. .

Sunday, July 19, 2009

HỒI KÝ của một Thằng Hèn - TÔ HẢI

TÔ HẢI



HỒI KÝ của một Thằng Hèn





MỤC LỤC


1. Đôi lời phi lộ viết ... sau cùng/ 3
2. Vì sao tôi viết hồi ký /5
3. Tuổi ấu thơ/ 10
4. Mười năm đèn sách – Học văn hoá Tây để…đánh Tây / 18
5. Bước ngoặt định mệnh /29
6. Từ một người lính làm nhạc /37
7. Cuộc phiêu lưu văn nghệ bắt đầu /43
8. Những năm tháng không hoà bình /60
9. Cuộc phiêu lưu giữa sa mạc gió Lào /77
10. Sự trả giá quá đắt cho những vinh quang cay đắng/ 86
11. Cuộc chiến chống Mỹ /104
12. Bắt đầu và kết thúc một cuộc chiến... thảm bại /121
13. Văn nghệ thời “Đổi mới” /151
14. Không thể chết... trong im lặng /153
15. Tôi đã hết hèn /158
16. Vĩ thanh 2006 /173
17. Vì sao tôi vào Đảng, vì sao tôi chuồn khỏi Đảng? /175
18. Cuộc đời tủi nhục của tên bồi bút / 185
19. Bi hài kịch vào Đảng ra Đảng: 5 năm đóng kịch và dối trá/ 188

* * *
Phần 2 : HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN (part 2)
Phần 3 : HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN (part 3) (và tải file trọn cuốn Hồi Ký ở cuối trang này)

Chương 1.

ĐÔI ĐIỀU PHI LỘ VIẾT... SAU CÙNG

Tập “Hồi ký” này tôi đã viết xong từ năm 2000, nhưng do... hèn, tôi đã không dám cho nó ra mắt bạn đọc. Vâng, do... hèn, chứ chẳng phải do cái gì khác, tôi đã giấu nó đi, lại còn cẩn thận ghi thêm một dòng ở ngoài bìa “Để xuất bản vào năm 2010”.

Như một lời di chúc dặn vợ con, khi tôi đã... chết!

Tới năm 2003, mang bản thảo ra đọc lại, thấy ngòi bút của mình sao vẫn còn rụt rè, vẫn còn lấp lửng. Mới biết mình vẫn còn chưa hết sợ sức mạnh tàn bạo của nền “chuyên chính vô sản” mà mình từng nếm trải. Nhất là sợ rồi đây vợ con mình sẽ phải chịu đựng những đòn thù bẩn thỉu của bầy dã thú đội lốt người, nếu chẳng may những gì mình viết ra rơi vào tay chúng.

Tôi thấy mình cần phải sửa lại cuốn sách – từ cách viết, từ cái nhìn chưa đủ tinh tường về những sự kiện lịch sử – và viết thêm về những con người cần được nhắc tới, mỗi người là một mảnh gương nhỏ, nhưng gộp lại người đọc có thể thấy hình ảnh một thời đại.

Và viết thêm một chương “TÔI ĐÃ HẾT HÈN”!

Nhưng đã đến chưa, cái thời cơ có thể đưa cuốn sách mà tôi ấp ủ bấy lâu ra trình diện người đọc? Vẫn còn chưa phải lúc chăng? Ngẫm ra, tuy viết là “Tôi đã hết hèn”, nhng trong thực tế cái hèn vẫn còn đó, nó vẫn bám chằng chằng, như một bộ phận của cơ thể, cái sự mình khẳng định với mình rằng đã hết hèn mới chỉ là sự mạnh dạn với bản thân khi cầm bút mà thôi!

Còn đấu tranh trực diện với cái sức mạnh tăm tối đang cai trị đất nước, kìm hãm sự phát triển của cả một dân tộc là chuyện khác, không phải là điều ai cũng dám làm!

Đặc biệt, ba bốn năm gần đây tôi may mắn có điều kiện làm quen với Internet, nhờ đó mà được tiếp cận với rất nhiều người mà tôi vô cùng cảm phục. Dù đang sống ở trong nước, họ không hề sợ hãi trước đàn áp, ngục tù.

Đó là những Hoàng Minh Chính[1], Trần Độ[2], Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu. Bùi Minh Quốc, những Hoàng Tiến, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Thanh Giang, Vũ Cao Quận [3]... Đó là những nhà sư, những linh mục thà chết không chịu đứng chung hàng với lũ tu sĩ “quốc doanh”, và nhiều, rất nhiều người khác nữa!

Cũng không thể không nói đến ảnh hưởng của hàng chục website cổ võ dân chủ trên khắp thế giới, cũng như những gì bạn bè tôi, đồng đội, “đồng chí” cũ của tôi như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên đã phải bỏ nước, bỏ cả vợ con ra đi để được viết lên Sự Thật, mở mắt cho bao người còn đang sống hèn như tôi. Không có những cái đó thì nhân dân còn tiếp tục bị lừa dối bởi lũ bồi bút cho đến nay vẫn ra rả ca tụng một chủ nghĩa đã lỗi thời với cả nhân loại.

Tôi cũng mong sao mỗi người trong các văn nghệ sĩ sắp giã từ cõi đời nhầy nhụa này hãy để lại một “bản di chúc” nói lên Sự Thật, dù chỉ là 1/1000 Sự Thật, để tạ tội với đồng bào, về những gì mình đã vì miếng cơm manh áo, vì yếu hèn mà phải cúi đầu làm thân trâu ngựa. Được như Ba Người Khác của Tô Hoài[4] cũng đã là tốt, làm được thế thì người viết cũng có thể được nhân dân “xá tội” cho phần nào.

Người đọc đang chờ xem “di cảo” của một Chế Lan Viên[5], một Nguyễn Đình Thi[6] – hai nhân vật đứng đầu bầy nô lệ cầm bút. Đáng ngạc nhiên là theo Nguyễn Đình Chính (con trai Nguyễn Đình Thi) thì cuốn hồi ký của Nguyễn Đình Thi sẽ chỉ được phép công bố vào năm... 2014?!

Sao lại lâu đến thế? Nguyễn Đình Chính vẫn còn sợ, còn tính toán thiệt hơn, còn bắt linh hồn người cha ở thế giới bên kia tiếp tục đóng kịch mãi sao? Hay là chính tác giả cuốn hồi ký doạ sẽ in năm 2014 vẫn còn chƣa tin là chủ nghĩa cộng sản đã đến ngày tuyệt diệt?

Tôi sẽ phải đưa vào chương sẽ viết những nhận thức mới, tình cảm mới, những sự kiện bổ sung dưới ánh sáng mới, một chương gần như tóm tắt tất cả những gì tôi đã viết vào lúc chưa có được sự tiếp xúc và tiếp sức của phong trào đòi tự do, dân chủ, đòi quyền con người đang ào ào dâng lên mỗi giờ, mỗi ngày trong cái xã hội độc tài đảng trị đáng nguyền rủa.

Viết xong chương bổ sung cần thiết, tôi sẽ công bố cuốn hồi ký của đời mình trên mạng Internet toàn cầu để mọi người nếu đã biết rồi sẽ biết thêm về mặt trái với những góc khuất của một xã hội tồi tệ được sơn son thếp vàng bởi một lũ bồi bút hèn hạ, trong đó, than ôi, có cả bàn tay của kẻ viết những dòng này.

Tại sao lại phải công bố trên Internet?

Bởi vì không thể trông chờ sự xuất hiện của một nhà xuất bản tư nhân nhờ “ơn trên” nào đó sẽ ra đời trong một cuộc đổi mới giả hiệu, và tập hồi ký này sẽ được in. Trong cái quái thai “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhưng vẫn độc tài với tự do tư tưởng, với nhân quyền tối thiểu, chuyện đó quyết không thể xảy ra.

Thật tình, tôi những ước mong lời nhắn gửi của tôi sẽ đến tay đồng bào, bè bạn, đồng đội, “đồng chí” cũ của tôi, những thế hệ sau tôi, kể cả “kẻ thù” của tôi nữa, trong dạng một cuốn sách bằng giấy trắng mực đen hơn là một cuốn sách trên màn hình máy tính. Mạng thông tin toàn cầu cho tới nay vẫn còn là một cái gì xa lạ với tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam, kể cả nhiều người gọi là có học nhưng đã về già, không còn sức để đọc mấy trăm trang trên computer!

Cuối cùng, xin người đọc, nhất là các bậc thức giả, hãy lượng thứ cho những thiếu sót, những nhầm lẫn ở chỗ này chỗ khác về tên tuổi, địa danh, ngày, tháng... mà một cây bút “trẻ” ở tuổi 80, tài vốn hèn, sức đã kiệt, có thể mắc phải.

Sài Gòn ngày 1 tháng 5 năm 2007




[1] Hoàng Minh Chính, tên thật Trần Ngọc Nghiêm (1920–2008), từng giữ các chức vụ Phó chủ nhiệm Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin. Bị khai trừ khỏi ĐCS năm 1968 trong vụ “Nhóm "xét lại chống đảng". Những chú thích cần thiết để bạn đọc hiểu thêm về nhân vật được nhắc đến là của nhà xuất bản.

[2] Trần Độ (1923–2002), nhà văn, trung tướng, từng giữ các chức vụ phó chủ tịch Quốc Hội VNDCCH, trưởng ban Văn hoá Văn nghệ ĐCSVN kiêm thứ trưởng Bộ Văn Hóa. Về cuối đời, bị khai trừ khỏi ĐCS vì đấu tranh cho dân chủ hoá đất nước.

[3] Những người trong nước đấu tranh cho dân chủ được biết đến nhiều.

[4] Tô Hoài (1920), nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, O Chuột, Truyện Tây Bắc…

[5] Chế Lan Viên (1920–1989), tên thật Phạm Ngọc Hoan, nhà thơ nổi tiếng với những tập thơ Điêu Tàn, Ánh Sáng và Phù Sa...

[6] Nguyễn Đình Thi (1924–2003), một nghệ sĩ đa tài, nhà văn nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhạc sĩ sáng tác, có nhiều tác phẩm trong mọi lĩnh vực.



Chương 2.

VÌ SAO TÔI VIẾT HỒI KÝ?

Khi người ta bắt tay vào viết hồi ký, ấy là lúc mọi khát vọng sáng tạo đã cạn, mọi ham mê, hoài bão đã tắt, và thần chết đã cầm lưỡi hái hiện trước cửa sổ... ”

Câu mở đầu đó, nếu tôi không nhầm, là của George Sand[1] mà tôi đã đọc, đã thương cảm và đã tự nhủ rằng rồi đây chính mình cũng sẽ phải để lại cho đời ít dòng nói thật khi bước vào tuổi 70, nếu như cái chết lãng nhách không đến bất chợt!

Biết đâu đấy, rồi đây lịch sử sẽ có thêm được một số chi tiết trong “tội ác diệt văn hóa” của nhà cầm quyền Việt Nam trong một thời gian dài trên nửa thế kỷ nhờ những chứng liệu đợc ghi trong hồi ký của một kẻ từng làm thứ văn nghệ gọi là “vì Đảng vì dân” trong suốt đời mình.

Hãy nhìn lại lịch sử văn học nghệ thuật ở miền Bắc Việt Nam mà xem. Một lỗ hổng lớn!
Đúng vậy!

Hậu thế sẽ thắc mắc: làm sao mà từ năm 1945 đến đầu thế kỷ 21, nhân tài đất Việt ở miền Bắc Việt Nam – một thứ Đàng Ngoài của lịch sử lặp lại – ít ỏi đến thế?

Tác phẩm của họ đâu rồi, ngoài lèo tèo mấy bài thơ của Hữu Loan[2], Trần Dần[3], Phùng Quán[4]...? Chẳng có một tiểu thuyết, một đoạn văn nào đáng được trích giảng trong các trường từ tiểu, trung đến đại học hay sao? Vậy mà trong suốt thời kỳ đất nước ta nằm dưới “sự lãnh đạo vô cùng sáng suốt” và “duy nhất đúng đắn” của những tên “xuất thân thành phần cơ bản”, trình độ học thức ở mức “đánh vần được chữ quốc ngữ”, các văn nghệ sĩ công chức ở nơi này vẫn đƣợc nhà cầm quyền trao tặng “Giải thưởng Nhà Nước”, “Giải thưởng Hồ Chí Minh” và đủ thứ bằng khen giấy khen, được trang trọng lồng kính treo kín những bức tƣờng phòng khách! Thử hỏi những tác phẩm được khen nức khen nở ấy giờ đâu rồi?

Té ra tất cả đã bị lịch sử xếp xó.

Hơn thế nữa, những tác giả được Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa khen hàng loạt nọ trong thực tế còn là những kẻ bán rẻ lương tâm đã lợi dụng các loại hình văn nghệ để ca ngợi những điều bất nhân, bất nghĩa bị cả nhân loại phỉ nhổ: khuyến khích con đấu cha, vợ tố chồng; hô hào kích động ngƣời cùng một nước chém giết lẫn nhau; ra sức ngợi ca những tên sát nhân khét tiếng như Stalin[5], Mao Trạch Đông[6]… thậm chí, còn quỳ gối khấu đầu tạ ơn những tên đao phủ và cái tổ chức tội ác là “Đảng đã cho ta một mùa xuân”[7], dạy những đứa trẻ bập bẹ biết nói: “tiếng đầu lòng con gọi Stalin!”[8] Nhục nhã thay cho những kẻ cam tâm bợ đít, luồn trôn kẻ giết cha mình!

Vậy mà cho tới cuối thế kỷ 20 vẫn còn những kẻ u mê cứ tưởng các “tác phẩm” tuyên truyền cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn, cho hận thù dân tộc, cho đấu tranh giai cấp của chúng là giá trị lắm!

Cứ xem chúng tâng bốc nhau, nịnh bợ nhau, bôi xấu nhau, kiện cáo nhau, để được nhận cái… vết nhơ một thời làm lính văn nghệ của Đảng thì thấy.

Không thể nín nhịn mãi, nhân dịp ngƣời ta tổ chức mừng sinh nhật 70 tuổi của tôi để ghi công những năm làm nô bộc của tôi, tôi đã công khai phủ nhận tuốt tuột những gì tôi gọi là “tranh cổ động bằng âm thanh” trên Tivi Sài Gòn. Tôi kiên quyết không cho phát lại những gì tôi được nhà cầm quyền ngợi khen suốt quá trình sáng tác. Để nhắc đến những tác phẩm của tôi, tôi chỉ đồng ý lên một chương trình do chính tôi soạn thảo và đặt tên. Nó gồm những tiếng nói của trái tim bị cấm đoán, bị lên án, thậm chí bị trù dập suốt nửa thế kỷ.[9]


Sau hết, dựa vào thời cơ “Đổi Mới”, nhờ những bạn bè đồng tình với tôi và còn giữ được một số quyền hành cuối cùng trước khi về hưu, chương trình Nửa Trái Tim Tôi của Tô Hải đã ra mắt trọn một tiếng đồng hồ với toàn những “tác phẩm bỏ tủ lạnh”, với những lời tuyên bố gây “sốc” mạnh trong giới làm nhạc ăn lương.

Những đồng nghiệp thực sự có tài và có tâm sự giống tôi thì hài lòng. Số này, khi trả lời phỏng vấn, cũng chỉ dám nhận một cách khiêm tốn con số ít ỏi những gì mình làm ra xứng đáng được gọi là tác phẩm.

Còn số khác, những “nhạc sĩ” bám chặt thành tích 500, 1000 bài hát ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác, động viên con em ra chiến trường hiện còn tiếp tục lải nhải kể công với Đảng để xin “tí tiền còm” nhân danh giải này giải nọ thì tự ái, nổi khùng,

Họ gọi tôi là “tên phản động”.

Trả lời những câu hỏi của báo chí hoặc truyền thanh, truyền hình tôi luôn nhắc lại nguyên lý bất diệt của nghệ thuật: “Chỉ những gì từ trái tim mới đến được trái tim”! Nhưng trái tim của tôi, hỡi ôi, gần một thế kỷ qua lại không đập vì...tôi! Nó bị trói buộc, bị cưỡng bức phải đập vì những cái xa lạ với tôi: vì Đảng, vì hai cuộc chiến, vì những tín điều nhập khẩu từ các nước cộng sản Nga, Tầu.

May thay, thời thế rồi cũng đổi thay.

Liên Xô, “quê hương của cách mạng vô sản toàn thế giới”, “ngọn đuốc soi đường cho nhân loại” sụp đổ cái rụp. Thần tượng Marx, Lénine, Stalin gần 70 năm được tôn thờ hơn cả Chúa Trời bị đập tan!

Đọc hồi ký, di bút của các văn nghệ sĩ vĩ đại của mọi thời đại như Beethoven, Modigliani, Rubinstein, Stravinsky, Liszt[10]... hay của các nhà chính trị như De Gaulle, Khrutchev, Nixon [11] ... càng thấy cái cao thượng của họ bao nhiêu càng thấy cái bẩn thỉu, thấp hèn của các nhà “chính chọe” (politicaillerie) bấy nhiêu.

Biết bao tên tuổi lớn đã chịu sự hắt hủi, lên án, thậm chí săn đuổi, cách ly của một thể chế, của tập đoàn nắm quyền lực, kể cả bị lên án là “phản bội” đã để lại cho chúng ta các tác phẩm ghi lại những gì họ suy ngẫm qua những trải nghiệm trong cuộc đời, những buồn đau, khổ cực, những chịu đựng ghê gớm cả về vật chất lẫn tinh thần để tồn tại, để tìm tòi và sáng tạo.

Trong khi đó, hồi ký của các “lãnh tụ cách mạng” chỉ là những cuốn sách nhăng cuội, viết ra cốt tự đề cao mình một lần cuối, để giải thích (chống chế thì đúng hơn) cho những hành động sai lầm, để đổ tội cho người khác về những thất bại mang tính lịch sử mà kẻ viết hồi ký chính là tội phạm.

Vậy thì, tôi, Tô Hải, một cái tên được nhiều người biết đến ở cái thời “âm nhạc phục vụ công nông binh”, ở cái thời mà âm nhạc, nếu không làm đúng yêu cầu của Đảng là lập tức bị bọn “quan văn nghệ” lên án là “mất lập trường”, là “cá nhân tiểu tư sản”, thậm chí là “âm nhạc phản động”, có gì để mà hồi với chẳng ký?

Bánh xe lịch sử quay với tốc độ kinh hoàng đã cuốn phăng những “tác phẩm”, và cả những tác giả của chúng từng đoạt giải thưởng này huân chương nọ – lại than ôi, có cả tôi trong đó!

Lẽ công bằng chậm chạp cho đến nay đã phục hồi một cách rụt rè (không cần một quyết định hành chính nào hết) những tác phẩm và những tác giả một thời bị đoạ đầy, bị cấm đoán. Cuộc Đổi Mới, thực tế là trở lại như cũ, những quan niệm về cái đẹp đã cho những “tên tuổi lớn” một thời trong mọi lãnh vực quân sự, chính trị, văn học, nghệ thuật những cái tát tỉnh người!

Trong “cơn đau cuối đời”, một số cựu uỷ viên trung ương đảng không còn chỗ ngồi ghé trong các ban chấp hành mới, mấy ông tướng bị cho ra rìa, ngồi chơi xơi nước hoặc bị khai trừ khỏi đảng vì bất tuân thượng lệnh, đã tỉnh ngộ. Kinh nghiệm một đời theo Đảng đã cho họ cái để viết nên những trang “sám hối” có phần nào giá trị. Họ phải trả giá cho sự dám nhìn lại cuộc đời bằng con mắt khách quan và tỉnh táo bằng sự trừng trị tương đối nhẹ nhàng so với người đối kháng khác: bị giam lỏng tại nhà, bị cắt điện thoại, tịch thu computer...


Trong khi đó – tôi xin nhắc lại – mấy anh văn nghệ sĩ mơ ngủ vẫn còn xúm đông xúm đỏ chen lấn nhau để giành bằng được mấy cái giải thưởng cho những tác phẩm mà con cháu ngày nay chẳng còn coi là cái giống gì. Ấy là chưa kể những kẻ chẳng bao giờ góp mặt trong nền văn nghệ, kể cả văn nghệ “phục vụ cách mạng”, nhân dịp này dịp khác cũng được nhà nước vô sản hào phóng ban thưởng về “sáng tác”!

Một bức tranh cười ra nước mắt.

Riêng tôi, khi chẳng còn lao động nghệ thuật được nữa (đúng hơn là không còn muốn lao động nghệ thuật nữa) bỗng dưng lại được cái Nhà Nước công nông binh tặng cho cái “Huân Chương Lao Động Hạng Nhất”.

Và khi không còn sáng tác nữa (đúng ra là không muốn sáng tác nữa) thì lại được ngƣời ta treo lên cổ cái mề-đay “Giải thưởng Nhà Nước”! Sướng chưa?

Tội nghiệp cho mấy anh Văn Chung[12], Nguyễn Đình Phúc[13], Lê Yên[14], Vũ Trọng Hối[15], Trần Ngọc Xương[16]... chẳng còn sống ở trên đời để mà hưởng cái Giải thưởng Nhà Nước nọ. Nói thêm chút cho vui: cái giải thưởng này quy ra tiền thì cũng được gần bằng một phần mười giải thưởng tặng cho hoa hậu đấy. Mà để làm hoa hậu thì cần quái gì phải có học.

Bi kịch hay hài kịch đây?

Dù sao thì cái giải thưởng đáng giá hai năm lương hưu của tôi cũng là món tiền thêm vào cho hai năm tôi ngồi viết những trang tiếc nuối cuộc đời mà các bạn đang cầm trong tay. Không có nó tôi đành ôm cả núi ân hận mà về với đất.

Không có nó thì biết lấy gì ăn để mà viết? Cho nên tôi cũng thấy cần phải ghi lại ở đây “lời tri ân” đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi viết nên những dòng hồi ký này

Thế là, với sức tàn còn lại, tôi bắt đầu...

Những hình ảnh đầu tiên đến với tôi rõ nét nhất chính là những thời gian, không gian, sự kiện và những con người đã mang lại cho tôi những cảm xúc, những niềm vui và nỗi buồn.

Trong đầu tôi tràn ngập hồi ức đòi được thoát ra. Vì thế trong khi viết, tôi luôn phải cố gắng sao cho khỏi lạc “chủ đề tư tưởng” (cách nói méo mó trong ngôn từ văn nghệ cộng sản). Và trước hết, tôi phải đè bẹp được sự “hèn nhát” trong tôi, là cái đã bén rễ sâu chặt trong một thời gian quá dài sống trong lồng kín, cách ly bầu trời tự do.

Tôi sẽ viết để bạn bè, con cháu hiểu và thông cảm với nỗi đau của những ngƣời cả cuộc đời phải sống và làm việc với cái đầu và trái tim của tên nô lệ.

Tôi tình nguyện làm một trong những người vạch trần những bộ mặt chính trị dỏm, văn nghệ dỏm, những tên cơ hội, đã cản trở, giết chết tác phẩm, đẩy những tài năng vào hố sâu quên lãng.

Đáng buồn là những chuyện được giấu kín đó, tôi đều được biết, thậm chí còn được tham dự các kế hoạch hại người (được gọi là kiểm điểm, học tập, thu hoạch... ) ngay từ khi chúng mới được phác hoạ, trong suốt quá trình tôi ở cương vị cấp uỷ, lãnh đạo chỉ đạo nghệ thuật.

Để bảo vệ chỗ đứng của mình, tôi đã không dám cãi lại những lời chửi rủa bố tôi là đồ “phản động”, mẹ tôi là “Việt gian”, họ hàng nhà tôi là “tay sai đế quốc”!

Vậy thì làm sao tôi dám bảo vệ cho một Đoàn Phú Tứ là không phản bội, một Phạm Duy[17] là không phải “dinh tê” chỉ vì không chịu được gian khổ”?

Tôi đã chọn con đường cúi đầu nín lặng mặc dù tôi biết rõ nguyên nhân vì sao ông cậu Đoàn Phú Tứ[18] của tôi phải về Thành, biết rõ không ai không sợ chết mà lại dám một mình vác đàn, nhịn đói vượt U Bò, Ba Rền vào chiến trường Bình Trị Thiên ác liệt nhất để viết nên Bà Mẹ Gio Linh, Về Miền Trung như Phạm Duy.

Tôi đã là thế đấy.


Những âm mưu hạ tiện đó, tôi không phải không biết. Trái lại, tôi hiểu ra ngay từ lúc chúng mới được bàn bạc trong “nội bộ”. Lòng tôi chống lại thủ đoạn hại người, nhưng miệng tôi lại không dám nói ra.

Nỗi bất bình bị dồn nén ám ảnh tôi suốt mấy chục năm trời. Dần dà, nó biến tôi thành một núi mâu thuẫn. Mặc dầu tôi tự nguyện dồn nén, miệng núi lửa kia thỉnh thoảng lại bục ra. Những phản ứng không kìm được xảy ra ngày một nhiều. Thế là chúng được các công bộc mẫn cán của Đảng ghi lại bằng giấy trắng mực đen trong lý lịch đảng viên của tôi, kèm theo nhận xét “không có ý thức bảo vệ Đảng”, hay “phát ngôn vô trách nhiệm”. Tôi mang tội “không có ý thức bảo vệ Đảng” chẳng qua vì tôi không chịu bảo vệ Đảng và những đảng viên có chức có quyền làm những điều sai trái.

Ngay cả với trưởng ban Tổ Chức Trung ương Lê Đức Thọ[19] quyền sinh quyền sát là thế mà tôi cũng dám nói thẳng mặt: “Tại sao khi những người nhân danh Đảng làm bậy, chúng tôi phê phán họ thì lại bị ghép vào tội chống Đảng, chống chủ nghĩa cộng sản? Tại sao lẽ phải bao giờ cũng thuộc về họ, mặc dầu họ không có một xu kiến thức để đối thoại với chúng tôi?”

Đó chỉ là một trong những “cú liều” đem lại cho tôi nhiều thiệt thòi, cay đắng.

Với những “cú liều” này, bạn bè bảo: “Tô Hải là thằng “có bản lãnh”. Những người cũng nghĩ như tôi nhưng biết giữ mồm giữ miệng thì khoái lắm, vì đã có Tô Hải nói thay mình! Số còn chức còn quyền nhưng không đến nỗi tồi tệ quá thì cố tìm cách “hãm phanh” tôi lại để các “anh trên” đỡ vì đau đầu mà phạng lung tung.

Còn tôi, ở cái tuổi ngoài 70, chẳng còn gì để mất, lại được sự cổ vũ của số lớn bạn bè, tôi cứ “nổ” khi có điều kiện.

Cũng có người cho rằng tôi “dại” có cỡ, có kẻ nhắc là “cẩn thận kẻo vào tù!”

Nhưng tôi đã quyết: 55 năm miệng bị lắp khoá kéo, giờ đây đã già, đã về hưu, có muốn chia sẻ với bạn đọc những hồi ức của đời mình thì cũng chẳng còn phải e ngại những lời ong tiếng ve rằng mình vì tư lợi, muốn kiếm chác cái gì.

Còn về Đảng ư? Tôi đã cóc cần nó từ khuya rồi và hết sức vinh dự được trở lại hàng ngũ nhân dân đang bị một nhóm người bắt sống cuộc sống trại lính, ăn gì, mặc gì, xem gì, đọc gì, thậm chí chết kiểu gì cũng đều do họ quy định và cho phép!

Tôi đã nói và sẽ nói, nói tất, nói với bạn bè, với người thân, với con cháu, chắt, chút, chít những gì mà bộ não ông già 70 còn ghi nhớ được về cái thời tưởng mình là một cánh đại bàng bay bổng giữa trời.

Nhưng, than ôi! Gần hết cuộc đời, tôi vẫn chỉ là “con đại bàng... cánh cụt”, chạy lè tè trên mặt đất mà vẫn vấp ngã đến gãy mỏ, trụi lông.

Hi vọng rằng sau khi đọc hồi ký này người đọc sẽ thương cảm cho tôi, cho các bạn tôi, những người ngây thơ, tội nghiệp, cả cuộc đời bị lừa dối và đi dối lừa người khác một cách vô ý thức.

Biết đâu chẳng có ngày đất nước này hoàn toàn “đổi mới” thật sự, hồi ký này sẽ được in ra để làm tài liệu lưu trữ về một thời cay đắng và tủi nhục nhất trong lịch sử Việt Nam. Và, may ra, lạy trời, những “đại bàng cánh cụt” chúng tôi sẽ được nhắc tới, như những chứng nhân lịch sử.

Nhưng, “vừa là tội đồ vừa là tòng phạm” làm sao những con đại bàng cánh cụt kia có thể bay cao, bay xa?

Thôi thì xin làm con sói của Alfred de Vigny[20], con bói cá của Musset[21] tru lên tiếng rú cuối cùng, phanh ngực, xé lòng, hiến cho lịch sử một mẩu trái tim, một mẩu trí óc, một chút hơi tàn của thân xác.

Với niềm tin vô bờ bến rằng ngày tàn của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam đã đến rất gần, dù có chậm hơn ở các nước bậc cha ông, anh cả, anh hai đến vài ba thập kỷ, niềm tin ấy vẫn cháy bỏng trong tôi thúc giục tôi vứt bỏ mọi sợ hãi, mọi hèn kém để ngồi vào computer.

Tôi bắt đầu...





[1] George Sand, tên thật Amantine Lucile Aurore Dupin (1804–1876), nhà văn Pháp.

[2] Hữu Loan (1914), nhà thơ, nổi tiếng với bài Màu Tím Hoa Sim.

[3] Trần Dần (1926–1997), nhà thơ, nhà văn, một trong số người đứng đầu phong trào văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác Nhân Văn Giai Phẩm.

[4] Phùng Quán (1932–1995), nhà văn trong Nhân Văn Giai Phẩm.

[5] Iosif Vissarionovich Stalin (1878–1953), tổng bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô từ 1922 đến 1953, kiêm chủ tịch hội đồng bộ trưởng, đại nguyên soái tổng tư lệnh quân đội Liên Xô.

[6] Mao Trạch Đông (1893–1976), chủ tịch Đảng Cộng Sản Trung Quốc từ 1943 cho đến khi qua đời.

[7] Phạm Tuyên (1930), con ruột nhà văn hoá lớn Phạm Quỳnh bị Việt Minh sát hại năm 1945.

[8] Thơ của Tố Hữu (1920–2002), nhà thơ cộng sản, người nắm vai trò lãnh đạo nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

[9] Xem VCD “To Hai – Grandeur et servitude” – Tác giả chú thích.

[10] Ludwig van Beethoven, nhạc sĩ vĩ đại, người Đức (1771–1827); Amedeo Modigliani (1884–1929) nhạc sĩ người Do Thái, ra đời ở Ý; Arthur Rubinstein (1887–1082) nhạc sĩ dương cầm lừng danh mọi thời đại; Igor Stravinsky, người Nga (1882–1971) nhạc sĩ, được coi như nhà cách mạng trong âm nhạc; Franz Liszt, người Hungary (1811– 1886), nhạc sĩ dương cầm tài danh, đồng thời sáng tác nhạc tôn giáo nổi tiếng.

[11] Chính khách Pháp, Nga, Mỹ thời cận đại.

[12] Nhạc sĩ Văn Chung, tên thật Mai Văn Chung (1914–1984) thuộc thế hệ đầu của nền tân nhạc Việt Nam, tác giả của những nhạc phẩm nổi tiếng Bóng ai qua thềm, Trên thuyền hoa...

[13] Nguyễn Đình Phúc (1919–2001) là một nhạc sĩ, hoạ sĩ và nhà thơ, nổi tiếng với những ca khúc Cô lái đò, Lời du tử
(trước 1945), Chiến sĩ Sông Lô, Quân tiên phong, Bình ca, Tiếng đàn bầu...

[14] Lê Yên (1917–1998), nhạc sĩ thời kỳ tiền chiến, nổi tiếng với các ca khúc Bẽ Bàng, Xuân Nghệ Sĩ Hành Khúc, Ngựa Phi Đường Xa…

[15] Vũ Trọng Hối, nhạc sĩ, hoạt động âm nhạc từ những năm Kháng chiến chống Pháp tại Liên Khu III, hàm đại tá.

[16] Nhạc sĩ, sáng tác trong kháng chiến chống Pháp tại Liên khu 3.

[17] Phạm Duy, tên thật Phạm Duy Cẩn (1919), nhạc sĩ nổi tiếng với rất nhiều tác phẩm được thính giả mến mộ.

[18] Đoàn Phú Tứ ( ?–1989), nhà văn, dịch giả.

[19] Lê Đức Thọ (1911–1990), biệt hiệu Sáu Búa, từng giữ nhiều chức vụ lớn nhất trong bộ máy cầm quyền của ĐCSVN, nổi tiếng là người có bàn tay sắt trong sự cai trị.

[20] Alfred Victor de Vigny (1797–1863), nhà văn, nhà soạn kịch Pháp.

[21] Alfred Louis Charles de Musset–Pathay (1810–1857), nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Pháp.


Chương 3.

TUỔI ẤU THƠ

Người ta thường nói: “Mở mắt chào đời” hoặc “Cất ba tiếng khóc chào đời”. Trường hợp tôi ra đời thì ngược lại! Tôi đã...“nhắm mắt chào đời” và...cười sằng sặc khi ra khỏi bụng mẹ!

Chuyện bịa?

Không! Thật trăm phần trăm.

Mẹ tôi kể lại tôi ra đời không bình thường. Con “đường ra” đúng là “ra...khỏi bụng”! Tôi vì to con quá (gần 4 kí-lô), mà lại là con đầu lòng, nên người ta phải mổ để “bứng” ra sau cơn trở dạ của mẹ tôi kéo dài hơn mười tiếng đồng hồ!
Tôi ra đời “mắt nhắm nghiền, miệng phát ra tiếng sằng sặc như tiếng cười”, có lẽ do bị nghẹt thở, chứ không phải tiếng khóc!

Hơn thế nữa, miệng tôi lại có sẵn hai cái răng cửa!

Tiếng cười ở cái miệng có sẵn răng cửa của một thai nhi trở thành công dân Anamít ngày 24 Septembre 1927 sau này được họ nhà Tô bảo rằng tôi đã cất tiếng “cười ngạo nghễ chào đời!” Hai cái răng này mãi 4 năm sau mới chịu rụng để tôi bị mang hai tiếng “Hải sún”! Khi răng mọc hai cái mới, vừa to vừa dài khác thường thì tôi lại bị đổi tên thành “Hải hô”, “Hải mỡ” vì tôi to béo cũng quá khổ. Những năm sau này, người nào yêu tôi thì gọi là “răng duyên”, người ghét tôi thì gọi là “răng nhai”, “răng đớp”.

Tôi được cứu sống nhờ những cú phát thật mạnh vào mông mới chịu cất tiếng khóc. Phải chăng đó là điềm gở vì kể từ lúc trở thành “công dân của xứ bảo hộ Bắc Kỳ” cho tới sau này, tôi luôn bị “ăn đòn” mới sáng mắt, mới chịu khóc! Thằng quỷ sứ là tôi ra đời đúng 5 giờ 10 phút tại nhà thương hàng Đồng, Hà Nội và ra đời như vậy đó!

Tờ khai sinh bằng tiếng Tây gọi là Acte de naissance với các mục ngày sinh, tháng đẻ, tên cha, tên mẹ, tuốt tuột đều bằng tiếng Pháp, tôi còn giữ một bản trong ba lô mãi những năm đã thành anh Vệ Quốc Quân. Chính cái tờ khai sinh nửa Tây, nửa ta này một lần đã làm tôi suýt mất mạng vì mang nó trong ba lô và bị những người có tinh thần cảnh giác cách mạng cao phát hiện, tưởng là truyền đơn tiếng Pháp. Cũng may là trong đám kiểm tra hành trang của tôi trước lúc vượt đường số 5 lại có một ông chỉ huy nguyên là đội khố xanh biết nó là loại giấy gì. Nếu không, tôi đã bị mấy ông nông dân răng đen cho đi “tầu suốt” như những cô gái, những ông già bị chết oan uổng vì chạy tản cư ngày đầu kháng chiến lại mang theo cả “livret scolaire”– học bạ, mặc áo, đi tất có ba màu xanh-trắng-đỏ: cờ Pháp!

Tôi nhớ rõ tham mưu trưởng chiến khu III Vũ Hiển lúc ấy đã nói “Thà giết lầm 10 ngƣời còn hơn để lọt một tên Việt gian”! Tất nhiên, ông tham mưu trưởng của tôi không phải là người sáng tạo ra cái khẩu hiệu ghê rợn đó. Ông chỉ nhắc lại lời các lãnh tụ của ông mà thôi. Đó là cái rùng mình đầu tiên trong ngàn vạn cái rùng mình sau này suốt quá trình tôi đi theo cách mạng!

Trở lại chuyện tôi ra đời, to như Tây, khai sinh nửa Tây nửa ta, và nghe kể lại, khi đón tôi về nhà có cả kèn bú-dích[1], vì nhà tôi ở phố Bảo Khánh đang inh ỏi tiếng kèn đón ông vua con Bảo Đại[2] ra Bắc Kỳ du hành quanh hồ Hoàn Kiếm!

Bản nhạc đầu đời tôi được nghe, như thế, là một bản kèn Tây do lính ta thổi, có mặt cụ Đinh Ngọc Liên[3] nổi tiếng sau này và ông Tây Camille Parmentier chỉ huy!

Chẳng hiểu bố tôi có quá đề cao thằng quí tử không khi đã hơn một lần khoe với bạn bè: “Thằng Hải nhà tôi nó có “bông-gu”[4] âm nhạc từ lúc mới đẻ! Cứ nghe nhạc bên nhà kèn nổi lên là nó khóc ré đòi bế đi nghe!”

Môi trường âm nhạc đầu đời này còn ảnh hưởng mãi trong tôi từ lúc nằm nôi cho tới khi biết ê a tiếng hát. Đó là nhờ bên phải nhà tôi có Nhà Thờ Lớn, bên trái có ki-ốt hoà nhạc hàng tuần của dàn nhạc harmonique quân đội, đằng sau là phố hàng Trống với tiếng bung, bung, cắc, cắc ... của những bác thợ sản xuất trống, cứ gõ đều đều không nghỉ từ sớm tinh mơ đến tận chiều tối.


Sự ra đời của tôi không được bà nội tôi (ông nội đã mất trước khi có cháu) và họ hàng hoan nghênh. Ít người thăm hỏi. Tất cả chỉ do lời dèm pha: “Thằng Hoàn, con Nhung (tên bố mẹ tôi) sinh ra quái thai”

Chả là bố tôi đã có vợ và một con trai ở quê, kết quả của một vụ tảo hôn nghe đâu kéo dài hơn 10 năm, từ khi bố tôi mới lên 8. Rồi bố tôi trốn khỏi thôn Thượng Phúc, xã Đại Hoàng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình để làm con nuôi một ông cậu ruột, bố đẻ của ông Nguyễn Hữu Trí, tổng trấn Bắc phần Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất 1945–1954. Gia đình ông cậu “thối không chịu được”, theo cách nhìn của bố tôi. Chính vì vậy, bố tôi đã mang trong đầu tư tưởng ghét Pháp từ rất sớm, nhất là ghét những người vào làng Tây!

Mãi sau này, lúc bà nội tôi qua đời, tôi mới được chứng kiến cái “thối” ấy nó ra sao. Đưa ma bà có đủ Tây trắng, Tây đen, Tây lai và rất đông con cháu...Tầu nữa. Thì ra ông cậu ruột của bố tôi, khi làm tham tá đầu toà đã lấy một bà vợ Tây. Bà này có con với một ông thống sứ chết trận cát-tó đít-duýt! (1914–1918) nên ông nuôi luôn con ông thống sứ (tôi phải gọi là chú Albert), thêm cả đứa con của ông thống sứ “nhặt” được ở Marốc mà tôi chỉ gặp một lần nhưng vẫn nhớ tên là Mahomed. Ông tham và bà vợ cũng như mấy ngƣời con đều giữ tên ta nhưng vào làng Tây, hàng ngày nói chuyện với nhau toàn bằng tiếng Tây. Còn họ hàng người Tầu là do bà nội tôi có bà em ruột lấy một ông xì thẩu chính gốc Quảng Đông. Bố tôi hay chửi cái thói nô lệ Tây nhưng ông cũng tự thấy sở dĩ ông nói được tiếng Tây như Tây chính là nhờ những năm tháng nửa làm cháu, nửa làm gia sư, nửa làm đầy tớ ở nhà ông cậu ruột “đờ-mi Tây” này. Tuy nhiên, về tình cảm họ hàng rõ ràng ông yêu cái phía họ hàng Tầu hơn họ hàng Tây rất nhiều.

Với cái nhìn hôm nay, bố tôi đúng là sản phẩm của một nền văn hoá tả pí lù. Đỗ đíp-lôm xong, được bổ nhiệm tại nhà Dây Thép[5] Hà Nội là ông làm ngay cuộc cách mạng đầu tiên: Không báo cáo gì với bà nội tôi, ông lẳng lặng làm lễ thành hôn với mẹ tôi, một cô đỡ Đông Dương (sage femme Indochinoise) khoá đầu tiên. Hậu quả của hành động vượt ra ngoài khuôn phép là ông phải chịu sự ruồng bỏ của họ hàng, của mẹ đẻ.

Khi tôi lên mƣời, bà nội tôi mới chịu ra thăm con, thăm cháu và đúng dịp hoà thuận với con cháu ấy, cụ đã từ trần ngay tại nhà đứa con trai độc nhất là bố tôi.

Tôi rất ít được sự săn sóc của cha mẹ vì cả hai đều là công chức, đi làm suốt ngày. Tối, mẹ tôi còn phải “gác”, chưa kể những ca đẻ khó, “bà đốc” bị gọi bất kể giờ nào. Bố tôi thì là một tín đồ của chủ nghĩa yêu nước, yêu dân tộc... không định hướng! Ông rất coi trọng các giá trị văn hoá dân tộc, coi trọng mọi lễ nghi truyền thống. Do được học và đọc khá nhiều, ông rất hiểu cái nhục mất nước. Tuy nhiên, ông không tin bất cứ tổ chức chính trị nào. Tôi còn nhớ khi biết ông bác ruột, Tô Đình Hoè, “làm cộng sản”, viết báo Le Travail[6], ông đã tiên đoán: “Cộng sản là cái mà thằng Tây ghét nhất! Rồi đi Côn Lôn cho mà coi!” Quả như thế! Bác Hoè tôi bị bắt và bị đưa đi đâu không biết! Tới ngày Cách Mạng Tháng Tám, bác trở về thành người mất trí sau nhiều năm nằm cát-xô[7] ở các nhà lao Sơn La, Côn Đảo. Và bố tôi, cho tới mãi sau này vẫn phàn nàn: “Chẳng có đảng nào xứng đáng để đi theo cả!” Ông là cả một khối mâu thuẫn lớn. Buổi trưa, ông mặc áo the thâm, đầu đội khăn xếp, xì xụp một bước tiến hai bước lùi trước bàn thờ tổ, dạy tôi cách khấn vái, thắp nhang. Buổi tối, ông mặc bộ đồ Tây do Charles Mau's – Chu Mậu cắt, đeo cà vạt Nicky, xức nước hoa Lanthéric đi nhảy đầm!

Ông cũng là một “nhạc công toàn diện” về nhạc cụ dân tộc. Trên tường phòng khách nhà tôi là cả một bộ sưu tập về đàn tranh, đàn nguyệt, đàn tứ, sáo, tiêu, nhị, hồ... cái nào cũng khảm sà cừ, lủng lẳng cái tua đỏ. Ông có thể ngồi rung đùi chơi tất cả mọi nhạc cụ đó. Có lẽ tôi mê nhất là cây đàn một dây mà ông chỉ gảy một tiếng rồi nắn ra không biết bao nhiêu nốt. Những lúc ấy, ngồi bên ông, tôi trố mắt ngạc nhiên rồi cười thích thú, thỉnh thoảng lại đưa tay bịt ngay dây đàn để ông nổi cáu mắng yêu: “Yên nào, để bố đánh cho mà nghe”!

Khiếu âm nhạc của tôi thực sự phát triển khi một hôm, bố tôi thuê xe kéo, chở về một máy hát quay tay cùng một đống đĩa nhựa, to, nhỏ. Tôi chỉ mong chóng đến tối vì cơm nước xong là bố tôi thường mở máy hát.

Ôi, cái tiếng hát qua diagphrame nheo nhéo tiếng kim sắt lúc bấy giờ, hấp dẫn tôi làm sao! Có điều bố tôi mua quá nhiều đĩa cải lương, một món hoàn toàn không hợp khẩu vị tôi tí nào. Đã thế, vở nào cũng dài năm sáu đĩa! Nào là Tội Của Ai, Xử Án Bàng Quí Phi, Huyền Châu Nữ ... với các giọng ca Năm Phỉ, Tư Chơi, Tư Út, Tư Anh, Năm Sang, Bảy Nhiêu... mà tôi rất ngán. Tôi chỉ mong nó chóng hết cho rồi, để bố tôi cho “ăn xen” mấy món “Dè-đơ-dà-múa”

(J'ai deux amours), “Actuya” (Arthur), “Cằng-tông” (Quand on est matelot)[8]... Những lúc ấy, có ai rủ đi chơi, tôi cũng không thể rời cái máy Bê Ka (Béka) tuyệt vời đó.

Cho đến một hôm, trong một bưu kiện từ Pháp gửi đến – bố tôi thường đặt mua theo các cuốn mẫu hàng – có một chồng đĩa hát thật to, loại 78 vòng/phút. Một thế giới âm nhạc hoàn toàn mới lạ đã mở ra trước mắt tôi. Đó là các bài hát tiếng Pháp của Rina Ketty, của Joséphine Barker, Tino Rossi [9], các bản độc tấu, hòa tấu của các nhạc sĩ lừng danh Schubert, Beethoven, Chopin, Liszt, Strauss [10]... Khả năng của cái máy quay tay lúc ấy chỉ có thể đọc những đĩa 78 và tôi được làm quen ngay từ tuổi lên 5, lên 7 các tiểu phẩm ngắn hoặc trích đoạn ouverture, rhapsodie của các tác giả cổ điển mà tôi sớm thuộc lòng. Một tác phẩm lớn duy nhất thu trong hai đĩa 78 có đến gần 50cm đường kính cũng về với chuyến hàng này. Đó là bản “giao hưởng chưa hoàn thành” của Franz Schubert. Tôi chỉ thấy bố tôi đặt lên máy một lần duy nhất. Tôi giương tròn mắt lắng tai nghe, nhưng sao thấy nó dài quá, khó nghe quá và...chán quá! Thời ấy,
bố tôi có lẽ cũng “nghe nói” người ta đã thu thanh Symphonie Inachevée[11] vào đĩa nên ông đặt luôn để tỏ ra mình trí thức hay để cố tìm hiểu một tác phẩm mà ông đã nghe nói, đã đọc đâu đó mà chưa có dịp tìm hiểu, tôi không rõ.

Tuy nhiên, điều rõ ràng là dù trân trọng nó như thế, sau khi lau chùi bằng tấm vải flanelle màu vàng, ông đã xếp nó vào tủ sách, cạnh những Horace, Les Misérables, Comédie Humaine, Polyeucte, Le Cid [12]... để chẳng nghe thêm lần nào nữa.

Tôi cũng chẳng thích thú gì những thứ khó hiểu đó. Đỉnh cao âm nhạc của tôi lúc ấy là Rêve d'Amour của Litz, Sérénata của Toselli, Menuet của Boccherini, Sérénade của Schubert, Tristesse của Chopin ...

Tôi thuộc lòng những giai điệu tuyệt vời này ngay từ khi chưa biết chữ. Tôi bắt đầu thấy ớn những “bài ta theo điệu Tây” cũng như những đĩa hát của Năm Châu, Phùng Há[13]…Những rung động do âm nhạc tạo ra cho tôi chính là những vốn cổ nước ngoài! Còn lại, tôi chỉ mong sao bố tôi sớm chán mà xếp nó vào tủ cho đỡ khổ tai. Nhưng ông thì không. Ông vẫn say mê vốn cổ dân tộc cũng như tỏ ra thời thượng bằng những tác phẩm ngắn của các tác giả cổ điển, những bài hát đang thịnh hành ở Châu Âu.

Ông còn làm tôi ngượng chín người với những lần mời các danh ca vọng cổ Phùng Há, Tư Chơi, Bảy Nhiêu về nhà tổ chức các buổi ca hát thính phòng, trong đó ông cũng là một cây đàn hoà tấu. Với hình ảnh nhếch nhác của các đoàn cải lương mà tôi chứng kiến từ trên gác nhà tôi (lúc ấy dọn về Khâm Thiên nhìn ngay sang rạp hát Phúc Thắng), tôi không chịu nổi chuyện bố tôi giao du với loại “xướng ca vô loài”, ăn chung ở đụng, thuốc xái, cờ bạc, văng tục ngay dưới chân tôi. Mẹ tôi không bao giờ có mặt ở các buổi liên hoan văn nghệ kiểu ấy. Bà có ấn tượng về “bọn con hát” còn nặng nề hơn tôi. Bà thường nói xa nói gần: “Cẩn thận kẻo rồi bán nhà, bán cửa, bỏ vợ, bỏ con đi theo chúng nó cho mà xem!”. Mâu thuẫn về cái “Hay” cái “Đẹp” nảy sinh ngay trong tập thể nhỏ bé là gia đình tôi để sau này ở các cuộc tranh luận về nghệ thuật tôi luôn khẳng định: “Áp đặt một cái Hay chung cho mọi người là điều không tưởng!”, “Bắt cả nước chỉ được sáng tác và thưởng thức một kiểu, ăn một món, là ngu xuẩn!”

Tôi sẽ kể về những bi hài kịch “văn nghệ phục vụ công nông binh” sau này mà trong đó, tôi là một “tội phạm, đồng phạm kiêm nạn nhân” ở các chương sau...

Trở lại với gia đình tôi.

Bố tôi, dù gì đi nữa đã là người khai tâm cho tôi về thẩm mỹ. Nhưng tôi đã không tiếp thu tất cả vốn hiểu biết của ông. Ông là người mê âm nhạc, nhưng âm nhạc cổ truyền với ông là chủ yếu. Âm nhạc thế giới với ông chỉ là thời thượng (snobisme). Sau này, tôi còn tiếc mãi giá mà biết say mê tiếng đàn bầu, tìm được cái hay cái đẹp trong những điệu hò Huế, điệu lý..., học ở ông cách “kim cổ giao duyên” từ sớm thì tốt biết mấy. Tôi chỉ mê nhạc cổ điển phương Tây, những bài hát bằng tiếng Tây, dù chẳng hiểu nội dung. Những giai điệu đẹp vô cùng của nó đã rung động tâm hồn nhỏ bé của tôi tới mức tôi như mê mẩn.

Tôi vui, tôi buồn và không ít lần, tôi khóc. Khóc khi tự tay mình vẽ những câu nhạc “si, đô, rê, đô, rê, đô, rê, đô, rê”...trong bản Menuet của Beethoven trên cây mandoline. Ôi! Chỉ có hai nốt “đô, rê” nhắc đi nhắc lại rồi đổ xuống cái kết nửa “la son son fa fa la son mi rề”...đã gợi trong tôi biết bao nỗi buồn, cho tôi biết bao tưởng tượng. Một chiều mưa rả rích?...Những bước chân lê trên đường?...Một nỗi cô đơn, lạnh lùng đến vô tận?...


Sao mà âm nhạc có sức truyền cảm mãnh liệt, thần kỳ đến thế! Chẳng cần có lời! Chẳng biết nó ra đời ở đâu! Chẳng biết do ai sáng tác! Lúc ấy làm sao tôi đọc nổi tên các nhạc sĩ Đức, Pháp, Ý. Và sau này, tôi càng khẳng định: Âm nhạc chỉ có Hay và Dở. Chẳng có âm nhạc địch, âm nhạc ta, âm nhạc có lập trường, âm nhạc mất lập trường nào hết.

Tất cả nhận thức đầu đời này té ra vẫn là chân lý!

Những gì tôi tiếp thu được từ tấm bé trong gia đình về âm nhạc còn phải kể đến cái tập thể nho nhỏ ở “nhà dưới”. Nó gồm anh bếp Tý, anh xe[14] Lạc, vú Hải, vú Hiền, vú Bích và sau này đến vú Nga thì... nông dân không còn ở “nhà dưới” của gia đình tôi nữa! Lý do: Cách mạng đã nổ ra và kiếp đi ở chấm dứt.

Do bố mẹ tôi quanh năm ngày đi làm, tối tiệc tùng, và sau này bố tôi còn rơi vào con đường “xoa” thín cẩu[15], mẹ tôi rời nhà thương lại vui hội tổ tôm nên mọi việc trong nhà đều do một nửa tiểu đội người ở đảm nhiệm. Chính các bà vú già, anh bếp, anh xe, vú Hiền, vú Bích (mẹ tôi cứ đẻ xòn xòn vì đẻ xong đã có người nuôi) là những người gần gũi nhất đối với anh em tôi. Nhiều người trong số họ đã để lại cho tôi những ấn tượng khó quên, tạo cho tôi những rung động đầu đời trong lãnh vực “văn nghệ bình dân”. Người tôi nhớ nhất là anh bếp Tý, chủ nhiệm “câu lạc bộ âm nhạc bình dân” mà trụ sở là cái bếp nhà tôi, rộng độ 20 mét vuông, có tường và nền lát gạch men trắng toát. Ở đấy, cứ tối đến, khi bố mẹ tôi vắng nhà, cả đám ngƣời ở từ quê ra lại họp nhau trao đổi tâm tình. Tôi không thể quên những chuyện tiếu lâm “tục mà thanh” của anh bếp Tý. Nó gây cười cho cử toạ đến sặc sụa và người kể đôi khi bị mấy bà vú thưởng cho một cái phát nhẹ kèm theo câu: “Khỉ gió cái anh này!”

Anh chỉ cười, nhe đôi hàm răng vẩu và dặn tôi lúc ấy đã 6, 7 tuổi: “Đừng có kể cho ông bà nghe nhé!” Tôi phục nhất cái tài bắt chước mèo đực, mèo cái đánh tiếng gọi nhau, gặp nhau rồi gào lên như sắp phát điên. Từ cổ họng anh, phát ra các tần số âm thanh, âm lượng, sắc thái, tình cảm lúc ngập ngừng, do dự, lúc mãnh liệt, sấn sổ, lúc nhẹ nhàng, êm dịu, lúc bốc lửa, dồn rập để đi tới cao trào!

Sau này, khi học nhạc chính quy, để hình dung được p, mp, sf, conagitato, con fuoco, crescendo, decrescen-do, smorzando, rit, rall, poco a poco.. tôi thường nghĩ đến bài học của anh bếp Tý! Ôi, giá mà anh biết tôi vất vả thế nào khi đánh vật với bài học âm nhạc của ông thầy dòng, thầy Bích: “Moderato là chậm vừa? Allegreto là nhanh vừa? Allegro là nhanh? Vivace là hết sức nhanh?”Nhanh thế nào? Vừa thế nào? Có lẽ chỉ anh bếp Tý là người thực hiện mà chẳng cần học hành ba cái tiếng Ý càng dịch, càng giải thích, càng tối mù và xám xịt lý thuyết!

Trở lại với cái “câu lạc bộ bình dân” ở nhà tôi.

Chính từ đó mà tôi sớm làm quen với đủ thứ “bình dân” hay có, dở có. Từ những câu đố tục mà thanh, thanh mà tục, những truyện tiếu lâm hoàn toàn có mục đích gây cười, từ tiếu lâm đả kích đến những bài hát ví, hát chèo “người thật việc thật” (vừa hát vừa diễn), những điệu “sẩm soan”, “hề gậy” mà anh bếp Tý vừa hát vừa dùng đũa cả gõ lách cách, leng keng vào chiếc nồi rang. Sau này, khi được chính ông Năm Ngũ, bà cả Tam[16] truyền dạy, các bài Sẩm soan, Hề gậy đã “vào” tôi không mấy khó khăn vì tôi từng bắt chước anh bếp Tý hát thử, gõ thử: “Gió cát trăng lân cái đêm đông trường...” từ thuở còn thơ rồi.

Chính những con người cụ thể, hát những điệu dân ca cụ thể đã làm tôi nhớ hơn, tác động vào tâm hồn tôi gấp nhiều lần những đĩa hát phát ra từ cái diaphrame (thời ấy máy chưa có loa) lạnh lùng. Nhưng khắc đậm nhất trong tôi mãi tới bây giờ chính là không khí giao hoà, không khí tâm đầu ý hợp, thương yêu nhau giữa những người cùng cảnh ngộ. Chính từ nơi ấy, tôi đã chứng kiến rất sớm một cuộc tình mà tôi cho là đẹp nhất, chân thật và trong sáng nhất, hợp lý nhất. Đó là cuộc tình giữa anh bếp Tý và vú Bích! Cả hai “cây văn nghệ” bình dân này đã “phải lòng nhau” ở cái câu lạc bộ nhà bếp nói trên.

Nó bắt dầu ra sao? Thế nào? Từ bao giờ?

Tôi không biết, vì chỉ biết họ “phải lòng” nhau qua một cuộc trao đổi giữa bố mẹ tôi mà tôi nghe được! Mẹ tôi: “Phải tống cổ cả hai đứa. Để chúng nó ở lại, có ngày ễnh ruột ra thì mang tiếng nhà mình”.


Bố tôi: “Nhưng đã bắt được chúng nó “trai trên gái dưới” gì đâu mà đuổi chúng nó cơ chứ? Con bé (em Bích tôi) đang quấn vú nó, thằng Tý thì thật khó kiếm ai thay. Nó tháo vát, khéo xoay xở, đổi món ăn, lo cho cả trên mười miệng chỉ loáng một cái là xong. Đừng làm thế, tội hắn!”

Mẹ tôi: “Ai ở nhà mà biết chúng nó làm gì nhau? Làm sao tránh khỏi chứ? Mấy hôm nay con bé (em Bích tôi) bắt đầu diarrhée (ỉa chảy) rồi đó! Không thể để nó bú sữa con này được nữa đâu”.

Ngay ngày hôm sau, khi đi học trường sơ về, vừa tới cổng, tôi thấy vú Bích, tay ôm mấy bộ quần áo gói bằng một tờ nhật trình, nước mắt lưng tròng, đi ngược lại phía tôi. Vú cúi ôm lấy tôi, hôn vào hai má tôi, nói trong tiếng nấc: “Cậu Hải ở lại nhé! Tôi về quê đây, bà đuổi tôi rồi!”

Tôi thấy thương vú quá nhưng chẳng biết nói gì, vội chạy vào nhà cầm một trong số 4, 5 con búp bê để trên kệ đi- văng, đuổi theo vú: “Này, của em Hải cho vú đấy, vú mang về cho bé vú ở nhà quê”. Vú vội vàng gạt tay, giẫy nảy: “Ấy chết! Chớ làm thế! Bà biết được, cậu chết đòn đấy”! Rồi vú lủi thủi, gạt nước mắt bước đi.

Cái bóng dáng người đàn bà nhỏ bé, chậm chạp lê bước trên hè phố, đầu cúi gầm bỗng làm tôi trào nước mắt. Tôi chẳng hiểu đây là thứ xúc cảm gì? Tôi đâu biết nước mắt của vú là nước mắt của một cuộc tình tan vỡ? Hay là sự oan uổng? Là nỗi đau khổ, sợ hãi trước một tương lai mờ mịt.

Tôi thương người đàn bà nghèo, chồng bỏ đi Tân Thế Giới, gửi con mình, đi nuôi con người khác, nay bỗng chốc mất việc, nhất là, tuy vú nuôi em Bích nhưng vú yêu quý tôi, chăm sóc tôi còn hơn mẹ tôi nhiều. Hơn thế nữa, tuy còn nhỏ tuổi, nhưng tôi cũng thấy sự ra đi của vú Bích sẽ kéo theo sự giải tán cái “câu lạc bộ bình dân” mà tôi rất yêu, rất thích. Và... quả là như thế!

Anh bếp Tý nhờ bố tôi che chở, được ở lại nhưng từ ngày vú Bích ra đi, anh ít nói, ít cười hẳn. Cơm nước dọn dẹp xong là anh tắt đèn, lên chiếc chõng tre nằm nghe từng đôi thạch sùng đuổi nhau trên trần mà thở dài và thỉnh thoảng lại chồm dậy hút thuốc lào vặt. Không bao giờ cái câu lạc bộ ấm cúng và vui vẻ ấy họp lại nữa. Đôi lần, tôi mon men xuống bếp đều bị anh Tý xua tay đuổi lên nhà: “Ông cấm! Không được xuống đây nghe chuyện bậy nữa đâu!” Chuyện bậy? Thế mà cũng là bậy sao?

Cái “thắc mắc văn nghệ” đầu đời của tôi đã lần đầu nảy sinh. Còn chuyện anh bếp Tý và vú Bích cũng luôn làm tôi buồn và buồn mãi. Thương hại hai người, hai “vai chính” trong những đêm văn nghệ bình dân, đã mãi xa nhau, xa tôi. Thương anh bếp Tý trước vui vẻ, tiếu lâm suốt ngày, nay cứ thờ thẫn như bị mất con, mất vợ.

Một hôm, anh gọi tôi xuống bếp, kéo tôi vào lòng nói nhỏ: “Ngày mai tôi đi rồi. Tôi đã xin ông bà nghỉ việc. Phải về quê làm ruộng thôi. Cậu ở lại học hành tiến tới nhé!”

