trong lúc này. Gạt ra bên ngoài các thứ chủ nghĩa, xét cho cùng chỉ là cái cớ, thì vụ này Thọ khởi xướng là chắc, không phải Duẩn. Nhưng Thọ muốn thì Duẩn cũng không ngăn, mọi việc Thọ làm từ trước tới nay đều vì lợi ích của cả hai. Thằng này làm việc đó để làm gì, nhằm mục đích gì?Anh ngờ bên trong vụ này có điều uẩn khúc, liên quan tới thời kỳ Thọ ở Sơn La...(18)
Tối hôm đó tôi chỉ ngồi nghe anh nói, không tranh luận. Ðầu tôi trống rỗng. Tôi mệt mỏi. Trong anh vẫn có một niềm tin mỏng manh ở Ðảng. Trong tôi, niềm tin ấy không còn.
Nghe tôi kể lại cuộc gặp gỡ với anh Nguyễn Trọng Luật, mẹ tôi hỏi: - í con thế nào? - Con cho rằng đi trốn là cho người ta cái cớ để nói mình có tội, mình sợ nên phải trốn tránh... - Còn con? - mẹ tôi hỏi vợ tôi. - Con cũng nghĩ không nên trốn. - vợ tôi nói - Mình làm gì mà phải trốn? - Ðúng vậy. Cây ngay không sợ chết đứng. Tôi mỉm cười. Mẹ tôi quen miệng nói thế, chứ ai chẳng biết chính cây ngay mới hay chết đứng, chỉ có dây leo là không bao giờ chết đứng mà thôi. Hồi ấy tôi còn ngu ngốc lắm. Thế hệ cha tôi, rồi thế hệ tôi mang trong mình khái niệm Ðảng của những ngày cách mạng còn trứng nước: Ðảng là tổ chức của những chiến hữu cùng chung một mục đích thiêng liêng, cao cả. Không hiếm những thí dụ về tình đồng chí đùm bọc thương yêu nhau, thậm chí hy sinh tính mạng để bảo vệ nhau trong những ngày xa xưa ấy. Một khái niệm, tiếc thay, đã lỗi thời. Sống trong một gia đình mà cha mẹ đều hoạt động cách mạng, tôi nhập vào dòng chảy của công cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, cũng là dòng chảy của thời đại tôi, một cách tự nhiên, như muốn sống thì phải thở khí trời. Cũng tự nhiên như vậy, tôi đi theo những người dẫn đầu cuộc cách mạng như con vật trong đàn đi theo con đầu đàn của nó.
Tôi chỉ bắt đầu ngờ vực đức hiền minh của các lãnh tụ vào thời gian cuộc Giảm tô giảm tức được phát động ở khu 4 kháng chiến, năm 1953. Ðêm đêm chúng tôi thao thức nghe trong mịt mùng những thôn xóm tối tăm tiếng loa âm u hờ gọi nông dân vùng lên đánh đổ kẻ thù giai cấp. Từ tinh mơ hàng đoàn người rầm rập trên các nẻo đường làng còn tối đất, khản tiếng hô vang những khẩu hiệu có mùi máu. Dân chúng ùn ùn đổ về những sân đình, những bãi rộng, nơi sẽ diễn ra những cuộc đấu tố bọn địa chủ cường hào gian ác.
Ðiều làm tôi ngạc nhiên đến sững sờ là những cán bộ kháng chiến bị thẳng cánh gạt ra ngoài lề cuộc đấu tranh. Mà tôi biết rõ họ lắm. Mới hôm trước còn là những người lãnh đạo đầy uy tín ở địa phương, bất thình lình họ không còn được tin cậy nữa, thậm chí bị nghi ngờ, bị tước bỏ mọi quyền hành. Tại sao lại như thế? Tôi hỏi một cán bộ trong đội giảm tô giảm tức và được anh ta giải thích: phải đề cao cảnh giác trước kẻ thù giai cấp. Chúng biết chúng không thể ra mặt chống phá cách mạng nên tìm đủ mọi cách chui vào trong các tổ chức của ta, nắm giữ các vị trí lãnh đạo. Hiện nay không thể biết trong các cơ quan ai là địch ai là ta, nếu không kiên quyết gạt những người cũ ra thì nông dân được Ðảng phát động vẫn bị kẻ thù giấu mặt khống chế, họ sẽ không dám vùng lên giành chính quyền. Ðảng dạy ta chỉ có thể tin những nông dân bần cùng, bị địa chủ bóc lột đến xương tủy, chỉ có họ mới là chỗ dựa vững chắc và lâu dài của Ðảng.
Cứ như thể sự nghèo khổ, bản thân nó, đã là một phẩm chất cách mạng. Ðấu tố diễn ra liên miên, ngày một khốc liệt. Người dân cày dung dị hôm trước, được Ðảng phóng tay phát động, vụt trở thành hung tợn, mặt bừng bừng khoái trá trong niềm vui hành hạ đồng loại. Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi: nườm nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng không phải để chiến đấu với quân xâm lược mà với chính đồng bào mình. Tại xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa, nơi có dinh cơ gia đình cụ cử Nguyễn Thượng Hiền, người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi đi khắp làng chỉ vì bà trót dại nói điều gì đó mất lập trường hoặc không vừa lòng cán bộ giảm tô giảm tức. Trước bà là hội trưởng hay hội phó Hội Liên hiệp Phụ nữ Thái Bình. Mất đất, bà mang con cái chạy vào Thanh Hóa, làm nghề hàng xáo, buôn thúng bán mẹt. Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì thấy mấy anh du kích quen đang xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết: "Ði cụ Hồ ơi, Cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân Cụ thế này đây!".
Ở một xã khác , một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi, tới khi ngất đi rồi mới được người ta hạ xuống.
Cha bạn tôi, hoạt động cách mạng từ trước năm 1945, bị tống giam vì bị vu là đảng viên Quốc dân đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh: "Oan cho tôi lắm, Cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với Cụ, với Ðảng. Tôi không phản bội. Hồ Chí Minh muôn năm!".
Người ta lấy gai bưởi cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại nhấn những cái gai sâu thêm một chút làm cho cô gái rú lên vì đau, quằn quại trong dây trói.
Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng dây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo hò, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng, rùng mình - những đứa trẻ này chắc chắn sẽ lớn lên với trái tim không phải của giống người. Rồi đây, với tâm hồn chai sạn, làm sao chúng có thể sống chung với những anh em khác màu da và tiếng nói trong một thế giới đại đồng mà chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn? Tôi cảm thấy trong mình cục cựa một cái gì giống như sự thức tỉnh. Niềm tin ở Ðảng ăn sâu trong lòng mỗi người đến nỗi vừa buông miệng khuyên tôi trốn, lúc chia tay anh Luật lại vớt vát: "Nói thì nói vậy thôi, chứ anh không thể nào tin được Ðảng lại có thể nhẫn tâm bắt một lúc cả hai cha con một gia đình cách mạng như gia đình chú". Mẹ tôi không muốn tôi trốn, nhưng bà lo. Tôi bị bắt thì trong nhà không còn người đàn ông nào. Hai em trai tôi đều còn nhỏ, lại đang có chiến tranh. Bà cảm thấy những gì xảy ra với người khác nay đang xảy ra với mình
Mẹ tôi nhớ đến bà bạn có chồng bị mất tích trong những ngày Cách mạng Tháng Tám. Người đàn bà khốn khổ lang thang đi hết đền này phủ nọ cầu xin Trời Phật cho chồng bà trở về với bà. Bà gần như mất trí. Khi còn trẻ ông Vinh, chồng bà, gia nhập Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội. Bị lộ, ông chạy sang Pháp, vào Ðảng cộng sản Pháp. Từ Pháp ông sang Nga. Tốt nghiệp Trường đại học phương Ðông(19), ông hăm hở trở về Tổ quốc tiếp tục cuộc chiến đấu. Vừa bước xuống cảng Hải Phòng ông sa vào tay mật thám. Xa nước quá lâu, ông trở về không quen biết ai, chưa kịp liên lạc với ai trong các tổ chức cách mạng. Mật thám tra tấn ông, ông chẳng có gì để khai. Tra mãi không được gì, chính quyền thuộc địa thả ông, thậm chí để cột chân ông lại, còn chiếu cố cho ông được tòng sự tại Phủ Thống sứ. Trong chuyện này tất nhiên không thể thiếu sự chạy chọt của bà vợ con nhà khá giả. Làm việc trong Phủ Thống sứ, ông Vinh vẫn không ngừng tìm cách liên lạc với những người cộng sản. Không ai dám giao thiệp với ông, kể cả cha tôi. Với ông, cha tôi đóng vai người đã nhụt chí, nay trở về với vợ con làm ăn chân chỉ. Người Pháp hoàn toàn không nghi ngờ gì ông, một công chức mẫn cán. Nhưng đó chỉ là bề ngoài. Lòng yêu nước trong ông không bao giờ tắt. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông hăng hái xuống đường tham gia cướp chính quyền. Thế rồi trong những ngày sôi nổi ấy, như một hòn đá rơi xuống nước, ông biệt tích.
Không ai biết ông biến đi đâu nếu như một hôm ông Trường Chinh không nói với mẹ tôi: "Chị Huỳnh ạ, chị liệu cách an ủi chị Vinh kẻo chị ấy cứ xem bói, xin quẻ mãi, tội nghiệp! Nói riêng để chị biết: ta thịt anh ấy rồi!".
Mẹ tôi lạnh toát người: "Sao các anh nhẫn tâm thế, tàn ác thế? - bà kêu lên - Anh thừa biết anh Vinh tuy không kiên định cách mạng thật, nhưng anh ấy có phản bội xưng khai gì đâu, có gây hại gì cho đoàn thể(20) đâu mà các anh nỡ giết anh ấy?" Trường Chinh phân trần rằng ông không chủ trương giết ông Vinh, người ta giết rồi ông mới biết. Lúc đó ông có muốn can thiệp thì đã muộn.
Về cái chết của ông Vinh mẹ tôi không buộc tội Trường Chinh. Nhưng bà không tha thứ cho ông tội để cấp dưới lộng hành, coi thường sinh mạng con người. Thủ tiêu đối thủ và những người tình nghi phản bội là chuyện bình thường trong Cách mạng Tháng Tám. Nhà văn Lan Khai(21) bị bỏ rọ trôi sông cũng chỉ vì ông từng làm thư ký cho một hãng buôn Nhật. Cha tôi quen Lan Khai từ những ngày ở Tuyên Quang, ông rất đau lòng về chuyện này. Bà ngoại tôi thường gặp các đồng chí của cha mẹ tôi tại nhà tôi khi bà đến chơi với các cháu. Không hiểu vì lẽ gì một số người trong bọn họ không gây được cảm tình nơi bà. Bà ngoại tôi nói thẳng cho mẹ tôi biết bà không thích họ. Ðến nỗi mẹ tôi giận bà vì sự không thích ấy. Hóa ra bà ngoại tôi có lý khi nhận xét người này người kia trong bọn họ không phải là những người tử tế. Bằng sự mẫn cảm của phụ nữ, bà thấy trước được cách sống không nhân nghĩa, không có trước có sau, không có tình người, như cách ta thường nói bây giờ, của những người về sau trở thành những nhà lãnh đạo như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt(22).
Trường Chinh đã không làm một hành động nhỏ nào để cứu cha tôi - người bạn, người đồng chí gần gụi của ông ta trong thời kỳ bí mật. Ông ta cũng không đến thăm mẹ tôi lấy một lần trong những năm cha con tôi ở tù. Cha tôi được thả rồi ông cũng không đến. Một số người biết tình bạn của hai ông cho rằng Trường Chinh không đến vì sợ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ, nhưng tôi cho rằng trong thái độ này Trường Chinh trung thực với con người ông ta - ông ta thực sự nghĩ rằng cha tôi đã đứng về phía những người chống Ðảng. Trong sự đồng nhất cá nhân mình với Ðảng từ khi trở thành người lãnh đạo, Trường Chinh là người trước sau nơi một. Hoàng Quốc Việt còn tệ hơn - ông ta trở thành nhân vật tích cực trong Ban chuyên án của vụ trấn phản(23). Mà chính vì hai ông cha tôi đã bị chính quyền thuộc địa bắt sau khi đưa họ đi trốn vào năm 1939.
Người như vậy, theo quan niệm của người Việt Nam bình thường, không thể được coi là tử tế. Vợ tôi kể sau khi tôi mất tích, đêm đêm mẹ tôi ngồi lặng hàng giờ, mái tóc bạc xổ xuống vai. Bà như hóa đá. Linh tính người mẹ báo cho bà biết tôi đã gặp tai họa. Phân tích mọi dữ kiện bà tin chắc tôi đã bị bắt một cách ám muội. - Trong những ngày ấy mẹ lo nhất con bị thủ tiêu. Chúng nó có thể làm chuyện đó lắm. Bà nghẹn ngào nói, ôm chặt đứa con trai đầu lòng. Cuối cùng, rồi nó cũng đã vượt qua được cái chết để trở về với bà, chín năm sau đó.

(1) L. B. Johnson (1908-1973) cho rằng Mỹ có thể chiến thắng trong một thời gian ngắn. Bắt đầu mở rộng cuộc chiến tranh còn giới hạn trong phạm vi miền Nam Việt Nam bằng cách ném bom miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1965. Hậu quả của nhận định này là ông Johnson tạo ra những khó khăn cho chính mình trong cương vị tổng thống Hoa kỳ, để rồi phải rút khỏi chính trường vào tháng 3.1968.
(2) Nhà văn nổi tiếng với những tiểu thuyết Vang Bóng Một Thời, Tóc Chị Hoài, Quê Hương, Chùa Ðàn...
(3) Dômbi (Zômbi), chỉ những xác chết được các thầy pháp châu Phi làm cho sống lại, nhưng không có trí khôn, không nhớ gì về cuộc sống trước kia, chỉ biết thực hiện các mệnh lệnh của chủ, bị sử dụng như những con vật trong các công việc đồng áng.
(4) Hoàng Minh Chính (sinh năm 1920, quê Nam Ðịnh, tên thật Trần Ngọc Nghiêm, nguyên Tổng thư ký Ðảng dân chủ Việt Nam, nguyên Tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, viện trưởng Viện Triết học) được coi như người đứng đầu cái gọi là "nhóm xét lại chống Ðảng". Phạm Viết (1929 - 1971), nguyên sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, thương binh, nhà báo, phó tổng biên tập tờ Hà Nội Mới.
(5) Cùng bị bắt với cha tôi và tướng Ðặng Kim Giang trong đợt này có các anh Trần Minh Việt, Phạm Kỳ Vân, Nguyễn Kiến Giang, Ðinh Chân, Nguyễn Văn Thẩm. Trần Minh Việt - phó bí thư thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội, Phạm Kỳ Vân - phó tổng biên tập, Nguyễn Kiến Giang - biên tập viên tạp chí Học Tập, Ðinh Chân - biên tập viên báo Quân đội Nhân dân, Nguyễn Văn Thẩm - bí thư của thứ trưởng Bộ Văn hóa Lê Liêm...
(6) Giám thị trại Hỏa Lò không thấy tên tôi trong danh sách tù nhân là phải. Sau chừng hai tháng ở Hỏa Lò tôi mới biết tên tôi đã bị thay đổi. Cán bộ quản giáo chỉ biết tôi dưới một tên khác.
(7) Áo dạ, theo quy định, dành cho cấp tá.
(8) Lê Duẩn (1908-1986), người Quảng Trị, đảng viên cộng sản từ những năm 30, bị tù hai lần (1931-1936, 1940-1945), từng làm bí thư Trung ương cục miền Nam trong kháng chiến chống Pháp, từ 1956 làm bí thư Trung ương Ðảng, bí thư thứ nhất (1960-1976), rồi tổng bí thư Ðảng (1976-1986).
(9) Lê Ðức Thọ (1911-1990) tham gia cách mạng vào đầu thập niên 30. Tù Sơn La (1939-1944). Trong thời gian được nói tới trong cuốn này là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên thường trực Ban bí thư, trưởng Ban tổ chức Trung ương Ðảng. Ðược Trung ương Ðảng cử vào Nam năm 1946, với tư cách ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Ðảng, cấp bậc Ðảng này có lẽ do một Hội nghị Trung ương cử ra hoặc do Trường Chinh chỉ định.
(10) Pablo Picasso, danh họa của thế kỷ XX, gốc Tây-ban-nha (1881-1973); Ilya Erenburg, nhà văn, nhà báo Liên Xô (1891-1967).
(11) Trường Chinh (1907-1988), nguyên quán xã Hành Thiện, phủ Xuân Trường, Nam Ðịnh, hoạt động cách mạng từ 1927, đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930, quyền tổng bí thư Ðảng một thời gian trước Cách mạng Tháng Tám, ủy viên Bộ Chính trị và Tổng bí thư Ðảng Lao động Việt Nam từ năm 1951-1956.
(12) Trần Ðình Long (1905-1946), đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930, được đào tạo tại trường Ðại học Ðông phương Moskva. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Long được Ðảng dự kiến giữ chức bộ trưởng Bộ Ngoại giao, nhưng sau chức này được nhường cho ông Nguyễn Tường Tam để thể hiện sự đoàn kết rộng rãi trong thành phần chính phủ cách mạng lâm thời. Ông bị người của Quốc dân đảng đột nhập vào nhà riêng của ông bà ở phố Chợ Ðồng Xuân bắt mang đi thủ tiêu, không rõ xác chôn ở đâu.
(13) Một nhà cách mạng lâu năm, xuất thân lính thợ, đảng viên Ðảng cộng sản Pháp, sau năm 1954 làm phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
(14) Bí danh của Trường Chinh.
(15) Phạm Văn Ðồng (sinh 1906 tại Quảng Ngãi) hoạt động cách mạng từ cuối thập niên 20. Năm 1929 bị thực dân Pháp bắt giam 7 năm. Ðược bầu vào Bộ Chính trị Ðảng Lao động Việt Nam từ năm 1951, làm bộ trưởng bộ Ngoại giao rồi thủ tướng chính phủ từ năm 1954 tới năm 1987 (kiêm nhiệm bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ 1954-1961).
(16) Nguyễn Lương Bằng (1904-1979), hoạt động cách mạng trước 1930, đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930, từ 1945 là ủy viên Trung ương Ðảng, đại sứ Việt Nam tại Liên Xô 1952-1957, 1969 làm phó chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau đó.
(17) Bị đánh lạc hướng.
(18) Anh Luật có lý trong suy luận: trong vụ trấn áp "nhóm xét lại chống Ðảng" chỉ có những người tù cũ ở Sơn La cùng với Lê Ðức Thọ bị bắt. Có lần tôi nghe tướng Ðặng Kim Giang nói về chuyện công sứ Sơn La Coussot có mua chuộc được vài tên phản bội làm chỉ điểm, do đó có những kế hoạch của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ.
(19) Trường do Quốc tế cộng sản (Comintern) mở tại Moskva để đào tạo cán bộ cách mạng vô sản.
(20) Một cách gọi Ðảng cộng sản trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
(21) Nhà văn nổi tiếng với những chuyện đường rừng trước Cách mạng.
(22) Tên thật là Hạ Bá Cang, một nhà cách mạng có tiếng trước Cách mạng Tháng Tám, sau này phụ trách công tác công đoàn trong một thời gian dài.
(23) Trấn áp phản cách mạng.


:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 2

Vừa lôi thốc tôi lên xe, tên ngồi bên phải lập tức bẻ quặt tay tôi ra sau lưng. Bàn tay y cứng như sắt. Một nòng súng lục thúc mạnh vào sườn tôi bên trái. Tôi nhăn mặt vì đau. Trong đợt này, cùng với tôi, còn có những ai bị bắt? Ðó là ý nghĩ đầu tiên đến với tôi, không hiểu sao lúc ấy lại dửng dưng với số phận mình đến thế. Người lái xe quặt mạnh vô-lăng. Chiếc xe lạng sang một bên, xoay nửa vòng rồi lao về phía Tràng Thi. Tôi vẫn cầm bông hồng Nam Dương, quà tặng của một người bạn vong niên, trong bàn tay trái còn được thả lỏng.
Nghe tin nhiếp ảnh gia Trần Văn Lưu ốm nặng, anh mắc chứng lao phổi đã nhiều năm, sáng hôm ấy tôi đến thăm anh. Như vậy, Trần Văn Lưu là người cuối cùng và duy nhất gặp tôi hôm đó. Không thấy tôi trở về vợ tôi sẽ lên hỏi anh Lưu và gia đình sẽ đoán được tôi mất tích vào lúc nào. Nhưng tìm ở nhà anh không thấy, mọi người có thể cho rằng sau khi ở nhà anh Lưu ra tôi còn đi chơi nơi nào khác, sẽ nháo nhào đi tìm khắp nơi để rồi cuối cùng mới hiểu tôi mất tích.
Chao ôi, mẹ tôi, vợ tôi sẽ hốt hoảng lắm đây. Tại người ta không bắt tôi ở nhà, như thế có đàng hoàng hơn không? Trong tay nhà cầm quyền có cả bộ máy đàn áp khổng lồ, họ giở trò bắt cóc làm gì? Ðể thủ tiêu chăng? Có lẽ không phải. Nếu muốn thủ tiêu tôi thì bắt cóc giữa Hà Nội là quá dở. Việc đó làm ở một nơi đèo heo hút gió nào khác tốt hơn nhiều. Mà tôi thì lại thường công tác xa nhà. Hay cha tôi làm sao?
- Không cần phải nắm chặt như thế.- tôi cục cựa cánh tay bị bẻ quặt.
Có vẻ câu nói của tôi có tác dụng - những ngón tay lỏng ra được một chút.
Tôi đưa bông hồng lên ngắm nghía. Nó nhỏ hơn hẳn hoa hồng ta thường gặp, chỉ nhỉnh hơn bông nhài một chút, nhưng thật là đẹp. Cánh của nó trắng lên một màu trắng tinh khôi, mịn màng, cho ta cảm giác cánh hoa hơi xốp. Cách phân bố các cánh rất hài hòa với đường cong mĩ miều của đài. Anh Lưu khoe anh cậy cục mãi mới xin được cành hồng Nam Dương này. Anh giâm nó trong một bồn nhỏ, nâng niu chăm bẵm mấy tháng trời. Cành hồng con lớn lên chậm chạp thành một cây hồng mảnh mai và trổ bông đầu tiên. Từ bông hoa bé bỏng trên tay tôi bay lên một mùi thơm dịu dàng. Lướt nhanh về phía sau là những ngôi nhà đóng kín. Phố Tràng Thi trong buổi sáng vắng tanh vắng ngắt. Hè phố ngập lá vàng không người quét dọn. Tôi chú mục nhìn những người thưa thớt đạp xe ngược chiều, nhưng không gặp ai quen.
Bị kẹp chặt cứng giữa hai tên công an trước mặt tôi chỉ có một khoảng trống hẹp phía trước. Tôi buồn rầu ghi vào trí nhớ như thể lần cuối được nhìn thấy những cảnh đang lướt qua. Mọi cái đều quen thuộc, quen thuộc tới mức không còn để ý tới chúng. Kia, những con đường trải sỏi vàng dưới bóng râm những hàng đại thụ quanh Thư viện Quốc gia. Còn đây là ngôi nhà quét vôi hồng nằm trong khu vườn rộng đầy cỏ mần trầu một thời tôi đã ở sau ngày tiếp quản Hà Nội. Lướt nhanh bên phải là Cửa hàng mô-tô xe đạp thường xuyên đóng cửa im ỉm. ê đây tôi mua chiếc xe đạp đầu tiên cho vợ. Tôi nhớ tới kỷ niệm liên quan tới cửa hàng này. Chả là vợ tôi thích chiếc Mercier bằng đuy-ra, còn tôi thì ngang bướng nhất định chọn chiếc Thống nhất nội hóa. "Ta phải ủng hộ hàng nội hóa, em ạ. Nếu ta mà cũng không chịu ủng hộ hàng nội thì nền sản xuất nước mình sẽ ra sao?" tôi nói với vợ bằng giọng gia trưởng. Chiếc Thống Nhất được chọn bởi lập trường hỏng lên hỏng xuống, năm ngày ba tật. Nhìn tôi dắt xe đi sửa vợ tôi tủm tỉm cười, nhưng không trách tôi một lời. Kia nữa, hiệu cắt tóc quen thuộc của tôi. Qua tấm kính lớn tôi thấy bác phó cạo già hay chuyện đang lúi húi tỉa tót mái đầu muối tiêu của ông khách đứng tuổi, chắc cũng loại khách quen, như tôi... Chiếc com-măng-ca rẽ vào đường Phủ Doãn, quặt sang Lý thường Kiệt, chạy thêm một quãng ngắn rồi lại rẽ trái.
Ðến đây thì tôi hiểu mình được đưa đi đâu. Trước mặt tôi sừng sững bức tường đá Hỏa Lò.
Cái nhà ngục nổi tiếng khắp nước này được thực dân Pháp xây dựng trong những năm cuối thế kỷ XIX(1), đồng thời với Nhà Dây Thép (nay là Bưu Ðiện Trung Tâm) và Nhà Thương Ðồn Thủy (nay là Bệnh Viện Quân Y 108) cầm giữ bên trong những bức tường đá của nó nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam, từ những nhà ái quốc Cần Vương, Văn Thân, Ðông Kinh Nghĩa Thục, cho tới những đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng thời anh hùng Nguyễn Thái Học, và tất nhiên, các chiến sĩ cộng sản. Trong gia đình tôi Hỏa Lò được nhắc tới luôn do sự có mặt thường xuyên trong đó của các bạn cha tôi, và của chính ông, hết người này đến người khác. Mặc dầu nổi tiếng là thế, Hỏa Lò không phải là nhà ngục kiên cố nhất Việt Nam. Bằng chứng là tại đây đã xảy ra nhiều cuộc vượt ngục, lớn nhất là cuộc vượt ngục đông đảo của những người cộng sản vào đêm trước của Cách mạng Tháng Tám. Tên chính thức của Hỏa Lò là Maison Centrale (Lao Trung Ương), nhưng cái tên đó chỉ tồn tại trong các văn bản hành chính thuộc địa. Với dân chúng nó mãi mãi là Hỏa Lò, cái phố tí xíu từ thời "Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến", nơi phường gốm sản xuất một mặt hàng duy nhất là hỏa lò, thứ bếp dùng than tàu (than hoa) mà ngày nay họa hoằn ta mới gặp. Phần lớn người Hà Nội không biết gốc tích dung tục của Hỏa Lò, nghĩ rằng nó là tên gọi tượng trưng cho sự khủng khiếp bên trong cái nhà tù nổi tiếng. Tên gọi của nó gợi nên liên tưởng gớm ghiếc về hỏa ngục Thiên chúa giáo hừng hực lửa vạc dầu và nhung nhúc quỷ sứ.
Hai cánh cửa sắt được mở ra với một tiếng rít lanh lảnh, kéo dài. Chiếc com-măng-ca rồ máy chui tọt vào trong cái miệng kim loại há hốc của nó.
Hai tên cô hồn nhảy xuống, hất hàm:
- Xuống!
Tôi xuống. Trước mặt tôi là một cái sân mênh mông, vắng ngắt.
- Ðợi đây!
Ðó là tên ngồi bên trái tôi nói. Mặt nhâng nháo, y nhét súng vào cạp quần rồi lấy vạt áo sơ-mi phủ lên. Cử chỉ của y làm tôi nhớ tới điệu bộ của những tên côn đồ nhâng nháo trong những bộ phim đấm đá rẻ tiền của phương Tây. Ðồ vật hóa ra có khả năng làm cho con người trở thành giống nhau. Tôi dám chắc cái tên du côn trong biên chế nhà nước kia chưa hề được xem dù chỉ một phim thuộc loại đó. Chiếc com-măng-ca được lái đi. Hai tên công an biến mất, để lại sau chúng mùi thuốc lá rẻ tiền. Tôi không biết chúng đi lúc nào.
Có lẽ đây là góc im ắng nhất thành phố. Trong vòm cổng Hỏa Lò hai chàng trai trong quân phục công an nhân dân vũ trang mải mê đánh bóng bàn, chẳng thèm nhìn tôi lấy một lần. Ngoài tiếng lách tách của bóng nhựa đập xuống mặt gỗ trong cả một vùng tĩnh lặng không còn tiếng động nào khác. Tưởng chừng cái nhà tù lừng danh một thuở nay đã trở thành Viện bảo tàng tội ác của chế độ thực dân.
Không thấy bị canh chừng, tôi lững thững thả bộ trong cái sân rộng và sạch bong, với những bồn hoa nho nhỏ đặt trước những khối nhà dài. Tôi có cảm thấy sợ hãi không khi bị đưa tới nhà ngục nổi tiếng này? Trong phút đó, không hiểu vì sao, chính tôi cũng ngạc nhiên, lẽ ra phải run sợ thì tôi lại không thấy một chút xao xuyến nào. Mới hay lòng mình chai sạn quá rồi, tâm hồn mình lạnh lẽo quá rồi, lại do mình đã biết chắc cái sự khốn kiếp này nhất định sẽ xảy ra, chẳng cách nào tránh được, chỉ có sớm hay muộn mà thôi, nay nó xảy ra rồi, coi như số phận mình đã an bài, khỏi cần lo nghĩ nữa.
Từ vài tháng nay, tôi biết mình bị theo dõi chặt. Vừa bước chân khỏi nhà đã thấy một lũ công an mật bám theo. Phát hiện chúng chẳng có gì khó. Chỉ cần rẽ ngoặt nhiều lần trong mạng nhện phố xá là đã nhận ra những kẻ bám sát mình không rời. Tôi thường đi cùng Thu Hòa, em gái tôi. Thu Hòa sáng ý, chỉ đảo mắt nhìn qua em tôi đã biết xe nào đang theo xe mình. Nhà tôi ở góc đường Hai Bà Trưng - Phan Chu Trinh, trạm quan sát của mật thám đặt trên tầng thứ ba trường phổ thông trung học ở góc đường bên kia. Từ trên gác cao những tên cá chìm làm nhiệm vụ cảnh giới liên lạc bằng điện thoại với đám trinh sát chực sẵn trong một ngôi nhà nằm trên đường Lý Thường Kiệt. Em tôi còn ghi được cả số xe bọn chúng. Có vẻ, bọn mật thám thấy việc theo dõi là trò hề, bắt chúng tôi lúc nào mà chẳng được, không hiểu cấp trên sai chúng theo dõi để làm gì. Cho nên có vẻ chúng chẳng buồn che giấu công việc chúng phải làm. Chứ làm gì mà chúng khờ khạo đến thế! Về phía tôi, tin mình chẳng làm gì phạm pháp, tôi chẳng sợ chúng chút nào. Bực mình lên, thỉnh thoảng hai anh em tôi còn trêu trọc chúng nữa kia. Tôi bình thản được còn vì tôi ý thức được thân phận mình. Trong chuyện này tôi phải cảm ơn Lênin (hay Engels?). Nếu tôi nhớ không lầm thì trong tập Bút Ký Triết Học của ông, Lênin có nói:"Tự do là sự ý thức được cái tất yếu". Chí lý thay!
Cái tất yếu trong chế độ này là thế nào tôi đã biết. Tôi, hay bất cứ ai, chúng tôi đều là chim trong lồng, là gà trong chuồng, người ta muốn lôi ra cắt tiết lúc nào được lúc ấy. Con người chẳng có quyền gì hết trước Ðảng toàn năng. Vì thế trước đó mấy ngày tôi đã lạnh lùng chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Vợ tôi sẽ tìm thấy trong ngăn kéo bàn viết của tôi, nếu không ngay lập tức thì một thời gian sau, bức thư tôi dặn dò mọi việc trong nhà. Tôi muốn vợ tôi giúp tôi thực hiện trách nhiệm của người con cả đối với gia đình. Ðó là gánh nặng, nhưng tôi biết vợ tôi sẽ không từ nan. Nghĩ mà bực mình.
Tôi sa vào vụ trấn phản này một cách thậm vô duyên, chẳng ra làm sao cả. Tôi là cái gì kia chứ? Một nhà báo quèn không tên tuổi, không cả bề dày cách mạng, nghĩa là chẳng có gì đáng để người ta phải gờm, để có thể trở thành kẻ thù của nhà cầm quyền. Tôi cũng chẳng làm gì để người ta phải điều một lô một lốc những tên ăn không ngồi rồi lẵng nhẵng theo tôi cả ngày lẫn đêm. Sách lược nhổ cỏ phải nhổ cho tận rễ vốn có tính truyền thống trong các quốc gia châu Á. Chỉ ở châu Á mới có những án hình tàn bạo như chu di tam tộc, chu di cửu tộc. Những triều đại phong kiến ở Trung Quốc, ở Việt Nam đều dùng cách này xử tội những quần thần bất tuân. Bây giờ tôi đang sống trong một xã hội được gọi là xã hội chủ nghĩa, nhưng nhà cầm quyền của nó xử sự với dân chúng chẳng khác gì những xã hội trước nó, nếu không tồi tệ hơn. Từ lâu rồi người ta áp dụng cách đối xử phân biệt rõ ràng đối với con cái những người mà họ cho rằng có mầm mống phản kháng. Những đứa trẻ chưa kịp có ý thức về lòng căm thù cách mạng đã bị cái gọi là cách mạng của những tên độc tài căm thù trước, bị chà đạp xuống tận bùn đen, không cho ngóc đầu dậy.
Tất cả những lời lẽ đạo đức giả chỉ được dùng như một nước sơn qua quít. Người ta nói nhưng không tin chính lời nói của mình. Tôi thích tính cách Lê Duẩn. Dù sao mặc lòng Lê Duẩn cũng vẫn là một tên độc tài thẳng thắn, so với những tên độc tài khác.
"Kẻ nào không theo ta, kẻ đó chống ta", Lê Duẩn nói toạc móng heo trước bàn dân thiên hạ. Không quanh co, không uốn éo. Quan niệm chuyên chính này được đương kim tổng bí thư tâm đắc lắm. Nó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, ở nhiều cuộc họp, trước đông đảo cán bộ nghe lãnh tụ huấn thị, chính tôi cũng được nghe.
Chuyên chính, chuyên chế, hay độc tài, những từ làm nhân loại sởn gai ốc, ở nơi khác thường được che phủ bằng ngôn từ hoa mỹ, nhưng trong chế độ xã hội chủ nghĩa hiện tồn lại có dáng dấp một đức tính sang trọng, là cái nhiều người còn lấy làm hãnh diện phô ra. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Quốc Hoàn(2) phụ họa theo tổng bí thư: "Nhiều đồng chí chúng ta tỏ ra còn thiếu kiên quyết trong việc trấn áp bọn phản cách mạng, thiếu nhiều lắm. Họ run tay. Họ sợ nhầm. Họ không biết rằng trong công tác của chúng ta lợi ích của cách mạng là cao hơn hết, thiêng liêng hơn hết! Sai thì sửa, việc gì mà sợ!" Ði ngược chiều lịch sử ta thấy trong Cải cách ruộng đất Trường Chinh cũng đã từng khuyến dụ "Nhầm mười (người vô tội) còn hơn sót một (địch)". Biện pháp phòng ngừa chưa từng tỏ ra không hữu hiệu. Sát nhất nhân vạn nhân cụ(3), lời cổ nhân nói không sai.
Tôi còn phải chờ hơn một tiếng đồng hồ nữa mới thấy Huỳnh Ngự dẫn xác đến. Y xuống xe, xăm xăm bước tới, hất hàm hỏi tôi:
- Anh đang mần chi ở đó? Tôi cau mặt nhìn y. Cục phó Cục Chấp pháp Huỳnh Ngự không phải người xa lạ đối với gia đình tôi. Chính y dẫn thuộc hạ đến nhà tôi đêm 18 tháng 10 để bắt cha tôi. Sau khi đưa cha tôi đi y còn quay lại chỉ huy việc lục soát tới tận sáng. Phòng vợ chồng tôi ở cũng bị khám kỹ, chỉ chừa một cái tủ. Vợ tôi nói tôi quên, mang chìa khóa theo khi đi công tác Nam Ðịnh, nếu muốn khám thì cứ việc phá ra mà khám. Chúng không phá, mà niêm phong lại, đợi tôi về khám tiếp.
Mẹ tôi kể khi Huỳnh Ngự khám nhà thấy mẹ tôi cứ đứng lì ở khung cửa giữa hai căn phòng đang bị lục soát, y khuyên mẹ tôi:"Chị cứ ngồi xuống, mặc chúng tôi làm việc". Ðáp lại, mẹ tôi nói: "Tôi phải đứng ở đây để xem các anh có bỏ tài liệu gì vào nhà tôi không. Cái lối chôn rượu lậu trong vườn người khác chúng tôi biết lắm. Chúng tôi không khờ". Huỳnh Ngự nuốt giận, coi như không nghe thấy câu nói vỗ mặt. Một người quen tôi làm trong Bộ Nội Vụ cho biết y tên Huỳnh Ngự, cục phó Cục chấp pháp. Với tư cách trưởng Ban tổ chức Trung ương, người có công chặn đứng mưu toan lật đổ ban lãnh đạo Ðảng, Lê Ðức Thọ được dư luận nhắc tới nhiều nhất bắt đầu từ vụ bắt bớ này. Những thông báo số 1 rồi số 2, nghe cứ oang oang như những bản tin chiến thắng, với những lời lẽ nửa kín nửa hở về một cuộc nổi loạn vũ trang, được chính Thọ và tay chân trong Ban tổ chức Trung ương đi phổ biến trong các cuộc họp hạn chế, nửa bí mật. Không khí khủng bố đè nặng lên mỗi người. Số đông cán bộ cũ xót xa cho các đồng chí chẳng may rơi vào tay Sáu Búa(4). Họ nóng lòng chờ đợi ông Hồ Chí Minh có ý kiến, chờ đợi ông ra tay, hi vọng ông sẽ không để xảy ra sai lầm lần nữa. Một Cải cách ruộng đất, một Chỉnh đốn tổ chức đã quá đủ cho cuộc đời một đảng rồi.
Từ Nam Ðịnh về tôi sửng sốt biết cha tôi đã bị bắt. Mẹ tôi gục vào vai tôi. Bà gày rộc. Cú đánh tàn nhẫn làm bà kiệt lực. Tôi thương mẹ quá! ê xa mọi diễn biến trên chính trường bà không biết cuộc cách mạng của bà từ lâu rồi đã rẽ sang nẻo khác. Bên cạnh bà, tôi bình tĩnh đến lạnh lùng. Có thể, thế hệ tôi ít ảo tưởng hơn các thế hệ đàn anh và cha chú cho nên tôi mới không bị đòn đánh làm cho tê tái, làm cho mất khả năng suy nghĩ. Nhìn ngôi nhà bị xáo trộn tan hoang như vừa qua trận giặc càn tôi chỉ rùng mình. Nó càng lạnh lẽo khi vắng bóng cha tôi. Hồi ông chưa bị bắt ngôi nhà không lúc nào vắng khách. Bây giờ chẳng còn ai dám lai vãng.
Tôi cho rằng cuộc tổng khủng bố chỉ mới bắt đầu. Sau cha tôi sẽ đến lượt nhiều người khác. Trong đó có thể có tôi. Ngày hôm sau, tôi tới Bộ Nội Vụ để báo tôi đã về. Tôi làm đúng như lời dặn của nhà chức trách để họ không có cớ gây sự thêm với tôi, chứ có cả một lũ công an mật đông đảo theo sát tôi từng bước họ thừa biết tôi ở đâu. Tôi cũng chuẩn bị sẵn để có bị bắt cũng không bị bất ngờ. Vợ tôi, nước mắt rưng rưng, giúp tôi xếp hai bộ quần áo, bàn chải răng, khăn mặt và vài đồ dùng lặt vặt khác vào ba-lô(5). Khi tôi dắt xe ra khỏi nhà mẹ tôi lặng lẽ đặt tay lên vai tôi và nhìn lâu vào mắt tôi. Trong giây lát, mắt bà đã nhòa lệ. Vợ chồng tôi đạp xe đến thẳng phòng thường trực Bộ Nội vụ ở số 16 Trần Bình Trọng. Chúng tôi đi trong im lặng. Tôi đạp, vợ tôi ngồi ủ rũ trên đèo hàng.
Vợ tôi cũng có mặt trong buổi nói chuyện giữa tôi với anh Nguyễn Trọng Luật. Ngoài miệng vợ tôi đồng ý với tôi, nhưng trong thâm tâm vợ tôi vẫn phân vân - nếu anh Luật đã giúp cho một chỗ trốn thì tại sao tôi lại không chịu trốn, lại để mặc cho bị bắt? Ngồi sau tôi, vợ tôi úp mặt vào lưng tôi khóc khe khẽ.
Ðó là cuộc tiễn đưa của người vợ đưa chồng đến cõi chết. Trên đường Nguyễn Du rẽ sang Trần Bình Trọng tôi gặp Nguyên Hồng(6) đi ngược chiều. Trên người anh vẫn cái áo pi-gia-ma xanh nhạt đã ngả sang cháo lòng, vẫn cái quần ximili xám vén gấu, vẫn cái xà-cột đựng bản thảo tòn ten bên hông. Chòm râu anh mới nuôi năm trước giờ chấm cổ áo. Ðang tư lự trên hè, nhác thấy tôi anh giật mình đứng lại. Tôi xuống xe, định đến bắt tay anh thì bỗng Nguyên Hồng hấp tấp lùi lại, bước tránh sang vệ cỏ. Ðôi mắt anh bùi ngùi nhìn tôi. Rồi rất trịnh trọng, anh chắp tay xá tôi, xá dài theo kiểu người xưa, môi mấp máy nói gì không rõ. Tôi đứng lặng. Nguyên Hồng đùa hay thật? Không, anh không đùa. Ðành cúi đầu xá anh, đáp lễ.
Nguyên Hồng làm thế là phải. Ðã mấy tháng nay nhất cử nhất động của gia đình tôi đều bị theo dõi. Không cứ anh, ai cũng phải làm như thế.
Nguyên Hồng lẳng lặng đi, đầu cúi. Nhìn anh lầm lũi trên phố vắng, vợ tôi hỏi:
- Ông nhà quê nào đấy hả anh?
Khổ, chòm râu dài, cái mũ lúc sụp xuống trán, nước da đen nhẻm làm cho vợ tôi không nhận ra Nguyên Hồng. Vợ tôi đã gặp anh, đã ăn cơm với anh ít nhất cũng vài lần ở nhà tôi và nhà anh Bùi Ngọc Tấn(7) dưới Hải Phòng. Anh thay đổi nhiều kể từ ngày về Yên Thế. Anh đã tin nhiều để rồi không tin nữa cũng trong những năm ấy. Tôi nhìn theo tác giả Bỉ Vỏ. Anh đi không ngoảnh lại.
Cuộc gặp gỡ Nguyên Hồng để lại trong tôi cảm giác xót xa(8). Tôi không giận Nguyên Hồng. Tôi chỉ buồn thôi. Buồn lắm. Trong những ngày ấy mọi người đều xử sự như thế và xử sự như thế mới là khôn ngoan. Chẳng bao giờ tôi được gặp lại Nguyên Hồng nữa, mặc dầu khi tôi ra tù anh còn sống. Tôi yêu mến Nguyên Hồng hơn bất cứ nhà văn nào cùng thời. Anh là người có trái tim trong sáng và tư cách kẻ sĩ. Huỳnh Ngự lạnh nhạt ra tiếp tôi. Y gườm gườm nhìn cái ba lô tôi mang theo, nhưng không nói gì, hẹn ngày khám tủ, rồi bảo tôi về. Vợ tôi cho đó là dấu hiệu tốt, rằng căn cứ cách đối xử không gay gắt của Huỳnh Ngự, chắc nhà cầm quyền sẽ không đụng tới tôi. Ðúng hẹn, vào buổi tối Huỳnh Ngự đến mang theo hai nhân viên. Nhìn con người nhỏ thó, gày còm trong bộ dạ đen, tiếng cười chua loét chọc thẳng vào màng nhĩ, tôi không ngờ rồi đây tôi sẽ còn phải đối mặt với y nhiều, trong một thời gian dài. Mắt hoay hoáy sau cặp kính lão gọng sừng, y vừa khám xét, vừa cười hé hé tự tán thưởng những câu bình luận vô duyên. Tiếng mỗi cuốn sách bị quăng xuống sàn trong yên lặng giội vào tim tôi. Ðược cha mẹ giáo dục từ nhỏ thái độ kính trọng đối với sách báo, và nói chung đối với mọi sản phẩm của trí tuệ, tôi không ngớt ngạc nhiên trước hành động vô văn hóa của bọn mật thám ngày trước và bọn công an bây giờ. Về mặt này chúng không khác nhau. Dường như chỉ riêng có loại chúng sinh đặc biệt này là thích dày đạp lên trí tuệ. Chỉ có chúng mới cảm thấy lạc thú được phỉ nhổ trí tuệ.
Cuối buổi khám xét chúng thu được một bị lớn gồm tất cả những gì có chữ viết - bản thảo, thư từ, sổ ghi chép của tôi và của vợ tôi. Cả những băng ghi âm và bộ đầu từ dự trữ cho máy ghi âm chúng cũng thu tuốt.
- Máy ghi âm đâu? - Huỳnh Ngự hỏi.
- Bán rồi. - tôi đáp.
Y không bằng lòng thấy tôi trả lời trống không. Nhưng y hỏi trống không thì tôi cũng trả lời trống không. Lịch sự với y chỉ có thiệt.
- Ghê thật, dám chơi máy ghi âm. - y dài giọng
- Anh có biết phải có giấy phép mới được chơi máy ghi âm không?
- Không biết. Tôi dùng chứ không chơi.
- Trừ các cơ quan, tư nhân không ai được phép sử dụng máy ghi âm. Quy định của Nhà nước là thế, rõ chưa?
- Tôi chưa được thấy quy định này trên báo chí.
- Không phải quy định nào cũng cần phải đăng báo.
Nhân chứng hình thức cho cuộc khám xét là bà tổ trưởng dân phố, người quen của chúng tôi. Bà này tính tình hiền lành, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, ngồi yên một góc với vẻ mặt buồn phiền vì phải tham gia vào việc làm bất nhẫn. Bà quay mặt đi, tránh nhìn cảnh đang diễn ra. Bây giờ, đứng giữa sân Hỏa Lò, trong lãnh địa của y, Huỳnh Ngự bé nhỏ khuỳnh khuỳnh hai tay chống nạnh, cái mặt quắt vênh lên: - Tôi hỏi: anh đang mần chi? - Các anh đưa tôi đến đây bảo đợi thì tôi đứng đây tôi đợi, chứ còn làm gì? - tôi nhún vai đáp - Ðợi ai, đợi cái gì, để làm gì, thì lại không thấy nói. Ðứng chán, tôi đi dạo. Anh muốn biết tôi làm gì à? Thì đấy, tôi đang ngắm cảnh. Xem nó có gì khác trước... - Nè, anh đừng có láo nghen! Anh chưa từng bị bắt, vô Hỏa Lò khi mô mà phách lối: coi nó có chi thay đổi? Ơ hay, cái lối gì thế này? Câu chuyện giữa chúng tôi vừa mới bắt đầu, hà tất phải giở giọng quát nạt? Một thứ đòn phủ đầu, có lẽ thế. Về sau mới biết tôi hiểu lầm từ láo của Huỳnh Ngự - ở quê hương y nó có nghĩa là không đúng sự thật chứ không phải hỗn láo. Còn thói lớn giọng, như sau này tôi được biết, là cố tật của y.
- Tôi sẽ giải thích cho anh hiểu: tôi đã vào đây một lần vào năm 1939 - không phản ứng, tôi thản nhiên đáp - Hồi ấy Mặt trận Bình dân(9) ở bên Pháp vỡ, bên này bọn thực dân tổng khủng bố. Cha tôi bị bắt. Bọn mật thám giở đủ ngón tra khảo không ăn thua, chúng cho phép mẹ tôi mang con vào thăm, hi vọng cha tôi sẽ đổi ý. Nhưng ông vẫn im lặng. Tôi còn nhớ chỗ này có một bức tường ngăn, còn ở góc đàng kia có một giàn nho điếc... Huỳnh Ngự hiểu ẩn ý trong câu nói. Y khịt mũi mấy cái, tìm câu đối đáp. Tìm không ra, y sẵng giọng: - Nè, anh có hiểu anh đang đứng ở nơi mô không đó? Nơi ni kêu bằng Hỏa Lò, biết nó là cái chi không? Biết, hả? Nói thiệt cho anh hay: anh bị bắt rồi đó! Tôi bật cười: - ỷa, anh tưởng đến giờ tôi còn chưa biết sao? Anh báo khí chậm: tôi biết ít nhất cũng cách đây hai tiếng đồng hồ rồi! - Theo tui!
Y hầm hầm ngoắc tay ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi lẳng lặng theo y đi về phía ngôi nhà dài và thấp, đối diện với cổng Hỏa Lò.
Gần tới nơi Huỳnh Ngự đi chậm lại, nói với tôi:
- Nói thiệt cho anh hay: cơ quan an ninh thật ra cũng chưa muốn bắt anh mô! Loại cán bộ tép riu như anh bắt làm chi cho uổng công. Ðảng đã ra thông báo cho các anh thời gian để các anh tự khai báo. Nhiều người đã đến xin Ban tổ chức Trung ương cho được thú tội, họ có sao mô. Họ vẫn sống yên lành với vợ với con. Còn anh thì bị. Anh bị là bởi anh không biết đều. Nghĩ mà coi: trước Ðảng, anh là cái thứ chi? Anh chẳng là cái thá chi hết trọi. Một con muỗi mắt. Một hạt cát... Nhân tiện tui cũng cho anh hay: đích thân anh Sáu(10) ra lịnh bắt anh đó!
Tôi bật cười:
- Anh thật sự nghĩ rằng nếu tôi được Trưởng ban Tổ chức Trung ương đích thân hạ lệnh bắt thì hân hạnh nhiều hơn hay sao? Ai hạ lệnh bắt thì cũng thế cả thôi, anh hay anh Sáu, anh Ba, anh Năm(11), hay anh nào khác. Chưa tới lúc các anh phải đổ lỗi cho nhau.
Huỳnh Ngự đứng phắt lại:
- A! Anh láo! - y gầm lên, nếu như cái giọng the thé của y có thể gọi là gầm - Vào đến đây rồi mà vẫn còn láo! Anh nhớ lấy: đây là Hỏa Lò! Hỏa Lò, anh hiểu chưa?
Lần này tôi không lầm. Chữ láo mà y dùng lúc này chính là hỗn láo.. Chúng tôi bước vào một căn phòng không cửa, cửa một hàng song sắt có thể đẩy qua đẩy lại. Hai tên cô hồn đã có mặt, như từ dưới đất chui lên. Không hiểu chúng vào bằng đường nào, từ bao giờ. Chúng xun xoe bên Huỳnh Ngự, nhưng Huỳnh Ngự gạt ra. - Cởi quần áo!
Giọng nói hách dịch của Huỳnh Ngự làm tôi lộn ruột. Trước nay chưa có ai nói với tôi bằng cái giọng như thế.
Tôi quắc mắt nhìn y, cởi phăng áo bông, nhưng không đưa cho Huỳnh Ngự mà quăng nó xuống sàn, trước mặt y.
Y lườm tôi rồi lẳng lặng nhặt lên, lật qua lật lại, lộn trái các túi áo, bỏ các vật tìm thấy lên bàn: chùm chìa khóa, khăn mu-soa, ví tiền, các thứ giấy tờ lặt vặt... Tôi có thói hay ghi những điều cần nhớ lên những mẩu giấy bất kỳ rồi sau đó để vãi lung tung. Trong mấy mẩu giấy Huỳnh Ngự thu được có một mẩu tôi ghi lại những số biển đăng ký xe đạp của lũ cá chìm(12). Tôi ghi lăng nhăng chơi, chứ chẳng để làm gì. Tôi cũng có ý định chuyển cho các bạn để các bạn chú ý xem họ có bị theo dõi không, bởi vì bọn công an mật thường thay đổi nhau theo dõi các đối tượng, nhưng chưa kịp.
Trông cái cách Huỳnh Ngự lần từng đường chỉ ở nẹp áo bông, tôi nghĩ hẳn y ngờ tôi có mang một cái gì đó đáng ngờ trong người, một bức thư mật chẳng hạn. Nhưng chẳng có cái gì hết. Vừa khám y vừa chun mũi lại, chỉ dùng ngón cái và ngón trỏ, còn những ngón khác vểnh lên, như sự đụng chạm với quần áo của tôi làm y gớm. Tôi nhớ tới tên mật thám Pháp khám nhà chúng tôi năm 1939, cung cách cũng y như vậy. - Cởi nốt! Tôi lột nốt sơ-mi, quần, quăng tuốt xuống đất. Ðứng mãi cũng mỏi, Huỳnh Ngự ngồi thụp xuống, lần mò khám xét đống áo quần dưới chân tôi. Trong bộ cánh mùa đông bằng dạ đen hai cổ tay gày gò với những ngón tay khô xác thò ra ngoài hai ống tay áo cũn cỡn, trông y giống một con ruồi trâu. - Há mồm!
Tôi há mồm. Cặp mắt nhỏ và khô của Huỳnh Ngự nghiêng ngó qua tròng kính viễn nhìn sâu vào hốc miệng tôi. Chẳng lẽ y thực sự nghĩ trong đó có gì? Y có vẻ mặt thất vọng. Cuộc bắt cóc giữa đường được tổ chức chu đáo, một cách bất ngờ nhất, đã không mang lại kết quả.
Trên người tôi chỉ còn áo may-ô, quần đùi. Ðể chơi chướng, tôi cởi tuốt tuột vứt xuống cho y. Căn phòng không có cửa, gió thông thống. Trong bộ cánh Adam tôi phải cố gắng để không run rẩy. Mùa đông đến muộn, thời tiết mấy ngày qua đặc biệt khó chịu, nay nóng mai lạnh. Mới hôm trước còn nóng như đầu thu, hôm nay từ nửa đêm về sáng trời đột nhiên trở rét. Càng về chiều nhiệt độ càng xuống thấp. Một anh công an đứng bên bàn ái ngại nhìn tôi rồi lẳng lặng bỏ ra ngoài. Quay lại, anh ta đưa cho tôi bộ đồng phục tù mới tinh: áo cánh, quần dài chân què, với những sọc lớn màu huyết dụ trên nền nâu non. Thứ quần áo tù này tôi đã nhìn thấy trên báo, trên người các phi công Mỹ. Nhưng báo chỉ in đen trắng, không biết màu gì. Huỳnh Ngự cho anh ta một cái nguýt dài. - Cảm ơn anh. - tôi nói. Bộ quần áo mới tinh, còn chua mùi hồ. Tôi lóng ngóng mặc. Không hiểu nhà thầu nào đã may thứ quần áo kỳ cục này: áo không cúc cài, quần không dải rút, hồ lại quá dày làm cho nó cứng như mo nang. Trong phòng không có gương, nhưng tôi cũng hình dung ra hình ảnh tức cười của tôi trong bộ cánh mới: áo vắt chéo vạt lại cho kín mà vẫn hở ngực, quần thắt lá tọa kéo cả hai ống lên cao để lộ đôi cẳng chân. Không thấy gì đáng ngờ trong số đồ vật thu được, Huỳnh Ngự chuyển sự chú ý qua bông hồng Nam Dương. Y gỡ tờ pơ-luya mà anh Lưu bọc cuống hoa (anh thích làm đẹp cho bất cứ cái gì), soi nó lên nền trời xám xịt. Bỏ kính ra, đeo kính vào chẳng thấy gì, y sai một tên cô hồn bật đèn để soi lên ánh điện. Cũng chẳng có gì ở trong đó. Một trong mấy tên phụ tá dùng ngón trỏ và ngón giữa cặp lấy tờ giấy, nhẹ nhàng bỏ nó vào một bao polyethylen, hẳn để đem đi xét nghiệm. Cảnh tượng diễn ra trước mắt tôi giống đoạn tả vụng về trong một cuốn truyện trinh thám rẻ tiền.
Huỳnh Ngự hỏi tôi: - Bông hồng ni ở mô ra? Tôi nhún vai. Y dằn giọng lặp lại câu hỏi. - Một người bạn tặng tôi.
Ngó nghiêng bông hồng thêm một phút, y nheo mắt nhìn tôi:
- Mật hiệu, hử?
Cái lối nhìn thấy gián điệp ở bất cứ chỗ nào của các nhà thực hành chuyên chính vô sản làm tôi ngán quá. Biết trả lời tên này thế nào cho y vừa lòng? Tôi ném cho tên Sherlock Holmes(13) nội hóa một cái nhìn khinh bỉ.
- Bông hồng ni ở mô ra, tui hỏi anh?
- Tôi nói rồi: một người bạn tặng tôi.
- Ai?
Nói hay không nói cho cái thằng quan cách mạng này biết bông hồng là của anh Lưu? Biết thế này chẳng nhận bông hoa cho xong. - Tôi đợi mãi cây hồng mới trổ bông này để tặng cụ nhà. - anh Lưu nói khi cắt cho tôi cành hoa - Phải là người sành thưởng hoa như cụ mới đánh giá được công sức tôi chăm bẵm cây hồng quý. Tiếc quá, đến lúc có được bông đầu tiên thì cụ lại bị rồi. Thôi thì anh thay mặt cụ nhận món quà mọn này cho tôi, kể như tôi thực hiện được ý mình muốn.
Trong cái sân rộng bốn thước vuông đầy ắp cây cảnh, dưới ánh sáng mờ mờ lọt qua tấm ni lông rách, trông anh gày quá, xanh quá. - Tôi rất quý cụ. Hồi 45 cụ nhà ta có cấp cho tôi một cái giấy ra vào Bắc bộ phủ để chụp ảnh Cụ Hồ đấy. Cụ nhà khoáng đạt lắm, đối với văn nghệ sĩ thì ba chê(14) được...Chà, thật là buồn. Tôi không sao hiểu nổi: những bậc tiền bối cách mạng ngày trước vào sinh ra tử có nhau, sao mà bây giờ lại có thể tàn nhẫn với nhau đến thế? Cụ Hồ bây giờ ở đâu? Tôi còn giữ được tấm phim chụp Hồ với cụ nhà ta đứng bên nhau trên tàu Dumont Durville năm 46, khi tàu vừa cập bến Hải Phòng...Tôi sẽ in tặng anh một tấm... - Cảm ơn anh. Bây giờ nó không còn giá trị gì đối với tôi nữa. - À nhỉ, thế mà tôi không nghĩ ra.
Liệu tôi nói ra tên anh Lưu tên nhà quê này có làm phiền anh không? Anh đang mang bệnh, gia đình đang gặp khó khăn, có thể nói là túng quẫn. Nhưng không nói ra còn lôi thôi hơn. Chúng nó theo dõi tôi từng bước, chúng nó đã biết tôi đến nhà ai trong buổi sáng nay. Chắc chắn, nếu nghi ngờ chúng sẽ đến tận nhà anh Lưu, sẽ cật vấn anh, sẽ khám xét ...Giữa lúc anh đang ốm đau! Sau một lát ngần ngừ, tôi nói:
- Có gì đáng giấu đâu. Bông hồng do một nghệ sĩ nhiếp ảnh tên là Trần Văn Lưu tặng tôi. Các anh có thể xác minh chuyện này dễ dàng.
Có vẻ cái tên Trần Văn Lưu chẳng nói lên điều gì với y.
- Trần Văn Lưu, hử? Ðược!
Y hí hoáy ghi sổ tay.
Bọn này có thể làm phiền anh lắm, tôi nghĩ. Mình ngu hay hèn khi nói ra tên anh? Trần Văn Lưu là một lãng tử chính cống trong nghệ thuật. Cả cuộc đời anh, anh không ngớt mơ ước về một salon ảnh nghệ thuật của riêng anh, trong đó anh sẽ là chúa tể các thứ ánh sáng làm ra Cái Ðẹp. Ðến ngày đó anh sẽ trở thành Mạnh Thường quân cho chúng tôi, đám nghệ sĩ thất cơ lỡ vận, hay là "thất cơ lơ vận" theo cách nói đặc biệt Hà Nội của anh. Chúng tôi chờ mãi cái ngày mai tươi sáng, khi "salon Trần Văn Lưu" ra đời. Tiếc thay, nó chẳng bao giờ ra đời cả. Không, chúng chẳng làm được gì hơn một vài lần gọi Trần Văn Lưu đi thẩm vấn. Anh sẽ có thêm một chuyện cười để kể cho bè bạn. Sẽ có vô số người bảo đảm cho anh, rằng với chính trị anh không có quan hệ thân tình.
Tôi nhớ lần chót chúng tôi uống cà phê với nhau ở quán Lâm Toét trên đường Nguyễn Hữu Huân. Chẳng hiểu ai gieo vào đầu Trần Văn Lưu và Bùi Xuân Phái(15) ý nghĩ sản xuất mực bút máy để bán. Thời kỳ này mực bút máy tốt rất hiếm. Bùi Xuân Phái tự hào về kỹ thuật làm mực xanh đen của anh lắm. Anh khoe anh đã chế không biết bao nhiêu thứ mực dùng cho ký họa bút sắt nhưng thứ anh tìm ra này là tốt nhất. Nó không nhòe cũng không phai. Tôi hân hạnh được tham gia mấy cuộc họp sản xuất của hai anh. Bùi Xuân Phái hứng lên vẽ ngay tại chỗ một bức tranh quảng cáo: một ngòi bút máy cách điệu và bên dưới nó một dòng suối mực chảy quanh co. Màu đen nhánh của mực tàu cứ lung linh trên nền giấy vàng nghệ. Chị Lưu phấn khởi xuất vốn, giúp hai đấng nam nhi rửa chai lọ và nấu mực theo công thức Bùi Xuân Phái. Mực sản xuất ra chưa bán được lọ nào chị vẫn ứng tiền cho hai ông chủ tương lai uống cà phê, cộng với tôi được ăn theo là ba. Chúng tôi nhâm nhi cà phê đen của Lâm Toét, thả hồn theo khói Gold Flake, mơ màng về một tương lai huy hoàng của hãng mực Lưu-Phái.
- Anh cười cái chi? - Huỳnh Ngự vặn.
- Tôi chợt nhớ tới một câu chuyện vui.
Có lẽ còn lâu (hay chẳng bao giờ nữa?) tôi mới được trở lại quán cà phê quen thuộc của các văn nghệ sĩ nghèo ở Hà Nội. Ông Lâm Toét đặc biệt yêu mến văn nghệ sĩ, nhất là các họa sĩ. Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Trọng Kiệm, Lưu Công Nhân,Văn Cao, Nguyễn Sĩ Ngọc...hết thảy đều là khách quen của Lâm Toét. Các họa sĩ nghèo, thường uống chịu, ghi sổ. Ông chủ quán gày còm, nhỏ bé, mắt hấp him, không bao giờ đòi nợ họ. Dào, các vị cứ dùng đi, đáng bao nhiêu đâu, không có tiền thì trả bằng tranh cũng được. Nhận tranh của các họa sĩ gán nợ ông không bao giờ trả giá, không cò kè bớt một thêm hai. Các vị cho ông tranh để ông treo là quý rồi. Tranh gì cũng được, ông không phải cán bộ tuyên giáo, ông không khe khắt. Hiện thực, siêu thực, lập thể, nguyên khai hay đa đa... đối với ông thì cũng thế cả thôi, miễn được mắt ông.
Lâm Toét yêu hội họa bằng tình yêu bản năng. Cũng bằng bản năng ông biết phân biệt tranh đẹp với tranh rất đẹp, tranh sáng tạo và tranh đường mòn. Ông có con mắt tinh đời trong sự cảm nhận cái đẹp, chí ít thì cũng hơn những nhà phê bình hội họa quan phương. Một bức sơn dầu cỡ nhỏ (các họa sĩ không có tiền để làm tranh to) của Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng có giá tương đương với sáu bảy chục hoặc trên trăm ly cà-phê đen (còn gọi là cà-phê bít tất) cộng với dăm chục đĩa trứng ốp la lạp xường. Ai cũng biết rằng tranh mà giá có thế thôi thì mạt quá. Nhưng thử hỏi liệu có ai trong những người biết giá trị thực của những bức tranh dám giúp các họa sĩ qua cơn đói lòng mỗi sáng kèm theo cả cà-phê lẫn thuốc lá? Mà trong túi các họa sĩ lại thường xuyên không có những tờ giấy nhàu nát nhưng đáng quý gọi là tiền? Với một ông chủ quán như Lâm Toét các họa sĩ sẵn sàng biếu không tranh của họ. Nhờ vậy Lâm Toét có cả một phòng tranh trên tầng hai của quán cà phê. Chỉ những người được ông trọng nể lắm mới được ông mời lên thưởng tranh. Ông không chỉ có tranh của khách ăn chịu mà còn có tranh và phác thảo của những bậc thầy quá khứ: Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Ðỗ Cung, Tô Ngọc Vân..., thậm chí cả Tardieu(16), hiệu trưởng đầu tiên của Trường Mỹ thuật Ðông Dương.
- Có đúng là không có chi trong bông hồng ni không?
- Anh cứ khám cho kỹ! - tôi cười hòa nhã - Bông hồng là bông hồng. Nó không phải khẩu súng. Ðể mang một bông hồng, theo tôi hiểu, không cần có giấy phép.
- Hừm! Anh giỏi đối đáp đó! - Huỳnh Ngự lườm tôi
- Ðược, để coi ở Hỏa Lò anh còn giỏi được bao lâu? Ðưa nó đi!
Huỳnh Ngự ký sổ tù. Anh công an lúc lắc chùm chìa khóa, ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi giơ tay định cầm lấy bông hồng, nó hiển nhiên là của tôi, nhưng Huỳnh Ngự đã giơ tay phác một cử chỉ ngăn lại. Nhìn bông hồng mảnh mai nằm cô đơn trên mặt bàn lạnh lẽo lần cuối, tôi buồn rầu chia tay với nó, lững thững đi theo anh công an.

