CHƯƠNG CHÍN
CHIẾN TRẬN ĐẪM MÁU Ở XUÂN LỘC
Ngày Thứ Sáu, 11 tháng Tư
Lần nầy thì sắt thép đụng nhau rồi ! Đụng rất nặng ở Xuân Lộc.
Câu chuyện bắt đầu từ đêm thứ tư đến ngày thứ năm 10/4 bằng một cuộc pháo kích dọn đường rất dữ dội : 2000 quả đạn pháo và hỏa tiễn đã được rót xuống thành phố. Vào lúc hừng sáng, 2000 đặc công cộng sản có chuến xa T.54 yểm trợ đã mở cuộc xung phong vào Xuân Lộc . Đến 8 giờ, coi như họ đã chiếm được ba phần tư thị trấn, trong khi có 2 trung đoàn đang đánh bọc vào 2 bên sườn.
Suốt cả ngày hôm qua, chiến trận đã hoành hành khốc liệt. Nhưng chúng tôi chỉ được biết vào hồi 7 giờ sáng sau giờ chấm dứt thiết quân luật. Vừa biết được hai bên đã đụng nhau ác liệt, tôi đi ngay lên Biên Hòa, đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Quân Đoàn lo cả phòng thủ cho Sai Gòn. Tại đây tôi đã gặp Trung tướng Toàn, một người lớn con vạm vỡ từng theo học ở trường Thiết Giáp Kỵ Binh Saumur ở Pháp. Ông có tính nóng nảy nhưng là một người thích ra trận, nhất là tấn công. Vào năm 1972, chính ông đã bẻ gãy tất cả các trận tấn công của cộng sản Bắc Việt vào Cao Nguyên. Ông vừa mới từ mặt trận trở về bằng trực thăng. Các sĩ quan tham mưu vây quanh ông để nhận lệnh. Ông nói với họ vài ba câu xong ra hiệu cho tôi và nói :
-" Rất vui mừng được gặp lại anh ở đây, anh Pierre . Nhưng chắc tôi không có thì giờ để lo cho anh đâu. Nếu anh muốn đi xem thì anh hãy lên Ngã ba Biên Hòa rồi từ đó nhảy lên một chiếc cam nhông nào đó để lên thẳng Trảng Bom. Nhưng hảy cẩn thận nghe. Nặng lắm rồi đó."
Tôi biết rất rõ vùng Xuân Lộc. Từ năm 1947 đến 1948 tôi đã đi hành quân trong tiểu khu nầy ròng rã cả năm với toán đặc công của tôi. Vào thời kỳ đó, Xuân Lộc chỉ là một thị trấn nhỏ với khoảng vài dãy phố chừng 50 căn nhà gạch liền vách nhau hai bên chợ có nóc, và trên trăm nhà lá. Ga xe lửa là trạm dừng chân của đoàn "tàu thiết giáp", một đơn vị "an ninh thiết lộ" của lê dương xâm mình, được trang bị loại đại bác Bofor và liên thanh nồi, nối liền Sai Gòn với miền Nam Trung Phần.. Dinh ông quận trưởng hành chánh người Pháp được tô điểm bằng một dàn hoa leo, nằm đối diện với trại "lính kỷ luật" , một đơn vị tập trung các binh sĩ nhiều lần bị kỷ luật, mà chỉ có một cơ may trở về đội ngũ của mình bằng một huy chương tưởng thưởng trong tác chiến. Xa xa về phía trước là một bộ phận của Hiến Binh lưu động, và đơn vị thân binh người Thượng, tất cả đều trú đóng trong một thành có tường đá bao quanh. Lúc bấy giờ tiểu khu nầy cũng không yên lắm đâu. Đã có nhiều trận phục kích, tấn công đoàn tàu hỏa hay đoàn xe trên quốc lộ vì hai bên đường đều có rừng hay đồn điền cao su của hảng SIPH (đã trồng 20.000 mẫu và đang khai thác 12.000 mẫu), và cao nguyên Bình Lộc với cỏ voi lá bén như dao cạo, với tre to và rừng cây già.
Từ đó thị trấn nầy đã lớn lần ra. Hằng ngàn dân tỵ nạn rách như bươm, người thiên chúa giáo từ Miền Bắc đến định cư ở đây vào năm 1954. Chủ đồn điền ở đây đã cho các cha xứ 120 mẫu đất không lấy tiền để cất một ngôi thánh đường, một ngôi trường đạo và một nhà ở cho Linh mục do Sai Gòn bổ nhiệm. Quận cũ được cải biến thành quận lỵ của tỉnh, với một bệnh viện tối tân, và một dinh thự cho vị tỉnh trưởng, một nhà bưu điện, một trung tâm học vụ và một sân vận động. Dân tỵ nạn từ Miền Bắc vào đã xây nhiều ngôi nhà xinh xắn bằng gạch, nhiều căn nhà có dàn cho hoa leo, họ cũng đã mở ra hàng trăm tiệm buôn bán và xưởng mỹ nghệ. Một sư đoàn lính Mỹ đã đóng quân ở đây ba năm, đã xây cất một phi trường và nhiều doanh trại với đầy đủ tiện nghi. Xã đã biến thành thị trấn, và một thành phố trù phú đang sinh hoạt với 60.000 dân, nơi đây hằng ngày đều có hàng loạt "xe be" chở cây lóng và các xe rau cải đi về Sài Gòn.