Tôi đủ thông minh để biết anh nói dối. Anh không hề biết quê anh ở đâu. Chính bố tôi đã nhiều lần nói: “Thằng Tý mồ côi cha mẹ, đi ở từ thuở lên 5, nó chẳng có quê quán, họ hàng hang hốc gì nên nuôi nó trong nhà ít lo nó bỏ trốn!” Có nghĩa là anh không có quê, cũng chẳng bao giờ làm ruộng. Vậy anh về quê nào?

Mãi sau này, trong dịp hành quân qua một làng ở huyện Phù Dực, tỉnh Thái Bình, trời xui đất khiến thế nào tôi đã gặp lại anh, cái anh bếp Tý của 12 năm về trước! Dáng người thấp nhỏ, bộ răng vẩu kể chuyện có duyên, tuy già đi, nhưng tôi vẫn nhận ra anh: Một ông chủ quán thịt cầy ở ngay đầu làng. Anh cũng nhận ngay ra tôi: “Cậu Hải mỡ!”. Ngạc nhiên đến cùng cực là khi anh gọi to: “Bu mày ơi! Ra mà xem này, cậu Hải đã thành bộ đội này!” Khi “bu mày” bước ra, tay bồng một em bé độ 5, 6 tháng tuổi thì tôi không khỏi ngạc nhiên đến bàng hoàng: vú Bích!

Thì ra anh bếp Tý đã theo “tiếng gọi của trái tim”, bỏ nghề nấu bếp thuê đi theo Tình Yêu. Tình yêu viết hoa hẳn hoi!
Anh đã về quê vú Bích, mở cửa hàng thịt cầy, vượt mọi lời đàm tiếu, lấy hẳn vú Bích làm vợ, nuôi cả đứa con riêng của vú Bích với ngƣời chồng đã bỏ xác ở Tân Thế Giới và còn sinh hạ thêm 4 đứa con, đủ cả trai lẫn gái. Tôi thực sự mừng cho anh chị – lúc này tôi gọi họ bằng anh, chị. Sau này tôi còn chứng kiến nhiều cuộc tình nhưng tôi chẳng thấy cuộc tình nào đẹp như cuộc tình của anh bếp Tý và vú Bích. Phải chăng cái câu lạc bộ bình dân và cuộc tình đẹp, chân thật, chất phác, chung thủy tuyệt vời đó đã gieo vào tâm hồn tôi những cảm xúc nghệ thuật đầu đời.


Cũng từ những nhận thức tự nhiên đó tôi đã tập toẹ làm thơ rồi viết nhạc thuở 15, 16 tuổi. Bài thơ “Thôi thế là tan giấc mộng vàng, Nàng đi giữa lúc gió xuân sang...” đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy năm 1943, với bút danh Thái Bình Dƣơng năm tôi 17 tuổi, chính là tôi cảm xúc từ mối tình của bếp Tý và vú Bích. Bài hát Có Một Nàng Thôn Nữ,1944, là tôi nói lên tình cảm đối với những ngƣời nông dân mà tôi yêu, tôi quý. Tôi cảm ơn cái “câu lạc bộ bình dân” ấy. Tôi cảm ơn mối tình ngang trái và kết thúc đẹp đẽ ấy, vì chính nó đã cho tôi những nhận thức, những tình cảm quí giá sâu sắc, không phai mờ mà chẳng một cuốn sách, một lớp học nào có thể mang lại. Những khám phá đầu tiên của Tình Yêu cũng từ đó bắt đầu. Tình yêu thật sự chân chính là không kể tuổi tác, hình thức, là phải vượt mọi trắc trở, phải chịu đựng đủ mọi điều tiếng, phải mất để có, phải vượt để chiếm, phải giữ để còn.

Anh bếp Tý của tôi có đẹp trai gì cho cam – người nhỏ thó, răng hô, mắt toét nhèm và yêu một người đàn bà đã có chồng, có con, hơn anh 3, 4 tuổi. Còn vú Bích? Cái gì đã làm cho vú sớm quên anh chồng mất tích? Cái gì đã làm vú “phải lòng” anh bếp Tý nếu không phải mê anh về cái tài, cái duyên của một cây văn nghệ bình dân?

Và họ đã thành vợ thành chồng, sinh con đẻ cái, thương yêu nhau đến lúc bạc đầu. Tôi nhận thức khá sâu sắc về tình yêu từ mối tình chất phác dễ thương đó và đã thể nghiệm trong cuộc đời yêu đương của bản thân. Nhưng đạt đến cái kết “có hậu” như cuộc tình bếp Tý – vú Bích quả là khó khăn, đôi khi vấp ngã đến tróc vẩy, trầy da mà chẳng tìm được tình yêu lý tưởng.

Trở lại tuổi ấu thơ, tôi cũng không thể quên cái trường “Sơ” Saint Joseph, nơi đã tạo cho tôi một tính cách nổi loạn, phản ứng và châm biếm. Chính từ nơi này tôi đã được bố tôi công nhận là có “khiếu văn nghệ” và có khiếu “cứng đầu cứng cổ” nên ông nhét tôi vào cái trường mà ông tưởng tôi sẽ hết đường cục cựa! Nào học chữ, học nhạc, học hát, học kinh thánh giữa những con người gần như không biết cười, biết khóc...người nào cũng giống người nào ở cách ăn mặc, ở bộ mặt vô cảm, lờ đờ, đi đứng khoan thai, nói năng nhỏ nhẹ, khác hẳn với tôi, một đứa bé ăn to, nói lớn, luôn thích chơi trội, khác người.

Tôi còn nhớ như in cái cổng trường to tướng, xây kiểu gô-tích, được xích lại bằng một ống khoá to bằng nắm tay, suốt ngày đóng im ỉm. Học trò vào trường bằng một cổng hẹp bên hông, chỉ mở vào những giờ vào học và tan lớp. Đường dẫn vào các lớp vừa đủ đi không quá hai người, xây bằng xi-măng uốn cong một cách có ý đồ.

Đã qua đây thì phải đi chậm, đầu phải cúi và phải đi chính giữa đường! Bƣớc sang bên phải hay bên trái là mất thăng bằng, ngã bổ nghiêng vào hai bụi dâm bụt cao quá đầu lũ con nít chúng tôi ngay! Đằng sau hai bức tường lá dày đặc đó là cái gì thì bọn trẻ chúng tôi đều biết và sợ phát run mỗi khi có người ở cái thế giới bị cách ly đó được đưa lên lớp học để doạ học trò nào mắc lỗi! Đó là những người mù, người câm, người dị dạng, quái thai mà nhà thờ nuôi “làm phúc”. Họ chỉ có một nhiệm vụ là làm vườn, kể cả người què cụt, để đổi lấy hai bữa ăn.

Con đường vào lớp đó là con “đường một chiều” đầu tiên tôi bắt buộc phải đi, khi bước vào tuổi tiền học đường (préscolaire) lúc đó chưa gọi là mẫu giáo. Chỉ có “trở lên” chứ không có “trở xuống” vì sẽ vướng cẳng người khác. Tan lớp thì về bằng một con đường y hệt nhưng ở bên kia dãy nhà bố trí thành hàng loạt lớp học giống những căn hộ có số để khỏi vào nhầm mà tôi thấy lại sau này khi có những căn hộ xây dựng theo kiểu Bắc Triều Tiên! Nghĩa là giống nhau và tiết kiệm đến mức như thách thức mọi kiến trúc sư phải thất nghiệp! Ở đấy, lũ con nít chúng tôi ngày nào cũng phải quì trên ghế băng cầu kinh bằng tiếng Latinh và học những bài thánh ca mà chẳng hiểu “Bo-nê vô-lun- ta-tít Pắc-xi-om-ni-bút” là cái quái gì.

Do to con nhất nên được xếp ngồi băng ghế sau cùng, tôi thường lẳng lặng đưa một chân xuống đất, đọc kinh trong tư thế chân đứng chân quỳ nên đầu gối không bị chai như các bạn. Còn việc học chữ của đức cha A-lếch-xăng đờ Rốt[17] thì cả năm chỉ ngồi ngoẹo cổ, vẹo sườn, tô mực lên các chữ a, b, c mà các sơ đã viết sẵn bằng bút chì. Điều này giải thích tại sao học trò bắt đầu đi học từ trường sơ, chữ viết đều như gà bới! Tuy nhiên phải ghi nhận một điều: chính từ cái trường này, qua những buổi hát hợp ca dưới bàn tay chỉ huy của sơ Thanh và cây đàn harmonium do sơ Trúc ấn lên những hợp âm tuyệt vời, khái niệm đầu tiên về hoà thanh đã hình thành trong tôi. Nghe âm nhạc mà không có bè đệm, hát mà chỉ có một bè đối với tôi, ngay từ thuở ấy, chẳng khác mặc quần không dải rút! Riêng tôi, dù các sơ chẳng ưa gì thằng “con nhà Judas[18] ngỗ nghịch” nhưng vẫn phải xử dụng tôi vào chân đơn ca, lĩnh xướng...rồi bè trưởng trong mọi hoạt động ca hát trong cũng như ngoài nhà trường.


Tôi trở thành kẻ tự mãn, tự kiêu ngay từ tuổi lên 6! Tôi được gọi là “con sơn ca” của trường, được thầy (frère) Quảng và cha (père) Rangel đặc biệt chú ý và cho vào nhà thờ bồi dưỡng thêm về âm nhạc. Nhưng lạ thay, tôi học không vào.
Âm nhạc quái gì mà cứ: “Một tròn thì bằng hai trắng, một trắng thì bằng hai đen, một đen thì bằng hai móc”. “Bằng” là thế nào cơ chứ? Học hết cả quyển Marmontel mà tôi chẳng thấy tôi hát hay thêm, hiểu thêm cái hay, cái đẹp của các đĩa hát của Brahms, của Beethoven mà bố tôi ngày càng có thêm nhưng chỉ để “kính nhi viễn tri”! Thế đó! Sự coi thường mọi quy tắc, bản chất luôn muốn “bung ra”, luôn muốn khác người, đã sớm hình thành trong tôi, làm cho cuộc đời luôn luôn bị vấp ngã, bị nhồi lên dập xuống mãi đến hôm nay, và có lẽ, còn bị đánh giá chẳng mấy hay ho gì cho đến khi đã trở thành tro bụi.

Những năm sau này, khi đã...“dở ông dở thằng”, có dịp về thăm những nơi tôi bắt đầu thành người, nhớ tới các kỷ niệm tuổi ấu thơ, tôi không thể cầm được nước mắt. Cảnh xưa, cái còn cái mất. Người cũ thì chẳng còn ai. Bố tôi đã mất. Mẹ tôi và 6 đứa em đã đi theo ông Thiệu ra nước ngoài. Các người thân thuở nhỏ như vú già, anh bếp, anh xe, vú Hiền, vú Bích, vú Nga... chắc cũng ra người thiên cổ, vì “cậu Hải” đã thất thập cổ lai hy rồi.

Sở dĩ tôi hay buồn và có thể khóc khi nghĩ tới những ngày xa xưa đầy kỷ niệm đó vì tôi đã sống đơn độc, bơ vơ giữa đường đời suốt bao năm tháng, không họ hàng thân thuộc, không một lần có ý định “trở về mái nhà xưa”. Tôi cam chịu nhận một vai “kịch” phụ, rất phụ trong suốt vở bi kịch dài của đất nước.

Viết về những kỷ niệm tuổi ấu thơ, tôi còn có thể kể nhiều, rất nhiều, vì tất cả đều được ghi trong trí nhớ, khi tái hiện chúng còn đậm nét, còn gây xúc động cho tôi hơn bất kỳ kỷ niệm nào suốt gần nửa thế kỷ “phiêu lưu trên đường cách mạng”. Có người cho rằng do nó là những hình ảnh in ban đầu lên vỏ đại não một con người. Tôi thì cho là vì nó không bao giờ lặp lại, thậm chí giông giống nhau như khi con người đã trưởng thành, đã quá chai lì với kỷ niệm, nhất là với con người Việt Nam, trải 35 năm khói lửa, huynh đệ tương tàn, quá nhiều chia ly, mất mát, quá nhiều trận chiến, quá nhiều tên núi, tên làng, tên sông để mà nhớ chính xác. Tôi chỉ kể lại những gì chủ yếu đã tác động đến bản năng và trí tuệ của tôi, một kẻ “cái gì cũng biết mà chẳng biết cái gì”, một kẻ cứ tưởng mình thông minh hơn người nhưng nay bị người đời cho là “ngu xuẩn nhất nước”. Chẳng ngu sao mà đến hôm nay, có đủ thứ văn bằng, kể cả hai bằng quân sự, một bằng tú tài Tây, một bằng tốt nghiệp Anh Văn ngoài giờ, một giấy chứng nhận tốt nghiệp sáng tác âm nhạc trình độ “tương đương đại học” loại ưu và một lô huân chương, huy chương, bằng khen chẳng giúp cho tôi kiếm nổi một mái nhà, vẫn đi ở thuê dài dài, vẫn đi cái xe lọc cọc. Thời gian trôi nhanh hơn sức viết của tôi quá nhiều. Cái chết! Tao phải chạy đua với mày để hoàn thành bản “tự thú” này, để con cháu tao, bạn bè tao biết được tao đã sống đẹp hay sống... hèn ra sao?


[1] Dàn kèn tây (bú-dích do tiếng Pháp musique = nhạc)
[2] Bảo Đại (1913–1997), vua thứ 13 và cuối cùng của triều Nguyễn,
[3] Đinh Ngọc Liên (1912–1991)nhạc trưởng dàn quân nhạc QĐNDVN sau này. Trước 1945, ông thuộc đội kèn lính khố xanh tại Toà Thống Sứ Bắc Kỳ (thành lập năm 1924, do Camille Parmentier chỉ huy), còn được gọi với tên Quản Liên.
[4] Khiếu thẩm mỹ tốt (bon goût, tiếng Pháp).
[5] Sở Bưu chính.
[6] Lao Động (tiếng Pháp).
[7] Cachot, xà lim biệt giam (tiếng Pháp).
[8] Tôi có hai mối tình, Khi tụi ta là thuỷ thủ (tiếng Pháp)
[9] Các danh ca Pháp đầu thế kỷ XX.
[10] Các nhạc sĩ tài danh trên thế giới.
[11] Bản giao hưởng dở dang (tiếng Pháp).
[12] Những tác phẩm kinh điển của văn học Pháp với các tác giả nổi tiếng Hugo, Balzac, Corneille…
[13] Hai nghệ sĩ cải lương danh tiếng thời ấy.
[14] Cách gọi người làm việc kéo xe tay trong gia đình.
[15] Một lối chơi mạt chược.
[16] Hai nghệ nhân nổi tiếng còn sót lại của âm nhạc dân gian cổ truyền miền Bắc vào những năm 60–70 của thế kỷ 20.
[17] Alexandre de Rhodes (A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ) 1591–1660, tu sĩ dòng Tên người Pháp, trong phái bộ truyền giáo đến Việt Nam thế kỷ 16, người được coi là có công đầu trong việc tạo ra chữ Việt hiện nay.
[18] Judas, tên của tông đồ phản bội Chúa Giê-su, theo Kinh Thánh.


Chương 4.

MƯỜI NĂM ĐÈN SÁCH – HỌC VĂN HOÁ TÂY ĐỂ... ĐÁNH TÂY

Đúng lúc tôi chập chững bớc vào lớp Đồng Ấu (Enfantin) trường tiểu học là lúc bố tôi được bổ nhiệm về làm phó chủ sự bưu điện tỉnh lẻ, tỉnh Thái Bình. Thời gian ấy Thái Bình là tỉnh đói nghèo nhất nước và cũng là nơi được người Pháp cai trị với bàn tay sắt nhất! Lý do: quá nhiều vụ nổi loạn!
Về sau, khi đã trưởng thành, tôi mới vỡ lẽ vì sao mảnh đất “bị gậy khắp nơi tung hoành”[1] này lại sinh ra quá nhiều con người khác nhau, cách mạng thì cách mạng đến cuồng tín, đối kháng thì đối kháng đến cùng cực! Cũng từ môi trường này, xuất hiện những gƣơng mặt lá phải lá trái, đổi trắng thay đen đến không ngờ: những ngƣời gặp vận may, những tên cơ hội, cách mạng giả hiệu, cả những “con rối” được cách mạng tạo nên để sau này làm khổ cho cả ngàn vạn con người!
Chính từ cái trường mang tên ông Tây Monguillot nào đó, cái trường “Primaire Supérieur de Thái Bình”[2] đã có những học sinh sau này trở thành đủ thứ “tƣớng ta”, tướng địch”, nhà văn, nhạc sĩ, đạo diễn, hoạ sĩ, giáo sư… để rồi chửi nhau, đánh nhau chí chạp suốt nửa thế kỷ bằng ngòi bút và bằng súng đạn. Gặp lại nhau ở tuổi 60, 70 tất cả chúng tôi chẳng còn ai muốn nhắc lại vở bi kịch có một không hai, vở bi kịch dài nhất mà họ đã phải tham gia gần hết cuộc đời. Hãy để cho ngƣời đã khuất được nằm yên dưới ba tấc đất ở miền Bắc, miền Nam hoặc bên Mỹ, bên Pháp. Hãy để người “gặp may” hưởng nốt những hạnh phúc “trời” cho đến cuối đời. Xét cho cùng, nhắc đến họ dù yêu, dù ghét cũng là tàn ác. Họ và tôi chẳng qua chỉ là những vai – kẻ phụ, người chính – trong vở bi hài kịch do người khác viết mà ở hồi kết chẳng ai thắng ai vì tất cả đều trở lại điểm xuất phát! Một người bạn cũ của tôi, ông Vũ Ngọc Hoàn, thiếu tướng Việt Nam Cộng Hoà thời ông Nguyễn Văn Thiệu, sau nhiều năm chạy trốn cộng sản trở về, gặp lại tôi trên lầu 12 khách sạn Caravelle đã chỉ tay vào đám lau nhau đang ngoe nguẩy trên sàn nhảy mà nói: “Ils sont des vrais vainqueurs et nous deux…– Họ chính là những người chiến thắng, còn hai đứa mình...” Tôi tiếp: “des vaincus! – kẻ chiến bại”. Trong cuộc chia tay lần cuối ấy, dường như cả hai chúng tôi rốt cuộc rồi cũng tìm được những nhận thức mới về cuộc đời, về con ngƣời... Hoàn phá lên cười, nói tiếp: “Ƣớc gì sống lại cái thời đi học ở trường Monguillot, chúng mình sẽ chọn con đường khác.” Tôi lắc đầu: “Tất cả là định mệnh! Không thể chọn lựa được! Mày dòng dõi nhà quan, lại là dân “làng Tây”, bố tao, công chức hạng nhì (cadre secondaire). Theo Tây là lô-gích đối với mày. Chỉ tao có quyền lựa chọn, nhưng tao đã chọn con đường mà bố tao không chọn: Đi theo cách mạng! Con đường mà bố tao đã chỉ vào mặt tao thét lên khi tao chào ông lên đường: “Đi theo cộng sản hả? Đói đừng có vác xác về, tao tống cổ ra đƣờng đó!”
Chính câu nói này của bố tôi đã làm tôi trở thành “trung thành đến cùng” với cách mạng, dù không ít lần bạn bè vỡ mộng đã rủ tôi “trở về mái nhà xưa”! Có thể gọi nó là “lập trường kiên định” khi muốn tặng thưởng một huân chương cũng được, nhưng cũng có thể gọi đó là lòng tự ái, hoặc tự trọng, theo kiểu nhân vật bi kịch của Corneille[3], của Shakespeare[4], chứ trong chuyện này chẳng có chút chính trị, chính choẹ gì hết.
Trở lại cái trường tiểu học Monguillot, nơi con người đầu tiên trong tôi hình thành, nơi mà đến hôm nay, những kỷ niệm vẫn in đậm trong bộ não của một lão già hơn 70 tuổi, đậm nét hơn cả những kỷ niệm dọc đường gió bụi, gian khổ, nguy nan “ba vạn sáu ngàn ngày”[5] Không thể quên buổi từ giã “nhà giam Saint Joseph” (trường Sơ) để bước vào thế giới ồn ào mới lạ của thời học trò thật sự. Vẫn còn đó mùi hăng hăng dễ chịu của cái cặp da và đôi xăng-đan mà bố tôi dắt tôi đến cửa hàng Thụy Ký để mua cho tôi những ngày chuẩn bị nhập trường. Thật lạ, khi bƣớc vào lớp “Enfantin” (lớp Đồng Ấu) tôi lại gặp một thầy giáo già dạy trường Tây, không bận âu phục mà mặc áo dài thâm, đội khăn xếp và đi giầy Gia Định: thầy Tấn!
Trong bộ óc của thằng bé lên bảy ngay từ ngày đầu, đã thấy một cái gì đó thật nghịch lý, thật khôi hài! Phải chăng khi nắn nót viết trên bảng đen dòng chữ buổi đầu cho chúng tôi chép lại: Lundi, Le 3... Août, 1934, thầy Tấn vẫn muốn khẳng định: Các trò học tiếng Tây nhưng không được bỏ qua những gì là quốc hồn quốc tuý? Tiếc thay, ở thuở xa xôi ấy, lớp trẻ con được đến trường Monguillot hầu hết đều sinh ra từ những gia đình “có của ăn của để”, đến trường buổi đầu đều mặc quần soọc, đi giày Tây. Số còn lại có mấy chú bé mặc áo the thâm, chân đi guốc mộc (người còn lại đến hôm nay là ông “giáo sư hề chèo” Hà Văn Cầu) là dân “nhà quê ra tỉnh” hoặc dân ngoại ô, trong cặp bao giờ cũng có nắm cơm kèm vài con tép, quả cà để ăn trưa, vì thời đó học hai buổi. Thầy Tấn cùng các bạn áo the thâm hoặc “cát bá” trắng đối với tôi lúc ấy là một “hiện tượng xã hội” lạc lõng, bảo thủ, quê mùa thế nào ấy! Tôi đến lớp học với điều đinh ninh rất sớm là chẳng có cái gì đáng học ở đây cả! Bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia tôi đã quá ngán khi học ở trường “sơ” St Joseph. Còn ba cái bài Quốc Văn Giáo Khoa Thư thì, lạy giời, ai thấy những thứ “Ai bảo chăn trâu là khổ” hoặc “Cơm nước xong trời vừa tối”... nó hay, nó giáo dục tâm hồn ngây thơ của học trò lên 7, lên 8 thời ấy và “đọng lại tâm hồn con người ta mãi mãi” thì thấy, chứ tôi chẳng thấy nó hay ở chỗ nào? Đơn giản là tôi đã biết cảnh chăn trâu “sướng” thế nào mỗi lần về thăm bà nội ở cái làng Đại Hoàng nghèo khổ của tôi. Anh cu Nhương, chú Rịch mỗi lần đánh trâu ra đồng chỉ có một cái khố, dắt theo mo cơm, đi từ sớm tinh mơ đến tối mịt mới về, khổ như trâu và hôi cũng như trâu. Cái đó mới thật sự làm tôi thấy rung động. Đó là tình thương những con người mà số phận nghèo hèn ngay từ lúc 5, 7 tuổi đã phải sống kiếp trâu cày thực sự. Vậy mà nói là “chăn trâu sướng lắm!” Nói dối! Chính ông thầy cổ hủ, khăn xếp áo the, lại là người đầu tiên dạy tôi: “Chăn trâu chẳng có gì là sướng đâu, các trò ạ!” Thầy Tấn thường rất buồn và giảng như người vô hồn những bài học thuộc lòng kiểu “chăn trâu sướng lắm chứ!” nhưng rất say mê, sang sảng khi giảng những bài luân lý về đạo làm người. Bài làm tôi xúc động nhất và nhớ nhất là bài nói lên tinh thần tôn sư trọng đạo của Sadi Carnot, viên tướng trở lại mái trường xưa để chào thầy học: “Thưa thầy, em là Carnot đây!”
Ở thầy Tấn, cái “là lạ” mà tôi cảm thấy phải chăng là nỗi buồn của một ông giáo già Việt Nam phải dạy cho lớp trẻ những điều mà bản thân ông không muốn? Còn tôi, vừa đến trường đã thấy mình phải học những cái mình không muốn học! Tất cả đối với tôi đều quá dễ, quá nhàm chán, không có gì kích thích trí tò mò, thậm chí tôi muốn đi tìm ngay một nơi nào học cao hơn, hay hơn, lạ hơn. Chính tôi đã đề nghị với bố tôi cho tôi về Hà Nội, “đi học trường Tây thứ thiệt như Albert Sarrault, Sainte Marie [6], chứ ở cái trường tỉnh lẻ này, chán quá!” Thời ấy, những gia đình có khả năng đều cho con cháu học theo hệ thống Tây chính cống, nghĩa là theo chương trình học của “nước mẹ”! Không có bằng đíp-lôm (tốt nghiệp trung học) để ra làm thầy thông, thầy ký, ông phán... mà học thẳng lên tú tài, “bắc Oong, bắc Đơ” (Bac I, Bac II). Đa số các gia đình đều muốn con mình theo học hệ thống này để có nhiều tương lai hơn, học hành tấn tới hơn và triển vọng đi Tây học đại học cũng nhiều hơn. Cái gọi là “tư tưởng nô lệ”, “bám gót ôm chân” ham “bơ thừa sữa cặn” mà sau này trong các cuộc chỉnh huấn, bọn tôi thường bị chụp những cái mũ to tướng, tới hôm nay tôi có thể tuyên bố thẳng: Trừ một số rất ít (những kẻ vong quốc) lúc đó nhận thức được rằng trường học theo hệ thống bảo hộ (régime du protectorat) chẳng nhằm mục đích gì hơn là đào tạo số công thức từ sơ đến cao cấp cho chế độ thuộc địa Pháp (một số còn được bổ nhiệm cả sang Lào, Miên, Tân Thế Giới), tất cả chúng tôi đều là những người có tư tưởng “Tây học” chính cống, cũng chính là những người sau này chống Tây hăng hái nhất. Bố tôi và tôi đều nhận ra cái “vô hồn” của “trường bảo hộ” rất sớm. Tiếc thay, lúc ấy bố mẹ tôi không thể cho tôi sống lại cái cảnh mà bố tôi đã chịu đựng cả 10 năm trời để kiếm ít chữ Tây: Làm con nuôi của một gia đình đã theo Tây cả thể xác lẫn tâm hồn. Còn việc cho đi trọ học Hà Nội, đối với gia đình tôi lúc ấy không có gì khó. Nhưng bố tôi lo nhất là cái tính ngổ ngáo và tự kiêu ngất trời của tôi sẽ mang lại cho tôi không ít rắc rối trong cuộc đời! Cuối cùng ông hứa với tôi: “Cố học hết Primaire (Sơ học) ở Thái Bình đi, sau Certificat (bằng Sơ học) sẽ cho thi vào Sixième (Đệ lục) học hệ tú tài Pháp.” Thế là cuộc đời học sinh tiểu học của tôi trôi qua nhanh chóng, dễ dãi và buồn tẻ, nếu không có những sinh hoạt ngoài học đường làm cho tôi đỡ chán ngán. Đó là các tổ chức “Sói con” (Louveteau), “Hướng đạo”(Scout), bị nhiều nhà “kách mệnh” lên án là “âm mưu đế quốc tổ chức và giáo dục thiếu niên, thanh niên làm tay sai mật vụ” – vì có học cả đánh tín hiệu sémaphore!
Tội nghiệp cho ông Baden Powell[7]! Ông Tây người Ăng-lê này đầy thiện chí đối với thanh thiếu niên trong sự hướng dẫn họ tới điều Thiện, thế mà có lần tôi đã phải nhận liều rằng vì mình u mê nên đã... “tôn thờ một thằng Tây làm lãnh tụ” (!) trong một cuộc chỉnh đảng!

Sự thật thì, chính từ những tổ chức này đã nảy mầm ra biết bao ngƣời cách mạng. Hàng loạt những Lê Quân, Tuấn Sơn, Tài Khoái, Tử Giang, Kỳ Đông, Kỳ Vẩu, Biên Tâm, Bùi Lê, Lê Kim... đã từ những tổ chức này trở thành người chống Tây có tổ chức. Có điều rất hiếm người sau này đi theo cách mạng dám “thành khẩn” khai rằng mình đã ở trong tổ chức này vào những lần khai lý lịch. Mà nào có khai ít lần đâu! Chỉ ngƣời duy nhất “dại” là tôi. Học ở đâu? Ai dạy? Tham gia hội đoàn nào? Đọc và viết được chữ Tây đến đâu? Tôi khai tuốt! Đơn giản là tôi thấy phải cảm ơn những gì mà trường của Tây đã trang bị cho tôi đi... đánh Tây! Chẳng phải những lần đi cắm trại ở Núi Voi, Bạch Mã, các “trò chơi lớn” (grands jeux) đã hình thành trong tôi tư tưởng ưa phiêu lưu, mạo hiểm, thèm được ra khỏi thành phố, đi tìm một “vật lạ” giấu kín ở khu rừng núi xa xôi? Chẳng phải từ những tổ chức ngoài nhà trường đó đã làm nảy nở trong tôi các xúc cảm nghệ thuật đầu đời? Đó là những buổi đi về với người nghèo, đi làm việc cứu tế, những buổi dã ngoại để tìm hiểu nông thôn, để biết cây lúa không giống cây bàng mọc ở sân trường? Và đa số những “xếp” – người dẫn đường (routier) – như thầy Đang, thầy Khoa, thầy Doãn sau cách mạng tháng 8–1945, khi vào Vệ Quốc Đoàn, tôi đã lại gặp họ. Hầu hết họ đều nắm các chức vụ phân đội trưởng, chính trị viên, xoàng thì cũng là chính trị viên đại đội! Ngoài một người tên Nguyễn Quang Luyện (về sau này hình như làm chức gì khá to ở trong Nam), tất cả lũ chúng tôi đều trở thành người chống Tây hăng hái nhất. Một số lớn đã hi sinh ngay những ngày đầu kháng chiến, một số “gặp may” còn sống sót đến ngày thắng lợi 1975! Đó là những người sớm trở về với hoạt động chất xám của mình, những giáo sư như Vũ Triệu An, Đặng Xuân Kỷ, Trần Bảng... các kỹ sư, bác sĩ, các tướng tá về hưu sớm như Trần Kiên, Trịnh Lý Thản, Bùi Xuân Vĩnh, Lê Bình (Luỹ), Vũ Tất Đắc, Trịnh Minh Quát... mà chẳng được một học hàm học vị, một danh hiệu gì. Nhưng tôi thường tự hào về các bạn học cũ ở cái trường Monguillot Thái Bình mỗi lần gặp gỡ nhau khi có một đồng hương, đồng khoá “trở về với cát bụi”. Tất cả gần như đều sống hết mình, chết trong sạch. Những người ở miền Bắc đều về hưu rất sớm nên thoát mọi ô nhiễm của nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chẳng một ai trong chúng tôi bị “lên mâm” trên báo chí, chẳng một ai bị rơi vào hoàn cảnh “không ăn cắp cũng không được” để phải ra toà. Nếu có nỗi đau riêng của những con người sạch sẽ, thì chính là nỗi đau phải chịu đựng sự dè bỉu, thành kiến, thậm chí chửi bới của lớp trẻ ngày nay: “Sao thời ấy các cụ “dại” đến thế nhỉ!” Ôi! Làm sao cãi được với lớp trẻ hôm nay rằng “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” là đúng? Cái nhiệt tình của chúng tôi, trước mắt thế hệ con cái của nền kinh tế thị trường là một sự “ngu dại”, một sự “lầm lẫn”. Đau lắm chứ. Nhưng không phản biện được! Chúng không thể hiểu cái tâm của chúng tôi lúc ấy không cho phép chúng tôi nghĩ khác, làm khác. Chúng tôi không có nhiều chọn lựa và đã chọn cái mà chúng tôi phải chọn: vì tình yêu đất nước. Chẳng có gì khó hiểu khi cái chủ nghĩa “cộng sản khoa học” mà chúng tôi bị nhồi sọ một thời, ngày nay đã bị thế hệ trẻ phủ nhận hoàn toàn. Sự phủ nhận ấy diễn ra cùng lúc với sự kiện cả cái phe gọi là “xã hội chủ nghĩa” kéo dài từ Vĩnh Linh đến tận Berlin đã bị những người bị lường gạt giật đổ xụp và nhổ toẹt vào. Trước mắt ngày nay chẳng có cái gì hết, không lý thuyết cách mạng vô sản, không đảng cộng sản, không “bác Hồ” anh minh lãnh đạo mà chỉ là một cuộc vơ vét cuối cùng của đoàn thủy thủ chuẩn bị nhảy khỏi con tầu sắp đắm với hành khách là nhân dân Viêt Nam bất hạnh! Đoàn thuỷ thủ ấy gồm những tên lưu manh vô học, những tên giám-đốc-không-vốn, những tay cầm đầu hải quan mà buôn lậu, những tay phụ trách tư pháp, toà án, thanh tra chuyên nghề kết án người vô tội, những tên quản lý nhà đất mà cướp nhà, cướp đất để chia nhau vô tội vạ, những kẻ buôn lậu ma tuý nằm ngay trong những trung tâm đầu não chống ma túy. Và ở bậc cao nhất của cung đình là những tên đại lưu manh trơ tráo, chẳng Mác chẳng Xít gì, đang trấn áp, đe dọa người dân bằng nhà tù, súng đạn, để ăn cướp bất cứ thứ gì có thể cướp, vơ vét của cải đất nước làm của riêng, lấy tiền bỏ vào các tài khoản khổng lồ ở nước ngoài do con, cháu, bồ bịch, tay chân chúng làm chủ! Chúng tôi, “những người ngu muội” giờ đây chẳng có đủ can đảm để lên tiếng cải chính: “Không! Đây không là tội của chúng tôi! Chúng tôi đã chiến đấu không phải để có một xã hội như thế này. Đây là một bọn lưu manh đang trưng cái bảng hiệu “cộng sản” để lừa bịp nhân dân đấy!”

Chúng tôi biết nói gì khi mọi người cứ nghe thấy hai từ “cộng sản” là đã thấy nó đồng nghĩa với cướp của, giết người, với bắt bớ, tù đầy, với chiến tranh, diệt chủng. Đấy cũng là lý do để những người già như tôi cảm thấy hết sức lẻ loi, đơn độc. Chúng tôi chỉ có cách buồn khổ để chóng... chết, hay quay về sống với quá khứ và tìm đến nhau như tìm đến một sự an ủi bằng liều thuốc “có một thời đẹp nhất của bọn mình... ” Viết hồi ký, đối với tôi, chính là sự tạ lỗi với đời. Ấy đấy, cứ mỗi lần chạm tới hai từ “cộng sản” là tôi không kìm mình được, lại bị “lạc đề”. Xin trở về với những dòng hồi ký. Kể từ lớp “Moay-ăng Đơ” (Moyen 2) trở lên, chúng tôi được trực tiếp với nền giáo dục Tây thật sự. Cũng từ cấp học có tên Primaire Secondaire (tiểu học đệ nhị cấp), không còn ông thầy nào mặc y phục quốc hồn quốc tuý nữa. Từ đây, tất cả mọi giờ lên lớp, mọi giao dịch sinh hoạt, thầy trò bắt buộc phải dùng tiếng nước mẹ Phú-Lăng-Xa. Giã từ thầy Tấn, thầy Lô, thầy Bản, chúng tôi bước vào cuộc sống học đường “đờ-mi Tây” với cuốn Grammaire Francaise – Ngữ Pháp Tiếng Pháp của Larrive Fleury, cuốn Histoire de France – Lịch Sử Pháp. Chỉ còn lại một giờ “Annamite” mỗi tuần, coi như môn ngoại ngữ!
Một điều may mắn, hay vô phúc, cho tôi là vào năm học cuối, Cours Supérieur, trường tôi nhận được một ông thầy mới. Ông cũng mặc Tây nhưng là thứ đồ Tây hiếm thấy: Quanh năm một bộ kaki vàng nhạt, không bao giờ thắt cà-vạt. Chân thì không giống ai, đi dép xăng-đan với đôi quai hậu luôn bị dẫm lên, méo mó. Nghe nói ông có “phốt”[8] nên đang dạy một trường nào đó lớn lắm ở Hà Nội thì bị “đuổi” về Thái Bình! Theo lời đồn, ông mắc tội “têtu”[9], dám cãi lại quan Tây. Ông có bộ dạng ngang tàng, bộ tóc “bốc-xơ”[10], cái cười nửa mép, cằm nhô ra như thách thức, càng tăng vẻ bất cần đời, rất ăn khớp với bộ đồ Tây dã chiến quanh năm của ông. Tuy nhiên, với tôi, ông có cái gì đó thật hấp dẫn, thật đáng chiêm ngưỡng và hơn thế, cần chú ý, theo sát mà học tập. Không chỉ vì ông đã nổi tiếng trên văn đàn, không phải ông là ông thầy giỏi mọi mặt (thời đó một thầy dạy tất cả các môn cho đến cuối lớp Supérieur), mà chính là sự ngang tàng, coi khinh dư luận của ông đã mê hoặc tôi.
Ông chính là nhà văn Nguyễn Công Hoan[11], tác giả Bước Đường Cùng, Đào Kép Mới... Hàng loạt tác phẩm sau này, ông lấy bối cảnh ngay ở Thái Bình, xây dựng nhân vật rất Thái Bình mà 5, 10 năm sau, khi được đọc, tôi đều nhận ra là ai đã được ông điển hình hóa một cách tài tình trong những câu chuyện “bịa như thật” – theo định nghĩa của chính Nguyễn Công Hoan về thể loại tiểu thuyết. Đặc biệt, trong cuốn Đống Rác Cũ, một số tên nhân vật có thật ông chẳng thèm thay đổi, lại gồm những bộ mặt có ít nhiều quan hệ với chính ông và gia đình tôi nên tôi “liều mạng” xuống nhà in tìm tập sách mới in xong. Chưa có bìa, cuốn sách đã bị đem đi hủy ngay lập tức theo “lệnh trên”! Tôi còn giữ nó cho đến ngày vào Sài Gòn, tặng một ông bạn sắp vượt biên, hy vọng ở nước ngoài, người yêu văn sẽ được thưởng thức những “trái cấm” của nền văn học cộng sản. Tiếc thay, đến nay, hình như Đống Rác Cũ vẫn chưa được phục hồi cả ở trong lẫn ngoài nước.
Trở lại với cái Cours Superieur thời xa xưa ấy. Có thể nói nếu như tôi chú ý đến phong cách thầy Hoan bao nhiêu thì thầy cũng chú ý đến thằng “tướng cướp” là tôi không kém! Làm sao một ông thầy như thầy lại không để ý tới một học sinh “ngang tàng số một” và học giỏi cũng số một nhƣ tôi? Sau này, mỗi lần gặp thầy, thầy vẫn nhắc đến bài luận văn của tôi: “Tiền không làm nên hạnh phúc? – “Một sự lừa dối trắng trợn của những nhà triết học ăn tiền của bọn triệu phú”. Thầy Hoan cho tôi 10 điểm về cách bình luận độc đáo và cả hai thầy trò bị thầy hiệu trƣởng gọi lên văn phòng cảnh báo về cách dạy và học. Sau này tôi còn bị hai lần “exclus provisoire par turbulence”[12] nữa.
Sự thật thì tôi đâu có du côn du kề gì trong sinh hoạt mà chỉ “du côn trong đầu”, nghĩa là phản ứng với những cái mà tôi cho là không đúng! Phản ứng công khai bằng lời nói hoặc giấy mực đàng hoàng. Tôi đâu có biết khi người ta ra một cái đề như: “Khi trò tốt nghiệp, nguyện vọng và mong ước tương lai của trò là gì?” là người ta muốn “nắm tư tưởng” học trò vì những năm ấy phong trào chống Pháp đang lên cao trong các trường trung học. Vâng! Chống Pháp và sớm thấy được cái bất công của ngay chế độ học đường, bất công ngay trong cách đối xử giữa các thầy với các thầy, giữa trường ta và trường Tây. Lòng thù ghét Tây này, có lẽ trong chúng tôi không ai không có một ít, hoặc nhen nhúm để bùng lên, bùng lên mãi hoặc... tắt phụt khi bị giám thị hoặc hiệu trưởng gọi lên cho một cái tát tai với lời cảnh cáo: “Hãy cẩn thận! Sở Liêm Phóng đang chờ mày đó! – Attention! La sûreté t‟attend!” Và chính cái bài nguyện vọng làm ký giả, nhà văn để vạch trần những bất công xã hội, đấu tranh cho mọi người được hưởng ba chữ Liberté, Fraternité, Égalité – Tự Do, Bác Ái, Bình Đẳng như trong sách của chính người Pháp viết đã làm tôi bị một cái bạt tai nổ đom đóm mắt và tống cổ khỏi trường giữa năm cuối của lớp Supérieur. Năm ấy tôi mới 13 tuổi. Nhưng chính những gì mà tôi học và đọc được ngoài học đường đã sớm hình thành trong tôi một nhận thức tự nhiên như không khí, như ánh sáng mặt trời: Học trò Việt Nam, con người Việt Nam so với thằng đội đoan Tây, thằng cẩm Tây (commissaire) chỉ là dân nô lệ! Phải chống Tây, phản đối Tây, thậm chí có dịp là đánh nhau với Tây. Tôi bị đuổi học, nhưng chỉ ít ngày thôi, bởi vì chỉ cần một cú điện thoại của ông chủ-dây-thép, bố tôi, tôi lại được “réadmis” (nhận lại) với lý do chiếu cố học sinh giỏi!
Cứ tuần tự như thế tôi học dần lên cao. Hết cấp 2, lên cấp 3 gọi là Primaire Superieur, tôi nhận được gần hết các giải thưởng học giỏi hàng năm về Pháp văn. Tôi không còn hứng thú với các trò chơi khác, ngoài đọc và đọc. Càng đọc tôi càng thu nhận thêm những gì nhà trường không hề giảng dạy, đặc biệt là thích đọc những gì cấm kỵ! Nhờ trình độ Pháp văn ngày càng khá lên, tôi sớm tiếp cận tư tưởng nhân bản, tự do cao cả của Rousseau, Voltaire, Balzac, Hugo, Zola, Stendhal[13]. Tuy nhiên, dù tôi là học sinh giỏi về Pháp văn nhưng bài làm, nhất là các luận văn, thường bị phê là “lạc đề”! Lỗi của tôi là hay dẫn chứng dài dòng về những vấn đề nằm ngoài bài giảng trong lớp. Thầy Phương, người thầy duy nhất sau này đã đi theo kháng chiến, thuộc lớp các giáo sư hệ Thành Chung, khi gặp lại tôi (trong cương vị lãnh đạo Khu Giáo Dục khu III, còn tôi lúc ấy đã là nhạc sĩ) đã ôm lấy tôi và nói một câu tiếng Pháp: “Chúng ta đã trở thành đồng chí! May cho mày không bị Delorges (tên của viên chánh mật thám Thái Bình) hỏi thăm!” Kể cũng may thật, nhưng tôi chỉ chịu ảnh hưởng của sách báo tiến bộ Pháp mà bố tôi nhận được hàng tuần từ Pháp gửi sang (để chuyển cho các quan Tây), ngoài ra chẳng có ma nào giác ngộ giác nghiếc gì cho thứ hăng máu vịt như tôi cả. Bên cạnh những cái hay, cái có ích, mà tôi đọc được, cần phải kể đến hàng mớ hổ lớn những thứ lãng mạn rẻ tiền nhƣ hồi ký của Cassanova, truyện ngắn của Bocasse, những thứ thuộc loại dâm thư của Maurice de Kobra, hay Marcel Prévost... Thậm chí cả những tạp chí như Paris Magazine, Vivre-Santé (một loại Playboy thời ấy) tôi đều đọc tất tật. Nguyên nhân chính gây ra những bài làm lạc đề của tôi là do biết quá nhiều mà chẳng hiểu bao nhiêu, luôn nhảy từ chân lý này sang chân lý khác! Một thứ “không kiên định lập trường” ngay từ thiếu thời (!?) Có lẽ vì thế mà chẳng ai lôi kéo tôi vào một tổ chức có màu sắc chính trị. Chứng cớ là ngay tên “Lũy môi đỏ”, ngồi sát cánh cùng bàn, nhiều năm về sau tôi gặp lại dưới cái tên Lê Bình, hoặc tên Trần Văn Trọng, tên Nguyễn Quang Luyện về sau tôi mới biết là những người có tên tuổi trong các tổ chức làm tôi té ngửa. Kẻ theo Việt Minh, người theo Quốc Dân Đảng, Đại Việt đàng hoàng, đều hoạt động có tổ chức!! Anh nào gặp tôi cũng ngạc nhiên: “Cái thằng Tô Hải mà lại đi theo cộng sản à? Lạ thật!” Vâng! Tôi đã theo cộng sản vì các động cơ đầy nghịch lý. Tôi và nhiều bạn bè đồng khóa, đồng niên, chúng tôi đều yêu nước trong vô thức, cùng giác ngộ tinh thần tự hào dân tộc một cách tự phát nhờ sự hiểu biết xã hội thuộc địa qua thực tế, qua sách báo. Nhưng chúng tôi phần nhiều chỉ ghét Tây một cách yếu hèn, nghĩa là không dám tham gia một tổ chức nào, dù chỉ là một tổ chức như “Hội Chuối” ở trường Bưởi! Cái gương tầy liếp của Nguyễn Đình Thi, năm nào cũng bị “xe xà-lách” của mật thám đến xích tay đưa về ”thẩm vấn” đến mặt mũi xưng vù. Những ngƣời khác còn gãy cả xương sườn hoặc mất tích luôn, đã làm nhiều người hết vía. Đặc biệt các gia đình, trong đó có gia đình tôi, những năm 1943–1944 ấy rất lo lắng cho số phận những đứa con mình, chẳng gì cũng sắp thành cậu tú, cậu cử, với một tương lai “sáng rượu sâm banh tối sữa bò!”, vậy mà, chẳng mấy đứa còn chú ý tới học hành, thi cử. Tất cả cứ rối tung rối mù với các thứ phong trào yêu nước, chẳng biết con đường nào, lý tưởng nào là đúng?
Không phải lũ chúng tôi không thấy được việc nhà trường thuộc địa bắt chúng tôi phải hâm nóng tinh thần “yêu nước... mẹ” bằng bài hát Marechal, nous voilà! [14], đọc những bài viết ca ngợi tinh thần hy sinh vì nước mẹ của đại uý Đỗ Hữu Vị, chẳng qua chỉ là những mánh khoé tự vệ thuộc bản năng sinh tồn của một chế độ đang lụi tàn. Nhưng nên làm gì thì chúng tôi không biết. Anh nào anh nấy cứ ngơ ngơ ngác ngác như kẻ quáng gà đi giữa cơn tranh tối tranh sáng của thời cuộc. Mà thời cuộc thì đang đảo lộn nháo nhào. Đấy là điều giải thích cho hiện tượng vì sao lớp thanh niên mang tinh thần yêu nước chung chung như bọn tôi thời ấy dễ bị cuốn vào bất cứ phong trào nào, dù giả hiệu, dù mị dân, thậm chí phản động nếu nó được dán nhãn hiệu vì dân tộc!
Bản thân tôi, hết theo phong trào Ducouroy[15], Khỏe Vì Nước đến phong trào Đại Đông Á, Á châu của người châu Á được quân đội Thiên Hoàng quảng bá, lại đến phong trào Khất Thực, dưới thời khâm sai đại thần Phan Kế Toại[16], cầm cờ quẻ Ly đi biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim[17]. Chúng tôi mặc com-lê, xách bị đến các nhà xin vài bát cơm cứu sống những bộ xương người đang thoi thóp, la liệt khắp các nẻo đường trong nạn đói khủng khiếp tháng ba Ất Dậu mà tƣởng đâu đã dấn thân vào con đường cách mạng Cho tới nay, nghĩ về cái “khúc quanh rối rắm” đó của lịch sử, tôi không khỏi xấu hổ cho sự ngây thơ đến đáng thương của lớp trẻ chúng tôi. Tôi càng hiểu ra rằng cái vốn văn hóa dù dày đến mấy cũng không sao bì được với cái khôn, hay nói đúng hơn là thủ đoạn, của các nhà chính trị! Lợi dụng hai chữ yêu nước họ có thể lôi kéo bất kỳ ai đi theo mình. Mà họ biết cách lợi dụng lắm. Nhiều bạn thân thiết của tôi hồi ấy bỏ cả nhà lầu, xe hơi, đồn điền, nhà máy, bỏ cha mẹ, anh em lên rừng chống Pháp. Một số bỏ xác dưới cờ một trong những thủ lĩnh Quốc Dân Đảng – Đỗ Đình Đạo! Số khác may mắn hơn, nhập vào dòng lũ cách mạng đang dâng, bám lấy cán cờ Việt Minh, để rồi sau này, khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, thành đạt trên hoạn lộ. Những người này khéo giấu biến cái lý lịch Tây học, diễn tuồng “vô sản hóa” rất đẹp, đã leo tót lên những ghế lãnh đạo cao nhất trong một số ngành nghề, thậm chí một vài ghế bộ, thứ trưởng.

Có thể họ đã giác ngộ cách mạng chăng? Có thể họ đã thực sự ”tiến bộ” trong đấu tranh cách mạng, với lập trường vững vàng? Có thể khi ca ngợi cái nước Pháp của thống chế Pétain[18] họ bị nhầm lẫn chăng? Tôi không muốn nêu tên họ ở đây, vì theo tôi, họ đã tìm được một sự trung thành mới chứ không hề phản bội một lý tưởng, một chủ nghĩa nào! Mà thay đổi một niềm tin, một cách nhìn, thậm chí cả một tình yêu khi nó đã không còn mang đến hạnh phúc, tại sao lại gọi là phản bội?

Chẳng phải chính những Trần Văn Trọng, Nguyễn Bá Lai, Tô Đáng... và sau này, cả Bùi Tín[19] nữa từng “lên lớp” cho tôi về “chủ nghĩa cộng sản khoa học”, về “duy vật biện chứng” với “duy vật lịch sử”, từng “góp ý” cho tôi về cái “lập trường thiếu kiên định”, “tiểu tư sản cố hữu” của giai cấp tiểu tư sản, đã giới thiệu tôi vào Đảng, chính những người ấy sau này lại trở thành những kẻ “phản bội” đó sao? Đứa “dinh-tê”, đứa chiêu hồi, đứa trở thành chủ tiệm ăn ở Marseille, đứa gửi nắm xƣơng tàn ở California... Còn những kẻ theo cách mạng đến cùng, trong đó có tôi, dù được coi là triệt để giác ngộ cách mạng, hoặc đóng kịch giỏi để được coi là như thế, dù không bao giờ đƣợc tin yêu, tín nhiệm, hôm nay đây, còn sống hay đã chết, hoặc sống cũng như chết, khi gặp lại nhau lúc cuối đời, trong mọi cuộc hàn huyên đều đi đến một kết luận: Chẳng qua là có số cả! Số thằng Định là chết bỏ xác ở những ngày đầu Nam tiến, số thằng Trang là chết ở mặt trận Tây Tiến, số thằng Việt là quanh năm bán sới ở nước ngoài… Có một điều lạ làm tôi tới giờ vẫn không thể nào tự giải đáp: Những tên chẳng có một tí tẹo năng khiếu văn nghệ nào, học hành dốt đặc cán mai mà đi theo cách mạng lại trở thành văn nghệ sĩ, giáo sư, nghệ sĩ nhân dân, thế là thế nào? Chẳng lẽ có cả cái “số” làm nhà văn, đạo diễn, nhạc sĩ, giáo sư, tiến sĩ cho những người chưa học hết cấp trung học, chẳng một lần học qua một lớp sơ cấp đồ, rê, mi hay sao? Nghĩ cho cùng, nó chẳng kỳ lạ chút nào, và cũng chẳng khó để có được cái số đó, một khi người ta muốn hoặc bị phân công làm kỹ sư tâm hồn cho giai cấp vô sản. Thời học sinh 12 năm (chấm dứt với cuộc Cách Mạng Tháng Tám 1945) cuối cùng cũng mang lại cho tôi cái vốn quý nhất là nắm bắt được chìa khóa của văn hóa đích thực, nói theo ngôn ngữ Voltaire. Nó đã giúp tôi đi sâu vào nhiều lãnh vực văn học, nghệ thuật, triết học. Nó cũng giúp tôi hiểu rõ nước Pháp, nước Mỹ, hiểu rõ cả Marx, Engels, tìm đến những chân trời lạ qua đọc, đọc và đọc.

Nhưng cái đam mê này đã hơn một lần suýt đưa tôi đến chỗ chết, chết về cả thể xác lẫn tâm hồn, suốt chặng đường dài làm anh lính Vệ Quốc. Những chuyện cười ra nước mắt này tôi sẽ kể trong cuộc “phiêu lưu” của một cậu tú nửa mùa, không biết ăn cà, ăn mắm, dám rời bỏ gia đình, khoác áo lính lên đƣờng đánh Pháp, với niềm tin học được ở những nhà cách mạng... Pháp! Tôi phải trả giá nhiều lần cho sự ngộ nhận này, nhất là thời “giặc Pháp chạy rồi đánh ai đây?” Đối tượng cách mạng đã thay đổi? Các cuộc cách mạng mới “long trời lở đất” như “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cải tạo tư sản”, các cuộc “chỉnh huấn”, “chỉnh quân” chống tư tưởng “văn hóa thuần túy”, chống “xét lại”, chống “nghệ thuật đơn thuần”, “kỹ thuật tư sản” nhập cảng từ thiên triều của Mao sếnh xáng. Chúng diễn ra liên tục và khốc liệt, đầy nước mắt, máu, và cả xác con Lạc cháu Hồng! Là đảng viên, người lãnh đạo một đoàn nghệ thuật quân đội, dù cố gắng đến mấy để đóng kịch là kẻ vững lập trường, tôi vẫn không sao tránh khỏi bị những cơn lốc điên cuồng đó dập lên vùi xuống! Bên cạnh những “thành phần cốt cán”, tôi chỉ là một “phần tử phức tạp”, xuất thân từ “thành phần tạch tạch sè”, “chuyên đọc và tàng trữ sách Tây”! Hơn nữa, gia đình tôi lại là những “phần tử theo địch” vì bố mẹ tôi đã cùng 6 đứa em vào Nam năm 1954. Chuyện bố mẹ tôi đều là công chức chính ngạch, phải đi theo Sở làm, chỉ là cách nói không có giá trị biện bạch. Trong những cuộc đấu tranh điên cuồng, với khí thế cách mạng “hừng hực” người ta đã làm những việc có thể nói là dã man nhất đối với những người từng vào sinh ra tử suốt 9 năm đánh Pháp như tra tấn, bỏ tù, đưa đi cải tạo hàng loạt “đồng chí” với các tội danh hết sức vu vơ. Chính tôi cũng bị đấu tố, o ép, bị bắt phải nhận những “tội” tôi không hề phạm phải. Sau này, khi những thiệt hại đã sừng sững trước mắt, không thể chối bỏ, không thể che giấu, Đảng buộc phải sửa sai thì bao số phận đã tan nát, không thể nào sửa được nữa! Chưa kể những sai lầm không có tên và những nạn nhân do chúng gây ra chẳng bao giờ được sửa. Một số đã mất gia đình, sự nghiệp, nhất là tinh thần và lòng tin để có thể tiếp tục kề vai sát cánh với những kẻ xưa kia nhờ đấu tố mình đã leo lên những cương vị mà chúng chẳng bao giờ đảm nhiệm nổi. Chính vốn liếng học vấn của những người thuộc tầng lớp “tạch tạch sè” chúng tôi đã khiến bọn cơ hội nhân danh Đảng ganh ghét, tìm mọi cách loại trừ. Dù căm tức trong lòng, ngoài mặt chúng vẫn thơn thớt nói cười, vỗ vai vỗ vế, vẫn phải cắn răng xử dụng chúng tôi, chừng nào “chanh chưa hết nước”. Chính hoàn cảnh đó tạo nên nhân cách của lũ tiểu tư sản lạc loài là đầu hàng, cam chịu, chấp nhận tất cả, cúi đầu nghe lệnh, làm việc qua quít, im lặng để yên thân, để kiếm miếng cơm manh áo, thậm chí, nếu giỏi đóng kịch, giỏi lừa dối, kể cả phản bội bạn bè, có khi còn được thăng tiến vì đã “tiến bộ” (!) Riêng tôi, trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, tôi đã chọn con đường thứ hai, con đường sống hèn! Nhưng làm sao cóc có thể im mãi khi trời đổ hết cơn mưa này đến cơn mưa khác? Hơn nữa, con cóc Tô Hải lại không chịu ngồi đáy giếng mà cứ hay nhảy đây, nhảy đó để ngóng trời! Chính cái vốn tiếng Pháp ngày càng được cập nhật do hoàn cảnh hòa bình trở lại đã giúp tôi hiểu rằng trời không chỉ sắp mưa mà còn mưa lớn, còn giông bão nữa. Tôi bỗng hiểu ra hà cớ những thằng bạn cũ của tôi sau ngày chiến thắng lại bỏ ngũ, xuống Hải Phòng, vào Nam để trở thành kẻ chống cộng đến cùng bằng ngòi bút và cả súng đạn! Trước lúc chọn “con đường mới”, khi chia tay tôi, cậu Tâm, nguyên trung đội trưởng trong tiểu đoàn Ký Con, còn nói với tôi một câu bằng tiếng Pháp làm tôi ớn lạnh nhưng suốt đời không thể quên: “Chúng ta đã lầm đường. Không có chủ nghĩa cộng sản ở cái đất nước này đâu! Sẽ đến lượt mày là “đối tượng” để các nhà chính trị phát động một cuộc cách mạng mới cho mà xem!”
Và thật trớ trêu: sau 30 năm vắng bóng, hắn trở về giữa Sài Gòn trong bộ cánh Việt kiều Canada, chủ một hàng ăn lớn ở Québec, có con là bác học nguyên tử sắp về giảng dạy gì đó ở cả Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt. Gặp lại tôi với tư cách bạn học cũ, lính cụ Hồ cũ, hắn hể hả nhắc: “Tu vois? Pas de communisme dans ce pauvre pays!”[20]

Với những chứng minh thực tế của nền kinh tế mở... toang hoác, với sự cách biệt giàu nghèo sờ sờ trước mắt, cụ thể là căn hộ thuê của Nhà Nước lủng củng những đồ vật tầm tầm vứt không ai nhặt của tôi, với sự xâm nhập chưa từng có của lối sống, của nghệ thuật, của chữ nghĩa, quảng cáo, mốt áo, váy, tóc tai, thời trang quậy phá còn hơn cả Mỹ ở ngoài căn hộ ấy, hắn vạch ra cái “đúng” của hắn – chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn một thiên đường ở Việt Nam là cái chưa từng có và sẽ không bao giờ có hết. Như một võ sĩ về già bị dồn tới góc võ đài, tôi chẳng dám gật mà cũng chẳng dám lắc! Hắn nhắc tới một số bạn đồng khóa, đồng niên giờ đã về hưu với đồng lương “khôi hài” mà hắn đã đi thăm ở Hà Nội, Sài Gòn, tất nhiên có cả tôi trong đó, rồi nhận xét rằng hầu hết các bạn đều sống có nhân cách nhưng quá cực nhọc những ngày cuối đời. Hắn ước sao là triệu phú để có thể mời tất cả bạn bè cùng lớp, cùng đơn vị sang tham quan Canada một tháng, để thấy được con đường hôm nay của Việt Nam đang đi chính là con đường mà Canada đã đi cách đây cả 100 năm. Chỉ có cái khác là nền kinh tế thị trường ở đấy không có các nhà “tư bản đỏ”, nghĩa là những nhà “tư bản không cần vốn”. Các nhà tư bản thứ thiệt ở các nước văn minh phải nhảy từ lầu 32 hoặc bắn một phát súng vào đầu khi xí nghiệp của mình phá sản. Họ không biết “vén tay áo xô đốt nhà táng giấy” khi bỏ ra cả trăm triệu để chiêu đãi một nhà đầu tư “dỏm” nước ngoài, mong chấm mút được “số huê hồng” khi ký kết hợp đồng! Sau khi đưa ra những chứng cớ không thể chối cãi, hắn kết luận: “Tao là một người yêu nước không gặp thời! Vì, tao không chấp nhận cái “đạo” của chúng mày nên tao trở thành một kẻ yêu nước lưu vong!” Ôi! Cái thằng Tâm học dốt như bò, cái thằng từng bị thương vì đạn Tây trong một đơn vị lừng danh một thời ở mặt trận Đông Bắc, hôm nay không hổ thẹn chút nào về hai tiếng “phản bội”. Hôm nay trở về hắn còn lên lớp cho tôi nữa, mà lên lớp toàn bằng tiếng Pháp. Hắn nhớ khi còn học chung tôi giỏi tiếng Pháp nên muốn thử lại cái vốn tiếng Pháp của tôi đấy! Tôi chỉ biết ngậm hột thị trước thực tế quá phũ phàng mà hắn đã tích lũy từ bao giờ không biết về thực trạng nền kinh tế “thị trường bập bẹ” ở Việt Nam những năm cuối thế kỷ thứ 20. Đến câu hỏi cuối cùng “Mày hãy chỉ cho tao cái gì là xã hội chủ nghĩa ở nước này?” thì tôi bị đo ván. Tôi đành tìm cách chặn lại: “Cẩn thận! Ở đây không thiếu người biết tiếng Pháp đâu!” Hắn ré lên cười, kết luận: “À! Phải! Đó là cái còn lại của chủ nghĩa xã hội: “Cấm nói sự thật!” Và chúng tôi rẽ sang chuyện bạn bè cũ. Té ra hắn có điều kiện để nhớ tới bạn bè đồng khóa, đồng ngũ hơn tôi. Hắn đọc vanh vách, địa chỉ thằng còn sống, thằng đã chết, rồi buông một câu: “Chữ nghĩa thằng Tây “nhồi nhét” cho chúng ta đi lính cụ Hồ thì phải giấu giấu diếm diếm. Ngày nay nước nhà yên bình thì khắp nơi... tiếng Mỹ, văn hóa nghệ thuật Mỹ...công khai tràn lan, chẳng ai đụng đến! Mày biết không? Ngay ở Pháp, ở Anh, sang thế kỷ 21 sẽ không còn Shakespeare, Montesquieu, Voltaire, Balza… đâu, văn chương nghệ thuật Hollywood đang và sẽ tràn ngập khắp hành tinh. Có thánh mới chống được!”
Tôi cũng buông một câu cho sớm kết thúc: “May mà lúc ấy tao với mày chẳng còn sống để mà phải quan tâm! Après nous, le déluge!” [21]…Một cách tối ưu để cắt đứt câu chuyện bỏ dở và cái kết cũng sẽ có nếu cả hai đứa tiếp tục sống đƣợc đến năm 2010! Lẽ phải, chân lý thuộc về nó là cái chắc rồi, nhưng làm sao tôi cứ thấy nhục ơi là nhục? Chẳng lẽ tôi đành thú nhận: “Đúng! Mày đúng. Từ khi rời ghế nhà trường đi Vệ Quốc Đoàn, tao, và những thằng như tao đều “mất” nhiều hơn “được”. Thế mà không ít thằng già tay trắng trong thế hệ chúng tôi hôm nay vẫn cố nắm chặt cái “thẻ đảng”, khư khư ôm mớ huân chương bạc phếch ngong ngóng chờ dịp nào đó được lớp “cộng sản kiểu mới” thương tình bố thí cho một khoản “trợ cấp người có công”. Sự sống khốn khó sau cuộc chiến đấu trường kỳ cho độc lập, tự do và hạnh phúc đã đưa cả lũ chúng tôi vào trạng huống hèn hạ suốt đời là như vậy đó! Ôi! Cái đầu biết nghĩ, trái tim biết xúc động làm khổ những con người có học như tao, như chúng mày đấy, các bạn của tao ơi! Thằng giàu có bên xứ người cũng như thằng trắng tay trong lòng tổ quốc đều có nỗi đau tự đánh mất hết tuổi trẻ của mình. Chúng mày cảm thấy lạc lõng giữa trời Âu, Mỹ. Còn tao, đau hơn, thấy mình lạc lõng trên chính đất nước mình, ngay giữa lòng con, cháu mình. Một cuộc tha hương trên đất mẹ. Phải chăng tội của tao và chúng mày là chẳng may đã là người có học? Những kẻ vô học hãnh tiến với cái túi đầy ắp đô-la đâu phải đau nỗi đau của bọn mình? Chúng nào thấy gì khi học đòi tất cả mọi cái của nước ngoài, kể cả những mốt xấu xa nhất?
Ngày xưa, chúng ta gọi những tên hay xì xồ tiếng Tây, hay “toi, moi”[22] ầm ĩ là đồ “lọ”(!) Hôm nay chẳng ai dám lên tiếng, thậm chí còn cười hô hố khuyến khích khi thấy các cháu mẫu giáo sớm “Ai, Y-u” từ tuổi lên 3.