(1) Từ năm 1880, người Pháp bắt đầu xây dựng lại Hà Nội theo quy hoạch mới. Hỏa Lò được khai trương vào năm 1886. Lúc đầu nó được đặt tên là Prison Centrale, sau đổi lại thành Maison Centrale.
(2) Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ Nội vụ, ủy viên Ban bí thư, ủy viên Bộ Chính trị. Bị tù Sơn La cùng với Lê Ðức Thọ và những người bị Thọ-Hoàn bắt sau này: Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang, Vũ Ðình Huỳnh, Phạm Kỳ Vân, Lưu Ðộng. Năm 1945 là bí thư Xứ ủy Bắc kỳ.
(3) Giết một người vạn người sợ.
(4) Trong thời kỳ công tác tại miền Nam Lê Ðức Thọ được cán bộ đặt biệt hiệu "Sáu Búa".
(5) Tôi ngây thơ đến nỗi bỏ vào ba-lô cả dao cạo, cả bút máy để viết và vài cuốn sách để đọc. Cứ tưởng mình đang ở một nước văn minh vậy! Trong xà lim tù không được có bất cứ đồ vật sắc nhọn nào, cũng như không được phép đọc hoặc viết.
(6) 1918-1982. Nhà văn, tác giả Bỉ Vỏ, Thời Thơ Óu, Sóng Gầm...Vào thời gian đang được nói tới ông bỏ Hà Nội lên ở ẩn tại vùng Yên Thế, Bắc Giang.
(7) Nhà văn (sinh 1934), từng được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, sau cũng bị tập trung cải tạo vì tội có quan điểm xét lại tại trại tập trung Thủy Nguyên, Hải Phòng.
(8) Quả nhiên, tại Hỏa Lò người ta bắt tôi phải viết một báo cáo về Nguyên Hồng. Phải chật vật lắm tôi mới thuyết phục được họ rằng tôi không biết gì về quan điểm chính trị của Nguyên Hồng. Không nhà văn nào thoát khỏi con mắt Tào Tháo của cơ quan an ninh.
(9) Mặt trận Bình dân (Front Populaire), bao gồm các đảng cánh tả của Pháp, trong đó liên minh cộng sản - xã hội là nền tảng. Năm 1936 Mặt trận giành thắng lợi, chính phủ Léon Blum của Mặt trận Bình dân giải tán các tổ chức phát-xít, ấn định tuần làm việc 40 giờ cho người lao động, ngăn chặn các hành vi phát-xít trong sự đối xử với nhân dân các nước thuộc địa ... Năm 1938 Mặt trận Bình dân yếu dần rồi tan vỡ do những mâu thuẫn bên trong.
(10) Lê Ðức Thọ
(11) Ba, tức Ba Duẩn, Năm, tức Trường Chinh.
(12) Công an mật.
(13) Nhân vật thám tử tư của nhà văn Anh Conan Doyles.
(14) Không chê vào đâu được. Chê là từ Việt, ba là từ gốc Pháp pas = không. Một cách nói thịnh hành năm vào những năm 40 tại Hà Nội.
(15) (1921-1988) Họa sĩ Bùi Xuân Phái rất nổi tiếng trong số những họa sĩ tiên phong cách tân hội họa Việt Nam. Ðặc biệt, với một loạt tranh các phố cổ Hà Nội, Bùi Xuân Phái trở thành người khám phá một thủ đô chưa ai biết. Vì những bức tranh này nhà văn Nguyễn Tuân đặt tên cho các phố cổ Hà Nội là phố Phái.
(16) Victor Tardieu, họa sĩ Pháp, từng đoạt giải hội họa Ðông Dương năm 1920. Là bạn học của các danh họa Rouault và Matisse. Ông đã tích cực vận động chính phủ bảo hộ cho thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật. Khóa đầu tiên của trường này (năm 1925) đã cho ra các họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Lê Thứ... Nguyễn Sáng, Diệp Minh Châu tốt nghiệp trường này năm 1940.


:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 3

Cai ngục của tôi, chính là anh công an mang cho tôi bộ quần áo, dẫn tôi tới trước một cánh cửa lim sơn đen, nằm giữa loạt cánh cửa giống hệt nó trong một hành lang hoang vắng và mốc thếch. Tất cả hiện lên mờ mờ trong ánh sáng bủng beo đầu đông. Tôi đứng lặng, ngắm giang sơn mới của mình. Dội vào óc tôi tiếng mở khóa. tiếng then kim loại trượt trong hõng. Ngoài những tiếng động chát chúa, khu giam người này vắng lặng và ảm đạm như một hầm mộ.
"Những nấm mồ chôn người sống", tôi nghĩ.
- Anh vào trong này !
Tôi ngạc nhiên. Tôi không chờ được nghe một giọng nói hiền lành như thế. Tôi hình dung mọi cái ở đây phải tồi tệ hơn nhiều, phi nhân hơn nhiều, kể cả cách cai ngục nói với tù.
Bước ngoặt cuộc đời diễn ra quá lẹ. Sau một Huỳnh Ngự hách dịch, giọng nói bình thường mà người ta nói với nhau hàng ngày đã đủ làm tôi sửng sốt.
Tôi lẳng lặng quan sát viên cai ngục. Trên gương mặt nông dân thuần phác, nước da thô đầy những sẹo trứng cá, cái mũi to quá khổ, không có lấy một nét gian giảo hoặc ác độc mà ta đinh ninh phải có. Một gương mặt như thế có thể gặp ở bất cứ đâu trong vùng châu thổ sông Hồng.
Ðã bước một chân vào xà lim, tôi dừng lại :
- Tôi có việc muốn phiền đồng chí.
Anh ta nhướng mắt :
- Việc gì vậy ?
- Nhờ đồng chí báo giùm cho cơ quan tôi ở số 76 Lý Thường Kiệt biết tôi hiện ở đây. - tôi nói, giọng không tự tin cho lắm - Ðồng chí gọi điện thoại số 3508, cơ quan tôi lúc nào cũng có người trực.
Hình như anh ta mỉm cười. Tôi sực nhớ : trong nhà tù không được phép gọi công an bằng "đồng chí".
- Ðược.
- Nhân thể xin anh nhắn giùm người phụ trách căng-tin bảo chuyển cho tôi thuốc lá tiêu chuẩn. Và một cái bật lửa.
- Ðược.
Kiên nhẫn nghe hết lời nhắn của tôi, anh ta quay ra.
Cuộc đối thoại hôm ấy giữa tôi với cai ngục hẳn đã cho những người tù ở các xà lim bên cạnh một trận cười, như sau này tôi hiểu. Nó giống chuyện tiếu lâm.
Cánh cửa lim đóng xầm. Sau cái tiếng động không lịch sự là tiếng then rít lên trong hõng, tiếng bấm khóa, tiếng chân xa dần. Căn phòng tối hẳn lại.
Quay vào, tôi thấy một cái đầu bù xù ngẩng lên trong tranh tối tranh sáng. Thì ra ở đây đã có sẵn một cư dân.
Người này cất giọng khàn khàn hỏi tôi :
- Anh mới vào ?
Tôi hiểu đó là một câu chào. Tôi chào lại.
- Vâng.
Mắt tôi quen dần với bóng tối. Trước mặt tôi là một người đàn ông đứng tuổi, mái tóc dài rũ rượi bao quanh gương mặt xương xẩu, đen xạm, râu ria tua tủa. Anh ta khoác tấm chăn sợi Nam Ðịnh đã rách và chắc là rất bẩn, ngồi bó gối trên phản, giống hệt một con cú mèo.
- Anh vừa bị bắt ?
Người tù trừng trừng quan sát tôi. Hình hài tiều tụy cộng với cái nhìn thất thần dính chặt vào mặt tôi làm tôi cảm thấy khó chịu. Tôi lạnh nhạt :
- Vâng, cách đây mấy giờ tôi còn ở ngoài kia.
- Thế à ?
Xà lim của chúng tôi là một căn phòng hẹp, chiều ngang khoảng hai mét, chiều dài hai mét rưỡi, với hai tấm phản xi măng cách nhau bởi một lối đi vừa cho một người. Cuối mỗi phản, sát cửa, là một cái cùm sắt.
Tôi ngồi xuống tấm phản đối diện với người tù. Cái lạnh lẽo của khối xi măng đặc lọt qua lần vải chạm vào da thịt. Tôi rùng mình. Xà lim phảng phất một mùi hôi hám khó tả, hòa trộn mùi mồ hôi người chua chua nồng nồng, mùi nước tiểu lưu niên khăn khẳn với mùi tanh của đờm rãi thường gặp trong nhà thương làm phúc.
Chà, xà lim Hỏa Lò, nó thế này đây !
Lần đầu tiên tôi được thấy nơi giam tù trong phòng riêng, còn gọi là xà lim cá nhân, là ở nhà tù Petropavlovsk, mùa hè năm 1955. Khi ấy tôi là một sinh viên chưa có ria mép, được nhà trường cho đi tham quan các di tích lịch sử của nước Nga. Nhà tù Petropavlovsk nằm bên kia sông Neva, mà bên này là thành phố Lêningrađ. Nghe cô hướng dẫn viên giải thích thì trước kia nó là một pháo đài, sau được xây lại thành xưởng đúc tiền, Nhà Tiền(1), thuộc ty Ngân khố quốc gia, sau nữa mới thành nhà tù.
Trong xà lim dành cho những nhà cách mạng ở nước Nga quân chủ có một giường, một bàn, một bồn rửa mặt, một bàn cầu, tất cả đều bằng sắt, được gắn chết vào bê-tông. Ngoài ra còn có một tủ tường để đựng sách và đồ dùng. Xà lim Hỏa Lò hẹp hơn nhiều, diện tích chưa được bằng nửa, lại trống trơn. Ðem hai cái xà lim ra so sánh thì xà lim thời Nga hoàng giống một phòng trọ rẻ riền, còn xà lim Hỏa Lò giống một chuồng thú.
- Anh ở đây bao lâu rồi ? - hai tay ôm ngực cho đỡ rét, tôi hỏi anh bạn tù.
Anh ta không trả lời ngay :
- Năm năm.
Tôi ớn lạnh. Năm năm ? Trong cái chuồng này ?
Người tù thở nặng nhọc. Anh ta quay mặt vào tường, chậm rãi hút thuốc lào. Tôi không nghe tiếng lọc xọc quen thuộc của điếu ống hay điếu bát. Khói thuốc cay nồng lan tỏa làm cho căn phòng ấm lên được một chút.
- Hà Nội bây giờ có gì khác không anh ? - anh tù hỏi, húng hắng ho.
- Năm năm, chà... - tôi đáp - Cũng chẳng khác trước mấy đâu. Xem nào, so với năm năm trước Hà Nội bây giờ khác cái gì ? Hai bên hè phố có nhiều hố cá nhân, cứ vài mét một cái. Nhiều tự vệ đeo súng. Trên những nhà cao đặt nhiều đại liên, trung liên. Phong cảnh mới của Hà Nội là thế. Thành phố, tất nhiên, vắng hơn trước.
- Nhưng vẫn còn đông chứ ?
- Vẫn đông. Hà Nội bao giờ cũng vẫn là Hà Nội. Vắng đi một anh một tôi chẳng nghĩa lý gì đối với nó.
Anh tù thở dài.
- Anh bị tội gì ?
Người tù không trả lời.
- Tôi tò mò hỏi vậy thôi, anh đừng nghĩ ngợi.
Anh ta ngẩng lên lặng lẽ quan sát tôi. Rồi nói khẽ, như thì thầm :
- Tôi bị tội giết người.
Một tên sát nhân đấy ư ? Không có lẽ. Trong hình dung của tôi tên sát nhân phải dữ tợn hơn, với đôi mắt xếch đầy lòng trắng chẳng hạn.
- Ngộ sát, chắc vậy ?
Anh ta đáp, giọng miễn cưỡng:
- Chuyện dài. Mà rắc rối lắm.
- Anh bị xử mấy năm ?
- Nào đã được xử đâu mà biết !
- Mà đã năm năm rồi ?
Anh tù lúng túng. Chắc hẳn muốn chọe tên lính mới tò te anh ta đã thổi phồng số thời gian ở đây. Bây giờ anh ta ngượng.
- Còn đang giam cứu. - anh ta thở dài đánh sượt - Chưa biết đến bao giờ.
- Giam cứu nghĩa là thế nào ?
- Là người ta cứ giam mình đấy đã để điều tra nghiên cứu. Bao giờ điều tra xong, nghiên cứu xong thì đem xử.
- Giam cứu thường có lâu không ?
- Biết thế nào được. Cũng tùy vụ, tùy người...Nhanh thì sáu tháng, một năm, chậm thì vài ba năm không chừng.
- Xử rồi người ta có trừ đi thời gian đã ở tù không ?
- Trừ chứ.
- Thế nếu điều tra xong anh lại trắng án ? Hoặc án xử lại ít hơn thời gian anh đã ngồi tù, vì tội ngộ sát chẳng hạn ?
- Thì người ta cho về.
- Có thế thôi ?
- Ðược về là phúc rồi, còn muốn cái gì nữa ? Bắt người ta ngồi tù đền à ?
Chòm râu rung rung, anh ta cười không có tiếng.
Bên ngoài có tiếng chân người. Miếng tôn ở cái khung hình vuông bằng bàn tay ở cửa dịch sang bên. Một con mắt ngó vào. Miếng tôn khép lại.
- Cái gì thế ?
- Các ông bộ đội kiểm tra. Kệ, không sao đâu.
- Bộ đội sao lại gác ở đây ?
- Công an quản lý trại, gác trại là Công an nhân dân vũ trang.
- Lôi thôi nhỉ ? Ðã có công an rồi lại còn thêm công an nhân dân vũ trang.
Anh ta cười khúc khích.
- Mỹ ném bom Hà Nội có nhiều không anh ?
Tôi ngạc nhiên : [M3]
- Trong này anh không nghe thấy gì sao ?
- Có chứ, có nghe thấy còi báo động. Nghe thấy tiếng nổ. Nhưng trong phòng kín như bưng thế này nghe chỉ ầm ầm, ầm ầm, không phân biệt đâu là tiếng tên lửa phòng không, đâu là tiếng bom... Anh ở đây rồi khắc biết.
Bom đạn Mỹ rót xuống đất Thăng Long phi chiến địa, theo lời sấm Trạng Trình, không phải bây giờ là lần đầu. Mùa thu năm 1944, những pháo đài bay B26 đã bay đến đây ném bom khu Tám Mái, ném bom bên cạnh Quần Ngựa. Những mẩu tro của đám cháy lớn từ kho Tám Mái bay khắp Hà Nội, rơi xuống những hầm trú ẩn gần đền Hai Bà còn nguyên hình nống vải kaki. Mấy con ngựa đua của ông Ðỗ Kim Hải, bạn cha tôi, chết cứng trong tàu vì mảnh bom, bốn cẳng duỗi thẳng đơ, trông như ngựa gỗ, với những con mắt ngây dại bằng thủy tinh.
Người tù nằm xuống, kéo chăn lên, lạnh lùng quay mặt vào tường.
Tôi còn lại một mình.
Cảm giác đầu tiên ập đến, làm tôi choáng váng, là thời gian đang chảy trôi bỗng ngừng lại đột ngột. Tưởng chừng thấy được, bằng thị giác, bằng xúc giác, cái thanh chắn, cái cột mốc ngăn đôi cuộc đời - bên kia là quá khứ, là phần đã mất, còn bên này, nơi tôi hiện diện, là sự ngưng đọng mở đầu cho cõi bất tri, thăm thẳm, khôn cùng.
Tôi sẽ phải ở đây bao lâu ? Bao nhiêu tháng ? Hoặc, trời hỡi, bao nhiêu năm ?
Tôi không được chuẩn bị để phải chịu đựng cảnh này. Tôi có thể hình dung mình trong nhà tù đế quốc, nhưng không bao giờ tôi hình dung mình trong nhà tù cộng sản.
Nhớ lại những ngày Tháng Tám tưng bừng, khi tôi còn là đứa trẻ, mà tiếc. Trước mắt tôi cuộc đời mở ra toàn một sắc hồng. Cờ đỏ sao vàng tràn ngập Hà Nội. Tiếng trống ếch thiếu nhi vang rền trên các phố. Những đám đông rầm rập như những dòng lũ người, ồn ào tiếng hát, tiếng thét vui mừng.
Thế là cách mạng thành công rồi, mẹ tôi nói. Nhìn thành phố biến đổi như do một phép màu trong niềm vui chung của mọi người mọi nhà, mẹ tôi nước mắt rưng rưng, miệng cười mếu máo vì xúc động. Thế là nước ta độc lập rồi ! Chúng tôi reo mừng, chúng tôi nhảy cỡn lên vì sung sướng. Thế là từ nay chẳng bao giờ mẹ con chúng tôi còn phải thao thức đêm đêm, giật mình với mỗi tiếng phanh ô tô rít lên ngoài đường. Chẳng bao giờ hai mẹ con tôi còn phải chầu chực bên ngoài bức tường đá Hỏa Lò chờ đến lượt mình được gọi tên vào thăm cha tôi trong đó. Cùng với những lá cờ đỏ sao vàng tung bay khắp Hà Nội, tâm hồn chúng tôi mọc cánh trong niềm vui tự do.
Tuổi thơ của tôi chấm dứt từ đó. Tôi lăn vào các công tác cách mạng đáng lẽ của người lớn, bắt đầu bằng một đội viên tuyên truyền xung phong. Chúng tôi diễn kịch, ca hát, chúng tôi lang thang làng này qua làng khác, trong không khí hội hè bất tận. Rồi lớn lên, tôi thành người lính, thành cán bộ. Những năm xen kẽ giữa các công tác, thỉnh thoảng lại bị bố mẹ bắt về đi học, là những năm tôi bứt rứt lắm, ngứa ngáy chân tay lắm; sểnh ra tôi lại lên đường. Chiến tranh, tất nhiên, gắn liền với bom đạn, với hy sinh. Nhưng chúng tôi không sợ. Lớp trẻ chúng tôi đi vào chiến tranh với những khúc quân hành hùng tráng và những bản tình ca lãng mạn. Chúng tôi không sợ hy sinh, chúng tôi không sợ chết. Thế hệ chúng tôi là thế hệ quyết tử quân của cách mạng. "Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh(2)...", Chúng tôi nghe thấy giọng nói sang sảng của Bác Hồ giục giã. Chúng tôi hăng hái ra đi theo lời Bác gọi. Không khó khăn gian khổ nào có thể làm chúng tôi chùn bước.
Ðó là những ngày đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Nếu, nói ví thử điều không thể có, tôi sống thêm một lần và lịch sử lại lặp lại những ngày Tháng Tám, chắc chắn tôi sẽ lại sống như tôi đã sống. Trước mặt chúng tôi là quân xâm lược, sau lưng chúng tôi là nền độc lập vừa giành được, là Tổ quốc. Không có sự lựa chọn nào khác.
Nhưng kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thì cuộc cách mạng của chúng tôi bỗng dưng trở thành không phải của chúng tôi nữa. Một phép lạ, hoặc một ma thuật, đã xảy ra. Nó vẫn đấy, nhưng không còn là nó. Trước mắt chúng tôi là một cái gì lạ lẫm, hoàn toàn không giống cái mà chúng tôi hình dung khi lên đường chiến đấu.
Người ta nói với chúng tôi : có gì đâu, chúng ta đang bước vào giai đoạn mới, chúng ta đang xây dựng một xã hội mới, một thể chế mới, nền nếp mới. Phải học tập để quen với nó, để hội nhập với nó. Mọi quá trình tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ đều là gian nan, đều không dễ dàng, đều phải trả giá bằng sự từ bỏ quan niệm cũ, lề thói cũ.
Cái xã hội mới ấy hình thành dần, mỗi ngày một rõ nét. Càng ngày nó càng trở nên xa lạ. Càng ngày nó càng giống cái mà chúng tôi vừa chiến đấu để xóa bỏ. Chỉ có bề ngoài là khác, với ngôn từ khác.
Tôn ti trật tự của xã hội mới được thiết lập ngay từ những ngày đầu chúng tôi từ chiến khu về Hà Nội.
Một thí dụ nhỏ : theo quy định trong quân đội, từ binh nhì tới chỉ huy trung đội phải mặc áo đại quân có hai túi trên, vai áo có đệm dày (để mang vác) với nhiều đường chỉ máy cho bền, tôi không đếm có bao nhiêu đường, lính tráng gọi là "ba mươi hai đường gian khổ". Cán bộ từ cấp bậc đại đội trở lên được mặc áo không có "ba mươi hai đường gian khổ", thêm hai túi dưới, gọi là đại cán.
Cán bộ dân chính, cũng theo quy định, phải mang đại cán nhưng khác màu bộ đội. Ðó là thứ áo cổ đứng cài đủ cúc, được những ông phó may gọi là kiểu Tôn Trung-sơn(3). Khi lệnh này ban ra đoàn quay phim chúng tôi đang ở thành phố Nam Ðịnh vừa giải phóng. Trên không kịp cấp phát quần áo, người trong đoàn được lĩnh tiền tự đi may. Tôi không thích cái kiểu Tôn Trung-sơn, bèn dùng tiền may quần áo thường : áo sơ-mi, quần ximili. Thế là sóng gió nổi lên, tôi bị phê bình gay gắt về tội vô kỷ luật. Ðành phải thành khẩn nhận khuyết điểm trước tập thể, hứa sẽ may một bộ đại cán đúng quy định, tôi mới được buông tha.
Kỳ cục nhất, buồn cười nhất là chuyện quy định về sử dụng xe cộ. Cấp cục, vụ được đi chung xe Mốt-cô-vích (Moskovich). Cấp thứ, bộ trưởng được đi xe Pobeđa (Pobeda), đi riêng, với rèm che hai kính hông. Cấp ủy viên Trung ương đi xe có che thêm rèm ở kính hậu. Còn các ủy viên Bộ Chính trị, Ban bí thư đi xe Von-ga (Voga), thêm rèm ở hai kính cửa trước. Lãnh tụ tối cao, tổng bí thư sang hơn nữa, có Chai-ka (Tsaika). Khi tiếp khách hoặc trong những dịp khánh tiết thì dùng xe Din (Zil)(4) bọc thép có kính chống đạn.
Vừa về tới Hà Nội mỗi vị lãnh tụ đã chiếm một dinh thự khang trang, của Tây hoặc của các nhà giàu bỏ chạy vào Nam, mỗi nhà là một hành dinh với đầy đủ các bộ phận phục vụ, thư ký, lái xe, bảo vệ, cần vụ, cấp dưỡng. Các vị làm việc tại nhà, các thư ký, giao thông viên chạy như đèn cù giữa các hành dinh để các vị liên lạc với nhau.
Khó chịu nhất là cái sự phải gò mình vào trong cái gọi là dân chủ tập trung. Bất cứ quyết định nào của Trung ương cũng là chân lý, là duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt, cấp dưới chỉ có việc học tập cho thông để thực hiện.
Không còn đâu bóng dáng của sự bình đẳng giữa những người cùng chung một chiến hào. Tôi nhớ một ca khúc của Tô Hải hồi ấy bị cấm hát. Nó bị cấm vì lời ca ủy mị, theo quan điểm của Ðảng, nhưng lính tráng lại thích. Chỉ với một từ bị đổi, một từ thôi, biến chữ triệu thành chữ vài, tâm trạng người lính sau ngày chiến thắng được bộc lộ :
Ngày về tươi vui.
Nhưng giữa thủ đô ai chẳng ngậm ngùi.
Bao mái tóc xanh quấn vành khăn trắng,
Bao má nhăn nheo lệ cuốn tơi bời.
Chờ chồng mong con ngày về chiến thắng,
Trông toán quân về đếm thiếu những ai.
Ðây căm hờn dựng lên ngàn phố
Máu xương xây vài chiếc lâu đài
Hồn quân đi còn vương đây đó
Với đô thành kiếp kiếp khôn nguôi !
Người ta nói rằng những người cách mạng bị biến chất sau thắng lợi.
Tôi loại trừ khả năng đó. Chất của con người thế nào thì nó thế ấy. Có điều mắt chúng ta kém, tầm nhìn của chúng ta hẹp, chúng ta không thấy mà thôi.
Anh tù lục cục bò dậy. Hình như anh ta khó ngủ.
- Này, Mỹ đã bỏ bom những phố nào hả anh ?
- Mỹ chưa bỏ bom Hà Nội. Nam Ðịnh thì có, bị khá nhiều. Tôi vừa ở Nam Ðịnh về cách đây vài ngày.
- Sao người ta nói Hà Nội cũng bị ?
- Người ta lầm. Có hai lần máy bay Mỹ phóng tên lửa vào nội thành : một lần ở chợ Hôm, một lần sát đại sứ quán Pháp ở góc Hàm Long - Bà Triệu.
- Chết nhiều không anh ?
- Lần ở chợ Hôm chết cũng khá. Lần sau thì không. Hình như có mấy người bị thương.
Anh ta lẩm bẩm câu gì không rõ.
- Khi có báo động người ta có cho tù ra hầm trú ẩn không ? - tôi hỏi.
Anh ta bật cười khe khẽ.
- Ra hầm trú ẩn ? Còn lâu. Mà sao từ sáng không có còi báo động nhỉ ?
Tôi ngạc nhiên thật sự.
- Hôm nay ngừng bắn mà. Anh không biết ?
- Ngừng bắn ? Mà sao lại ngừng bắn cơ chứ ?
- Ủa, anh không biết thật ?
- Thì ngồi đây làm sao mà biết được ?!
- Hôm nay là 24 tháng Chạp dương lịch. Nửa đêm sẽ có lễ mừng Thiên Chúa giáng sinh.
Anh tù ngẩn người. Như kiểu thất vọng. Nghe ngóng một lát, anh móc từ trong hốc phản ra một cái đinh năm phân, không vội vã khắc lên tường xà lim một cái dấu. Tường xà lim rất cứng. Chật vật lắm anh mới khắc được một nét.
- Tôi lầm ngày mất rồi. - anh buồn bã - Thế quái nào mà lầm được mới lạ chứ ? Tôi cứ ngỡ mai mới No-en. Còn anh, làm sao anh bị bắt ?
Tôi không trả lời ngay.
- Biết giải thích thế nào cho anh hiểu. - tôi nhún vai - Chính tôi cũng không biết vì sao người ta bắt tôi. Tôi muốn nói không hiểu người ta định buộc tôi vào tội gì...
Chẳng lẽ anh ta hỏi mà mình không trả lời, tôi nghĩ, chuyện của mình thường phạm hiểu sao được.
- Tại sao lại không biết ? - anh ta ngạc nhiên - Khi bắt phải có đọc lệnh bắt chứ, mà trong lệnh bắt bao giờ người ta cũng nói tội gì.
- Người ta bắt tôi ở giữa đường rồi đưa thẳng vào đây.
Cái đầu bù xù trầm ngâm gật gật :
- Vậy thì hiểu rồi, hiểu rồi - bị bắt mà không rõ vì tội gì thì chỉ có món số lẻ thôi. Lạ, sao lại bắt giữa đường ? Chính trị, nó như con đĩ ấy, kinh lắm...
Tôi bật cười.
- Tại sao anh lại gọi chính trị là cái món số lẻ ?
- Anh không biết à ? Mà làm sao anh biết được, anh chưa vào tù bao giờ... Gọi chính trị là số lẻ do thế này : tù chính trị mang số tù lẻ, gọi là số lẻ, tù hình sự mang số chẵn.
- Ra thế ! Tôi không biết. Không thấy họ nói tôi mang số nào.
- Chắc anh bị ghép vào tội tuyên truyền phản động.
- Tôi cũng chẳng rõ.
- Tội này rộng. Mà lại không rõ ràng. - anh ta thở dài - Ăn nói không giữ gìn, lỡ mồm lỡ miệng đụng đến chính quyền hay lãnh tụ là đi tong. Cứ có đứa báo cáo là người ta tom ngay, không oong đơ gì hết... Trong này ối trường hợp như anh. May thì được đưa ra tòa xử. Không may, bị một suất tập trung cải tạo(5) coi như rồi đời.
- Tập trung cải tạo nghĩa là thế nào ?
- Nghĩa là cứ tù mút mùa. Bao giờ người ta thích tha thì người ta tha.
- Tại sao lại có thể như thế được ?
Người tù im lặng sửa lại cái chăn trên vai vừa tụt xuống, lại quay mặt vào tường, hút tiếp một điếu thuốc lào. Trong phòng mỗi lúc một lạnh thêm. Nghe rõ tiếng gió hú bên ngoài.
- Anh là cán bộ kháng chiến chống Pháp phải không ?
- Phải.
- Thế thì không bị tập trung cải tạo đâu, đừng lo.
- Tôi chẳng lo. Họ có quyền bắt thì họ cứ việc bắt.
- Anh không nên nói thế. Người ta đã bắt, nghĩa là mình phải có tội.
Tôi nhún vai.
- Mình không nghĩ là tội người ta cứ nghĩ là tội thì vẫn thành tội như thường...
Có nên trò chuyện với anh chàng giết người này không nhỉ ? Nói cũng chẳng sao, đàng nào thì cũng thế.
- Nói của đáng tội, giữa tôi và Ðảng cũng có vài chuyện lủng củng.
- Chết chửa, thế thì căng lắm ! - anh tù lắc đầu - Mà tại sao các ông ấy lại cho anh vào xà lim này nhỉ ?
Tôi không hiểu ngay ý nghĩa câu nói.
- Anh nói thế nghĩa là thế nào ?
- Thường người ta không giam lẫn lộn số chẵn với số lẻ. Mà anh thì rành rành là số lẻ rồi...
Ra thế.
- Nghĩa là tôi là đối tượng(6) của cách mạng còn anh thì không chứ gì ? Chính tôi cũng không hiểu tại sao người ta lại giam kẻ thù của nhân dân lẫn với bạn của nhân dân ?
Trong những cuộc giáo dục chính trị các giảng viên thường xuyên dạy chúng tôi phải phân định rõ bạn thù. Hiển nhiên cách phân định này vẫn giữ nguyên ý nghĩa trong cả Hỏa Lò - những tên lưu manh trộm cướp, những tên sát nhân là bạn của nhân dân, còn người bị buộc tội chống chế độ là kẻ thù của nhân dân.
- Anh có thể phản đối nếu người ta lầm. - tôi nói thêm - Họ đưa tôi vào đây thì tôi vào đây. Họ có hỏi ý kiến tôi đâu. Tôi cũng không đề nghị...
Tôi không kịp nói hết câu. Không khí lạnh trong phòng làm tôi hắt hơi chan chát.
- Anh không có quần áo ấm à ?
Anh bạn tù ngẩng nhìn tôi. Giọng nói của anh có chiều ái ngại.
- Chúng nó thu hết quần áo của tôi - tôi vẫn tiếp tục ho - rồi đưa tôi bộ này.
Người tù nhớn nhác. Cái nhìn của anh hướng về ô cửa kiểm tra. Tai tôi cũng bắt được một tiếng động lạ.
- Dào, rồi các ông ấy sẽ cho anh nhận lại thôi, việc quái gì mà sốt ruột. - anh ta cất cao giọng, cố ý nhấn mạnh hai chữ các ông kính cẩn để xóa đi hai chữ chúng nó xách mé của tôi, cốt để người bên ngoài nghe thấy.
Tôi chợt nhớ ra tên gọi tiếng Pháp của cái lỗ cửa nọ : le judas. Tên của tông đồ thứ 13 của Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô, kẻ bán thầy cho quan Phi-la-tô lấy ba mươi đồng đi-na. Có tiếng chân đi xa dần.
- Nếu anh rét quá thì cứ lấy tạm đồ của tôi mà dùng.
Thái độ ân cần của anh làm tôi ngượng. Nhưng dùng đồ của anh ta ? Tôi rùng mình. Không khi nào !
- Cảm ơn anh. Chúng nó phải trả lại cho tôi quần áo chứ, ít nhất cũng phải trả cái áo bông. Chúng nó không có quyền...
- Anh vừa vào không biết luật lệ trong này thế nào đâu. - anh ta hấp tấp cắt ngang - Ðã vào đến trong này là mình không còn cái quyền nào hết. Trả hay không trả, trả cái gì, không trả cái gì, trả lúc nào là tùy các ông ấy. Người ta đã tính toán cả.
Cả cái sự tôi bị đưa vào xà lim ở chung với người tù có bộ dạng gớm ghiếc này cũng đã được tính toán, chắc thế. Một phương án, theo ngôn từ nghề nghiệp của công an.
Có tiếng dép nhựa loẹt quẹt trên nền xi-măng ở bên ngoài. Tiếng mở khóa lạch xạch. Rồi cửa xà lim mở toang.
- Cơm !
Viên cai ngục nông dân đặt xuống trước mặt tôi một cái tô tráng men. Trong ánh sáng mờ mờ lọt qua cửa thông gió ở tít trên cao tôi nhìn thấy trong cái bát men lổn nhổn một thứ gì đó giống như rau muống nhưng đen xì. Những cọng rau bập bềnh trong nước lõng bõng, ở trên cùng có hai miếng mì luộc trông giống như cặp bánh dầy con ở các gánh dầy giò thường bán ở bến tàu bến xe, nhưng mỏng hơn.
Liếc nhanh quan sát tôi, viên quản giáo quay ra, khóa cửa lại. Tiếng cài then lạch xạch xuyên vào óc.
- Còn suất của anh đâu ? - tôi hỏi.
- Tôi ăn lâu rồi. - anh tù quay mặt đi - Cơm trưa ở đây người ta cho ăn từ 11 giờ đến 12 giờ.
Lúc ấy tôi còn đang bị khám.
Tôi ngán ngẩm nhìn bữa ăn đầu tiên trong tù.
Tôi chưa ăn ngay. Trên đồng bánh mì luộc xác những con mọt tí xíu nổi lên lấm tấm như rắc vừng. Rau muống đen là phải : nấu trong chảo gang rau muống bao giờ cũng có màu như thế. Tôi khều mấy cọng rau lên ngắm. Rau muống không được nhặt và rửa kỹ, hoặc không nhặt cũng không rửa, còn nguyên rễ tua tủa và lá vàng.
Tôi ngồi bất động một lát trước tô cơm.
- Chịu khó mà ăn. - anh tù ái ngại nhìn tôi - Hỏa Lò chỉ có thế thôi.
Tôi xếp chân bằng tròn trên phản, từ từ đưa vào miệng, từng miếng một, cái khẩu phần quái gở. Chưa bao giờ tôi phải ăn một thứ gì tệ hại hơn, kể cả trong năm 1949, năm gian khổ nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hồi ấy bộ đội chúng tôi thường xuyên ăn cơm gạo mốc với thức ăn là canh bí đỏ nhạt thếch vì thiếu muối.
Tôi chiến thắng bản thân. Một lát sau, viên cai ngục quay trở lại lấy bát rếch. Anh ta ngẩn người trước cái bát sạch trơn, lẳng lặng cầm lấy nó, đi ra.
- Anh giỏi ! - người bạn tù buông một lời khen.