Bây giờ thì chiến tranh làm vỡ tan hết tất cả dưới một cơn bảo thép. Tôi đã đến đây không biết bao nhiêu lần rồi. Tôi đã thuộc hết hình ảnh của Xuân Lộc nầy, và những tiếng ồn ào ở đây, tiếng gầm của các khẩu pháo binh đang tác xạ làm rung chuyển mặt đất, tiếng rít khô khan và sắc bén của những viên đạn bắn đi với những chùm lửa, chùm sắt thép làm nát hết thân người và ném các mảnh xương thịt đó đây vung vãi....trên mặt đất.
Bây giờ là 9 giờ sáng rồi, trời cũng đã quá nóng, mặc dù có dồn điền cao su thường giữ được độ mát nhờ có bóng râm. Trước khi vào Trảng Bom, cảnh sát dã chiến có dựng lên một hàng rào chữ chi để kiểm soát mọi sự lưu thông, tiếng súng bắn chỉ thiên thay cho tiếng tu hít., tôi xuống xe, kiểm soát xong tôi tiếp tục tản bộ đi về phía trước khoảng 100 thước.
Thị trấn rất yên tĩnh và cần cù siêng năng nầy được thu hẹp chung quanh những cơ sở lớn sơn màu vàng được lợp ngói đỏ, thuộc công ty đồn điền SIPH, (nhà máy, văn phòng, trung tâm truyền thanh, nhà của giám đốc v.v..). Các anh thợ rèn và thợ mộc, cởi trần trùng trục đang tiếp tục làm việc trong mấy căn chái dựa hai bên đường. Tôi cố gắng tìm một đồn cũ của người Pháp hồi trước, nằm về bên phải của ngôi chợ. Vào năm 1948, đồn nầy được một đại đội binh sĩ dưới quyền của trung úy Suako, một lực sĩ người đảo Antilles, với bộ mặt cứng rắn đến hung dữ, một tay thiện chiến, đã từng làm chủ mảnh đất nầy trong vòng 30 cây số chung quanh, thiện chiến đến độ Việt Cộng phải sợ và đặt cho anh ta cái tên là "beo đen". Dĩ nhiên cái đồn nầy không còn nữa. trung úy Suako đã chết và trong 25 năm nay, cuộc chiến đã thay đổi hẳn bộ mặt của nó, nhưng nó vẫn còn ở đây. Dữ dội hơn và gây chết chóc nhiều hơn! Một pháo đội 105 ly đặt sau hàng cây đã bắn đi một tràng. Một chiếc xe Jeep vừa hụ còi vừa đi qua. Một sĩ quan đứng bên cạnh tài xế khoát tay. Đoàn xe tiếp tục lăn bánh, tôi lại lên xe và tiếp tục đi.
Quốc lộ đi qua nhiều làng mạc, có rào đóng kín và bên trong có nhà thờ. Hầu hết dân làng đều là dân "di cư", tỵ nạn từ Miền Bắc . Các cụ già thản nhiên im lặng ngồi nhìn binh sĩ đi ngang qua trước nhà. Các trẻ em thì cứ nô đùa, các bà thì đang đập lúa. Cả một dảy nhà gỗ là của người "Nùng", những người rạm nắng di cư vào đây từ miền Thượng Du Bắc Việt, giáp giới với Trung Quốc. Họ là những người nhai thuốc lá và cũng thích "sơi" thịt cầy, có truyền thống làm giặc hay cướp biển, không sợ Trời, không sợ quỷ thần, không sợ Việt Cộng, và cũng không sợ sen đầm nốt!
Tuyến phòng ngự thứ nhất nằm ở phía trước Trảng Bom chừng 10 cây số. Từ đó trở đi, thình lình không khí thay đổi hẳn. Hai bên đường vốn được khai quang sạch sẽ khoảng 100 thước bề sâu cốt để tránh bị phục kích, có nhiều chiến xa hạng nặng và thiết vận xa đang tuần tiễu dọc theo các bờ chuối trong bìa rừng. Chung quanh một công sự đổ nát, trên một chục khẩu pháo binh 105 ly đang tác xạ, làm tung bụi lên mù mịt. Giữa một khoảng trống có đánh dấu bằng khói màu, các trực thăng khổng lồ "chinook" đang thả xuống nhiều toán binh sĩ mặc quân phục Biệt động quân, đội mũ nâu, mang đầy mình đạn dược và lựu đạn.. Một đoàn chiến xa M41 với cờ đuôi nheo cột trên ăng ten, đang di chhuyển về hướng mặt trận.