Cái mà ông già Nguyễn Xuân Khoát[23] nói là “mất nước về âm nhạc” thì hôm nay đã nhỡn tiền. Mất nước về văn hóa, về kinh tế, về phong cách sống, là mất cả linh hồn lẫn thể xác. Điều mà súng đạn, nhà tù không làm nổi, thì hôm nay đồng đô-la làm nổi. Không cách nào cứu vãn được tâm hồn, đạo đức của một dân tộc khi cả dân tộc đó chạy theo một cuộc thi kỳ quái được công khai khuyến khích: Làm giàu! Đáng sợ hơn là người ta thi nhau làm giàu trên cơ sở...hai bàn tay trắng và cái đầu...rỗng tuếch, cái mồm sẵn sàng nuốt tất cả sắt, thép, nhà, cửa, gỗ, quặng, xi măng... Tiền, vàng, đất đai là của “trời ơi”, “của chùa”, giờ đây nằm gọn trong tay kẻ có chức, có quyền! Cái chủ nghĩa “tư bản rừng rú”, cái thị trường tự do định hướng xã hội chủ nghĩa có một không hai trong lịch sử loài người đã đẻ ra những quái thai “tư bản đỏ”, không tài, không vốn và hầu hết không đầu! Té ra cái gọi là “lương tâm”, chỉ có lớp chúng ta mới được học đến nơi, đến chốn – Lương tâm đối với nghề nghiệp, đối với đồng loại, đối với lời hứa, lời thề và trước hết trên hết, đối với bản thân mình! Chúng ta mới dại dột làm sao! Chúng ta đã đánh đổi lương tâm trong sáng ấy lấy một thứ lương tâm đen tối không phải của mình. Lương tâm thời buổi đánh nhau của tao, của chúng mày, ơi các bạn của tôi, đều là lương tâm của...người khác! Lương tâm của ông Diệm, ông Thiệu chống cộng sản, lương tâm của ông Mác, ông Lê, ông Mao, ông Hồ không khoan nhượng với kẻ thù giai cấp! Cái lương tâm thuở ấy của chúng ta cao đẹp biết bao! Nhưng các nhà cách mạng giả hiệu, cả quốc gia lẫn quốc tế, đã lợi dụng sự khờ khạo của chúng ta để nhào nặn nó thành thứ “lập trường giai cấp” hoặc “lập trường chống cộng”. Bất cứ ai đã đứng vào một trong các lập trường ấy là mất béng cái “lương tâm” đúng nghĩa nhân bản. Chỉ còn lại cái u mê đến ngu độn: Lao vào thịt nhau cho đến khi bị người khác thịt vì không cùng một “lương tâm” với họ! Trải hơn nửa thế kỷ đi tìm con đường hợp với trái tim, khối óc, đã biết bao thằng học trò thuở 18 nhƣ tôi là nạn nhân của sự u mê, đã lầm đường lạc lối và trả giá bằng đủ mọi cách. Có những tên ghét Tây đến cùng cực, lấy mạng sống ra đuổi quân xâm lược, để rồi chết đi với ô danh “phản động”. Có những tên gục xuống trước mũi súng của bên đối lập về tư tưởng vẫn hô đả đảo thực dân Pháp bằng tiếng Tây. Đó là trường hợp Phó Bá Hùng, trường hợp cả đội tuyên truyền xung phong của Đạo, của Nở, hy sinh ngay từ ngày Hải Phòng mới nổ súng. Không một tấm huân chương, không một danh hiệu anh hùng…
Đúng vậy. Những gì làm chúng tôi sớm có trái tim yêu nước, yêu tự do và độc lập chẳng phải do một anh Hai, anh Ba, hay bác Hồ, bác Tôn nào, chẳng phải do Đảng Cộng Sản hay Đảng Lao Động nào tuyên truyền, giác ngộ cho cả. Chính những nhân vật của Corneille, của Racine [24], Molière, của Hugo, Daudet [25], Anatole France và thậm chí cả những nhân vật tích cực và tiêu cực trong lịch sử Pháp, những Jeanne d‟Arc, Richard Coeur de Lion, kể cả Robespierre, Danton, đã hằn sâu vào tâm hồn đầy sức sống và khát vọng của lớp học trò chúng tôi. Chính văn hóa Pháp đã giúp chúng tôi thấy được cái đáng yêu, cái đáng ghét, đã mở đường cho chúng tôi đến những lý tƣởng chân, thiện, mỹ. Cũng chính vì cái vốn nhân văn được giàu có thêm nhờ tự học, tự đọc, nhất là được thực tế cuộc đời dạy thêm, đã đưa lũ chúng tôi đi theo Cách Mạng, lòng phơi phới như cờ gặp gió. Nào ai ngờ... Chính cái vốn học thức cỏn con đó đã gây bao khó khăn cho cả cuộc đời bọn tôi sau này. Vào thời ấy thậm chí chẳng ai hiểu cái “lập trường vô sản” nó ra sao, ngoài cái ghét Tây và mong muốn nước nhà độc lập, tự do. Những con người đi tiên phong, sớm lên đường cũng sớm hy sinh đó chính là lớp trẻ cùng thời với tôi. Tất cả những ai đã dám bỏ cả sự nghiệp lẫn tương lai để lên đường “làm cách mạng” sau này có dịp tâm sự khi gặp nhau đều thừa nhận một điều là chúng tôi đi với cách mạng là nhờ những gì tiếp thu từ nền văn học nhân bản Pháp. Đấy là nói về lớp người có Tây học sau này bị khinh miệt gọi là “tạch tạch sè”, bị hành hạ khốn khổ vì cái sự học ấy. Cũng như mọi người Việt Nam, chúng tôi đi với cách mạng giải phóng dân tộc đơn giản vì không thể chịu đựng thân phận nô lệ.
Nhớ tới những ngày đầu cách mạng, đứng vào đội ngũ những người cầm súng đánh Tây, tôi không khỏi nghĩ tới những chàng trai tài hoa, đẹp trai, học khá đã ra đi, kẻ Nam Tiến, người Tây Tiến... Hàng loạt đã bỏ xác không tờ giấy báo tử, một số ít, nay còn sống, mỗi khi có dịp gặp nhau đều nhắc đến những bè bạn đã vĩnh viễn ra đi: Vũ Đang, Minh Thái chết ở Tiên Yên, Ba Chẽ; Tài Kính, Đăng Ích chết ở Thị Nghè, Biên Hòa; Kỳ Năng, Tử Thanh, Tử Giang, Kỳ Vẩu... chết ở mặt trận khu III, đường 5... Những người còn sống đến nay chẳng anh nào leo lên quá cái chức trung đoàn trưởng như Lê Quân, Tuấn Sơn mà đều lẹt đẹt ở cái “đại tá chiếu cố” trước khi về hưu là hết mức. Tất cả đều là những phần tử “chậm tiến bộ” với một lý do duy nhất: Họ hiểu quá nhiều, biết rõ từng... con “rận” trong chăn nên “chết” vì sự hiểu biết quá nhiều đó! Vẫn là cái “lương tâm” học được ở 12 năm đèn sách, nó không cho phép nghĩ và nói theo cái đầu và cái mồm của người khác. Tư cách của một con-người-có-học không cho phép nói đen thành trắng, không cho phép khuất phục, quì gối, thậm chí nô lệ để đổi lấy một chỗ ngồi bình an mà họ từng có quá đủ và từng vứt bỏ tất cả để ra đi. Tấn bi kịch dài của những cậu tú, cậu cử đi theo cách mạng (về sau mới biết là vô sản) bắt đầu từ chỗ đó. Có thể tóm tắt là chính cái vốn kiến thức, cho dù là Tây học, đã giúp họ vươn tới khát vọng độc lập tự do và đã hình thành một lớp tiểu tư sản trí thức đầy nhiệt huyết với tổ quốc. Nhưng cũng chính những gì họ mang trong đầu, trong tim suốt 18 năm đã ngăn cản bước đường thăng tiến, thậm chí không thể dung hòa với một bọn lãnh đạo, luôn coi họ là thành phần “tiểu tư sản trí thức không đáng tin cậy”, thậm chí là “đối tượng cần theo dõi”, “cải tạo”, đôi khi cần thẳng tay trấn áp nữa.

Những cuộc rời bỏ cách mạng, dứt áo ra đi của Ngọc Bích[26], Phạm Duy, Canh Thân[27], thậm chí của cả một số chỉ huy quân sự cao cấp thời chưa có sư đoàn như Hai Giá, Hai Trí, Trần Ích, Chu Đằng (tức Trụ) mà tôi có dịp sống gần đều do cái nguyên nhân rất cơ bản: Họ không được lòng tin của những người nhân danh cách mạng, do họ không muốn và không thể nói và làm theo cái đầu của người khác. Vậy mà tôi, một thành phần cũng chẳng kém cứng cổ, cứng đầu, tại sao tôi lại trụ lại đến cùng trên cương vị một người lính cách mạng? Con đường rẽ ngang sang làm âm nhạc đã tránh cho tôi khỏi bỏ xác nơi chiến trường như bao đồng niên, đồng khóa, đồng hương. Nhưng chính con đường văn nghệ, văn nghệ quân đội nữa, đã biến tôi thành một con người khác, đẩy tôi vào một cuộc phiêu lưu đầy bi kịch suốt đời. Tôi đã thành một kẻ hai lập trường: một lập trường của tôi đích thực mà tôi cố giấu giếm, và bên cạnh nó, lập trường của anh lính văn nghệ đảng viên Cộng Sản Việt Nam mà tôi phải chìa ra trong mọi sinh hoạt và sáng tác hàng ngày. Nói trắng ra, tôi đã phải sống hai mặt, phải đóng kịch hoan hô những cái tôi không muốn hoan hô, im lặng, thậm chí gật đầu trước những gì tôi không tán thành.
Nhưng hỡi ôi! Làm sao đóng kịch mãi mãi khi cuộc chiến tranh và đời sống quân ngũ cứ kéo dài như tưởng chừng chỉ có chết mới kết thúc. Và thế là, trước sau rồi cũng bật ra cái “mất lập trường” trên từng vấn đề cụ thể, trên những sáng tác riêng tư và nhất là trước các sự kiện chính trị trọng đại như Cải Cách Ruộng Đất, Sửa Sai, Cải Tạo Tư Sản… Nhất là sau này, từ sau những hội nghị các đảng cộng sản và công nhân họp hết lần này đến lần khác để tìm một đường lối chung mà vô phương, thay vì đoàn kết, chỉ là lớn tiếng cãi vã, thậm chí choảng nhau, và tôi đã thấy cái được gọi là “phe ta”[28] không còn là “một khối thống nhất từ Bá Linh đến Vĩnh Linh” nữa rồi.
Khi chính ở những nước chủ nghĩa cộng sản ra đời cũng như lần đầu tiên được áp dụng, người ta đã kêu lên “Vô sản tất cả các nước, buông nhau ra!” (đối lập với khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước, liên kết lại” của hai ông tổ Marx - Engels), thì phàm ai không mù cũng thấy tương lai của các nước gọi là xã hội chủ nghĩa trước sau rồi cũng... đi đứt! Nhưng đến được lúc ấy thì không ít người đã là vật hy sinh cho viễn kiến của mình! Lại một lần nữa người ta nhớ đến câu nói của người xưa: “Ceux qui ont raison trop tôt, ont tort!”[29] Với tôi, nó là chặng đường dằng dặc đầy bi hài của một kẻ ngu dại, một thằng ngốc, một thứ nhân vật của Dostoevsky vừa đáng thương vừa đáng ghét, vừa đáng khen vừa đáng trách, vừa đáng nể vừa đáng khinh! Gần 60 năm, đứng trong hàng ngũ những người làm cách mạng, rồi chiến sĩ văn nghệ, đảng viên cộng sản, chiến sĩ văn hóa vô sản, “kỹ sư tâm hồn”...tâm hồn tôi luôn bị rầy vò bởi sự phân thân bất đắc dĩ trước thực tế phũ phàng.


[1] Thái Bình nổi tiếng vì có nhiều hành khất lang thang trên cả nước.
[2] Trường tiểu học.
[3] Pierre Corneille (1606–1684) một kịch tác gia vĩ đại của Pháp.
[4] William Shakespeare (1564–1616), kịch tác gia vĩ đại, người Anh.
[5] Thời gian của cuộc kháng chiến chống Pháp, thơ Tố Hữu.
[6] Hai trường Tây nổi tiếng ở Hà Nội thời đó.
[7] Robert Stephenson Smyth Baden-Powell, trung tướng quân đội hoàng gia Anh (1857–1941), người sáng lập tổ chức Hướng Đạo Sinh.
[8] Faute (tiếng Pháp = lỗi).
[9] Têtu (tiếng Pháp = bướng bỉnh, cứng đầu).
[10] Boxeur (tiếng Pháp = võ sĩ).
[11] Nguyễn Công Hoan (1903–1977), nhà văn nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ thập niên 30 thế kỷ 20.
[12] Đuổi học tạm thời vì tội phá quấy, tiếng Pháp.
[13] Các triết gia, nhà văn, học giả Pháp: Jean-Jacques Rousseau (1712–1778); Voltaire, tên thật là François-Marie Arouet (1694–1778); Honoré de Balzac (1799–1850); Victor Hugo (1802–1885); Émile François Zola (1840–1902); Stendhal, tên thật là Marie-Henri Beyle (1783–1842).
[14] Hỡi Thống chế, có chúng tôi đây! Bài hát ca ngợi thống chế Pétain, người hùng Pháp gian với chính phủ bù nhìn Vichy theo phát-xít Đức.
[15] Phong trào thể thao do đại tá Pháp Ducouroy khởi xướng, rất sôi nổi với cuộc đua xe đạp Vòng Quanh Đông Dương.
[16] Phan Kế Toại (1892–1992), nguyên Khâm Sai Bắc Bộ của chính phủ Trần Trọng Kim (Đế Quốc Việt Nam), phó thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhiệm kỳ 1955–1961.
[17] Trần Trọng Kim (1883–1953), học giả danh tiếng, từng đứng đầu chính phủ Đế Quốc Việt Nam (thân Nhật) năm 1945.
[18] Henri Pétain (1856–1951), người hùng trong trận Verdun (thế chiến thứ nhất), sau này cộng tác với phát xít Đức trong thế chiến thứ hai, đứng đầu chính phủ Vichy.
[19] Bùi Tín (1927), nhà báo quân đội CS, ra khỏi quân đội với hàm đại tá, tác giả nhiều cuốn sách chống chế độ CSVN, hiện sống tại Pháp.
[20] Mày thấy chưa? Làm gì có chủ nghĩa cộng sản ở cái xứ khốn khổ này! – tiếng Pháp.
[21] Ta chết rồi thì có hồng thuỷ cũng bằng không! – tiếng Pháp.
[22] Đọc: toa, moa (tiếng Pháp).
[23] Nguyễn Xuân Khoát (1910–1993) nhạc sĩ, chủ tịch đầu tiên của Hội Nhạc Sĩ Việt Nam (miền Bắc)
[24] Jean Racine (1639–1699) cùng với Molière và Corneille là 3 nhà soạn kịch vĩ đại của văn học Pháp thế kỷ 19.
[25] Alphonse Daudet (1840–1897) nhà văn Pháp.
[26] Ngọc Bích, nhạc sĩ trong kháng chiến chống Pháp với những ca khúc Mộng Chiều Xuân, Tình Khúc Chiều Mưa…
[27] Canh Thân, nhạc sĩ trong thời kỳ được gọi là “nhạc tiền chiến” với những ca khúc Cô Hàng Cà Phê, Vĩ Dạ Đò Trăng…
[28] Phe xã hội chủ nghĩa, gồm các nước do đảng cộng sản cai trị.
[29] Những kẻ có lý quá sớm là kẻ sai lầm! – tiếng Pháp.


Chương 5

BƯỚC NGOẶT ĐỊNH MỆNH


Tôi không thích thơ Vũ Hoàng Chương ([1]) cho lắm, nhưng câu: “Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ”... của anh, tôi vẫn thấy đúng, ít nhất là với lũ chúng tôi, có lòng yêu nước, biết ghét thằng Tây thực dân nhưng sinh ra và lớn lên giữa cái thời mọi sự đều đảo lộn.

Đại chiến thứ II với những đảng phái đủ kiểu tên gọi mọc ra hàng loạt... Rồi Nhật lật Pháp. Cờ mặt trời kéo lên. Cờ tam tài hạ xuống. Chủ nghĩa Đại Đông Á với những bài ca Aikoku, Shina no Yoru... những bộ phim võ sĩ đạo, những ngôi sao điện ảnh ca nhạc Phù Tang xinh đẹp kiểu Setsuko Hara ([2]) đang lôi cuốn chúng tôi vào niềm tự hào “Á châu của người châu Á” thì... bom Mỹ đổ xuống chợ Hàng Da, Quần Ngựa. Các trường học đều phải di tản.

Mọi sự thay đổi với tốc độ chóng mặt. Mới cách đó có vài tháng, hàng ngày lớp trẻ Việt Nam còn buộc phải chào cờ Pháp, hát bài ca tụng “vị cứu tinh của nước Pháp” là thống chế Pétain, thì đã đến một thời khác với câu ca “Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng... ” dưới bóng cờ Nhật và cờ vàng quẻ ly!

Bảo Đại, khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, ông nào cũng nói Độc Lập và hô hào dân chúng “đứng lên xây dựng nước nhà”!

Tiếng đồn về một tổ chức Việt Minh được người Mỹ trang bị và huấn luyện, có cả máy bay hai thân tiếp tế, có quân Đồng Minh giúp sức, đã cướp chính quyền ở miền ngược. Còn giáp giới Trung Hoa thì có cả ngàn quân cách mạng Quốc Dân Đảng đầy đủ súng ống do Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ, sẽ trở về thủ đô cướp chính quyền.

Lắm tin đồn, lắm chuyện “dệt gấm thêu hoa” khiến lớp trẻ lúc ấy chán ngấy cảnh học đường bát nháo, chỉ muốn “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”, như một “chiến sĩ anh hùng”, hoặc chí ít cũng thoát cảnh bế tắc trong cuộc sống rối bời canh hẹ từ trong nhà ra ngoài phố.

Chẳng có gì lạ khi trong một lớp học, kẻ theo Quốc Dân Đảng, kẻ theo Việt Minh mà trong đầu chẳng hiểu ai cách mạng, ai cơ hội, ai phản động, ai phản động với ai?

Với những nông dân nghèo sắp chết đói thì con đường cầm súng đánh Tây là con đường duy nhất để tự cứu mình! Lớp chúng tôi, không nghèo đói, nhưng chưa giàu tới mức có thể lánh sang “nước mẹ” như Phạm Kỳ Nam, Thẩm Võ Hoàng ([3]), là lớp trẻ hăng tiết vịt nhưng đại mù quáng sẵn sàng cầm súng lên đường theo... bất cứ ai, miễn họ nói: “Đánh Tây giành độc lập!”.

Chẳng có giác ngộ cách mạng cách miếc gì!

Thằng nào không bị mang tiếng “phản động” thì được người của Việt Minh móc nối! Tôi là người may mắn hay không may mắn, được Tô Kim Châu, giáo dục tuyên truyền chủ nghĩa cách mạng chân chính. Ông bơm vào lắm huyền thoại về Việt Minh, về Nguyễn Ái Quốc cho ba anh em chúng tôi, Tô Như Khuê, Tô Huy Hoán và tôi. Những bài học chính trị và cả những bài hát như Tiến Quân Ca ông mang về sau những chuyến đi vắng nhà cả tháng đã khơi dậy trong tôi niềm tin vào chủ nghĩa yêu nước chân chính mà đại diện là ông Nguyễn Ái Quốc. Và cả 3 chúng tôi đều trở thành chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn ngay từ ngày đầu cách mạng tháng 8. Tô Như Khuê suýt bỏ mạng ở Tiên Yên, Ba Chẽ sau này trở thành giáo sư Đại Học Quân Y, hàm đại tá. Tô Huy Hoán, một thời làm tư lệnh trưởng binh chủng Công Binh cũng về hưu với hàm đại tá. Còn tôi, qua hai trường quân sự tốt nghiệp có văn bằng hẳn hoi thì trở thành... nhạc sĩ!

Điều bi hài nhất trong cuộc đổi đời này là số phận của chính người giác ngộ cách mạng cho chúng tôi, anh Tô Kim Châu. Sau những năm hoạt động tích cực cho phong trào Bình Dân Học Vụ, cho Việt Minh, anh theo kháng chiến. Bẵng đi mấy năm không tin tức, tôi được tin anh đã “dinh tê” ([4])! Sau năm 1954 khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi trở về Hà Nội thì nghe tin anh đã vào Nam với chức trung tá luật sư chưởng lý tòa án binh... “ngụy”!

Năm 1975, tôi vào Sài Gòn gặp anh đúng một lần thì anh bị bắt đi “học tập cải tạo”! Mười một năm sau anh mới trở về, mặc dầu anh là sĩ quan biệt phái làm chuyên môn do có bằng cử nhân luật, chứ chẳng cầm súng ngày nào. Anh chỉ có một tội không thể tha thứ là ngoan cố tới cùng: Suốt thời gian cải tạo anh không chịu nhận tội làm tay sai mà trưng ra bằng chứng là anh đã nhiều lần phanh phui tội của các cấp chỉ huy cao nhất trong quân đội VNCH như vụ Đỗ Cao Trí buôn thuốc phiện, vụ Nguyễn Văn Vỹ “nuốt” cả hàng loạt thang máy...

Những ngày này, ở tuổi ngoài 80, anh vẫn không hối hận về chuyện “phản bội” cũng như chuyện “ngoan cố” của mình. Anh nói: “Tôi là người yêu nước nhưng tôi không thể nào yêu cái chủ nghĩa cộng sản của các chú được. Vì đối với tôi, nó cực kỳ duy tâm, nó là vô đạo lý và chỉ là một mớ lý thuyết phản khoa học mà một số người muốn dựa vào để kiếm chác quyền lực. Khi tôi cọ xát với mấy ông cộng sản thì tôi thấy mình tránh xa các ông ấy là đúng! Bỏ cộng sản “dinh tê” vì họ đã... phản động đối với tôi khi mời tôi ra làm việc như chú đã biết đấy. Đến hôm nay chú đã trắng mắt ra chưa? Còn gì là cái “chủ nghĩa không có thực đó” ở trên trái đất và ngay ở đất nước Việt Nam này?” Tôi không tán thành chủ nghĩa cộng sản, không tán thành cách làm ăn không lương thiện của mấy ông miệng nói một đằng, tay làm một nẻo. Tôi không yêu nước theo kiểu các ông vì các ông đã phản động đối với tôi!. Tôi đi tìm con đường khác. Tôi thất vọng với đám Thiệu, Kỳ bao nhiêu thì tuyệt vọng với cái Xã Hội Chủ Nghĩa dã man của các ông gấp bội. Làm gì có chủ nghĩa cộng sản duy tâm ở trên đời này và cái “thiên đường” cộng sản đó càng không thể nào có, cũng chưa bao giờ có ở cái nước Việt Nam mà bất công xã hội có lẽ đứng đầu thế giới hiện nay. Cứ lấy ngay cái lương của ông, (tức là tôi) của cháu Vũ đây ra mà ngẫm xem. Có bằng nửa lương của bà quét rác không?”

Ôi! Con người đã giác ngộ cách mạng cho tôi cách đây 50 năm hôm nay vẫn còn “ngoan cố” lắm dù đã qua 11 năm “cải tạo”! Gặp anh Châu những ngày tôi bước vào tuổi thất thập cổ lai hy, tôi như sống lại những ngày tiền khởi nghĩa. Vẫn cái điệu bộ nói năng như đinh đóng cột của một ông sắp giật tấm bằng cử nhân luật bỏ nghề đi dạy i tờ, lên chiến khu họp Việt Minh, trở về với điệu bộ nửa bí mật, nửa công khai báo cho chúng tôi biết: “Nhật sắp đầu hàng, thời cơ cướp chính quyền trong tay Pháp-Nhật đã đến. Toàn dân phải đứng dậy! Ngòi nổ trong các thành phố phải là học sinh, sinh viên vv...” Lúc ấy, anh Châu là thần tượng của chúng tôi, nhất là khi chính bố tôi cũng trở thành một thành viên tích cực hạng nhất của cái đảng gọi là đảng Dân Chủ. Ông là người ghét Pháp cực kỳ nhưng cũng... chống cộng kiên định!

Ngay trong một gia đình như gia đình tôi đã loạn xà ngầu các màu sắc cách mạng rồi! Trước 19-8-1945 độ một tuần, tôi được kết nạp vào tự vệ chiến đấu. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là cất giấu hai khẩu súng Nhật không có đạn và một khẩu Pạc-hoọc gãy báng gỗ cho Việt Minh, còn bố tôi là thủ quỹ cho cái đảng mà anh Châu gọi là đảng xôi thịt!

Sự phân hóa trong gia đình tôi càng rõ trong những ngày tháng 8 năm 1945 ấy. Tôi như người “say” cách mạng, còn bố tôi thì dè bỉu, chửi bới hết lời. Phản ứng tức thời của ông ngày ấy là bỏ việc, mặc dầu người ta vẫn tín nhiệm khả năng chuyên môn của ông, nhưng chức chủ nhiệm sở bưu điện đã thuộc về một người mà theo bố tôi là “dân ngu khu đen!” Vì sự cách biệt về chính kiến, giữa hai cha con thường xuyên nổ ra tranh cãi dữ dội, có khi kết thúc bằng một cái bạt tai nổ đom đóm cho dù lúc ấy tôi đã tròn 18 tuổi! Tôi không thể chịu đựng thêm nữa sự đàn áp của bố và quyết tâm thoát khỏi sự ràng buộc khi có dịp. Dịp đó đã đến khi đội tự vệ chiến đấu do tôi chỉ huy được lệnh của tổ chức –– lúc ấy tôi không rõ là tổ chức nào –– sẽ sáp nhập vào tiểu đoàn Vệ Quốc Quân đầu tiên: Tiểu đoàn Thái Bình. Người chỉ huy tiểu đoàn này là ông đội khố xanh Dương Hữu Miên, ở cách nhà tôi có ba căn. Cái đó làm tôi ngạc nhiên đến sững sờ. Sau này tôi còn được biết thêm ông Ngô Lân, quản khố đỏ, trung đoàn trưởng trung đoàn Uông Bí; các ông An Giao, Võ An Khang, Mạnh Hùng, Hai Giá, Hai Trí đều từ hàng ngũ quân đội thực dân, nắm quyền chỉ huy nhiều đơn vị Vệ Quốc Đoàn ở Chiến Khu III buổi ban đầu đó. Chính quá trình làm “tay sai cho giặc” đã khơi dậy ý chí quyết tâm đứng lên xóa bỏ thân phận nô lệ, và họ đã rời bỏ mọi thứ quyền lực, địa vị, gia đình, tiền bạc để đi theo Cách Mạng. Thời ấy, một ông quản khố xanh (adjudent), một ông đội khố đỏ đã được gọi là “quan” và có cuộc sống ngang hàng với một chủ nhiệm cỡ bố tôi chứ chưa nói đến một lieutenant (trung uý) như ông Hai Giá, ông Hai Trí... Vậy mà họ ghét Tây, căm thù Tây, đứng lên cầm súng Tây bắn lại Tây. Tiếc thay, những con người đáng yêu và đáng kính đó, càng sống lâu với cách mạng họ càng thấy rõ chẳng bao giờ được cách mạng tin tưởng 100%! Trong lý lịch của họ, không bao giờ xóa đi mấy chữ hạ sĩ quan, sĩ quan quân đội địch!

Tổ chức –– sau này tôi mới biết đó là các chi bộ cộng sản giả vờ giải tán –– không bao giờ coi họ là đáng tin cậy để đưa họ vào hàng ngũ những người “tiên phong, ưu tú nhất của giai cấp vô sản”. Mãi những năm 1950, hầu như các trung đoàn trưởng của các trung đoàn tập trung đầu tiên tại Liên Khu III vẫn không phải đảng viên mà chỉ là “quần chúng cần được theo dõi, giúp đỡ, giáo dục”!

Tôi càng rõ hơn điều này khi được điều động về làm “lính kiểng” của Bộ Tư Lệnh Liên Khu III. Tôi đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trước hiện tượng phân biệt đối xử trong hàng ngũ kháng chiến. Thế nào mới là người yêu nước? Câu hỏi đó thường trực dằn vặt tâm trí tôi cho đến suốt đời. Bỏ tất cả: gia đình, nhà cửa, mọi quyền lợi đang có, ra đi cầm súng đánh Tây, ngã gục trước làn đạn của quân thù vẫn hô to “Việt Nam độc lập muôn năm”, hùng hồn tuyên bố trước khi nhận viên đạn bắn thẳng vào đầu của kẻ thù:“Nous sommes des vainqueurs – Chúng tao là kẻ chiến thắng”. Đó là trường hợp xảy ra với anh Đạo, đội trưởng đội Tuyên Truyền Xung Phong trong vụ tử thủ Nhà Hát Lớn Hải Phòng. Sự hy sinh như thế chẳng phải là tấm gương yêu nước đáng nêu danh muôn đời? Vậy mà tới nay, có lẽ ngoài tôi dâng lên hương hồn họ bằng bài viết “Một nén nhang cho những người chiến sĩ văn nghệ vô danh” ([5]) chẳng còn ai nhắc đến họ. Ôi! Những Tử Giang, Kỳ vẩu, Hãn béo, Hãn đen, những Kính ngổ, Thái tồ... Họ đã chết, chết rất sớm và không ít người còn bị mang cái tiếng “Anh hùng cá nhân tiểu tư sản!”

Chính những hy sinh cao cả của họ đã là nguồn cảm hứng để tôi viết những câu “Chờ chồng, mong con về ngày chiến thắng, trong toán quân về đếm thiếu những ai?”... trong bài Trở Lại Đô Thành. Nó cũng là một báo hiệu về khúc quanh mới trong cuộc đời khốn nạn của tôi, con đường văn nghệ, con đường sẽ dẫn tôi lên thác xuống ghềnh, sứt đầu, mẻ trán kể cả suýt “thân bại danh liệt”! Lý do duy nhất: trái tim tôi không cùng nhịp đập với những kẻ nắm sinh mạng con người trong tay mà đầu thì chứa toàn bã đậu, tâm hồn thì đen tối, bẩn thỉu!

Hàng loạt ca khúc được viết trong thời kỳ làm lính, “một cách để được nói thật với chính mình”, của Canh Thân, Ngọc Bích, Việt Lang ([6]) ở Khu III, của Đoàn Chuẩn ([7]), Hoàng Giác ([8]), Tô Vũ ([9]) ở Việt Bắc và của tôi ở các đơn vị Khu III, Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn, ở Khu IV sau này đã bị những cú “đánh chết tươi” vì “sặc mùi tiểu tư sản ủy mị”, “mất lập trường”, thậm chí “ảnh hưởng tai hại đến tinh thần chiến đấu” của quân đội! Tất cả những gian truân, đau khổ, chịu đựng vượt quá sức con người, đẩy họ tới những quyết định “thề chết không cầm bút, cầm đàn nữa” như trường hợp Việt Lang, Hữu Loan ([10])…

Tôi, cũng như bao nhiêu thanh niên thời ấy, bị cuốn hút bởi đủ thứ ngôn từ sáo rỗng, nào “vung gươm ra sa trường” dù cho “da ngựa bọc thây”, “thề phanh thây, uống máu quân thù...” mà giờ đây, phải thấy là “tuyên truyền kích động rẻ tiền” thậm chí sặc mùi chém giết dã man mà vẫn quyết chí “ra đi không hẹn ngày về”.

Trong số bạn đồng khoá với tôi lên đường Nam tiến chỉ còn sót lại Bùi Xuân Vĩnh, hiện là bác sĩ ngoài Đảng, do nửa đường ngã bệnh!

Toàn bộ đoàn quân Tây Tiến đón đoàn quân Diên An cũng thế, gần như không một ai trở lại. Họ đã lần lượt ra đi vì sốt rét ác tính, nhiều người còn chưa được một lần nổ súng diệt một kẻ thù nào. Chỉ có tiếng cồng tiễn đưa họ về nơi ngàn suối. Chỉ một tiếng cồng mà thôi, để báo đã có một “chiến sĩ anh hùng” bỏ xác nơi rừng thiêng nước độc! Nếu có tiếng thứ hai, thứ ba, thứ bốn... thì đó là thêm người thứ hai, thứ ba, thứ bốn... Bài Tiếng Cồng Quân Y của đại đội trưởng Vũ Như Trang đã được viết bằng trái tim anh trong cảnh chính anh nằm chờ tiếng cồng dành cho mình. Đến hôm nay, người ta cố tình lờ đi không dám phục hồi bài ca chiêu hồn ấy dù đã phục hồi bài thơ của Quang Dũng ([11]) “Tây tiến đoàn quân không mọc tóc...”

Bài thơ của Quang Dũng ít ghê rợn hơn, ít làm mất tinh thần chiến đấu của “quân đội nhân dân anh hùng” hơn chăng? Có một lý do mà chỉ người cùng thời đó biết, nhưng không ai muốn cải chính khi thấy bạn mình được “tô hồng” sau nhiều năm bị đánh đấm đến nỗi từ một ông hộ pháp trở thành chàng thi sĩ gày còm, không một xu dính túi nhưng vẫn sống trong sáng, hiền lành, giản dị, vị tha đến cuối đời. Quang Dũng may mắn không phải lính chiến như Trang, như Đức, như nhiều bạn bè của tôi, của anh. Anh được bộ chỉ huy Tây Tiến xếp cho làm “lính kiểng”, nghĩa là không bị nằm đợi tiếng cồng báo tử như tác giả của Tiếng Cồng Quân Y! Còn tôi, cái số cũng y như Quang Dũng, nghĩa là vừa vào Vệ Quốc Đoàn đã bị kéo ngay về Bộ Tư Lệnh Chiến Khu III vì biết nói tiếng Tây và biết hát, biết đàn!

Khi Hải Phòng nổ phát súng đầu tiên ([12]), tôi vẫn chưa học qua một lớp huấn luyện quân sự nào. Vậy mà tôi đã thản nhiên nằm giữa đường Cát Dài, trụ sở của Phòng Quân Nhu, cùng hai chú “lính cậu” như tôi là Lê Kim Ưởng và Nguyễn Đăng. Với khẩu thompson mua được của mấy tay “bấu xấu” ngoài cảng chúng tôi yên trí sẽ diệt không sót tên Pháp nào dám lại gần! Sự ngây thơ đến tội nghiệp này đã cướp đi mạng sống của hàng loạt lính kiểng trong đó có Đang là tay chơi ghi-ta Ha-oai trong nhóm “văn nghệ ngoài giờ” của chúng tôi. Lý do: Suốt ba ngày phục kích một cách lộ liễu, chúng tôi chẳng thấy một thằng Tây nào xuất hiện. Trái lại, đạn súng cối và trái phá đủ cỡ đủ kiểu liên hồi đổ xuống mọi vị trí làm bọn tôi không ít lần suýt mất mạng. Mãi sau này, đi học quân sự tôi mới hiểu bố trí đánh địch như thế khác nào “lạy ông tôi ở bụi này” hoặc “thân xác chúng tôi đây, xin mời các ông làm món chả nướng!” Cứ tưởng bắn hạ kẻ thù dễ như trong phim ảnh và mình là một Ken Maynard, một Charles Starett, một Gary Cooper ([13]) của Việt Nam vậy! Té ra “giết người có tổ chức” cũng phải có nghề, trời ạ! Đâu phải chỉ dăm bảy ngày chạy sang học lỏm vài ngón nghề chiến đấu ở đại đội Lê Khắc Tư đóng bên cạnh là đủ tài, đủ sức “diệt hết quân thù”. Và sự thật rành rành là quân thù đã diệt biết bao bạn bè tôi chỉ vì chúng tôi xông vào lò lửa chiến tranh không một trang bị kiến thức chiến đấu tối thiểu. Chúng tôi “hy sinh cho Tổ Quốc” ngay khi chưa kịp bắn viên đạn đầu tiên!

Riêng bản thân tôi, nói có Trời Đất, có Phật, Chúa, có Đức Allah, quả tình tôi chưa kịp bắn viên đạn nào khỏi nòng súng, chưa được chứng kiến kẻ thù nào chết ra sao! Nói cách khác, tôi đã thoát cái tội số một nơi Mười Điều Răn trong giáo lý Thiên Chúa giáo là tội “giết người”. Được cái vào thời gian ấy, tội ấy không những không bị lên án mà còn được khen ngợi! “Giết người có lý tưởng”, “giết người vì mục đích cao cả”, “vì giai cấp”, “vì chính nghĩa”...

Thế nhưng số phận lại đùa cợt với tôi bằng cách đẩy tôi vào con đường... quân sự! Đó là đầu năm 1947, ăn Tết xong, đại tá Hoàng Minh Thảo ([14]) ký quyết định cho tôi về học Trường Quân Chính Nguyễn Huệ Khóa I để trở thành người chỉ huy có bài bản sau này. Tôi đã mừng rỡ khi được hỏi “Thích về Đội Tuyên Truyền hay về Trường Quân Sự?” và trả lời: “Tôi thích làm nghề võ!” Thế là bắt đầu một sự trái khoáy đến không ngờ! Chính từ cái trường “võ” đầu tiên này mà tôi thành quan “văn nghệ”: nhạc sĩ nghiệp dư! Số là Trường Quân Chính tuy của Khu III, nhưng tập hợp gần như tất cả “tinh hoa” (về văn hóa) của bộ đội mà hầu hết là trai Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình. Ngoài những giờ luyện tập vất vả ở thao trường thì các giờ lên lớp về lý thuyết như đạn đạo parabole, thuốc nổ TNT, cấu tạo đạn lõm... đều đòi hỏi học viên một vốn văn hóa chí ít cũng là đíp-lôm (tốt nghiệp trung học cơ sở). Những người gọi là có văn hóa, sinh hoạt bên nhau suốt dọc sông hai huyện Phù Dực và Quỳnh Côi, Thái Bình tất nhiên cũng cần đến những món ăn tinh thần mà thời đó, chẳng có gì ngoài bích báo và... hát. Hàng loạt “nhạc sĩ, ca sĩ” “tự túc” đã trưởng thành ở những lò quân sự, nơi không ít học viên đều rành mấy khúc hát của Vincent Scotto, vài khúc đàn của Schubert, Chopin, Beethoven... để khi rảnh rỗi, hát lên nỗi lòng mình y hệt các nhóm Pop-Rock A-A author-actor sau này. Trước kia, mỗi người ở một đơn vị thì hoạt động văn nghệ đơn lẻ này chẳng được mấy khuyến khích, thậm chí mấy ông chỉ huy bần cố nông còn cho là “trò chơi tư sản”. Nay được quây quần bên nhau, anh chiếc violon cà tàng, anh chiếc măng-đô-lin, cây ghi ta thùng sứt sẹo, đã thành một dàn nhạc. Hơn thế nữa, một học viên nguyên là dân chơi saxophone ténor ở bar dancing cũng sách kèn về nhập trường. Thế là, song song với việc học quân sự, chúng tôi hình thành một nhóm hoạt động âm nhạc cũng hòa tấu, cũng đệm cho đồng ca, đơn ca... “Tiếng lành đồn xa, tiếng hát vang xa”, chúng tôi thường được mời đi biểu diễn hội nghị này, hội nghị nọ, có lúc được miễn mọi công tác (gác đêm, tuần tra) và mọi “công vụ” (lấy gạo, kiếm củi) để lo tập tành văn nghệ. Trường tới đâu là địa phương đó vui hẳn lên như có gánh tuồng nào tới nhưng cũng đem lại nỗi lo cho nhiều người vì lắm khi tiếng đàn, tiếng kèn làm át cả tiếng máy bay Spitfire, Junker bỏ bom ngay ở đầu chợ, cuối làng.

Những bài hát đầu tay của tôi ra đời chính do yêu cầu của cái tổ chức văn nghệ bán chuyên nghiệp nhưng hết sức “có nghề” này. Bài Chiến Sĩ Khu III, Về Rừng Núi tôi “viết” (đúng hơn là “phịa” ra) chỉ vì đào đâu ra bài mới có son-phe đàng hoàng để dàn nhạc tồn tại nếu không có người biết viết nhạc lên giấy như tôi. Vậy mà dưới bàn tay chỉ huy và sắp xếp (lúc đó đâu có khái niệm phối khí) của thầy Quảng, một thầy dòng phá giới, với sự tham gia ý kiến, nhất là nhiệt tình say mê “chơi cho chính mình, động viên chính mình”, những sáng tác đó đã “sống huy hoàng” cho đến khi tôi... mãn khóa!

Số phận đã đưa đẩy tôi mắc phải và không gỡ nổi cái nghề âm nhạc đến cuối đời. Còn các bạn cùng chơi nhạc, cùng trình độ văn hóa âm nhạc như tôi hoặc hơn tôi thì kẻ ra mặt trận, người về quân nhạc. Nhưng tất cả đều nửa đường đứt gánh hoặc hy sinh như Tử Giang (sáo), Kỳ vẩu (violon). Còn lại dăm ba người nặng nợ với cây kèn, cây sáo như thầy Quảng, Bảng, Căn...thì sau này được thêm vài ngôi sao trên vai trong các đội lính kèn, có dịp gặp lại tôi đều tỏ ra ngán ngẩm cho cái nghề âm nhạc quanh đi quẩn lại hết phục vụ chào cờ đến tang lễ! Vài người còn như trách tôi về cái tội “đầu têu” trò âm nhạc “cây nhà lá vườn” năm xưa để họ lẹt đẹt mãi tới bây giờ! Với tôi, cả một lớp trẻ làm văn nghệ bằng văn hóa và trái tim lúc đó mới là nhạc sĩ đích thực! Tôi dám khẳng định là một số nay tuy đã trở thành bác sĩ, giáo sư, thậm chí đang chết dần chết mòn ở nước ngoài vì trốn chạy cộng sản còn giỏi âm nhạc gấp ngàn lần mấy vị hội viên Hội Nhạc Sĩ Việt Nam hôm nay! Họ đã kiên quyết “giã từ vũ khí” khi thứ vũ khí đó quay lại hại mình!

Số là hầu hết những gì chúng tôi có trong hành trang âm nhạc chỉ là những cái mà nhà trường, sách vở, phim ảnh Pháp, Mỹ, đĩa hát 78 vòng/phút, thậm chí cả nhà thờ Công Giáo, nhà thờ Tin Lành trang bị cho! Thời ấy ảnh hưởng của đài phát thanh, truyền hình đâu đã có. Còn nội dung thì đâu biết cái gì là “âm nhạc đế quốc”, cái gì là “âm nhạc cách mạng”? Thấy Marché Persan, Beau Danube Bleu, Calife de Bagdad... hay là tập, là “vác” ra đánh cho anh em, đồng bào nghe để mua vui không mất tiền và vui cho chính mình. Thế thôi! Vậy mà, không ít kẻ đã ghép chúng tôi vào tội “tuyên truyền văn hóa đế quốc” “đi theo giai cấp vô sản mà còn sặc mùi tiểu tư sản”!

May thay, cũng không ít người có chức có quyền lúc ấy, cụ thể là ban giám đốc Trường Quân Chính Nguyễn Huệ gồm các ông Dương Chính, Võ An Khang lại dám bảo lãnh để ban nhạc chúng tôi “sống được”. Chính các ông, cùng hai sĩ quan quân đội Pháp trong ban giám hiệu lúc bấy giờ –– ông Hai Giá và ông Hai Trí –– đã trả giá cho sự hiểu biết đúng đắn của mình. Nghe đâu, sau khi bất mãn, trở về thành, hai ông đã bị người Pháp sát hại. Còn ông Dương Chính thì tới những năm 70, khi đi công tác tại Hải Phòng, tôi gặp lại ông trên cương vị một ông già bán chè chén trên hè đường Trần Phú! Gặp tôi, ông bắt tay vồn vã và tung ngay một câu tiếng Tây: “Félicitations! Que Dieu te bénisse! – Chúc mừng! Chúa phù hộ cho mày!” Ông còn bộc lộ: “Chúa không phù hộ tao nên tao không tồn tại, còn mày sặc máu “tạch tạch sè” thế mà vẫn sống, vẫn có tên trên báo, trên đài chẳng phải là Chúa phù hộ hay sao!” Chuyện trò với ông cả một đêm mới biết, ông đã bị khai trừ khỏi Đảng, suýt mất mạng vì bị đấu tố, phải nhận tội “mất lập trường nghiêm trọng”, “mất cảnh giác chính trị”, thậm chí còn bị tra hỏi vì sao chui được vào Đảng từ lúc cách mạng chưa thành công? Tất cả chỉ vì ông là một trí thức, một cậu tú đeo kính trắng mà lại đứng trong hàng ngũ nông dân mặc áo lính! Hơn nữa, ông lại chỉ huy và quyết định số phận của họ thì họ quyết không thể chấp nhận! Không ít người như ông Chính chẳng những bị khai trừ khỏi Đảng mà còn bị khai trừ luôn khỏi mặt đất!

Ngay từ thời đấu tranh giảm tô giảm tức năm 1953, không biết bao nhiêu cán bộ kỳ cựu đã là nạn nhân của làn sóng nông dân chủ nghĩa vô nhân tính, vô luân lý và cả vô chính phủ, đã đẩy không biết bao con người thiết tha yêu đất nước tới con đường không lối thoát. Và họ đã phải tìm cách TRỞ VỀ thậm chí TRỞ CỜ, “chống Cộng đến cùng”. Có thể kể hàng loạt tên trong giới văn nghệ như Đoàn Phú Tứ ([15]), Doãn Quốc Sĩ ([16]), Nguyễn Mạnh Côn ([17])... và những tên tuổi sống dở chết dở vì các vụ đàn áp liên tục những cái đầu không chịu cúi, những bộ óc luôn hoạt động, đặc biệt là những lời lẽ đanh thép luôn quá đúng, quá phải, khiến kẻ cầm quyền vô học phải sợ phát điên phát khùng mà cho họ vào tù, giết dần giết mòn hoặc khoác cho những tội phản quốc, Việt gian chẳng cần đưa ra tòa xét xử. Một số, sau này được “lẳng lặng phục hồi” không kèn không trống, không văn bản, không xin lỗi... như nhà triết học Trần Đức Thảo ([18]), luật sư Nguyễn Mạnh Tường ([19]), Nguyễn Hữu Đang ([20]), Hữu Loan, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm ([21])... Tất cả, họ đều không có sức chịu đựng những áp đặt vô lý của nhóm người vô học, hãnh tiến và tàn bạo. Trừ một số “bye, bye” cách mạng, số còn lại, hoặc chuyển nghề hoặc bị đi “cải tạo” hoặc “im lặng chờ thời”! Tôi thuộc nhóm thực sự cải tạo...vờ. Nghĩa là vờ giã từ tất cả Nụ Cười Sơn Cước, Đứt Dây Đàn, Chán Chường... để toàn tâm, toàn ý phục vụ cách mạng. Kết quả là năm 1949, tôi được kết nạp vào Đảng với thành tích cực kỳ hiếm: sáng tác cả trăm bài hát phục vụ các phong trào học tập và chiến đấu của quân đội.

Có thể nói ít có nhạc sĩ quân đội nào viết nhiều và viết đủ thứ như tôi từ Tổ Tam Tam, Tiểu Đoàn Tấn Công, Bài Ca Của Tổ Bộc Phá đến Tuần Lễ Tân Binh, Tuần Nhanh Chóng, Tiếng Kèn Báo Động, Tổng Kết Tân Binh... Tất cả đều thành bài hát, y như những khẩu hiệu mà tay Lê Bạt phụ trách “cờ, đèn, kèn, trống” (tuyên giáo) sáng tạo ra những khi Đảng yêu cầu! Tới nay, ngồi nghĩ lại thấy khôi hài cho cái “thành tích có mà không” ấy. Có còn ai nhắc đến nó? Chính tôi cũng không hề nhận đó là “sáng tác” trong bản thống kê thành tích vào mỗi lần “xét khen thưởng” như không ít nhạc sĩ đã kể là 500, thậm chí cả ngàn “tác phẩm” của mình! Lịch sử chẳng còn ghi nhận nó mà mình cứ thống kê thì không đáng tức cười sao? 5 tấm huân chương, hàng loạt bằng khen thưởng, kể cả giải nhất, giải A, B lẫn “Giải Thưởng Nhà Nước”, vì những tác phẩm không ai biết và chẳng ai muốn biết, muốn dựng lại, mang theo cả những tấn bi hài kịch kéo dài. Nó giải thích khá đầy đủ lý do tồn tại của tôi suốt cuộc đời đi theo Cách Mạng, vào Đảng rất sớm nhưng chẳng bao giờ được sống cho mình, sống vì mình, được nói cái mình muốn nói. Tất cả là nói cái gì “trên” bảo nói, nói cái gì mình không hề có trong trái tim, khối óc của chính mình!

Tóm lại, tôi đã từng là một cây bút đắc lực của Đảng một thời gian dài, chấp hành nghiêm chỉnh mọi nghị quyết “văn nghệ phục vụ công nông binh” đến mức toàn thiện, được cấp trên ưu ái, chiều chuộng hết mực. Cứ cái đà ấy mà tiến có lẽ bây giờ tôi đã về hưu với quyền lợi ít nhất phải như ông Trần Hoàn ([22]) và tất nhiên hơn hẳn các chú Trung Kiên, Nguyễn Khoa Điềm ([23])! Nhưng tiếc thay, hay may thay, tôi đã không hoàn thành vai tuồng lãnh đạo trong “tấn trò đời” kéo dài. Tôi đã sớm trở lại Tôi, cái tên Tô Đình Hải, nhắm mắt chào đời, nhe răng cất ba tiếng cười chứ không chịu khóc!

Câu chuyện làm văn nghệ trong quân đội của tôi là cả một cuộc đời đau khổ đầy oan trái, bất công, đầy những đấu đá để kiếm thêm “sao”, thêm “vạch” mà –– lạy trời có mắt! –– hầu hết những kẻ muốn dìm tôi xuống đất đen nay đã lần lượt chết cả, hầu hết đều chết bất đắc kỳ tử! Thực ra cũng sót lại vài tên vẫn phởn phơ không biết ngượng, tận hưởng cái “có được” nhờ... vô tài nhưng lắm mưu mô, ác độc! Thỉnh thoảng còn có vài tên “ra cái đều” thông cảm với sự “thua em kém chị” của tôi mà thúc giục tôi gặp chú này, chú nọ –– vì bọn lãnh đạo cao nhất hiện nay chỉ ở tuổi con cháu chúng tôi –– để trình bày, để đòi lại đảng tịch, để xin tiêu chuẩn cấp đất, cấp nhà như tiêu chuẩn của một “cán bộ tiền khởi nghĩa”! Nhưng tôi đâu còn dại như thuở mười tám, đôi mươi. Tôi đâu có vì miếng ăn hơn người mà khom lưng quỳ gối trước bọn lưu manh đang nắm quyền “cho và không cho”, “giết và để sống”, “bắt hoặc thả” ở mọi cơ quan Nhà Nước từ trung ương tới địa phương.

Đối với tôi, mọi thứ khen thưởng, danh hiệu từ lâu chỉ là trò “mị dân miễn phí” nếu không muốn nói là thứ hành động, chính sách gây chia rẽ. Bởi giới văn nghệ mà đoàn kết là cái đáng sợ nhất cho lũ chức sắc. Chỉ một nhiệm kỳ, bằng cái lá phiếu ba vạ, là một ông tổng, bà phó được “chia” ngay lập tức nào ô tô, nhà lầu, quyền lợi, hộ chiếu thường xuyên đi nước ngoài! Vậy thì vạ gì không kết nạp một ông trung ương, một ông đại tá, thậm chí cả một anh quản lý khách sạn, một anh nhà báo chuyên viết bài tô hồng chế độ vào cái bộ máy mang tiếng là nghề nghiệp nhưng sự thật chỉ là một tổ chức làm theo yêu cầu của Đảng trực tiếp là mấy chú ở ban Văn Hóa Tư Tưởng mà không có cả hai thứ ấy trong đầu. Làm gì còn tư tưởng khi bộ óc là cả một cục... cứt thối hoắc của những thứ lý luận ba lăng nhăng đã từ lâu bị vứt vào sọt rác của lịch sử. Những cái gọi là hội văn học nghệ thuật (mà tôi có thẻ hội viên tới... 3 hội) sự thật chỉ là nơi ẩn chứa những mưu mô nô lệ hóa giới làm nghệ thuật.

Sau 30-4-1975, các tổ chức văn nghệ càng phát triển ồ ạt. Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu có gần...10.000 hội viên, Hội Nhạc Sĩ Việt Nam có tới 1.000 nhạc sĩ! Cái thứ tổ chức ba vạ đó càng phát triển lại càng trở thành... vô tổ chức!

Riêng về khối biểu diễn thì hằng hà sa số nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, siêu sao, danh hài, quái kiệt… xuất hiện ngày một đông đúc. Trong số đó ta gặp đủ loại người, đảng viên, công chức, thương gia, cò mồi, kẻ trung kiên với chế độ có, kẻ một thời chống cộng hăng hái cũng có… Tất cả đều được các “quan văn nghệ” thời đổi mới nay đề nghị xét tặng danh hiệu này, mai ban phát học vị kia. Để làm gì? Để kiếm chác phiếu bầu, để được ngồi lâu ở ghế chánh, phó tổng, chấp hành chấp tỏi các hội to. Biết đâu lại chẳng được một căn hộ chung khu với ông chủ tịch Nhà Nước Trần Đức Lương như các ông nhạc trưởng Dương Ngọc Đức, Trọng Bằng ([24]).

Thế là loạn xà ngầu kèn cựa, bôi xấu, loạn xà ngầu khen thưởng, phong tặng! Giả, chân lẫn lộn, đánh nhau dài dài chỉ vì quyền và lợi. Còn thực trạng của nền văn học nghệ thuật thì suốt năm này qua năm khác đều là “có nhiều thành tích nhưng chưa có tác phẩm xứng đáng với tầm thời đại!” Ông Đảng và ông Nhà Nước không phải không thấy đã móc túi chi quá nhiều cho bọn văn nghệ văn nghẽo mà mãi chẳng thấy sản xuất được mấy tác phẩm bốc thơm mình cho thật thơm như mình mong muốn! Người được “đầu tư sáng tác” thì trả nợ bằng những tác phẩm chẳng ai buồn nghe, buồn xem, buồn đọc! Người có thật tài, muốn làm “một cái gì đó” để khẳng định mình thì ngày càng nản, nhất là sau các vụ bị công an văn nghệ “đánh” một số tác phẩm kha khá sau khi được tổng bí thư Nguyễn Văn...Lui mạnh miệng động viên: “Không bẻ cong ngòi bút?” Một số, nhờ có điều kiện kinh tế do vợ con hoặc “kiều bào yêu nước” tiếp sức bằng đô la... đã và đang phục xuống sáng tác để… chết rồi may ra được ra mắt hậu thế. Một số những cây bút trẻ thì vùng lên đáp ứng yêu cầu của lớp trẻ thành thị đang dựa vào nền kinh tế thị trường –– nhưng tự cắt đi cái đuôi xã hội chủ nghĩa –– để cho ra đời những quái thai sáng tác đầu Mỹ mình Hàn! Đặc biệt trong âm nhạc, người ta nhập đủ thứ vô văn hóa âm nhạc nhất, quậy phá nhất ở các nước “kẻ thù xưa” như Rock ico-noclaste, Gangsta Rap”... Họ đâu có ngại mấy ông lãnh đạo văn nghệ, mấy ông Văn Hóa Tư Tưởng vì mấy ông có biết gì đến Internet mà tìm hiểu chúng là cái giống gì!

Riêng tôi, sau khi từ bỏ được mọi ràng buộc với cơ quan của Đảng, trở về với đồng lương vừa đủ ăn sáng, tôi cũng gắng viết vài tác phẩm không lời để chẳng kẻ nào có thể phê phán nốt Si là vô sản, nốt Đô, nốt La là phi vô sản như Concerto Buồn, Vui Và Khát Vọng cho đàn bầu và giao hưởng, như Sonate cho violon piano, Hoài Niệm Lúc Hoàng Hôn, những năm còn U70. Buồn thay, cho tới nay nhạc của tôi vẫn chỉ nằm trên giấy!

Tôi chẳng bao giờ được nghe thấy chúng thành âm thanh cụ thể vì chỉ mấy ông chức sắc mới có quyền được dàn dựng ở các nhà hát do chính các ông làm chánh, phó giám đốc mà thôi. Tôi đành xếp chúng vào ngăn tủ cùng với hàng loạt tổng phổ và gắn cái bảng các-tông có đề một câu “Ci-git mon dernier et inutile effort artistique - Nơi đây yên nghỉ một cố gắng nghệ thuật vô ích cuối cùng của tôi.”

Tiếc là hôm Trần Danh từ Hà Nội vào làm phim tài liệu “Tô Hải, Người Chiến Sĩ - Nhạc Sĩ” đã yêu cầu tôi lật xấp tấm bảng và tôi lại nhượng bộ để phim có thể “thoát” được! Tuy nhiên trường đoạn máy lia qua các bản tổng phổ nằm la liệt trên nền nhà thì được thông qua không bị cắt hình nào kèm theo lời bình “Cả thước tổng phổ cứ nằm đó năm này qua năm khác mà chẳng ai, chẳng bao giờ được dàn dựng cả” vẫn được giữ nguyên! Phim chỉ chiếu đúng một lần trên Tivi nhưng đã gây được tiếng vang đặc biệt trong giới đồng nghiệp cùng trang lứa. Có bạn vừa gọi điện cho tôi vừa khóc vì thương tôi (hay thương cho chính mình?) đã bị đời bỏ quên, bạc đãi... Dù ốm đau, què quặt, thiếu thốn đủ đường, ở một nơi khỉ ho cò gáy, sống nhờ vợ bán bánh mì đầu đường mà vẫn can đảm làm “âm nhạc đích thực” lúc sắp sửa từ giã cuộc đời.