(1) Hình như kiến trúc của mọi xưởng đúc tiền đều giống nhau ở chỗ có nhiều khu riêng rẽ, ở tính chất kiên cố trong xây dựng, cho nên chẳng riêng ở nước ta, ở nhiều nước khác khi cần thiết người ta cũng biến chúng thành nhà tù. Nhà tù Petropavlovsk trước kia là một Nhà Tiền thuộc Nha Ngân khố của nước Nga quân chủ. Nhà tiền Hà Nội bị chính quyền chiếm đóng sửa lại thành trại giam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1946-1954. Trên nền nhà tù này Nhà máy in Tiến bộ được xây dựng.
(2) Lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh trong Ngày toàn quốc kháng chiến.
(3) Kiểu áo cổ đứng phổ biến ở Trung Quốc. Tôn Trung-sơn, hay Tôn Dật-tiên (1866-1925), nhà cách mạng chủ trương chủ nghĩa tam dân. Tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân quốc.
(4) Các nhãn hiệu xe du lịch do Liên Xô sản xuất.
(5) Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội mang số 49NQ/TVQH do chủ tịch Trường Chinh ký ngày 20.6.1961. Theo Nghị quyết này chính quyền có thể bắt giam các công dân không cần đến thủ tục tố tụng, mỗi hạn tập trung cải tạo được ấn định là ba năm. Khi hết một hạn, người bị tập trung cải tạo có thể và thường bị ở thêm hạn tiếp theo, và cứ thế kéo dài mãi. Ở Trung Quốc, tập trung cải tạo đã có từ sau khi Ðảng cộng sản chiếm được chính quyền ở Hoa lục với hình thức "trường 7.5". Mãi tới tháng 2.1980 nó mới được thể chế hóa bằng một chỉ thị của Quốc vụ viện, theo đó thì bất cứ công dân Trung Quốc nào cũng có thể bị đưa vào trại cải tạo đặc biệt trong một thời hạn nhất định. Trong chuyện này Chu Ân Lai rõ ràng đã đi sau Trường Chinh.
(6) Xin hiểu : kẻ thù của Cách mạng .




:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 4

Tôi lặng lẽ quan sát người từ nay tôi phải sống cùng, không biết là bao lâu : vài tuần, dăm tháng hay cả năm ?
Tôi nhớ đến chuyện cha tôi kể về những lần ông bị bắt. Ông nói quan trọng nhất là mấy ngày đầu. Mọi thủ đoạn của địch nhằm bẻ gẫy mình nằm trong mấy ngày đó. Tra tấn dữ nhất cũng trong mấy ngày đó. Sau thì không đáng kể. Vào thời gian này địch thường cài chỉ điểm vào xà lim, cho ở chung với mình. Những ngày mới bị bắt con người cảm thấy cô đơn vô cùng. Thế là những bí mật anh ta cắn răng không khai với địch thì lại khai thông thốc với tên chỉ điểm trong những câu chuyện tâm tình.
Trời tối lúc nào không biết. Sau cái chạng vạng nhập nhòa, không rõ của trời hay của xà lim, ngọn đèn trong lưới sắt bừng sáng. Dưới ánh sáng điện trông anh tù cũng không đến nỗi gớm ghiếc cho lắm.
Cửa lại mở, lần này không có tiếng động dữ dằn như lúc tôi mới vào. Viên cai ngục nông dân đứng trong khung cửa, cái áo bông của tôi vắt ngang tay :
- Anh !
Tôi hỏi lại :
- Tôi hả ?
Anh ta gật đầu, đưa cho tôi cái áo bông :
- Anh mặc vào rồi đi với tôi.
Tôi uể oải xỏ giày, đi theo anh ta.
Chúng tôi đi lặng lẽ trong một cái sân hẹp và tối, qua mấy ngôi nhà dài kiểu trại lính, từ trong đó bay ra tiếng người rì rầm như một tổ ong, qua một xưởng thợ ngổn ngang sắt thép rồi bước vào một ngôi nhà lớn. Trong một góc tối leo lét mấy ngọn đèn màu mắc trên một cành thông. Từ xó tối đó một cái loa vô hình rền rĩ :
Hồng hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê...
Cuối í í sông... ngoài bến Việt Trì có những chàng áo nâu về...
Say mê đồng lúa...
Vui tràn trề.ề....
Ánh đèn mờ mờ cho thấy nơi này có một hành lang ngắn, một cái ngách, với hai dãy cửa. Tôi đoán đây là khu tù binh. Người ta không chiều tù nhân Thiên chúa giáo bản xứ tới mức tha vào đây cho họ một cây thông. Lại càng không để ý tới chuyện cho họ một chút âm nhạc đang phát ra kia, từ một máy ghi âm cà khổ. Dây cu-roa máy đã rão lắm, nó chạy èo ẽo làm cho bài ca trữ tình trở thành não nuột. Không biết họ sẽ cho tù binh Mỹ mừng Noen theo cách nào đây ? Chẳng lẽ lại điệu từng tên ra, cho nó đi những bước dè xẻn quanh cái cành thông nhà quê kia một lát, cho nó hưởng khúc nhạc thê lương kia một lát, rồi điệu về, nhường chỗ cho tên khác ? Xem ra với cung cách này lễ Thiên chúa Giáng sinh cho tù binh chắc hẳn được làm đúng như vậy. Thật buồn cười.
Kể từ 5 tháng 8 năm 1964, khi những máy bay Mỹ lần đầu xâm phạm vùng trời miền Bắc Việt Nam đã có không ít phi công Mỹ bị bắt làm tù binh, mở đầu danh sách là Anvarez lừng danh thế giới. Ngoài số phi công bị bắn rơi trên miền Bắc kể từ khi có cuộc leo thang bằng không lực trên miền Bắc Việt Nam, còn có nhiều tù binh Mỹ khác . Ðó là tù binh thuộc các binh chủng khác của quân đội Mỹ từ các chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia được đưa về giam tại các trại bí mật nằm rải rác trên miền Bắc.
Bài báo cuối cùng của tôi về cuộc đánh bom của Mỹ vào khu vực dân cư phố Hàng Thao Nam Ðịnh chắc đã lên khuôn. Hai hôm trước tôi đã ký bông(1) lần ba. Liệu bài báo có bị bỏ đi không, khi tôi bị bắt ? Còn cuốn Năm Người Im Lặng ở Nhà xuất bản Văn Hóa nữa ? Cho dù là sách dịch, chưa chắc người ta đã cho nó ra(2). Vợ con tôi thế là mất đứt khoản nhuận bút.
Ðã thành một cái lệ - người cầm bút trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải là người có lý lịch rõ ràng, trong sạch, có lập trường vững vàng, có thâm niên càng cao trong tổ chức(3) càng tốt. Các nhà xuất bản tuyệt đối không in tác phẩm của những phần tử có vấn đề. Thậm chí có người đã tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chỉ vì dính líu ít nhiều với các văn nghệ sĩ có vấn đề là đã không được in sách, đăng báo nữa rồi. Số phận nhà văn Thanh Châu trong nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy trước cách mạng là một thí dụ. Anh không bị chính thức coi như thuộc nhóm Nhân văn - Giai phẩm, nhưng vì quan hệ với Nhân văn - Giai phẩm Thanh Châu bị treo bút. Cho đến lúc được phép viết thì anh đã cao tuổi mất rồi, đã xuống sức mất rồi.
Kim Lân may mắn thoát nạn trong cái đận Nhân văn - Giai phẩm. Anh khôi hài nói rằng sau vụ này hết thảy nhà văn đều xây xát, chỉ có các cung văn(4) là lành lặn.
Nếu tôi bị bom chết trong chuyến công tác Nam Ðịnh chắc hẳn sẽ có một điếu văn thống thiết rằng sự hy sinh của tôi là một tổn thất to lớn không thể nào đền bù được cho gia đình và cơ quan, còn tôi trở về nguyên vẹn để bị bắt thì người ta lại uốn ngược lưỡi nói rằng tên phản động Vũ Thư Hiên mà ta theo dõi từ lâu đã bị tống giam.
Từ vài năm nay lòng trung thành của tôi đối với cách mạng bị đặt dưới sự soi mói khắc nghiệt. Câu chuyện có nguyên ủy của nó. Năm 1958 tôi từ Liên Xô về nước để lấy tài liệu cho đề tài thi tốt nghiệp khoa kịch bản thì ở trong ký túc xá sinh viên, một ông bạn họa sĩ cùng sang học với tôi một chuyến đã lục lọi đồ đạc của tôi để lấy cuốn nhật ký đem nộp sứ quán. Cuốn nhật ký ghi những kỷ niệm trong chuyến về Việt Nam năm 1957 với nhà quay phim xô-viết Reizman để thực hiện bộ phim Ánh Sáng Tháng Mười, trong đó tôi có những nhận xét xấu về Cải cách ruộng đất, về ông Hồ Chí Minh. Cuốn nhật ký lập tức được gửi về Bộ Công an(5).
Nghe nói Nguyễn Văn Kỉnh trước Cách mạng Tháng Tám cũng là một trí thức ở Nam bộ, được nhiều người mến mộ. Nhưng trong việc chỉ đạo ông bạn họa sĩ đảng viên ăn cắp nhật ký của tôi, Kỉnh tỏ ra còn có khiếu làm mật thám, là điều không ai biết. Thời ấy năng khiếu mật thám được coi là một năng khiếu đáng được khuyến khích. Tôi bị Lê Văn Rạng, vụ trưởng Vụ Ðại học và Trung học chuyên nghiệp, một tay trí thức bảo hoàng hơn nhà vua, giữ lại ở trong nước. Việc tôi có trở lại Liên Xô học tiếp hay không sẽ được xét sau.
Tôi trở về Xưởng phim Việt Nam. ê đó được gần một năm tôi phải bỏ nghề điện ảnh vì không chịu nổi tên trưởng phòng tổ chức vốn là thư ký đội Cải cách ruộng đất. Tên hãnh tiến này gọi tôi lên gặp y rồi vặn tôi : "Cả xưởng chào tôi, tại sao anh không chào ?".
Tôi lễ phép hỏi tên y, rồi cũng lễ phép như thế tôi thưa với y rằng rất có thể y quan trọng, y có ích, tôi biết, tựa như cái cột đèn vậy, không có nó điện không vào nhà được, tôi sẽ không có ánh sáng để đọc. Nhưng, tôi kính cẩn thưa tiếp, không phải vì thế mà tôi sẽ dừng lại trước mỗi cái cột đèn để chào nó.
Tôi sang nghề báo. So sánh các tờ báo muốn nhận tôi, tôi thấy báo ảnh, hay còn gọi là họa báo Việt Nam, hợp với tôi hơn cả. Nó là tờ báo chủ yếu dành cho độc giả nước ngoài, bài vở không nhất thiết phải viết theo công thức của các báo trong nước. Hơn nữa, mấy anh trong bộ biên tập báo ảnh mến tôi qua những truyện ngắn và bài báo đã đăng, chèo kéo bằng được tôi về với tờ báo của các anh.
Trong những cuộc đụng độ lặt vặt kiểu như chuyện xảy ra với anh chàng tổ chức Xưởng phim tôi không thể tránh được những câu nói lẽ ra không nên nói do bực bội. Cơ quan tổ chức, cũng như cơ quan công an, rất mẫn cán thu thập thông tin về thái độ chính trị của cán bộ. Chỉ cần anh ăn nói không giữ gìn một chút, để lộ ra những suy nghĩ không theo dòng chính thống, là tội của anh lập tức được ghi nhận, anh bắt đầu bị theo dõi mà không biết. Cho tới ngày anh chợt nhận ra mình bị theo dõi thì đã muộn - anh đã bị ném khỏi boong con tàu cách mạng.
Còn nhớ năm 1961, mọi người trong tòa soạn đã được nhận Thẻ nhà báo rồi mà mãi tôi chưa được nhận. Tôi chỉ ngạc nhiên tí chút, cho rằng những cái bàn giấy quan liêu bao giờ mà chả thế, chúng không vội vã trong bất cứ việc gì. Tòa soạn gọi điện thoại hỏi. Người ta nói ảnh của tôi bị thất lạc. Tôi đưa tiếp ảnh khác. Vẫn không xong. Hóa ra không phải chuyện mất ảnh. Chỉ sau khi chủ nhiệm tờ báo đích thân lên Sở báo chí kiện cáo thế nào không biết, tôi mới được nhận thẻ. Bây giờ nghĩ lại mới biết chẳng qua người ta ngần ngại, người ta còn phải xin ý kiến trên, bởi vì tên tôi nằm trong một danh sách nào đó đòi những người trực tiếp quản lý các nhà báo phải suy nghĩ. Cấp trên trực tiếp của tôi chắc chắn chẳng khó chịu với tôi, nhưng vào hồi ấy chẳng ai muốn chịu trách nhiệm về ai hết.
Sau vụ này tôi bắt đầu để ý đến thái độ của lãnh đạo, tức là các quan chức cấp trên của tôi, ngang cũng như dọc. Mới thấy rằng trong công việc hàng ngày người ta tránh không phân công tôi làm những đề tài có dính tới bí mật quân sự hoặc những bí mật khác. Mà bí mật trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì lại quá nhiều, cái gì cũng bí mật, thành thử tôi chỉ được phân công đi các địa phương khi cần có các bài về văn hóa, nông nghiệp, công nghiệp hoặc ngồi nhà làm công việc chữa cháy cho các số báo chẳng may bị ông Trường Chinh, người khai sinh ra tờ báo, bất ngờ gạch bỏ một bài, thậm chí vài bài một lúc(6).
Ðến lúc thấy mình không có tên trong danh sách những nhà báo được cử đi B(7) thì tôi mới biết chắc chắn rằng cái sự cảnh giác cách mạng đã được áp dụng cho tôi rồi. Chả trách đợt vào Vĩnh Linh công tác, khi tôi muốn ra Cồn Cỏ thì bị người ta từ chối khéo. Hòn đảo nhỏ bé lúc ấy đang cô độc chiến đấu chống lại những cuộc tấn công bão táp của hải quân Mỹ. Như bất cứ nhà báo nào tôi muốn có mặt ở đó. Nguyễn Khải(8) ở Vĩnh Linh cùng thời gian với tôi. Anh ra được Cồn Cỏ còn tôi thì không. Tàu đi Cồn Cỏ chỉ có một chỗ dành cho văn nghệ sĩ, mà anh Nguyễn Khải đã đăng ký từ lâu rồi, người ta nói thế.
Những tin tức rò rỉ từ Bộ Nội vụ cho biết tôi nằm trong diện không đáng tin cậy. Từ diện không đáng tin cậy sang diện có vấn đề chỉ là một bước, mà bước không dài. Các bạn tôi nhắc tôi phải thận trọng, phải giữ gìn lời ăn tiếng nói. Nghe thì nghe, chứ trong thâm tâm tôi không tin hẳn, chẳng lẽ người ta lại có thể nghĩ bậy bạ đến thế ?
Mọi việc chỉ sáng tỏ khi tôi đã ở trong Hỏa Lò : thì ra từ lâu rồi tôi đã bị nhà cầm quyền nghi ngờ. Họ thậm chí còn lo tôi sẽ chạy sang bên kia chiến tuyến khi gặp cơ hội thuận tiện nữa kia.
Tôi cay đắng được biết sự thật. Tôi coi cuộc kháng chiến chống Mỹ, do những điều kiện lịch sử bó buộc, là bước kế tiếp, lần này là bất đắc dĩ, trong hành trình giải phóng dân tộc. Nguyện vọng thống nhất đất nước bao giờ cũng là nguyện vọng của toàn thể dân tộc.
Ngô Ðình Diệm đã sai lầm khi chủ trương đàn áp mọi xu hướng khác ông ta, chứ không riêng cộng sản, bằng những biện pháp phong kiến, gia đình trị. Trong tình thế đó những người cộng sản không thể không đứng lên chống lại, kéo theo sau mình quần chúng bất bình. Sự chống đối chính quyền Sài Gòn còn mạnh mẽ hơn nữa khi những người cầm quyền sau Ngô Ðình Diệm đã để cho người Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam. Người Mỹ tự thị đã đi lầm nước cờ. Dân tộc Việt Nam có truyền thống chống ngoại xâm, là điều người Mỹ không biết và khi hiểu ra thì đã muộn. Sau năm 1965 người ta không thể trở về với năm 1954, cho dù có muốn.
Ðây là đề tài thuộc thẩm quyền các sử gia, tôi không dám lạm bàn. Nhìn cuộc chiến từ góc độ người làm báo tôi cho rằng trong suốt thời gian chiến tranh không phải hoàn toàn không có cơ hội để thoát khỏi nó, và trong chuyện không muốn tìm cơ hội thoát ra lỗi không phải ở một bên, mà ở cả hai phía.
Nhưng thôi, ta quay lại với Hỏa Lò mùa đông năm 1967 cái đã.
Ði qua khu tù binh, viên cai ngục nông dân đưa tôi tới một ngôi nhà dài phía trái cổng Hỏa Lò, có rất nhiều cửa. Phòng hỏi cung là một trong những căn ở đây. Nó là một phòng nhỏ, chừng mười sáu thước vuông, không hơn, được chiếu sáng một cách hà tiện bởi một bóng điện 60 oát.
Huỳnh Ngự đã chờ sẵn. Thấy tôi bước vào, y ngẩng lên. Mặt nhẹ nhõm, không hằn học, không căng thẳng, trông y thật hiền lành. Khó tưởng tượng được vừa mới đây y còn hầm hè với tôi như với kẻ thù của cá nhân y chứ không phải của Ðảng.
- Ngồi xuống, ngồi xuống đây, anh Hiên ! - y vồn vã chỉ cho tôi ghế đối diện - Anh dùng trà, hỉ ?
Phòng hỏi cung được bày biện như một phòng khách nghèo - mấy cái ghế ba nan quây quanh một bàn nước chân quỳ. Trên bàn là một ấm men rạn bắt chước đời Lý, không hợp chút nào với mấy chén sứ Hải Dương rẻ tiền. Bộ đồ trà được đặt trong một đĩa sắt tráng men sứt sẹo với mấy con tôm Tề Bạch-thạch bạc màu. Mặc dầu đã có áo bông, tôi vẫn run rẩy - nhiệt độ xuống quá nhanh, buổi sáng trời còn ấm, vậy mà bây giờ đã lạnh dữ. Căn phòng hỏi cung còn lạnh hơn cả xà lim, lại có mùi gỗ mốc, như thể nó bị bỏ hoang lâu ngày.
Huỳnh Ngự bốc trà cho vào bình, tỉ mẩn nhặt từng cánh trà rơi xuống mặt bàn, rồi từ tốn với tay lấy cái phích Trung Quốc, từ tốn chế nước sôi, đợi một lát cho trà thật ngấm mới chuyên chậm chậm vào hai chén. Cung cách pha trà cho thấy y là tay nghiện trà nặng, như mọi cán bộ đứng tuổi hồi bấy giờ.
Tôi lặng thinh quan sát.
- Uống đi, anh Hiên ! - y chìa bàn tay gày, với những ngón dài, xương xẩu về phía tôi - Kẻo nguội.
Tôi vẫn nín lặng.
- Tiết trời như ri uống trà thiệt thú vị, phải không ? Anh dùng đi, tự nhiên nghen. Anh thấy đó, ở ngoài nhìn vô ai cũng nghĩ cái sự bị bắt, cái sự ở tù nó ghê gớm lắm lắm kìa, khủng khiếp lắm lắm kìa, chớ thiệt ra thì, hì hì... có chi ghê gớm lắm mô...
Y đẩy chén trà về phía tôi.
- Tác giả "Chiếc va-li" đã báo trước cho anh biết anh sẽ bị bắt, phải không ? Hắn còn nói với anh những chi nữa, hè ?
Ðó là Huỳnh Ngự nói về Hoàng Ðạo(9). Tôi không ngạc nhiên. Y muốn khoe y biết hết, đừng hòng giấu y điều gì.
Ðúng là Hoàng Ðạo có báo trước cho tôi điều sẽ xảy ra.
Tôi gặp Hoàng Ðạo tuần trước. Tôi không chủ bụng tới anh, tiện thể đi ngang phố Nguyễn Chế Nghĩa thì rẽ vào. Anh có căn nhà nhỏ ở đó. Từ phòng ngoài nhà anh nhìn ra tôi vẫn thấy thấp thoáng bóng mấy công an mật lởn vởn trong ánh sáng vàng vọt rỉ ra từ những chao đèn phòng thủ.
"Họ sẽ bắt anh, Hoàng Ðạo nói. Hôm nọ tôi có việc rẽ vào Bộ, thấy căng lắm. Còn bắt nhiều. Tôi thì chỉ quan tâm tới anh thôi". Tôi cười :"Vậy thì bỏ rượu ra, chúng ta uống một trận chia tay". Tôi cố ý nhắc lại câu Hoàng Ðạo nói với một sĩ quan Phòng Nhì Pháp trong một lần tính mạng anh ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc. Anh vào Hà Nội dưới vỏ bọc đảng trưởng đảng Ðại Việt. Tình báo Pháp hoan hỉ đón tiếp anh. Rồi muốn kiểm tra anh, giữa đêm hôm khuya khoắt họ cho viên sĩ quan Phòng Nhì nói trên, người vẫn xưng là bạn thiết của anh, lẻn đến nhà anh báo tin anh sắp bị bắt, khuyên anh trốn ngay. Hoàng Ðạo không mắc mưu. Anh cười ngất, nói anh cảm ơn, nhưng anh sẽ không trốn, dấn thân vào nghiệp chính trị anh đã dự kiến tình huống này, những người Pháp đa nghi rồi sẽ ân hận, còn bây giờ anh muốn uống ly rượu chia tay với người anh coi là bạn. Bài toán thử của tình báo Pháp thất bại. Sau thái độ cứng rắn của anh họ cho rằng họ nhầm.
Chúng tôi dẹp mọi chuyện qua một bên, bàn tiếp việc viết kịch bản cho bộ phim về hoạt động của tổ điệp báo do anh chỉ huy, kết thúc bằng vụ đánh đắm thông báo hạm Amyot d'Inville tại ven biển Thanh Hóa năm 1950. í định này có từ lâu, khi tôi còn ở Moskva. Hoàng Ðạo và tôi vẫn thư từ cho nhau để bàn về bộ phim tương lai.
Khi điệp vụ được thực hiện, Hoàng Ðạo là trưởng ty công an Thanh Hóa. Anh bố trí một chiến khu giả tại Ngọc Lặc (miền Tây Thanh Hóa), rồi vào Hà Nội với tư cách người chủ của chiến khu. Lãnh tụ giả mạo của một đảng không có thật vượt qua được thử thách của tình báo Pháp, trở thành bộ trưởng không bộ nào của chính phủ Bảo Ðại. Trong thời gian ở lại trong vùng địch Hoàng Ðạo đã gặp Ngô Ðình Diệm, Năm Lửa, Ba Cụt, Bẩy Viễn
...và nhiều nhân vật chính trị ở miền Nam. Sau khi biết chắc người Mỹ có ý định dùng con bài Ngô Ðình Diệm thay thế Bảo Ðại, Hoàng Ðạo đề xuất với Trung ương cho phép anh thủ tiêu Ngô Ðình Diệm để thế chân ông ta. Kế hoạch của anh bị Trường Chinh gạt đi. Trường Chinh kịch liệt phê bình điệp vụ này, nói rằng việc Hoàng Ðạo tổ chức chiến khu giả ở Thanh Hóa làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của chính phủ kháng chiến, lợi bất cập hại. Ông còn nói Hoàng Ðạo là người ham mê tửu sắc, nếu làm việc với Mỹ sẽ bị Mỹ mua chuộc, "đến lúc ấy đánh nhau với nó còn khó hơn đánh nhau với Ngô Ðình Diệm nhiều"(10). Hoàng Ðạo nhận được lệnh kết thúc điệp vụ, trở về vùng tự do. Việc đánh đắm thông báo hạm Amyot d'Inville là hành động cuối cùng của tổ điệp báo trước khi rời bỏ trận địa.
"Anh không thể xử nhũn một chút được sao ? - Hoàng Ðạo hỏi khi tôi ra về - Anh dây vào chính trị làm chi ?". "Không được, anh ạ. Tôi không quan niệm nói ra ý kiến của mình là dây vào chính trị. Tôi không làm điều gì sai trái. - tôi nói - Tôi chỉ có tội cho rằng con người có quyền tự do tư tưởng". Hoàng Ðạo ôm lấy tôi. Chúng tôi bùi ngùi chia tay.
- Anh không muốn nói cũng không sao. - Huỳnh Ngự nói bằng giọng khinh khỉnh - Chuyện Hoàng Ðạo chẳng có gì quan trọng. Không phải đối tượng đáng chú ý. Cũng không phải người chúng tôi cần anh báo cáo. Nhân tiện thì tui hỏi cho biết, tức là chúng tui biết hớt, nhưng chúng tui muốn nghe anh nói coi ra răng. Những chuyện khác cũng rứa. Anh thích nói thời nói. Không thích thời thôi. Tui sẽ chờ. Bao chừ giác ngộ tự anh sẽ nói. Cơ quan an ninh chúng tui rất kiên nhẫn.
Tôi tưởng y sẽ nói thêm : "Chúng tôi sẽ chờ năm năm mười năm, hai mươi năm, hay lâu hơn nữa" theo cách ông Hồ Chí Minh nói với người Mỹ. Hình như y định nói thế thật, nhưng kìm lại được.
- Nói thiệt cho anh hay để anh đừng sợ, Ðảng đưa anh vô nơi ni là để ta có chỗ mần việc cho thuận tiện mà thôi. - Huỳnh Ngự nhe răng trong nụ cười không thành tiếng - Ðảng muốn hỏi anh một số việc, hỏi xong thời cho anh về, Ðảng cũng không giữ anh mần chi. Ngoài tê anh công tác phục vụ Ðảng, phải không nào ? Nơi ni anh cũng vẫn mần việc đó, không có chi khác. Anh là cán bộ của Ðảng, phải biết chấp hành mịnh lịnh của Ðảng. Bữa ni Ðảng biểu anh mần việc ở nơi ni thì anh mần việc nơi ni. Mai mốt Ðảng biểu anh vô Nam thì anh vô Nam, còn khi mô Ðảng biểu chừ phải qua Liên Xô thì anh xách va li qua bển. Vậy đó, thanh niên phải như rứa, hè hè, nơi Ðảng cần thanh niên có, nơi khó có thanh niên...
Ngon lành chưa ! Cứ như thể nay mai Ðảng sẽ cử tôi đi công tác Moskva, hoặc xa hơn nữa, tới Paris hoặc New York chửa biết chừng.
Mặc cho y ba hoa, tôi đủng đỉnh nhấp trà. Trà ngon. Không phải ai cũng pha trà Hồng Ðào(11) được thế này. Té ra Huỳnh Ngự cũng sành uống trà ra phết.
- Tui nói vậy là trúng chớ ? Không trật chớ ? - y nói bằng giọng tin chắc ở lẽ phải mà y đang ngồi ở trên - Vậy, chừ Ðảng chỉ thị cho anh ở nơi ni, vị trí chiến đấu của anh lúc nầy là ở nơi ni, anh hãy yên tâm phục vụ ở vị trí mới. Chỉ thị của Ðảng là cái mà chúng ta, những cán bộ của Ðảng, chỉ có việc tuân theo...
Một con cừu trong đàn cừu Panurge, tôi nghĩ. Kết quả sự hoài thai kỳ cục giữa các thứ chủ nghĩa : chủ nghĩa Mác bị chặt đầu, chủ nghĩa Mao động dục, chủ nghĩa phong kiến hiện đại.
Trong yên lặng tôi nghe tiếng mấy con sẻ rên rỉ vì rét trên mái nhà. ê đâu đó, từ một thế giới khác, vẳng tới tiếng xe tải nặng lăn bánh trên đường. Mà cũng có thể là xe bọc thép. Những chuyến xe nối tiếp nhau không ngớt, ì ì ầm ầm.
Huỳnh Ngự mời tôi uống tiếp. Tôi nhã nhặn nâng chén, chờ y rót thêm.
- Nào, uống xong ta mần việc ! - có vẻ ấm trà ngon làm cho Huỳnh Ngự cảm thấy sảng khoái và rộng lượng - Anh không thấy sao, trong ni cũng bảnh chẳng kém chi ngoài tê, hả ? Cũng Hồng Ðào loại một, cũng Ðiện Biên(12) bao bạc như ai. Anh hút đi, khi ta mần việc trên cho trà thuốc thoải mái. Tiêu chuẩn, chớ không phải của tôi đâu. Phải nhịn thuốc cả ngày, khó chịu lắm hè ?
Tôi nhìn bao thuốc y đẩy tới trước mặt. Chao ôi, giá mà được rít một hơi lúc này nhỉ, chỉ một hơi thôi ! Tôi cảm thấy một cơn thèm ghê gớm không sao cưỡng nổi chạy râm ran trong cơ thể.
- Cảm ơn. - tôi nói - Tôi không hút.
Y ngả hẳn ra trên ghế để nhìn tôi, theo cách người viễn thị.
- ỷa ? Anh mà không hút.
- Thì có gì lạ đâu ?
Huỳnh Ngự làm mặt giận :
- Tui mời thiệt tình mà. Bộ anh giận hả ?
- Cảm ơn. Tính tôi thế, đã không hút là không hút.
- Mà sao vậy chớ ? Hay là anh chê thuốc Ðiện Biên của ta không ngon bằng Gold Flake ? Cánh văn nghệ sĩ các anh khoái Gold Flake lắm thì phải ? Hồi ấy ở Hà Nội thuốc lá ngoại chỉ có độc một thứ Gold Flake. Ðồn rằng nó lọt ra từ sứ quán Indonesia. Việt Nam đang ra sức lấy lòng người hùng Suharto sau sự sụp đổ bất ngờ của cái gọi là lực lượng mới trỗi dậy và ghế tổng thống suốt đời của Sukarno, cố tình lờ đi chuyện nhân viên sứ quán Indonesia buôn lậu(13).
Cái ghế kêu cọt kẹt dưới tấm thân gày còm của Huỳnh Ngự.
- Tôi không chê Ðiện Biên. Nhưng tôi không hút.
- Chà, anh Hiên nè, anh coi thường cơ quan an ninh hơi nhiều đó ! - mặt Huỳnh Ngự toác ra trong nụ cười khoái trá - Anh nghĩ tụi tui biết về anh quá ít thì phải ?
Tiếng cười khanh khách của y làm tôi nóng mặt.
- Tôi chẳng coi trọng mà cũng chẳng coi thường cơ quan an ninh. Tôi cũng chẳng quan tâm chuyện các anh biết về tôi nhiều hay ít. Tôi không có thời giờ để nghĩ vớ vẩn.
Huỳnh Ngự nghiêm nghị trở lại.
- Nè, nói cho anh hay, trước khi bắt một người tụi tui nghiên cứu về người đó rất kỹ. Tui biết mọi khuyết tật của anh, mọi thói quen của anh. Tui biết anh ghiền thuốc lá, mà còn ghiền nặng nữa kìa.
Ðến lượt tôi bật cười.
- Thế thì không đúng rồi. Tôi chưa bao giờ liệt mình vào loại nghiện nặng.
- Chẳng ai bắt bẻ anh chuyện ghiền thuốc hay không ghiền thuốc. Có chi mà phải chối !
- Hút thuốc lá đến độ bỏ điếu này ra phải nạp ngay điếu khác vào, không thì không chịu được mới là nghiện nặng. Tôi có hút nhưng chưa nghiện tới mức đó.
- Anh bắt đầu hút từ năm nào nhỉ ?
- Từ năm tôi mười sáu.
Chẳng có cuốn trinh thám nào viết về sự hỏi cung kỳ cục như thế này. Không có lấy một dụng cụ tra tấn nào - không một cái magnéto, không một sợi thừng, không một cái roi, không một móc xích lủng lẳng trên trần.
- Sớm quá, hút thế sớm quá ! - Huỳnh Ngự lắc đầu - Thuốc lá có hại lắm, chẳng nói anh cũng biết. Ung thư phổi, ung thư vòm họng từ đó mà ra. Ðể coi, bao nhiêu phần trăm người hút thuốc bị ung thư hè ? Tui có đọc mà không nhớ. Nhưng hút chút chút thì không sao. Tui lâu lâu cũng hút một điếu, ghiền thì không, tui không ghiền.
Thì cứ nói chuyện chơi với thằng cha này một lát xem y định dẫn câu chuyện tới đâu ? Một nghệ thuật hỏi cung độc đáo ? Buồn cười, y trẻ con quá !
- Hồi ấy chúng tôi đói. - tôi dịu giọng - Hút thuốc quên đi được phần nào cảm giác khó chịu.
- Nói chi lạ ? Anh mà đói ?
- Anh người Khu 5, phải không ?
Huỳnh Ngự cau mặt. Y bỏ điếu thuốc ra khỏi cặp môi thâm.
Tôi chợt hiểu - y bị chạm nọc. Trong số những người từ bên kia vĩ tuyến 17 tập kết ra Bắc theo Hiệp nghị Genève, Khu 5 đông hơn cả. Ngoài cán bộ và gia đình họ, còn có một đám lúc nhúc tù hình sự được tập kết theo. Người ta nói Khu ủy Khu 5 sợ không đưa tù theo chúng sẽ chạy theo địch. Trong lúc công tác đón tiếp cán bộ tập kết diễn ra lộn xộn, chẳng hiểu sao bọn tù lại được thả ra, thậm chí còn được bố trí công tác, phần đông sung vào ngành thuế và quản lý thị trường, gây nên nhiều tiếng tăm không đẹp. Nói chung, hồi ấy cả dân Bắc lẫn dân Nam bộ tập kết đều có định kiến rất xấu với dân khu 5.
- í tôi muốn nói ở chiến trường Liên khu 5 các anh không bị đói, - tôi nói chữa, trong lòng ân hận cảm thấy mình thiếu tế nhị - chứ ngoài này năm 1949 là năm bộ đội chúng tôi bị đói nhất, sắn không có mà ăn...
Tôi đã làm cho y hiểu tôi không có ý nói xỏ, nhưng mặt y vẫn lạnh như băng. Y không muốn nghe chuyện tôi đã ở trong quân ngũ, chắc thế. Rất có thể, trước đây y cũng từng ở bộ đội như phần lớn cán bộ kháng chiến, nhưng lúc này đây y không muốn thấy giữa tôi và y có cái gì đó giống nhau, là cái làm nhòa đi ranh giới giữa viên cán bộ chấp pháp và tên tù đang bị hỏi cung. Tuy nhiên, chuyện tôi đã ở bộ đội là sự thật không thể bác bỏ. Y nói y nghiên cứu kỹ lý lịch tôi, thế tất y phải biết điều đó.
Nhưng rồi y cũng lấy lại sắc mặt bình thường :
- Anh không có thuốc hút là tại tui. - y nói như thể phân trần - Anh nào ghiền vô đây cũng có tiêu chuẩn thuốc lá như khi ở ngoài. Tui mắc nhiều công chuyện quá. Lẽ ra anh phải có thuốc ngay mới đúng. Thôi được, cứ hút tạm thuốc tiêu chuẩn của tui cái đã. Mai mốt rồi tính.
- Cảm ơn. Nhưng tôi đã quyết định thôi không hút nữa.
- Anh tính nhân tiện vô đây cai thuốc luôn, hỉ ? Hay đó.
Tôi lắc đầu :
- Không phải. Chẳng qua là thế này : tôi không muốn trở thành một Ngô Ðức Trì(14).
Huỳnh Ngự đang uống dở ngụm nước, y ngưng lại, đặt mạnh chén xuống bàn. Cái nhìn soi mói xoáy chặt vào mắt tôi :
- Anh vừa nói đứa nào ? Thằng Trì nào ?
Ðến lượt tôi ngạc nhiên. Chẳng lẽ y, vụ phó một bộ quan trọng là Bộ Nội vụ, chẳng gì cũng là một cán bộ có cỡ, lại không biết Ngô Ðức Trì là ai.
- Thế này, Ngô Ðức Trì là ủy viên Trung ương Ðảng vào thời kỳ trước khi Mặt trận Bình dân vỡ...
Y nhíu lông mày nhìn tôi.
- Khi bị Pháp bắt, bị tra tấn, - đành phải giải thích cho y vậy - Ngô Ðức Trì đã bán đứng cho Pháp một số cơ sở của Ðảng để đánh đổi lấy một lần gặp vợ và, thật khó tưởng tượng nổi, để được chúng cho... hút thuốc lá. Giữa hai thứ mà Ngô Ðức Trì đem mạng sống của các đồng chí ra đánh đổi tôi không rõ cái nào quan trọng hơn : vợ hay thuốc lá ? Có người nói Ngô Ðức Trì phản bội vì thèm mụn con trai nối dõi tông đường...
Ẩn ý của câu nói thật dễ đoán. Huỳnh Ngự ném cho tôi một cái nhìn bốc lửa. Tôi nghĩ y sẽ nổi khùng, sẽ quát nạt, nhưng không, y tỏ ra biết tự kiềm chế.
- Anh ngồi ngay ngắn lại
Tôi quan sát tư thế của mình - tôi vắt chân chữ ngũ theo thói quen, cái áo bông để hở làm lộ ra cái áo tù không cài cúc. Tôi bỏ chân xuống.
- Thế này được chưa ?
- Nghe đây ! - y dằn giọng - Hôm nay tôi cho gọi anh ra trước hết là để phổ biến cho anh nội quy trại giam.
- Tôi đang nghe.
- Thứ nhất, kể từ bây chừ, khi anh đã nằm trong trại giam thì quyền công dân của anh không còn nữa, quyền đó tạm thời bị tước bỏ, anh không được phép kêu cán bộ thực hành pháp luật ở nơi ni, từ cán bộ chấp pháp cho tới bộ đội gác trại bằng đồng chí ! Với bất kỳ công dân nào khác là người tự do cũng vậy...
Cái sự tung hứng ngôn từ và đánh tráo khái niệm được thực hiện tuyệt vời ở mọi lĩnh vực, mọi nơi chốn, không trừ cả trại giam ! Những khái niệm còn đó cả nhưng đã rỗng ruột. Các ngôn từ vẫn bay lượn, nhưng chỉ là những cánh diều giấy mà sợi dây nằm trong tay nhà cầm quyền.
Chao ôi, tôi, kẻ bị bắt cóc giữa đường đưa thẳng vào xà lim mà gia đình không được báo, bản thân không biết bị kết tội gì, mà còn có quyền công dân nữa cơ đấy !
Tôi có nghe kể trong trại giam tù nhân phải gọi cán bộ trại bằng ông, bằng bà(15). Tôi không tin. Thì ra không phải chuyện bịa. Cách quy định về xưng hô này bắt nguồn từ thời kỳ Cải cách ruộng đất. Hồi đó, để hạ nhục các đối tượng của cách mạng, cán bộ đội Cải cách ruộng đất bắt địa chủ, phú nông phải gọi bất cứ ai là người tự do bằng ông, bằng bà : ông đội, bà đội, ông nông dân, bà nông dân....
Vợ tôi hiện nay là người tự do. Nếu bây giờ tôi được gặp vợ thì, theo đúng cái quy định quái gở kia, tôi cũng phải lễ phép chào vợ : chào bà ạ !
Vui thật !
Tôi bật cười. Thái độ hách dịch của Huỳnh Ngự không làm tôi sợ y, mà ngược lại, làm tôi thấy dễ chịu. Y quát nạt, có nghĩa là y thấy cần phải trấn áp, y thấy y không thể chiến thắng dễ dàng. Tôi nói :
- Chà, chẳng hóa ra tôi đã thực hiện đúng nội quy của các anh ngay cả khi chưa được nghe anh phổ biến hay sao ? Từ khi gặp anh tôi chưa một lần gọi anh bằng đồng chí, có đúng thế không nào ?
- Hừm. - y xác nhận với vẻ mặt chưng hửng.
- Không phải tôi nghe ai nói hoặc thông minh mà đoán ra đâu. Chẳng qua, nói thực với anh, tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình cách mạng, trong gia đình chúng tôi hai tiếng đồng chí được coi là rất thiêng liêng, tôi đã thấy vì tình đồng chí những người cách mạng sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình...
- Hừm.
Huỳnh Ngự tím mặt. Y lúng túng, không biết nên xử sự thế nào khi thấy tôi đối đáp bằng giọng điềm đạm như thế. Lẽ ra nên kết thúc, y lại ngu xuẩn kéo dài cuộc đối thoại :
- Không những không được xưng hô đồng chí, mà anh còn phải kêu cán bộ tụi tui bằng ông hoặc bằng bà...
Hoàn toàn bất ngờ đối với y, tôi đã sẵn sàng để đập lại.
- Một cách xưng hô tuyệt vời, thưa ông ! - tôi nói, còn vui vẻ hơn trước - Thú thực, tôi vui mừng được biết ngành công an, tiếc thay lại không phải ngành văn hóa chúng tôi, đã có công trong sự phục hồi những từ ngữ chết uổng. Kể từ Cách mạng Tháng Tám những từ lịch sự tự nhiên bị ác cảm, bị miệt thị, cứ như thể chúng thuộc về một ngôn ngữ kém cỏi, của riêng giai cấp thống trị. Vô lý, và hơn thế, còn đáng buồn, có phải không ạ ? Tôi hoan nghênh sự phục hồi những từ đó. Bản thân chúng vô tội. Ðể mất chúng, tiếng Việt của ta chỉ có nghèo đi, trong khi nó cần được bổ sung càng nhiều cách diễn đạt càng tốt để trở nên phong phú thêm. Hay lắm, hay lắm ! Vậy thì thưa ông cán bộ, về phía các ông, các ông sẽ gọi tôi bằng gì ?
- Chúng tôi kêu các anh bằng anh chớ bằng cái chi ?
- Chết chết, sao lại thế ? Gọi như vậy đâu có được ?! Như vậy là không công bằng.
Huỳnh Ngự trề môi, cười đểu :
- Bộ anh muốn tui kêu anh bằng ngài chắc ?
Tôi nghiêm mặt :
- Nói về xưng hô tôi yêu cầu phải có sự sòng phẳng. Chúng tôi đã lịch sự gọi các anh bằng ông thì về phía các anh tôi yêu cầu các anh cũng phải gọi chúng tôi bằng ông.
Huỳnh Ngự bật khỏi ghế. Y đã mất bình tĩnh.
Từ đầu cuộc nói chuyện, y chơi trò mèo vờn chuột với tôi, đến đây vai trò bị đảo ngược. Y cảm thấy nhục nhã bị tên tù giỡn mặt.
- A, anh láo ! Vô tới nơi ni rồi mà vẫn còn láo ! Anh...anh dám ví tui với anh hử ? Anh dám đặt tui ngang hàng với anh hử ? Tui là ai ? Tui là người trông coi pháp luật, anh hiểu chưa ? Còn anh là ai ? Anh là kẻ vi phạm pháp luật. Rứa đó, hiểu chửa ? Anh là can...can phạm, anh...anh...là thằng tù ! Bình với chả đẳng ! Bình đẳng cái con c...tui nè ! Ðược, rồi tui sẽ cho anh biết thế nào là bình... bình... bình đẳng ! Tui... tui sẽ vặn...vặn cổ anh !
Mặt tôi nóng bừng. Khi có quyền trong tay cái lũ hư đốn này coi người bằng nửa con mắt. Chúng leo lẻo ca tụng những anh hùng cách mạng trước kẻ thù, nhưng không bao giờ chúng thừa nhận có những anh hùng trước mặt chúng.
- Hãy bình tĩnh nghe tôi nói. - tôi bình thản nhìn vào mặt y - Anh bảo tôi là can phạm ư ? Ðó mới chỉ là quan điểm của các anh. Của riêng các anh thôi. Chúng tôi có quan điểm của chúng tôi. Nó khác quan điểm của các anh, khác hẳn. Theo quan điểm này chính các anh mới là can phạm. Các anh phạm tội lợi dụng chức quyền tước đoạt những thành tựu của cách mạng. Các anh ngang nhiên vi phạm Hiến pháp, chà đạp những quyền tự do dân chủ của nhân dân...
- Láo !
- Ðừng vội nóng. Rồi đây lịch sử sẽ phán xét tất cả, chính anh sẽ được thấy sự phán xét đó, chính anh cũng sẽ hiểu ra ai đúng ai sai, ai vì nhân dân, ai phản bội nhân dân......
- Câm ngay ! Câm ngay lập tức !
Huỳnh Ngự ré lên. Toàn thân y run bần bật. Trong phút chốc mặt y méo xệch, dãi nhểu ra nơi khóe miệng.
Tôi đâm lo. Thằng cha này mắc chứng kinh phong ? Tôi sẽ phải làm gì nếu đột nhiên y lăn đùng ra ? Trong trường hợp này phải luồn một cái thìa giữa hai hàm răng để bệnh nhân khỏi cắn phải lưỡi, người ta nói thế. Nhưng bới đâu ra một cái thìa bây giờ ? Mà y thì đang lên cơn. Tệ hơn, nếu y chảy máu não ? Y có thể chết.
Tôi chẳng muốn làm chết một ai. Tôi không muốn trở thành nguyên nhân cái chết của thằng phải gió này.
Luống cuống vì không biết nên làm gì, tôi rót một chén nước đưa cho y.
Nhưng Huỳnh Ngự đã trấn tĩnh lại được. Y gạt mạnh tay tôi ra làm chén nước đổ tung toé.
- Chờ đó ! Cái... thứ... cái thứ anh còn...còn ở nơi ni còn lâu ! Ðồ...đồ...! Nói trước cho... cho anh hay : cái thứ anh rồi sẽ...sẽ chết rục xương trong Hỏa Lò nầy ! - cuối cùng, rồi y cũng nói được thành lời - Anh sẽ được biết thế nào là... là chuyên chính vô sản ! Trong Hỏa Lò nầy đến thép cũng phải chảy, nói chi cái thứ ruồi muỗi như anh...
Toàn thân tôi run bắn lên trong một cơn giận không kiềm chế nổi. Giờ y có giãy đành đạch mà chết trước mặt tôi tôi cũng mặc.
- Hừm, cái đó thì còn phải chờ xem !
- Không phải chờ lâu đâu. Láo đến như Hoàng Minh Chính mà vô đây còn phải quỳ mọp xuống xin tha tội kìa !
Y lấy ngón trỏ chọc chọc vào không khí :
- Ðó, hắn ta quỳ chỗ nớ đó !
Tôi cười phá :
- Ðâu, chỗ nào ?
- Ðó chỗ tui chỉ đó !
Sao mà một quan chức như y mà ngây thơ đến thế ! Chẳng lẽ y nghĩ tôi là đứa trẻ lên ba ? Hay là trong đầu y có cái gì không ổn.
Tôi phá lên cười :
- Thú vị quá nhỉ ? Vậy thì thưa ông, ông có thể vui lòng cho tôi được thấy cảnh tượng ấy một lần không ? Một lần thôi! Tôi quen Hoàng Minh Chính. Tôi biết tính cách anh ấy. Tôi không tin Hoàng Minh Chính lại có thể sa sút tinh thần như vậy. Một con sư tử quỳ gối trước một con chuột ? Không, không thể có chuyện đó được.
- A, anh láo hử ?! - Huỳnh Ngự kêu choe chóe - Tui...tui bẻ cổ anh bây chừ...
Y lại thở hổn hển, mặt tái nhợt.
Viên cai ngục hốt hoảng chạy vào, theo sau là một anh chàng búng ra sữa, hình như là thư ký của Huỳnh Ngự.
Tôi những tưởng chúng sẽ bổ tới đánh tôi, khóa tay tôi, nhưng chuyện đó không xảy ra. Cả hai đứng sững, ngơ ngẩn nhìn cảnh tượng diễn ra trước mắt.
- Bây giờ các anh hãy nghe tôi nói đây ! - hai tay khoanh trước ngực, tôi cao giọng diễn thuyết trước cái cử tọa ít ỏi trời cho - Các anh có tất cả : súng đạn, gông cùm, nhà tù. Còn chúng tôi, chúng tôi chỉ có một thứ : chính nghĩa. Các anh có thể thủ tiêu tôi, tôi biết, nhưng công khai giết tôi thì đến bọn chủ các anh cũng không dám. Nói thật đấy, cho ăn kẹo cũng không dám. Cứ hành hạ thân xác chúng tôi đi, đó là việc trong tầm tay các anh, bởi vì ở đây tôi không có gì để chống lại, nhưng bẻ gãy tinh thần chúng tôi thì không được đâu, đừng hòng.
Huỳnh Ngự rít lên :
- Ðược ! Ðược ! Rồi anh sẽ biết thế nào là chuyên chính vô sản !
- Tôi đã nói rồi, không muốn nhắc lại nữa : dọa nạt tôi vô ích !
- Tui không thèm dọa anh !
Nổi giận với thằng tay sai này làm gì, tôi tự nhủ. Vô ích. Mà hùng hồn thuyết giáo như vừa rồi, mình không nhìn thấy mình đấy thôi chứ nhìn thấy thì phải đỏ ửng mặt lên vì xấu hổ, phường tuồng ơi là phường tuồng !
Hai anh chàng cấp dưới của Huỳnh Ngự nhìn tôi bằng cặp mắt van lơn, thật lạ. Có vẻ như họ muốn đụng vào tôi, để nhắc nhở chứ không có ý gì khác.
- Vả lại, còn điều này nữa là điều anh chưa biết, và tôi thấy cần phải nói ngay để cho anh biết. - tôi lạnh lùng tiếp - Ðó là : ngay tại chốn này, ngay trong Hỏa Lò của các anh, tôi vẫn còn có quyền của tôi, cái quyền cuối cùng không kẻ nào tước đoạt nổi...
- Anh nói chi lạ ? Anh ? Mà còn có quyền ? Hứ ! Quyền, quyền cái con...Chỉ chúng tôi mới là người có quyền, hiểu chưa, đồ...
Máu tôi lại bốc lên mặt :
- Lẽ ra tôi không nói thêm với anh nữa, vì anh lại giở giọng du côn, cho nên tôi phải nói cho anh hiểu...
- Quyền chi mô ? Nói coi thử !
Khoanh tay trước ngực. tôi nhìn thẳng vào cặp mắt ngây dại của y :
- Còn cái quyền này : tôi-tuyên-bố-không-nói-gì-với-anh-nữa !
- Tui... tui sẽ... gang họng anh ra, bắt anh phải nói !
Y lại hét, giọng đã đuối.
- Không ăn thua gì đâu. - tôi dằn từng tiếng - Anh chẳng là gì đối với tôi. Ðừng phách lối. Nhờ anh chuyển lời tôi tới bọn chủ của các anh, bảo họ cử người khác đến gặp tôi. Bằng không tôi sẽ không nói gì hết. Các người cần nói chuyện với tôi, không phải tôi cần nói chuyện với các người.
Không thèm nhìn Huỳnh Ngự, tôi quay ngoắt, bước nhanh về phía cửa. Viên cai ngục lật đật chạy theo.
- Ðưa tôi về xà lim !
Tôi ra lệnh cho anh ta.