Bộ phim này tôi lưu được trong VCD và đã có dịp gửi tặng bạn bè, họ hàng ở nước ngoài.

Kể từ ngày xuân năm đó, niềm vui trở lại với tôi vì tôi đã tìm ra cách sống và quyết phải sống để làm một việc gì đó dù chỉ có chút lợi cỏn con cho đời. Tôi tự an ủi: Dù sao thì mình còn may hơn nhiều so với những những Trần Dần, Phùng Quán.., những Ích, Tâm, Hùng, Khuê.., những người đã chết vì cái ngu của chính mình.

Tôi may mắn còn sống sót đến hôm nay để thay những trang tổng phổ bằng những dòng hồi ký về cuộc đời làm “văn nghệ sĩ bất đắc dĩ” dưới một thể chế biến tất cả thành nô lệ, biến lũ chúng tôi thành những tên bồi bút hèn kém suốt cả cuộc đời...




([1]) Vũ Hoàng Chương (5.5.1916 – 6.9.1976), nhà thơ nổi tiếng

([2]) Nữ diễn viên điện ảnh Nhật (1920), nổi tiếng đến thập niên 1960.

([3]) Hai nhà điện ảnh ở miền Bắc Việt Nam về sau này.

([4]) Bỏ kháng chiến vào vùng Pháp chiếm. (Tiếng Pháp entrer = vào).

([5]) Đã đăng trên SGGP ngày 22 tháng 12 năm 1996

([6]) Việt Lang, tên thật Lê Quý Hiệp (1926-2008) tác giả của những ca khúc được quần chúng hâm mộ trong kháng chiến chống Pháp Tình Quê Hương, Đoàn Quân Đi…

([7]) Đoàn Chuẩn (1924-2001), nhạc sĩ với các ca khúc Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay, Lá Đổ Muôn Chiều, Thu Quyến Rũ, Đường Về Việt Bắc

([8]) Hoàng Giác (1924) nhạc sĩ nổi tiếng với những ca khúc Ngày Về, Hương Lúa Đồng Quê, Mơ Hoa…

([9]) Tô Vũ, tên thật Hoàng Phú (1923) được thính giả hâm mộ với Tạ từ, Em đến thăm anh một chiều mưa.

([10]) Hữu Loan (1916), nhà thơ nổi tiếng với bài thơ Màu Tím Hoa Sim trong kháng chiến chống Pháp, và cũng nổi tiếng vì đã “treo ấn từ quan” thập niên 1960 thế kỷ trước khi ĐCSVN đàn áp các văn nghệ sĩ lên tiếng đòi tự do tư tưởng và tự do ngôn luận.

([11]) Quang Dũng, tên thật Bùi Đình Diệm (1921-1988), nhà thơ, tác giả các bài thơ nổi tiếng như Tây Tiến, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đôi Bờ…

([12]) Đợt Pháp gây hấn tháng 11.46 chứ chưa phải ngày 19.12.1946, ngày toàn quốc kháng chiến (Tác giả chú thích).

([13]) Các diễn viên Mỹ nổi tiếng từ thời phim câm tới thập niên 1940.

([14]) Hoàng Minh Thảo (1921-2008), sau là thượng tướng và nhà lý luận quân sự.

([15]) Đoàn Phú Tứ (1910-1989), nhà soạn kịch, nhà thơ, dịch giả.

([16]) Doãn Quốc Sỹ (1923), nhà văn miền Nam Việt Nam.

([17]) Nguyễn Mạnh Côn, nhà văn miền Nam Việt Nam.

([18]) Trần Đức Thảo (1917-1993), nhà triết học duy nhất ở Việt Nam thời cận đại theo nhận định của Trần Văn Giàu.

([19]) Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), luật sư, nhà thông thái nổi tiếng, bị trấn áp trong thời kỳ có nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm.

([20]) Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) nhà báo, một trong những người sáng lập nên Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, thứ trưởng Bộ Thanh Niên trong chính phủ lâm thời VNDCCH (1945).

([21]) Hoàng Cầm (1922), nhà thơ nổi tiếng với các tác phẩm Hận Nam Quan, Kiều Loan, Bên Kia Sông Đuống, Lá Diêu Bông…, bị trù dập nhiều năm vì “tội” ở trong nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm.

([22]) Trần Hoàn (1928-2003), tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng như Sơn nữ ca, Lời người ra đi… từng giữ chức bộ trưởng Bộ Văn Hoá.

([23]) Nguyễn Khoa Điềm (1943), từng là uỷ viên Bộ Chính Trị, trưởng ban Tư Tưởng Văn Hóa T.Ư, khoá 9, bộ trưởng Văn Hoá Thông Tin.

([24]) Trọng Bằng, nhạc sĩ, tốt nghiệp Học Viện Âm Nhạc Chaikovsky (Moskva), nguyên chủ tịch Hội Nhạc Sĩ Việt Nam. Năm 2006, bị nhạc sĩ Vĩnh Cát, Nguyễn Đức Toàn, Doãn Nho, Huy Thục tố cáo đạo nhạc của nhạc sĩ Shostkovich trong bản Chào Mừng (một nhạc trưởng Nhật khẳng định chuyện này). Dù được một số nhạc sĩ phản bác, Trọng Bằng đã xin rút tên khỏi danh sách ứng viên “giải thưởng Hồ Chí Minh”.



Chương 6

TỪ MỘT NGƯỜI LÍNH LÀM NHẠC


Thời nổi tiếng nhất của tôi là thời Chiến Khu III chuyển về chợ Dầu, Hà Đông để lập một Liên Khu mới. “Nhân tài” lúc này được tập trung nhiều hơn. Trong quân đội nổi lên có các nhạc sĩ Việt Lang, Cao Thưởng, Canh Thân, Ngọc Bích, Vệ Ngọc, Huy Du ([1]), Vũ Trọng Hối ([2])... Tôi luôn tự khẳng định sẽ là một cán bộ quân sự biết hát hay, đàn giỏi, thế thôi! Còn làm văn nghệ như mấy ông Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng... suốt ngày la cà hàng quán, rượu chè, gái gú, thậm chí cả bàn đèn, thuốc sái thì... xin lỗi. Với tôi, lúc ấy chỉ có đồ vô học mới say bét nhè, mới “phum phum” ở Cầu Rậm, Ứng Hòa. Và quan trọng hơn: tôi biết những người này rồi sẽ “dinh tê” vì họ không thể sống nổi với cuộc kháng chiến gian khổ.

Hàng loạt những Hương Tình, Cô Hàng Cà Phê ra đời ở cái “nôi” chợ Đại, Cống Thần, Trinh Tiết, Tế Tiêu, Cầu Rậm quả là đã lần lượt theo tác giả của nó về thành!

Với tôi, sự nghiệp “tạm thời sáng tác” coi như chấm dứt vì hết đối tượng phục vụ sau khi tốt nghiệp trường Quân Chính với chức vụ trung đội phó! Bằng tốt nghiệp tôi vẫn giữ làm kỷ niệm tới nay. Trường Quân Chính mãn khóa và những bài hát của tôi cũng... mãn khóa luôn!

Tôi được lệnh về Bộ Tư Lệnh mới, lúc này ông Hoàng Sâm đã thay ông Hoàng Minh Thảo. Nhiệm vụ của tôi là “thư ký riêng” cho một nhân vật thật hấp dẫn và “quái dị. “Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa”, không ai là lính khu III mà không biết các giai thoại về Thế Hùng, biệt danh “Hùng hét”, nổi tiếng ngang với Phùng Thế Ục ([3]) về tính nóng nảy, quân phiệt hay thụi lính!

Ông Hùng này chữ nghĩa không bao nhiêu, nhưng rất “máu” văn nghệ, tiếu lâm một “cây”, hát bài Tây, bài Tầu và cải lương vọng cổ đều được tuốt! Nghe cuộc đời ông do chính ông kể lại tôi càng thấy vì sao ông bỏ quân đội Pháp lên rừng, cũng tốt nghiệp Hoàng Phố như các ông Hoàng Văn Thái, Hoàng Minh Thảo…nhưng chức vụ của ông chẳng đâu vào đâu: Trưởng Ban Quản Trị Liên Khu Bộ. Tuy nhiên, các trung đoàn trưởng (thời ấy chưa có sư đoàn) như Ngô Lân, Đinh Thìn, An Giao, Lê Quân... mỗi lần về Khu Bộ đều “dạ, thưa anh” một phép! Do ông chưa là đảng viên nên không được cho cầm quân, nhưng có lẽ biết rõ tài năng của ông nên các đồng khóa, đồng trường, ở cương vị cao hơn đã “bịa” ra một cái chức thay mặt Bộ Tư Lệnh giải quyết mọi trường hợp không thuộc bí mật quân sự là quân phong quân kỷ, điều lệnh đội ngũ, tập hợp chào cờ! Quân số trong tay ông là một trung đội vệ binh chuyên gác khu vực Bộ Tư Lệnh, có khi nằm dài cả 10 cây số. Mọi sinh hoạt của các phòng tham mưu, chính trị, quân nhu, tài chính đều theo “kiểu Hùng hét” là sai đâu hét đấy kèm theo kỷ luật ba cú roi da (đi đâu ông cũng kè kè) quật vào mông tóe máu. Ông bảo kỷ luật mà không có roi và xà lim là không xong. Thời ấy không có xà lim cố định nhưng đến đâu ông cũng biến chuồng trâu của dân thành xà lim! Bản thân tôi bị ông nhốt chuồng trâu một ngày vì đi chơi quá giờ và cả gia đình Phạm Duy (trừ Phạm Duy thoát nạn vì đi học ở Việt Bắc) cũng bị học trò ông là tướng Hoàng Minh Thi ([4]) cho nếm mùi chuồng trâu dẫn đến vụ “dinh tê” hàng loạt văn nghệ sĩ “chính cống” những năm 1950, 1951, 1952.

Hai ông Phùng Thế Ục và “Hùng hét” thời ấy bị báo Cứu Quốc của ông Xuân Thủy phê bình bằng giấy trắng mực đen, gây phản ứng dữ dội của các vị “con trời” này.

Tôi còn nhớ ông Phùng Thế Ục từ trung đoàn 66 phi ngựa lên Bộ Tư Lệnh gặp ông Hùng. Hai người vừa uống rượu vừa văng tục, chửi từ trung ương trở xuống, kể ra hàng loạt tên tuổi bất tài, giỏi nịnh, những kẻ cầm quân mà không biết đi đều, biết chào chứ chưa nói đến... bắn súng! Lạ lùng nhất là họ chẳng hề giữ ý giữ tứ gì trước nhĩ mục của ông chủ nhà: ông phó Hữu! Còn với tôi? Có lẽ họ cho là đồ con nít hoặc thấy cần cho cái “thằng có học hành tử tế” này biết sự thật về nội bộ các “ông to” mà liệu đường xử thế chăng? Sau bữa rượu, ngà ngà say, các ông phóng ngựa sang chợ Dầu tìm trụ sở báo Cứu Quốc để “tìm thằng Xuân Thủy ([5]) xin tí tiết”! Vụ “xin tí tiết” không thành vì có sự can thiệp tại chỗ của một ông kễnh” đang làm việc với tòa soạn. Tuy nhiên sau đó tờ báo được lệnh “thôi viết, kẻo làm thối inh lên, địch nó lợi dụng!”

Liên tiếp những tháng sau, tôi còn chứng kiến nhiều vụ nhậu nhẹt thâu đêm của một số cán bộ chủ chốt, nổi bật là những gương mặt bất cần đời gồm trung đoàn trưởng Hoàng Thiết Trụ, chánh án toà án quân sự Hoàng Hữu Phấn, trưởng ban tình báo Trần Ích ([6])... Tất cả các vị này chỉ một thời gian sau đó đã “dinh tê”, rồi có vị làm đến cấp tướng ở phía đối địch, có vị trở thành chỉ huy quân sự bên cạnh giám mục Lê Hữu Từ ngay tại Phát Diệm như Trần Ích, Hoàng Trụ.

Hậu quả không nhỏ. Chỉ riêng vụ Bộ Tư Lệnh đóng quân nơi nào là ăn bom trúng phóc nơi đó, dẫn đến cái chết của nhân vật số 3 Bộ Tư Lệnh III là Nguyễn Văn Sĩ, trưởng phòng Quân Nhu Tài Chính, người nắm toàn bộ miếng cơm, manh áo, súng đạn, thuốc men của bộ đội thời bấy giờ. Những năm tháng kế tiếp là các cuộc di chuyển liên tục nhưng vẫn không thoát khỏi sự chỉ điểm khá chính xác của máy bay bà già, kể cả sau này vượt Chồng Mâm, Chợ Giời vào tận Kim Bôi, Hạ Bì, sau các chiến dịch Mercure, Kangourou của Pháp! Các cơ quan phải lấy hang động làm nơi đặt văn phòng kiêm nhà bếp để nấu ăn không tỏa khói. Thời kỳ ở hang được yên ổn do không bị máy bay phát hiện, nhưng bệnh sốt rét ác tính đã quật ngã nhiều chàng trai đang hôm trước còn nhảy nhót, hát hò, hôm sau đi ngủ không bao giờ dậy nữa! Cái bệnh sốt rét ác tính cướp đi gần hết trung đội bảo vệ đến nỗi hết lính cho ông “Hùng hét” hô “Nghi... ê... m” kéo dài như vô tận khắp núi rừng mỗi sáng chào cờ!

Một sớm mai, tôi phát hiện không có tiếng kèn clairon báo thức quen thuộc của bác Thiện (lính kèn trại khố xanh trước 1945) vang lên giữa núi rừng nữa. Bác đã gục ngã ngay những ngày đầu đặt chân lên Thung Gio, nơi nổi tiếng nước độc của cái xứ “Mến nhau cho thịt cho xôi, Ghét nhau đưa đến Kim Bôi Hạ Bì”.

Thật lạ lùng là trong số ít người mà muỗi anophèle không hạ nổi lại có tôi và ông “Hùng hét”. Lúc này ông gần như chỉ còn một việc: uống rượu và tâm sự với thằng “thư ký riêng” là tôi. Việc liên lạc bằng điện thoại, đi lại giữa các phòng, ban trong Bộ Tư Lệnh không còn đơn giản. Bước ra khỏi nhà sàn là leo, trèo và lội năm, mười con suối. Mà kiểm tra kiểm mẹ gì nữa khi chẳng còn điều lệnh nội vụ, chẳng còn trạm gác, phòng chờ. Hình như các ông Hoàng Sâm ([7]), Lê Quang Hòa ([8]) lúc này cũng chẳng còn ở cái đất đáng sợ này vì không thấy các trung đoàn trưởng về họp hàng tháng. Cũng không còn dịp nghe các quan “tớp” ([9]) ngồi uống rượu chửi đổng, vạch xấu nhau.

Cả khung trời Bộ Tư Lệnh III chỉ còn vài chục người mặt xanh, nanh vàng, không có việc gì ngoài chờ giờ cơm và chờ đến khoảng 3, 4 giờ chiều là khoác chiếc chăn trấn thủ mỏng tang run lập cập vì giờ sốt rét đã điểm!

Còn tôi, ngoài vài cơn sốt nhỏ, tôi vẫn còn nhiều lý do để sống, để hy vọng. Không phải không có lúc tôi đã nghĩ tới “Come back to Hà Nội!” ([10]) Lúc đóng quân ở làng Sêu, tôi đã cùng Đắc Hưu vui chân đi ăn bún ốc tận Vân Đình. Nhìn về Hà Nội, điện sáng rực một góc trời như mời gọi mà nhớ, mà... thèm! Trước mắt tôi là cảnh gia đình, là trường học, là tương lai của một luật sư, bác sĩ, là sông Seine, bảo tàng Louvres, là Montmartre, là Quartier Latin, ([11]) mà tôi ấp ủ từ thuở học trung học. Chỉ một bước qua cái cầu đổ này sẽ chấm dứt cuộc đời “hầu hạ” một lũ ăn tục, nói phét. Tôi sẽ hết phải chứng kiến những tên “quan cách mạng” vô tướng, bất tài, giành nhau từng chức vụ vô nghĩa như trưởng, phó (lúc này chưa có cấp bậc tá, tướng gì) trong đảng, ngoài đảng. Tôi hết phải phịa ra các chứng từ thanh toán các buổi nhậu nhẹt của các vị cầm quân chủ chốt trong Liên Khu trước và sau các buổi về hội ý hàng tháng, theo chỉ đạo của thủ trưởng trực tiếp “Hùng hét”.

Tóm lại, tôi đã thấy mình thật sự lạc lõng giữa những người cách mạng lạ lùng này. Họ nói một đàng làm một nẻo, vừa khuyên người ta đạo đức xong thì tối đến lại mò vào giường con gái chủ nhà. Khoản này thì ông “Hùng hét” là... “một cây.” Với tài hát xướng, trò chuyện rất có duyên, với khổ người cao to và khá nam tính, không thiếu đàn bà ở cái nơi “âm thịnh dương suy” này sẵn sàng chui vào màn “quan tớp” để hôm sau đi khoe cả bản! Phải nhận là ông có một tư tưởng cực kỳ... “phóng khoáng” vào cái thời mà kỷ luật đã ghi thành giấy trắng mực đen cấm mọi quan hệ, cấm cả tắm truồng trước phụ nữ, mặc dù ở nơi này phụ nữ tắm truồng là chuyện tự nhiên! Ông từng dõng dạc tuyên bố trước hàng quân: “Thằng nào ăn vụng thì phải lo chùi mép! Bí mật ăn tiền! Để lộ ra, có kiện cáo thì... ra tòa án quân sự!”

Mọi hành động và lời nói của ông đều bị chi bộ phản ảnh lên nhưng chỉ là cái “trên vừa vừa” cũng đồng bệnh như ông nên ông càng phát huy mọi “tài năng cởi mở” của mình. Đặc biệt về văn nghệ, ông cho phép “bung ra” đến mức bản thân tôi phải góp ý ngăn chặn lại. Chẳng biết ông học lỏm ở đâu mà hàng loạt bài hát Tây (thứ Tây giả cầy) như J’ai deux amours, C’est à Capri ([12]), thậm chí cả Marseillaise ([13]), những lúc khoái chí, ông đều tương ra ông ổng. Có lần trước một buổi liên hoan — ông rất ưa ra lệnh tổ chức liên hoan văn nghệ — ông còn hát “tăng-bo” một khúc kinh kịch bằng tiếng Tầu, chuyển sang một bài nhạc Tây rồi kết thúc bằng một bài nhạc của...“địch”, hình như một bài của Hoàng Giác lúc này đã “dinh tê.” Có lần, hứng chí, mấy ông “quan tớp” còn tổ chức hát...cô đầu và người cầm chầu không ai khác là ông “Hùng hét”. Khi nghe tôi nói “Em đã bị phê bình cảnh cáo về chuyện hát “bài của địch” — bài nào không phải của người đi kháng chiến, thậm chí của ai đang làm công chức cho Pháp như bố mẹ tôi đều là địch cả! — thì ông nổi khùng: “Địch, địch cái con củ c... ! Văn nghệ cũng có địch với ta? Chỉ có hay và dở thôi! Hay thì ta cũng thấy hay, dở thì địch cũng thấy dở. Cái bài “Vùng lên, thét lên đoàn hùng binh”... của mày dở bỏ mẹ! Chó nào nó hát! Còn cái bài “Chán chường” mày vừa làm ấy... nghe được đấy! Cứ hát đi! Tội vạ tao chịu!”

Và cứ thế, những ngày dài lê thê trong một thung lũng quanh năm sương mù bao phủ, tôi được ông “Hùng hét” vô tình giáo dục về đường lối văn nghệ “riêng” của ông mà cái lý sự đáng nhớ suốt đời đối với tôi là: “Chỉ có văn nghệ hay và văn nghệ dở!” Cái “phi giai cấp”, “phi đảng tính”, “phi địch ta” này, tôi thấy, xét cho cùng, tới tận hôm nay, ông “Hùng hét” là người có khả năng làm trưởng ban Văn Hóa Tư Tưởng nhất! Có lẽ đã đọc được ý đồ của những bộ mặt cách mạng cơ hội của ai đấy, mỗi khi gặp cảnh trớ trêu, ông thường buông ra mấy câu chửi đổng nửa Tây nửa ta “Mẹc xà lù cái la vie!”.

Nếu ông được Đảng tín nhiệm thì đỡ khổ cho anh em văn nghệ sĩ “theo đóm ăn đòn” biết bao! Lý luận văn nghệ của ông sẵn có trong người ông như máu thịt chứ chẳng qua sách vở, chủ nghĩa chủ ngão nào mà đều trúng phóc! Ông chán chường vì tài năng bị gạt bỏ, vì thế sự nhiễu nhương, vì ông đã dại dột, lầm đường nên tìm đến chén rượu. Cái đáng quý của ông là nói thẳng nói thật và sống đầy tình người, đặc biệt là ông rất mến tôi, luôn khuyến khích tôi và coi tôi như con đẻ của ông, dạy tôi nhiều bài học từ thực tế. Tiếc rằng sau này, khi tôi bị đánh đấm do không nghe lời khuyên của ông là “đừng có làm văn nghệ mà chỉ “chơi” văn nghệ thôi, nếu mày muốn chung sống với mấy ông bà nông dân răng đen chân đất này!” thì ông đã chết không một lời cáo phó vì bệnh ung thư ở một bệnh viện nào đó. Hình ảnh con người ngang tàng nhưng tình cảm, nguyên tắc nhưng rất linh động, ít học nhưng hiểu biết, yêu nước ghét Tây nhưng không thích đảng phái, còn lại mãi trong tôi. Chính ông đã bao bọc, che chở, ngăn cản tôi khỏi khá nhiều “cạm bẫy”, từ chính trị đến bãy... tình, đã biến chút tài mọn của tôi thành “của riêng” ông cho đến lúc hết thời. Những bài học về “lý luận văn nghệ thực tế” của ông đã gieo vào tâm hồn tôi lúc bấy giờ ý nghĩ “văn nghệ không thể là sở hữu riêng của giai cấp nào mà chỉ có hay và dở. Mà đã hay thì ai cũng thấy hay, chẳng cứ tên địa chủ hay ông bà nông dân!”

Câu nói mất lập trường giai cấp đó đến nay càng chí lý khi các tác giả một thời bị cấm đoán, bị đưa vào bản thống kê “tác phẩm cấm xử dụng”, bị lên án là “dâm ô”, “đồi trụy”, “ủy mị” thậm chí “phản động”, “phục vụ đế quốc” như Vũ Trọng Phụng ([14]), Khái Hưng ([15]), Đặng Thế Phong ([16]), Đoàn Chuẩn ([17]) và cả những Trần Thiện Thanh ([18]), Lê Hựu Hà ([19]), Miên Đức Thắng ([20])... ngang nhiên chiếm lĩnh thị trường văn nghệ! Cuối cùng rồi cũng đến lúc “Một mảnh trời tự do đã có cho người nhạc sĩ.” ([21]) Chính là cái mảnh trời xưa kia biết bao văn nghệ sĩ đã vì nó mà thất cơ lỡ vận, đã biến mất trên văn đàn, nhạc hội.

Trở lại những ngày làm “lính kiểng” ở bộ Tư Lệnh III, những ngày được ông “Hùng hét” che chở và giáo huấn. Kết cục, tôi quyết định không đi theo con đường văn nghệ nữa, mà chọn con đường... binh nghiệp. Chí ít, tôi cũng tốt nghiệp một trường quân chính khá chính qui. Nắm một trung đội chiến đấu với tôi lúc này ít nhất cũng dễ hơn vào đội Tuyên Truyền trong đó có các nhạc sĩ từng nổi tiếng, từng theo gánh hát này, gánh hát nọ từ thời tôi còn là học sinh trung học. Tôi đã nghe Canh Thân, Phạm Duy biểu diễn trên sân khấu một số gánh cải lương vào những giờ nghỉ giữa hai màn diễn.

Tôi đã dự một hội nghị văn nghệ ở đình làng Khuốc. Ở đó có những nhân vật mà tôi chỉ biết qua báo chí. Các ông Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng vẫn có bàn đèn để “ro ro” trong giờ giải lao. Các ông Thường (piano), Huấn (violon) còn cầm bài hát Chiến Sĩ Khu III của tôi mà đếm từng nhịp xem nó “ca-rê” (vuông vức) hay không? Còn ông Tô Vũ thì được giới thiệu là một thầy dòng chơi violon, tuy đến chậm vẫn được chào đón như một sự kiện.

Tất cả đều gây cho tôi ấn tượng sâu sắc: văn nghệ sĩ đi theo cách mạng chỉ là một lũ chẳng giống ai, thậm chí hình ảnh những gã “bẹp tai” (hút thuốc phiện), những tên nghiện rượu, tóm lại tất cả những gì là bê tha, trác táng, kênh kiệu, coi đời như một cuộc rong chơi đã làm tôi thật sự ngán ngẩm với kiếp “xướng ca vô loài”.

Và, tôi quyết định xin về đơn vị chiến đấu! Bước ngoặt này của tôi được ông “Hùng hét” ủng hộ khi người ta đã chuẩn bị cho ông ngồi chơi xơi nước bằng cách giải tán Ban Quản Trị Bộ Tư Lệnh! Chính ông Hùng đã xì cho tôi vài điều bí mật mà tâm hồn “ngây thơ kháng chiến” của chúng tôi không cảm nhận được. Đó là “không ai giao quân cho những cán bộ như mày đâu! Để mày nướng quân với ba cái thứ “ti-ray-ơ a đơ-roắt, ti-ray-ơ a gốt-sơ” - tirailleurs à droite, à gauche ([22]) - của mấy tên quan một, quan hai Pháp dạy cho mày à? (Ý nói cái trường mà tôi đã được đào tạo) Phải học lại thôi! Mà học kiểu theo kiểu... Tầu, đánh theo kiểu Tầu! Hiểu chưa? “Tập trung binh lực”, “nhất điểm lưỡng diện”, “bao vây vu hồi” Xếp mẹ nó mấy cái kỹ thuật quân sự của Tây lại! Trước khi tao đi khỏi nơi này, tao sẽ giới thiệu cho mày đi học lại!”

Nói là làm! Ông ký cái roẹt vào một tờ sự vụ lệnh in li-tô cho trung đội phó Tô Đình Hải đi học cái trường nổi tiếng là Tầu: Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn!

Sau những chiến thắng liên tiếp của hồng quân, đuổi Tầu Tưởng ra Đài Loan, dựng nên nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, cái trường quân sự dưới quyền ông tướng từng học trường Hoàng Phố là Lê Thiết Hùng càng trở nên hấp dẫn đối với lớp thanh niên. Hình ảnh một sĩ quan, súng lục đeo chéo người, tay cầm ống nhòm nhìn về đền Ngọc Sơn, Hà Nội (oai hùng và đẹp đẽ biết bao!) trên những tranh cổ động dán khắp nơi, đặc biệt ở ngay cổng các trường trung học, đã cuốn hút có khi toàn trường, cả thầy, trò đều bỏ học, bỏ dạy để nhập ngũ!

Lúc này chiến dịch biên giới đã kết thúc.

Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn ở Côn Minh được lệnh thành lập Phân Hiệu 11 tại Việt Nam. Nghe lời ông Hùng, tôi phấn khởi lên đường, quyết trang bị lại toàn bộ nghệ thuật quân sự bách chiến bách thắng của hồng quân Trung Hoa để phen này “một xanh cỏ, hai đỏ ngực”. Chính những ngày sắp giã từ cuộc đời làm “lính kiểng” của ông “Hùng hét” này đã nẩy sinh mối tình câm giữa tôi và cô Phẩm, cô gái miền núi, con ông bọ Phến, chủ nhà nơi tôi và ông “Hùng hét” trú quân. Những ngày sắp lên đường tôi mới thấy được mình đang có sự “mất mát” đầu tiên lớn lao và sâu sắc nhất trong cuộc đời: Tình Yêu.

Ngày tôi lên đường đi tập trung, Phẩm không đi làm nương. Nàng cứ loanh quanh bên tôi như muốn chờ tôi nói một lời hứa hẹn, một lời tỏ tình gì đó. Ông “Hùng hét”, người thông cảm nhất với tôi, đã bỏ đi chơi (hai chúng tôi ở cùng một nhà) sau khi nhắc lại: “Mày chớ có dại mà hứa hẹn gì! Không được đâu! Mà đã hứa mà không giữ lời với họ là có khi tiêu đời đó con ạ!” Nghe lời ông, tôi miễn cưỡng yên lặng về mối tình tôi ấp ủ bấy lâu với Phẩm, người con gái có đôi mắt mà đến khi tôi giã từ cuộc đời có lẽ sẽ vẫn in hằn trong tâm khảm. Nó sáng, nó đen, nó long lanh, nó nói hơn cả những điều cần phải nói bằng lời. Lúc chào mọi người lên đường, tôi cố tìm đôi mắt ấy lần cuối nhưng không thấy. Cô vô tình đến thế sao? Hay cô đang nằm khóc vùi trên nhà sàn? Tôi bận rộn tìm lại đôi mắt đen huyền của Phẩm đến mức chẳng còn nghe thấy lời chúc mừng của anh em cơ quan, của đồng bào trong bản mà tôi được yêu quí như một “cây văn nghệ” đàn ngọt hát hay, tối tối làm vui cho mọi người. Lòng buồn nặng trĩu vì cuộc “chia tay không hoàn chỉnh”, tôi bước đi về hướng Chồng Mâm, Chợ Giời.

Sắp vén quần để chuẩn bị lội qua con suối đầu tiên của chín con suối độc thì nghe tiếng gọi “Anh Hải!”

Thì ra Phẩm đã đón đường tôi ở chân giốc này. Cô nói: “Bọ Hùng bảo em ra đón anh ở đây!” Cuộc “gặp gỡ có sắp xếp” này té ra chính là sáng kiến của ông “Hùng hét”!

Hai đứa gặp nhau cứ như đã thổ lộ tình yêu, đã hẹn hò, thề ước gì rồi. Phẩm trao cho tôi một gói xôi gạo cẩm, một chiếc vòng bạc và nói trong tiếng nức nở “Anh Hải đi học thành tài, đánh Tây xong, nhớ về Thung Gio... lâu mấy em cũng đợi!”

Hai mươi mốt tuổi, lần đầu tiên tôi được hưởng cái niềm vui hiếm có: được một người con gái đẹp yêu mình! Mà chẳng hề có nhiều gay go, phức tạp, hồi hộp mê ly, thắt nút, cởi nút, kết thúc gì lôi thôi rườm rà như trong tiểu thuyết. Tình yêu đến không một lời nói, không một bức thư tỏ tình. Nó đến như không khí, như ánh nắng tràn vào căn phòng trống trải. Đối với tôi, tình yêu lúc ấy quá lý tưởng, quá trong sáng, quá đẹp đẽ. Tôi nương nhẹ nó như một cánh hoa nhỏ xinh đầy hương sắc. Tôi e sợ một sự đụng mạnh sẽ làm nó rụng mất, dù chỉ là một cánh nhỏ, để rồi phải ép nó trong những trang nhật ký cuộc đời. Vâng! Tình yêu đối với tôi lúc đó và mãi mãi sau này là một điều thiêng liêng, thậm chí thánh thiện. Dù đã đọc không biết bao nhiêu tác phẩm, xem không biết bao nhiêu phim Tây, Mỹ... về cái đề tài cũ như trái đất này, tôi vẫn muốn có một tình yêu chẳng giống ai để mà thương, mà nhớ, mà hy vọng, mà buồn. Cái tình yêu mà về sau tôi đọc được ở Romain Rolland: “Tình yêu không có thể” - amour impossible”, khi ông viết về các cuộc tình của Beethoven, Liszt, Chopin... Tôi biết trước rằng tôi và Phẩm chẳng bao giờ thành vợ thành chồng, thậm chí chẳng còn dịp nào gặp lại. Tôi biết rằng đời lính chúng tôi, tình yêu đồng nghĩa với dang dở, chia tay, mất mát. Thậm chí...phản bội! Có biết bao chàng trai Hà Nội lúc đó, trẻ trung, đàn giỏi hát hay nhưng tâm hồn thì thấp hèn, bẩn thỉu đến mức cả về sau này, gặp họ, tôi cũng chẳng muốn chào hỏi. Đó là những tên Sở Khanh hiện đại biết cách “tranh thủ tình yêu” ở những cô thôn nữ, những “bông hoa rừng” ngây thơ, tội nghiệp rồi...biến mất, để lại cho họ những nỗi đau, sự mất lòng ở anh bộ đội và đôi khi cả những... “giọt máu vô tình”.

Ngọc Bích đã sáng tác bài Anh Lính Nhảy Dù, nói về những anh chàng đi đến đâu là kiếm chỗ giải quyết sinh lý ngay tại đó. Không ít người đã bị thi hành kỷ luật, thậm chí ra tòa án binh, bị đuổi khỏi quân đội. Còn tôi, có người cho rằng tôi đạo đức giả. Nhưng tới hôm nay, ở cái tuổi ngoài 70, tôi vẫn tự hào rằng tôi chưa bao giờ lạm dụng tình dục đối với bất cứ người phụ nữ nào nếu không phải là người tôi yêu tha thiết, người mà tôi không thể không chiếm hẳn để cả đời phải làm “người đàn bà của riêng mình”, có nghĩa là người đó phải làm vợ tôi!

Trường hợp gặp cô Phẩm, một thiếu nữ xinh đẹp như tranh ở giữa rừng sâu, xung quanh là suối reo, chim hót. Hoàn cảnh và thời điểm dễ đưa đẩy hai người đến chỗ “tranh thủ yêu nhau” lắm chứ? Nhưng không! Ngoài những cái cầm tay lắc lắc, một nụ hôn cũng không. Tôi không dám làm xáo động tâm hồn và thể xác của bông hoa rừng này. Tất cả, tôi cho nó bung ra trong bài hát Nụ Cười Sơn Cước, viết ngay trên đường đến trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn từ chợ Trò về chợ Dầu.

Ngay đêm liên hoan đầu tiên của tiểu đoàn chiêu sinh, tôi đã thả hồn trong tiếng đàn và hát lên “sự thật của trái tim” mình cho anh em khóa sinh nghe. Họ lặng im đến kỳ lạ rồi suýt xoa khi nghe tôi buông xuống câu... “đời đời không tàn với nhạc lòng tôi”... Họ vỗ tay kéo dài và hét lên “Bis! Bis!”

Thế là tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa: ở tiểu đoàn 3 đại đội 3 có một “nhạc sĩ” đi học võ bị! Và tôi trở thành “nhạc sĩ của lính” ngay ngày đầu tiên bỏ nghề “lính kiểng”. Hàng loạt ca khúc viết “theo yêu cầu” đã ra đời từ những ngày chưa về tập trung ở phân hiệu Trung Bộ. Bài Trai Liên Khu III là một ví dụ điển hình về cái động cơ hoàn toàn vô tư và biết bao cao quí trong con người có máu văn nghệ ở cái thuở ban đầu đó. Viết để nói về mình, về những người cùng hoàn cảnh, thậm chí cùng một địa phương, cùng một niềm tự hào, kiêu hãnh như mình.

Tôi hát lên những tình cảm và suy nghĩ chân thực của mình, của đồng đội. Nói thực, trong chuyện ấy cũng không phải không có phần “chơi trội”, ra vẻ ta đây là người lính “có văn hóa”. Thế thôi!





([1]) Huy Du (1926-2007), nhạc sĩ, nổi tiếng với những ca khúc thuộc dòng “nhạc đỏ” (theo Wikipedia Việt Nam): Việt Nam Ơi Ta Bước Tiếp, Nổi Lửa lên Em, Chưa Hết Giặc Là Ta Chưa Về…

([2]) Vũ Trọng Hối (1926-1985), nhạc sĩ thuộc dòng “nhạc đỏ”, với những ca khúc Bước Chân Trên Dải Trường Sơn, Nghe Lời Bác Gọi, Thanh Niên Lên Đường, Cô Gái Sông Ninh…

([3]) Phùng Thế Tài (1920), thượng tướng, tư lệnh Phòng Không – Không Quân đầu tiên.

([4]) Hoàng Minh Thi tên thật Huỳnh Ngọc Nhất (1922-1981), cựu du kích quân Ba Tơ, thiếu tướng, Tư lệnh Quân Khu 4 từ 1978 đến 1981, uỷ viên trung ương khoá IV, có 2 huân chương quân công hạng Nhất.

([5]) Xuân Thuỷ (1912-1985), nhà hoạt động chính trị, ngoại giao, đôi khi cũng làm thơ… vớ vẩn.

([6]) Chỉ kể một số tên đáng kể.

([7]) Hoàng Sâm (1916-1968), thiếu tướng, từng ở trong đơn vị Giải Phóng Quân đầu tiên từ chiến khu Việt Bắc vào Hà Nội cuối năm 1945.

([8]) Lê Quang Hoà, thiếu tướng trong chiến tranh vừa qua, mất khi mang quân hàm thượng tướng.

([9]) Chỉ huy đeo súng ngắn khác với “quan luông”mang súng dài!

([10]) Trở về Hà Nội (tiếng Anh).

([11]) Những địa điểm nổi tiếng của Paris.

([12]) Tôi có hai mối tình, Chuyện ấy ở Capri. –– tiếng Pháp.

([13]) Quốc ca Pháp.

([14]) Vũ Trọng Phụng (1912-1939), nhà văn nổi tiếng trước 1945.

([15]) Khái Hưng, tên thật là Trần Giư (1896-1947), một cột trụ của Tự Lực Văn Đoàn, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng Hồn Bướm Mơ Tiên.

([16]) Đặng Thế Phong (1918-1942), một nhạc sĩ tiền chiến tiêu biểu.

([17]) Đoàn Chuẩn (1924-2001), nhạc sĩ, nghệ sĩ biểu diễn lục huyền cầm

([18]) Trần Thiện Thanh (1942-2005), nhạc sĩ miền Nam, còn là ca sĩ nổi tiếng với nghệ danh Nhật Trường.

([19]) Lê Hựu Hà (1946-2003) nhạc sĩ với những ca khúc được thính giả mến mộ như Mây Trắng, Phiêu Bồng, Hy Vọng…

([20]) Miên Đức Thắng (1945) nhạc sĩ thuộc dòng nhạc nhân bản, chống chiến tranh, chống sự huỷ diệt con người, từng bị coi là phản chiến với các ca khúc Hát Từ Đồng Hoang, Lớn Mãi Không Ngừng…

([21]) Lời của Trịnh Công Sơn đăng trên báo Công An TP.HCM.

([22]) Tản sang phải, sang trái –– tiếng Pháp.



Chương 7

CUỘC PHIÊU LƯU VĂN NGHỆ BẮT ĐẦU


Kể từ những sáng tác văn, thơ, nhạc... tập tọe, viết để mình đọc, để trao đổi với bạn bè cùng trang lứa, tới ngày ở tuổi 17 được lần đầu in bài thơ “Thôi thế là tan giấc mộng vàng, Nàng đi giữa lúc gió xuân sang”... rồi đến các bài hát Có Một Nàng Thôn Nữ, Nụ Cười Sơn Cước, Chiến Sĩ Khu III... chưa bao giờ tôi dám tự nhận mình là... nhạc sĩ, thi sĩ. Với tôi, đó là những nghề đòi hỏi một tài năng thiên phú, một cái đầu thật lớn và một trái tim thật nồng nhiệt! Văn nghệ với tôi lúc ấy chỉ là một “cuộc chơi” không hơn không kém. Chẳng có ý đồ, mục đích gì. Tất cả chỉ bật ra trong vô thức tiếng nói của tâm hồn, của những nghĩ suy, những cảm nhận mà lời nói bình thường không có khả năng diễn đạt.

Hơn nữa, có nhiều người đồng cảm với tiếng nói của trái tim tôi, dù nó thì đập lung tung, khi có ý thức, khi vô ý thức, nhưng bao giờ cũng chân thành. Tôi “nghĩ” ra những câu hát để hát lên cái mà mình “cảm” thấy. Rồi tôi nối các câu đó lại với nhau. Độ 8 câu là thành một bài hát! Được cái “trời” cho một năng khiếu âm nhạc từ thuở lọt lòng và được giáo dục âm nhạc qua loa trong các trường sơ, trường trung học, nhất là nhờ công thầy Quảng, thầy Bích, père Rangel… tôi đã nắm được sơ sơ lý thuyết tối thiểu ký xướng âm nên có thể ghi ra những gì mình vừa hát.

Tuy nhiên, sau này được học hành tử tế rồi, tôi mới thấy rằng trong các bài ký âm thuở ban đầu nhiều chỗ tôi đã ghi sai bét be cả về cao độ, trường độ, nhịp điệu, tiết tấu. Tôi cũng rất biết điều này nên nhiều bài tôi chỉ hát và dạy truyền khẩu cho đơn vị, chứ không dám ghi thành bản nhạc có chữ, có nốt đàng hoàng. Sợ sai thì “các nhạc sĩ thứ thiệt” sẽ lật tẩy tôi là một nhạc sĩ hạng bét! Những “nhạc sĩ dốt nhạc” sau này tôi gặp nhan nhản, tới tận bây giờ, thậm chí có cả những vị “nhạc sĩ lão thành” chưa từng học qua một lớp ký xướng âm, chưa hề biết Beethoven là người nước nào, làm nghề gì! Chuyện thật 100%!

Không ít các ông hội viên Hội Nhạc Sĩ Trung Ương, nếu bỏ cây măng-đô-lin, cây ghi-ta ra thì...hết sáng tác! Họ tồn tại nhờ những năm “quần chúng làm được tất cả” và khi “sáng tác không son-phe” trở thành một cuộc vận động hẳn hoi trong Quân Đội, khi người ta đã phát động phong trào sáng tác tập thể, (!) nghĩa là ngồi tập hợp cả một đại đội, mỗi người hát một câu, kết nối lại với nhau, thế là một bài hát ra đời, trong đó toàn là... khẩu hiệu!

Còn hơn nữa, người ta tặng những giải thưởng về âm nhạc cao nhất cho các bài hát sáng tác “năm cha ba mẹ” như thế. Điển hình là bài Thời Cơ Đã Đến, bài Biết Ơn Đảng Và Chính Phủ, giải nhất toàn quốc!

Cũng không loại trừ có một bàn tay cơ hội nào đó đã lái cả một tập thể nào đó theo cái “gu” sáng tác của mình và đóng dấu tập thể để lấy thành tích là... “biết dựa vào công nông binh”! Như bài Vì Nhân Dân Quên Mình của anh lính lục quân Doãn Quang Khải đã được đánh giá là bài hay nhất mặc dầu cho tới nay, đố một công nông binh nào hát đúng cái bài hết sức Tây này với những ½ giọng liên tục, những nối tiếp điệu thức, sang thứ về trưởng vuông vức y hệt một bài trong sách giáo khoa âm nhạc của ... Lavignac ([1]) vậy! Tội nghiệp cho “nhạc sĩ” được giải nhất đó sau này bị điều về làm trưởng một đoàn văn công Sư Đoàn mà chỉ tồn tại không quá một năm thì giải tán, trừ vài diễn viên được sáp nhập về Quân Khu! Tuy nhiên không ít tay văn nghệ ba xu mang danh công nông binh vẫn cứ tồn tại trong và ngoài quân đội trên cương vị lãnh đạo, thậm chí còn được gửi đi Liên Xô, Trung Quốc bồi dưỡng nghiệp vụ, trang bị lý luận Mao - Xít, từ đó họ trở về với các học vị, học hàm giáo sư, tiến sĩ… tiếp tục làm khổ giới văn nhân, nghệ sĩ tới tận bây giờ!

Riêng thằng lính lục quân Tô Hải cứ tiếp tục viết theo cảm nghĩ, theo cái vốn có sẵn của mình để phục vụ những người đồng học, chẳng biết cái chuyện công nông binh công nông biếc ra sao! Xung quanh tôi lúc ấy là những Văn Phụng (ngoáy) Khôi bi ve, Phú móm, Lê Điệp, Lê Quân, Huy Thái, Lâm Quế... những chàng trai Hà Nội mà lúc ra đi còn mang theo ấn tượng không phai mờ của các bộ phim Mỹ, các bài hát trong phim với Richard Green, Nelson Eddy, Deana Durbin, Fred Astaire, Ginger Rogers ... nhất là các bài country trong phim cao bồi với Charles Starret, Ken Maynard, Gary Cooper ([2])... Cho nên không có gì lạ khi đêm biểu diễn đầu tiên của nhóm học sinh quân Liên Khu 3 chúng tôi đều sặc mùi... Mỹ! Nghĩa là toàn swing, blue, rumba... có cả một nhạc cảnh swing từ đầu đến cuối với cái tên Vui Mùa Lao Công kết thúc bằng câu hát “ca vang lừng nhạc swing giữa Thủ Đô” mà chẳng sợ ai bảo làm “văn nghệ đế quốc” cả! Không có trompette thì Văn Phụng “hốt” bằng cái...chổi quét nhà! Còn Lê Quân thì dùng cái cưa giả làm... trombone để “té rè re te ré te tè” sau câu “Nghiêm, đi đều, nhìn trước! Thẳng! Đằng sau quay!”... Nhạc cảnh này chúng tôi, dưới danh nghĩa các “anh lính trọc” (vào trường này, bắt chước Tầu, bắt buộc cạo trọc đầu) đã từng “diễu võ dương oai” ngay tại một... thánh đường âm nhạc: Đại hội thành lập Liên Đoàn Nhạc Sĩ Liên Khu IV, họp tại Đô Lương Nghệ An năm 1949-1950 gì đó, dưới nhĩ mục quan chiêm của đầy đủ tai to mặt lớn trong làng nhạc thời bấy giờ như Lê Yên ([3]), Nguyễn Văn Thương ([4]), Ngọc Bích, Hải Châu.. Điều kỳ lạ là không ai phê phán gì mà còn hết lời ca ngợi động viên. Có lẽ để nâng đỡ các anh chàng lính làm văn nghệ chăng?

Kết quả không ngờ là tôi nhận được một bức thư khá dài và chân tình của ông tổng thư ký Nguyễn Văn Thương khuyên nên tiếp tục viết nhiều hơn và đề nghị tôi gửi ngay bản thảo về Hội Văn Nghệ để kết nạp tôi vào liên đoàn!

“Cuộc chơi” đã đến lúc không còn là cuộc chơi rồi! Nhạc sĩ gì ba cái thứ “hát lếu láo cho vui” giữa nơi rừng sâu Hà Cháy này! Hơn nữa, khi ngồi kẻ khuông để ghi lại các bài đã hát thì quả là bí, tôi không thể ghi đúng những gì tôi và các bạn tôi đã hát! Trình độ nhạc lý không theo kịp với cảm xúc, với bản năng âm nhạc của tôi! Chỉ riêng những sincope, demi ­sincope, những legato không nhấn nhịp mạnh, hoặc đánh yếu thành mạnh, hoặc ngược lại là đã... vỡ đầu! Thế là tôi đành... đánh bài lờ! Chẳng dám ngồi chung mâm, chung bát với các vị nhạc sĩ thứ thiệt!

Vả lại, cuộc đời làm lính lục quân thực sự cũng cuốn hút tôi... Thời giờ không còn một phút để ngồi viết thư chứ đừng nói ngồi chép nhạc! Từ sớm đến tối là một qui trình của trên ngàn cỗ máy con chạy theo cỗ máy lớn. Chả là lần đầu tiên (nhưng có lẽ cũng là quá sớm), người ta đã cho xây dựng một hệ thống trường quân sự tương đối chính quy. Thiết kế cả một hệ thống doanh trại, đại đội bộ, trung đội bộ, tiểu đoàn bộ đến hiệu bộ cứ như là đất nước không có chiến tranh vậy! “Nước sông công lính”, lũ sĩ quan tương lai chúng tôi được huy động cho cái công trình hết sức tốn kém sức người, thậm chí cả tính mạng ở nơi khỉ ho cò gáy gần biên giới Lào mang tên Hà Cháy này! Ít nhất có ba mạng đã mất xác khi xuôi bè gỗ từ thượng nguồn sông Lam về, bè bị vỡ tan khi vượt thác.

Chúng tôi phát đồi, bạt núi, đẵn gỗ, đóng bè, vượt thác, vượt ghềnh, chở vật liệu về dựng nên cả một cơ ngơi hiếm có cho cái trường Lục Quân...không hợp thời này! Không ít người đã sớm tan giấc mộng “sĩ quan ngựa hồng côn bạt” ([5]) ngay từ những thử thách tinh thần và bị... mắc lừa đầu tiên này mà rút lui bằng nhiều cách, nhất là những chàng trai chưa một ngày “mang thân ở lính”.

Cũng không ít người đã “hy sinh” ngay thời kỳ lao động xây dựng trường. Những người khác, để thử thách lòng trung thành với cách mạng, khi ra trận lập tức được đẩy lên hàng đầu trong các đợt xung phong, bỏ mình ở khắp các mặt trận từ Bắc vô Nam mà chẳng ai biết xương cốt vùi ở nơi nào! May mắn chỉ giành cho mấy anh sau này tốt nghiệp ra trường làm... “sĩ quan không quân” nghĩa là chẳng cầm quân đánh ai bao giờ. Một số ít, nhờ Trời nhờ Phật, nhờ phúc đức cha mẹ, ông bà, tổ tiên, cũng có tham gia chiến dịch này chiến dịch khác, nhưng vì đạn địch nó… chê nên sống sót để bám vào cái nghề sĩ quan chuyên nghiệp (nghĩa là chẳng có nghề gì hết), cho tới đúng 60 tuổi về vườn với cái lon đại tá là hết nước, cùng đồng lương hưu đủ cho ngày hai bữa cơm rau, cá.

Trở lại thuở “vác tre, đẵn gỗ trên ngàn” của mấy chàng trai “tạch tạch sè” chúng tôi, những anh còn sống có dịp gặp nhau, ngồi nhắc lại những ngày lao công kinh hoàng đó, đều chẳng hiểu sao mình có thể chịu đựng nổi những vất vả ngoài tưởng tượng của con người đến thế?

Tuy nhiên phải công nhận là chính sách đối với anh em văn nghệ thời ấy, dù chỉ là “cây nhà lá vườn”, ở nhà trường đứng đầu là đại tá Hoàng Điền quả là... tốt! Mấy tay văn nghệ được coi là “có cỡ” chúng tôi, tuy cũng tham gia lao động, nhưng hầu hết đều được ưu tiên thời gian cho luyện tập tiết mục để động viên nhau, để đi “đánh đấm” bằng câu ca, tiếng đàn ở các vùng lân cận và theo yêu cầu của các hội nghị Liên Khu, chủ yếu là để gây tiếng vang cho nhà trường. Thời gian lao động chân tay của mấy anh em tôi chỉ chiếm không đến 1/10 so với mọi học viên khác! Vậy mà khối anh, khi được gọi lên tham gia đội văn nghệ là... bỏ chạy vì họ sợ còn hơn cả lên rừng chặt tre đẵn gỗ! Họ sớm thấy được cái trò ca hát, kịch cọt này chẳng dễ ăn như đẽo gỗ dựng nhà! Riêng tôi, được coi là “trùm trò” nên được ưu tiên số một! Khi có một chủ trương cần tuyên truyền, động viên nào đó, đại đội trưởng Tăng Tấn ([6]) phát cho tôi một bao thuốc Bazooka và cho nghỉ ba ngày lao động để toàn tâm, toàn ý... sáng tác ra chương trình biểu diễn! May mà thời ấy chưa có đường lối đường léo nào về “văn nghệ vô sản”, “văn nghệ là vũ khí đấu tranh giai cấp” nên tôi mặc sức làm cái gì mình thấy hay. Một vở kịch nói, vài bài thơ, độc tấu, xen kẽ là các bài hát của tôi về “Trường Lục Quân đang cần lính đánh Tây”, về “Tiếng kèn báo động”...và tất nhiên không thể thiếu những Nụ Cười Sơn Cước, Đứt Dây Đàn, Trở Lại Đô Thành...do chính tôi đơn ca...Thế là hoàn chỉnh một chương trình xôm tụ! Kịch thì ra cửa hàng sách ở phố huyện Thanh Chương (đi bộ độ nửa ngày đường) để kiếm kịch bản vì tôi đã sớm dị ứng với cái thứ gọi là “kịch cương”.

Tôi còn nhớ chú Coóng, bán giải khát, người đã “cứu” tôi trong cương vị trưởng đoàn nghệ thuật nghiệp dư và...hữu hạn này! Chú là người Tầu nhưng rất am hiểu về văn học nghệ thuật do đã có nhiều năm theo học trường Tây ở Việt Nam, khi gặp tôi lang thang đi tìm kịch bản, bèn dẫn tôi về nhà rồi chỉ vào một tủ kính đầy ắp sách mà nói: “Tớ có đủ cả Lôi Vũ, Nhật Xuất của Tầu do ông Mai ([7]) dịch, Ngưỡng Cưả của Đinh Ánh, Trên Nớ của Bửu Tiến ([8]) đây. Mang về xem diễn được thì diễn...Cho cậu tất! Còn tớ, có lẽ sẽ nhờ một truy-ô (tuyau-đường dây) đặc biệt kiếm đường về nước thôi! Nước tớ cách mạng thành công rồi!” Điều cực kỳ lạ khiến tôi phục anh sát đất là... sau gần nửa thế kỷ, năm 1975, được về Sài Gòn, tôi tình cờ lại gặp được...cụ Cóong! Lúc này, cụ đã thành chủ tiệm ăn lớn ở nước Tầu...Chợ Lớn! Thì ra anh Cóong đi theo...Tây chứ không theo Tầu! Gặp anh, tôi nhắc lại thuở xa xưa, nhờ cái tủ sách của anh mà tôi đã trở thành...đạo diễn bất đắc dĩ! Đúng là tôi trở thành...“mèo” ăn miếng ăn của...“chó” ở cái đất chẳng có môt con “chó” nào thật!

Tôi phân vai, dựng vở và sắm luôn đủ loại vai khi cần, dựa vào các bài học nhập tâm từ thuở theo mẹ tôi đi xem tập vở Nửa Chừng Xuân dưới sự chỉ đạo nghệ thuật của ông “thầy tuồng” thứ thiệt có tên Vi Huyền Đắc ([9]) hay Thế Lữ ([10]) gì đó tôi không nhớ chính xác. Mẹ tôi khi ấy là nữ công chức đầu tiên dưới thời Pháp thuộc, bà phải tân tiến lắm và không sợ “mang tiếng” mới dám tham gia một vai diễn nghiệp dư như thế. Kết cục là bà phải chịu sự ghét bỏ của bà nội tôi đến tận ngày bà nội tôi qua đời!

Cách làm việc của mấy ông “thầy tuồng” mà bố mẹ tôi cũng như những ông tham, ông phán thời ấy khi xung phong làm cái trò “xướng ca vô loài” — để ủng hộ vùng nào đó bị lũ lụt tận miền Trung — còn lưu lại mãi trong tôi. Các diễn viên không chuyên này đều răm rắp nghe theo lời đạo diễn. Đặc biệt ông phán Cần, bố nhạc sĩ Trần Danh bây giờ, trong vai Lộc thì phục sát đất. Nhờ bài học nhập tâm ấy, tôi chăm chú nghiên cứu kịch bản, phân tích nhân vật rồi cứ như đạo diễn thứ thiệt cũng chỉ cách đứng, cách đi, góp ý về đài từ, biểu cảm bằng jeu de physionomie...! Tóm lại, để có một chương trình văn nghệ, tôi phải lo toan tất tật mọi sự vì các “diễn viên” đâu có thời giờ để tập luyện nhiều.

Cực nhất là không có nữ. Chỉ tìm được hai tay có vẻ con gái một chút là Huy Thái và Xuân Nghiễn nhưng hai tay này đều không có “máu” văn nghệ”, dù dưới “lệnh” của đại đội, tiểu đoàn, họ đôi lần phải nhận vai bất đắc dĩ. Kết quả lớn nhất có lẽ do những bài hát “tếu táo” của tôi!

Qua các đêm biểu diễn văn nghệ do tôi làm trưởng trò đó, Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn Phân Hiệu Trung Bộ đã mở mày mở mặt với nhân dân cả một vùng tự do rộng lớn từ Thanh Hóa đến Nghệ Tĩnh với những trung tâm chính trị và văn hóa như Rừng Thông, Cầu Bố, Đô Lương... Gần như tất cả thầy trò các trường trung học (cấp III) thời ấy đều sẵn sàng bỏ trường...cạo trọc đầu để vào trường Lục Quân! Đến nỗi chính Khu Uỷ 4 phải ra chỉ thị uốn nắn hiện tượng“bao công việc ấm ớ phó thác cho bu mày, thẳng đường vào Trung, học nghề bắn súng”... (lời bài hát tuyên truyền của tôi theo nhịp swing, động viên “thanh niên học sinh” đi lính thời đó rất phổ biến và có hiệu quả) kẻo các trường sẽ hết “tài hoa tương lai” của đất nước! Công hay tội của tôi là đã góp phần không nhỏ vào việc “động viên” thanh niên lên đường diệt giặc. Trong lễ kết nạp tôi vào Đảng, các bí thư Trần Hậu Tưởng (chi bộ) và Bùi Niệm (liên chi) đã long trọng biểu dương thành tích của đảng viên mới Tô Hải như vậy. Té ra tôi không chỉ được việc cho Trường Lục quân mà còn cả cho…Đảng nữa!

Thế là kể từ cái ngày 11-4-1949, tôi đã được chọn vào hàng ngũ những người... “suốt đời trung thành với sự nghiệp của Đảng”, “tuyệt đối chấp hành mọi chỉ thị do Đảng đề ra!” Việc sáng tác của tôi lúc này không còn là muốn viết gì thì viết nữa. Tất cả đều là chấp hành những gì đã bàn bạc trong chi bộ. Ví dụ: chuẩn bị cho một đợt rèn cán chỉnh quân, cho cuộc tổng kết tân binh, cho cuộc mãn khóa, cho việc tuyên truyền vận động tuyển sinh mới v.v…, tôi đều được chi bộ giao nhiệm vụ: “Đồng chí Tô Hải cố gắng có một vài bài động viên anh em trong đợt này!”

Với tôi, sáng tác ca khúc lúc này trở thành nhiệm vụ, có muốn thoái thác cũng không được, hoặc không... dám! Thế là cứ ông ổng tuôn ra: Đại Đội Tấn Công, Tiểu Đoàn Tấn Công, Trước Mặt Ta Là Quân Thù, Tổng Kết Tân Binh ... đủ thứ! Những ngày cuối đời gặp lại nhau, nhiều tá, tướng xuất thân từ cái lò Lục Quân Trần Quốc Tuấn (may mà còn sống) nói thẳng với tôi về các bài hát đó: “Đếch phải văn nghệ!” Nhưng các cụ già lại vẫn nhớ, vẫn cứ hát váng lên những điệu blue, swing, rumba... những “giai điệu trái tim” của thời nảo thời nào mà thấy sao vẫn tươi rói vẻ thanh xuân! Không ít cụ quá xúc động khi nghĩ về cái thuở xa xưa ngây thơ, trong trắng đã không bao giờ trở lại với mình, với cả con cháu mình nữa... bỗng bật khóc hu hu!

Trở lại với những “sáng tác” tôi viết theo yêu cầu của Đảng suốt 18 tháng ở Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Hết Thầy Tu Giết Giặc, Ai Đẹp Bằng Tôi, Tổ Tam Tam Quyết Không Rời Nhau, đến Bài Ca Bộc Phá để hát một vài lần rồi... bay đi theo khói thuốc (thù lao của mỗi bài hát mới “phịa” ra). Tôi cho ra lò các sản phẩm loại ấy nhanh và đúng yêu cầu đến nỗi các bạn đồng học đã dựng lên một giai thoại có thật, vừa vui vừa đau cho đời nhạc sĩ viết theo yêu cầu của tôi là “Mỗi lần thằng Hải vào... cầu tiêu là nó... “cho ra” một bài hát, dễ cứ như nó bị... diarrhée âm nhạc!”

Nghe có vẻ tếu táo, nhưng quả có thế thật!

Những bài đó, nếu tính như các ông “nhạc sĩ cơ hội” bằng cách thống kê đầu đề, tôi có thể kể i...vài trăm trong 2 khóa Lục Quân V, VI và vài...nghìn suốt quá trình “làm nhạc ăn lương nhà nước và lập công dâng Đảng” sau này!

Tôi đã thanh thản loại chúng khỏi “hồ sơ sáng tác” của tôi rất sớm, đã công khai tuyên bố “hãy coi chúng như những “bức tranh cổ động bằng âm thanh”, vẽ vội rồi dán lên tường, trên cây, giữa chợ... Có người xem qua, có người ngắm nghía, gật gù, cũng có người “bị nghe” nhưng chẳng thèm để ý tới, rồi nắng mưa đã biến chúng thành rác rưởi trên các nẻo đường từ lâu rồi! Đừng nhắc lại làm chi cho tôi phát... ngượng.

“Thành tích” vì Đảng vì Dân” của tôi, cho đến hôm nay, càng thấy bi hài vì rõ ràng chẳng còn ai (kể cả tôi) muốn nhắc tới! Nó cũng chẳng được kê vào thành tích thành tiếc gì khi chọn người để khen thưởng, để biểu dương, để tặng danh hiệu...Tôi chẳng thấy vinh dự chút nào khi nhân dịp kỷ niệm, lễ lạt, họ lại “tống” nó lên gào thét trên Tivi, trên đài phát thanh... cho “phải đạo”. Chính những người nắm “đầu ra” của âm nhạc thời Đổi Mới này cũng gọi chúng với cái tên trúng phóc: “Nhạc cúng cụ”!

Trở lại với “cuộc chơi văn nghệ” ở Trường Lục Quân, phải nói thật rằng chính cái hư danh nhạc sĩ (mặc dầu tôi rất sợ) và sự biểu dương, khen thưởng, kết nạp Đảng vv… đã làm tôi “đâm lao thì phải theo lao.” Cho đến hết khóa V, tôi đã thực sự được luyện thành một sĩ quan chính quy, tác phong dứt khoát, ăn nói mạnh dạn, giờ giấc nghiêm chỉnh, vốn liếng thừa đủ để nắm một đơn vị chiến đấu, nhưng tiếc thay, cái khả năng quân sự này của tôi lại bị cái khả năng... nhạc sĩ làm lu mờ.

Lúc này, tôi được Hội Văn Nghệ Liên Khu triệu tập họp hành với giấy mời “Kính gửi nhạc sĩ Tô Hải” đàng hoàng!

Phải chăng đội ngũ nhạc sĩ lúc ấy quá mỏng, trong khi một số khá lớn lục tục “trở về mái nhà xưa.” Một số khác như Nguyễn Văn Tý ([11]), Văn Ký ([12]) vv…đang còn dùi mài kinh sử âm nhạc dưới lớp học của nhạc sĩ Lê Yên, Nguyễn Văn Thương, chưa kịp trưởng thành?

Điều chắc chắn là chưa có mấy ai vừa nhạc sĩ, vừa sĩ quan, vừa đảng viên như tôi nên Đảng đã quyết đưa tôi về làm văn nghệ chuyên nghiệp! Mặc dầu đã nhiều lần trình bày về khả năng chưa học âm nhạc chính quy bao giờ, về nguyện vọng suốt đời làm “người lính làm nhạc” nhưng cuối cùng, chấp hành nghị quyết, tôi phải nhận nhiệm vụ đoàn trưởng Đoàn Văn Công Trường Lục Quân Phân Hiệu II, với cái nghề “làm nhạc cho lính”!

Đến khóa VI, trường chuyển về Thọ Xuân, Thanh Hóa. Đoàn Văn Công của trường được cho thành lập với biên chế 25 người, có nam, có nữ nhưng chưa có... chi bộ Đảng vì đảng viên duy nhất chỉ mình tôi! Qua những cuộc liên hoan văn nghệ đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, tôi “bắt” được vài lính mới tò te như Hoàng Thi Thơ, Phạm Long, Đức Lộc...nhưng chưa một anh nào có quá trình làm văn nghệ “tử tế”, ngoài vài cái tài vặt, bản năng trời cho.

Cũng may lúc này chi hội văn nghệ Khu IV đã giải quyết chính sách đãi ngộ đối với số văn nghệ sĩ có tên tuổi đang gặp khó khăn trong đời sống bằng cách giới thiệu một số người sang Trường chúng tôi! Thế là tôi như được chắp thêm cánh với những “tên tuổi lớn” như Lộng Chương ([13]), Thi Thi Tống Ngọc ([14]), Nguyễn Xuân Huy ([15])…và vài cái tên khác mà sau này tôi mới biết là...văn nghệ sĩ dỏm, văn nghệ sĩ “ăn theo”!

Dưới “trướng” tôi lại có thêm một nửa tiểu đội con gái lục quân cây nhà lá vườn (từ khóa sáu có tuyển cả phụ nữ về công tác tại Hiệu Bộ). 23 tuổi đời, chưa vợ con gì mà “lãnh đạo” một đơn vị đủ cả đực cái, đủ mọi lứa tuổi, già nhất là nhà văn Nắng Đào Nguyễn Xuân Huy, đủ mọi trình độ, tính cách, tư tưởng, xu hướng chính trị, triết lý cuộc đời đều... quá tầm tay của anh chàng đảng viên duy nhất Tô Hải! Thực tế đã cho tôi thấy ngay từ thuở ban đầu ấy là chẳng ai lãnh đạo nổi ai trong cái nghề văn nghệ này! Tôi, tuy rất vất vả với mấy cô học sinh trung học đi lính (chẳng hiểu vì yêu nước hay yêu mấy anh lính đẹp trai) luôn luôn lề mề, nhõng nhẽo không thích hợp với đời sống quân ngũ chính quy có tập hợp, điểm danh, chào cờ, nhưng vẫn không “ớn” bằng khi phải phân công, giao việc, duy trì sinh hoạt quân sự cho mấy ông văn nghệ sĩ đáng tuổi bố mình. Tôi biết họ vào trường để có chỗ làm việc thì ít mà để có chỗ ăn ở đàng hoàng, bảo đảm thì nhiều. Họ chỉ lấy cái trường có một ông hiệu trưởng mê văn nghệ để làm nơi tạm trú chứ hướng của họ là...về Thành! Quả thật sau này, trừ “quần chúng” ([16]) Lộng Chương (đuợc làm “quần chúng” cho đến cuối đời!), tất cả đều lần lượt “bye bye cộng sản!”

Khó khăn biết mấy khi sống chung với những người mà tôi phải...chào thua từ lâu! Tôi đã hơn một lần lên gặp ông Hoàng Điền giám hiệu trường xin...hàng! Nhưng cuối cùng, một câu hỏi “Thế đồng chí không làm được thì ai làm?” khiến tôi chỉ còn biết nói “Thôi thì tôi xin cố gắng hết khóa này!” Nào ngờ...cái sự cố gắng đó đã kéo dài đến hết cuộc đời. Cố gắng làm một cái nghề mà tôi chán ngán và... kinh sợ vì tính chất bội bạc, nguy hiểm chết người của nó! Nhiều anh em sau này bị qui kết là phản bội, là phản giai cấp, phản Đảng, thậm chí Việt gian, gián điệp trong giảm tô giảm tức, cải cách ruộng đất, sửa sai...là cả một tấn bi kịch đầy máu và nước mắt! May thay, trong những kẻ “sống sót” vẫn có tôi. Vì sao?

Xin thưa: tôi là kẻ “đóng kịch” và nói dối khá giỏi.

Nói cách khác, tôi đã hèn hơn mọi kẻ hèn để tồn tại. Có hơn chăng là hơn cái bọn đã giã từ những “Nhài đàn rót nguyệt vú đời thơm”... để thay thế bằng “Tim gõ nhịp hồn lên cao chín trượng”([17])... khi ca ngợi lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh! Trong số này, vài tay đã sống cả bằng nghề... diệt anh em (!) và từ đó được đánh giá là “lập trường vững”, rồi được nhấc lên ghế lãnh đạo văn nghệ, được cấp nhà lầu, xe hơi, và nhiều bổng lộc hơn người!

Để tồn tại, một số tiếp tục ngợi ca, rao giảng... “hiện thực xã hội chủ nghĩa” mà trong thâm tâm chẳng hề tin ở cái xã hội chưa bao giờ thấy và chẳng bao giờ có ấy!

Tệ hại nhất phải kể đến các thủ phạm giết những Nguyễn Hữu Đang, Hữu Loan, Trần Dần, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường... Đám này không mắc bệnh mất trí, nhưng đã quên phắt các bản án khốn nạn mà chúng kết tội những người không may kia, nay quay ngoắt 180 độ, ngợi ca, thậm chí tâng bốc họ như thể họ là những vĩ nhân, là bạn thiết của chúng. Lũ người này, kẻ còn sống thì vênh váo hô lớn “Đổi mới” và ngủ trên thành tích…hại người, kẻ đã mất thì nay bới mãi cũng chẳng ra một tác phẩm nào giá trị bằng...nửa đồng xu! Tôi không cần viết tên họ ra vì chẳng ai lạ gì. Hơn nữa, bằng chứng về một thời gian làm “đao phủ văn nghệ” dưới lá cờ máu “vô sản chuyên chính” vẫn còn đó, dù họ có muốn cũng khó thủ tiêu hết được.

Riêng tôi, tới nay, tôi vẫn luôn cảm phục những bậc văn nghệ sĩ đàn anh thực sự có bản lãnh và nhân cách. Họ chỉ cầm bút, viết, vẽ những gì mà trái tim họ chỉ bảo. Số này có những số phận thật lạ lùng. Có người “dinh tê” để hoàn toàn được làm văn nghệ không phục vụ ai, đặc biệt những người không hề bỏ bên này để chửi bên kia, hoặc ngược lại, thì đến nay cuộc sống chẳng phú quý vinh hoa gì, dù họ rất có tài. Trái lại kẻ lươn lẹo, nay hurrah bên này, mai bravo ([18]) bên kia lại sống được, sống khoẻ.

Sau này, khi tiếp quản Sài Gòn, tôi cũng chiêm nghiệm thấy điều vô lý mà có lẽ này: Chính những người nổi tiếng chống cộng, khi ở lại với cộng sản lại biết nắm yếu điểm của chúng để giải phóng cho chúng.

Những người ấy rất biết tự uốn nắn cuộc đời mình! Họ đâu có “ngu lâu” như chúng tôi! Họ lịch sự, lễ phép, ngọt ngào: “Dạ! Thưa các anh!” Sau đó, kính cẩn, thân tình mời các anh nếm mùi “văn hóa tư bản giãy chết”, rượu ngon, gái đẹp…để các anh đã cơn khát, cơn thèm. Họ mua lòng tin của các anh bằng những chầu nhậu từ A đến Z. Thế là chẳng cần phải vượt biên, phải chung chi, hàng loạt nghệ sĩ tên tuổi biết cách “nắm dái Việt cộng” (xin lỗi) đã được tạo không ít cơ hội...dông tuốt ra nước ngoài! Đó là những trường hợp Thành Được, Thanh Lan, Họa Mi. Một số ở lại hoặc sau này trở về với nhãn hiệu “Việt kiều yêu nước” còn ăn nên làm ra, nổi tiếng như cồn như trường hợp Elvis Phương, Ái Vân, Duy Quang và ông vua trở cờ Phạm Duy! Tất cả do họ nắm được cái “tẩy” Việt cộng “nói dzậy mà không phải dzậy!” Cái sự đời trong làng văn nghệ dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, cứ như con thò lò nghiêng ngả hoặc đĩ điếm tám tầng mà vẫn không ngớt gào: “Em còn nguyên trinh tiết Mác-Lênin!”

Những Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương, Khái Hưng, Nhất Linh, Hồ Biểu Chánh, những Trần Trọng Kim, Trương Vĩnh Ký ([19]), Nguyễn Văn Vĩnh ([20]), thậm chí cả Phạm Quỳnh ([21]) đã được dần dần phục sinh!

Mà thế là phải. Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương lẽ nào lại không thể sánh vai cùng Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận..? Những bài thơ chẳng có tí “lập trường” nào lại được tái xuất giang hồ! Quá trình “theo địch” của các họa sĩ Bùi Xuân Phái ([22]), Lương Xuân Nhị ([23]) được lặng lẽ xóa đi (tuy có chậm) vì tác phẩm của họ rõ ràng chẳng phục vụ ông Tây, bà Đầm, ông địa chủ, hay giai cấp nào.

Cái chân-thiện-mỹ mà kẻ cầm quyền khoe như của có sẵn trong nhà trên thực tế lại thuộc về những người ít chữ nghĩa nhất như ông Lâm toét, bác Tô Ninh là những “mạnh thường quân” biết đánh giá nghệ thuật đúng hơn hẳn các nhà lãnh đạo văn nghệ mà vô văn hóa của Đảng!

Những cú quay cuồng 180 độ này, đám lãnh đạo văn nghệ chuyên ăn không nói có, cứ trâng tráo coi như nhờ ơn Đảng “đổi mới tư duy” mà có vậy! Nhiều điều họ nói và làm đều...chửi bố ông Mác, ông Lê, ông Hồ và mặc nhiên phủ nhận “ný nuận văn nghệ vô sản” trước đây họ từng rao giảng! Vậy mà họ vẫn xưng xưng tuyên bố là...“kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin”! Còn ba tên chuyên bợ đỡ, bốc thơm các anh văn nghệ cấp trên thì không cần che cái mặt mo lại vẫn cặm cụi tiếp tục viết “Đường lối văn nghệ đổi mới của Đảng ta cực kỳ sáng suốt”! Cứ làm như nhờ có Đảng mà người Việt Nam mới được xem tranh của Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí ([24]), Lê Phả, mới đuợc nghe nhạc của Mozart, Ravel…! Họ lờ đi những tội ác tầy trời với lịch sử văn hóa nước nhà khi giết đi những nhân tài đích thực, bắt các nghệ sĩ phải viết những cái mà lịch sử không bao giờ công nhận là văn nghệ, biến biết bao con người thành bồi bút, thợ vẽ, những cái loa rè, những tên hề rẻ tiền! Chẳng còn gì là giá trị văn hóa sau 30 năm văn nghệ Mác-tịt, Lê-tịt, Mao tịt, cuối cùng họ đành phải “vơ vào” là của họ, những tác phẩm, những tài năng đích thực mà họ từng đánh đấm vùi dập đến tuyệt đường sáng tác!

Có biết bao nạn nhân của cái quái thai văn nghệ vô sản, ngay khi đã nằm sâu dưới ba tấc đất vẫn kêu gọi loài người HÃY CẢNH GIÁC VỚI CHỦ TRƯƠNG DIỆT VĂN HÓA CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, bằng những hồi ký, nhật ký đọc lên thấy rợn người!

Những Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, kể cả những Xuân Diệu, Huy Cận, Văn Cao... sẽ để lại cho hậu thế được tác phẩm nào nếu không có những gì đã viết trước cái năm Ất Dậu 1945 vô phúc cho dân Việt Nam?

Trong giới nhạc, sau Sông Lô, Làng Tôi, Văn Cao... hoàn toàn tắc tị, Việt Lang sau Đoàn Quân Đi, Mùa Không Biên Giới, Thu Trên Sông... đã đổi tên không hề nhận mình là Việt Lang và chuyển nghề dạy học! Nguyễn Xuân Khoát sau Gọi Nghé Trên Đồng, Tiếng Chuông Nhà Thờ cho đến cuối đời trở thành nhà truyền giáo về âm nhạc dân tộc... như giảng đạo trên sa mạc! Lê Yên sau Bộ Đội Về Làng cũng trở thành nhà nghiên cứu âm nhạc... tuồng Tầu?

Đời sống âm nhạc, sau chiến dịch biên giới 1950 đã thay đổi sâu sắc cả về nội dung, hình thức lẫn đội ngũ. Văn nghệ sĩ đảng viên lúc này đứng ra nhận trách nhiệm động viên, tuyên truyền bằng văn nghệ với phương châm “Tất cả vì tiền tuyến”, “Tất cả để chuẩn bị tổng phản công”, “Tất cả để chiến thắng”...Tóm lại, tất cả phải phục vụ chính trị. Bằng không, xin mời đi chỗ khác chơi.

Điều này giải thích tại sao chính thời gian chuẩn bị tổng phản công lại có nhiều văn nghệ sĩ rời bỏ kháng chiến đến vậy. Người ta thường nêu lên ý kiến: “Chẳng qua bọn họ không chịu nổi gian khổ, sợ chết mà thôi!”

Tôi hiểu được vì sao. Họ “bỏ đi” không phải vì sợ gian khổ mà chính vì họ không chịu nổi kiểu sáng tác theo chỉ thị, không chấp nhận sự can thiệp thô bạo vào những “đứa con” mà họ đau đớn đẻ ra.

Làn sóng văn nghệ kiểu “Mao sếnh xáng” ào ào từ Việt Bắc đổ xuống khu IV, báo hiệu một cuộc “cách mạng mới” sẽ xảy ra trong đời sống văn hóa! Vậy mà sống giữa ốc đảo trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn, giữa đám thầy trò hầu hết là dân trí thức tiểu tư sản, tôi vẫn được thoải mái làm văn nghệ “nửa đỏ, nửa xanh” không bị cấp ủy trực tiếp của mình phê bình! Cấp uỷ vô ý thức hay trong thâm tâm cố tình “ôm lấy đường lối văn nghệ đồi trụy” của tôi và một số bạn bè tôi, như sau này có kẻ đã phê phán?

Tôi thừa nhận thức để thấy rằng nếu đưa cho lính những bức tranh vẽ những gì họ thấy trong đời thường, ở nơi hàng ngày các chính trị viên hô không mỏi miệng “Tiến lên!” “Thao trường bớt mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” thì làm sao họ có thể nuốt trôi được cái họ đã quá ngán trong khi còn chưa hết cơn mệt mỏi đã phải tập hợp chỉnh tề để... thưởng thức nghệ thuật.

Tôi tự nhủ, bằng âm nhạc của mình, sẽ mang đến cho lính những phút thư giãn tâm hồn, bớt đi những căng cứng đã quá thừa mứa! Tôi cố mang đến cho họ những Mùa Không Biên Giới (Việt Lang), những Đứt Dây Đàn, Gặp Em Giữa Mùa Xuân (Tô Hải), thậm chí cả Sérénade của Schubert, Tristesse của Chopin (lời Việt), hay Sombreros et Mantilles (bằng tiếng...Pháp)! Còn kịch thì ông Lộng Chương dựng cả Nhật Xuất của Tào Ngu ([25]), Ngưỡng Cửa của Đinh Ánh do ông thủ vai chính!

Tất nhiên, xen kẽ là những bài về trường lục quân như Thầy Tu Giết Giặc, nhạc cảnh Trường Lục Quân Đang Cần Lính Đánh Tây, Ai Đẹp Bằng Tôi do tôi sáng tác theo đơn đặt hàng của cấp ủy nhưng vẫn cứ là… swing, blue, samba, rumba chính hiệu... Đố ai dám động đến những nốt đồ, nốt rê, nốt sol, nốt la nào là “địch”, nốt nào là “ta”!

Mọi sự cứ êm ả và...ầm ĩ diễn ra, dù cách đấy không đầy 20 cây số, ở cái “trung tâm văn nghệ Quần Kênh” do ông Đặng Thai Mai ([26]) làm “chủ xị”, người ta đang chăm chỉ nghiền ngẫm bài nói chuyện về văn nghệ phục vụ công nông binh của Mao chủ tịch tại Diên An!

Những hoạt động âm nhạc “phi giai cấp” này sẽ còn được tiếp tục và được hoan nghênh nếu không xảy ra một sự cố lịch sử trong đời làm văn nghệ của tôi. Chả là, khi một nửa trường Lục Quân khóa V được lệnh hành quân sang Trung Quốc để củng cố “trường bên ấy”, các tay văn nghệ “số dách” bị phân tán một nửa và mang theo một lô một lốc những tác phẩm của tôi sang Tầu, “đất thánh” của nền văn hoá vô sản!

Các vị này đã hãnh diện cho ra mắt những “tinh hoa” của nền văn nghệ “Lục quân Trần Quốc Nội” gồm toàn bài hát của tôi. Thế là chẳng biết từ đâu, một lệnh được phát ra: “Dẹp ngay ba cái thứ văn hóa đế quốc ấy đi!” Người hát thì chỉ việc...thôi hát hoặc thay thế bằng những bài như “Đón Chào Anh Mô” ([27]) của Trọng Loan([28]) là xong. Còn thằng sáng tác ra nó? Thằng ấy đáng đưa vào “vạc dầu” chỉnh huấn, chỉnh đảng, chỉnh quân sau này.

Tội nghiệp cho tôi!

Nào tôi có biết swing, rumba hoặc nốt son, nốt si là đế quốc hay không đế quốc? Có ai dạy tôi rằng sincope nhiều thế là...Mỹ? Mượt mà êm dịu là “ủy mị” là “thiếu tính chiến đấu”, là...Tây? Thú thật, tất cả những gì tôi đã sáng tác và được hoan nghênh một thời, tôi đều bắt chước Tây, bắt chước Mỹ tuốt. Nghĩa là cũng majeur, mineur, cũng tonique rồi dominante rồi về tonique...Còn khúc thức thì chẳng ai dạy mà tôi vẫn cứ làm câu A rồi mô phỏng ở câu B, đại loại như bài But where are you, I love to twistle hoặc Laissez-moi vous aimer, Quand on est matelot... thôi. Miễn là cái lời có đánh Tây, có đi bộ đội, có tin tưởng “sẽ đánh thắng”, “sẽ về Hà Nội”... Còn cái gọi là “nội dung tư tưởng” thì quả là, cả tôi lẫn những vị lãnh đạo trực tiếp tôi, có ai biết nó là cái giống gì?

Tuy nhiên, từ trên cao nhất, người ta đã có nghị quyết “phải làm theo đường lối văn nghệ Diên An” thì đến... bố các ông trên dám trái ý bác Mao vĩ đại!

Thế là khắp nơi tổ chức học tập để thấm nhuần tư tưởng Mao Trạch Đông trong văn nghệ. Nói trắng ra là bắt đầu tiêu diệt bọn “trí” trước, rồi sau đó mới tới lượt “phú, địa, hào”. Chỉ vài tháng sau đó, những thủ đoạn ác độc, rùng rợn được hăm hở thực hành trong những “cuộc vận động” với những cái tên mà đến nay nghe lại cũng vẫn còn thấy rùng mình, sởn gai ốc! Đó là “đấu tranh giảm tô giảm tức”, là “cải cách ruộng đất”… Tất cả là để hoàn thành mục tiêu của bọn giết người tự xưng “đỉnh cao trí tuệ” mà tội ác so với Hitler chẳng hề thua kém!

Giới văn nghệ dù là đảng viên hay quần chúng, dù có cuồng tín, có mù, có điếc cũng nhận ra rằng cái đường lối khốn nạn, sặc mùi giết người của tên tổng bí thư Trần Phú đã bắt đầu được mang ra thực hiện.

Với đám văn nghệ chúng tôi, người ta tổ chức các lớp “chỉnh huấn” ([29]), kiểm điểm, phê bình và tự phê bình bằng những cuộc lên án, chụp mũ hàng loạt sáng tác bị cho là đồi trụy, tư sản, tiểu tư sản, thậm chí phản động. Sau đó là học tập những tác phẩm điển hình về “văn nghệ vô sản”, “hiện thực xã hội chủ nghĩa” của các nước anh em mà chủ yếu là Trung Quốc! Sau nữa tới tự kiểm điểm bản thân về nhận thức rồi mang các tác phẩm của mình ra tự xỉ vả! Cuối cùng là hứa hẹn bằng bản nhận thức mới về “đường lối văn nghệ của Đảng ta”, rằng “kiên quyết từ bỏ đường lối văn nghệ thù địch để đi theo con đường văn nghệ công nông binh của Đảng”... bên Tầu!

Chỉ khổ mấy bác họa sĩ có người phải xóa, thậm chí phải đốt biết bao tác phẩm không có hình ông bà nông dân hoặc anh bộ đội để chứng tỏ đã giác ngộ đường lối mới. Kết quả là hàng loạt họa sĩ tài năng đành cuốn gói về thành ([30])! Riêng giới nhạc, từ những anh có uy tín với Đảng nhất như Đỗ Nhuận ([31]), Trần Hoàn... tới những anh “đáng nghi ngờ” đều chỉ biết tự xỉ vả ở cái “mục đích phục vụ”. Rằng “tôi viết phục vụ cho... giai cấp nông dân quá ít”, rằng “tôi viết chỉ để phục vụ cá nhân tôi”, rằng “tôi viết theo đường lối tư sản”... vì vô sản nào hát nổi hàng đống contre temps, sincope... làm cho cả người hát lẫn người nghe, anh nào anh ấy cứ như bị động kinh, gân giật đùng đùng! Thế là hết tội! Không đến nỗi bị mang “giấy trắng mực đen” ra làm tang chứng mất lập trường để làm thịt nhau như mấy bác bên làng văn với những trường hợp Hữu Loan, Quang Dũng...

Âm nhạc thời ấy làm gì có bản thảo nào được xuất bản mà có tang chứng?! Đồ rê mi chỉ là những ký hiệu thì khó kết “tội” rồi. Cho đến nay có nhà phê bình nào dám đả động đến đâu –– đại ngu, đại dốt mà lại! Nhưng, những “con chữ” (cho dù truyền khẩu) mới là cái chết người: Tại sao lại “trong tôi thèm muốn tới một chiều về cố hương”? Lập trường của người chiến sĩ cách mạng sao có thể bi quan, có thể ước mong...“cá nhân chủ nghĩa” đến thế? Không ít ý kiến cho đây là tư tưởng chao đảo, bi quan thậm chí có “màu sắc phản động”, có ý định... về thành! Người ta cũng nghi ngờ tôi có ý định ấy. Chao ôi! Nếu tôi có ý định “về” thì đã về từ khuya, cùng với Ngọc Bích, Canh Thân, Hoàng Thi Thơ... rồi! Để chẳng còn phải mang tiếng là...“cộng sản thứ thiệt!” như nhiều người (kể cả gia đình tôi) đã nghĩ “oan” như vậy cho tôi tới tận hôm nay!

Hơn nữa, cuộc kháng chiến chống Pháp lúc này, thắng lợi đã thấy rõ mồn một! Ngày trở về đàng hoàng trong tư thế ngẩng cao đầu với...bố tôi đã đến gần. Thôi thì cố gắng đóng kịch thêm một thời gian. Tương lai quay lại với giảng đường, trở thành bác sĩ, kỹ sư lại hiện ra trước mắt tôi, đầy hứa hẹn. Thế là lại tiếp tục chặng đường đóng kịch một thời gian nữa để tồn tại, để khỏi mất thể diện (với... bố tôi!) với hy vọng là nó sẽ sớm chấm dứt.

Nào ngờ, số phận đã đưa đẩy tôi vào con đường “nhạc nô” cho Đảng đến tận ngày tôi quyết dứt bỏ nó bằng cách... về hưu trước thời hạn,1986, không như ai kia xin ở lại “phục vụ cách mạng đến hơi thở cuối cùng” vì không dám nhả cái... vú bao cấp của Đảng. Tôi chấp nhận mọi thua kém về quyền lợi vật chất để thoát khỏi sự chỉ đạo của những thằng đại ngu, đại dốt, đại hèn, để thoát khỏi mọi sinh hoạt, mọi quan hệ với các tổ chức, cơ quan, thậm chí hy sinh cả mọi quan hệ gia đình, bạn bè, biệt tích đến nỗi bạn bè phải đăng báo tìm tôi như tìm trẻ lạc!

Cũng chính từ cái làng Đồng Đế, Nha Trang này tôi bắt đầu ghi lại cảm xúc thật của tôi bằng những trang tổng phổ nhạc không lời, với ước mong đời sau sẽ có người biết đến. Chứ hôm nay, khi các dàn nhạc của Nhà Nước độc quyền văn hóa chỉ dành riêng cho mấy tay lãnh đạo âm nhạc được dàn dựng tác phẩm của mình, thì chuyện tôi làm âm nhạc tử tế là hão huyền, vô duyên, vô tích sự!

Sau 5 năm cố gắng làm nhạc cuối cùng, tôi đi đến quyết định: thôi hẳn cái trò đồ rê mi để bắt tay vào viết bằng chữ cụ thể. Tôi sẽ dùng cái khả năng A,B,C để thoải mái viết tất cả những gì đã dằn vặt tôi gần hết cuộc đời! Không còn sợ bị truy ép, bị cắt lương, bị theo dõi, bị bỏ tù hoặc thủ tiêu như bao bạn bè, anh em tôi không may đã trở thành những người “tử đạo” bởi bọn lưu manh âm mưu đào tận gốc, trốc tận rễ lũ chúng tôi.

Trở lại tình hình những năm đầu thập kỷ 1950.

Chính các giáo điều chết người về “văn nghệ vô sản”, “văn nghệ đấu tranh giai cấp”, được nhập cảng đã mang đến những bản án tử hình đối với văn nghệ đích thực. Cuộc sống của văn nghệ sĩ kháng chiến cũng từ những năm 1950 phân hóa rõ rệt hơn. Kẻ thì “nhắm mắt đưa chân” theo con đường... vô văn hóa để tồn tại, kẻ thì tìm cách về thành để được sống tự do, được viết lách theo trái tim mình. Một số khác, trong đó có tôi thì...cải tạo tư duy... giả vờ, viết quấy viết quá để báo cáo, còn vẫn dành cho trái tim mình phần đất tự do với các tác phẩm riêng tư, hát cho mình, hát cho bạn, cho người yêu, rồi cất dưới đáy ba-lô, hi vọng đến một ngày vật đổi sao dời…

Nhưng cũng nhờ cái cửa biên giới phía Bắc được mở mà chúng tôi, lần đầu được tiếp xúc với một nền văn nghệ cũng cộng sản, cũng chuyên chính nhưng tương đối “cởi mở” và có học hơn. Đó là nền văn nghệ Xô Viết mà ngay những năm 1950, có kẻ cho là “còn rơi rớt tàn tích tư bản chủ nghĩa”!

Té ra chủ nghĩa cộng sản cũng có ba bảy kiểu, nhất là cộng sản trong văn nghệ. Tôi càng thấm thía câu “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” chỉ là tiếng kêu thất thanh của sự tranh giành ảnh hưởng giữa các tên trùm cộng sản khi thấy cộng sản Tầu đã chiếm được cả cái phần đất và số dân đông bậc nhất, nhì thế giới với những đường lối hoàn toàn khác biệt. Điều này càng rõ sau hàng loạt hội nghị các đảng cộng sản và công nhân, ở đó người ta cãi nhau, bắt bẻ nhau về các đường lối “xét lại”, “giáo điều”, “mác-xít lê-nin-nít chân chính”. Cũng cộng sản cả đấy mà có tới hàng tá cách nhận thức, hàng tá kiểu cai trị, tùy ý thích của một nhóm, thậm chí chỉ của một cá nhân! Tiếc thay, ở cái nước Việt Nam khốn khổ này, chẳng có lãnh tụ văn nghệ vô sản nào giỏi hơn...Tố Hữu, cho nên quanh đi quẩn lại cứ hết theo Tầu lại theo Nga, hết theo Nga lại theo Tầu… Những văn nghệ sĩ “theo đóm ăn tàn” cứ thế suốt đời chìm nổi theo thời cuộc bấp bênh và bàn tay chỉ đường... đại ngu với cái lưỡi đại ba xạo của Đảng!

Chính trong những ngày ấy đã có một luồng văn hóa khác đến từ Liên Xô và một số nước cộng sản Đông Âu. Luồng văn hoá này, về sau được đặt tên là “văn hóa xanh” không được lòng các nhà lãnh đạo Việt Nam. Họ nhìn nó bằng con mắt nghi ngại, thậm chí khó chịu, nhưng không thể ngăn cấm, vì nó cũng là văn hoá của nước cộng sản anh em. Tuy nhiên, để cẩn thận, chúng tôi đều phải tiếp xúc với chúng trong...bí mật! Quả là luồng gió mát cho chúng tôi, nhưng hết sức “độc” cho những cái đầu u tối!

Tôi còn nhớ ở Đại Hội văn nghệ Liên Khu III tổ chức tại Kim Tân, ngay sát thành nhà Hồ, chúng tôi có dịp truyền tay 2 cuốn La Chute de Paris của Ilya Ehrenburg và La Défaite của Fadeev. Lần đầu tiên, tôi thấy có một nền văn nghệ cộng sản khác thứ văn nghệ “Mao sếnh xáng” mà bọn tôi đang phải răm rắp làm theo. Giữa cuộc chiến tranh, người lính hồng quân Liên Xô vẫn hát...“Suliko”! Vẫn đọc thơ Maiacopxky và Simonov! Mất mát, thất bại, khóc thương chẳng làm mất tinh thần người lính chút nào. Trái lại, họ đã đánh vào tận hang ổ của Hitler và chiến thắng của họ là sự kiện mà cả thế giới không ai phủ nhận.

Trong đầu tôi và nhiều bạn hữu đã hình thành từ lúc nào không biết ý tưởng nếu muốn có sáng tác tồn tại với thời gian, phải đi theo con đường an toàn là viết, vẽ, làm nhạc theo kiểu Liên Xô! Không ít người muốn làm như các đồng chí “anh cả” đã làm, họ đâu có mang tội gì với lý tưởng cộng sản? Nhất là sau khi Stalin chết, Zhdanov ([32]) hết thời, giới văn nghệ Liên Xô đã bắt đầu cựa quậy. Cũng chính trong cái ngã ba, ngã tư văn nghệ cộng sản này mà cuộc đấu đá bằng đủ thứ lý luận ra đời. Không ít người đã “phục xuống mà sáng tác” (cách nói của Lê Đạt) với ước mong sẽ có một Bác Sĩ Dzivago Việt Nam. Tiếc thay, đa số trước bức bách của đời sống đã chọn con đường gác bút, chuyển nghề và có người biến ngòi bút thành cái cần câu cơm, viết lấy được những gì gọi là vô thưởng, vô phạt.

Tuy nhiên, nhiều tên đồ tể văn nghệ đã hiện nguyên hình, tự nguyện trở thành những chuyên gia bới lông tìm vết trong từng câu chữ, lời ca, nét vẽ...những gì là “phi giai cấp”, là mất “Đảng tính”, là “sặc mùi tạch tạch sè”, là “biểu tượng hai mặt”...để tỏ ra mình có Đảng tính hơn người. Mọi thứ chủ nghĩa, trường phái gì trong nghệ thuật, đối với những kẻ này, đều trở thành “phi vô sản”, “phản động”!

Sự ngu si kèm theo tư tưởng cơ hội, kiếm chác được đẩy lên cao độ tới mức phủ nhận luôn cả giá trị ngàn đời của nghệ thuật dân tộc. Điển hình nhất là dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên Huấn, đoàn văn công trung ương đã đổi nội dung Tấm Cám thành “Chị Tấm, anh... Điền.” Họ không cho phép cô Tấm lấy hoàng tử (đại diện cho phong kiến) mà bắt cô kết hôn cùng một anh tên là Đất (Điền)!

Sau này ở nước đàn anh, dưới sự dạy bảo của “người cầm lái vĩ đại”, các hồng vệ binh còn đánh gãy tay người biểu diễn Beethoven, đốt sách văn học cổ điển quốc tế và quốc gia, đập phá di tích lịch sử, bỏ tù các văn nghệ sĩ, một thứ “đốt sách, chôn học trò” của bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng. Còn ở xứ Việt Nam “đàn em”, người ta lên án hát bè là “tư sản”, múa ballet là khiêu dâm, học kỹ thuật âm nhạc là chạy theo kỹ thuật của tư sản, đế quốc! Những đắng cay, hài hước đó diễn ra cả chục năm. Nỗi đau triền miên này kéo dài suốt thời làm văn nghệ trong hòa bình.

Nói cho đúng, tôi là một người gặp khá nhiều may mắn trong cuộc đời làm văn nghệ sĩ mặc áo lính. Tôi bắt đầu vào nghề với những cái “dù” vững chắc và hoạt động trên một ốc đảo gồm hầu hết là người có học ít nhiều. Tôi tồn tại và lập khá nhiều “thành tích” nhờ cách...chia trái tim ra làm đôi. Một nửa tôi viết cho tôi, một nửa tôi viết theo yêu cầu của Đảng!

Thời kỳ đầu, cái “nửa của tôi” có thể tồn tại vì lãnh đạo và quần chúng (Trường Lục Quân) của tôi ủng hộ. Nhưng... gió Bắc từ nơi “Đông phương hồng, mặt trời lên” ào ào thổi tới, đảo lộn tùng phèo hết! Người ta điều động hàng loạt chính ủy “cứng” về trường. Từ các ông Hoàng Lưu rồi Trần Văn Quang đến Trần Sơn Hùng chủ nhiệm chính trị... tất cả đã nằm trong bộ máy “Tầu hóa quân đội”!

Điều đó sau này tôi mới hiểu vì sao.

Đoàn chuyên gia Tầu đứng đầu là tướng Vu Bội Huyết mang tới cho Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn một cuộc cách mạng tư tưởng cùng cuộc cách mạng lý thuyết quân sự với những cuộc diễn tập công kiên chiến, bao gồm chiến thuật tập trung binh lực (biển người), nhất điểm lưỡng diện, bao vây, vu hồi vv…Những quan niệm cực kỳ vô …văn hóa về văn hóa được trắng trợn áp đặt! Lẽ tất nhiên, đến lúc ấy thứ văn-nghệ-Lục-Quân-Trần-Quốc-Tuấn của tôi hết đất sống. Lệnh trên ban xuống: dẹp bằng hết những Thầy Tu Giết Giặc (rumba), Ai Đẹp Bằng Tôi (swing)… của tôi và những Ngưỡng Cửa, Nhật Xuất của Lộng Chương! Lý do: sản phẩm rơi rớt của xã hội tư bản, không phù hợp với người nông dân mặc áo lính!

Tôi đang loay hoay với sự tồn tại của Đoàn Văn Công nhỏ bé của mình nên không để ý đến những gì đang xẩy ra ở “trên.” Sau hai đợt ngừng học tập để rèn cán chỉnh quân, kiểm điểm trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên (trong đó có tôi) Đảng bộ nhà trường dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Liên Khu Ủy Khu IV, đứng đầu lúc ấy là ông Hoàng Anh đưa ra kết luận cuối cùng: “Sai lầm căn bản từ phương châm tuyển học sinh (ít công, nông, binh) đến tổ chức và đường lối đào tạo, phương pháp và nội dung huấn luyện, giáo dục tư tưởng”! Với các “tội danh” trên, “trường lục quân quốc nội” không còn lý do tồn tại và người lãnh đủ đầu tiên là ông đại tá hiệu trưởng Hoàng Điền, một trong “Ngũ Hoàng” được phong hàm đại tá đầu tiên, đeo lon 3 sao 2 gạch những năm 1949-1950, ngay từ khi chưa có quyết định phong hàm cho bất cứ ai.

Sau này, có lẽ còn chút chiếu cố người ta cho ông làm cái nghề trái khoáy là cục trưởng Cục Điều Tra... Rừng thuộc Bộ Lâm Nghiệp rồi về hưu trong lặng lẽ, sống cô đơn không con cái, vợ chết, trong căn phòng vẻn vẹn 24 mét vuông chặt cứng sách quân sự mà ông từng dịch.

Năm hộ sống chung thường gọi ông là ông “đại tá... điếc!” Sự thật ông đâu có điếc đến nỗi không nghe được gì vì mỗi lần đến thăm ông, tôi vẫn thấy ông “nghe được” tôi nói và, khi thấy “ý hợp tâm đồng” ông vẫn gật gù: “Phải! Phải!”...Có một lần sau khi nghe tôi nói: “Thưa thầy! Dù sao thầy cũng hạnh phúc hơn ông Lưu Thiếu Kỳ, hơn ông Bành Đức Hoài, Lâm Bưu... vì thầy còn... sống, và còn có cả lũ tướng, tá học trò và cả văn nghệ sĩ nhớ tới thầy!”, ông bỗng bật khóc thành tiếng!

Thì ra ông... không điếc trước những gì cần nghe!

Không phải vì ông không biết lắc, biết gật mà chỉ vì ông hay ngồi thừ người ra hồi lâu, đôi mắt vẫn sáng như xưa bỗng mờ đi vì vài giọt lệ khi nghe ai nhắc tới cái thuở huy hoàng ngày nào. Ôi, thầy Điền! Chính thầy đã dẫn lối đưa đường cho tôi vào văn nghệ, đã dạy tôi cách sống và giữ bản lãnh con người như thế nào, đã hiểu biết văn nghệ hơn cả ngàn lần những nhà lãnh đạo văn nghệ tự xưng hoặc được đề bạt. Đến hôm nay với tôi, ông vẫn là một nhà tổ chức, lãnh đạo tài năng nhưng không gặp thời... Chẳng biết những học trò cũ của thầy, có anh nay đeo lon trung tướng như Lê Quốc Thước có nghĩ như tôi không?

Kết thúc cái khóa VI đầy “sự cố” ấy, tôi... thoát nạn!

Mọi sự “mất lập trường”, “sai đường lối” của tôi đã có hàng loạt các ông chính trị lãnh đủ. Nhưng làm gì bây giờ? Về đơn vị chiến đấu thì... những gì tôi học ở khóa V không còn được công nhận khi có đường lối quân sự mới của Mao sếnh xáng. Về văn công ở phân hiệu bên Trung Quốc thì tôi sẽ là một kẻ... phá thối!

Cuối cùng, tôi đành chấp nhận về đoàn văn công Bộ Tư Lệnh Khu IV, một đoàn văn công lớn nhất sau văn công trung ương lúc bấy giờ với những tên tuổi khá nổi bật như Thanh Tịnh ([33]), Xuân Bình, Vĩnh Cường, Đình Quang ([34]), Minh Trâm, Phùng Quán...và một dàn nhạc đủ kèn đồng, kèn gỗ, đàn dây, nhưng đang thiếu người sáng tác và chỉ huy! Thật tình tôi rất lo lắng về cái khả năng trời cho của mình rồi đây sẽ làm ăn ra sao trước những đòi hỏi ngày càng cao về hiểu biết chuyên môn “đồ-rê-mi”?

Cũng phải thú thật rằng tôi rất ngán đối diện với những người mà tôi nghe danh từ lâu. Đối với họ, tôi chỉ là dân “tài tử” không hơn, không kém. Tôi cũng rất “ớn” cái không khí Khu IV nổi tiếng hẹp hòi trong cách đối xử với trí thức, nhất là trong một Hội Nghị Văn Nghệ mà tôi nhớ suốt đời về cái “nhát dao” chém chết Lời Người Ra Đi của Trần Hoàn từ miệng ông Hải Triều ([35]) phun ra. Tôi cũng nghe được mấy bài huấn thị của các ông Nguyễn Chí Thanh ([36]), Hoàng Anh, Lê Chưởng ([37])... và của ông Lê Duẩn ([38]) khi dừng chân ở Liên Khu Ủy IV trên đường từ Nam ra Bắc. Tất cả là tiếng còi báo hiệu hãy tránh ra thật xa kẻo sẽ bị chẹt chết bởi guồng máy “văn nghệ vô sản chuyên chính” đang chạy phăng phăng. Nhưng chậm quá rồi!

Hơn nữa, tôi đã tự đưa mình vào cái thòng lọng thứ hai, sau cái thòng lọng là đảng viên, là cấp ủy! Đó là tôi... lấy vợ! Mà vợ tôi lại là diễn viên trong Đoàn Văn Công sắp bị giải tán!

Trong cơn đại hoang mang, đại thất vọng này, lấy vợ, đối với tôi, như một liều thuốc an thần giúp tôi tạm thời ổn định con đường phải đi tiếp những ngày trước mặt! Năm ấy tôi vừa tròn 23 tuổi, còn vợ tôi cũng tròn...17! Tất cả lễ cưới đều nhờ sự ưu ái của đảng ủy nhà trường lo từ cái bàn, cái ghế, đến khẩu hiệu, giấy mời và bữa tiệc trà đạm bạc. Sau đó, cô dâu chú rể ai về nhà nấy (ở vùng Hậu Hiền này người ta kiêng!). Và ngay sáng hôm sau, hai vợ chồng tôi được nghỉ phép về quê vợ để làm lễ cưới tại gia. Tôi được chiều chuộng và tiếp đón thật cảm động.

Sau tuần trăng mật tại chỗ, hai vợ chồng cuốc bộ từ Nghệ An ra Thanh Hóa để rồi tại đó nhận lệnh điều động... trở lại Nghệ An, về Bộ Tư Lệnh Liên Khu IV!

Mãi sau này tôi mới biết người ta đã cân nhắc, trao đổi khá lâu về việc nhận cả hai vợ chồng tôi. Lý do duy nhất chỉ là đoàn đã có quá nhiều chuyện phức tạp với mấy ông văn nghệ sĩ thứ thiệt! Nào vợ con, nào bếp núc ăn riêng, nào kỷ luật bê bối, thậm chí còn có tình trạng... “phum phum” (thuốc phiện). Bây giờ lại thêm vợ chồng nhạc sĩ Tô Hải nữa thì... quá mệt cho lãnh đạo! Tuy nhiên với lý lịch tốt nghiệp hai trường quân sự, nhất là với cái mác “đảng viên”, người ta đành phải nhận... cả cặp!

Và cuộc “phiêu lưu” lại tiếp tục! Hai vợ chồng tôi lên đường dấn thân vào chỗ...chết dở, sống dở! Với 2 cái thòng lọng “đảng viên” và “gia đình”, tôi đã đưa chân vào một nơi tuy yên lành nhất về tính mạng nhưng vô cùng khắc nghiệt sự... “cách” cái “mạng” của con người!

Chưa cải cách ruộng đất nhưng Liên Khu IV đang nóng bỏng với các cuộc đấu tranh giảm tô giảm tức –– thực tế là đấu tranh chính trị bằng các cuộc đấu tố –– theo kiểu Tầu. Cả một địa phương rộng lớn nhưng nghèo đói vùng lên đấu tố bất kể ai có của ăn, của để, chẳng cứ là địa chủ, cường hào ác bá hay không, cốt cướp đi từ cái nồi, cái sanh, manh quần, tấm áo của bất cứ ai sống khá hơn mấy ông bà bần cố nông (!), để họ phấn khởi lên đường đi dân công hoặc nhập ngũ! Gia đình vợ tôi là một nạn nhân đầu tiên, mặc dầu chẳng có một thước ruộng.

Một cuộc diệt chủng có tính toán thực sự đã bắt đầu.

Hai vợ chồng tôi đã đâm đầu vào cái lò lửa thiêu người ấy! Vừa tới đơn vị, tôi được chủ nhiệm chính trị Nguyễn Đình Tùng (sau làm chánh án Toà Án quân sự trung ương), trưởng ban tuyên huấn Tính, phó ban Hoạt (tôi quên họ) mời lên giao nhiệm vụ: “Là một văn nghệ sĩ của Đảng (lúc này tôi đã được gọi là nhạc sĩ nhờ các cuộc họp lớn, nhỏ về văn nghệ trong Liên Khu đều mời tôi với phong bì đề “Kính gửi nhạc sĩ Tô Hải!”), đồng chí phải củng cố lại tổ chức, phải nắm vững đường lối văn nghệ của Đảng, phải từ bỏ các kiểu sáng tác tiểu tư sản, phải toàn tâm toàn ý phục vụ người nông dân mặc áo lính, phải... phải... và phải… ”

Thế là “nửa trái tim” còn lại tôi cũng phải từ bỏ nốt!

Về kịch, Đình Quang cho dựng Trúng Tủ, về múa (lại thêm một nghề mới mà tôi ù ù cạc cạc), Đặng Văn Khoáng dựng Bà Chu Cho Trứng, Ương Ca…về hát, sau khi Cao Xuân Hạo ([39]) bị thất sủng bởi dựng bài hợp xướng nhiều bè “Chân rời tay” (tên thật là Đông Nam Á Châu của Lưu Hữu Phước ([40]) do Cao Xuân Hạo hòa âm và chỉ huy), bị điều đi mặt trận Bình Trị Thiên để tăng cường tính chiến đấu! Tiết mục của Đoàn, lúc tôi về nhận nhiệm vụ gần như vay mượn 90% của... Tầu. Tuy biết khó lòng cựa quậy, tôi cũng cố tìm một lối thoát nhỏ... bằng cách né tránh những đề tài hóc búa, không “viết lấy được”, “viết rồi bỏ” như cũ nữa. Tôi cùng thầy Quảng (ông thầy tu từng phối nhạc cho đội kèn đồng của Khu) vùi đầu viết cho từng cây kèn, cây đàn, cây sáo. Phải nói chính bác Can (trombone), bác Đính (sax), Mai Huyên (cornet), Thường (clarinet) đã dạy tôi các bài học đầu tiên về instrumentation và thầy Quảng là người thầy về orchestration đầu tiên của tôi.

Đoàn văn công của chúng tôi trở thành một đoàn tương đối chính qui với những đêm biểu diễn đủ cả hòa nhạc không lời, hát, múa, kịch, ngâm thơ... và đặc biệt có một nhân vật chuyên lấp lỗ hổng rất tài tình bằng những bài độc tấu, đôi khi “cương” tại chỗ. Đó là diễn viên hài rất có duyên và được khán giả cực kỳ mến mộ là nhà thơ Thanh Tịnh! Ông không nề hà bất cứ việc gì trong đêm biểu diễn và sẵn sàng đóng cả vai táo quân đi hia không mặc quần trong một vở... “Chống xa xỉ phẩm”! Không bao giờ ông đến chậm một đêm diễn dù khi hành quân, bao giờ ông cũng được ưu tiên đi...một mình, miễn là có mặt đúng nơi quy định. Thường thì cho ông đi trước vài ngày. Sau này tôi mới được phản ảnh: Không phải ông tuổi nhiều, sức yếu đâu mà chính là để ông có thì giờ đi tìm “cái ông cần”: những viên thuốc nhỏ đen đen, vàng vàng mà ông thường tích trữ để dùng khi ông bắt đầu thở bằng ba tiếng phù!.. phù!.. phù..! Mới đầu tôi nghĩ là thứ thuốc chữa bệnh kinh niên gì đó, sau một cuộc họp với liên chi ủy, tôi được phổ biến rằng ông đang trong quá trình thoát khỏi bệnh...“ro ro”! Xin vái hương hồn anh về tiết lộ này vì một chi tiết quan trọng mà tôi đã không thể nói: Anh đáng nhẽ được kết nạp Đảng như các anh Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng từ lâu vì những gì anh đóng góp cho kháng chiến, vì tên tuổi của các anh, khi đứng vào hàng ngũ Đảng là một vinh dự cho Đảng. Tuy nhiên, mỗi lần họp, tất cả đều im lặng không bỏ phiếu cho anh vì lý do: “Chưa bỏ được!...Vẫn còn dùng...xái!” Ở khu IV càng trầm trọng hơn, khi anh đã lên tận ông Hoàng Anh (đồng hương) để khiếu nại, xin vào Đảng không cần thông qua “cơ sở”! Chắc chắn anh sẽ còn là “quần chúng phức tạp” mãi nếu đoàn văn công không được lệnh nhập thành Đoàn Tổng Cục Chính Trị và anh được về Phòng Văn Nghệ để rồi được vào Đảng, được phong hàm đại tá, được người đời ca ngợi khi anh...đi vào cõi vĩnh hằng. Phải nói thật là với tôi, một sĩ quan được đào tạo chính quy, phải làm văn nghệ vì phân công của Đảng, thì thoạt đầu tôi không chịu nổi phong cách sống quá tự do của anh, nhất là từ khi có Phùng Quán, một mầm non có thể thay thế anh bởi những bài độc tấu bi hùng...tự biên tự diễn. Nhưng càng sống với anh, tôi càng học thêm được nhiều điều: “Nhẫn nhục, nhẫn nhục và... nhẫn nhục!”

Nói cho đúng, để có thể sống chung với những người nông dân lãnh đạo (chứ không phải một đảng vô sản kiểu ông Mác!), Thanh Tịnh đã không còn là Thanh Tịnh của Quê Mẹ nữa. Anh có cái tài là rất nhanh mồm nhanh miệng khi ra sân khấu nhưng chẳng nói một điều gì khi dự những cuộc họp, những buổi học tập “rèn cán chỉnh quân!” Tôi còn nhớ giữa lúc người ta đấu tranh bằng...đấm đá và...giết người ở khu IV, một lần anh khuyên tôi: “Tình hình lúc này, im lặng còn quí hơn vàng đấy, Hải ạ!” Chỉ một lần ấy thôi. Chả là anh thấy tôi bắt đầu có lời nói và thái độ phản ứng với cái chính sách bắt hàng loạt người từng cưu mang, nhường nhà, nhường cả miếng cơm, giường nằm cho mình, ghép cho họ những tội phản động, bóc lột... rồi chửi bới, đánh đập họ đến chết!?

Đoàn văn công Bộ Tư Lệnh IV của tôi không đêm nào không phải bắt buộc dự các cuộc đấu tố hết “kẻ thù giai cấp” nọ đến địa chủ, cường hào, ác bá kia! Và cuộc đấu tranh “long trời lở đất” ấy đã lan vào đến quân đội. Bắt đầu từ địa chủ Nguyễn Thị Năm (mẹ chiến sĩ) ở Thái Nguyên rồi tới con trai là trung đoàn trưởng Công (tôi quên mất họ) bị bắt về địa phương để nông dân đấu tố.

Khi cuộc đấu tranh “long trời lở đất” lan tới khu IV thì càng dữ dội, tàn bạo hơn. Gần như tất cả tỉnh đội trưởng như ông Chương (Hà Tĩnh), ông Thái Tứ, các trưởng ban, phó ban tham mưu, tuyên huấn vv... lúc ấy đều bị “dính” do gia đình bị qui là phản động! Thời kỳ này, Bộ Tư Lệnh chưa trực tiếp lãnh đạo các sư đoàn cơ động mà chỉ phụ trách các đơn vị địa phương nên nạn nhân đầu tiên và dễ tóm nhất là những cán bộ trưởng thành từ địa phương! Do đó “tai họa thế kỷ” giáng xuống mấy anh thuộc Bộ Tư Lệnh địa phương trước tiên.

Đoàn Văn Công của tôi cũng là một đơn vị cần-tìm-cho-ra “kẻ thù giai cấp!” Trong các cuộc đấu tố nội bộ, ai cũng phải... “tự kể tội” mình đối với nông dân rồi trình bày trước tập thể để được bổ sung, “giúp đỡ”, phê phán cho thấy được “Anh là người chưa giác ngộ giai cấp, chưa thật sự cải tạo tư tưởng...” thậm chí phải công nhận bố mẹ là địch, là bóc lột, là...đủ thứ đáng tội chết!

Lúc này, cảnh bị treo ngược và dùng chày nện vào vai, vào lưng, vào gan bàn chân để tra tấn cho đến chết nhiều “phần tử ngoan cố” vì không nhận tội, hoặc “kẻ thù giai cấp” vì trót liều nhận tội… khiến anh nào anh nấy đều phải cố gắng “bịa” ra những cái “tội” mà mình chẳng có bao giờ, để được phán là... “thành khẩn” và sớm được thông qua, chờ cấp trên xử lý!

Tôi nhớ mãi bản tự kiểm của Phùng Quán. Tuy cậu ta cố làm ra mặt “buồn bã, ăn năn, hối hận” về “tội” của mình đối với nông dân nhưng... đọc bản kiểm điểm thì anh em cứ rũ ra... cười! Mà cười trong đấu tố là một cái tội có khi bị no đòn vì “cười trên nỗi khổ của nông dân!” Phùng Quán không thể nào không “hình tượng hóa” cảnh “bóc lột nông dân không thương tiếc” của cậu ta. Ví dụ “Tôi đã lấy trộm của bác nông dân chiếc quần duy nhất khi bác ta cởi truồng đánh rậm dưới sông (!) để đến nỗi bác ta, khi về nhà, phải úp hai tay trên... “chim” làm trò cười cho cả làng!” Hoặc “thời ở chiến khu, do bị ghẻ Tầu, tôi không mặc quần được nên đã ăn cắp một lá cờ thờ thành hoàng quấn xung quanh người, tôi đã xúc phạm tín ngưỡng thiêng liêng của nông dân” vv…Lãnh đạo của cuộc đấu tố (hoàn toàn không ai trong ban chỉ huy, trong cấp ủy mà là 3 ông nông dân chính gốc được Đội Cải Cách Ruộng Đất cử về!) đã nhiều lần “đề nghị đồng chí Phùng Quán nghiêm túc” cũng như cử tọa phải có thái độ “căm thù” chứ không phải vui trên nỗi khổ của giai cấp!

Ba ông nông dân này làm sao hiểu được tất cả chẳng qua chỉ là...“sáng tác”! Bọn tôi, hầu hết đều là dân thành phố. Nếu không có cuộc kháng chiến, lắm anh chưa chắc đã thấy cây lúa khác cây... đa ở chỗ nào! “Tội”, chẳng qua chỉ do quá sợ ông bà nông dân đánh chết nên bịa ra mà thôi! Bịa 100%! Trừ một số có tài “bịa” chuyện “khôi hài khó tin y như thật” kiểu Phùng Quán, tất cả đều láu cá tự “kiểm điểm về ý thức” chưa “tôn trọng, còn khinh người nông dân”... như sợ “cách ăn, cách ở bẩn thỉu, xa lánh, chưa gần gũi nông dân” vv… Nói chung là hết sức trừu tượng và “tội” cũng... nhỏ!

Chỉ riêng một “đối tượng chính” cần đấu cho ra... tội hẳn hoi: đó là anh chàng Đặng Văn Khoáng, con một đại địa chủ ở Diễn Châu. Nào ngờ vừa vào cuộc, Đặng Văn Khoáng đã “tự đấu” bố mình còn hơn cả anh em, hơn cả 3 ông lãnh đạo! Anh ta vừa khóc lóc vừa kể lể về đủ mọi thứ “tội ác” của cha mình, tri phủ Đặng Văn Hướng, đến mức mấy nữ diễn viên như Phạm Thị Tần, Ái Hoa, Hương Mai...từ chỗ tin là anh ta bịa để thoát “tội không thành khẩn” đến chỗ tưởng là thật nên nước mắt lưng tròng!

Và đặc biệt, khi anh ta nêu lên vai trò...“nạn nhân” của bọn phong kiến địa chủ của chính anh ta: con rơi của...“địa chủ bố” đã hãm hại cuộc đời mẹ anh, một nông dân chính cống (sau này trở thành vợ 3, vợ 4 gì đó) thì anh ta khóc như mưa, vò đầu, đập trán, lăn đùng ra nhà, đau khổ, quằn quại, thở phì phì... làm các “ông Đội” luôn phải động viên: “Hãy bình tĩnh! bình tĩnh!”, “Hãy dũng cảm đấu tranh, tố hết tội ác của “kẻ thù” ra để anh em thấy được những tội ác tày trời của giai cấp địa chủ!” Từ “mục tiêu đấu tố”, anh ta trở thành nạn nhân đau khổ của giai cấp địa chủ! Nhiều người trong chúng tôi ngồi nghe phải cúi đầu, giả vờ đau khổ, tay để trên trán để che cặp mắt không sao rơi lệ được của mình vì thừa biết đây là màn kịch để “chạy tội” cho cá nhân.

Những nhân vật như Đặng Văn Khoáng không hiếm và không ít kẻ sau này đã “ăn nên làm ra”, leo lên một số chức vụ khá “thơm” trong Đảng và chính quyền nhờ sự thành khẩn đáng tởm đó! Lý lịch “nặng căn” đến như con đẻ của thượng thư nhất phẩm triều đình, bị Việt Minh thủ tiêu ngay từ ngày cướp chính quyền cũng có thể trở thành ... “tiến bộ”, “giác ngộ giai cấp”, “thành khẩn”, “trung thành với Đảng” suốt đời cũng là nhờ những màn kịch tởm lợm! Chẳng một tấc đất cắm dùi, không hề quan hệ với một nông dân nào từ tấm bé cũng bỗng trở thành “kẻ thù giai cấp” từ các cuộc đấu tố bi hài này mà ra!

Tôi chọn con đường kiểm điểm... ý thức! Toàn là... “chưa đánh giá hết sức mạnh chủ lực quân” của nông dân, “chưa thông cảm hết nỗi khổ”, thậm chí “hờ hững”, nhưng nặng nhất và làm buổi đấu tố mất nhiều thời giờ nhất là “cuộc đấu tranh hiện tại tôi chưa hoàn toàn tin tưởng vì vẫn cảm thấy nông dân hơi quá tay!” vv... Tuy nhiên, để tỏ ra “giác ngộ giai cấp” giữa cuộc đấu tranh này, tôi đã cho ra một bài hát mà tôi xóa hẳn “cái tôi” đứng “bên” hoặc đứng “trên” người nông dân để xưng danh ở ngôi thứ nhất: Tôi đã là...nông dân! Đó là bài Chúng Ta Không Muốn Đói! Bài hát sau đó được trao giải nhì (không có giải nhất) của Liên Khu. Tôi cũng công nhận ông chủ dây thép bố tôi và bà nữ hộ sinh mẹ tôi là...“địch” vì đã theo địch, ăn lương của địch, phục vụ địch! Tôi tự mở toang cánh cửa để khỏi phải mất công đấm đá, nhưng người ta vẫn tiếp tục phê phán, bổ sung... mất cả nửa ngày về cái “gốc” gia đình của tôi để rồi... “thông qua” một cách chưa thật hài lòng cho lắm!

Trong lúc chờ đợi kết luận xử lý của trên, tôi rất lo lắng tìm cách thoát khỏi “cơn lốc giết người” đó bằng sự bầy tỏ công khai sự “giác ngộ giai cấp”, sự “chuyển mình dứt khoát về phía nông dân” với một loạt tác phẩm mà người nông dân luôn là “tôi” ở ngôi thứ nhất! Có thể kể những câu như “Ba chúng ta cùng rời đồng lúa xanh, ba chúng ta cùng vì dân đấu tranh” (Tổ Tam Tam) hoặc “Cuốc bẫm cày sâu cho đồng ta được mùa”. Đặc biệt là nhạc cảnh Nông Dân Biết Ơn Bác đã trở thành tiết mục của hầu hết các Đoàn Văn Công nhân dân cũng như quân đội thời ấy! Với những “tác phẩm” này, tôi đã nhận được không ít giải thưởng của Liên Khu và của Tổng Cục Chính Trị. Nhưng cái chính là nó “cứu” tôi khỏi vụ ghê gớm chết người mà sau này Đảng có “sửa sai” thì không ít kẻ đã mất hết tinh thần, thậm chí mất tên tuổi và mất luôn cả thể xác! Cũng từ đây, bắt đầu cuộc đời “viết để tồn tại”, viết như điên, viết tất cả những gì mà người ta bảo phải viết. Từ các đề tài hoan nghênh đại hội Liên Việt, đến chống hạn, chống úng, biết ơn bác Mao, bác Hồ... tôi đều lấy ngay đề tài được com-măng để đặt tên cho bài hát một cách “nôm na” giản đơn đến mức có thể gọi là “chửi cha mách qué”!