(1) Bản dập thử để sửa lỗi của nhà in.
(2) Cuốn Năm Người Im Lặng vẫn được xuất bản trong năm 1968, khi tôi đã ở trong tù. Người quyết định cứ in cuốn sách này bất chấp thói thường thời ấy không dám in sách mang tên người bị bỏ tù là giám đốc Nhà xuất bản Văn Hóa, ông Lý Hải Châu. Trong kháng chiến chống Pháp Lý Hải Châu chỉ huy Ðội biệt động Sài Gòn - Gia Ðịnh, bị chính quyền chiếm đóng kết án tử hình, rồi giảm xuống chung thân và đầy ra Côn Ðảo.
(3) Chỉ tổ chức Ðảng.
(4) Cung văn là người chơi đàn tranh trong cuộc hầu đồng, trong dàn nhã nhạc lễ bái. Cung còn có nghĩa là ngôi nhà tráng lệ, cung điện. Cung văn đây được hiểu như nhà văn cung đình.
(5) Bộ Nội Vụ trước khi đổi tên.
(6) Cho tới năm 1965, Trường Chinh vẫn duyệt từng số báo ảnh, như khi tờ báo vừa ra đời dưới sự bảo trợ của ông, mặc dầu ông không có trách nhiệm đó. Sự đưa tổng bí thư duyệt báo trước khi ra không bị coi là kiểm duyệt, mà là để xin ý kiến. Cho tới nay ở Việt Nam, về mặt công khai, không có chế độ kiểm duyệt nhà nước.
(7) Cách gọi tắt các chiến trường : B - miền Nam Việt Nam, C - Campuchia, D - Lào, E - Thái Lan. Tại những chiến trường này đều có mặt bộ đội Việt Nam. Tại Thái Lan, trong thời kỳ chiếm đóng Campuchea bộ đội Việt Nam chỉ vào sâu trong nội địa chừng hai chục cây số.
(8) Nhà văn (sinh năm 1932) nổi tiếng với những tác phẩm Xung Ðột, Mùa Lạc, Cha Và Con Và...
(9) Nguyên trưởng ty Công an Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp. Ðiệp vụ do Hoàng Ðạo tổ chức kết thúc bằng việc đánh đắm thông báo hạm Amyot d'Inville tại vùng biển Thanh Hóa năm 1950. Một nữ điệp viên cảm tử tên là Nguyễn Thị Lộc trong vai vợ của lãnh tụ Ðại Việt Hoàng Ðạo đi nhờ tàu ra Hải Phòng đã mang một va li thuốc nổ lên thông báo hạm và cho nó nổ tung. Do không thỉnh thị Trung ương ông bị tổng bí thư Trường Chinh thi hành kỷ luật. Hoàng Ðạo có viết một hồi ký nhan đề Hà Nội - Huế - Sài Gòn - Ðà Lạt rất thú vị, tôi có được đọc bản thảo, nhưng hình như nó đã thất lạc.
(10) Theo lời chứng của cha tôi.
(11) Một loại trà gói rất phổ biến trong những năm ấy. Trà gói loại sang có Ba Ðình, nhưng cán bộ thích Hồng Ðào hơn vì nó vừa rẻ tiền lại vừa ngon.
(12) Thuốc lá loại sang, trên nó chỉ có thuốc lá Thăng Long. Dưới Ðiện Biên bao bạc còn có Ðiện Biên bao thường, Tam Ðảo (bao bạc và bao thường), đứng hạng chót là Bông Lúa. Như vậy có nghĩa tôi được đối xử khá tốt lúc đầu để mua chuộc.
(13) Năm 1965 uy tín của tổng thống suốt đời Sukarno (1901-1975) xuống tới mức thấp nhất kể từ Hội nghi Bandung 1955. Ðường lối thân Trung Quốc đã dẫn tới một cuộc tàn sát của phe hữu chống lại Ðảng cộng sản và các lực lượng cánh tả. Phe quân sự do tướng Suharto giành chính quyền về tay mình năm 1965, lật đổ Sukarno, chấm dứt thời kỳ hỗn loạn. Thời kỳ này ban lãnh đạo Việt Nam rất lúng túng trong quan hệ với chính quyền mới của Indonesia sau Sukarno.
(14) Năm 1927 Ngô Ðức Trì học tại Trường Ðại học Phương Ðông cùng với Bùi Công Trừng, Nguyễn Thế Rục, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Xích. Nhóm cộng sản Việt Nam đầu tiên được thành lập tại Moskva, trong phòng ngủ của Nguyễn Xích, gồm 5 người nói trên. Lê Hồng Phong còn đang học Trường hàng không ở Leningrad nên không có mặt (theo hồi ký Phải Sống Cho Ðời Sống của Bùi Công Trừng).
(15) Tôi còn nhớ hồi Cách mạng Tháng Tám tù cũng gọi cán bộ công an bằng đồng chí .





:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 5

Năm 1956 được ghi lại trong trí nhớ của tôi như một năm đầy sự kiện.
Tôi ở trong một căn phòng ba người trên tầng thứ tư của ký túc xá sinh viên Trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô nằm ở phía Bắc Moskva.
Ký túc xá của chúng tôi không lớn, nhưng lúc nào cũng nhộn nhịp tiếng chân người ngoài hành lang, những cuộc tranh luận nghệ thuật thâu đêm suốt sáng. Ðó là thời gian của những giọng ca vàng Imma Sumak, Yves Montand, Robertino Loretti(1), những bộ phim tân hiện thực Italia với những tên tuổi sáng chói một thời như Roberto Rossellini, Luchino Visconti, Vittorio De Sica, Giuseppe de Santis(2)...; thời gian Serguei Eiseinshtein(3) phục sinh với bộ phim Ivan Bạo nhiều năm nằm chết trong kho lưu trữ...
Tôi thiếu quá nhiều để tiếp cận cái mới - cả trí thông minh lẫn kiến thức cần có. Theo truyền thống cha ông tôi tìm cứu cánh trong sự học gạo. Ðúng vào lúc tôi vùi đầu chuẩn bị thi kiểm tra thì Ðại hội lần thứ XX Ðảng cộng sản Liên Xô khai mạc.
Tôi chẳng để ý gì tới nó. Những Ðại hội Ðảng, những Hội nghị Trung ương của đảng này đảng nọ trong phe xã hội chủ nghĩa là chuyện cơm bữa, cái nào cũng giống hệt cái nào. Tôi ngán đọc những diễn văn dài dằng dặc kín mấy trang báo, những từ ngữ ồn ào, sáo rỗng và mòn vẹt vì lặp đi lặp lại. Chính trị chưa bao giờ quyến rũ tôi. Với tôi chính trị là thứ chỉ dành cho một số người phi thường và những tên cơ hội, hai loại nhân sinh có tài tìm thấy niềm vui trong trò chơi lá mặt lá trái của nó. Vì thế, ngồi dưới cái loa suốt ngày lải nhải tin tức và bình luận chính trị tôi vẫn học bài được như thường.
Ðó là một cái loa-hộp già lão đã hỏng chiết áp, hỏng từ bao giờ không biết, tôi đến thì nó đã có đấy rồi. Già nua, xơ xác, nó lảm nhảm suốt ngày, nỉ non suốt ngày cho tới tận khuya, với sự kiên trì chỉ có ở máy móc. Tôi đánh vật với nó để bắt nó câm miệng, nhưng thất bại. Làm đủ cách không xong, tôi lấy vải bịt nó lại, nhưng chỉ làm cho tiếng nó nhỏ đi được chút ít. Ðành đọc sách, làm bài trong tiếng lẩm bẩm không dứt của cái loa cần mẫn, riết rồi cũng quên được sự hiện diện của nó.
Tôi đang chìm đắm trong số phận bi đát của Vua Lear thì Shpalikov(4) xồng xộc chạy vào :
- Trời đất ơi, đồ mọt sách ! Ðang xảy ra chuyện động trời mà cặm cụi với cái ông Shakespeare của cậu được thì lạ quá ! Nghe đi kìa !
Tôi ngẩng lên nhìn cái loa. Trong đầu tôi vua Lyr tội nghiệp vừa bị các cô con gái cắt tiền tiêu, cắt cả lính hầu khi vương quốc của ông không còn là của ông nữa. Tôi đang thương ông, ngán ngẩm cho tình đời. Cái loa lẩm bẩm điều gì đó, Shpalikov tươi cười, đôi mắt đen lấp lánh. Tôi không nhận ra ngay giọng nói của Nikita Khrushov(5). Những tràng vỗ tay lớn và kéo dài quá mức làm cho cái khăn bịt màng loa rung lên bần bật.
Tôi tháo nó ra để nghe cho rõ. Thì ra chuyện động trời !
"Vào những năm cuối đời mình Iosif Vissarionovich Stalin(6) đã phạm những sai lầm nghiêm trọng... - giọng Nikita Khrushov sang sảng - Ông coi thường và vì thế đã vi phạm thô bạo những chuẩn mực sinh hoạt dân chủ ... Những tội ác xảy ra trong thời kỳ Stalin đứng đầu Ðảng và Nhà nước...Tệ sùng bái cá nhân là xa lạ với bản chất của đảng cộng sản... !!"
Tôi bàng hoàng, Cha mẹ ơi, gì thế này ?! Ðại nguyên soái Stalin, người thầy, người cha của nhân dân lao động toàn thế giới và ... tội ác ??
Ngoài trời, tuyết bay thành những dải chênh chếch. Mới tháng Hai, mùa xuân Nga còn lâu mới bắt đầu.
- Nghe thấy chưa ? Một cuộc cách mạng ! Cậu hiểu không, một cuộc cách mạng ? - Shpalikov nhảy lên, hoa chân múa tay dưới cái loa sứt sẹo. - Một quả bom nguyên tử ném thẳng vào dinh lũy của nền chuyên chế ! Tự do muôn năm !
Tôi ngẩn người. Anh chàng xuất thân thiếu sinh quân học viện Suvorov, vốn nồng nhiệt yêu chế độ xô-viết, sao lại có thể vui mừng đến thế trước cuộc tấn công trực diện vào lãnh tụ Stalin vĩ đại? Mà người mở đầu cuộc tấn công lại không phải là ai khác Nikita Khrusov, người báo chí hôm qua còn gọi là "học trò xuất sắc và trung thành" của ông ?
Ðến lúc ấy tôi mới nghe tiếng chân người đi lại rầm rập ngoài hành lang, tiếng mở cửa, đóng cửa ầm ầm ở các phòng. Giọng ai đó rung lên mãi một khúc aria không rõ lời. Tiếng vỗ tay rộn ràng theo nhịp một bài ca cách mạng năm 1917.
Tối hôm đó nhóm bạn Nga tổ chức tại phòng tôi một bữa tiệc sinh viên. Chúng tôi uống vốt-ka, nhắm với cá sấy, xúc xích tiết lợn, bánh mì khô và tin nóng hổi nhận được từng giờ từ phòng họp Ðại hội. Bữa tiệc kết thúc bằng cuộc cãi vã to tiếng giữa phái đến cùng đòi ngay lập tức phải tiếp tục đi xa hơn nữa những kết luận của Ðại hội và phái chủ trương cải tổ từ từ có Ðảng lãnh đạo. Phái ngay lập tức bỏ đi. Phái từ từ ở lại.
Tôi buồn ngủ. Trong cơn mơ màng tôi nghe Shpalikov hỏi :
- Cậu hiểu rồi chứ ?
Tôi im lặng. Tôi không hiểu hoặc chỉ mới hiểu lờ mờ. Nhưng tôi tin Shpalikov. Nếu anh vui mừng đến thế mà tôi không cảm thấy như anh thì tôi cần xem lại mình. Chắc rằng trong tôi còn nhiều tăm tối, còn nhiều u mê. Cũng như tôi không hiểu hết được cái đẹp trong thơ Pushkin(7) vậy. Trong ngày hôm nay Pushkin được nhắc tới rất nhiều. Bài thơ Những Người Tháng Chạp của ông được cả hai bên tranh luận ngâm nga.
Ðại hội XX không phải chỉ vạch trần tệ sùng bái cá nhân Sta-lin, đòi phục hồi các chuẩn mực dân chủ trong mọi mặt sinh hoạt xã hội, trong sinh hoạt đảng... Nó còn mở ra tầm nhìn mới cho cả thế giới cộng sản. Nó bác bỏ quan điểm coi bạo lực là phương pháp giành chính quyền duy nhất của giai cấp vô sản, coi mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới là không thể điều hòa. Ðó là Ðại hội của tinh thần hòa bình - cùng tồn tại trong hòa bình, hợp tác hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, tinh thần giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng, chấm dứt mọi thứ chiến tranh nóng cũng như lạnh, giải trừ quân bị...
Ðó là ngày 25 tháng Hai năm 1956.
Hôm sau tôi vào trung tâm thành phố để xem phim "Chiến tranh và hòa bình" của Mỹ tại Cung Ðiện ảnh. Các ga metro dông nghịt. Những con đường dẫn tới Hồng trường1 cuồn cuộn những cơn lũ dân chúng vui vẻ, phấn khích. Họ hò reo, ca hát, mang cờ đỏ búa liềm, chân dung Nikita Khrushov tới điện Kremli chào mừng Ðại hội. Họ ôm nhau, hôn nhau, nhẩy múa trong tiếng nhạc đệm của đàn bay-an. Rải rác trên vỉa hè là những bức chân dung Stalin, cái còn nguyên, cái bị xé nát, nhem nhuốc dưới gót giầy khách bộ hành.
Tôi rùng mình. Cảnh tượng diễn ra trước mắt làm tôi bàng hoàng.
Những người chưa từng bị giáo dục lòng yêu mến và kính trọng sâu sắc đối với lãnh tụ vĩ đại Stalin không thể hiểu nổi nỗi xúc động của chúng tôi khi thần tượng của mình bị quật ngã, bị chà đạp.
Tôi còn nhớ tin Stalin qua đời đến với chúng tôi như thế nào. Cuộc kháng chiến trường kỳ bước vào năm thứ bẩy. Tôi đang ở Thanh Hóa. Hàng ngày, từng tốp máy bay Hellcat và Spitfire từ Hà Nội chốc chốc lại bay vào quần đảo trên những làng mạc thanh bình vùng tự do(8). Thỉnh thoảng chúng thu hẹp vòng lượn và bên dưới, từ mặt đất, bốc lên những cột khói đen. Tin Stalin qua đời đến với chúng tôi trong một ngày như thế. Người ta quên bẵng những máy bay - thần chết khi tiếng loa cất lên vang vang trong thôn xóm báo tin người Cha, người Thầy vĩ đại của nhân dân thế giới không còn nữa.
Lớp trẻ chúng tôi lặng đi. ớt lâu sau, học sinh các trường phổ thông đã ra rả học bài thơ Ðời Ðời Nhớ Ông của Tố Hữu(9), trong đó nhà thơ khóc Stalin :
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười.
Yêu con, yêu nước, yêu nòi,
Yêu bao nhiêu lại thương Người bấy nhiêu,
Ngày xưa khô héo quạnh hiu,
Có Người mới có ít nhiều vui tươi...
Tôi quyết định bỏ Shakespeare đấy đã để tìm hiểu những gì đang xảy ra. Tôi đem những thắc mắc của mình hỏi giáo sư Turkin. Ông thầy giảng môn kịch bản điện ảnh xua hai tay :
- Chính trị không phải cái để cho chúng ta, anh bạn trẻ ạ. Khi còn ở tuổi 20 tôi cũng chú ý tới nó, y như anh bây giờ, sau đó thì... thôi, tôi chán. Mà không phải chán, tôi sợ. Tôi khuyên anh quên nó đi. Những việc anh thấy hôm nay có vẻ ghê gớm thật đấy, nhưng ngày mai mọi sự lại có thể khác. Dây vào làm gì !
Nghe tôi trình bày, giáo sư môn văn học nước ngoài Nina Anosova ra hiệu cho tôi đi theo bà. Chúng tôi xuống tầng hầm của nhà trường. Trong góc tối, bà chỉ cho tôi cái thang dựng sát tường :
- Ðối với tôi thời Stalin gắn liền với cái thang này. Nó trở thành biểu tượng. Anh có thấy chân dung các nhà lãnh đạo Ðảng và Nhà nước treo trên hội trường không ? Thời Stalin còn sống, cái thang được dùng đến luôn. Thỉnh thoảng anh thợ điện Stepan lại vác nó lên để tháo vài vị xuống, treo vài vị khác thế vào. Báo Pravda (Sự Thật) thông báo họ là những tên phản bội, kẻ thù của nhân dân xô-viết. Rồi chính những vị vừa được treo lên lại bị gỡ đi - hóa ra họ cũng là kẻ thù của nhân dân xô-viết nốt. Tất cả đều từng được ngợi ca là bạn chiến đấu, là học trò ưu tú của Lênin và Stalin. Cứ mỗi vị bị bắt thì một loạt cán bộ khác bị bắt theo, như là một đợt sóng. Ngay tại trường ta này những cán bộ hiền lành bỗng nhiên cũng bị công an đang đêm tới nhà bắt đi. Hồi ấy chúng tôi chỉ biết ngạc nhiên : chế độ mình tốt thế sao có lắm người chống lại đến thế, lắm kẻ thù của nhân dân xô-viết đến thế ? Tôi không tin những người nọ là kẻ thù của nhân dân xô-viết, tôi biết rõ họ mà, người khác cũng không tin, nhưng chẳng ai dám nói ra. Thật xấu hổ, nhưng chúng tôi đã sống hèn như thế đấy!
Anosova là người trung thực. Bà không bịa đặt. Chẳng lẽ bà cũng là một trong những kẻ thù của nhân dân xô-viết ?
Tôi được nghe một người vừa được tha về từ trại tập trung Kôlưma nổi tiếng(10) phát biểu. Người đàn ông đứng tuổi, trước kia làm việc tại văn phòng nhà trường, khóc nức nở trong cuộc họp chi bộ(11) :"Các đồng chí ơi ! Tôi bị Ðảng đưa đi giáo dục mười một năm. Trở về, tôi như bị lạc vào một thế giới khác. Tất cả đều khó hiểu, mọi cái đều xa lạ. Hãy giúp đỡ tôi, các đồng chí ! Tôi muốn được làm một người bình thường...như mọi người".
Người tù được tha không hề thốt lên một lời oán trách đảng. Ông cũng chẳng nói gì tới lý tưởng cộng sản. Dường như cơn ác mộng còn đó, về tới Moskva rồi ông vẫn chưa hết sợ. Nhưng lý trí phản bác rằng cảm giác của tôi sai, rằng nhờ tính đảng cao nên trải qua đọa đầy ông ta vẫn trung thành với đảng. Chỉ đến khi chính mình nếm trải những gì mà những người cộng sản nọ nếm trải tôi mới hiểu trực cảm của tôi là đúng.
Ðó chính là cái sợ. Không phải cái gì khác(12).
Trong những cuốn hồi ký được xuất bản sau đó, các tác giả viết rằng khi nước Ðức Quốc xã vượt qua biên giới Ba Lan tiến vào lãnh thổ Liên Xô, xé toạc hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Xô-Ðức, Stalin mới ngã ngửa người ra thấy các tướng lĩnh và cán bộ chỉ huy quân đội đã nằm gần hết trong các trại tập trung. Ông hạ lệnh tha khẩn cấp để họ trở về đi đánh nhau với Ðức. Ðiều đáng ngạc nhiên và hơn nữa, đáng khâm phục, là những người được tha đều sẵn sàng ra ngay mặt trận để chiến đấu chống quân xâm lược.
Những người bị bắt oan khi được tha vẫn phải ký vào một tờ giấy cam đoan không nói lại với ai về giai đoạn đã qua. Một quân đoàn trưởng gặp cấp dưới, tư lệnh sư đoàn, tại nhà an dưỡng miền Nam Liên Xô :"Kìa, Ivan, lâu lắm tôi mới được gặp đồng chí ! - ông mừng rỡ kêu lên - Dạo này đồng chí gày quá !", "Báo cáo thủ trưởng, tôi vừa đi công tác xa về. - tư lệnh sư đoàn trả lời - Tôi trông thủ trưởng cũng không được khỏe ?". Quân đoàn trưởng cười :"Tôi cũng vậy, tôi vừa đi công tác xa về".
Một số người bênh Stalin nói rằng Sta-lin không biết gì về các nguyên soái, các tướng lĩnh bị bắn hoặc bị đi đầy. Tôi không tin. Cái huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh bị cấp dưới bịt mắt, bị lừa dối, không đứng vững trước sự thật hàng ngày diễn ra bên những người dân biết suy nghĩ như giáo sư Anosova.
Một người bạn ở khoa lý thuyết điện ảnh, Naum Kleiman(13), cho tôi biết chính anh và gia đình đã bị đầy đi Sibir gần chục năm chỉ vì họ là người Do Thái. Mà người Do Thái, theo Stalin, là giống người không tin được, phải chịu tội chung cùng với những bác sĩ Do Thái bị bắt trong cái gọi là "vụ án bọn áo choàng trắng" ở Lêningrad(14). Mãi tới khi Stalin qua đời Naum mới được trở về Moskva. Anh nói anh không bao giờ quên chuyến đi tới miền Cực đông băng giá trong toa chở súc vật với những thanh gỗ đóng chéo ngoài cửa. Cách di chuyển dân đi đày của cơ quan an ninh Liên Xô giống hệt cách phát-xít Ðức chuyển tù.
Câu chuyện của Naum làm tôi choáng váng. Chủ nghĩa cộng sản trong hình dung của tôi không có và không thể có gì chung với tệ kỳ thị chủng tộc. Tôi quan niệm mọi giống người là như nhau, bình đẳng với nhau, người ta sinh ra là để thương yêu nhau. Tôi rất thích một ca khúc của Lưu Hữu Phước(15), mở đầu bằng hai câu "Vàng, đen, trắng - nước da không chia tấm lòng. Biên giới kia khôn ngăn mối dây tâm tình..." Ðó chính là thế giới mà tôi muốn được thấy khi đi với chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản của Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ và Huỳnh Ngự hoàn toàn không giống thế. Có thể, tôi sai. Trong tôi chủ nghĩa cộng sản có dáng dấp Thiên Chúa giáo, nơi mọi người đều là con cái Chúa. Lần đầu tiên tôi được thấy một chủ nghĩa cộng sản phân biệt chủng tộc.
Những đứa trẻ cũng không được yên khi cuộc trấn phản đã bùng lên thành cơn cuồng tàn sát. Nhân danh cách mạng người ta chuyên chính cả với con nít. Cách suy nghĩ của những nhà chuyên chính vô sản thật đơn giản : nếu cha mẹ đã là kẻ thù của nhân dân xô-viết thì con cái họ lớn lên nhất định cũng sẽ là kẻ thù của nhân dân xô-viết. Một trong những nghị định của Bộ Nội vụ thời Sta-lin ghi rõ :"...Vợ con những tên phản bội Tổ quốc phải bị giam giữ trong các trại tập trung với thời hạn không dưới 5-8 năm tùy theo mức độ nguy hại cho an ninh xã hội. Những đứa trẻ có hại cho an ninh xã hội phải đem xử án, tùy theo tuổi, tùy theo mức độ nguy hại và khả năng cải tạo chúng, chúng phải bị giam giữ trong các trại tập trung, các trại cải tạo lao động của Bộ Nội vụ hoặc giam giữ tại các nhà trẻ với chế độ đặc biệt "(16).
Thì ra dưới lớp vàng son lộng lẫy trưng ra mặt tiền một xã hội tuyệt vời lại là những vụ thanh toán cung đình, những vụ thủ tiêu mờ ám, những vụ trấn phản đẩy hàng triệu dân chúng vô tội vào các trại tập trung khủng khiếp, không trừ phụ nữ và trẻ em.
Tôi bị sốc thật sự.
Một phần trong những tội ác của Stalin - tôi nói một phần vì sau này người ta còn phát hiện nhiều tội ác khác, thí dụ như vụ thủ tiêu binh lính, sĩ quan và các nhà chính trị Ba Lan vào năm 1940 (lực lượng những người kháng chiến Ba Lan này chạy sang lánh nhờ đất bạn) tại khu rừng Katưn thuộc tỉnh Smolensk. Con số được nói tới khoảng 30.000 người. Không thể nào tưởng tượng nổi : bắn chết 30.000 người rồi vùi trong các huyệt tập thể. Lời bình trong một bộ phim tài liệu về khu rừng khủng khiếp nói trên nói rằng ở đây còn có cả di thể các công dân xô-viết "không rõ là những ai, con số họ là bao nhiêu, bởi vì chẳng ai quan tâm tới những người xấu số ấy". Những gì được nêu lên trong Báo cáo mật(17) do Nikita Khrusốp trình bày trước Ðại hội XX còn xa mới tới sự thật. Không biết bằng cách nào, chỉ ít lâu sau Ðại hội Báo cáo mật đã được đăng tải trên trang nhất những tờ báo lớn ở "thế giới tự do". Những người cộng sản Liên Xô được đọc Báo cáo mật về tình hình quốc gia mình sau những kẻ vô công rồi nghề ở các nước khác.
Lẽ đương nhiên, các đoàn đại biểu dự Ðại hội đều nhận được Báo cáo mật. Nhưng ở Việt Nam trừ các ủy viên Bộ Chính trị và vài ủy viên Ban Bí thư, không ai được đọc nó. Tôi được biết nội dung Báo cáo mật tướng Lê Liêm kể lại. Ông chỉ là ủy viên Trung ương, không có tiêu chuẩn đọc Báo cáo mật, ông phải đi mượn. Nhiều ủy viên Trung ương khác thậm chí chưa được cầm nó trong tay.
Báo cáo mật là tiếng nói bất bình, là sự lên án lối cai trị tùy tiện, độc đoán, tàn bạo nhưng chưa phải sự đoạn tuyệt với nó. Nikita đã không đi đến cùng. Hoặc ông chưa đủ gan, hoặc ông còn bị kiềm chế bởi các thế lực thân Stalin, hoặc chính ông thấy xấu hổ nếu phơi bày tuốt tuột những cái xấu của chế độ xô-viết. Vì thế báo cáo mới là mật, mới không công khai. Cái còn thiếu trong bản báo cáo là thái độ sám hối. Trong báo cáo Nikita xuất diện chỉ với tư cách người buộc tội. Ông xấu hổ trước những gì xảy ra trên đất nước xô-viết. Ông kịch liệt lên án những việc làm bất nhân, vô đạo. Như chẳng lẽ không phải chính ông đã từng ở trong đám thuộc hạ của Stalin trong khi tội ác diễn ra, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp nhúng tay vào máu. Ông cũng chưa một lần nói "Không!" để chặn đứng bàn tay giết người của Stalin.
Như một nghịch lý, những người dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa lại thiếu đức tính mà họ có thừa khi còn đấu tranh chống nền chuyên chế : lòng dũng cảm. Chỉ tới Ðại hội XX các đại biểu mới bàng hoàng trước sự thật : trong số 139 ủy viên Trung ương được Ðại hội XVII (1934) bầu ra đã có tới 98 người bị bắn và tống giam. Vị chi là trên hai phần ba. Không một ai trong những người còn sống sót dám lên tiếng. Stalin đã thành công trong việc đánh thức bản năng sinh tồn trong mỗi người. Ai cũng sợ cái chết cầm chắc khi động tới lãnh tụ vĩ đại. Không cứ Ban chấp hành Trung ương, trong số 1.956 đại biểu đi dự Ðại hội XVII có tới 1.108 người sau này bị kết án phản cách mạng, bị bắt và bị giết.
Hiện tượng Khrusov gây ra sự ngạc nhiên có lý trong hàng ngũ những người cộng sản Việt Nam. Kể cả những người có tư tưởng cấp tiến nhất trong thời kỳ ấy cũng không hiểu nổi vì sao ngay trong lòng chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập vững chắc ở Liên Xô lại nảy nòi ra một Khrusov bặm trợn dám đạp đổ thần tượng.
Tôi cho rằng trong khi giải thích hiện tượng Khrushov người ta có khuynh hướng làm rối rắm vấn đề. Sự thật, theo tôi, đơn giản.
Khrusov cũng là con người. Như mọi con người, ông thèm tự do. Chế độ toàn trị tước đoạt mọi quyền tự do không riêng của bầy nô lệ mà của cả quần thần. Chỉ có thấm thía nỗi đau khổ bị mất tự do, ý thức được nỗi nhục nhằn phải làm thân tôi tớ, Khrusov mới đủ dũng khí tự tước bỏ quyền thống trị mặc nhiên có nếu như ông không vì tự do mà phanh phui tệ sùng bái cá nhân Stalin(18).
Trong ý nghĩa này Khrushov còn hơn một anh hùng, ông là một Con Người, viết hoa.
Cuộc tấn công của Ðại hội XX vào tệ sùng bái cá nhân không phải chỉ là quả bom nguyên tử ném vào dinh lũy chế độ chuyên chế ở Liên Xô. Nó còn làm rung chuyển toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa. Bất kỳ nước nào thuộc hệ thống này cũng có sự sùng bái cá nhân y như thế.
Nhưng nghịch lý còn đó : những người cộng sản mới hôm trước đi đầu trong việc xóa bỏ sùng bái cá nhân, bảo vệ quyền con người, thì hôm sau lại đàn áp những người dân thường tại Hungari(19) chỉ vì những người này dám đòi thêm một chút tự do. Ông Khrushov chống sùng bái cá nhân biện bạch : xe tăng Liên Xô đến Budapest để bảo vệ chủ nghĩa xã hội !
Thì ra sống bảo thủ dễ chịu hơn sống sáng tạo nhiều.
Hoàn toàn bị bất ngờ trước bước ngoặt trong phong trào cộng sản quốc tế do Ðại hội XX gây ra, Ðảng Lao động Việt Nam khéo léo chọn thái độ kẻ ngoài cuộc : dào, chống sùng bái cá nhân là phải thôi, là đúng, lãnh đạo là phải tập thể chứ, nhưng đó là chuyện Liên Xô, chuyện các nước Ðông Âu, đâu phải chuyện nhà mình. Và thế là trong khi cả thế giới cộng sản chống sùng bái cá nhân hối hả dẹp đi những trò chướng mắt của thói xấu đó thì ở Việt Nam người ta vẫn ngang nhiên trương chân dung ông Hồ Chí Minh và ông Trường Chinh ở hàng đầu trong những cuộc mít tinh, biểu tình.
Ðại hội XX lôi tôi ra khỏi nghệ thuật, bắt tôi mở mắt ra để thấy ở bất cứ nước nào có chế độ độc tài tình hình cũng thế cả. Những nhà độc tài của mọi nước chỉ cho phép tồn tại thứ nghệ thuật tay sai, nghệ thuật bồi bếp, để thực hiện chức năng tôn vinh nền chuyên chính và nhà độc tài, để đánh bóng mạ kền cho chế độ. Mọi hoạt động nghệ thuật ở bên ngoài không gian sinh tồn đã được quy định đều bị coi là bất hợp pháp.
Mùa đông năm 1956 tại trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô xảy ra một sự kiện chưa từng có. Sinh viên Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên Hô Un Pây, nhà thơ, đảng viên cộng sản, trong cuộc họp bất thường của chi bộ mà anh là bí thư, đã lên tiếng đòi Ðảng Lao động Triều Tiên phải nghiêm khắc kiểm điểm Chủ tịch Kim Nhật Thành(20) về những hiện tượng phi dân chủ, sùng bái cá nhân.
Trước khi sang Liên Xô học, Hô Un Pây là sĩ quan tình báo hoạt động tại Hán Thành, nhiều lần bị thương, bị địch bắt. Sau khi anh gửi kiến nghị, các nhân viên mật vụ Triều Tiên đội lốt cán bộ ngoại giao đến trường mời anh tới gặp đại sứ, rồi giam anh lại trong sứ quán. Hô Un Pây đã dùng mẹo nhà nghề lừa được bọn chúng. Anh nhảy từ tầng lầu thứ tư xuống, vùng thoát ra ngoài. Tuyết gom thành đống dưới chân tường đã giảm nhẹ cú rơi từ độ cao hơn hai chục thước.
- Chúng nó định thủ tiêu cậu ? Ngay trong sứ quán ? - được tin anh thoát hiểm, chúng tôi kéo đến hỏi thăm.
- Không, chúng nó nói sẽ áp giải mình về nước. - anh kể về cuộc đào thoát của anh khỏi sứ quán, cánh tay bị sái khi ngã đeo trước ngực - Mình đề nghị chúng nó cho gặp vợ trước khi về (anh có vợ, cũng người Triều Tiên, học tại trường Y Moskva), đề nghị cho mình quay lại ký túc xá lấy quần áo thì chúng nó cười gằn : "Về đến Triều Tiên mày không cần vợ nữa đâu, quần áo thì một bộ đã thừa đủ".
Nước mắt dòng dòng Hô Un Pây đọc cho tôi nghe những bức thư anh gửi Trung ương Ðảng, chính phủ, quốc hội, gửi Kim Nhật Thành :"Tôi tuyên bố từ bỏ Ðảng đã phản bội nhân dân Triều Tiên anh hùng và đau khổ...Tôi đau lòng từ bỏ quốc tịch Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên, vì nó không xứng đáng với tôi, nó không phải là quốc tịch của tôi mà là dấu ấn đóng trên trán tên nô lệ...Trong mình tôi mãi mãi chảy dòng máu của tổ tiên và tôi mãi mãi mang trong tôi niềm tự hào là người Triều Tiên..."
Tôi gai người khi nghe Hô Un Pây đọc những hàng chữ chua xót.
Người của Kim Nhật Thành đã thất bại trong vụ bắt cóc Hô Un Pây. Liên Xô sau Ðại hội XX đã là Liên Xô khác. Nhưng cũng chưa khác lắm. Trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô đã làm một việc đáng xấu hổ. Người ta công bố lệnh đuổi học đối với sinh viên Hô Un Pây mà không nêu lý do.
Hô Un Pây bỏ đi Tashkent(21) làm giảng viên văn học Triều Tiên.
Sau việc xảy ra với Hô Un Pây, tôi kinh tởm Kim Nhật Thành và cái nhà nước của ông ta. Anh trung úy Hồng quân Liên Xô(22) đã biến Bắc Triều Tiên thành một trại lính, trong đó dân chúng bị cai trị theo cách lính tẩy.
Phản ứng của Mao Trạch-đông đối với những kết luận của Ðại hội XX mạnh mẽ hơn cả. Mao không tha cho Khrushov tội dám tấn công vào trật tự đã được thiết lập một lần cho mãi mãi tại cái quốc gia cho đến lúc ấy còn đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, mà phản ứng dây chuyền của nó có thể làm lung lay ngai vàng của chính Mao.
Chống sùng bái cá nhân không thể không ảnh hưởng tới vị trí độc tôn của Mao. Ðể đối phó với tình hình mới, khi những tiếng nói đòi dân chủ và tự do vang lên ngay bên trong "bức màn tre" Trung Quốc, Mao gài bẫy "Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh" (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng(23)) để "cỏ dại", "tiếng lạ" lộ hình. Cuộc vận động này mở đầu cho cuộc tấn công nhằm vào những người muốn thay đổi trật tự xã hội Trung Quốc, gọi bất cứ ai không ưa Mao và không được Mao ưa là phần tử hữu khuynh chống Ðảng chống chủ nghĩa xã hội.
Những lời bài bác Liên Xô vốn có sẵn trong Mao nay được nhấn mạnh thêm. Sự rạn nứt trong khối xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế bắt đầu.
Cuộc họp mặt các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới năm 1957 và đặc biệt Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân thế giới tại Moskva vào tháng 11 năm 1960, bốn năm sau Ðại hội XX Ðảng Cộng sản Liên Xô, với bản Tuyên bố chung gượng gạo, chỉ là những thỏa hiệp bất đắc dĩ. Bị lôi kéo vào cuộc chiến ý thức hệ không những chỉ có những đảng cầm quyền một số nước xã hội chủ nghĩa, mà còn một loạt các đảng cộng sản và công nhân. Tình trạng phân liệt xảy ra trong hầu hết các đảng, có những nước có tới hai ba đảng, đảng nào cũng xưng mình là mác-xít - lê-nin-nít.
Trong cuộc chiến ý thức hệ Mao hi vọng Bắc Kinh sẽ trở thành trung tâm lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế. Báo chí Trung Quốc khua chiêng gõ mõ về một thời đại mới - thời đại gió Ðông thổi bạt gió Tây, trung tâm cách mạng chuyển về châu Á.
Ðến lượt mình Khrusov lại phạm vào sai lầm tổ tông truyền của chủ nghĩa nước lớn : cắt viện trợ, rút toàn bộ chuyên gia giỏi về nước(24). Lập tức các phương tiện truyền thông của cái quốc gia gần một tỷ dân được huy động toàn lực để vạch mặt những tên phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch mặt bọn xét lại hiện đại và chủ nghĩa xét lại hiện đại. Cuộc tấn công bằng nước bọt và mực in diễn ra theo bài bản mà người Việt Nam đã hân hạnh được biết trong Cải cách ruộng đất : bắt đầu bằng đấu lưng (vạch tội khi kẻ bị đấu ngồi quay lưng lại), sau mới đấu mặt (đấu trực diện, chỉ tận mặt, gọi đích tên mà đấu).
Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc cãi vã giữa hai nước đàn anh, ông Hồ Chí Minh, nhạc trưởng của cái dàn nhạc khôn ngoan chỉ chơi một bài tủ "Kết đoàn chúng ta là sức mạnh" liền cho cử nhạc lên, nhưng lần này tiếng kèn yếu ớt của ông bị tiếng trống của hai bên xung đột đang hăng máu ăn thua dập tắt.
Do kém học thức, các văn kiện Liên Xô làm các nhà lãnh đạo Việt Nam thất đảm bởi giọng văn hàn lâm cao đạo. Trong khi đó cách lý giải theo lô gích tam đoạn rất bình dân của các lý thuyết gia Bắc Kinh hợp với tầm kiến thức của họ hơn. ấy là chưa kể giữa hai nước cộng sản châu ỏ trước nay vẫn có một mẫu số chung là gốc rễ phong kiến lạc hậu, trong lòng mỗi người dân có một ông quan. Trong tâm trạng hoang mang trước một tương lai bỗng dưng trở thành không xác định của phong trào cộng sản, các nhà lãnh đạo Việt Nam, mặc dầu đã ngả theo Trung Quốc, vẫn kiên trì chủ trương đường lối khôn ngoan của nhà nghèo - gửi tiền vào hai ngân hàng cùng một lúc. Cho nó chắc ăn.
- Ông Cụ lừng khừng vì ông lúng túng trong những vấn đề phức tạp của cuộc đấu tranh lý thuyết. - cha tôi giải thích lập trường trung dung của ông Hồ trong cuộc cãi vã quốc tế - Ông Cụ chỉ thích những cái đơn giản. Cái vụ ông chọn Ðệ tam Quốc tế chứ không chọn Ðệ nhị Quốc tế ở Ðại hội Tours là một thí dụ. Quốc tế tốt là Quốc tế ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.
Ông Hồ thuộc sử nước nhà lắm. Ðánh nhau với thiên triều, thắng thì thắng đấy, mà vẫn phải sai sứ sang cầu hòa, xin được làm chư hầu. Noi gương các cụ, ông nhũn nhặn với bất kể Trung Quốc nào, Trung Quốc Tưởng hay Trung Quốc Mao. Ðường đường là chủ tịch một nước năm 1945 ông Hồ vẫn hạ mình thân đến chào các tướng Tiêu Văn và Lư Hán(25) vào ngày họ tới Hà Nội. Ông căn dặn cha tôi phải lo thuốc phiện cho tướng Long Vân con(26) "kẻo nó giận thì lôi thôi lắm, thằng nhóc ấy có thể ảnh hưởng xấu đến mối bang giao của ta với họ". Khi La Quý Ba, đại sứ đầu tiên của Trung Quốc Mao tới Việt Bắc, ông sai cha tôi phải chọn địa điểm cho đẹp, dựng nhà cho đẹp để họ La ở :"Mình thế nào cũng xong, chứ với người ta thì phải chu đáo. Họ xét nét lắm đó !". Ông nhớ lần ông bị bắt ở Hongkong(27), ngày một ngày hai sẽ bị Anh trao cho Pháp, những đồng chí Trung Quốc đã lờ ông đi, mặc cho ông tự xoay xỏa. Ông cũng không quên lần ông tới Bắc Kinh để đi tiếp Moskva, bị Mao bắt chầu chực chán chê ở nhà khách rồi mới cho tiếp kiến. Ông nhớ, và ông để bụng.
Biết ông Trần Huy Liệu đang điên tiết vì bức ảnh đăng trên Nhân dân nhật báo Bắc Kinh với dòng chú thích :"Ðồng chí Trần Huy Liệu, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã được hân hạnh Mao chủ tịch cho bắt tay" nhân forum Bắc Kinh năm 1965, ông Hồ Chí Minh an ủi ông Liệu :"Người ta bao giờ chả rứa, thiên triều mà !" Một hôm tôi đến chơi thấy bức ảnh Mao Trạch-đông vẫn thường treo trong nhà không còn ở chỗ cũ, tôi hỏi thì ông Liệu kể cho nghe chuyện xảy ra với ông ở Bắc Kinh, chuyện ông Hồ an ủi ông. Ông nói :"Tao cũng như Bác Hồ, tao ỉa vào thiên triều, tao là thằng dân tộc chủ nghĩa".
Chính thái độ lừng khừng trong giai đoạn này của Hồ Chí Minh làm cho lớp đàn em đang hăng máu chống Liên Xô coi thường ông(28). Mặt ngoài họ làm ra vẻ kiên trì đường lối đứng giữa, trên thực tế họ đã sà vào chiếu bạc rồi, đã xỉa tiền vào cửa Trung Quốc rồi.
Khởi đầu cuộc đấu tranh giữa hai đường lối ở Việt Nam là như vậy. Nó có diện mạo một cuộc thánh chiến vì lý tưởng mác-xít. Càng về sau nó càng lộ ra tính chất đời thường. Nói chung, chính trị cởi bỏ áo quần thì nó là đời thường, như tôi thấy.
Chuyện đó nói sau.
Cuộc tấn công lý thuyết nhằm vào điện Kremli đã được họ Mao tính kỹ. Nó giúp Mao Trạch-đông bắn một mũi tên mà được hai con thỏ : một mặt nó che lấp hậu quả nặng nề của bước nhảy vọt vĩ đại đã và đang làm suy kiệt nền kinh tế Trung Quốc, mặt khác nhân cơ hội này Trung Quốc sẽ giành lấy vị trí lãnh đạo thế giới cộng sản.
Thế giới cộng sản đang tách đôi : hai con đường, hai mô hình xã hội.
Bị trói buộc bởi ý thức hệ cộng sản, chúng tôi chỉ có sự lựa chọn hai lấy một. Không có con đường thứ ba. Không lưỡng lự, chúng tôi bỏ phiếu cho mô hình Liên Xô. Mô hình này, theo chúng tôi, tốt hơn hẳn mô hình Trung Quốc. Tại Liên Xô đang manh nha một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó những quyền tự do và dân chủ được luật pháp bảo đảm. Nhà nước này chủ trương hòa bình tiến lên chủ nghĩa xã hội, chứ không lấy bạo lực áp đặt chủ nghĩa xã hội lên các dân tộc, là cái phù hợp với tình hình thế giới hiện tại.
Chế độ xã hội Trung Quốc, cũng như chế độ xã hội Việt Nam không hứa hẹn một cái gì tương tự. Nếu ở Trung Quốc là chế độ toàn trị cởi truồng thì ở Việt Nam còn giữ lại manh khố.
Lấy Trung Quốc làm thí dụ. Mao muốn thế giới thấy dưới sự lãnh đạo của ông ta Trung Quốc trong một thời gian cực ngắn sẽ đạt được sản lượng gang vượt nước Anh. Thế là các lò luyện thép sân sau mọc lên như nấm trên đất nước bao la. Người ta mang ban thờ ra đốt lò. Chẳng ai cần tới thứ gang ấy, chúng chẳng để làm gì.
Mấy anh bác học nhà quê trình lên Mao một con toán lập theo quy tắc tam suất rằng nếu một con chim sẻ một ngày ăn hết bằng này hạt thóc thì toàn bộ chim sẻ ở Trung Quốc trong một năm sẽ ăn hết bao nhiêu. Một con số khủng khiếp. Người cầm lái vĩ đại bèn hạ bút ký một nhát ra lệnh tiêu diệt bằng hết lũ chim ăn hại. Gần một tỉ dân đổ ra đồng, khua chiêng, gõ mõ, thúc trống, đập mẹt, đập thùng, đốt pháo... làm cho trăm họ chim chóc kinh hồn táng đởm bay tán loạn, bay mãi, bay mãi mà không dám đáp xuống, không còn chỗ nào yên để đáp xuống, cho tới khi rã cánh thì rơi xuống mà chết, hoặc để bị đập chết. Tôi rùng mình khi nhìn thấy những bức ảnh xác chim chất cao như đống rạ trên họa báo Trung Quốc. Thiên nhiên lập tức cho Mao một cái tát trời giáng(29). Mất mùa. Sâu bệnh. Không còn chim để bắt sâu. Cùng với chim sẻ mọi giống chim biến mất trên đại lục mênh mông. Nạn đói hoành hành.
Chẳng bao giờ người cầm lái vĩ đại lẫn đám đệ tử của ông ta nhận sai. Cái vụ tàn sát chim, cũng như những vụ tàn sát người, rồi bị lờ tịt, cho chìm vào quá khứ, coi như chưa từng xảy ra.
Cơn cuồng phong bắt đầu từ Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô lớn dần thành cơn bão trong khối nhân sinh cộng sản, mà mắt bão ở Trung Quốc. Chúng tôi cảm thấy rõ rệt bầu không khí ngột ngạt báo trước cơn bão sẽ tràn tới Việt Nam. Nhưng chúng tôi không có cách nào tránh nó.
Ðành tự an ủi : mình còn may chán - ở Việt Nam chỉ có bão rớt thôi !