Thành tích sáng tác về “số lượng” và “kịp thời” đó, sau này Thanh Tịnh còn phát huy ở Đại Hội văn công toàn quân! Anh lấy một bài báo, thậm chí các khẩu hiệu treo quanh hội trường rồi giới thiệu một “bài hát mới toanh” do... anh sáng tác và mặt tỉnh bơ, anh rống lên theo những cao độ và tiết tấu mà anh nghĩ ra để làm vui cho hội nghị. Mọi người được dịp cười nôn ruột khi anh tuyên bố: “Bảo đảm là... không ai có thể hát lại được bài này vì bản thân tôi cũng... không thể hát lại được!”.

Cứ thế, tôi nổi lên như một nhạc sĩ viết khỏe, viết nhanh và đúng lập trường giai cấp nhất lúc ấy ở Khu IV.

Tôi thoát nạn! Tuy nhiên, với nhận xét trong lý lịch mà sau này tôi mới biết: “lý lịch phức tạp”, “lập trường bấp bênh”, “chưa thật tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng”... tôi đã mất chức đoàn trưởng đoàn văn công!

Thay tôi là một nhà chính trị có tên Thái Văn Công, một nhân vật hiền lành, ít nói, có đôi chút hiểu biết và quan trọng hơn, anh ta sẽ thay tôi nhận mọi chỉ thị về đường lối, phương hướng tổ chức và trước mắt, thay tôi dẫn đoàn hành quân lên Việt Bắc dự Đại Hội văn công toàn quân, truớc chiến thắng Điện Biên độ 3 tháng.

Còn tôi chỉ có một việc là lo sao cho đủ tiết mục để phản ảnh được tình hình bộ đội Liên Khu. Tôi chẳng ham hố gì cái chức đoàn trưởng, tranh thủ dịp này để cùng thầy Quảng dàn dựng, phối âm, phối khí cho hàng loạt tiết mục của tôi đẻ ra là chính. Những kinh nghiệm về phối bè hát, về kết hợp gỗ, đồng, dây chính là nhờ cái thời mất chức này mà bắt đầu! Sách nào, thầy nào dạy được tôi phối 4 cây violon, 1 saxo ténor, 1 trompette, 1 trombone, 1 flute cơ chứ? Vậy mà đoàn tôi đã làm nổi đình nổi đám cả cái Hội Nghị ở chân núi Hồng bằng những tiết mục, đặc biệt là nhạc cảnh Nông Dân Biết Ơn Bác, Kéo Lưới Ban Mai, Một Nhà... những bài đồng ca có bè như Biết Ơn Bác Mao, Bác Hồ trong đó tôi viết một bè fugue ca ngợi Bác Hồ trên nền nhạc của bài... Đông Phương Hồng ca ngợi Bác Mao!

Cái tên Tô Hải, tác giả Nụ Cười Sơn Cước có lẽ nổi lên vì sự “chuyển hướng mạnh mẽ” và được ghi nhận từ đây. Một số anh em lần đầu tiên gặp tôi như Huy Du, Văn An, Nguyễn Đức Toàn ([41]), Thanh Phúc...đều bắt tay khen ngợi. Không ít người, đặc biệt là Văn An, sau này thành bạn ý hợp tâm đầu nhất tới tận hôm nay vì nhận ra được cái sự... “xỏ lá” của tôi khi đặt bác Mao làm “chân đế” cho Bác Hồ...bay bổng trên giai điệu! Riêng tôi, lòng vẫn không yên vì thấy mình chỉ là anh sáng tác, hòa âm, phối khí... mò! Cho tới khi, do tình hình chiến sự có thay đổi nhanh chóng: Chiến dịch Điện Biên đã mở!

Theo lệnh trên, các đoàn văn công quân đội (độ 20 đoàn) lên đường đi phục vụ chiến dịch, hoãn Hội Nghị! Các đoàn vội vã học lại tiết mục của nhau để chia thành nhiều mũi lên đường. Tôi và một số anh em như Huy Du, Đàm Linh, Hoàng Yến, Đào Hồng Cẩm ([42]) (kịch) được giữ lại Tổng Cục Chính Trị để chuẩn bị tiết mục thành lập các đoàn văn công mạnh bằng cách cộng các đoàn văn công yếu lại kẻo thời cơ đến, như lời ông Võ Hồng Cương ([43]) người trực tiếp lãnh đạo hội nghị, trở tay không kịp.

Ba tháng nằm ở chân núi Hồng, đám nhạc sĩ chúng tôi có dịp tâm sự với nhau và thấy tất cả đều...“mo huyền” hết! Thậm chí anh chàng Vũ Trọng Hối viết một bài Rê trưởng mà không biết đề ngoài khóa biểu là hai dièse! Cứ gặp nốt fa hay nốt đô nào đều tương một dấu dièse bất thường, hết sức...vô tư! Riêng tôi, có chút vốn nhờ trường sơ, trường dòng, qua lý thuyết của Reber, Lavignac, nhất là qua thầy Quảng, qua kinh nghiệm của các bác Đính, Căn, Mộc ... từng chơi trong các đội kèn nổi tiếng của Parmentier, của ông Minh (giải nhất đội kèn thuộc địa ở bên Tây) và qua thực tế... viết liều (!), tôi tự tin hơn và nuôi một ý chí: quyết phải đi học âm nhạc chính qui, phải nắm được bài bản của cái nghệ thuật rất khoa học này.

Tôi càng nôn nóng khi thấy ngay giữa chiến dịch, người ta cho gọi Hoàng Vân ([44]) về, cùng Đình Quang đi bộ sang Tầu học nhạc, học kịch. Nhưng số phận không mỉm cười với tôi.

Chiến dịch Điện Biên kết thúc thắng lợi! Toàn thể các đoàn văn công đều được biên chế thành 3 đoàn, Đoàn 1, Đoàn 2, Đoàn 3. Những người xét không có khả năng được trả về đơn vị chiến đấu, những người có tên tuổi về Tổng Cục để thành lập Phòng Văn Nghệ. Loại này gồm nhiều nhà văn, nhà thơ hợp với văn phòng hơn sân khấu như Thanh Tịnh, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Trần Dần, Hoàng Yến. Họ đã tập hợp dưới trướng chính ủy Tử Phác ([45]), người lúc nào cũng đội mũ không lưới tức là từ cấp trung đoàn trở lên, để sau này... bùng nổ ra vụ “Nhân Văn”...Riêng tôi được giao nhiệm vụ đặc biệt quan trọng (hay người ta cố tình đầy đọa): lập tức trở về Khu IV, thành lập ngay một đoàn văn công quân đội mạnh, đủ sức đối đầu với văn nghệ địch nơi giới tuyến tạm thời!?

Lúc này hội nghị Genève đã đi vào giai đoạn kết thúc có hậu! Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã thất thủ, đưa tất cả chúng tôi vào một hứng khởi điên rồ. Có anh hò hét, xé quần, vứt áo, nhảy ùa xuống suối khi nghe giọng nói trịnh trọng và hùng hồn của người phát ngôn thời sự hiếm có là Thanh Tịnh tuyên bố: “Chúng ta đã bắt sống De Castries!... ”

Có thể nói không một thanh niên Hà Nội nào khi ra đi trước đó 8 năm, nghĩ ngày về lại có thể đến sớm như vậy. Ba đoàn văn công quân đội, bộ mặt văn hóa của cách mạng có nhiệm vụ tiến vào thủ đô trước tiên. Vậy mà, tôi còn cha, còn mẹ, còn 6 đứa em ở lại Hà Nội lại được Đảng phân công trở về mảnh đất Khu IV khô cằn để... tay trắng xây nên một lực lượng “văn công dự bị” cho ngày thống nhất sau đó... hai năm! Tôi không phải không suy nghĩ về sự đối xử “ưu tiên” này. Số phận hình như luôn đặt tôi trước khó khăn, cản trở mọi ước muốn, hy vọng, nhưng vẫn phải chấp nhận dù là chấp nhận trong cay đắng.

Số là ở mảnh đất Thanh Chương Nghệ An, tôi còn để lại vợ và đứa con đầu lòng mà tôi chưa biết mặt! Vợ tôi có mang 6 tháng nên không thể theo đoàn hành quân cả ngàn cây số ra Việt Bắc. Tôi gửi lại nhà một đồng chí rất thương hoàn cảnh chúng tôi: đồng chí Hoạt (tôi quên họ) ở thôn Thượng Thọ, huyện Thanh Chương, một địa phương mà đoàn văn công của tôi coi như quê hương thứ hai.

Trở về, tôi mới biết các đồng chí Hoạt, Lợi, các mẹ Thì, mẹ Đối mà tôi cực kỳ yêu quý đã bị ông bà bần cố nông quy cho là... địa chủ, bị đấu tố, bị khai trừ khỏi Đảng, bị tước đoạt mọi tài sản, bị quy là...phản động, là mua chuộc cán bộ! Không còn nơi nương tựa, vợ con tôi lang bạt sang tận một xóm hẻo lánh sát vách núi Trường Sơn để khỏi bị quy là “sống bám vào địa chủ”!

Lo cho vợ con khó tránh tai bay vạ gió trước cơn lốc đấu tố tàn nhẫn đang nổi lên mạnh gấp nhiều lần nơi khác, tôi “bấm bụng” lên đường trở lại Khu IV. Gần một tháng trời cuốc bộ, tôi chỉ có một suy nghĩ: Phải sớm trở về với gia đình, cứu lấy vợ con. Thậm chí tư tưởng từ bỏ cái mác đảng viên hão huyền để trở lại cuộc sống dân thường bắt đầu nảy sinh. Tôi sẽ đi học tiếp (tôi mới 26 tuổi) hoặc là âm nhạc, hoặc là đi làm ở bất cứ cơ quan nào dính líu tới văn nghệ (báo chí, phát thanh lúc ấy rất cần những người như tôi). Một quyết tâm giã từ nghề lính tráng, cùng vợ con sống với gia đình giữa thủ đô đã hình thành trong tôi.

Nhưng mọi sự vẫn diễn ra không như tôi mong ước. Số phận bắt tôi phải gắn cuộc đời vào mảnh đất quanh năm gió Lào, quanh năm khoai lang khô và mắm nhút ––một thứ tả pí lù gồm chủ yếu là mít xanh và các thứ gì ăn thừa, muối trong một chiếc vại sành.

Nhưng cái khổ về vật chất không thể sánh với cái khổ về tinh thần do hậu quả các cuộc đấu tố, do tư tưởng nông dân, do sự đối xử với con người, nhất là với “ba anh văn nghệ” của cái đất dữ nhất toàn quốc về đấu tranh giai cấp này. Bi kịch kéo dài suốt 7 năm tiếp theo là bi kịch làm hỏng cả cuộc đời, nhân cách của tôi và cả gia đình tôi.





([1]) Albert Lavignac (1846-1916), thầy dạy nhạc, người Pháp.

([2]) Diễn viên Mỹ trong các phim chiếu những năm trước Thế Chiến 2.

([3]) Lê Yên (1917-1998), nhạc sĩ thời tiền chiến, nổi tiếng với các ca khúc Bẽ Bàng, Xuân Nghệ Sĩ Hành Khúc, Ngựa Phi Đường Xa…

([4]) Nguyễn Văn Thương (1919-2002), một con chim đầu đàn của tân nhạc Việt Nam với những nhạc phẩm Đêm Đông, Trên Sông Hương…

([5]) Súng lục colt.

([6]) Anh của nhạc sĩ Trần Hoàn tức Tăng Hích.

([7]) Học giả Đặng Thai Mai.

([8]) Tên Nguyễn Bửu Tiến (1918-1992), nhà viết kịch, diễn viên.

([9]) Vi Huyền Đắc (1899-1976), nhà viết kịch, đồng thời là nhà ngôn ngữ học, tự vị học.

([10]) Tên Nguyễn Thứ Lễ (1907-1976), còn có bút danh Lê Ta, nhà thơ, nhà hoạt động sân khấu thập niên 1930 từ thời Tự Lực Văn Đoàn.

([11]) Nguyễn Văn Tý (1925), nhạc sĩ, nổi danh với những ca khúc đầy chất lãng mạn. Bài Dư Âm của ông sống mãi trong lòng người nghe.

([12]) Văn Ký (1928), nhạc sĩ với những nhạc phẩm trữ tình: Bài Ca Hy Vọng, Nha Trang Mùa Thu Lại Về, Hà Nội Mùa Xuân...

([13]) Tên thật Phạm Văn Hiển (1918-2003) nhà soạn kịch, đạo diễn.

([14]) Tên thật Nguyễn Ngọc (1925), nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi.

([15]) Nguyễn Xuân Huy, nhà văn, nhạc sĩ.

([16]) Người ngoài Đảng.

([17]) Thơ Huy Cận.

([18]) Hurrah, bravo = hoan hô (tiếng Nga, tiếng Pháp).

([19]) Tên khai sinh Trương Chánh Ký, còn có tên Pétrus Ký (1837-1896), nhà giáo, nhà báo, nhà văn và nhà bác học Việt Nam, thông thạo 26 ngôn ngữ, tên được ghi trong Bách Khoa Tự Điển Larousse.

([20]) Nguyễn Văn Vĩnh, hiệu Tân Nam Tử (1882-1936) nhà báo, nhà văn nổi tiếng đầu thế kỷ 20.

([21]) Phạm Quỳnh (1892-1945) hiệu Thượng Chi, bút danh Hoa Đường, Hồng Nhân, thượng thư triều Nguyễn, người đi tiên phong trong quảng bá chữ Quốc ngữ, cổ võ dùng tiếng Việt thay chữ Nho hay tiếng Pháp để viết lý luận, nghiên cứu. Bị Việt Minh giết tại Huế năm 1945.

([22]) Bùi Xuân Phái (1920-1988) hoạ sĩ tài danh, rất độc đáo trong những tranh vẽ phố phường Hà Nội.

([23]) Lương Xuân Nhị (1913), hoạ sĩ còn là Nhà Giáo Nhân Dân.

([24] ) Nguyễn Gia Trí (1908-1993), hoạ sĩ đồ hoạ, biếm hoạ nổi tiếng.

([25]) Tào Ngu (Cao Yu, 1910-1996), tên thật Vạn Gia Bảo (Wan Jiabao), nhà văn, nhà viết kịch Trung Quốc.

([26]) Đặng Thai Mai (1902-984) nhà giáo, học giả, còn được biết dưới tên Đặng Thái Mai và những bút danh Thanh Tuyền, Thanh Bình.

([27]) Mô ở đây là mô phạm, đạo đức mô phạm là cái đang được giáo dục tại các trường quân sự.

([28]) Trọng Loan (1923), nhạc sĩ quân đội, bút danh Hương Lan, có mặt trong chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn (Nam Trung Hoa), Điện Biên Phủ.

([29]) Để dạy dỗ các thứ lập trường.

([30]) Bùi Xuân Phái đã về thành sau chuyến đi học tập tại Kim Tân.

([31]) Đỗ Nhuận (1922-1991), tổng thư ký đầu tiên của Hội Nhạc Sĩ VN.

([32]) Alexandre Zhdanov (1896-1948), chính uỷ hồng quân Liên Xô trong nội chiến, sau Đệ Nhị Thế Chiến là người chỉ huy ngoại giao và tư tưởng, một hung thần đối với văn nghệ sĩ Liên Xô.

([33]) Thanh Tịnh (1917-1988) nhà văn, nhà thơ ở rất lâu trong quân đội, về hưu với quân hàm đại tá..

([34]) Đình Quang (1928) đạo diễn, nhà viết kịch, nhà nghiên cứu lí luận sân khấu, về sau được phong giáo sư, tiến sĩ, nghệ sĩ nhân dân, từng giữ chức thứ trưởng Bộ Văn Hoá.

([35]) Hải Triều, tên thật Nguyễn Khoa Văn (1908-1954) nhà báo, được coi là lý thuyết gia Marxist, nhà phê bình văn học.

([36]) Nguyễn Chí Thanh (1914-1967), một trong những lãnh tụ CSVN, đại tướng, hoạt động nhiều nhất trong lĩnh vực quân sự, nhưng tham gia vào đủ mọi địa hạt văn học, nghệ thuật, giáo dục…

([37]) Lê Chưởng (1914-1973), vào thời gian được nói tới là chính uỷ, thường vụ Liên Khu Uỷ Liên Khu IV ĐCSVN.

([38]) Lê Duẩn (1907-1986), tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam 26 năm liền, từ 1960 đến 1986.

([39]) Cao Xuân Hạo (1930-2007), dịch giả, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng.

([40]) Lưu Hữu Phước (1921-1989), một nhạc sĩ tiên phong của tân nhạc Việt Nam, tác giả của hai bản quốc thiều hai miền Nam Bắc VN.

([41]) Nguyễn Đức Toàn (1929), nhạc sĩ.

([42]) Đào Hồng Cẩm (1924-1990), nhà viết kịch, nhà văn

([43]) Võ Hồng Cương về sau lãnh đạo đoàn Văn Công Tổng Cục Chính Trị một thời gian dài nhiều năm.

([44]) Hoàng Vân (1930) nhạc sĩ trong dòng “nhạc đỏ” với ca khúc : Hò kéo pháo, Người chiến sĩ ấy, Quảng Bình quê ta ơi, Bài ca xây dựng...

([45]) Tử Phác tức Nguyễn Anh Chấn, tên thật là Trần Kim (1923). Sau 1954, ở trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm và là một người bị đàn áp tàn nhẫn nhất –– đuổi khỏi mọi chức vụ, cấm viết, cấm các nhà xuất bản, các tổ chức nghệ thuật xử dụng tác phẩm của Tử Phác. Nghe nói Tử Phác về sau vượt biên qua ngả Hong Kong đến Pháp.



Chương 8

NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG HÒA BÌNH


Trở về Liên Khu IV, sung sướng nhất là được đi giữa ban ngày. Không còn phải chạy trốn những chiếc Spifire, Junker... vì lúc này Pháp chỉ còn lo tiếp tế, chuyên chở thương binh và cứu viện các mặt trận.

Có lúc tôi còn được hưởng thú đi ô tô tải Molotova Liên Xô do...Tầu viện trợ nữa. Tám năm trời cuốc bộ, nay dù ô tô tải không ghế (chỉ chở quân dụng, hoặc thương binh nằm ngổn ngang), tôi cũng thấy được cái giá của những chuyến ô tô này nó đắt thế nào. Chính ở cái chân dốc Cun, Hòa Bình, tôi đã gặp thầy giáo trẻ Trọng Bằng và khuyến khích động viên cậu ta bỏ nghề dạy học, vào văn công cho có... tương lai. Sau này Trọng Bằng quả đã trở thành giáo sư, nghệ sĩ nhân dân, tổng thư ký Hội Nhạc Sĩ Việt Nam! Số phận phải chăng đã mỉm cười với cậu ta từ cái giốc Cun vì tiếp sau đó là những năm dài đi học và đi học... để rồi trở về thành chỉ huy, giám đốc nhạc viện cũng như Đình Quang chỉ sống để đi học, dạy học (sân khấu) rồi lại đi học, rồi thành...nghệ sĩ nhân dân, thứ trưởng. Họ là những người có tài, nhưng cũng có “số may”, có “thời”. Còn tôi, cái số luôn là số... 13!

Tôi trở về Khu IV với ngàn mối lo. Trước tiên là lo tìm vợ con và tôi đã tìm thấy trong một hoàn cảnh cực kỳ bi đát. Vợ tôi, may nhờ cái “mác” bộ đội nên trong cơn lốc đấu tố đã...thoát nạn. Không những thế, sau mấy vụ dự đấu tố ở địa phương, vợ tôi còn được nâng cấp “lên”... cố nông (!) và được chia “quả thực.” ([1])

Tôi còn nhớ: đó là một gian nhà đầu hồi của địa chủ, một cái chum và 20 cân thóc! Mẹ con hàng ngày kiếm sống bằng nghề rút bông thành sợi để hàng tuần đem bán cho những khung dệt thô sơ, đủ bữa cơm, bữa cháo qua ngày. Khi tôi lần mò tìm ra địa chỉ vợ con thì trước mặt tôi là…một bà lão 21 tuổi và một thằng con trai đen đủi, gầy gò, cởi truồng, đi đất, gầy như que củi, mắt toét, mũi thò lò. Cái sai lầm “lấy vợ liều”, “lấy để cho có vợ”, đã biến một cô gái 17 tuổi, học sinh trung học, từng sắm vai chính trong các vở kịch của Lộng Chương, Đinh Ánh thành một con người tàn tạ đến không ngờ. Và đứa con đầu lòng tội nghiệp của tôi, một nhạc sĩ, cháu nội một gia đình trung lưu có học là một hình nhân chẳng khác gì bốn que tăm cắm trên một củ khoai gầy guộc.

Đúng là tôi đã sai lầm, đã phạm tội lớn với hai mẹ con. Trước mắt, tôi phải làm sao kéo vợ con ra khỏi cảnh sống nửa người, nửa vật này. Thế là bao nhiêu dự kiến, bao nhiêu ước mơ đều bị xếp xó. Tôi về Bộ Tư Lệnh IV với quyết tâm xây dựng nhanh đoàn văn công với mục đích tối thượng: đưa vợ con trở lại Đoàn. Trước mắt là có miếng ăn cái đã. Tôi lùng xục các đơn vị để tìm nhân tài (tạm). Cũng may thời ấy ở Khu IV có khá nhiều đơn vị mang 2 con số 33, 55, 44 đều là các đơn vị “thu dung”, nơi đã cung cấp cho nhiều đoàn nghệ thuật những tài năng sau này phát triển thành nghệ sĩ nhân dân, ưu tú như Hoài Phiên, Đoàn Bôn, Huy Thành vv…Một lẽ đơn giản: họ đều là “lính kiểng”, không có khả năng chiến đấu, thậm chí một số còn mang lý lịch xấu, thuộc loại “có vấn đề”.

Tôi lao vào các “mỏ quặng nhân tài” này, tìm ra một loạt các tay hát được, múa được, thể hình cao ráo, lanh lợi. Các cái tên Đoàn Bôn, Hoài Phiên, Hữu Độ, Bá Sĩ... sau này còn ở lại nghề cho đến lúc về hưu. Một số khác, nửa đường đứt gánh do sự tuyển chọn “lấy được” của tôi, nhưng tôi đã cố gắng sửa chữa sai lầm của mình bằng cách cho họ đi học để khỏi làm hại cuộc đời họ bằng cái nghề diễn viên bất đắc dĩ mãi! Một số đã thành đạt, trở thành giáo sư, tiến sĩ, nhà ngoại giao. Người không may nhất, cũng có tâm và có tài nhất là Vũ Ngọc Hải, đã bị tù khi làm...bộ trưởng Bộ Điện Lực. Nghe đâu anh ta đã làm quá đúng, quá tốt trước khi người ta yêu cầu... tốt và đúng!

Chỉ trong một tháng, tôi đã xây dựng hòm hòm được một đoàn văn công 30 người theo đúng yêu cầu của lãnh đạo: chỉ lấy công nông binh! Nam thì đã sẵn (dù gượng ép) chỉ cần ký lệnh điều động. Còn nữ chỉ duy nhất...vợ tôi đủ tiêu chuẩn...“binh”. Thế là đi lùng trong các làng, xóm xem em nào mặt mũi sáng sủa, thử vài động tác múa do vợ tôi thị phạm, vài câu hát do chính tôi hát trước. Và...OK!

Rốt cuộc tôi cũng có trong tay một “đoàn nghệ thuật” biên chế thành tổ kịch, tổ múa, tổ hát hẳn hoi. Để có một đội chèo theo trên chỉ đạo, tôi được tăng cường một cán bộ...quân sự chính cống sẵn sàng bỏ hết “công danh” để về làm văn nghệ chuyên nghiệp vì ông ta cũng có tài vặt hát chèo, đánh trống, kéo nhị trong các buổi đơn vị ông tham gia hội diễn quần chúng. Đó là đại đội phó pháo binh Nguyễn Văn Thịnh, một người yêu văn nghệ hơn cả tôi, sẵn sàng làm phó cho tôi, giúp tôi đi soi đèn, kiểm soát xem đêm đêm có anh diễn viên nam nào dám mò đi kiếm chác bên nhà nữ!

Dưới sự đôn đốc của ông Thịnh, với khí thế chiến thắng Điện Biên Phủ, tất cả chúng tôi đều hăng say ngày đêm luyện tập, dàn dựng tiết mục để Đại Hội Văn Công toàn quốc sẽ diễn ra ngay những ngày đầu tiếp quản thủ đô! Tất cả những gì tôi học được ở những ngày chờ đợi tại đại hội văn công toàn quân, tôi đều giốc ra với anh chị em: từ khổ trống chèo học trực tiếp của cụ Năm Ngũ đến điệu múa Mã Đao Vũ học của đoàn văn công lục quân Trung Quốc và tất nhiên các tiết mục “con đẻ” của tôi đều được hoàn chỉnh thành một chương trình đàng hoàng.

Công sức của vợ tôi với các chị em mới tuyển cũng không ít vì cô là người thâm niên nhất, là con dao pha trong cả hát, múa, kịch suốt quá trình ở hai đoàn văn công trước đó. Tất cả đã sẵn sàng ra quân...hí ha hí hửng trở lại Đô Thành! Nhưng nhiệm vụ của đoàn văn công Bộ Tư Lệnh IV chúng tôi lúc đó lại được trên... thay đổi:

Không tiếp quản thành phố mà hỗ trợ cho cuộc đấu tranh Cải Cách Ruộng Đất, hoạt động khắp vùng giới tuyến và biên giới Việt Lào! Tôi đã vì vợ con mà cố thành lập cho được đoàn này để rồi tìm cách chuồn về với gia đình, với cha mẹ và 6 đứa em tôi. Thế mà bây giờ chính tôi đã làm một cái “cũi” lớn để tự nhốt tôi vào đó.

Quả thật, những ngày hòa bình sau 1954 đối với tôi là cả một cuộc chiến mới mà tôi suýt mất mạng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tôi phải tiếp tục đóng vai trò hai mặt: một mặt “vì nhân dân phục vụ”, một mặt sống cho vợ con và chờ thời. Tuy nhiên, nhiệm vụ đoàn trưởng một đoàn văn công khá lớn (chỉ sau Tổng Cục Chính Trị) đã chi phối, hành hạ tôi đến khốn khổ vì phải đối phó liên tục với mọi đường lối chủ trương rất...Tầu Mao từ trên dội xuống mỗi ngày. Nào là “Hướng về đại đội phục vụ chiến sĩ”, “Thâm nhập thực tế”, “Ba cùng”, “Chống chuyên môn thuần túy”, “Chính trị là thống soái” vv...Tất cả đều (vô tình hay hữu ý?) hướng vào việc triệt tiêu mọi sáng tạo nghệ thuật, biến nghệ thuật thành những cái thực dụng thấp lè tè, miễn là hát lên được, diễn lên được những gì lãnh đạo muốn thấy.

Trong quân đội lại có thêm khẩu hiệu “Tiến lên chính qui hiện đại” mà trước mắt là quân phong, quân kỷ để ghép tất cả vào kỷ luật. Bắt đầu là cuộc sống doanh trại (dù chỉ là những ngôi nhà tranh, tre, giường nằm vẫn là những mảnh ván thô kê trên hai chiếc niễng), nhưng điều lệnh nội vụ được áp dụng triệt để. Chăn màn, chiếu, ba lô phải gấp ngay ngắn, vuông vắn, thẳng tắp. Giờ giấc quy định, đúng phóc theo lệnh kèn, không trừ một ai. Dù là văn nghệ sĩ, là diễn viên cũng mặc –– Anh là văn nghệ quân đội kia mà. Bên Tầu họ như thế cả! Sáng tác phải thức đêm khi có hứng ư? Chuyện lãng mạn của bọn tiểu tư sản bịa ra cốt để bào chữa cho cách sống bê tha! Lao động nghệ thuật là một thứ lao động như trăm ngàn lao động khác! Đảng đã cho ta một trái tim, đã chỉ lối đưa đường, hãy phấn đấu sống cuộc sống quân đội, ắt sẽ nói được tiếng nói của người lính! Kỹ thuật chẳng qua chỉ là phương tiện. Biết bao người có học hành gì đâu mà cũng viết được khối tác phẩm cách mạng ra cách mạng!

Chính ở cái thời Mao-ít tận xương tận tủy này đã xuất hiện những tên cơ hội chủ nghĩa số một, đủ mầu sắc, những tên bốc thơm bợ đít, đã làm ra những câu thơ tuyệt vời nghệ thuật cách mạng vô sản như của Tố Hữu:

Giết! giết nữa bàn tay không phút nghỉ

Cho đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt!

Cũng chính những năm này, biết bao tên tuổi đã bị lên án thậm chí bị ghép tội “chống Đảng”, “đi theo đường lối tư sản”, “ăn phải bả chủ nghĩa đế quốc” vv...bị cấm sáng tác, bị đưa ra khỏi biên chế, thậm chí bị đi cải tạo. Có người uất ức thề chết không bao giờ cầm bút. Có người trở thành nửa điên, nửa khùng. Có người chuyển ngành, nát rượu, rồi chết trong quên lãng. Tên tuổi của họ quá nhiều và chẳng cần nhắc lại. Còn những kẻ đào đất chôn thây hàng loạt tác giả và tác phẩm bỗng trở thành những “ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ vô sản!” Một số đã bị lịch sử chôn vùi nhưng lạ thay, không ít kẻ đã “đánh đập” văn nghệ sĩ độc ác nhất nay vẫn nắm những chức vụ cầm cân nảy mực trong đời sống văn nghệ.

Tôi không muốn nêu ra những cái tên bẩn thỉu đã dùng những từ ngữ thiếu văn hóa nhất để lên án một Vũ Trọng Phụng, một Đặng Thế Phong một Nguyễn Công Hoan (khi viết Đống Rác Cũ). Họ là ai? Đang làm gì? Cả nước đều biết, thế giới đã biết. Giấy trắng mực đen còn lưu lại những bài lên án một Màu Tím Hoa Sim, một Đoàn Chuẩn, một Vũ Hoàng Chương... đã đưa họ lên đài danh vọng, ăn trên, ngồi trốc vì có “quan điểm lập trường” hơn người. Đang còn sờ sờ kia!

Có thể họ u mê, bị nhồi sọ, họ cuồng tín?

Nhưng đối với bọn nghĩ thế này, nói thế khác để kiếm chác thì, cho đến chết tôi vẫn nguyền rủa chúng và thực tế, mãi tới sau này, tôi không bao giờ bắt tay chúng, nói câu giao đãi với chúng trong những lần gặp gỡ bắt buộc do công việc phải chạm trán. Tôi không nêu tên chúng ra đây vì lòng thương đối với con cái chúng, chứ tuyệt đối không hề tôn trọng chúng.

Có thể nào quên được các cảnh đấu tố giữa văn nghệ sĩ với nhau mà có những kẻ vạch ra chuyện như “chuyên môn thủ dâm”, “làm tình một lúc với hai phụ nữ”! Tất cả chỉ nhằm chôn vùi vĩnh viễn một tên tuổi và hút máu mủ từ những xác chết văn nghệ do chính chúng tạo ra để sống phây phây, để chiếm lòng tin của “trên”. Cái “Chân” trong chúng chẳng có, sao chúng có nổi cái “Thiện” và cái “Mỹ”? Vậy mà có ô dù của một “anh lãnh đạo”, nắm một cơ quan báo, đài, xuất bản, thậm chí chui vào được cả những bộ phận đầu não của chính quyền, chúng mặc sức ra tay hành hạ anh em văn nghệ bằng các cuộc học tập, đi thực tế, đi “cải tạo lao động”, “ba cùng”. Hàng loạt những tác phẩm không đáng giá một xu được tung ra theo yêu cầu của “trên” ca ngợi cuộc “cách mạng long trời lở đất” của nông dân, đề cao phong trào “một mo cơm, ba quả cà, tiến lên đồi trọc, xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Rồi “Sóng Duyên Hải”, “Gió Đại Phong”, “Cờ Ba Nhất”, rồi “Người Tốt Việc Tốt”, “Mỗi Người Làm Việc Bằng Hai”…Tất cả đều thành tác phẩm văn nghệ hết. Có những cuốn sách in cả triệu bản phát không như Con Chim Đầu Đàn, Sống Như Anh... Có những bài hát “tất phải hát” không sống được vài ngày. Đáng lẽ phải đáp ứng nhanh chóng những đòi hỏi của cuộc sống tinh thần trong hòa bình thì do bắt chước bọn Mao-đồ-tể, do...chẳng biết làm gì nếu không có đầu rơi, máu chảy,người ta lại căng cứng hơn cả trong chiến tranh, tiếp tục dùng người Việt trị người Việt bằng cách chia họ ra thành những giai cấp, để bắt đầu một cuộc diệt chủng kiểu mới. Nếu một Làng Tôi, một Quê Em Miền Trung Du, một Ba Vì Năm Xưa... được chấp nhận trong kháng chiến thì những ngày gọi là hòa bình đó, một Xa Khơi, một Bài Ca Gửi Noọng, một Tình Ca Tây Bắc thậm chí cả Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người...cũng bị các nhà cầm cân nẩy mực phán một câu “tiểu tư sản”... “ủy mị”!

Tôi còn nhớ trong ban giám khảo một cuộc thi, một vị quyền cao chức trọng đã phê phán Trần Kiết Tường: “Ca ngợi Bác Hồ như kẻ...thất tình!?” Và người ta đã trao giải cho những Cô Thợ Hàn, Ông Lão Xã Viên vì đề tài đúng phóc yêu cầu của Đảng là đề cao giai cấp công nhân và nông dân! Tuy nhiên, cũng chính trong lúc này, cuộc đấu tranh vì cái đẹp chân chính bắt đầu nảy sinh... từ sự trao đi đổi lại trong các nhóm nhỏ tới chỗ bùng lên trên báo chí, trong các hội nghị, trong các buổi học tập đủ thứ nghị quyết, hết số 1, đến số 2, số 3... có Trời nhớ nổi!

Và cái gì phải đến đã đến. Đó là vụ Nhân Văn!

Vụ này nói trắng ra là một vụ ra tay trừng trị những cái đầu đang muốn tìm đến một chút tự do, chỉ một chút thôi, trong sáng tác và trong sinh hoạt. Và cũng không có gì lạ khi nó nổ ra ngay giữa một môi trường kỷ luật thép nhất: quân đội!

Chính từ Phòng Văn Nghệ Quân Đội, một số văn nghệ sĩ đã đấu tranh để “bung ra” khỏi sự gò ép “giờ nào việc nấy”, bung ra khỏi các qui định máy móc về quân phong, quân kỷ, về điều lệ đội ngũ đem áp dụng đồng loạt cho họ, những người tuy ăn cơm, mặc áo quân đội nhưng chẳng ai có ham muốn trở thành lính chuyên nghiệp, chẳng ai có chức vụ, cấp bậc gì rõ ràng ngoại trừ một người duy nhất là “đại úy Thanh Tịnh”. Cái giấy phong quân hàm lạ lùng này do chính tay ông Lê Liêm lúc đó còn ở Bộ chỉ huy mặt trận nào đó, nếu tôi không nhầm, ký. Thanh Tịnh còn có cả một giấy chứng nhận được xử dụng khẩu Smith Weston chiến lợi phẩm và đã là đề tài cho chính Thanh Tịnh kể chuyện vui những khi có liên hoan: “Tôi là đại úy duy nhất không biết...đi đều! Còn khẩu súng này là khẩu súng tôi chỉ mong địch nó...bắt được để nó... bắn tôi và nó sẽ... chết vì đạn... chạy hậu!”

Giữa các tên tuổi tài danh như Hoàng Cầm, Tử Phác, Trần Dần, Huy Du, Nguyễn Đức Toàn ([2]), Lương Ngọc Trác ([3])... hầu hết đều đi tắt vào lực lượng võ trang mà chưa học “đi đều... bước!”, một văn nghệ sĩ đảng viên có bằng cấp quân sự, biết sáng tác, biết chỉ huy dàn nhạc, còn biết cả dẫn đầu đơn vị mỗi sáng “Chạy đều! Chạy!” cả chục cây số, tôi là một “vốn quí” của quân đội lúc ấy. Cứ gắng đóng kịch ít năm thì hoạn lộ đầy lợi quyền đối với tôi đâu có quá xa vời. Vậy mà cái tư tưởng rời khỏi quân đội càng sớm ngày nào càng tốt vẫn cứ âm ỉ trong tôi.

Nhưng đâu có dễ ra khỏi cái tổ chức hết sức chặt chẽ này! Ra bằng cách nào mà không bị sứt tai, mẻ trán, không bị khoác vào cổ tấm biển “chống Đảng” hoặc “đảng viên bị khai trừ”, để vợ con khỏi bị liên lụy quả là nan giải!

Đặc biệt sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, do không có điều kiện để... liên quan, tôi càng được tín nhiệm. Nói cho đúng, nếu tôi sống ở môi trường Hà Nội, ắt tôi sẽ là một “nhân văn” cỡ... kha khá. Không ít lần, ra họp ngoài trung ương, tôi đều được các vị “đàn anh” lôi kéo, thậm chí còn đưa ra một loạt bộ mặt nằm trong “hệ thống Ignorance au pouvoir” ([4]) cần loại bỏ. Tôi cũng bị “dí điện” bởi những tâng bốc... cỡ tôi đáng ra phải là thế này, thế nọ…hoặc cái tên A, tên B đang sống bằng cách... dìm chết anh em, và thằng này thằng nọ đang “đặt bục công an giữa trái tim người” vv... Đặc biệt với anh em văn nghệ trong quân đội thì chuyện o ép, ghép vào kỷ luật, chống các viên “đạn bọc đường”, “biến chất”, “ăn phải bả tư sản” lúc này đang ở giai đoạn quyết liệt nhất. Đại diện cho phong trào đấu tranh giải phóng khỏi mọi gò bó về tư tưởng, về sinh hoạt, giờ giấc, tác phong, điều lệnh là các vị Tử Phác, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện... Tôi là đối tượng cần phải lôi kéo qua những phát biểu hăng hái của tôi về sự đau khổ của một văn nghệ sĩ sống xa Trung Ương. Tôi sẽ có một số phận cực kỳ bi đát (hoặc cực kỳ tốt đẹp?) nếu nhân cơ hội này “đứng lên” theo chân các bậc tiên chỉ như Văn Cao, như Tử Phác?

Tiếc thay và cũng may thay là cái sự...hèn vì thương vợ, thương con, vì chẳng còn nơi bấu víu khi cả gia đình tôi đã bám lấy cái lương công chức... di cư vào Nam! Thế là tôi đành... ậm ừ không dám nhận viết một bài vạch trần tội ác của lãnh đạo văn nghệ Quân Khu IV theo gợi ý của Nguyễn Văn Tý, người sau này chẳng có quyết định phục hồi gì vẫn bắt buộc phải trao giải Hồ chí Minh! Chẳng hiểu Đảng cải tạo anh hay... ngược lại?

Nói tóm lại, kiếp nhạc sĩ đảng viên hèn, tôi vẫn cứ là thằng hèn! Tôi…run khi Phùng Quán rủ tôi đến chơi một “nhà văn nữ có thể đọc ngược Hamlet ([5]) (!) bằng tiếng Anh”: Thụy An. Tôi đã rút lui ngay khi đến thăm Tử Phác, được chứng kiến những đồng chí của tôi nằm dài bên... bàn đèn thuốc phiện mà chửi đổng! Tôi còn biết nhiều tên chẳng tài cán gì nhưng cũng cố “theo đóm ăn tàn” ra vẻ nhân văn, nhân viếc. Đám này đã bán rẻ anh em trong các cuộc đấu tố về sau.

Tóm lại, sau khi tiếp quản Hà Nội, một sự phân hóa về tư tưởng, về nhận thức mọi mặt trong đời sống xã hội đã tác động rất lớn đến giới văn nghệ và những cái tên nhân văn thật, nhân văn dỏm, những tên chỉ điểm, hai mặt kể cả trong lẫn ngoài Đảng dần dần lộ diện. Tôi cũng không muốn nêu tên của họ vì lúc này có người đã chết, có người đã...nhận ra mình bị những tên trùm văn nghệ lưu manh kiêm mật thám lợi dụng nên trót tố cáo anh em trong thời gian học tập nội bất xuất, ngoại bất nhập suốt cả tháng trời tại lăng Hoàng Cao Khải. Loại người này tôi coi như người đã... chết! Và đã chết thì...thôi! Tha!

Riêng cá nhân tôi, với những mâu thuẫn đầy mình, tôi đã dừng lại đúng lúc sau bài “Khuyết điểm tại ai?” đăng trên báo Văn Nghệ trả lời Trần Công. Bài này là tuyên ngôn của Tô Hải trước vụ Nhân Văn. Tôi lên án sự gò bó về đề tài, về sinh hoạt đối với anh em văn nghệ trong quân đội. Bên cạnh đó, tôi cũng cực lực chỉ trích lối sống “văn nghệ thời xưa” (bệ rạc, rượu chè, hút sách...), nếp sống vô kỷ luật dễ đưa đến “ăn phải đạn bọc đường”...

Sau bài báo này, tôi bị anh em Nhân Văn cho là “thành phần không đáng tin cậy”! Trớ trêu là chính sau bài báo này, tôi lại bị chi bộ kiểm điểm về “lập trường không vững”, “không có tinh thần bảo vệ Đảng”! Nhất là tôi đã cả gan sáng tác một ca khúc đăng trên báo...“ngoài”, tức không phải của quân đội, bài Lời Tổ Quốc. Người ta chỉ trích tôi là sáng tác để…kiếm tiền.

Ở cái đất “lập trường nhất thế giới” là khu IV, tôi chỉ thật sự sống cho tôi khi có dịp được về Hà Nội và phải công nhận là tôi gặp không ít may mắn khi rất nhiều người đã vạch cho tôi một con đường thoát: đi học!

Người đầu tiên thông cảm với nỗi khó khăn của tôi lại là ông “vua nguyên tắc” Lưu Hữu Phước! Lúc này dưới trướng ông, gần như tất cả đều không ai mê anh nhạc sĩ “đi đều, bước!” mà tôi lại là đại diện cho thứ âm nhạc “tempo di marcia” với hai bằng tốt nghiệp... quân sự!

Bồi dưỡng chuyên môn để trở thành cốt cán văn nghệ của Đảng là lời anh Phước khuyên khi gặp tôi ở nhà riêng trên đường Nguyễn Thái Học. Còn Lương Ngọc Trác thì nói “Phải học mới tồn tại được, mới ấm vào thân được. Cắn răng vào mà học đi!” Nhưng đi học nước ngoài cùng đợt với Huy Du, Trần Ngọc Xương, Hoàng Đạm...thì tôi đành từ chối! Lý do duy nhất: vì quá mắc mớ gia đình, con cái. Tôi ra đi thì vợ con sẽ dựa vào ai?

Lúc này, 1956, tôi đã có đứa con thứ hai và gia đình vợ, chỗ nương tựa gửi con để vợ tôi có thể lên đường đi biểu diễn không còn nữa. Gia đình vợ tôi chẳng có một tấc đất nào, nhưng bị đẩy lên... địa chủ. Bố vợ tôi từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, bỏ lại tất cả gia tài, điền sản, nhà máy ở Tân Mai. Đưa vợ con chạy ra Bắc, còn lại ít nữ trang, tiền bạc, gia đình ông ở lại thành phố Vinh. Khi Vinh bị tiêu thổ kháng chiến, ông mua một mảnh vườn sát chân núi ở Diễn Châu. Sau những ngày xất bất xang bang, cái gia đình tiểu tư sản đàng hoàng vừa tổ chức được cuộc sống ổn định thì bão tố ập đến.

Người ta lôi ông già ra đấu, tra hỏi vì sao không họ hàng hang hốc gì mà về đất này mua đất, làm vườn? Có phải để bóc lột nông dân không? Hai con đi bộ đội cùng thằng rể (là tôi) sao đã lâu không có tin tức? Có phải chạy theo giặc không? Tất cả lý lẽ đưa ra chỉ nhằm mục đích chiếm bằng hết những gì có thể chiếm: giường tủ, bàn ghế, quần áo, mâm đồng, chậu thau, bát đĩa, ấm chén…

Phải kiếm cho ra một cớ gì mà trấn lột công khai chứ! Thôi thì chụp cho cái mũ “kẻ thù giai cấp” là xong!

Còn chuyện này cũng phải nói ra. Sự thật là trong lúc gia đình bị đấu tố, tôi và Nguyễn Đăng Long (sau là thiếu tướng) đều biết, nhưng chẳng qua đều... hèn, nên chẳng đứa nào dám thò mặt về thăm gia đình. Vả lại, con cái địa chủ mò về lúc ấy mất mạng như chơi. “Dứt khoát” với kẻ thù giai cấp (một lối nói hay được dùng thời ấy) chứng tỏ có lập trường vững. Và chỉ có những người có lập trường vững mới có…tương lai.

Riêng tôi, do hoàn cảnh bó buộc, không thể không liên hệ với gia đình vợ. Lý do: thằng con trai thứ hai khốn khổ từ lúc lọt lòng mẹ được ông bà ngoại nhận nuôi để vợ tôi có thể lên đường tái ngũ. Cùng với ông bà ngoại, thằng bé nằm trong vòng vây của “các ông bà nông dân”. Nghĩa là sau khi lột hết từ cái quần đến chiếc bát mẻ, cả nhà vợ tôi, già trẻ lớn bé, không trừ một ai, “bị giam tại chỗ”, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Hình phạt này là cách bắt người chịu án đói hoặc tự tử. Nhiều người không chịu nổi đã tự kết liễu cuộc đời!.

Tôi đành liều mạng trở về cứu đứa con trai. Tôi về làng, mang theo giấy giới thiệu của ông Ngự, một cán bộ cốt cán của Đoàn Ủy Cải Cách Ruộng Đất. Theo giấy giới thiệu, cháu Tô Đăng Sơn là con đồng chí Tô Đình Hải chỉ là một đứa bé “người dưng” gửi lại gia đình tên địa chủ Nguyễn Đăng Quỳ mà thôi! Đối với tôi, ông Ngự là một ân nhân mà, than ôi, tôi không sao có thể trả ơn, bởi chính ông sau này cũng bị “xử trí” –– khai trừ Đảng và khai trừ khỏi... mặt đất, bởi có hành động “cản trở cuộc cách mạng long trời lở đất!”.

Tôi nằm một đêm tại trụ sở Đội Cải Cách mà lòng đầy căm hận. Mối hận “lầm đường” trào lên mỗi khi nghe tiếng loa phát đi phát lại: “Lệnh cho tên địa chủ Nguyễn Đăng Quỳ...mang trả lại con tên là Tô Đăng Sơn... cho ông bộ đội Tô Đình Hải…”

Sáng sớm chưa rõ mặt người, tôi thấy bố vợ tôi mặt mày sưng vù, răng cửa rụng gần hết (do bị đánh), mang tới trụ sở một thằng bé, không, một xác trẻ con gày guộc xám ngoét. Đó là thằng con yêu quí của tôi. Nó chỉ còn thở thoi thóp sau bảy ngày chỉ sống nhờ những lá rau lang còn sót lại mà ông bà ngoại ngắt về từ mấy luống khoai trồng trước nhà mớm cho. Nhìn con trong tình trạng ấy, tôi nguyện với mình phải trút mối căm hờn nén lại bằng phát súng bắn thẳng vào thái dương những kẻ đã gây cảnh đau khổ cho gia đình tôi, lần lượt từng đứa một.

Tôi cắn răng ôm lấy con, không kịp nói một lời an ủi bố vợ, vì “các ông bà nông dân” đã đuổi quầy quầy ngay khi ông trao đưa cháu ngoại cho tôi, ở đầu làng. Tôi chỉ còn kịp nói với theo một câu: “Chúng con sẽ trở về!”

Chúng con đây chính là những đứa con bất hiếu vì tình thế phải nén căm hờn để tồn tại, để giữ lấy mạng sống cho một ngày mai… bất định. Tôi bắt đầu xét lại cái “chỗ đứng thiêng liêng nhất” của tôi: là đảng viên một cái Đảng mà vừa đánh Tây xong lại quay sang đánh dân mình! Tôi quyết tâm bằng mọi giá phải ra đi, đi ngay khỏi vùng đất dữ này, mặc cho hậu quả đối với gia đình sẽ ra sao.

Và thời cơ đã đến: Tổng Cục Chính Trị có lệnh triệu tập một số anh em “cốt cán” đi học bồi dưỡng nghiệp vụ.

Thế là tôi để vợ và hai con lại thành phố Vinh hoang tàn để ra Hà Nội. Ở đây tôi đã gặp từ Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Văn Thương, Đỗ Nhuận, Vũ Trọng Hối, Trọng Loan, Lương Ngọc Trác, Văn Chung ([6])… trong một lớp bổ túc sáng tác do chuyên gia Bắc Triều Tiên giảng dạy. Lớp học này, về sau này tôi mới vỡ lẽ, là kết quả sự đấu tranh dai dẳng giữa hai quan điểm “nên hay không nên học nghệ thuật... tư sản!” của mấy ông trùm cao nhất của “đỉnh cao trí tuệ Việt Nam”!

Chả là: đến những năm 1960, hai ông Hà Huy Giáp ([7]), Cù Huy Cận một là bí thư Đảng đoàn, một là thứ trưởng bộ Văn Hóa còn đặt lại vấn đề: “Trường nhạc Việt Nam có nên học đồ-rê-mi không? Tại sao không học hồ, xừ, sang, cống, líu?” hoặc “Việt Nam ta không thể có bi kịch” (Hà Huy Giáp), thậm chí “Giao hưởng là nhạc tư sản phương Tây” (Cù Huy Cận) vv... Tất cả những phát biểu ngu dốt này còn nằm trên báo chí những năm 1960-1970 như vết nhơ của một giai đoạn “ngu dốt đến phá hoại” của những kẻ có quyền sinh quyền sát cả một thế hệ văn nghệ nước nhà. Đáng kinh tởm, đáng đưa ra tòa án lịch sử hơn là những kẻ cơ hội, những tên gia nô văn nghệ chuyên môn bợ đít các “anh trên”, hùa theo dây máu ăn phần, kiếm tí chút chức danh và quyền lợi.

Lịch sử hãy công bằng, qua các tư liệu, văn bản giấy trắng mực đen còn lưu khắp nơi mà xóa tên chúng khỏi các sách giáo khoa, các bảng tên đường phố, bất kể chúng sau này có vẻ thay đổi cách nhìn, có viết được dăm ba thứ quay ngoắt 180 độ ca ngợi những người mà chính chúng đã là chỉ điểm cho bộ máy giết người của Đảng giết họ cả thể xác lẫn tâm hồn. Tội chúng không thể dung tha!

Ngay giữa hàng ngũ chỉ huy cao cấp nhất trong và ngoài quân đội thời ấy, có một số người chỉ vì một chân lý giản đơn nhất là “Thời thế đã thay đổi”, phải “tiến lên chính quy và hiện đại” trong mọi mặt đời sống mà cuối đời phải thân bại danh liệt, để chúng tôi được hưởng một chút văn minh, tiến bộ của loài người nói chung và của nền âm nhạc chân chính nói riêng. Trong những người mà suốt đời tôi không bao giờ quên ơn ấy, có ông Lê Liêm.

Chính dưới thời ông Lê Liêm phụ trách văn nghệ mà các trường nhạc, trường múa, trường điện ảnh, các nhà hát, dàn nhạc giao hưởng ra đời. Nhưng khi chính ông lại lao vào học piano và... sáng tác nữa thì chúng tôi đều tiên đoán “ông đang đi vào con đường... chết!” Và ông chết thật, chết cả về địa vị, về sự nghiệp, về danh hiệu “đảng viên lão thành” và chết trong quên lãng của người đời!

Một câu nói của ông lúc còn đương chức khi gặp tôi ở nhà riêng trên đường Cột Cờ, tôi vẫn nhớ: “Phải chống lại những thứ giáo điều từ “bên ấy” (Tàu) đang làm mai một hết tài năng của anh chị em”. Đến nay, tôi vẫn thấy ông đúng, đúng 100%, đúng đến muôn đời.

Sau này khi bị ghép vào tội “xét lại”, bị khai trừ khỏi Trung Ương, khỏi Đảng, ông còn nói với tôi: “Lịch sử sẽ chứng minh là tôi không “xét lại” vì tôi đã “xét đi” bao giờ!” Tất cả chỉ là “rập khuôn theo người ta” chứ đã nghĩ ra được đường lối văn hóa nào riêng của mình đâu!”. Ông chẳng được ai “phục hồi” vì những kẻ “đánh” ông vẫn đang ngồi kia, còn những kẻ mới lên dại gì mà nhắc đến ông, dù họ... “xét lại” hơn ông cả ngàn lần!

Phong trào “tiến lên chính quy và hiện đại” trong quân đội giúp một số anh em có tâm, lo lắng cho sự ngu dốt thật sự của mình (do 9 năm chỉ biết làm theo bản năng) lập được một trường nhạc quân đội do ông Trần Du, một cán bộ chính trị, làm giám đốc. Ngôi nhà 13 Cao Bá Quát và 13 Lý Nam Đế được dành cho các lớp sáng tác, chỉ huy, và các lớp nhạc cụ từ violon, cello, contre basse tới bộ gỗ, bộ đồng... Trong 2 ngôi nhà cùng mang số 13 ấy đã nảy sinh bao nhiêu vụ chém giết nhau về quan điểm học và dạy. Nhưng cũng chính từ nơi đó, lần đầu tiên, anh em “làm nhạc bản năng” mới vỡ lẽ là chưa bao giờ và chưa có ai là nhạc sĩ chuyên nghiệp cả! Tôi phải đau lòng nhắc lại câu của Lương Ngọc Trác: “Cắn răng lại mà học” khi thấy thầy Mao Vĩnh Nhất sau khi kiểm tra trình độ anh em, đã buông một câu:“Không ai hiểu một điều gì cơ bản trong âm nhạc hết! Phải học lại từ đầu thôi!”

Thật là nhục! Mang tiếng “nhạc sĩ” mà chưa biết cách viết 4 bè hòa thanh ra sao, chẳng biết mặt mũi tờ giấy tổng phổ thế nào? Còn về cách ký âm, điều kiện tối thiểu để sáng tác nhạc, thì... càng xấu hổ, chẳng khác gì nhà văn chưa biết chữ vậy! Mỗi anh một kiểu, thậm chí gạch phách, gạch nhịp chẳng theo qui luật nào, hết sức tùy tiện, có anh đưa thầy xem tác phẩm cũ của mình, bài nào cũng ghi trên portée...3 dòng! Chẳng một ai có nổi cái tư duy cùng một lúc trên hàng loạt âm thanh, tiết tấu, màu sắc âm nhạc khác nhau! Ngay người đã có kinh nghiệm viết cho dàn nhạc như Nguyễn Văn Thương, Lương Ngọc Trác và cả bản thân tôi đều làm cái việc “cho nhạc cụ hát thay con người”, cho dàn nhạc đánh những câu đơn giản, vuông vức, còn phần đệm chẳng qua thay cây ghi-ta bằng những cây kèn, cây đàn khác thôi. Tiếc thay, tới nay, 1998, người ta vẫn gọi cái việc hoàn toàn thủ công mỹ nghệ đó là... “hòa thanh, phối khí!” Nội dung của dàn nhạc, màu sắc, hòa thanh lại vẫn chỉ là các ắc-co trưởng, thứ, 7, 9, hoặc “siêu” hơn nữa thì có tí tăng, giảm lắp vào theo kiểu hòa thanh cột đèn (!) bất kể điệu thức, tình cảm của bài hát.

Trở lại với lớp học âm nhạc đầu tiên của các nhạc sĩ “số một” Việt Nam lúc bấy giờ, cả lũ chúng tôi (xin lỗi hương hồn các anh Nguyễn Xuân Khoát, Văn Chung, Đỗ Nhuận vì đã gọi các anh là “lũ”!) đều nhận thấy “không học là làm nhạc...bịp”! Sự thật là trong những năm ấy, sáng tác bài hát chỉ là một thứ “trò chơi”, hứng chí thì hát lên những lời ca (ý đẹp lời hay càng tốt) bằng những âm thanh lên xuống, nhanh, chậm, ngắn, dài…Thế là trở thành nhạc sĩ của Đảng rồi! Và không ít người đã nhận ra con đường làm văn nghệ “dễ xơi” nhất là làm...nhạc sĩ ở cái xứ mà cả nước đều dễ bị...bịp, dưới sự lãnh đạo của một cái gọi là Đảng Cộng Sản chuyên bịp người và bịp mình! Cũng vì lẽ đó mà tới hôm nay, những “Hội” do Đảng thành lập và trả lương có cả trên ngàn “nhạc sĩ hội viên” không cần học nhạc và hàng trăm nhạc sĩ “nổi tiếng” ở các tỉnh lẻ làm nhạc “không son phe”, chẳng khác nào nhà văn mà chưa qua lớp i-tờ vậy! Một hiện tượng có một không hai trong lịch sử âm nhạc thế giới và một kỷ lục của Guiness mà không bao giờ người ta dám nói đến!

Cũng cần nhắc đến một hiện tượng chỉ có ở Việt Nam và một nước láng giềng là phong trào “tự biên tự diễn”. Đó là các thứ hội diễn ngành, nghề, tỉnh, huyện, xã... đã “ép” ra bằng được những nhân tài địa phương hoặc đi thuê mấy ông “nhạc sĩ đói”, đẻ ra những “tác phẩm” ca ngợi riêng địa phương, đơn vị, ngành nghề của mình! Thế là ông ổng trên Đài đủ thứ tỉnh ca, huyện ca, thợ lò ca, thợ đá ca, thợ điện ca, thợ may ca, thậm chí cả quét rác ca, đổ thùng ca, tín dụng ca, ngân hàng ca, khách sạn ca...làm loạn cào cào thẩm mỹ âm nhạc vẫn được khuyến khích, động viên, trao giải thưởng cao hơn cả giải chuyên nghiệp.

Trước xu thế “quần chúng làm nên tất cả” đó, việc tập trung một số cốt cán trong làng nhạc Việt cách mạng lại để cho họ nghiên cứu, học tập “kỹ thuật tư sản” về âm nhạc không phải chuyện không “bạo phổi” của mấy vị lãnh đạo có “tâm và có tầm”. Chẳng khác gì đưa đồng chí của mình đi học...nhảy đầm, cho phép đồng chí nếm thử “viên đạn bọc đường” để xem ai có đủ bản lãnh chỉ... mút đường rồi... nhả đạn ra! Cho nên, riêng về thành phần được chấp nhận là “học viên chính thức” hay “học viên dự thính” đã phải qua nhiều lần bàn bạc, thảo luận để thông suốt nghị quyết của trên về 3 tiêu chuẩn:

–1) Phải có quan điểm vững chắc, ưu tiên đảng viên!

–2) Phải sinh hoạt chính quy, chặt chẽ, rút kinh nghiệm vụ Nhân Văn Giai Phẩm, mọi vấn đề nảy sinh phải qua chi bộ thảo luận, kịp thời phản ảnh ngay lên Tổng Cục.

–3) Nêu cao tinh thần đấu tranh, đặc biệt với mọi thứ rơi rớt của nhóm Nhân Văn? ([8])

Tôi là một trong số “đủ tiêu chuẩn” làm học viên chính thức. Hàng loạt tên tuổi ham học chỉ qua buổi họp chi bộ đầu tiên, đã bị cho...“ra rìa”. Một số khác thì chỉ cho... “dự thính”! Ở cái lớp học âm nhạc chính quy “khai sơn phá thạch” này, càng ngày tôi càng thấy nó quả là sản phẩm có được nhờ sự đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng tiến-bộ-có-học và bảo-thủ-vô-học, không muốn mở mang đầu óc con người để dễ biến họ làm nô lệ cho một nhóm luôn thù ghét những gì là khoa học, là văn minh, là tiến bộ của loài người! Tuy nhiên, xu thế ‘tiến bộ”... tạm thời thắng thế nên lớp học “âm nhạc tư sản” cuối cùng được chấp nhận như một thể nghiệm để... “thử xem nó ra sao”.

Và cả quá trình học như điên, học đến phát bệnh ấy, tôi luôn bị dằn vặt về những lý thuyết bâng quơ như “mầm mống tư tưởng xét lại”, “sự xâm nhập của kỹ thuật tư sản”, “cần cảnh giác với chuyên gia Mao Vĩnh Nhất”, ông thầy khá tận tâm nhưng thẳng thắn, bạo miệng.