(1) Những ca sĩ nổi danh giữa thập niên 50.
(2) Những đạo diễn tên tuổi của trào lưu Làn Sóng Mới của điện ảnh Ý.
(3) Seguei Mikailovich Eisenshtein (1898-1948), đạo diễn, nhà lý luận điện ảnh Liên Xô. Bộ phim Ivan Bạo đế gồm ba phần : phần Một được giải thưởng Stalin năm 1945, phần Hai miêu tả Ivan Bạo đế có nhiều nét giống Stalin nên không được dựng và chiếu, mãi tới năm 1956 mới được được đưa ra công chúng, phần Ba tác giả chưa hoàn thành, tôi chỉ được xem toàn bộ phim này vào năm 1991 tại Viện bảo tàng điện ảnh bản chưa hoàn chỉnh tại trường đại học điện ảnh.
(4) Về sau Guenadi Shpalikov viết kịch bản, làm đạo diễn, làm thơ. Cuộc đời anh kết thúc bi thảm. Anh nghiện rượu nặng rồi tự vẫn, thất vọng thấy cuộc sống xã hội chủ nghĩa không đẹp như anh muốn thấy. Shpalikov để lại những bộ phim mà khán giả xô-viết rất yêu mến :"Lang thang trên phố phường Moskva". "Cửa ô Ilích", "Nhũng chuyến xe điện đi về tỉnh xa".
(5) Khrushov Nikita Sergeievich (1894-1971) Bí thư thứ nhất Ðảng cộng sản Liên Xô 1953-1964. Tên của Khrushov phiên theo cách phát âm Nga, ở phương Tây họ của ông được viết Khrushchev.
(6) (1879-1953).Tên thật là Iosif Vissarionovich Dzugashvilli, con một gia đình nông dân tỉnh Gori (nước Cộng hòa Gruzia), thời niên thiếu theo học Chủng viện Tbilisi, bị bắt và đi đầy Sibir vào những năm 1902-1904, tham gia Ðảng Xã hội Dân chủ Nga từ năm 1899, "học trò và bạn chiến đấu của Lênin", như được ghi trong Lịch sử Ðảng cộng sản Liên Xô. Sau khi Lênin chết (1924) trở thành tổng bí thư Ðảng cộng sản Liên Xô.
(7) Pushkin A.S. (1799-1837), nhà thơ lớn của nước Nga.
(8) Vùng của các lực lượng kháng chiến, phân biệt với vùng tạm chiếm do quân Pháp chiếm đóng.
(9) Nhà thơ, ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. Tố Hữu bắt đầu lên nhanh sau vụ đánh "Nhân văn - Giai phẩm", sau đó trở thành tổng tư lệnh nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong một thời gian dài cho tới khi nhậm chức phó thủ tướng phụ trách kinh tế.
(10) Một trong những trại tập trung nổi tiếng nhất Liên Xô thời Stalin, được miêu tả tỉ mỉ trong tiểu thuyết "Quần đảo ngục tù" của Solzhenitsyn.
(11) Tôi tình cờ rơi vào một cuộc họp chi bộ mở rộng Ðảng cộng sản Liên Xô do chủ trương công khai hóa mọi công việc của đảng trong lý thuyết đảng toàn dân rất dễ thương của Nikita Khrusov. Khrusov cho rằng đảng không có gì bí mật đối với dân bởi vì mọi công việc đảng làm là vì dân. Trong cuộc họp mà tôi được dự người ta chỉ bàn chuyện mắc thêm máy điện thoại công cộng cho nhà ở tập thể của sinh viên, chuyện làm vệ sinh quanh trường sở, chuyện kết nạp đảng viên mới.
(12) Veléri Frid, nhà biên kịch điện ảnh nổi tiếng, từng ở tù 11 năm trong các nhà tù GULAG, đồng ý với nhận định của tôi. Sự sợ hãi dưới thời Stalin đã hình thành như một tính cách xô-viết.
(13) Naum Kleiman, viện trưởng Viện bảo tàng điện ảnh, chuyên gia về Eisenshtein.
(14) Vụ này bắt đầu bằng một bức thư của nữ bác sĩ Timashuk tố cáo âm mưu chống Ðảng và Nhà nước xô-viết của một nhóm bác sĩ.. Một cuộc tổng khủng bố nổ ra, nhiều chuyên gia y tế lỗi lạc bị bắt và bị giết. Những biện pháp chuyên chế trung cổ được áp dụng. Stalin ra lệnh trói viện sĩ Vinogradov bằng xích sắt. Mục đích của nhà độc tài xa hơn - qua vụ "áo choàng trắng" ông muốn lợi dụng lời khai của các bị can để triệt hạ các đối thủ của mình trong Bộ Chính trị.
(15) Nhạc sĩ nổi tiếng, tác giả nhiều ca khúc cách mạng, trong đó có hai bài được chính quyền Việt Nam Cộng hòa và chính quyền lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam chọn làm quốc ca (dưới tên Huỳnh Minh Siêng).
(16) Trích chỉ thị của bộ trưởng Bộ Nội vụ nhân dân số 00486, đề ngày 15.8.1937. Sau cuộc chính biến mùa thu năm 1991 báo chí Liên Xô (cũ) khui ra được rất nhiều văn kiện mật và tối mật của chính quyền xô-viết liên quan tới những vụ trấn áp.
(17) Tên chính thức của nó là :"Về tệ sùng bái cá nhân và hậu quả của nó" do Nikita Khrusov đọc suốt đêm 24 rạng ngày 25 tháng Hai năm 1956 trong một phiên họp bí mật của Ðại hội, mà không một đoàn đại biểu của các đảng anh em có mặt tại Ðại hội được tham dự.
(18) Ðáng ngạc nhiên là trong chuyện vạch tội ác của Beria, Nikita Khrusov cũng dùng những phương pháp bịa đặt đặc trưng của thời kỳ Stalin. Beria bị xử như một tay sai đế quốc. Thực ra, như bây giờ mọi người đã biết, Beria cũng xuất thân từ thành phần lao động, vào Ðảng năm 1930, ủy viên Trung ương năm 1934 (cùng một lượt với Khusov và Bunganin), ủy viên Bộ Chính trị từ 1939. Beria còn là bộ trưởng Bộ Nội Vụ, thống chế quân đội Liên Xô, một trong ba ủy viên Bộ Chính trị được vinh dự đọc điếu tang Stalin.
(19) Ngày 23.10.1956, nhân dân Hungari, với trí thức và sinh viên đi đầu, nổi dậy chống chế độ độc tài. Imre Nagy, một nhà lãnh đạo chủ trương cách tân trong đảng cộng sản lên làm thủ tướng. Ông kêu gọi lập chính phủ liên hiệp, dân tộc tự trị, kinh tế nhiều thành phần, nhưng ngày 4.11 quân đội Liên Xô vào dập tắt cuộc nổi dậy, hạ bệ Imre Nagy. Ông bị quân đội Liên Xô mang sang Rumani, rồi bị chính quyền Hungari (thân Liên Xô) mang về nước năm 1957, hành quyết năm 1958.
(20) Kim Nhật Thành (Kim Il Sung, tên thật là Kim Song Ju, 1912-1994), chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên.
(21) Thủ đô nước Cộng hòa xô-viết Uzbekistan (Ouzbékistan).
(22) Trước khi được Liên Xô đưa về Triều Tiên sau chiến thắng phát-xít, Kim Nhật Thành phục vụ trong Hồng quân Liên Xô, cấp bậc trung úy.
(23) Cuộc vận động "Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh" được Mao Trạch-đông phát động từ tháng 5.1956. Nó được đặc biệt đẩy mạnh sau Ðại hội VIII kỳ I (từ 15.9-27.9 năm 1956) của Ðảng cộng sản Trung Quốc.
(24) Theo những nguồn tin Trung Quốc thời kỳ đó thì tháng 7-1960 Khrushov đã đơn phương xóa bỏ 600 hiệp định và hợp đồng, rút toàn bộ chuyên gia đang làm việc tại Trung Quốc về nước làm tổn hại nặng nề cho nền kinh tế Trung Quốc. Một số tài liệu Liên Xô nói rằng Trung Quốc yêu cầu cho rút chuyên gia về.
(25) Hai tướng chỉ huy các cánh quân của quân đội Trung Hoa Dân quốc vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật bại trận.
(26) Ðể phân biệt với tướng Long Vân bố không sang Việt Nam.
(27) Ông Hồ Chí Minh bị cảnh sát Hongkong bắt năm 1931.
(28) Năm 1965, trong một cuộc nói chuyện với cán bộ tuyên giáo ở Hưng Yên, trưởng ban tuyên giáo Trung ương Tố Hữu nói : "Ông Cụ lẫn cẫn rồi, mọi việc bây giờ đều do anh Ba (Lê Duẩn) và tụi tôi giải quyết".
(29) Càng thấy rõ Mao Trạch-đông chẳng hề đọc sách của Marx và Engels. Trong cuốn Phép Biện Chứng Của Tự Nhiên, Engels đã cảnh cáo loài người chớ có kiêu ngạo, chớ tưởng mình có thể chế ngự thiên nhiên .



:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 6

Hôm sau, tôi lại bị gọi ra. Thấy Huỳnh Ngự ngồi trong phòng hỏi cung, tôi quay ngoắt lại. Huỳnh Ngự nghiến răng ken két sai cai ngục đưa tôi sang phòng bên. Tôi ngồi đấy, một mình trong căn phòng trống rỗng, ngáp ngắn ngáp dài. Ðến gần trưa quản giáo mới đưa tôi về.
Suất ăn lạnh ngắt đợi tôi ở xà lim. Trên phản, bên cái bát men đựng suất cơm tù là bộ quần áo tôi mặc trên người khi bị bắt.
Trong khi tôi vắng mặt quản giáo đã đem thức ăn vào cho tôi, nhân tiện trả lại tôi quần áo. Về sau mới biết việc quản giáo đưa cơm vào tận xà lim cho tù là ngoại lệ. Có vẻ người trong vụ chúng tôi được đối đãi khác, được nể nang hơn so với tù thường. Tôi nghĩ không phải chúng tôi được Ðảng yêu mến, mà chắc Ðảng lo chúng tôi có thể gây chuyện om sòm, không có lợi.
Chẳng có chuyện gì để nói, anh bạn tù nhẩn nha giới thiệu cho tôi biết về cảnh sống trong xà lim.
Thường lệ, đến giờ ăn thì quản giáo mở cửa cho tù trong các xà lim ra nhận phần cơm, sau đó đóng cửa lại. Ðộ nửa tiếng sau, tính rằng tù đã ăn xong, họ lại trở vào mở cửa cho tù ra trả bát rếch. Ðối với tù xà lim không có hiệu lệnh cho giờ ăn, không kẻng cũng không trống. Người tù không có quyền được ăn đúng giờ. Quản giáo có khi bận việc riêng, nhà bếp gánh cơm cho khu xà lim cả tiếng đồng hồ rồi cũng chưa buồn vào mở cửa cho tù ra nhận. Mùa hè còn đỡ, chứ mùa đông ăn nguội đối với tù là cực hình.
Tôi rất muốn biết có ai cùng vụ với mình ở đây không, nhưng ngoài mấy tiếng ho khan, tiếng đằng hắng khe khẽ vẳng đến từ những xà lim gần tôi không nghe thấy người ta nói chuyện với nhau. Trong xà lim tù không được phép nói to. Mỗi lần tôi quên, hơi cao giọng một chút là anh bạn tù đã nhắc :
- Chết, anh nói khẽ chứ !
Nói to, gây tiếng động lớn bị cấm ngặt. Chỉ có một lần tôi thấy người tù nói to, nói oang oang, bất chấp mọi cấm đoán. Anh ta điên. Ðiên thì phải cho đi bệnh viện, lệ phải thế, ở nước nào cũng thế. Nhưng để tin chắc người tù điên thật chứ không điên giả, Ban Giám thị để anh ta trong xà lim một thời gian đã. Suốt thời gian ấy, những người tù xà lim đành chịu trận với những tiếng kêu gào xé họng, những bài ca ư ử như tiếng người bị bóp cổ, những cơn khóc lóc thảm thiết nghe rợn tóc gáy giữa đêm khuya.
Cái cùm sắt dưới chân phản lúc nào cũng sẵn sàng ngoạm lấy cổ chân người tù nếu anh ta vi phạm nội quy, mà tội dễ bị phát hiện nhất là tội nói chuyện với xà lim bên cạnh.
Thế hệ ông tôi không biết đến loại cùm này. So với cùm gỗ lim thời phong kiến đó là sự cải tiến mà bản quyền thuộc về nền văn minh thuộc địa. Nó là một thanh sắt bản rộng nối với một thanh sắt khác bằng bản lề. Khi người tù đã tra hai cổ chân vào hai chỗ lõm rồi, cai ngục mới chốt lại bằng khóa ở bên ngoài. Cái cùm không có cỡ, dùng chung cho mọi loại chân. Anh bạn tù dí dỏm nói rằng trông nó hao hao cái cổng tam quan.
Vì cái cùm là biểu hiện quyền uy, cho nên cán bộ quản giáo khoái trưng nó ra lắm. Họ cũng chẳng ngần ngại dùng nó mỗi khi có dịp.
Quản giáo thường xuyên rình mò bên ngoài, người ở trong khó mà biết được. Tưởng quản giáo đi rồi, tù buồng nọ liền í ới gọi buồng kia, thế là bị bắt quả tang. Cách rình mò của đám quản giáo giống hệt trò trốn tìm của trẻ con - quản giáo vờ loẹt quẹt đi khỏi khu xà lim, rồi rón rén đi những bước chân mèo quay trở lại. Không phải chỉ có quản giáo rình mò, các ông bộ đội cũng rình mò. Tóm được một tên tù phạm nội quy để cùm chân nó cái chơi là thú vui của lính tráng coi tù.
Tôi chiến thắng lần thứ hai trong ngày tù đầu tiên, không để sót cọng rau nào. Chỉ có nước rau đen xì, quá mặn, là tôi bỏ. Những con mọt luộc không gây phiền nhiễu cho đường tiêu hóa, cả bèo tấm cũng vậy.
Huỳnh Ngự trả lại quần áo nhưng lại quên phát chăn chiếu. Anh bạn tù nói rằng đêm Noen, hơn nữa lại chủ nhật, thủ kho nghỉ. Tôi nghĩ khác : nếu đã có người để phát quần áo thì cũng có thể phát chăn chiếu chứ. Người ta không phát là vì kịch bản của vụ bắt đã ghi không phát, để cho tôi nếm cái rét Hỏa Lò.
Ðêm xà lim khó chịu nhất ở cái bóng điện sáng choang, có dễ tới 200 oát, treo ở chính giữa, bên trong rọ sắt. Nó sáng suốt đêm. Sau cái tranh tối tranh sáng ban ngày ngọn đèn chói chang làm cho mắt rất nhức nhối. Tôi lấy cái quần gấp lại che mắt nhưng ánh sáng vẫn luồn qua được mấy lần vải để chui vào võng mạc.
- Kệ nó, rồi quen tuốt ấy mà ! - từ phản bên anh tù nói vọng sang.
- Hồi mới vào đây anh có khó chịu lắm không ?
- Ai chẳng khó chịu. Chẳng ai muốn sống như thế này.
Anh bạn tù ngủ không cần che mắt. Ðể cho tôi đỡ rét, anh đưa cho tôi cái màn.
- Anh cứ dùng, đừng ngại. Mùa đông ở đây thảng hoặc mới có vài con muỗi mắt, tôi chịu được.
Tôi ngần ngại đắp cái màn lên người. Tôi lầm. Nó không hôi, nhưng cũng chẳng thơm tho.
Trong ánh sáng chói lòa những con muỗi chui sâu vào bên trong gậm phản ẩn nấp chờ thời. Những con choai choai thiếu kiên nhẫn xông lên đốt chúng tôi đều bị tiêu diệt nhanh chóng. Trên tường đầy vết máu khô, di tích cuộc chiến hàng ngày của tù với muỗi và rệp. Anh bạn nói tôi số đỏ, Hỏa Lò vừa mới được phun DDT vài ngày thì tôi vào. Một tháng nữa xem, thuốc hả rồi ấy à, muỗi lại bằng trấu, rệp lại nhung nhúc. Anh kể rệp khôn hơn muỗi nhiều. Khi người tù chống lại bằng cách trải nylon lên phản, chui vào màn rồi gấp chân màn lại nhiều lần cho rệp không chui vào được, tức thì chúng dùng cách nhảy dù từ trên trần xuống. Tôi tặc lưỡi, trùm cái màn lên người. Rồi mình sẽ quen, tôi nghĩ, nếu người khác quen được.
Lúc mới bước chân vào tôi không sao chịu nổi bầu không khí tù hãm đầy mùi xú uế trong xà lim. Thế mà mới có mấy giờ đồng hồ qua, tôi đã không còn thấy khó chịu như trước. Lúc mới vào cái im ắng trong khu xà lim đè nặng lên tôi, giờ tôi lại thấy nó thú vị - ở ngoài không phải lúc nào tôi cũng được yên tĩnh như thế.
Nói tóm lại, chịu được
Anh tù hóa ra không đến nỗi hà tiện lời như tôi tưởng. Dần dà anh cũng tâm sự với tôi chút ít. Anh cho biết anh tên Thành, hồi kháng chiến chống Pháp là bộ đội tình nguyện ở Thượng Lào.
Thấy tôi không có ý định cởi mở với anh, anh ngừng ngay những lời tâm sự. Nét mặt anh không vui. Biết làm thế nào được, cần phải quan sát anh cái đã. Tôi tin rằng chúng tôi ở cùng nhau cũng là một phương án của công an.
Tôi thao thức. Phản bên, anh bạn tù ngâm thơ :
Lần này chị bước sang ngang,
Là tan cả giấc mộng vàng từ đây.
Rượu hồng em uống cho say,
Vui lên cùng chị vài giây cuối cùng
Rồi đây sóng gió bão bùng,
Ðầy thuyền hận chị lo không tới bờ.
Miếu thiêng vụng kén người thờ
Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em.
Ðêm nay là trắng ba đêm,
Chị thương thân chị con chim lìa đàn.
Một vai gánh vác giang san,
Còn vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương.
Lòng sầu tóc rối tơ vương,
Em còn cho chị lược gương làm gì ?...
Trong tù tôi còn nhiều lần được nghe người ta ngâm Lỡ Bước Sang Ngang. Những vần thơ của Nguyễn Bính(1) không hiểu sao lại hợp với tâm trạng người tù đến thế ? Cũng là một thứ lỡ bước trong cuộc đời, mỗi người một cách, chắc vậy.
Mỗi người tù là một số phận riêng, chẳng số phận nào giống số phận nào. Mà chẳng phải người tù nào cũng có nỗi niềm oan ức. Hầu hết họ đều phạm tội đối với xã hội và họ đang bị sống cách ly, bị trừng phạt xứng với tội của họ. Họ có chung nỗi buồn của kẻ cô đơn, bị giam cầm trong cái chuồng thú giống cái chuồng của tôi và họ than thở nỗi mình qua những vần thơ Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính qua đời, theo người ta kể, vào đêm trừ tịch Bính Ngọ (1966) trong một hoàn cảnh bi thảm. Hàng xóm thấy mấy ngày ông không ra khỏi nhà, báo công an đến phá cửa vào thì thấy nhà thơ nằm chết còng queo bên chai rượu uống dở, trên manh chiếu rách. Cũng lại xóm giềng chung tiền mua cho ông cỗ ván mộc và cùng nhau đưa chân nhà thơ đã để lại một Lỡ bước sang ngang đến nơi an nghỉ cuối cùng. Hội Nhà văn chỉ được biết về cái chết của ông sau khi ông đã mồ yên mả đẹp.
Tôi không có hân hạnh quen biết Nguyễn Bính. Hồi Nguyễn Bính làm báo Trăm Hoa thì tôi đang ở Liên Xô. Tôi chỉ có hân hạnh quen Thiết Vũ, cán bộ Sở báo chí, người đã đánh Nguyễn Bính (theo nghĩa đen, thượng cẳng chân hạ cẳng tay). Trong một cơn yêu Ðảng ác tính, cho rằng Nguyễn Bính dám chửi xỏ Ðảng, Thiết Vũ đã nện Nguyễn Bính một trận dữ dội, đến nỗi các báo phải lên tiếng . Kể chuyện cũ Thiết Vũ tỏ ra ân hận(2), anh nói sau đó anh đã xin lỗi Nguyễn Bính.
Theo lời đồn, và theo những lời kể không rõ ràng trong Cát Bụi Chân Ai của Tô Hoài, Nguyễn Bính chết đi còn để lại đứa con trai. Trước hôm chết, ông bế con ra phố, cho không một người qua đường. Người xin chắc cũng chẳng biết người cho là Nguyễn Bính. Ðứa bé sẽ lớn lên với họ khác tên khác, không biết nó là con nhà thơ dân dã tuyệt vời, một nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam. Những thiên tài thường giàu linh cảm.Nguyễn Bính tiên đoán cuộc ra đi cuối cùng của ông sẽ diễn ra trong nỗi cô đơn bậc nhất mà con người có thể gặp :
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,
Một mình làm cả cuộc phân ly.
Tính từ ngày khởi đầu vụ đánh Nhân văn - Giai phẩm cho tới nay là sắp trọn một con giáp. Phải chăng lịch sử trận chiến hư cấu với những vết thương có thật đã đi được một vòng để quay lại với hình dạng khác ?
Trước ngày bị bắt không lâu tôi gặp Trần Dần(3). Anh giơ xe điếu dứ dứ vào mặt tôi mà phán :
- Này, cẩn thận đấy ông nhá ! Nhìn đây này !
Anh chỉ cái sẹo ở cổ, nó được Nguyễn Sáng ghi lại trên bức ký họa bút sắt trên tờ Nhân Văn, kỷ niệm một cuộc tự vẫn không thành.
Văn Cao(4) khó chịu với Trần Dần. Lý do : Trần Dần trong khi tự kiểm thảo đã đụng tới nhiều người, kéo họ vào cuộc với anh, làm cho họ điêu đứng.
- Thằng Dần tiếng thế mà không có gan. - Văn Cao nói - Mới bị đánh đã gục, đã phản tỉnh lung tung. Nó khai với Tố Hữu rằng Văn Cao khuyên tụi nó phục xuống mà đánh. Mà mình có nói thế bao giờ đâu. Mình chẳng chủ trương đánh ai. Thằng văn nghệ làm văn nghệ, thằng chính trị làm chính trị, mỗi thằng mỗi việc. Mình chỉ bảo tụi nó : làm gì thì làm, phải từ từ, phải ngó trước ngó sau. Ðâu có cái câu phục xuống mà đánh...
Văn Cao kể anh có gặp Nguyễn Hữu Ðang (5), Trần Dần, Hoàng Cầm, Trần Duy vài lần thật, nhưng chỉ bàn chuyện sáng tác, chuyện làm báo, không phải họp bàn chuyện chống lãnh đạo.
Qua những lần trò chuyện với Trần Dần, Trần Duy(6), và những người khác trong vụ Nhân văn - Giai phẩm, được nghe các anh kể về giai đoạn đen tối đối với văn nghệ sĩ và trí thức những năm 1956-1957, trong rất nhiều chi tiết rối rắm, bùng nhùng, cái thật cái giả, cái phải cái trái, lẫn lộn không biết đâu mà lần, tôi thấy nổi bật lên một điều - những nhà lãnh đạo của chúng ta rất giỏi xui nguyên giục bị. Sau trận đánh, hàng ngũ văn nghệ sĩ tan tác, người nọ sợ người kia, người này hận người khác, mọi người nói xấu nhau. Nghe mà buồn, mà ngán cho thế thái nhân tình.
Tôi tin Văn Cao, nhưng tôi không nghĩ Trần Dần hèn(7). Tôi biết chỉnh huấn là thế nào. Trong không khí chỉnh huấn, con người có thể bị biến đổi do tự kỷ ám thị trong một tập thể tự kỷ ám thị, như trong cuộc lên đồng. Trần Dần, khi tâm thần hoảng loạn, lại bị xúi giục, có thể bị ám thị rằng Văn Cao đã nói như thế. Còn Văn Cao, trong tâm trạng hậm hực cũng dễ hiểu nhầm bạn mình lắm.
Thỉnh thoảng lắm tôi mới rẽ vào thăm Trần Dần, vào nhanh rồi đi ngay. Anh cũng muốn thế, tôi ngồi lâu một chút là anh giục, sợ nguy hiểm cho tôi. Nhà cầm quyền nhìn anh như con bệnh suốt đời có khả năng gây ra lây nhiễm. Tôi thì lại không thấy ở anh bất kỳ sự nguy hiểm nào. Hồi mới ở Liên Xô về tôi thương Trần Dần, tôi nghĩ mình may mắn hơn anh. Bây giờ anh thương lại tôi, hóa ra anh còn may mắn hơn tôi. Dường như Trần Dần đã thấy trước, bằng trực giác, trận đòn thù tôi sẽ phải chịu.
Trần Dần ít nói (hay bị đánh nặng quá mà thành ít nói ?), có khi ngồi cả buổi với nhau anh chỉ nói vài câu tào lao. Nói cho đúng, nói thì vẫn nói, nhưng không bao giờ có chuyện về một đề tài cụ thể, mà là những mẩu độc thoại cần có hai người để thành đối thoại. Tôi nhớ một hôm anh thủ thỉ :"Này, mình cũng người Nam Ðịnh đấy, cậu ạ. Cái vùng đất thịt này nổi tiếng vì những văn tài và những kẻ bất phục. E rằng trong máu chúng ta có cả hai thứ." Anh hút thuốc lào liên tục, tiếng điếu bát ròn tanh tách vang trong căn phòng vắng lặng. Tôi tha hồ mầy mò những mẩu bản thảo vương vãi quanh cái điếu, lặng lẽ đọc, thỉnh thoảng lại giật mình bắt gặp một tia chớp chói lòa trong chữ nghĩa của anh. Nhưng dù anh rất quan tâm tới bộ cánh cho ý nghĩ của mình, tôi thấy những ý thơ của anh luôn luôn cảm thấy chật chội vướng víu trong những bộ cánh cách tân. Chia tay, anh hỏi tôi :"Cậu hiểu mình muốn nói gì chứ ?". Tôi gật đầu. Nhưng tôi chẳng hiểu gì trong những lời ngắn ngủi và lộn xộn của anh, câu trước không ăn nhập với câu sau, chưa nói hết mà đã tưởng nói hết rồi. Nếu anh muốn truyền tâm trạng anh sang tôi bằng ánh mắt của anh để tôi hiểu tâm trạng đó thì đúng là tôi đã hiểu. Tôi hiểu và tôi buồn. Buồn cho anh. Buồn cho tôi.
Trần Dần thương tôi, muốn tôi học được nết sợ hãi. Như anh đã học.
Thế hệ chúng tôi bất hạnh : chúng tôi ra đời trong thân phận nô lệ, lớn lên trong khói lửa chiến tranh và trưởng thành trong nỗi sợ hãi các đồng chí.
Tôi chạnh nghĩ đến cha tôi. Giờ này ông ở đâu ? Theo lời đồn thì ông bị giam trong một biệt thự đầy đủ tiện nghi tại Hà Nội. Tôi không tin. Lời đồn không thể kiểm chứng nọ chắc hẳn do một trung tâm có chỉ đạo tung ra. Cũng như trong những việc đồi bại khác, các nhà lãnh đạo vẫn thích chưng ra bộ mặt tử tế - các đồng chí tuy có sai lầm khuyết điểm thật, nhưng đều là người có công với cách mạng, cho nên cách đối xử với các đồng chí phải khác.
Tôi lo cha tôi đêm nay lại bị cơn đau gan dày vò. Bệnh gan là hậu quả những cơn sốt rét rừng mà ông kiếm được từ trại giam Sơn La của Pháp. Nhưng ông còn đau đớn hơn bởi sự đối xử tàn nhẫn của những đồng chí ngày hôm qua.
Dòng suy tưởng lan man dẫn tôi về năm 1949, khi tôi bắt đầu cuộc đời người lính. Khi ấy tôi chưa đủ mười sáu tuổi. Ðể được nhận vào bộ đội, tôi và mấy người bạn thân rủ nhau nhét đá vào túi quần cho đủ cân để vượt qua cuộc sát hạch. Súng sính trong bộ quân phục kaki mới tinh do mẹ may cho, tôi đứng vào hàng ngũ bộ đội, lòng tràn đầy tự hào. Cả trường đổ ra tiễn chúng tôi. Mẹ tôi, nước mắt lưng tròng, giúi cho tôi mấy đồng bạc phòng khi tôi cần đến. Sự săn sóc của mẹ làm tôi xấu hổ. Tôi vùng khỏi mẹ, chạy đi. Tôi đã là anh bộ đội cụ Hồ rồi mà mẹ còn coi tôi như bé bỏng lắm.
Chúng tôi hành quân theo đường Kim Tân, Kiểu, Bái Thượng, qua Nho Quan, giữa những đồi sim hoa tím của Hữu Loan(8), qua những rừng lau sậy của Trọng Hứa, bằng những bài thơ, bài hát của các anh :Bông lau ngập ven đồi. Ðây đồi xưa, đây rừng xưa in bóng cô nàng...Chiều ơi, lúc chiều về rực nắng nương khoai, trâu bò về giục mõ xa xôi, hỡi chiều...
Tôi nhớ chuyến đi gian nan vượt đường số 6, ở quãng giữa hai bốt Ðồng Bến và Ðồng Bái gần Lương Sơn. Lần đầu tôi giáp mặt với cái chết hiện hình trong những bộ xương người trắng hếu trong cỏ rậm mà những tên lính mới chúng tôi phải chúi vào đó để trốn đạn cối địch bắn cầm canh trong ánh hoàng hôn ảm đạm.
Tôi nhớ đêm vượt dốc Sống Trâu trên đường từ Khu 3 lên Việt Bắc trong mưa tầm tã, trong ánh chớp xé rách bóng tối dày đặc của rừng già. Chúng tôi chặt cây làm gậy chống, người nọ bám vào người kia mà đi, mà vẫn ngã oành oạch trên triền dốc dựng đứng. Lên được đến đỉnh rồi, bắt đầu đổ dốc thì tôi bị cảm lạnh. Run lẩy bẩy, tôi loạng choạng ngã sấp mặt vào bùn, sặc sụa. Tôi cứ nằm đấy, nhổ phì phì những vốc bùn lợm giọng, cố hết sức cất mình lên mà không nổi. Trên lưng tôi là cái ba lô sũng nước mưa, quanh bụng tôi là cả yến gạo chứa trong hai ruột tượng, kèm theo khẩu mút-cơ-tông(9) nặng chịch bám chặt vào vai. Bỗng có ai đó dừng lại bên tôi, cúi xuống tháo từng thứ trên người tôi, tháo hết, rồi vực tôi dậy. Tôi luống cuống bám chặt lấy người ấy. Khi trên người tôi không còn vật nặng nào, tôi thấy tôi nhẹ bỗng, nhẹ đến mức tưởng chừng trong khoảnh khắc đó, không còn gì giữ lại, tôi sẽ bay vụt lên trên bầu trời đen kịt. Một ánh chớp lóe lên, tôi nhìn thấy anh Môn, trung đội trưởng của tôi, đang ôm chặt tôi trong tay. Anh lấy khăn lau mặt cho tôi và dìu tôi đi, trên người anh chồng chất gấp đôi trọng lượng hàng ngày. Tôi xấu hổ vì sự kém cỏi của mình, tôi nằng nặc đòi anh trả tôi những thứ anh phải mang đỡ tôi, anh nhất định không nghe. "Cậu sốt bừng bừng rồi đây này, đừng gắng thêm nữa. Ðường ta đi còn dài".
Cuộc cách mạng này là cái gì vậy, khi người của nó không còn tình thương ? Chỉ cần thấy một đứa trẻ như tôi trong một đêm hành quân cực khổ vì cách mạng thôi người có lương tri không nỡ đối xử với nó thế này.
Một tiếng sấm nổ gần làm tôi giật mình. Thành bật dậy, mắt đỏ ngầu :
- Cái gì thế ?
Một tiếng sét tiếp theo làm màng nhĩ muốn rách. Trong những xà lim bên cạnh những người tù cũng đồng loạt tỉnh giấc. Tiếng ho húng hắng. Tiếng người thì thào. Tiếng nước tiểu chảy vào bô.
Lắng nghe, tôi biết mình lầm. Bên ngoài xà lim có ai đó đang đập rầm rầm vào những tấm tôn, như thể giận dữ ném chúng xuống nền xi măng. Những tiếng động vang dội bên trong những bức tường xà lim làm chúng tôi tưởng là sấm sét.
Tiếng động chát chúa vừa lặng đi thì lại đến tiếng béc-giê tru lên từng hồi. Thì ra có một con chó được thả vào khu này. Nó lồng lộn đòi ra. Mọi lối ra đều đóng, nó nhảy chồm chồm lên những tấm tôn xếp nghiêng ngoài sân.
- Quái lạ, sao họ lại thả chó vào đây nhỉ ?
Thành ngồi hẳn dậy, lẩm bẩm. Anh chậm chạp vê rất lâu một điếu thuốc lào.
Con chó lại tru lên một hồi dài, như tổ tiên nó từng tru như thế trong những rừng thẳm nguyên khai. Tôi biết chắc đó là một con béc-giê. Những năm lâu rồi, khi gia đình tôi còn ở phố Nhà Rượu, đêm đêm tôi vẫn nghe tiếng những con béc-giê tru lên từng hồi như thế từ những chuồng sắt cũi sắt của Nhà thương Chó ở đầu Lò Ðúc.
- Buổi chiều nghe có tiếng người ta xếp gì loảng xoảng bên ngoài mình đã nghi nghi - Thành nói - Mình nghĩ : xưởng thợ còn rộng chán, họ xếp nguyên liệu vào đây làm gì ? Lúc đi cung ông có thấy gì ngoài sân không ?
- Tôi không để ý.
- Lúc về cũng không ?
Tôi gật đầu.
Chúng tôi không ngủ lại được. Thành hút thuốc lào. Ðiếu thuốc đầu tiên sau giấc ngủ làm anh say dúi dụi. Tôi sợ anh ngã xuống sàn nhưng anh chỉ đảo đồng đảo địa một hồi rồi tỉnh.
- Hôm nay ông đi cung chắc có chuyện không bình thường ?
- Là thế nào ?
- Có căng không ?
- Cũng như mọi khi.
- Không xảy ra cãi cọ gì ?
Tôi không muốn kể cho Thành nghe chuyện tôi làm cho Huỳnh Ngự tức tối. Nhưng tôi cũng không muốn nói dối.
- Nói cho đúng, cũng không được êm dịu cho lắm.
- Thế thì hiểu rồi. - Thành cười - Con chó được đưa vào đây là có tính toán cả đấy, ông bạn ạ. Cả những tấm tôn nữa. Người ta chơi ông đâm ra chơi luôn tụi tôi, tệ quá !
Tôi cười gằn :
- Tệ gì ? Chó má ấy thì có !
- Thây kệ, nghĩ làm đếch gì ! - Thành dùng hai tay vuốt râu như tín đồ đạo Hồi - Coi như chuyện vặt đi. Ông biết chơi cờ không ?
Tôi lắc đầu. Về cái khoản cờ bạc tôi đặc cán mai. Tôi không biết chơi bất cứ thứ gì. Của đáng tội, hồi còn nhỏ tôi có biết chơi tam cúc. Nhưng tam cúc không được coi là bài bạc. Trẻ con nhà quê đứa nào mà không biết chơi tam cúc. Những ngày Tết trẻ con có tiền mừng tuổi, chúng chơi tam cúc để tập làm người lớn. Người lớn quê tôi mê đủ mọi thứ bài bạc, từ xóc đĩa cho tới tổ tôm. Nhất là cánh lái gỗ. Rời quê hương lên rừng làm thuê, giàu lên thì mở lối, trở thành lái. Những ông lái gỗ làm nhà trên bè, tài sản cóp nhặt được trong nhiều năm, đánh tổ tôm tài bàn suốt con đường lênh đênh về xuôi, đánh cho tới nhẵn túi, cho tới khi trở thành anh chân sào cho một lái khác, trên con bè trước kia là của mình.
Thành ngáp trẹo quai hàm, nói :
- Ngày tù nhiều khi dài ơi là dài. Rồi tôi sẽ dạy ông chơi cờ cho khuây khỏa. ông mới vào chưa biết chứ sống trong xà lim nhiều lúc mệt lắm. Phát điên lên được. Chơi cờ cũng vợi đi được một phần. Nhưng chơi một mình thì chán...
Con chó lại tru lên. Nó chỉ ngừng từng lát khi quá mệt.
Tôi định bụng hôm sau tôi sẽ phản kháng chuyện này. Họ muốn hành tôi thì cứ việc hành, nhưng không được làm khổ lây người khác.
- Họ cũng đã chơi anh thế này ? - tôi hỏi.
- Không phải y như thế. Họ có nhiều bài bản. Với mỗi người mỗi khác. - Thành lửng lơ - Mình cứ phải tỉnh táo, tùy cơ mà ứng biến. Ðã ở trong tay người ta rồi nhất cử nhất động đều phải cân nhắc. Cũng chẳng nên gây sự với họ làm gì...
Cứ rỉ rả như thế, Thành cho tôi rất nhiều kiến thức bổ ích cho đời tù của tôi sau này.
- Ðã nói gì thì cứ thế mà nói, trước sao sau vậy, kẻo họ hành cho tới số đấy. Lại nữa, nói về mình thì lỡ miệng còn được - mình làm mình chịu. Lỡ lời làm hại người khác thì ân hận cả đời. Trong một vụ án người ta chú trọng nhất cái anh đầu vụ. Với người có liên quan họ nhẹ nhàng thôi. Cũng có khi không bẻ gãy được người đầu vụ, họ đôn người khác lên thay...
Thành nằm xuống. Lát sau tôi đã nghe anh ngáy khe khẽ. Con chó vẫn cứ thế, thỉnh thoảng nó lại tru lên một hồi, giọng mỗi lúc một yếu. Nó thấm mệt, nó tuyệt vọng, hay là chúng tôi đã quen với nỗi tuyệt vọng của nó, tôi không rõ.
Tôi tập trung tư tưởng vào một điểm trong hư vô, cố tách mình khỏi những ý nghĩ vẩn vơ, thở đều đều theo phương pháp khí công.

(1) (1918-1966) Nhà thơ dân dã rất nổi tiếng với các tập Lỡ Bước Sang Ngang, Hương Cố Nhân, Mười Hai Bến Nước... Ðoạn người tù ngâm có khác với nguyên bản của nhà thơ.
(2) Trong cuốn Cát Bụi Chân Ai Tô Hoài có nói tới việc tờ Trăm Hoa của Nguyễn Bính được mua giấy do Nhà nước cung cấp, khiến người đọc nghĩ rằng tờ Trăm Hoa là do Ðảng Lao dộng Việt Nam chủ trương, mà Nguyễn Bính là người thực hiện, để đối phó với phong trào đòi tự do, dân chủ của văn nghệ sĩ, trí thức hồi ấy. Tôi cho rằng không phải. Nếu Nguyễn Bính làm báo theo chỉ thị của Ðảng thì ở Sở Báo chí những cán bộ cỡ Thiết Vũ phải được biết, và như thế vụ Thiết Vũ đánh Nguyễn Bính khó có thể xảy ra. Trong những lần gặp Thiết Vũ tôi không thấy Thiết Vũ nói đến một chuyện như vậy.
(3) (1926-1996) Nhà thơ cách tân, tác giả tập thơ Ta Nhất Ðịnh Thắng, tiểu thuyết Người Người Lớp Lớp, một trong những nhân vật bị coi là đứng đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm.
(4) Nhạc sĩ, nhà thơ, họa sĩ nổi tiếng (1923-1995), tác giả Tiến Quân Ca, một bài hát rất phổ biến trong những ngày nổ ra cuộc Cách mạng Tháng Tám, được chủ tịch Hồ Chí Minh đề xuất và Quốc Hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chọn làm quốc ca. Sinh thời ông bị chính quyền bạc đãi vì những tư tưởng tự do, dân chủ.
(5) Nguyễn Hữu Ðang (1913), tham gia cách mạng năm 1929, năm 1930 bị bắt, ra tòa năm 1931, nhưng vì nhỏ tuổi nên chỉ bị quản thúc. Tham gia Mặt trận Dân chủ Ðông Dương, viết báo Ngày Mới, Thời Báo và các báo Tin Tức, Ðời Nay do Ðảng Cộng sản Ðông Dương chỉ đạo, tham gia Hội truyền bá quốc ngữ cùng Võ Nguyên Giáp, Ðặng Thai Mai. Ðảng viên cộng sản từ năm 1943, năm 1945 là thứ trưởng Bộ Thanh niên. Năm 1956 bị kết án 15 năm tù. Mãn hạn, còn bị quản thúc 20 năm.
(6) Nhà thơ Trần Dần, nhà thơ Hoàng Cầm, họa sĩ Trần Duy là mấy nhân vật được nói tới nhiều nhất trong vụ Nhân văn - Giai phẩm. Trần Dần được coi như người đứng đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm, người phát ngôn của bộ phận trí thức đòi chia quyền lãnh đạo với Ðảng.
(7) Theo một số nhân chứng, Trần Dần là người không biết sợ, Trần Dần không hèn. Câu phục xuống mà đánh là do Hoàng Cầm phát ra, nhưng Trần Dần đã "gánh" cho Hoàng Cầm.
(8) Nhà thơ, rất nổi tiếng với bài "Màu tím hoa sim".
(9) Súng trường Pháp.

ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 7- 12 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 13-22 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 23-35 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 36-41 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY Thay Lời Cuối -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


Đêm Giữa Ban Ngày đã hình thành như thế nào updated by Vũ Thư Hiên, Mar. 3, 2018


* *
*

.

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...