Lúc này ở bên Triều Tiên, các cuộc thanh trừng văn nghệ sĩ đã bắt đầu. Trước tiên là những người có tài và tốt nghiệp ở các nước tư bản về (trong đó có nghệ sĩ vũ đạo nổi tiếng Thôi Thừa Hỷ ([9]) bị thủ tiêu). Tôi còn luôn vang bên tai lời dặn dò của bí thư chi bộ Vũ Trọng Hối (xin lỗi hương hồn bạn): “Tô Hải cần chú ý khi làm việc với thầy Mao! Ông này có vấn đề đấy! Cần cảnh giác với những gì ông ta phát biểu...Với tớ...về chuyên môn tớ cho thầy điểm 10, nhưng về chính trị, thầy là con số... 0 rỗng tuếch”!

Thì ra tình hình tư tưởng của chuyên gia hàng ngày cũng được đánh giá qua nhận xét của Triệu Đại Nguyên, đảng viên trưởng đoàn! Mới đầu tôi chỉ cho đó là nhận xét hằn học của ông bí thư chi bộ Vũ Trọng Hối do bị thầy “quật” nhiều cú đau quá về chuyên môn. Ví dụ về một bài tập hòa thanh “viết cho xong”, thầy Mao phán: “Bài tập này còn tồi hơn bài tập của học sinh sơ cấp ở nước tôi!” Hoặc với một nhạc sĩ có tiếng giỏi về nhớ nhiều sách Tây thường hay đối chiếu với những gì đã đọc ra để chất vấn thầy thì thầy “chơi” luôn: “Tôi yêu cầu các đồng chí hãy nhớ là đã vào lớp học của tôi, chỉ nghe những gì tôi nói mà thôi, không có đưa bất cứ sách Tây, sách Tầu nào ra để làm phiền, làm khó cho tôi và cho mọi người nữa! Còn nếu không tin tưởng tôi, xin cứ việc rút lui!” Tôi còn nhớ gương mặt lúng túng của phiên dịch viên Hà Huy Hiền khi tìm chữ để dịch câu nói quá ư thẳng thắn sao cho nó nhè nhẹ bớt đi. Và càng học khó hơn, cao hơn, thầy càng có nhận xét thẳng thừng. Ví dụ: “X. chỉ có thể là... “thợ” nhạc! Y. sẽ chẳng thành tài trong nghệ thuật mà sẽ trở thành... một cán bộ chính trị!”

Cũng thời gian đang học tập chuyên môn này, có vụ phong quân hàm cho văn nghệ sĩ. Khi chính thức công bố, người cao nhất là Đỗ Nhuận chỉ có chức...thiếu tá. Một loạt đại úy gồm Lương Ngọc Trác, Trọng Loan. Hạng bét có Nguyên Nhung, chuẩn úy. Làng nhàng trung úy có mấy anh em chúng tôi: Tô Hải, Văn An...Thầy Mao Vĩnh Nhất chẳng ngần ngại phát biểu (bằng tiếng Việt lõm bõm): “Tô Hải...Triều Tiên... trung tá!” Có lẽ thầy chỉ nghĩ đến kết quả học tập và sáng tác của tôi nên tự phong quân hàm cho tôi mà phát biểu đụng chạm đường lối “duy nhất đúng đắn” của Đảng Lao Động Việt Nam nên sau này về nước thầy bị “no đòn” bởi báo cáo qua lại giữa hai Đảng.

Quả là ông thầy này có nhiều “tội” đáng chết thật, khi nói câu nào tôi cũng phát...sợ vì thấy nó quá đúng, nhưng đúng…chưa phải lúc. Riêng đối với tôi, ông có sự chăm sóc rất đặc biệt vì cho đến cuối khóa, thầy gần như chỉ tập trung chấm bài và hướng dẫn riêng cho tôi. Ngoài số anh em dự thính, chỉ có 6 người trong quân đội thầy mời đến nhà riêng ở phố Quan Thánh để bồi dưỡng, chỉ bảo, từ các điều sơ đẳng nhất về nghệ thuật viết nhạc không lời, về cấu trúc của các thứ Suite, Rondo, Sonate, những khúc thức mà đối với chúng tôi còn hoàn toàn xa lạ. Mỗi ngày tôi làm việc từ 15 đến 20 tiếng, làm việc đến chảy máu dạ dày mà không chịu đi bệnh viện.

Tôi như lạc vào một vương quốc đầy châu báu, hoa thơm, quả ngọt của truyện cổ tích. Cái gì cũng muốn chiếm làm của riêng mà không sao bê đi cho hết được. Tôi phải nghĩ ra nhiều mẹo vặt để nhớ và “tiêu” những thứ bổ béo đã được ăn. Ví dụ, để nhớ chủ đề một bản sonate của Beethoven, một bản giao hưởng của Tchaikovsky tôi đã đặt lời ca như “Chó nấu với giềng, ngon tuyệt / Bu mày ơi, có mệt hay không” (symphonie số V của Beethoven) hoặc “Dốt như con bò mà làm nhạc sĩ hay sao?” (số VI của Tchaikovsky). Còn về các bài hòa thanh (do quá nhiều) thì làm... ca dao! Ví dụ:

Nốt 7 giải quyết về 3,

Nốt 3 về 1 hoặc là về 5,

Nốt 5 trở lại căn âm,

Bè bass lên 4 xuống 5, cũng tùy...

Kể ra học như tôi cũng kỳ, nhưng biết làm thế nào để có thể nuốt nổi cả một chương trình mà thầy Mao gọi là “đại học của đại học!” Nghĩa là học hết mọi môn: tác khúc, hòa thanh, phức điệu, nhạc khí, phối khí, phân tích tác phẩm và ngượng nhất là môn piano. Lý do: piano thì không cách nào giấu dốt khi trả bài. Mà trả bài cho ai? Toàn là những cô giáo cùng hoặc kém tuổi mình: Minh Thu, Lê Liên, Thái Thị Sâm...những đàn em của các “nhạc sĩ dốt nhất thế giới về nhạc” và cùng có tên trong cái gọi là “Association des compositeurs Vietnamiens”! Thôi, muốn “ấm vào thân” (hay khổ vào thân?) thì chẳng có cách nào khác là phải...cày, cày, và cày! Làm bài hòa thanh chưa xong đã sang bài tác khúc, sang bài phối khí. Ngoài ra, lo chạy gam, tập Méthode Rose, Hanon, Classiques favoris... để sau này còn có thể hòa thanh trên đàn, chấm dứt tình trạng hòa thanh bằng “vẽ” trên giấy.

Không phải sự quá tải trong chương trình học tập là cái cớ để bàn ra, bàn vào về mục đích lớp học kỹ thuật của ông giáo sư ngoài Đảng (Đảng Lao Động Triều Tiên) đã học tập và trưởng thành từ đất tư sản Nhật Bản! Đa số cho là học nhiều thứ “vô bổ”, không có tác dụng, nhất là đang có chủ trương “Hướng về Đại Đội, phục vụ Chiến Sĩ” nên đã có sự cố ý cắt xén những cái không thể học cho vào để mong đưa chuyên gia vào quỹ đạo... tù mù với các khẩu hiệu “Chính Trị là thống soái”, “Kỹ Thuật là con dao hai lưỡi” vv... và vv... Nhưng một số anh em, trong đó có tôi, thấy rõ đó là sự tự ái, mặc cảm của một số có quyền nhưng... dốt đặc, không muốn qua lớp học này lộ rõ chân tướng là đồ...óc bã đậu! Chẳng qua đã trót được đưa lên ngôi “nhạc sĩ”, mà là nhạc sĩ lãnh đạo, nhạc sĩ cấp trên, nhạc sĩ cốt cán nữa, nên không thể để bọn nhạc sĩ “không đáng tin cậy” kia nắm được “vũ khí bí mật nghề nghiệp” để sau này khó...trị! Những bộ mặt bẩn thỉu trong văn nghệ này ở đâu cũng có và chỉ cần có chỉ số thông minh của con... mèo thì ai cũng thấy! Tuy nhiên, nói ra để bảo vệ chân lý “cái dốt là kẻ thù” thì chẳng ai dám, kể cả những tay bạo miệng như tôi. Thôi thì “bắt phơi trần, phải phơi trần. Cho may ô cũng được phần may ô”. Cái hèn của lũ chúng tôi là ở đó, muốn có miếng cơm, manh áo phải biết nghĩ một đàng, làm một nẻo. Muốn tồn tại, dù tồn tại một cách nghèo hèn, phải biết...im mồm! Và muốn làm văn nghệ phải biết nói: “Chỉ thị cấp trên, chủ trương của Đảng vô cùng sáng suốt”!

Chẳng thế mà người ta dám viết trơ tráo trên giấy trắng mực đen “Sáu tháng không tập đàn (do đi về đại đội “3 cùng”) tôi thấy tiếng đàn của tôi càng hay hơn trước (?!) do thấu hiểu được tình yêu giai cấp nên tôi dồn cả tình yêu đó của tôi vào trong tiếng đàn!” Hoặc: “Có cần thiết không, khi phải học các thứ kỹ thuật giao hưởng phương Tây?” (quan niệm giao hưởng là của Tây), “Có cần thiết phải học ba cái “hòa thanh nhà thờ” không, khi Lê Nin đã dạy chúng ta “tôn giáo là... thuốc độc của loài người?”.

Còn nhiều điều ngớ ngẩn, điên khùng nữa mà nói ra chắc thế hệ con cháu sẽ cho là tôi... bịa! Bởi đã có một lần ở nhà ông bạn nhạc sĩ Trịnh Tuấn, cả hai ông bố đã bị các con của ông “phang” cho một gậy, sau khi nghe bọn tôi ôn lại vài chuyện ngớ ngẩn cũ: “Sao bố và các bác thời ấy hèn thế nhỉ?!” Đau hơn cả bị người dưng đánh, tôi đành ngậm nỗi đắng cay trả lời: “Đúng! Chỉ vì để hôm nay các cháu được đi học nước ngoài, có nhà cao, cửa rộng, nên bố cháu và các bác phải chịu Hèn như vậy đó! Riêng bác, nếu không vì gia đình thì hôm nay, bác sẽ về nước với danh hiệu ít nhất cũng bằng các ông Trần Văn Khê ([10]), Nguyễn Thiên Đạo ([11])... được đưa rước, đề cao, nịnh bợ tùm lum trên báo, đài, tivi! Đâu có trở thành một anh nhạc sĩ công chức, chuyên bảo đâu làm đấy để lúc về hưu, phải ôm cả đống tổng phổ, sách, đĩa “âm nhạc đích thực” mà chờ ngày mang chúng cùng xuống dưới mồ thế này?”

Trở lại cái lớp “đại học… học đại” năm 1958...

Chúng tôi đều háo hức với những hiểu biết cơ bản đầu tiên về âm nhạc nên anh nào anh nấy quên hết mọi khó khăn về gia đình, về trình độ (rất không đồng đều) để tranh thủ kiếm ở thầy dăm ba nốt. Điển hình nhất là anh chàng Nguyên Nhung. Từ một “nhạc sĩ quần chúng” vô danh ở đơn vị F.325, cậu ta được “chiếu cố” lần đầu tiên đi học. Mà học ngay vào những môn khó nuốt như Rondo, Variations, Sonate! Cứ như vịt nghe sấm! Vì vậy, Nguyên Nhung là một điển hình trong trắng, học đến đâu ghi sâu đến đấy. Ngoài giờ lên lớp của thầy, cậu ta còn phải tự ôn những mục sơ đẳng nhất của chương trình sơ cấp. Ví dụ: nhạc lý, ký, xướng âm và “trụ” được đến cuối khóa vào loại ... trung bình. Trái lại, có loại thứ hai là các vị “cái gì cũng biết một tí nhưng chẳng biết cái gì.” Họ học để biết chứ làm thì... không được! Hoặc... không muốn làm vì sợ lòi cái đuôi dốt! Kết quả là cuối khóa, chẳng có tác phẩm nào, dù nhỏ nhất trình làng. Còn loại “phục xuống mà viết” (cụm từ của Nhân Văn) trong đó có tôi thì kiên trì “moi” cho bằng hết chữ của thầy. Chúng tôi thể nghiệm tất cả những gì đã được học. Bài làm nào cũng nộp thầy đầy đủ kể cả bài piano (sau khóa học tôi đã tiến đến Classiques favoris II) và tiến hành hòa thanh được trên đàn. Tôi ôm bụng (đau dạ dày nặng) mà làm bài. Tôi thức gần như thâu đêm suốt sáng cố viết bằng được một “cái gì đó” có thể gọi là âm nhạc thuần túy, “âm nhạc có học nhạc hẳn hoi” chứ không là thứ “nghêu ngao theo lời ca” hoặc “ngâm thơ có giai điệu, tiết tấu” như bấy lâu vẫn làm...Tôi bắt đầu có tư duy dàn nhạc đầu tiên (conception orchestrale) ngay sau khi học xong cách phối hợp các bộ gỗ, đồng, dây, gõ. Tôi hiểu ra thế nào là tư duy monodique và càng thấy sáng tác âm nhạc mà chỉ nghĩ được có cách hát lên, hát xuống một lời ca, nó lạc hậu đến chừng nào so với thế giới. Cái “cứu cánh văn học”, thậm chí quá nhiều lời ca, nhiều lý lẽ, kể cả triết học để ghép giai điệu vào, quả là đã kìm hãm sự phát triển khoa học của nghệ thuật âm nhạc Việt Nam mấy thế kỷ! Đáng buồn thay, khi ngồi viết những dòng này, viết về sự ngu dốt của một thời xa xưa đó thì bên tai tôi đang vang lên những thứ âm nhạc vô học y như thời xưa mà còn tồi tệ hơn ở lời ca mất dạy, giai điệu, tiết tấu ăn cắp của nước ngoài một cách công khai và trắng trợn!

Thì ra thời nào Đảng và Nhà Nước này đều sản sinh những tay trùm bịp bợm ở mọi lãnh vực! Chỉ cần chút “năng khiếu âm nhạc... ngoại lai”, với vài lời ca mùi mẫn, đắm say (giả vờ) hoặc dí dỏm, rẻ tiền là các “nhạc sĩ thời đại” có ngay một bài hát! Với phần đệm đã có sẵn trong đàn organ, với một ca sĩ có giọng khê khê, nhờ nhợ... có tác phong biểu diễn cóp-pi “Spice girls” là lập tức được một loạt “nhà phê bình” tung hô lên báo là “ngôi sao” là “siêu sao”, là “top nọ, tép kia” ngay, bất kể các “nhạc sĩ chuyên gia bậy bạ” kia nếu cho thi thử vào trường nhạc sơ cấp thì đảm bảo trượt 100%, vì...hầu hết đều...mù nhạc giỏi lắm chỉ biết ký âm sau khi nảy âm trên cây mandoline hoặc ghi-ta! Chuyện nhạc sĩ nghiệp dư, nói đúng là người làm bài hát nghiệp dư – chansonnier amateur, của thời chúng tôi cách đây nửa thế kỷ đến nay,1998, đang được lặp lại rộng hơn, thắng thế hơn và... kiếm ra tiền hơn ở cái “cơ chế thị trường” nửa dơi nửa chuột có cái đuôi lòng thòng “xã hội chủ nghĩa”.

Các nhạc sĩ chính gốc, viết được từ ca khúc đến giao hưởng, nhạc kịch... đang ngày càng mất chỗ đứng và sống trong tủi hận, nghèo túng. Không còn những cái tên Hoàng Vân, Huy Du, Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Văn Nam, Chu Minh, Tô Hải... trên “thị trường âm nhạc”. Thay thế là những cái tên chủ khách sạn, những cái tên cán bộ cao cấp trong và ngoài quân đội, đặc biệt là với những cái tên được Đảng giao cho nắm các “đầu ra” của âm nhạc thì các Ban Chấp Hàn –– được Đảng hủ hóa bằng “lợi” và “quyền” –– phóng tay kết nạp họ tùm lum vào Hội Nhạc Sĩ Việt Nam, một tổ chức nghề nghiệp âm nhạc đông nhất thế giới! Điều này giải thích tại sao không mấy ai thực sự có tài, kể cả những anh em trẻ, muốn bén mảng đến “cái Hôi …cái Hè của Hội...Nhà Sí Việt Nam”, vào những năm cuối thế kỷ 20 này!

Tôi cũng phải nói thật về cái động cơ “học lấy chết” của tôi trong câu chuyện kể trên là hoàn toàn...cá nhân. Tôi muốn nhắc lại điều này thật rõ bởi lúc đó người ta dạy chúng tôi “học để phục vụ Đảng”, là điều Đảng luôn nhắc nhở tại các cuộc họp trong và ngoài chi bộ, vì Đảng đã đánh hơi thấy có xu hướng “học vì mình”, vì muốn thoát khỏi cái giáo điều “văn nghệ phục vụ công nông binh”.

Chẳng ai dại mà nói ngược lại nhưng ai cũng biết cái thời “hát lên những khẩu hiệu” đã cáo chung. Muốn “làm nghề” phải có “nghề”. Mà nghề nhạc thì càng học càng thấy mình dốt và... liều! Ai đời một ông tướng như Hoàng Văn Thái, một kịch sĩ cải lương như Đào Mộng Long ([12]), một tù nhân chính trị như Nguyễn Ngọc Bạch ([13]), hàng ngày chỉ được nghe tiếng kèn clairon của lính khố xanh gác ngục rồi cũng được những kẻ bợ đỡ đôn lên thành “tác giả” những bài ca “lịch sử” mà giai điệu không thể vượt khỏi cái arpège Đô phát ra từ kèn clairon!.

Còn thời 1954-1960 với những yêu cầu mới, đối tượng mới, trình độ mới, với sự giao lưu dù chỉ hạn hẹp trong khối Xã Hội Chủ Nghĩa, kiểu hát unisson, đánh nhạc tutti từ đầu đến cuối (!?) làm sao có thể tồn tại?

Mặt khác, do tình hình thúc ép, người ta cũng phải tổ chức các đoàn nghệ thuật “ra vẻ chính qui” bằng cách sáp nhập hàng chục đoàn văn công nhỏ lại thành một đoàn lớn để...“lấy le” mà không biết là “cộng 100 thằng ngu lại không thể thành được... một người khôn!”

Mặc dầu rất sợ kỹ thuật (là “con dao hai lưỡi”!) nếu rơi vào tay những người không đáng tin cậy thì...lợi bất cập hại, người ta cũng đành phải nghe theo các cố vấn mà mời các “chuyên gia âm nhạc đỏ” vào để mở lớp đào tạo người sản xuất ra cái nuôi sống các đoàn văn công quân đội. Có đoàn lúc này quân số lên 100, 150 người mà vẫn dàn hàng ngang hát một bè Vì Nhân Dân Quên Mình, Hò Kéo Pháo, Chiến Thắng Điện Biên! Bên cạnh là mấy chục cây đàn, kèn trống tập hợp về mà chẳng ai biết hòa âm phối khí ra sao ngoài mấy bản “phối theo kiểu Parmentier” của mấy ông quản đội kèn bú-dích thời Pháp thuộc!

Tình trạng lạc hậu về âm nhạc hàng mấy thế kỷ so với thế giới, sau này về Sài Gòn, gặp các ông nhạc sĩ “tại chỗ”([14]) thì té ra các vị này được sống yên ổn trong thành cũng chẳng biết học ai, học ở đâu, vì Nhạc Viện Quốc Gia thời ông Thiệu không đào tạo môn sáng tác (composer)! Họ chỉ tự thỏa mãn với một số ca khúc “yêu đương”, “lỡ làng”, “thương nhớ”... hoặc cũng hò hét động viên quân đội “quốc gia” tiến ra sa trường tiêu diệt bọn Việt cộng khát máu! Vậy là lớp học về kỹ thuật âm nhạc chính quy đầu tiên của chúng tôi ra đời, không ít thì nhiều đã đánh thức được sự ngu dốt cực kỳ về âm nhạc của cả một thế hệ, nếu nói không ngoa!

Lúc này, các nhạc sĩ ngoài quân đội cũng đã tổ chức một lớp nhạc (chưa gọi là trường) chẳng ra sơ, trung, cao cấp gì để đào tạo những nhạc sĩ, nhạc công chưa hề được học...nhạc! Giảng viên là các ông Tô Vũ, Lê Yên, Doãn Mẫn ([15]), Phạm Văn Chừng ([16]), Phạm Ngữ ([17])... cũng chưa ai qua lớp nhạc nào ngoài sự... tự đọc (chứ chưa tự làm!) kể cả hiệu trưởng Tạ Phước ([18])! Cái lực lượng “kỹ thuật tự túc” này, ngoài đảng viên Lê Yên, tất cả đều... ngoài Đảng mãi cuối năm 1958 mới được bổ sung một chuyên gia âm nhạc cộng sản là Thỉnh Lệ Hồng, một học sinh mới tốt nghiệp Nhạc Viện Bắc Kinh!

Đương nhiên chúng tôi trở thành nhân vật cốt cán, những “sĩ quan nhạc sĩ” của Đảng, được ưu tiên trang bị vũ khí để chiến đấu trên mặt trận âm nhạc, để làm âm nhạc theo đường lối... vô sản! Anh nào cũng biết là mình đang được trao một cơ hội để... phủ nhận mọi đường lối ngu dân xưa nay của Đảng, để tự trang bị những cái mà Đảng rất sợ sẽ trở thành vũ khí nguy hiểm có thể quay lại chống Đảng bất cứ lúc nào! Nhưng ai dám nói ra điều này, nếu không muốn tiêu cả cuộc đời? Vậy thì cứ học và cứ làm, cứ trang bị cho mình những gì có thể thanh thản nhận cái chức danh “nhạc sĩ”, không còn rụt rè, ngượng ngập.

Tất cả bọn tôi đều nghĩ giống nhau nhưng mãi sau này mới “xì” ra cho nhau biết nỗi lòng...“kệch cỡm” của mình! Tuy nhiên cũng có vài tên tuổi đến lớp là nhạc sĩ (dỏm), có động cơ thoạt đầu giống tôi, nhưng sau một thời gian, nuốt không trôi cái nghệ thuật phức tạp này, đã quay trở lại phê phán nó, phê phán cả thầy rồi đánh tơi bời những người mà họ cho là “kỹ thuật chủ nghĩa”, “ăn phải bả tư sản”... Bi kịch này đối với tôi là điển hình nhất cho sự nhỏ nhen của con người đối với con người.

Trở lại sự học của tôi, tôi được thầy Mao, thầy Triệu đặc biệt chú ý vì những lý do:

– 1) Tôi là người chăm chỉ, không bỏ sót bài tập tác khúc, hòa thanh, phối khí, phân tích tác phẩm nào và có lẽ còn do cái tính khác người là luôn thể nghiệm những gì mà thầy... chưa dạy!

– 2) Tôi luôn “moi” thầy, thậm chí đưa thầy đến thế bí phải mở sách ra xem mới giải đáp được! (Điều không ngờ là thầy rất... khoái khi gặp học trò ham biết cả những thứ không hề có ở bất cứ cuốn giáo khoa âm nhạc nào!)

Tôi còn nhớ, có lần tôi hỏi thầy Mao: “Vẫn biết quãng 5 song song là không tốt. Nhưng nếu tôi muốn diễn tả hai trái tim, hai cảm xúc đối lập nhau mà “cố tình” cho một đoạn nhạc cứ 2 “tông” tiến hành song song thì sao?”

Tôi được trả lời: “Một! Anh là người vô cùng sáng tạo. Hai! Anh phạm lỗi vì không làm nổi cái điều đơn giản nhất: Đó là chưa biết đi mà đã định...chạy! Và cuối cùng, anh có thể là một thằng... bịp vì anh đã phá luật trong khi chẳng hiểu luật là cái gì! Y hệt một tên khùng giữa đường mà đi, không quần áo mà cứ tưởng ta đây là số một!”

Tôi càng thấu hiểu thế nào là sự “tiêu hóa” trong học tập nghệ thuật âm nhạc. Học để sáng tạo chứ không phải học để sáng tác như...bài tập. Tôi càng thấm thía cái lắc đầu thương hại và chán nản của thầy Mao khi trả bài hòa thanh cho Vũ Trọng Hối và một bạn khác kèm theo câu “Tôi không thể bắt được một lỗi nào, không một vệt bút đỏ, nhưng tiếc rằng: đúng, đúng cả, nhưng... không hay!”

Chính các ý kiến vỡ lòng về cái “hay” trong nghệ thuật của thầy đã luôn thúc giục tôi: “Đã viết là viết sao cho không giống ai và cũng chẳng được phép giống chính mình”. Đó là một phương hướng, một tiêu chí hoàn toàn đúng. Chỉ tiếc nó không đúng ở nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa và không đúng cho tới hôm nay, khi tôi viết những dòng này!

Mọi sự lặp lại, cóp-pi, thậm chí “thuổng” cả nhạc nước ngoài, nhạc trong nước, mọi sự nhai lại đến nhàm chán và trơ tráo, những “Em ơi! tình duyên lỡ làng”, những “tóc ướt, môi mềm, nụ hôn, yêu nhau đi chiều hôm tới rồi”... chẳng có lấy một xu sáng tạo, cứ ngang nhiên lặp đi, lặp lại, trâng tráo, tồi tệ hơn! Cái “cũ” mà lớp chúng tôi muốn bỏ đi từ cách đây 20, 30 năm, ngày nay lại được... đề cao, phổ biến, ca ngợi như...cái “mới”, được mấy nhà lý luận ba xu, mấy nhà báo vô văn hóa âm nhạc phóng lên thành “top này, top nọ” đến tận trời!

Bài học “làm nghề” đầu tiên đó mãi bây giờ vẫn là nỗi đau, sự nhức nhối, thậm chí nỗi căm giận mang xuống suối vàng không tan, bởi lẽ tôi luôn húc đầu vào tường để làm nhạc một cách... tử tế!

Tác phẩm đầu tiên “làm nghề tử tế” là cantate Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy. Tôi liều mạng xông vào lãnh vực chưa nhạc sĩ nào ở Việt Nam dám làm hoặc... chưa đủ sức làm: Viết cho đại hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng! Thời điểm bắt đầu là giữa năm 1958, thời điểm mà ở Việt Nam chưa ai nhìn thấy cái dàn nhạc giao hưởng ra sao, gồm nhạc cụ gì! Còn các nhạc sĩ “chính hiệu” cũng chưa biết tờ giấy tổng phổ gồm bao nhiều dòng nữa! Bản thân tôi, khi bắt đầu phần phác thảo bằng piano cũng gặp không ít ý kiến bàn ngang, thậm chí có người cho là “viển vông, nói... phét!” Một số bạn bè thông cảm như Văn An, Nguyễn Văn Thương... thì khuyến khích nhiệt tình. Văn Chung còn nói: “Cứ viết đi, viết cho chúng nó biết tay!” Chẳng biết “chúng nó” mà Văn Chung định nói là ai ? Riêng tôi chẳng giấu diếm cái động cơ “Viết cho chúng nó biết tay” này với anh bạn cố tri luôn cười ra nước mắt Văn An: “Tao sẽ làm, chết cũng làm, chẳng mấy khi có thầy ra thầy. Tội gì không “moi” cho hết những gì họ có!”

Thế là tôi bắt đầu vào cuộc “phiêu lưu”, sáng tác một “tác phẩm âm nhạc cho ra âm nhạc”. Mới đầu chỉ là một hợp xướng 3 đoạn kép đệm bằng dàn nhạc giao hưởng. Tất cả tích lũy suốt trên mười năm làm lính, những cảm xúc dồn nén không có cách gì giãi bầy lên khuông nhạc hơn một số ca khúc đã viết (do không có kỹ thuật, không được học hành âm nhạc tử tế) tôi tập hợp lại trong một chương Tiếng Hát Biên Cương với một Introduction bằng dàn nhạc gần bằng bài hợp xướng (!). Khi đưa phác thảo tới thầy thì thầy phê: “Đầu to, đít bé!” Nội dung thì thầy phán: “Quá nhiều vấn đề, quá nhiều chủ đề âm nhạc! Tất cả đều chưa được phát triển, mới trình bày đã vội...hết rồi!” Thầy khuyên: “Nếu có quyết tâm và thời gian thì nên xử dụng hình thức cantate, nghĩa là dàn nhạc không chỉ còn là đệm nữa, hợp xướng cũng “nói”, dàn nhạc cũng “nói”. Bằng không thì biến cái Introduction thành một Ouverture viết cho dàn nhạc. Còn phần hợp xướng chỉ là một chủ đề Trên Đường Biên Giới mà chủ đề âm nhạc (sau này thành chương II) chỉ gói gọn trong đoàn người và ngựa đang leo đèo lội suối biên cương thôi. Bằng không sẽ là “nhiều cái lọ đựng toàn nước hoa nguyên chất (!) nhưng do pha loãng vào đủ thứ chai, thứ lọ, thứ vại, thứ chậu không phù hợp nên chẳng phân biệt mùi gì ra mùi gì!”

Sau đó thầy còn đưa ra một số những “chai đầy nước hoa nguyên chất” –– gọi bằng cái tên không có trong khúc thức học là “trường ca” –– và nói: “Đây là do bí kỹ thuật nên người viết không biết phát triển ra sao, đành chuyển sang chủ đề khác, nhịp điệu, tiết tấu khác, hoặc để có vẻ có “tay nghề” hơn là chuyển sang điệu thức khác. Rốt cuộc “chưa... ngửi được hương thơm thứ nhất đã phải ngửi mùi thứ 2, thứ 3, thứ 4”...

Trở về nhà, tôi đứng trước lựa chọn: Làm lại từ đầu hay bỏ cuộc! Cuối cùng, tiếc rẻ đoạn nhạc không lời mở đầu, tôi quyết định giữ lại đoạn mở đầu của dàn nhạc vì nó là tất cả tư duy dàn nhạc đầu tiên trong đời sáng tác âm nhạc của tôi, ở đó tôi đã xử dụng tiết tấu, nhịp điệu 5/4 của cồng chiêng thuở Nụ Cười Sơn Cước năm nào. Phần tả cảnh, tôi dùng dàn nhạc. Phần tả tình, tôi dùng hợp xướng và đơn ca. Nhưng để có được yêu cầu đối tỷ, cuối cùng từ ba chương tôi đã gồng mình viết thành bốn chương nhạc. Để đỡ “điều ong tiếng ve”, tôi đã bí mật làm việc không kể giờ giấc, có khi thức trắng 3, 4 đêm liền. Tôi quên hết mọi hoàn cảnh khó khăn, gia đình, vợ con để vừa hoàn thành yêu cầu của lớp học, vừa khó khăn chấm từng nốt nhạc cho từng chiếc sáo, chiếc kèn, cây đàn, chiếc trống to, trống bé... Sáng tác lúc này đối với tôi là cả một quá trình thực hành các bài học một cách... không giống những gì thầy đã dạy. Vấn đề phát triển chủ đề âm nhạc luôn là bài toán khó nhất đối với nhạc sĩ chỉ viết ca khúc như tôi. Tôi đã có sáng kiến kết hợp giữa bài nghiêm chỉnh và “không nghiêm chỉnh” để nộp cho thầy. Nghĩa là người khác làm một thì tôi phải làm 2 hoặc 3, 4... để thầy góp ý và khi thầy gật gù khen “Khá, khá!” là tôi hí hửng về nhà thể hiện ngay trên tổng phổ quên ăn quên ngủ.

Cặm cụi, mê say như thế suốt 4 tháng vừa học vừa làm, tôi hoàn thành 4 chương hợp xướng khi thầy kết thúc khoa mục viết cho giọng người. Cái khó là lời ca trước kia vốn dễ ợt với tôi vì chỉ viết cho một giai điệu thì nay khi viết cho nhiều bè, đối vị, phức điệu, giải quyết thế nào thì thầy... cũng chịu vì ở nước thầy lời ca không cần chú ý đến sắc, huyền, hỏi, ngã. Còn ở ta lắm bè có nghĩa là có bè sẽ hát là “hải quân”, có bè sẽ hát là “hài quân” và có bè sẽ hát là...“hai quần”! Tôi đã thử nghiệm cách tìm những lời có nguyên âm giống nhau, dù khác nghĩa. Ví dụ: Bè một là “nơi xa” thì bè hai có thể là “lời ca”, bè ba có thể là “sỏi đá”. Sáng kiến này được anh chị em hát bè phụ hoan nghênh vì họ không còn bị gọi là các “ông bà Tây hát tiếng ta” (do hát sai dấu). Tuy nhiên dù đã trình bày và “nghiệm thu” cuối khóa thì từ đó đến nay... chẳng có ai áp dụng! Lý do đơn giản là hợp xướng đã hết tồn tại và người viết hợp xướng chẳng còn ai muốn phí sức khi âm nhạc chỉ là... đơn ca (nữ là chủ yếu) và phần đệm chỉ còn ghi-ta, oọc, bass và trống!

Chao ôi! Nghĩ đến bước phát triển thụt lùi của âm nhạc Việt Nam mà muốn thét lên một tiếng căm hờn và đau đớn! Dù sao, nếu bắt tôi sống lại những năm 1957-1958-1959, tôi vẫn “phủ phục xuống” mà viết, mà chấm chấm, gạch gạch từng mesure trên tờ tổng phổ 24 khuông nhạc như ngày nào, dù cái thời phải dán mấy tờ giấy viết ca khúc lại để làm tổng phổ đã qua rồi.

Tôi vẫn tiếp tục lao động âm nhạc thực sự như những ngày đầu được bước đến thềm của nghệ thuật âm nhạc đích thực! Tôi sẽ vẫn thả hồn trong từng mesure tổng phổ, vẫn tưởng tượng ra khi bộ dây mô phỏng vó ngựa biên cương thì bộ đồng nổi lên tiếng kèn thôi thúc lên đường, khi bộ gỗ gợi lên bề sâu tâm hồn thì bộ gõ sẽ mô phỏng nhịp điệu, tiết tấu của tiếng chân ngựa nặng nhọc leo đèo, vượt dốc... Niềm vui chưa từng có của tôi chính là khi nhìn thấy từng mảng, từng mảng tư duy âm nhạc của mình hiện dần lên trên từng mesure, từng trang giấy tổng phổ... rồi cứ vang lên, vang lên như đã được dàn dựng ở trong đầu. Toàn bộ năng lượng, trí tuệ, sức tưởng tượng đúng là phải đổ ra gấp 10, gấp 100 lần khi chỉ tư duy cho một thứ “lời ca được ngâm lên theo kiểu mới”, như trước kia. Tôi đâu biết là đang được dẫn vào con đường đầy hiểm nguy gai góc: Con đường âm nhạc chính thống, âm nhạc bác học, một thứ âm nhạc mà đáng lẽ tôi phải được trang bị trước khi trở thành thứ “nhạc sĩ tự nhiên chủ nghĩa” hiếm thấy trên thế giới này!

Vâng! Tôi đang bước đến con đường xa lạ với đường lối của Đảng, xa lạ với trình độ quần chúng và xa lạ ngay cả với...nhạc sĩ nữa! Tôi đang là đối tượng “có vấn đề ” của các nhà “nhạc sĩ cầm quyền”. Họ rất sợ những gì mà tôi đang học, đang làm, nhưng không sao ngăn tôi được vì chính họ mở ra lớp nhạc để giao “vũ khí kỹ thuật cho giai cấp công nhân, cho đảng viên” mà tôi là một đại diện được lựa chọn đúng tiêu chuẩn!

Thế là, mặc dù góp ý “xây dựng” nhiều lần trong chi bộ về động cơ học tập, về thái độ học tập, về tư tưởng “kỹ thuật tư sản thuần túy”, về tư tưởng “thiếu quan điểm quần chúng” trong sáng tác của tôi, cantate Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy, tác phẩm âm nhạc đầu tay của tôi, có thể gọi chính thức như thế, lặng lẽ ra đời trong sự thờ ơ của nhiều ông lãnh đạo. May thay, giữa lúc này (1958-1959) cái khẩu hiệu “tiến dần lên chính quy hiện đại” trong quân đội là lá bùa hộ mệnh cho tôi và những người ủng hộ. Hơn nữa, hai chuyên gia do đảng và nhà nước Triều Tiên của “Kim tướng quân vĩ đại” cử sang Việt Nam, giúp nhạc sĩ chúng tôi tiến lên chính quy và hiện đại không lẽ chỉ để dạy có một món...ca khúc? Mà ca khúc thì, xin lỗi, chúng tôi thừa sức dạy cho các thầy (vì có lý thuyết nào, kỹ thuật nào của ca khúc là đúng nhất, hay nhất, với mọi người, mọi dân tộc, mọi thời đại?). Đồng thời sự tập hợp cả trăm diễn viên, nhạc công, ca sĩ thành những đoàn văn công lớn đang tạo ra bệnh...đói tiết mục, đói kỹ thuật để tồn tại. Họ đang chờ sáng tác của lớp nhạc sĩ được học để làm nghề đầu tiên ở Việt Nam.

Cũng phải nói thêm về công ơn của nhiều anh em “nhạc sĩ biết điều” và sự đòi hỏi không thể từ chối của các chuyên gia: Họ muốn có một cái gì tương đối ra trò để báo cáo kết quả học tập cuối khóa, báo cáo với hai Đảng và hai Bác vĩ đại. Thế là tác phẩm báo cáo của tôi cứ thế mà “phình” thêm ra! Mới đầu là 3, sau thành 4 chương. Còn dàn nhạc thì tôi cứ viết cho đầy đủ giao hưởng hai quản... biên chế đúng như sách! Bộ đồng thiếu thì mượn quân nhạc, bộ gỗ, bộ dây, ai không đánh được, thổi được thì cứ việc...oéc! oéc!...không sao! Nguồn bổ sung nhạc công lúc ấy như contre basse, cello, cordeo thì lớp nhạc cụ do ông Trần Du đã có công lớn đào tạo cấp tốc. Tội nghiệp cây violon này sau chẳng còn ai nhắc tới! Chỉ huy Triệu Đại Nguyên, chuyên gia, đảng viên của Triều Tiên chạy đôn chạy đáo vận động các cấp ra chỉ thị cho tập trung về 19 Lý Nam Đế đủ biên chế dàn nhạc mà tổng phổ của tôi yêu cầu! Có thể nói chưa bao giờ tôi được “Viết đến đâu, phối đến đâu, dàn dựng đến đó” như thế.

Và ngày ra mắt “nội bộ” tại Thư Viện Trung Ương để xét duyệt đã đến. Kết quả thật bất ngờ! Mặc cho những ý kiến không có thiện chí, Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy được nhiệt liệt hoan nghênh! Có lẽ đây là lần đầu được “xem” một dàn hợp xướng với dàn nhạc lớn và đông người như vậy chăng? Tôi ngồi ở cuối phòng để nghe hiệu quả của hòa thanh 4, 6 bè hát, nghe hiệu quả cụ thể của sự phối hợp đồng, gỗ, dây, gõ... do chính tôi lần đầu tiên viết ra mà rưng rưng nước mắt.

Không phải tôi cảm động vì đã làm được một việc tưởng như không bao giờ có thể làm được. Tôi khóc vì tủi thân, vì nỗi uất ức và cả sự căm thù cái hệ tư tưởng bẩn thỉu của một số kẻ muốn giết tác phẩm ngay trong trứng nước, họ đang ngồi kia, trên hàng ghế đầu để “duyệt” những cái mà họ... chẳng hiểu mô tê gì cả.

Tôi căm thù cái bọn cũng mang danh nghệ sĩ nhưng ... sợ kẻ khác giỏi hơn mình, có tác phẩm được hoan nghênh hơn mình. Tôi cũng nghĩ tới những tháng không một xu dính túi, cơm tập thể, áo quần hai bộ, nhịn đói, nhịn khát, thức suốt đêm để chấm cho được một trang tổng phổ, dạ dày đau quằn quại... Còn ở Khu IV xa xôi, vợ tôi lại cho ra đời thêm đứa con thứ ba cũng không một xu dính túi, không một chính sách nào cho diễn viên cả!

Quả là tôi đã làm một việc tự đánh giá mình bằng cái giá cực đắt, cái giá phải trả mãi nhiều năm sau...“Tác phẩm đầu tay” của tôi vậy là đã được hoan nghênh, hoan nghênh trước hết bởi người “xét duyệt” mà quan trọng nhất trong đêm đó có hai nhân vật Hoàng Văn Hoan ([19]) và Nguyễn Chí Thanh. Cả hai ông đều mê văn nghệ...mỗi người một kiểu! Nói cách khác là mỗi ông một “gu” chẳng giống nhau mà cũng...chẳng giống ai. Tôi đã nghe mấy ông lớn cãi nhau đến khản cổ về việc “nên duy trì hay nên khai tử” vở chèo Lưu Bình Dương Lễ của đoàn chèo Tổng Cục Chính Trị mới thành lập dưới sự lãnh đạo nghệ thuật của Cao Kim Điển. Số là cửa sổ phòng làm việc (nhà 11 Lý Nam Đế) của ông Lê Chưởng ([20]), chủ nhiệm chính trị, người lãnh đạo trực tiếp chúng tôi, chỉ cách phòng tôi, 13 Lý Nam Đế, chưa đầy 5 mét.

Mọi sự tranh luận nghe đến tức cười như “Đưa vợ đi giúp bạn kiểu Lưu Bình-Dương Lễ là...coi thường phụ nữ, là khuyến khích chế độ đa thê” vv... cứ vô tình lọt qua tai tôi khiến tôi càng ngạc nhiên và... tức cười về những quan niệm thiếu văn hóa của họ. Vậy mà họ vẫn có thể “khai tử” hoặc “cho lên mây” cả một loạt con người, một loạt tác phẩm chỉ bằng cái lắc hoặc gật đầu. Và, chính tôi đang hồi hộp chờ đợi sự phán xét tác phẩm âm nhạc đầu tay của mình bởi những người chẳng có tư cách gì, chẳng hiểu biết tối thiểu để cho phép nó được ra đời hay đem... chôn sống nó! Một tuần chờ đợi lo âu vì các dư luận không thiện chí làm tôi phát điên. Nào là “Hát gì mà chẳng nghe thấy lời! Chỉ được cái to và dài, còn nội dung nửa cách mạng, nửa tiểu tư sản”... Tệ hơn có ý kiến nội bộ cho đây là “tư tưởng thành tích” của mấy chuyên gia “có vấn đề”.

Cuối cùng, chương trình đêm kỷ niệm 15 năm thành lập Quân Đội 22/12/1959 được quyết định! Cả Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy lẫn Qua Sông Lại Nhớ Con Đò của Tô Hải đều được duyệt! Tiết mục “đinh” sẽ là Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy! Mãi sau này nó vẫn là “đinh” của đoàn văn công Tổng Cục Chính Trị, vẫn là “tiết mục yêu cầu” của các buổi phát thanh. Tôi nhận được nhiều lời khen của đồng nghiệp, nhất là của các chiến sĩ ở biên giới, hải đảo. Có đơn vị còn đề nghị tặng huân chương ngay cho tác giả vì đã “nói đúng nỗi lòng và niềm tự hào của họ”. Nhưng đặc biệt là nhiều kẻ “không có gì để vượt lên”([21]) đã ra tay tìm cách hạn chế bớt sự ồn ào của việc xuất hiện một tác phẩm “đề cao uy tín” cho một thằng “đầy tư tưởng cá nhân, tự kiêu, tự đại, coi thường mọi người”... là tôi! Và, việc “triệt” tôi bắt đầu ngay đêm ra mắt tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Đêm đó là đêm diễn long trọng nhất, có nhiều cấp lãnh đạo Đảng và Nhà Nước dự, huy động nhiều đoàn nghệ thuật quân đội và nhân dân tham gia nhất, nhưng không một tác giả nào được mời (thời đó chưa có “lệ” bán vé).

Trước sự coi thường chất xám đến vô văn hóa như thế, một loạt tác giả đã phản ứng và cuối cùng được phát cho một vé... không số (nghĩa là đến “chuồng gà” cũng không). Nhiều anh em chấp nhận nhưng tôi kiên quyết ở nhà! Chuyện sẽ chẳng có gì xảy ra nếu đêm đó tôi cứ nằm mà nghĩ tới thân phận của một “người lính viết thuê”, nghĩ tới số phận của Moussorgsky ([22]) không có được bộ đồ để vào nhà hát dự buổi ra mắt tác phẩm Boris Godunov của mình mà... giận hờn đến ứa máu mắt! Chẳng ai thèm để ý đến tác giả của đêm biểu diễn từ lâu đã thành chuyện “chẳng có gì mà ầm ỹ”.

Nhưng, chuyện động trời đã xảy ra: khoảng 7 giờ tối, có tiếng ô tô phanh kít ở ngoài cổng 13 Lý Nam Đế.

Chuyên gia Mao Vĩnh Nhất hộc tốc chạy lên gác cùng phiên dịch Hà Huy Hiền. Ông như nổi điên khi biết “học trò cưng” của ông không được phép đến dự buổi ra mắt chính thức tác phẩm đầu tay của mình và là “đinh” của đêm biểu diễn. Vì thế, ông bỏ ra về giữa lúc các quan chức đang chúc mừng hai ông thầy có “công lớn” trong đêm biểu diễn qui mô và đồ sộ nhất từ trước đến nay. Một việc làm mà sau này chính ông phải trả giá khi về nước: Ông bị thanh trừng cùng hàng loạt văn nghệ sĩ có tư tưởng tư sản, chống đối lãnh đạo, kể cả chống đối lãnh đạo Việt Nam. Việc này mãi ba năm sau, khi vợ ông, một diễn viên đơn ca, sang biểu diễn tại Việt Nam, tôi đến thăm để gửi cho ông một số xuất bản phẩm có bàn tay ông giúp sức, tôi mới biết. Cơn giận dữ, nhất là những câu chửi bới của ông, mà người phiên dịch chỉ dám tóm tắt lại cho tôi, đã làm tôi dịu hẳn nỗi hờn giận và cảm thấy trách nhiệm của mình trước sự vắng mặt của hai người đã góp sức cho toàn bộ chương trình ca nhạc của đêm biểu diễn long trọng này. Thế là tôi nài nỉ thầy về lại nhà hát vì vắng thầy hôm nay rất không có lợi...cho đứa học trò, nhất là họ biết thầy bỏ nhà hát chỉ vì học trò của thầy không có vé mời, sau đó lại rủ trò đi ăn phở Tạ Hiền nữa thì...nguy to! Trước mắt là nguy to cho tôi! Họ sẽ không bỏ lỡ cơ hội ghép cho tôi cái tội lôi kéo ông thầy “thiếu lập trường” này phản ứng với tổ chức thì... khốn!

Cuối cùng, chính anh phiên dịch Hà Huy Hiền (sau này cũng trở thành nhạc sĩ hội viên Hội Âm Nhạc Việt Nam do nắm rất vững các thứ lý thuyết về âm nhạc qua lớp phiên dịch) đã đề nghị một biện pháp giải quyết là anh nhường vé có số bên cạnh thầy cho tôi, còn anh vào nhà hát bằng vé không số! Có điều là thầy sẽ chỉ còn cách... “im lặng” khi giao tiếp vì đã mất người phiên dịch. Tôi tự ái, không chịu nhận đi bằng chiếc vé không phải của mình, còn thầy cũng “hạ hỏa” sau khi nghe tôi phân tích sự bất lợi nếu hôm nay có đủ các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng và Quân Đội mà thầy lại bỏ ra về. Không thể gọi là gì khác một thái độ “phản ứng trong quan hệ quốc tế!”

Kết cục, thầy kéo tay tôi thẳng ra xe, chấp nhận giải pháp của Hà Huy Hiền. Tuy nhiên thầy vẫn lầu bầu “Tôi sẽ nói thẳng với ông Võ Nguyên Giáp về cái chuyện coi thường văn nghệ sĩ cực kỳ vô lý này!” Trong xe, tôi cùng Hiền cố nói để thầy rõ ở cái xứ này, chuyện đó là chuyện thường. Quyền lợi và địa vị của một tác giả chẳng là gì. Thầy nói ra chỉ khổ cho tôi sau khi thầy về nước. Họ sẽ “trần” tôi ra trò, cho là do tôi kêu ca phàn nàn với chuyên gia để ông phản ứng...Thầy Mao đành đồng ý.

Tôi tới nhà hát đúng lúc mở màn, đèn dưới khán giả đã tắt, thầy và tôi đi thẳng lên hàng ghế A, hai chỗ dành riêng cho chuyên gia và phiên dịch còn đó. Chúng tôi ngồi xuống giữa lúc chỉ huy Triệu Đại Nguyên bước ra sân khấu sau lời giới thiệu của Hồng Ngọc về cantate Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy của tôi. Thú thật, tôi hoàn toàn phân tán tư tưởng, chẳng hiểu nổi những gì diễn ra trên sân khấu. Đầu óc tôi chỉ nghĩ về hậu quả của việc xảy ra sau khi họ phát hiện vì sao tôi lại có giấy mời để được ngồi ở hàng ghế đầu, dành cho toàn các ông kễnh và chuyên gia, đại sứ các nước bạn? Nói dại nếu có một vụ nổ lựu đạn, có lẽ thủ phạm không ai khác là kẻ đã lén lút chui vào được cái nhà hát không dành cho những kẻ như tôi.

Giờ giải lao, các chuyên gia được mời lên phòng gương nghỉ ngơi xơi nước thì tôi lang thang ngoài hành lang gặp gỡ diễn viên, bè bạn, đồng nghiệp. Tất cả đều chúc mừng sự thành công của cantate bằng lời lẽ nhiệt tình đôi khi... hơi quá đáng! Sự thật một phần do anh em yêu mến tôi, một phần vì chưa bao giờ được nghe một tác phẩm của “ta” tương đối có qui mô, huy động đông đảo diễn viên đến thế. Chính những lời khen “bốc” quá này, cùng hàng loạt thư và đề nghị sau này của chuyên gia, của nhạc sĩ, nhất là của các đơn vị biên phòng với Cục Tuyên Huấn nên tặng huân chương hạng này, hạng kia cho tác giả...đã báo hiệu một tương lai khốn nạn đang chờ tôi!

Lý do khó tránh nổi cuộc chiến “khỉ vặt lông khỉ” trong đó những con đười ươi to đùng ác độc sẽ chẳng tha cho những con khỉ nhãi ranh như tôi vì bỗng được đề cao Khôn thì sống mà chống thì chết! Thế thôi! Và tôi không còn cách nào khác để thoát khỏi lời của cụ Nguyễn Du: “Chữ tài liền với chữ tai một vần... ” ngoài cách chọn con đường tiếp tục...hèn! Tôi kệ cho chi bộ phê phán đủ thứ “tội” sau đêm biểu diễn định mệnh đó. Nào “coi thường cấp trên”, “coi mình là cái rốn vũ trụ”, “cố tình có mặt trên hàng đầu để tự đề cao”, nặng hơn là...coi thường tổ chức. Một số tay, mà trời bắt chết sớm cả, bắt đầu “chiến dịch xóa bỏ sự “hiện hữu vô ích” của tác phẩm này với ý kiến thật... “thực tế và thuyết phục”. Ví dụ: Sau ngày tổng kết này, khi các diễn viên, nhạc công trở về đơn vị, Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy sẽ... chết!

Điều này có cái đúng ở thời điểm 1959...

Việt Nam đứng giữa hai con đường cộng sản khác nhau như nước với lửa, thù nhau còn hơn thù đế quốc. Liên Xô sau Đại Hội 20 chống sùng bái cá nhân, các nhà văn, nhà thơ trước bị coi là lãng mạn “tư sản” được phục hồi, các bộ phim chống chiến tranh ca ngợi hoà bình được chiếu. Ở bên Tầu, Shakespeare, Beethoven, Chopin...bị lên án, tượng phết sơn xanh đỏ tím vàng, khoác quần áo thật, lắp mắt thuỷ tinh được coi là có “nhân dân tính”, “đảng tính”. Cuộc cách mạng văn hóa đang báo hiệu sẽ ác liệt và...tàn bạo hơn cả cải cách ruộng đất. Người ta đưa nghệ sĩ, giáo sư...ra đấu tố thậm chí đánh gãy tay người pianist giỏi nhất Trung Quốc vì chơi “toàn tác phẩm phục vụ vua chúa” của Beethoven, Mozart!!!

Ở các nước xã hội chủ nghĩa Triều Tiên, Liên Xô, Albanie, Roumanie.., không kể Nam Tư, mỗi đảng theo một đường riêng, chẳng ai giống ai mà ai cũng cho mình là đúng!. Ở Việt Nam, với các nhà “lý luận dựa hơi” người khác, tất nhiên cũng có 2, 3, 4 kiểu “cách mạng”, cái nào cũng “triệt để nhất”. Người ta mời các chuyên gia đến để đưa văn nghệ tiến lên chính qui hiện đại, đồng thời đưa các đoàn nghệ thuật, các văn nghệ sĩ xuống đơn vị, về nông thôn để... “cải tạo tư tưởng”!

Trong thực tế, điều đáng sợ nhất với những người lãnh đạo văn nghệ là việc học hỏi tử tế, đi sâu vào nghệ thuật chân chính, đúng là nghệ thuật, sẽ làm lòi ra một số vô tài bất tướng, không đủ trình độ tối thiểu tiếp thu cái mới. Bọn này luôn dè bỉu những gì là khoa học, là tiến bộ và cái bùa hộ mệnh của họ là “quan điểm lập trường”, “tất cả phải vì nhân dân lao động”, “chính trị là thống soái”... Bọn họ chỉ chờ cái gật hoặc lắc của cấp trên là lập tức phát lệnh tấn công bất cứ những gì là văn hóa!

Viết một bản nhạc, vẽ một bức tranh chẳng khác mở một hàng phở, một cửa hàng may! Anh thợ may thuê thêm vài thợ bạn làm với mình có thể bị dán nhãn hiệu “tư sản bóc lột” thì vẽ một cô thiếu nữ đầy đủ áo quần, nhưng có những đường cong của thân hình, viết bản nhạc không lời với một giai điệu trữ tình rất có thể sẽ lãnh tai hoạ. Những cụm từ “kỹ thuật tư sản”, “thiếu tính Đảng, tính nhân dân”, tính quần chúng, tính chiến đấu” và cả một lô thứ “thiếu” khác trở thành những lời kết án mà người ta hăng hái bịa đặt ra để diệt nhau, đạp lên xác nhau mà leo lên địa vị cao hơn. Vậy mà tôi đã viết một tác phẩm đủ các thứ...“thiếu”: Thiếu quan điểm quần chúng” (vì không ai hát được), “sặc mùi tiểu tư sản”, “kỹ thuật thuần túy” (vì khó hiểu, khó nghe, lắm bè bối, ầm ỹ)... Cái đáng chết nhất dành cho tôi là cả một chương nhạc sặc mùi Nụ Cười Sơn Cước với giai điệu “nặng mùi tiểu tư sản, không phản ảnh đúng tâm trạng chiến sĩ nơi biên cương!”

Ông Lê Quang Đạo ([23]), phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị lúc ấy trực tiếp hỏi tôi giữa một hội nghị tuyên huấn toàn quân: “Nếu điều anh về đơn vị biên phòng anh có vui vẻ nhận nhiệm vụ không?” Tôi đã trả lời không sợ hãi: “Thưa đồng chí, là nhạc sĩ làm sao tôi có thể nhận cái nghề không phải nghề của tôi! Tôi đâu biết bắn người bằng súng đạn? Tôi chỉ biết bắn người bằng...âm nhạc thôi!” Ông ta nói giữa hội nghị: “Đó! Làm sao có thể nói trung thực tâm tình người lính khi không dám nhận làm người lính! Vì thế, cái chương 3 của đồng chí Tô Hải nói lên tình cảm của một anh văn nghệ tiểu tư sản tự bịa ra thôi chứ đâu phải tư tưởng và suy nghĩ của anh chiến sĩ biên phòng!” Tôi muốn nổi khùng lên để nói thẳng rằng ông là đồ ngu dốt, và ngu dốt đến mức có thể bảo Victor Hugo chỉ viết được Les Misérables với điều kiện phải làm nghề của Jean Valjean hay Ténardier...Nhưng tôi lại im lặng một cách hèn nhát vì...“chống là...chết!” Và chỉ với câu nói vừa nêu, tôi cũng biết số phận nào sẽ dành cho tôi những ngày sắp tới. Đó là việc chi bộ biểu quyết không thể để tôi ở lại Tổng Cục như yêu cầu mới đầu nữa! Lý do ở lại Hà Nội, Tô Hải sẽ “chết” vì tính tự cao tự đại, tự nọ, tự kia...Hơn nữa, cần tăng cường cho một đoàn văn công mũi nhọn đầu cầu giới tuyến, Đoàn Quân Khu IV, mới thành lập ở khu giới tuyến quân sự tạm thời do 4 đoàn 308, 367, 325, Tư Lệnh IV cộng lại với nhau để trở thành một đoàn mạnh. Nơi này đang rất cần sự đóng góp của Tô Hải!

Sự phân tích “ưu ái” của chi bộ cùng những lời đe dọa kỷ luật Đảng của ông bí thư Vũ Trọng Hối, ông Chính Hữu ([24]), trưởng phòng văn nghệ chuyển đạt ý kiến của Tổng Cục Chính Trị phá tan giấc mộng trở thành nhạc sĩ sáng tác chính hiệu sau 18 tháng dùi mài kinh sử của tôi.

Từ đây, tôi bị dồn vào cuộc chiến để tồn tại, cuộc chiến với hàng loạt tư tưởng, đường lối phản nghệ thuật, với sự ngu dốt và nguy hiểm nhất là với bọn cơ hội luôn bám những điều duy ý chí để kiếm lợi trong lúc chính họ thừa biết về cái đất Khu IV nổi tiếng với những cuộc thanh trừng không thương tiếc là... giết Tô Hải cả về sự nghiệp lẫn con người!

Sau nhiều cuộc vận động, gặp gỡ những người có thể giúp tôi tiếp tục hành nghề một cách tử tế, không kết quả hoặc chỉ nhận được lời hứa:“Sẽ nghiên cứu”...tôi đành vác ba lô lên đường. Ấy là chưa kể một buổi kiểm điểm về tội “vô tổ chức” vì đã đi báo cáo với các cấp lãnh đạo... ngoài quân đội! Tất cả những gì tôi trình bày một cách “có tổ chức” với những người lãnh đạo cao nhất về văn nghệ do Đảng cử ra đều biến thành... vô tổ chức!

Lại một bài học nữa về sự “dân chủ” trong Đảng!

Một kế hoạch “phá xiềng” trong tôi đã hình thành.

Tôi sẽ tự giải phóng. Trước tiên là phải giải phóng khỏi cái danh hiệu “đảng viên” khốn khổ khốn nạn để không còn bị ràng buộc trách nhiệm gì trước cái tổ chức lúc nhúc những tên muốn cản mình làm nghề. Tôi sẽ tiếp tục viết, viết tử tế, tiếp tục gửi tác phẩm đến những nơi có thể “xài” được tác phẩm của tôi, không nhận bất cứ một nhiệm vụ gì có thể chiếm hết thời gian như đoàn trưởng, đoàn phó, chỉ đạo nghệ thuật vv...Tóm lại, tôi quyết phải ra khỏi quân đội, ra khỏi Đảng càng sớm càng tốt để có thể... “Cho chúng mày biết tay ông!”

Kể ra tôi quá ngây thơ và liều lĩnh khi tin ở cái “vốn” mới có của mình, tin ở sự giúp đỡ chí tình của bạn bè, của vài vị lãnh đạo mà sau này cũng suýt...“mất hết” trong số đó, ông Lê Liêm thì... mất sạch!

Tôi mang niềm tin sắt đá là sẽ làm nên sự nghiệp ở cái đất nổi tiếng thù ghét những gì là “phi nông dân”, tin ở câu “hữu sạ tự nhiên hương”! Cứ tưởng cái tài mọn mới có sẽ giúp tôi, chẳng cần Đảng, chẳng cần đồng lương trung úy khốn nạn, cũng có thể sống phây phây như các họa sĩ Trần Đông Lương, Phan Thông, Bùi Xuân Phái...

Một liều ba bảy cũng liều, vì võ khí chiến đấu với cái ...nồi cơm tôi đã có trong tay! Trước mắt, hãy về thăm vợ con! Và với số tiền kha khá, lần đầu tiên kiếm được do Đài Tiếng Nói Việt Nam trả nhuận bút cho các tác phẩm tôi viết trong gần hai năm học ở Hà Nội, tôi lên đường về khu IV...

Tôi không dự đoán hết được về những gì sẽ chờ tôi, về những mưu mô hiểm độc quyết “khử” tôi, có chỉ đạo, có tổ chức đang giăng bẫy tiêu diệt ít nhất ý chí của tôi, thậm chí dùng kỷ luật thép quân đội “đầy” tôi xuống một đơn vị chiến đấu để chết mất xác! Kết quả cuộc đụng độ không cân sức giữa tôi và lực lượng cơ hội vô văn hóa, vô văn nghệ bậc nhất đương nhiên đã rõ. Người thua, người đầu hàng một cách hèn kém phải là... tôi!

Chân lý lại một lần nữa bị chà đạp bởi cái đa số “ba bị”, ngu si và im lặng... để tôi sẽ phải đau đớn nhận thêm những trang đời tủi nhục.




([1]) Tên gọi những gì cướp được của địa chủ bị đấu.

([2]) Nguyễn Đức Toàn (1929), nhạc sĩ, hoạ sĩ, đại tá QĐNDVN.

([3]) Lương Ngọc Trác (1928) nhạc sĩ.

([4]) Ngu độn trong giới cầm quyền –– tiếng Pháp.

([5]) Tác phẩm của William Shakespeare.

([6]) Văn Chung (1914-1984) nhạc sĩ thế hệ tiên phong của tân nhạc Việt Nam, tác giả các nhạc phẩm Bóng ai qua thềm, Trên thuyền hoa...

([7]) Hà Huy Giáp (1907-1995) uỷ viên Trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Văn hoá.

([8]) Lúc này nhóm Nhân Văn mới bị “dẹp” tạm thời.

([9]) Thôi Thừa Hỷ (Choi Seung-hee 1911-1969), nhà vũ đạo kiệt xuất Triều Tiên. Sinh tại Hán Thành, học nghệ thuật múa ở Nhật, bà bỏ sang làm việc ở Bình Nhưỡng, tạo ra một trường phái múa truyền thống và cổ điển. Bà biến mất năm 1960, được phục hồi tên tuổi năm 2003, và lúc đó ngành tuyên truyền Triều Tiên mới tuyên bố bà mất năm 1969.

([10]) Trần Văn Khê (1921), nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền.

([11]) Nguyễn Thiên Đạo (1940), nhạc sĩ Pháp gốc Việt.

([12]) Đào Mộng Long (1915-2006), diễn viên, đạo diễn, soạn giả sân khấu cải lương và kịch nói. Năm 1946, tại Sài Gòn ông có viết một bài ca Hồn Chiến Sĩ để hát cho thương binh.

([13]) Cán bộ chính trị, đoàn trưởng một đoàn văn công.

([14]) Cách gọi những người ở Sài Gòn từ trước năm 1975 còn ở lại làm việc với chính quyền mới.

([15]) Doãn Mẫn, hay Dzoãn Mẫn (1919-2007), nhạc sĩ dòng tiền chiến.

([16]) Phạm Văn Chừng, nhạc sĩ tiền chiến, được nhớ đến nhiều với ca khúc Con Chim Lạc Bạn.

([17]) Nhạc sĩ, được nhớ đến với ca khúc Nhớ Quê Hương.

([18]) Tạ Phước, tên thật Tạ Văn Phước (1919) nhạc sĩ, giáo sư, hiệu trưởng đầu tiên của Nhạc Viện Hà Nội (1956-1977).

([19]) Hoàng Văn Hoan (1905-1994), nguyên ủy viên Bộ Chính Trị ĐCSVN, phó chủ tịch Quốc Hội VNDCCH.

([20]) Lê Chưởng (1914-1973), thiếu tướng, lúc này là cục trưởng Cục Tuyên Huấn thuộc Tổng Cục Chính Trị.

([21]) Vào thời gian ấy những anh em đi học nước ngoài chưa về.

([22]) Modest Petrovich Mussorgsky (1839-1881), nhạc sĩ Nga vĩ đại.

([23]) Lê Quang Đạo tên thật Nguyễn Đức Nguyên (1921-1999) thượng tướng, nguyên chủ tịch Quốc Hội, phó chủ tịch Nhà Nước trong những năm 1987-1992.

([24]) Chính Hữu tên thật Trần Đình Đắc (1926-2007), nhà thơ, nguyên đại tá, phó cục trưởng Cục Tuyên Huấn thuộc Tổng Cục Chính Trị.



Chương 9

CUỘC PHIÊU LƯU GIỮA SA MẠC GIÓ LÀO



Một lần nữa tôi lại là kẻ lạc đường!
Lần này sự lạc đường có thể dẫn đến cái “chết” thật sự cả về sự nghiệp, sinh mệnh chính trị cũng như thể xác. Tôi phải đối đầu với những tên đồ tể văn nghệ bậc nhất thời đại, những kẻ dám tuyên bố: “Chúng tôi không cần kỹ thuật! Nội dung tư tưởng là chính. Chúng tôi không cần hát bè, không cần dàn nhạc lắm thứ... kèn Tây! Chúng tôi chẳng hiểu Tổng Cục kêu gọi “hướng về đại đội phục vụ chiến sĩ” mà lại thành lập các đoàn văn công cồng kềnh, xây dựng những trường lớp, học toàn nhạc Tây, kèn Tây, rồi còn cử về ba cái “của nợ” đòi hỏi phải làm sàn tập, may váy, áo hở đùi, hở ngực... (ý nói ba-lê). Cả những cái đàn “tư sản” cồng kềnh (ý nói piano) cũng phát về Đoàn? Để ai nghe? Ai dùng?” Có hàng trăm thứ nghe rồi cứ tưởng như vu oan giá họa cho giới lãnh đạo “văn nghệ quân khu IV” thời ấy. Nhưng tất cả là sự thật đã được bớt đi 80%! Có hai luồng tư tưởng đối địch trong việc tiến lên xây dựng văn nghệ quân đội. Lúc này đang còn sự giằng co bên đúng bên sai, mạnh ai nấy làm nên mới có sự chéo ngoe về việc “đào tạo nhân tài cho giai cấp” như thế, thì ở cái địa phương nổi tiếng “kiên định lập trường” này chỉ có một quan niệm: “Tất cả cái gì mà nông dân (tức quân chủ lực) không cần, không hiểu thì ở đây không làm, không khuyến khích!” Chủ trương đó được cụ thể hóa bằng lời của ông tư lệnh trưởng Nguyễn Đề (hay cái gì Đề, du kích Ba Tơ chính cống) chỉ thị cho đoàn văn công Quân Khu của ông: “Phải nắm cho chắc: Ta là văn công, văn công quân đội. Không phải quân đội chung chung mà là quân đội quân khu IV. Tất cả những gì thể hiện trên sân khấu phải nêu bật nhiệm vụ đang làm. Tất cả những gì không nhằm mục tiêu đó đều sai đường lối lãnh đạo của Quân Khu Ủy!” “Lời vàng thước ngọc” đó được một loạt kẻ “dạ! thưa anh” vận dụng để triệt tiêu tất cả những con người, những vốn liếng hiểu biết ít ỏi – một số người như tôi được chính Đảng và Quân Đội bồi dưỡng. Trước tiên là dẹp các buổi luyện tập cơ bản ba-lê, son filé, các buổi dàn dựng ouverture Carmen, Marche turque. Hợp xướng thì yêu cầu hát một bè! Tốp ca lại yêu cầu bỏ bè, hát... unisson! Như vậy tức là dẹp hợp xướng! Tội nghiệp mấy giọng Alto, Baryton cứ phải cố mà leo lên mí, phá hoặc đang nửa chừng câu hát, nhào xuống một octave! Anh chàng Sĩ Lộc, tốt nghiệp khóa chỉ huy, các cậu Lưu Khâm (contre basse), Phạm Vỵ (basson), Phí Văn Chúc (clarinette), các vũ công, biên đạo Hồng Nga, Nam Hà đều ngơ ngác trước sự “vô lý không có nhẽ” này, vì họ đều là học trò khá của các giáo sư Triệu Đại Nguyên, Chu Huệ Đức, Kim Tế Hoàng và trở thành “đối tượng có vấn đề” trong cuộc chỉnh Đảng năm 1960! Họ, hoặc là nhận tội “kỹ thuật thuần túy”, “thiếu quan điểm quần chúng” hoặc thẳng thắn trình bày nhận thức của mình, đều được xếp vào loại “phản ứng giai cấp” do tất cả đều là “quần chúng” ngoài Đảng. Tôi chỉ biết im lặng trong các cuộc họp chi bộ khi nghe những câu kết luận “giết người” như thế. Duy nhất có một đảng viên bị kết tội là Sĩ Lộc bị khai trừ lưu Đảng. Hai “quần chúng đội trưởng” khác là Nam Hà và Trương Công Lê thì cách chức đội trưởng! Tôi mới về đoàn, là người chuyên sáng tác, không quyết định gì nên “tội” không cụ thể! Dựng “Carmen” là do Sĩ Lộc, “thèm chỉ huy mà cố gắng làm lấy được” dù thiếu cả đống nhạc cụ. Dựng các thứ “4 chàng trai và cô gái” của Liên Xô, “Múa quạt” Triều Tiên là do Hồng Nga, Nam Hà. Cho thông qua chương trình là các ông Đào Ngọ (đoàn phó), Đồng Ngọc Vân (đoàn trưởng kiêm bí thư). Tôi chỉ có trách nhiệm thấy dựng Tiếng Hát Biên Thùy là “sai đường lối” mà vẫn im lặng. Có ông “cốt cán” còn đặt vấn đề: “Phải chăng do động cơ thích đề cao cá nhân?” Trong bụng tôi chỉ cƣời vì tôi ham hố gì sự nổi tiếng ở cái đất khu IV này. Chẳng qua anh chị em thích tác phẩm này cứ cố “dựng lấy được” chứ sự thật nghe họ hát mà thương! Đàn địch đánh cứ “oéc lên, oéc xuống” đến thảm hại.
Nhưng tôi đã chủ trương “nằm im tìm thời cơ thoát hiểm” nên theo gương Phù Sai nuốt hết những thứ khó ngửi, khó nghe ấy cho xong chuyện! Vụ chỉnh đảng đó tôi may mắn chỉ có mỗi một “tội”: quá ham chuyên môn nên ít để ý đến trách nhiệm “lãnh đạo toàn diện” của Đảng và không chịu tham gia sinh hoạt cùng anh em. Ví dụ: tranh thủ giờ thể dục buổi sáng, tôi đều “chạy” Hanon[1], Czerny[2] trên cây đàn Zimmerman mới được phát cho đoàn vì nơi đặt nó là ở phòng tập, lúc nào cũng bận! Tôi cứ nghĩ những tay có học như Khánh “kính”, Bùi Tín... ở trên Cục, Phòng, Ban đâu có ngu, đâu có thiếu văn hóa? Bọn họ cũng có bằng tú tài, ít thì cũng đỗ đíp lôm, cũng biết đọc tiếng Anh, tiếng Pháp như tôi. Bùi Tín, con cụ Bùi Bằng Đoàn, hiểu khá đúng về nghệ thuật những khi trao đổi riêng tư với tôi. Người như “Khánh kính”, xưa là dân Lycée du Protectorat đã giấu biệt cái quá khứ “tội lỗi” học trường Tây để leo cao (quá lắm đến đại tá là cùng) thì nhiều vô thiên lủng! Những người này nắm những chức vụ trực tiếp lãnh đạo văn nghệ ở quân khu nên không bao giờ phát biểu bằng cái đầu của chính mình. Mà nào có cái gì to tát cho cam. Khánh chỉ mới có chức trưởng ban Tuyên Huấn, còn Bùi Tín thì phó ban. Chính cái thời điểm tôi không giữ chức vụ gì để cần phải làm việc với họ đã cứu tôi. Tất cả tội lỗi “phi giai cấp” trong đường lối văn nghệ này, các đội trưởng đội phó lãnh đủ. Còn ban chi ủy, gồm một đồng chí cấp dưỡng tên Mẫn, một ông y tá tên Chiểu, một ông quản lý tên Phúc cùng chính trị viên kiêm đoàn trưởng kiêm bí thư Đồng Ngọc Vân mắc một tội nhẹ là... “mất cảnh giác” do thiếu chuyên môn! Vậy làm sao để “Đảng lãnh đạo được toàn diện” bây giờ? Rõ ràng chỉ có một cách là phải dựa vào anh em có chuyên môn mà là đảng viên. Chết nỗi đảng viên đã phân ra ba loại A, B, C cao thấp khác nhau, độ tin cậy khác nhau, trong đó hầu như tất cả những anh có chuyên môn đều nằm ở loại đảng viên... hạng bét. Họ bị xếp vào hạng kém cỏi vì hầu hết đều có chút ít văn hóa, mặt mũi sáng sủa và xuất thân tiểu tư sản học sinh, mặc dầu có anh đã ở lính trên 10 năm! Cuộc “thịt” nhau gọi là chỉnh Đảng này đã đưa tôi vào một vũng lầy mới. Số là, chẳng biết có lệnh từ đâu, sau cuộc cải tổ, chỉnh đốn tổ chức các đoàn văn công quân đội theo phương châm “hướng về đại đội phục vụ chiến sĩ”, tôi bị tròng cái thòng lọng mới: đề bạt lên làm đoàn phó kiêm chỉ đạo nghệ thuật. Nghĩa là từ nay mọi trách nhiệm không đi đúng đường lối của Đảng (là cái Đảng của Quân Khu IV) tôi sẽ phải giơ đầu chịu báng! Tuy nhiên, nhờ cái “quyền rơm vạ đá” này tôi đã tìm ra con đường để tự giải phóng. Đầu tiên là giải phóng cho một số nhân vật mà tôi thấy có đôi chút khả năng nghệ thuật nhưng suốt đời sẽ chẳng làm nên cơm cháo gì với ba cái tiết mục “vì nông dân phục vụ” này bằng cách cho họ đi học nghề cho ra nghề. Có những người sau này trở thành giáo sư, nghệ sĩ ưu tú, “nghệ sĩ nhân dân” như Thế Vinh, Đoàn Bôn, Hương Mai (vợ tôi)! Một số khác do hoàn toàn không có khả năng văn nghệ nhƣng có trình độ văn hóa, tôi lấy lý do “tinh giản biên chế” cho đi học văn hóa tiếp tục. Khuynh (accordeon) và Vỵ (basson) sau này tốt nghiệp đại học ngoại giao trở thành nhà ngoại giao ở các sứ quán “phe địch” hẳn hoi! Riêng Vũ Ngọc Hải (diễn viên múa) leo cao nhất và ngã cũng đau nhất: Trung ương ủy viên và bộ trưởng Bộ Năng Lượng để rồi vào tù vì có sáng kiến mà Đảng không cần! Về anh chàng thông minh, đẹp trai, nhạc khá, múa hay này, cho tới sau khi anh ta ra tù, tôi vẫn thấy chính chất nghệ sĩ của anh ta đã giết anh ta. Tôi đã nói thẳng cái ý này: Muốn “làm to” thì phải xa lánh cái nghề văn nghệ, trong xã hội do mấy ông cộng sản tạo ra, nó là một cái nghề không đáng tin cậy vì nó hay nhòm ngó vào mặt trái, vào chiều sâu của sự thật luôn có quá nhiều tởm lợm. Kinh nghiệm ba ông Lê Liêm, Việt Phương và kể cả ông Võ Nguyên Giáp khi học piano cũng bị giảm “uy tín” đi không nhiều thì ít! Sau này, ông Trần Độ chuyển sang viết lách đã có các chuyển biến tư tưởng và tình cảm “không có lợi” cho Đảng rõ ràng! Cái âm mƣu mạo hiểm sáng lên trong đầu tôi khi bị đề bạt bất đắc dĩ là nếu biết lợi dụng ngay đƣờng lối “cực kỳ sáng suốt của quân khu ủy” ắt sẽ phá tan cái tổ chức phi văn nghệ là đoàn văn công “quân khu đầu cầu giới tuyến quan trọng bậc nhất” (chẳng hiểu ai là bậc 2, 3?)! Tôi sẽ là thuyền trưởng chạy sau cùng khi con tàu đã hết sạch thủy thủ theo cách làm cho nó “đắm” càng mau càng tốt. Tôi nắm chắc lợi khí của những phương hướng “Tất cả vì công nông binh”, “Hướng về đại đội”, “Biểu diễn đi đôi với xây dựng phong trào” mà chia năm xẻ bẩy đoàn ra để về các sư đoàn “ba cùng”! Tất nhiên mỗi nhóm 5-10 người cũng mang theo vài ba tiết mục hát, múa để thỉnh thoảng làm khổ anh em chiến sĩ bằng những cố gắng “nghệ thuật hóa” các động tác lăn, lê, bò, toài, phất cờ, đặt bộc phá, tuần tiễu biên cương, tình cảm quân dân…một cách hết sức tự nhiên chủ nghĩa.
Cùng lúc này có các phong trào “tiền hồng vệ binh” trong quân đội rất vô văn hóa. Đáng sợ nhất là phong trào lập thành tích bằng số lượng buổi diễn xuất phát từ đoàn Quân Khu III của ông Nguyễn Thịnh, một đoàn trưởng “tiến bộ nhất về lập trường tư tưởng” do đã cho quần chúng hưởng tới…300 buổi diễn một năm! Thế là nơi nơi đều được phát động học tập “đoàn ông Thịnh” để có thành tích. Có đoàn chia nhỏ theo chiến sĩ ra bãi tập, phục vụ ngay giữa giờ giải lao cũng đạt ba “buổi” biểu diễn một ngày! Cái ông Thịnh này không phải nông dân bần, cố gì. Ông vốn là một tay accordéon ngày xưa ở các tiệm nhảy hạng bét Hà Nội. Ngày đi theo cách mạng, ông “tự cải tạo tư tưởng” ghê gớm và được Đảng tín nhiệm để sau trở thành một cán bộ chủ chốt lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Tổng Cục! Ông lánh xa những thứ mình từng yêu thích, từng chơi cho Tây nhảy đầm như sợ thuốc độc – một nhân vật điển hình cho chủ nghĩa cơ hội. Chính ông đã truy bức tôi trong cuộc chỉnh đảng, trước lớp học ở ấp Thái Hà đầu năm 1958: “Có bao giờ đồng chí (chao ôi, hai tiếng “đồng chí”!) có tư tưởng chạy theo gia đình vào Nam không?” Một câu hỏi trắng trợn chưa ai dám hỏi khi người bị hỏi lại đang có nhiều “thành tích sáng tác” theo yêu cầu của Đảng, đang có chức (dù chức nhỏ tí xíu), lại đang là một đảng viên! Tôi trả lời: “Nếu đi theo “địch” thì tôi đã theo từ “khuya” rồi, chẳng ngu gì đợi hôm nay hòa bình rồi mới trở cờ! Kẻ nào đến hôm nay mà còn tư tưởng đó là... đồ ngu!” Vậy mà ông ta vẫn cố ép: “Ít nhất không có hành động thì có lúc nào đó, Tô Hải có “tư tưởng” theo “địch” không?” Đến mức đó, không chịu đựng nổi nữa, tôi đã bung ngay trước cuộc họp tổ Đảng một câu chửi thề: “Theo! Theo! Theo cái con c...! Chính mày mới là thằng từng theo Tây, đánh đàn phục vụ Tây chứ tao chưa bao giờ có được cái thành tích như mày!” Tất nhiên, cái sự gọi là “phản ứng giai cấp” đó một lần nữa được ghi trong tim đen của những kẻ nắm vận mệnh những người trí thức tiểu tư sản lạc đường như tôi. Trở lại với cái đoàn văn công Quân Khu IV lấy “chính trị làm thống soái” của tôi. Nhờ rắp tâm “phá cho tan” bằng cách dựa vào những phương châm điên khùng của mấy thằng đại ngu, tôi thanh lọc gần hết anh em thật sự có tài bằng cách cho họ đi học, chỉ giữ lại những ai làm văn nghệ quần chúng chẳng có chút triển vọng gì. Trên cương vị mới, có quyền trong tay, tôi đẩy họ xuống các đại đội “xây dựng phong trào” kể cả cho đi làm phụ hồ trên các công trường xây dựng doanh trại! Họ lập thành tích chẳng phải 300 mà tới 500 cuộc biểu diễn một năm, bởi vì mỗi tối, khi phân tán về các đại đội, nhóm nào cũng có một chương trình giống nhau để liên hoan văn nghệ với anh em chiến sĩ và để báo cáo... láo! Đoàn chúng tôi, từ một đoàn “chạy theo đường lối văn nghệ tư sản” bỗng nổi tiếng bởi hoạt động “đúng đường lối”, hình thức và nội dung đều “kịp thời”. Uy tín của tôi có phần nào được củng cố với chi bộ! Biểu hiện rõ ràng nhất là 99% đã bầu tôi vào chi ủy, một điều chưa từng có. Cái 1% không bầu cho tôi chính là lá phiếu của tôi! Nhưng, chính sự “sa đà” bầu Tô Hải vào chi ủy khiến cả chi bộ đã bị triệu tập đột xuất vào tư lệnh bộ để nghe liên chi, cụ thể là trưởng ban tuyên huấn Khánh, huấn thị về sự “thiếu tính giai cấp”, “tính Đảng”, quá đặt nặng vấn đề chuyên môn, thiếu cảnh giác với tư tưởng “chuyên môn thuần túy”. Đặc biệt cuộc họp chi bộ này đã tổ chức ở trên Ban, một sớm chủ nhật, lúc tôi đang lo ngồi luyện đàn piano, nghĩa là người ta “khai trừ không tuyên bố” tôi để tiện bề phê phán! Tới hôm phổ biến danh sách chi ủy, người ta nói rất ưu ái là: “Liên chi không duyệt đồng chí Tô Hải vào ban lãnh đạo chi uỷ vì đồng chí ấy đã gánh quá nhiều nhiệm vụ, nhất là phải lo phần việc sáng tác, lo tiết mục cho đoàn!” Lý do “liên chi không duyệt” mãi sau tôi mới được Hoài Phiên “xì ra” khi có mâu thuẫn với bí thư. Trên thực tế tôi có ham hố gì cái chức vụ làm hại nghệ thuật của mấy ông “lãnh đạo toàn diện” này! Tất cả mục tiêu trước mắt tôi là sau khi giải phóng vợ và một số anh chị em mà tôi thấy sẽ có tương lai nếu được học hành đến nơi đến chốn, tôi sẽ tìm đường “biến” khỏi cái tổ chức giết nghệ thuật này. Tôi càng hi vọng khi được biết sẽ có thay đổi lớn về tổ chức sau Đại Hội Đảng III cuối năm 1960 với chiều hướng càng ngày càng lấy “chính trị làm thống soái” vì càng ngày người ta càng cố học theo những lời Mao chủ xị vĩ đại dạy! Những gì là nghệ thuật đích thực sẽ không có lý do tồn tại. Các tổ chức văn công cồng kềnh đi đâu cũng cả năm sáu cam nhông chở sân khấu, phông màn, máy nổ chẳng sớm thì chầy sẽ bị “tinh giản”…Nó thừa thãi một cách vô duyên vì nhạc không cần phối, hát không cần bè và luôn luôn phân tán để “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với chiến sĩ. Nhiệm vụ mới lại là 50% biểu diễn, 50% xây dựng, hướng dẫn phong trào, nghĩa là quay về thời nhạc không son-phe, phát động mọi người làm văn nghệ, mọi người đều sáng tác. Ba đoàn văn công Tổng Cục đã sáp nhập thành một, cho về vườn hoặc điều xuống đơn vị làm lính, làm cán sự, cán siếc... Còn ở cái đất Khu IV đầu cầu giới tuyến này có thêm đoàn văn công 324 tập kết của ông Nguyễn Thông (sau thành đạo diễn điện ảnh) từ Khu V ra!
Các ông Đôn, ông Đề đều là dân khu V, đang lãnh đạo Quân Khu IV thay thế ông Lê Nam Thắng suýt chết vì gia đình bị quy địa chủ mấy đời. Họ giải tán cái chân chất văn nghệ dân tộc, địa phương Quảng Nam - Đà Nẵng của họ gồm đa số là nghệ nhân bài chòi. Ấy là chưa kể về thành tích “kiêu binh” vì chịu đựng gian khổ nhất, đói ăn, rách mặc nhất và nắm vững đường lối Đảng nhất. Trong những người này nổi lên độc một ông Vĩnh An, nghệ nhân đánh đàn nguyệt, đàn cò và sáng tác được độc một bài, Gửi Anh Lính Bờ Nam, nhái dân ca khu V. Sau này, trên thị trường văn nghệ hiện đại sót lại đúng một anh chàng Công đổi tên là Thuận Yến[3], do được cho đi học nhạc tử tế! Vậy là lý do xoá sổ “đơn vị đầu cầu” của tôi đã rõ, nhất là đơn vị đó lại ở dưới sự lãnh đạo của một anh trung úy nhạc sĩ tiểu tư sản, đang nắm trong tay cả mớ “kỹ thuật tư sản”! Tôi biết điều này nhờ cương vị trong ban chỉ huy đoàn, thường được đi họp ngoài Tổng Cục[4] và được các bạn tâm huyết rỉ tai cho hay để liệu bề lo thân. Lúc này tôi không còn sợ bỏ đơn vị, rời quân ngũ lấy gì mà ăn nữa! Tôi đang “nổi tiếng” và sẽ được trọng dụng nếu chuyển tới bất cứ cơ quan nào. Huy Du, Hoàng Vân, Hoàng Đạm, Chu Minh...đều chưa về nước. Người viết được cho dàn nhạc, cho múa, cho phim lúc này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trường nhạc của ông Tạ Phước (đã “lên” trung cấp) mới đào tạo nổỉ một số viết giỏi ca khúc, hợp xướng như Hoàng Hiệp[5], Hồng Đăng[6]... Cả đoàn văn công Tổng Cục Chính Trị chỉ trông vào mấy ông Lương Ngọc Trác, Nguyễn Đức Toàn, Doãn Nho [7]... Rồi, giữa lúc đang cùng toàn đoàn lao động xây dựng doanh trại của Sư 325 ở vùng cát trắng Quảng Bình, tôi bỗng nhận được lệnh (quân lệnh như sơn) đưa toàn bộ dàn nhạc ra Hà Nội, phục vụ chuẩn bị Đại Hội Đảng! Tôi mừng như người chết sống lại: Té ra mình còn được tín nhiệm, té ra khả năng chuyên môn của mình vẫn được khẳng định. Ngoài Hà Nội, thiếu gì người mà họ phải điều một đội nhạc 24 người ra để làm cái gì đó chưa biết. Vậy là tôi thu xếp lên đường. Tôi cũng không ngờ lần đi này là “một đi không trở lại” nên đã bỏ mất hết tài liệu, sách báo, tủ đĩa mà tôi mua cho đoàn học tập, đáng tiếc nhất là nhiều vật kỷ niệm nhỏ suốt 15 năm đi lính của tôi, nằm trong hai chiếc thùng gỗ đựng giầy Trung Quốc viện trợ. Nhưng tôi đã “một ra đi là không trở về”, không một chút luyến tiếc, thậm chí không bao giờ quay lại mảnh đất mà tôi liên tục đóng vở kịch đời để tồn tại suốt 10 năm! Tôi còn nhớ như in những cặp mắt ướt lệ, những câu nói thất vọng khi gặp tôi ở công trường E.95 của Hồng Nga, Minh Huệ, Hoài Thu, Bá Sĩ, Đồng Thụ... “Làm sao anh kéo bọn em ra với”! Hoặc: “Thế là anh Hải thoát thân một mình rồi!” Tôi chỉ còn biết động viên: “Nói bậy, đi vài tháng rồi về chứ ai cho đi hẳn mà thoát với chẳng thoát!” Trên đường về thủ đô, tôi luôn nghĩ tới họ. Những vũ công, ca sĩ “lầm đường” sẽ làm gì khi cả dàn nhạc bị điều đi? Phải chăng họ chỉ còn là công nhân xây dựng, phụ hồ, người đẩy xe bò ban ngày, rồi buổi tối xuống lán trại hát cho chiến sĩ nghe với chiếc phong cầm của Dũng, người nhạc công độc nhất được chọn ở lại để tiếp tục “đánh lẻ” lúc cần thiết! Đội nhạc do tôi và Sĩ Lộc chỉ huy rồi đã ra đến Hà Nội. Nhiệm vụ được giao khá quan trọng: đoàn kịch nói Tổng Cục Chính Trị (Đào Hồng Cẩm lãnh đạo) đang dựng một vở chào mừng Đại Hội Đảng khá đồ sộ. Chưa bao giờ nhân lực và tài lực được điều động tập trung và dồn dập đến thế. Bên đoàn ca múa, ngoài cái “đinh” Tiếng Hát Biên Thùy của tôi là một loạt tiết mục về chiến thắng, về công ơn trời biển của Đảng, của Bác. Bên đoàn kịch dựng lại cả cảnh chiến đấu trên Đồi A1! Nhưng chỉ “nói không thôi” thì làm sao tạo được khí thế? Vậy là vở kịch nói lại có một dàn nhạc đủ đồng, gỗ, dây, gõ ngồi ở fosse d‟orchestre phụ họa. Đó là vở Trước Giờ Chiến Thắng, một vở mà tôi đã đoán trước số phận của nó sẽ ra sao. Nó không thể tồn tại như một tác phẩm văn nghệ vì con người nó đưa lên sân khấu là con người chẳng giống ai và hành động sân khấu đã dìm tình cảm vào không khí ùng oàng đến đinh tai nhức óc. Nó là “chính trị chứ không phải nghệ thuật”. Tuy nhiên, tôi như nắng hạn gặp mưa rào. Chẳng mấy khi được tắm một bữa cho đã! Tôi yêu cầu bổ sung nhạc cụ này, nhạc cụ khác. Chết nỗi, đoàn nào cũng đang dồn dập “làm lớn” để “chào mừng” cả! Cuối cùng, đành bổ sung bằng các em học sinh trung cấp đang học một vài năm gì đó. Tôi còn nhớ 2 anh chàng Tỵ (trompette), Hữu Xuân sau này trở thành “nghệ sĩ lớn” do sớm bỏ cây kèn Hautbois đã thổi cho tôi trong dịp đó mà mỗi lần bị tôi và Sĩ Lộc nhăn nhó do thổi không ra nốt đã có lúc chán nản xin bỏ cuộc. Riêng anh chàng Tỵ do văng bậy ra vì không thổi được nốt pha dièse đã bị tôi quẳng cả cái giá nhạc vào đầu chảy máu. Tôi bị kiểm thảo, phải nhận lỗi nóng nảy!
Nói cho ngay, tôi quả có lợi dụng cái dàn nhạc “giao hưởng tạp pí lù” này để luyện lại “ngón nghề”, thể nghiệm vài suy nghĩ sáng tạo chứ chẳng rung động gì với cái mình viết. Âm nhạc cho sân khấu và điện ảnh mãi sau này chỉ được dùng thay tiếng động không hơn không kém! Âm nhạc, “tốc ký của tình cảm”, cuối cùng chỉ còn là phương tiện gây không khí! Đuổi bắt: âm nhạc! Bước chân gián điệp leo hàng rào: âm nhạc! Đánh rơi cốc nước: cũng âm nhạc! Không bao giờ một đạo diễn bảo nhạc sĩ: Hãy đưa ra các chủ đề âm nhạc cho những nhân vật chính. Hãy theo diễn biến tình cảm của nhân vật mà phát triển chủ đề. Thậm chí cả đến những gala, đại hội nhạc liên hoan Pop, Rock...cái người ta muốn có, muốn hưởng chính là cái... “không khí”! Mấy ai chú ý đến khúc thức, đến lời ca, đến ý nghĩa? Càng không ai để ý đến kỹ thuật hát “phô”[8] hay không? Phối khí, hòa âm ra sao? Màu sắc dàn nhạc thế nào? Đến với những buổi gọi là “hòa nhạc” đó, có quá nhiều thứ “bị” nghe, quá nhiều thứ “bị” xem để cuối cùng, về nhà chẳng biết mình đã nghe, đã thấy những thứ gì? Trở lại với “dàn nhạc trời cho”...tôi đã cố bám sát từng màn một của vở Trước Giờ Chiến Thắng, cố xoay sở sao cho vở diễn có thêm không khí chiến đấu, anh dũng, hào hùng bằng cả một tập tổng phổ dày như một bản giao hưởng – chỉ nói độ dày thôi. Sĩ Lộc thì toát mồ hôi dàn dựng những gì tôi “nặn” ra đêm trước để kịp lắp ghép – với số nhạc công mà sau này gần như chẳng ai theo được nghề nhạc công đến cùng – những mẩu nhạc không đầu, không đuôi, không chủ đề có thể cắt bớt hoặc đánh lại (reprise) tùy thích. Cuối cùng, vở diễn rồi cũng xong. Đoàn kịch nói Tổng Cục Chính Trị được báo chí khen ngợi, tung hô hết lời. Sau đêm ra mắt long trọng tại Nhà Hát Lớn là tiếp tục “phát huy chiến quả” mấy đêm liền ở sân khấu Nhà Hát Nhân Dân rồi đi các đơn vị, các quân khu, sư đoàn biểu diễn chào mừng thành công Đại Hội! Đi đâu cũng có dàn nhạc ngồi chếch một bên sân khấu (dựng ngoài trời vì, ngoài Hà Nội ra, sân khấu nào chứa nổi cả một trận đánh Đồi A1!), đánh lên những khúc nhạc, minh họa thêm cho tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời của chiến sĩ Điện Biên một cách hết sức…vô duyên! Điều này càng dễ thấy khi các nhạc công “mượn” đã trở về đơn vị khiến cuối cùng dàn nhạc gần như chỉ còn đánh unisson, chủ yếu chỉ tạo tiết tấu bằng trống, mõ, phèng la! Đã thế, chính cái dàn nhạc lù lù bên sân khấu lại phân tán người xem kịch. Trẻ con thường thích ngồi gần dàn nhạc để xem kèn, xem trống, ngắm ông bắt nhịp, múa gậy (chỉ huy) thật mềm, thật dẻo hơn là xem diễn viên kịch đang cố gắng bắt chước các chiến sĩ lọt vào cửa mở, băng bó thương binh, bò lăn, lê, toài, chạy ào ào lên đỉnh đồi A1 cắm cờ! Tôi có ý nghĩ rất sớm là sân khấu kịch nói, nếu cần dùng nhạc, không nên dùng “nhạc sống” (dù có fosse d‟orcherstre) vì khi lù lù trước sân khấu, dù chơi có thật hay như dàn nhạc Philadelphia cũng chỉ làm phân tán tư tưởng người xem kịch. Lúc này có thể nhờ đài phát thanh thu thanh hộ, nhưng phát ra bằng cái gì thì không có. Máy ghi âm (magnétophone) là thứ “cấm tư nhân xử dụng”[9]! Sau này khi kịch nói được xử dụng âm nhạc qua băng ghi âm (bằng máy cơ quan) thì lại vấp phải hệ thống tăng âm, loa phóng thanh, hầu hết đều của...Tàu! Nhạc phát ra từ hai cái loa sắt cứ léo nhéo, lục cục đến phát khiếp! Nhờ sự lạc hậu về âm thanh ấy mà thời hạn phục vụ Trước Giờ Chiến Thắng của tôi cứ nghiễm nhiên kéo dài! Dù gì đi nữa chúng tôi đã góp sức có hiệu quả tuyên truyền về sự “thành công rực rỡ” của Đại Hội Đảng. Và tôi đã tranh thủ thời gian “nghỉ tại Hà Nội” để vận động các cán bộ lãnh đạo văn nghệ có nhận thức tiến bộ ngoài quân đội ủng hộ cái “chính nghĩa” rút lui khỏi đời “văn công lính” của tôi. Tôi nói ra tất cả những gì đã phải cắn răng chịu đựng, phải đóng kịch, phải làm ăn giả dối. Bằng những dẫn chứng cụ thể về những cản trở, phá hoại, tôi đƣợc không ít người có chức có quyền cảm thông. Hai người mà tôi tin tưởng có đủ khả năng “giải thoát” tôi khỏi cái “địa ngục văn nghệ quân khu IV” là Lưu Hữu Phước và Lê Liêm. Lúc này Lưu Hữu Phước là vụ trưởng Vụ Âm Nhạc và Múa còn Lê Liêm là trung ương ủy viên, trưởng ban Tuyên Huấn Trung ương Đảng. Sau cuộc gặp gỡ cả một buổi tối tại nhà riêng Lê Liêm, cả hai ông đều thống nhất ý kiến: Chỉ có một cách là rút Tô Hải ra ngoài này – tức là ra Hà Nội.
Nhưng đi đâu, về đâu vẫn là chuyện phải bàn, vì tôi vẫn là quân nhân thuộc Quân Khu quản lý. Tóm lại, cần nghiên cứu, cân nhắc kẻo “bên quân đội” phản ứng. Toàn phòng Văn Nghệ thuộc Tổng Cục Chính Trị lúc này đã được kiện toàn. Trưởng phòng là Hồ Nhị Quang, một cán bộ chính trị chẳng có một xu văn nghệ dính túi. Các trợ lý, sau khi đã loại bỏ hàng loạt những kẻ có vấn đề như Phùng Quán, Tử Phác, Hoàng Cầm, Tạ Hữu Thiện lúc này là những tay vô tài bất tướng, hoặc có chút xíu tài cán thì cơ hội chủ nghĩa số một. Họ đang “tham mưu” cho Tổng Cục một cuộc cải cách đến tận gốc các đoàn nghệ thuật với hướng “gọn, nhỏ, lẻ”, “lấy đại đội làm cơ sở”, lấy “hướng dẫn phong trào”, “lấy ca múa làm chính” vv... Tóm lại, lấy cái vô nghệ thuật làm nghệ thuật, phục vụ kịp thời là chính, cho quần chúng công nông ăn những món ăn rẻ tiền nhất! Chính sự giằng co trong phương hướng xây dựng văn nghệ quân đội này đã đẩy các đoàn văn công vào ngõ cụt. Bế tắc trong nội dung, mâu thuẫn trong hình thức tổ chức, trao số phận hàng ngàn diễn viên vào tay các ông đoàn trưởng “lập trường vô sản vững vàng” tới mức thấy các diễn viên hàng ngày chạy gam, tập thở, phát âm ô, ô, a, a...luyện động tác cơ bản vv…đều là...“ảnh hưởng nghệ thuật tư sản”! Các vị chưa từng là nghệ sĩ như Trịnh Xuân Ngôi, Lê Tín, Nguyễn Thịnh, Nguyễn Trân ... và nhiều nhiều ông Bàn, ông Ghế, ông Mít, ông Xoài... gì gì nữa, không đếm xuể, mỗi khi đi họp các đoàn trưởng ở Tổng Cục đều nhất tề “hua-ra” cái phương châm “xé lẻ” các đoàn, đều đồng thanh phê phán cái tổ chức cồng kềnh, xa rời chiến sĩ (!). Đặc biệt những anh chị em được đi học, dù chỉ là dăm bảy tháng, về đoàn, đối với các ông này, đều trở thành các “phần tử phức tạp”, gây rối, đòi hỏi những điều phi thực tế, thiếu quan điểm quần chúng. “Trước mắt, Đảng yêu cầu chúng ta làm văn nghệ thì chúng ta ra sức cống hiến, nhưng khi Đảng bảo ta làm việc khác hoặc điều ta xuống đơn vị chiến đấu thì ta lại trở về vai trò người lính cầm súng của mình!” Điều này được ông Đồng Ngọc Vân, một cốt cán lãnh đạo văn nghệ, cánh tay phải của Cục Tuyên Huấn và Phòng Văn Nghệ Quân Đội, tay chân của tướng Hoàng Minh Thi, (người đầu tiên có sáng kiến nhốt anh em văn nghệ sĩ trong chuồng trâu), bí thư kiêm đoàn trưởng đoàn văn công Quân Khu IV, tuyên bố trƣớc hội nghị Tuyên Huấn toàn quân một cách rất có...“đảng tính” như vậy! Có điều, tôi phải cảm ơn ông, vì khi nhìn thấy tôi ngồi ngay bên cạnh ông đã chữa lại một chút: “May ra thì ở đây, làm văn nghệ hết đời chỉ có đồng chí Tô Hải!” Chữ “may ra” của ông, về sau tôi càng nghĩ càng thấy đúng. Ông đã tiên đoán được con đường khốn nạn mà tôi sẽ phải liên tục vượt lên để hành nghề cho đến lúc về hưu mà không bị... vào tù! Vì sao? Chính trong giai đoạn này, khi tôi tưởng mình được “giải phóng” thì lại là lúc tôi bị rơi vào vùng lốc xoáy của những cuộc tranh giành, những vụ giết người không gươm mà tội phạm không ai khác chính là những kẻ suốt đời coi sự hiểu biết và thông minh là... kẻ thù không đội trời chung, những kẻ luôn tụng niệm lời dạy của những Xít, những Mao, những Trần Phú… là “trí thức không bằng cục phân”.., là “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”. Phải nói trong số tử vi mà mẹ tôi lấy cho tôi từ khi mới chào đời có nhiều điểm khá đúng. Đúng nhất có lẽ là lời tiên đoán: Tôi luôn có “quí nhân phù trợ”, dù những người phù trợ tôi sau này hầu hết chẳng nên ông nên tướng gì, điển hình là ông Lê Liêm. Tôi cũng gặp may nhờ sự... vô tổ chức của Vụ Tổ Chức lúc bấy giờ. Số là trong lúc tôi đang lang thang cùng đoàn kịch Tổng Cục đi khuyếch trương sự thành công của Đại Hội thì có lệnh: “Giải tán đoàn văn công quân khu IV, sáp nhập vào đoàn khu V cùng đóng quân ở Nghệ An”! Dàn nhạc và một số nhóm ca, múa được lọc ra, ai khá nhất thì đưa về Tổng Cục, số còn lại cho...chuyển ngành hoặc giải ngũ. Thế là cái giờ mong đợi của tôi đã tới. Nhưng vì tôi là người của quân khu IV nên nỗi lo phải trở về quân khu để nhận lệnh điều động, lấy giấy tờ, làm thủ tục vẫn còn đó. Tương lai chẳng hứa hẹn điều gì may mắn bởi văn nghệ sĩ chúng tôi chẳng là cái quái gì với cái Phòng Chính Trị, cái Ban Tổ Chức quân khu. Ở đó người ta chỉ căn cứ vào cái lon trung úy tôi đã đeo 6 năm nay để phân công tác mà thôi, chưa nói đến trò ác ý: Cho tên “trí thức tiểu tư sản” đi...“thực tế lao động, tạo điều kiện cho đồng chí đi sát thực tế, sát cuộc sống hơn!” như từng áp dụng với nhiều văn nghệ sĩ khác. Nói trắng ra là không cho mày làm văn nghệ nữa! Tôi lại chạy đến ông Lê Liêm, lại trình bày những điều kiện thuận lợi và khó khăn của tôi, nếu trở về Quân Khu. Lúc này chính là lúc Ban Bí Thư trung ương Đảng đang có chủ trưởng cải tổ toàn diện các tổ chức văn nghệ ngoài quân đội sau vụ Nhân Văn rồi vụ “Hậu Nhân Văn” (báo Văn) bằng cách tăng cường một số cán-bộ-đảng-viên-văn-nghệ-sĩ-quân-đội sang các cơ quan bộ Văn Hóa và các Hội. Nhân danh Ban Tuyên Huấn Trung ương đảng, ông Lê Liêm đã ký quyết định điều động một loạt văn nghệ sĩ đảng viên quân đội về các nhà xuất bản, báo chí, trường nhạc, các hội nghệ thuật...Nhờ quyết định này mà những Từ Bích Hoàng, Vũ Cao, Vũ Tú Nam, Hà Mậu Nhai, Hà Minh Tuân, Tô Hải... được “biệt phái” từ quân đội sang các cơ quan khác. Chao ôi! Mừng như được về Sài Gòn với cha mẹ và 6 đứa em tôi.
Tuy nhiên tôi vẫn lo cho hai chữ “tăng cường”. Liệu tôi có trở thành “tội phạm văn nghệ” với nhiệm vụ mới không? Tôi sẽ là “nhạc sĩ đích thực” hay tự biến mình thành một tên “sen đầm văn nghệ”? Cân nhắc mãi, cuối cùng tôi chọn Nhà Xuất Bản Âm Nhạc và Mỹ Thuật, nơi có phòng dành cho cán bộ không nhà cửa. Nhà xuất bản này ở số 94 Tô Hiến Thành, chỉ mấy bước là tới nhà tập thể 51 Nguyễn Bỉnh Khiêm, nơi ở của vợ tôi lúc này đã trở thành diễn viên Đoàn Kịch Nói Trung ương, sau khi tốt nghiệp lớp đào tạo nghiệp vụ dưới sự hướng dẫn của đạo diễn Liên Xô Vaxiliép. Tôi trở thành “nhạc sĩ dân thường” từ đó.
Cất biến sao, mũ, quân hiệu, quân hàm...,tôi thành cán bộ biên tập nhạc với mức lương trung úy biệt phái (mất phụ cấp thâm niên theo qui định) suốt 15 năm cho tới “ngày giải phóng” miền Nam 1975 trong cái cơ quan luôn thay tên, đổi chủ đến chục lần. Lúc tách, lúc nhập, lúc mang tên Mỹ Thuật Âm Nhạc, lúc Âm Nhạc riêng, Mỹ Thuật riêng, lúc lại thâu tóm cả Văn Chương vào để thành nhà xuất bản Văn Hóa, sau cùng là nhà xuất bản Văn Nghệ. Mỗi cuộc thay đổi đều kéo theo các cuộc đấu đá để giành giật những chiếc ghế giám đốc, trưởng phòng. Tôi đã thừa kinh nghiệm để không nhận bất cứ chức vụ gì, thậm chí luôn luôn tự hạ mình: “Chớ giao cho tôi lãnh đạo mà hỏng hết việc đấy!” Tôi quyết không rời mục đích đặt ra là sẽ cho tất cả chúng mày, những thằng nhân danh Đảng của chúng mày, nhân danh quan điểm lập trường vô sản của chúng mày để dìm tao xuống đất đen, cho chúng mày thấy “Tao có đủ khả năng tự vươn lên và vươn lên trên mọi mặt, chẳng cần đến cái đồng lương của Đảng!” Trước mắt, tôi phải lo thu vén, tập hợp lại cái gia đình khốn khổ từ lâu tứ tán khắp nơi. Lòng tự ái và ước muốn “làm cho chúng nó biết tay”, “cho chúng nó tức điên lên” thúc đẩy tôi thực hiện được một số việc mà người khác có khi bỏ ra cả 5, 10 năm chưa chắc đã làm nổi. Đó là gây được một uy tín chuyên môn giữa đất thủ đô và tạo nên một tổ ấm gia đình, khá đầy đủ tiện nghi, nằm chềnh ềnh giữa một phố lớn! Cũng chính cuộc đua tranh tương đối tự do hơn trong đời “lính tăng cường” này đã cho tôi nhận thức được cuộc đời “hèn sĩ” của tôi chƣa thể chấm dứt! Tôi sẽ trở thành “mạt hạng” hơn nếu làm đúng vai trò “tăng cường lãnh đạo”, nghĩa là tìm mọi cách tiêu diệt nhân tài, hạn chế tối đa cái gì là Chân, Thiện, Mỹ. Tôi cũng có thể nhân dịp này, vĩnh viễn rời bỏ vai trò “lãnh đạo” mà từ lâu, tôi vô cùng xấu hổ khi nghe được bao điều “kể tội cộng sản” mọi nơi, mọi lúc, đặc biệt từ sau cải cách ruộng đất và sau vụ đàn áp anh em Nhân Văn Giai Phẩm. Cái “tít” đảng viên từ những năm 1960, đã manh nha mang theo quyền và lợi như đi học nước ngoài, đề bạt lên chức, lên lương nên đảng viên đối với quần chúng, là kẻ ăn trên, ngồi trốc, vô tài bất tướng và đáng ghét nhất. “Âm mưu” tự khai trừ mình khỏi Đảng bắt đầu từ những năm 1960 đã được tiến hành êm đẹp. Nhưng đó là chuyện về sau còn lúc này muốn gì thì gì, tôi phải tiếp tục hoàn thành cái nhiệm vụ Đảng giao là “tăng cường lãnh đạo”! Nghĩa là, tôi phải cố gắng sắm nốt vai kịch “hèn sĩ” một thời gian nữa trong các vai càng phụ, càng mờ nhạt càng tốt. Hơn thế, vì biết ơn những người đã ra tay cứu vớt tôi khỏi cái địa ngục văn nghệ quân khu IV, tôi cũng chưa dám có hành động gì để làm họ phiền lòng vì “sản phẩm tăng cường” của Quân Đội mà họ giới thiệu lại là thứ...“khó nhai” sao? Chính nhờ họ, tôi đã trút được cái “mác quân nhân cách mạng”, nhảy vào một sân khấu cuộc đời lớn hơn, rộng hơn tuy cũng lúc nhúc đủ loại “diễn viên”, trung có, gian có, mặt đỏ, mặt xanh, mặt trắng, đủ mọi mầu sắc. Với cảnh chân ướt chân ráo trở lại “sân khấu” lớn Hà Nội một cách cực kỳ may mắn, tôi cố sắm một vai hết sức phụ trong xã hội: Làm một công chức tốt trong cơ quan và làm một nhạc sĩ thực thụ ngoài đời, không mơ tưởng tơ hào địa vị gì, dù nhỏ nhất. Tôi cố tạo cho mình thành thứ “chẳng đáng quan tâm” của... bất cứ ai, trừ những nhà hát, các xưởng phim, các đoàn văn công lớn, nhỏ đang xô đến gõ cửa số nhà 26B phố Huế của tôi! Thế là đã quá đủ, quá tốt, quá hạnh phúc rồi! Vậy là nhờ cái vô tổ chức của tổ chức giữa ba hệ thống Đảng – Chính Quyền – Quân Đội, tôi từ một “quân nhân nhạc sĩ đảng viên” bỗng được quyết định của Trung ương Đảng điều về tăng cường cho bên chính quyền, khi đang công tác tại đoàn kịch Tổng Cục Chính Trị. Mặc dầu có quyết định do trưởng ban Tuyên Huấn (nay là ban Văn Hóa Tư Tưởng) đóng dấu hình chữ nhật hẳn hoi, nhưng giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng từ cơ sở thì tôi... không có! Lý do: muốn có mảnh giấy này tôi phải trở về Quân Khu đối mặt với hàng ngàn khó khăn phức tạp, thậm chí có thể bị ngăn cản sự ra đi quá tốt đẹp này, dù họ chẳng có chút gì ưu ái muốn giữ tôi ở lại! Một ý đồ táo bạo đã hình thành trong tôi. Sau khi trao đổi với một số bạn cùng chí hướng, cái ý đồ nung nấu từ lâu nhưng không tìm được lối thoát nay đã có thể thực hiện: Tranh thủ cơ hội có một không hai này rời bỏ ngay hàng ngũ những kẻ “tiên phong ăn gian nói dối” một cách an toàn, hoặc ít thương tích nhất. Việc “đảng viên xin ra Đảng” còn tệ hơn “đảng viên bị khai trừ”. Cả hai đều là tai họa khôn lường chẳng những cho tôi, mà còn cho cả vợ con tôi nữa. Cách Đảng đối xử với những người “ly khai” kiểu Hữu Loan, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng... nham hiểm, phi nhân tính thế nào luôn là lời cảnh cáo cho ai có tư tưởng đã vào Đảng lại bỏ Đảng hoặc bị Đảng khai trừ. Ngay cả dư luận xã hội (được Đảng nhào nặn) cũng lên án những người như thế, coi là “phần tử nguy hiểm”, thậm chí không bằng “quần chúng bình thường”. Chết nỗi, đã là văn nghệ sĩ đảng viên thì khó có ai không bị mắc bẫy cộng sản không ít thì nhiều? Trừ những tên “cốt cán” khốn nạn, cho tới hôm nay vẫn “tọa hưởng kỳ thành” những “quả thực” của chế độ, vẫn tiếp tục bốc thơm cái chủ nghĩa diệt chủng bị cả loài người lên án, còn có biết bao người chỉ vì muốn tồn tại mà phải sống hèn, nghĩ hèn và làm việc cũng hèn suốt bao năm trời! Tôi nghĩ tới những lần phải cắn răng nín lặng trước hành động giết người, kể cả giết những đồng chí, bè bạn tôi trong các cuộc chỉnh Đảng, chỉnh quân, nhất là trong “cải cách ruộng đất”. Tôi nghĩ tới số phận những người thân, họ hàng và bao người quen biết bị cướp sạch nhà cửa, của cải trong các thứ cải tạo này nọ, hết “cải tạo công thương” đến “cải tạo tư sản.” Tôi nghĩ tới bao đồng nghiệp, đồng khóa đã bị mất hết chỉ vì bị...địch bắt trong chiến đấu hoặc do có những ý tưởng, những sáng tạo khác người như trường hợp một số đồng nghiệp trong nhóm Nhân Văn, Đất Mới. Tôi lại nghĩ tới những vị tá, tướng, những bà mẹ nuôi bộ đội suốt cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp cuối cùng bị đấu tố, bị truy bức bằng những trận đòn hội chợ rồi bị bức tử, bị xử bắn bởi các tòa án của mấy ông bà nông dân... Tôi ôn lại cả quá trình tôi đã sống hèn thế nào khi trên cương vị đảng viên phải cắn răng chấp hành nghị quyết chi bộ do ba tên cấp ủy vô học lãnh đạo... Vậy mà, “đảng viên Tô Hải” đã thoát chết, thậm chí còn được tín nhiệm để “tăng cường lãnh đạo” cho bên “nhân dân” nữa! Những câu hỏi đặt ra với tôi lúc này là có nên tiếp tục sống hèn, sống “vâng, dạ” mãi để tồn tại không? Có nên cùng chịu trách nhiệm với những kẻ đang nhân danh Đảng mà nhắm mắt tô hồng mãi cái chủ nghĩa khùng điên, vô học, vô đạo, vô lý, vô luân mãi không? Nhất là mọi thông tin về chủ nghĩa cộng sản, với câu khẩu hiệu khôi hài “Prolétaires de tous les pays, dispersez-vous!”[10] đã tràn lan khắp thế giới. Tôi nghĩ đến các vụ Khrushov công khai vạch tội Stalin trong đại hội đảng CSLX, tiếp đến vụ đàn áp đẫm máu ở Budapest, vụ xe tăng Liên Xô tiến vào Praha.. Nói trắng ra là tôi quá ngán những lời hứa hẹn hão huyền, phi lý, phản khoa học... của những người cộng sản cuồng tín hay cuồng quyền lực? Tôi thấy phải từ bỏ không thương tiếc cái tổ chức bắt tôi gật đầu theo mọi chỉ thị, kể cả gật đầu đồng ý bỏ người vào tù không xét xử. May là tôi chưa gặp trường hợp phải giơ tay đồng ý bắn ai bao giờ. Chỉ đứng ngoài Đảng, tôi mới có điều kiện để nghĩ và làm theo ý mình. Tôi cho rằng với tài năng của mình, lúc bấy giờ, dù ra khỏi biên chế Nhà Nước, tôi cũng thừa sức sống, chẳng lệ thuộc vào cấp ủy nào, vào bè phái nào. Tôi sẽ không còn phải đi họp những cuộc họp phổ biến các nghị quyết thu hồi ruộng đất vừa mới chia xong tay cho nông dân để bắt họ vào các hợp tác xã, “đưa vào tập thể” mấy cái máy khâu tàng của những cửa hiệu may, tịch thu cửa hàng của những người bị coi là giàu có sau khi chụp cho họ cái mũ tư sản, “kẻ thù giai cấp”...Còn cả ngàn vạn chuyện vô lý, cả ngàn vạn tội ác tầy trời nữa nhưng không một cá nhân, một Bộ Chính Trị, một Ban Bí Thư nào có lời xin lỗi nhân dân hoặc có một văn bản nào công nhận cái quá khứ đầy tội ác với Đất Nước với Lịch Sử! Những sửa sai lặt vặt về sau như phục hồi danh dự muộn màng cho những ông như Kim Ngọc, bí thư Vĩnh Phúc, như Nguyễn Hữu Đang... hoặc kết nạp lại Hoàng Cầm, Lê Đạt vào Hội Nhà Văn, cho in tác phẩm của Trần Dần, Phùng Quán... đều được lặng lẽ làm, cũng như đã lặng lẽ đưa những Hoàng Minh Chính, Vũ Thư Hiên [11], Lê Huy Vân[12] vào tù chẳng cần xét xử... ! Có thể nói chưa bao giờ tôi có dịp kiểm điểm bản thân trên cương vị đảng viên sâu sắc đến như vậy, chưa bao giờ tôi nhận ra mình chính là “kẻ vừa có tội vừa là nạn nhân” rõ ràng đến thế và tôi mong được trở lại đứng trong hàng ngũ 70 triệu quần chúng nhân dân như trong những ngày hiếm có trong đời này. Vậy thì, nhân cơ hội Trung ương giới thiệu mà cơ sở (chi bộ) lại chưa giới thiệu này, sao không tranh thủ “đào thoát”? Nhưng quả thật, tôi cũng hơi...“hốt” và chưa dám thôi tiếp tục...sống hèn!
Thế nhưng như thể Trời định, khi tôi toan trở về Quân Khu lấy giấy tờ, làm thủ tục đi khỏi đấy thì đơn vị của tôi đã giải tán! Một số, kể cả chính trị viên kiêm bí thư Đồng Ngọc Vân được tướng Hoàng Minh Thi, “kẻ tử thù của văn công Quân Đội” ra quyết định điều về đoàn ca múa Tổng Cục Chính Trị và được đề bạt...tổng đoàn trưởng lãnh đạo luôn ba bốn đoàn ca múa, kịch, cải lương.
Thật ra, cũng có một lần, do bị thúc bách quá, tôi đến gặp ông bí thư cũ khi ông đã chuyển hẳn về Hà Nội, ngỏ ý “xin” ông xác nhận cho tôi là “đảng viên”. Ông không những không đùn đẩy trách nhiệm cho hết Tổng Cục Cán Bộ lại Ban Tổ Chức Quân Khu theo thói thường, để thoái thác, mà còn lên giọng ghép tôi vào tội “vô tổ chức” khi “hai, ba lần có lệnh Quân Khu gọi mà không “về” nên bây giờ mới xảy ra tình trạng mất liên lạc thế này! Dù sao thì điều kiện để thoát khỏi tiếng “phản Đảng” đã có. Tôi liền đưa ông giám đốc kiêm bí thư Đảng nhà xuất bản Âm Nhạc và Mỹ Thuật Nguyễn Đình Tính tới gặp ông bí thư cũ của tôi để ba mặt một lời cùng xem xét sự vụ. Kết luận: “Rõ ràng đồng chí Tô Hải vẫn thiết tha với Đảng. Mọi trục trặc giấy tờ có gây hậu quả thế nào, đồng chí Tô Hải cũng không phải chịu trách nhiệm vì đã báo cáo tổ chức”. Từ đó chỉ còn chuyện xác minh xem tôi có “vô tổ chức” hay không, khi tôi lần chần không quay lại Quân Khu làm mọi thủ tục cần thiết? Và trong chuyện tôi chuyển công tác, ai là người có quyền điều động?
Chuyện này đã làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực, công văn đi, lại suốt hai ba năm trời giữa các cơ quan gồm nhà xuất bản, bộ Văn Hóa, Tổng Cục Chính Trị, Quân khu IV... May cho tôi, chính sự ngu dốt và quan liêu, chính cái thứ trách nhiệm chẳng ai chịu trách nhiệm còn tồn tại đến hôm nay đã đẻ ra một trường hợp không tiền khoáng hậu: Tôi trở thành một “quần chúng có sinh hoạt đảng”. Cứ như thế, tôi tiếp tục sống “lửng lơ con cá vàng”. Họp đảng viên văn nghệ sĩ thì Tuyên Huấn Trung ương triệu tập. Họp chi bộ cơ sở thì...còn chờ giấy giới thiệu của đảng ủy cơ sở cũ “đang” ở quá trình giải quyết! Chẳng phải đảng viên cũng chẳng phải quần chúng. Điều lợi ngay trước mắt là tôi được miễn mọi trách nhiệm để chỉ chuyên tâm làm nghề... Tuy nhiên, mở đầu một giai đoạn mới, vào một vai mới, trên một sân khấu mới, với những bạn diễn mới, cái gì đang chờ đợi tôi? Liệu sự đánh đổi lấy tự do, liệu ý định sống “đờ-mi-hèn” của tôi có thành hiện thực, có xứng đáng với sự trả giá của tôi, của gia đình tôi hay không?


[1] Charles-Louis Hanon (1819–1900), nhạc sĩ sáng tác, thầy giáo đương cầm nổi danh người Pháp.
[2] Carl Czerny (1791-1857), nhạc sĩ sáng tác, thầy giáo đương cầm, tác giả nhiều sách giáo khoa âm nhạc nổi danh người Áo gốc Séc.
[3] Thuận Yến, tên thật Đoàn Hữu Công (1935), nhạc sĩ.
[4] Tổng Cục Chính Trị.
[5] Hoàng Hiệp, tên thật là Lưu Trần Nghiệp, bút danh là Lưu Nguyễn (1931), nhạc sĩ, có những ca khúc được nhiều người biết như Lá Đỏ, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Cô Gái Vót Chông…
[6] Hồng Đăng (1936), nhạc sĩ với các ca khúc Hoa Sữa, Lênh Đênh, Biển Hát Chiều Nay…
[7] Doãn Nho (1933), nhạc sĩ, đại tá QĐNDVN được biết tới với những ca khúc Tiến Bước Dưới Quân Kỳ, Người Con Gái Sông La, Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Chiếc Khăn Piêu...
[8] Tiếng Pháp: faux – sai, lạc điệu.
[9] Chính nhạc sĩ Đỗ Nhuận còn phải đăng ký máy dưới danh nghĩa cơ quan Hội Nhạc Sĩ.
[10] Vô sản tất cả các nước, hãy buông nhau ra! (tiếng Pháp).
[11] Vũ thư Hiên (1933), nhà văn, nhà báo, bị tù trong vụ “nhóm xét lại chống Đảng” (1967-1976). Từ 1997 sống tại Pháp, được biết đến nhiều qua tiểu thuyết Miền Thơ Ấu, hồi ký Đêm Giữa Ban Ngày.
[12] Huy Vân (1931-1969?), đạo diễn điện ảnh với phim Một Ngày Đầu Thu, bị tù trong vụ “nhóm xét lại chống Đảng”(1968-1973).


Mời Bạn Xem Tiếp
Phần 2: HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN (part 2)
Phần 3: HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN (part 3) (và tải file trọn cuốn Hồi Ký ở cuối trang này)

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...