Rồi lại đến lượt các binh sĩ thuộc binh chủng Nhảy Dù với quân phục xanh lá cây, mủ đỏ, súng tự động M.16 cầm tay. Chúng tôi gặp hai xe cam nhông chở thương binh, chỉ được băng bó sơ khởi, như những bóng ma, máu me bê bết, nằm la liệt chồng chất lẫn lộn lên nhau.
Chúng tôi đi được thêm 5 cây số nữa thì phải ngừng lại.Tiếng súng nghe như gần bên rồi. Những tiếng nổ ròn của đại liên nghe rất rõ cùng với tiếng tác xạ ầm ầm của pháo binh. Chiến xa dẫn đầu, sau đó là các xe Jeep và xe 4/4 chở Biệt động quân. Tôi nhảy xuống xe vá quyết định đi tới trước với toán binh sĩ nầy. Biệt động quân là các đơn vị tiếp viện, hành quân từng tiểu đoàn 600 người gồm phần đông là binh sĩ lớn tuổi, già kinh nghiệm chiến trận và không biết hốt hoảng. Tôi lên một xe 4/4, ngồi cạnh đại úy Niệm . Trong khi di chuyển ông kể cho tôi nghe một vài câu chuyện. Đại đội của ông từ Chơn Thành về, ở đó ông và đại đội đã chiến đấu suốt 16 ngày liền và chỉ về nghỉ xả hơi được có 48 tiếng đồng hồ là phải ra trận nữa đây.
Lực lượng cộng sản được tung vào mặt trận Xuân Lộc rất là quan trọng : 3 sư đoàn Bắc Việt được tăng cường 1 trung đoàn chiến xa T. 54 và được khoảng 30 khẩu pháo 130 ly và 152 ly viện trợ từ Liên Xô.
Đối diện với lực lượng tấn công của cộng sản, phía Chánh Phủ chỉ có sư đoàn 18 bộ binh của tướng Lê minh Đảo, 1 lữ đoàn Dù, 5 Liên đội Biệt động quân và lữ đoàn 3 Thiết giáp của tướng Trần quang Khôi.
- "Chúng tôi được lệnh phải đến Xuân Lộc bằng mọi giá", đại úy Niệm kết luận với tôi như thế. Và chắc không dễ dàng lắm đâu. Trước mặt chúng ta là sư đoàn 6 Bắc Việt . Chính sư đoàn
nầy, cách đây 3 ngày, đã tấn công vào ngã ba Suzannah, các xã chung quanh đó, nhà máy và trung tâm đồn điền nầy,. Hai tiểu đoàn Dù đã phản công đêm nay và đã chiếm lại ngã ba nầy. Cộng sản Bắc Việt đã có chiến xa yểm trợ và tổn thất nghe đâu cũng nặng lắm. Nhưng lực lượng Dù vẫn bám đất. Chúng tôi chắc phải xuống xe và phải đi bộ chừng 10 cây số, vòng qua ngã
ba Suzannah mới tới Xuân Lộc được ."
Đoàn xe chúng tôi đến gần Suzannah. Và chúng tôi lọt vô luôn giữa chiến trận. Những tràng đạn pháo binh, bách kích, hỏa tiễn chém nát mấy ngọn cây và mảnh đạn ghim xuống đường. Anh em Biệt động quân bỏ hết xe và tiến lên theo hướng thị trấn. Họ chia ra làm 3 toán, họ tiến lên từng đoạn ngắn, súng cầm tay. Bên trái và bên phải chúng tôi những hàng cây cao su đều đặn và thẳng tấp tạo nên những hành lang tranh tối tranh sáng. Suzannah là một đồn điền xưa nhất trong vùng, có khoảng 3.500 mẫu và 300.000 cây cao su. Đồn điền được chia ra thành từng lô 100 mẫu có đánh số...... Dửng dưng với chiến sự và mặc cho sự ồn ào của đạn súng, lén lén và yên lặng các phu đồn điền vẫn tiếp tục công việc cạo mủ của họ, dao đục mang ở lưng và thùng đựng mủ xách tay, họ không buồn nhìn lên khi chúng tôi đi ngang qua họ.
Chúng tôi tiến lên trong một khung trời mờ ảo, đi dưới một vòm lá xanh um rợp bóng nửa tối nửa sáng có nơi biến màu đất đỏ dưới chân thành màu xám tro. Chúng tôi đi sâu thêm một đoạn nữa dưới những tàng cây. Không khí thấy đã ẩm ướt làm tôi khó chịu. Tôi tự hỏi không biết lúc nào bọn Việt Cộng nằm đâu đó trong vườn cao su rộng mênh mông nầy sẽ khai hỏa đây ? Nhưng vẫn chưa có gì xảy ra. Và chúng tôi tiếp tục tiến tới, hơn nửa giờ nữa. Và thình lình tiếng đại bác nghe như gần bên tai, đại liên thi nhau nhả đạn. Biệt động quân bắt đầu chạy tới, trăm thước, rồi hai trăm thước, một con đường mòn, một khoảng đất trống và đến con đường.
Chiến xa, xe vận tải .. cả một đoàn binh sĩ đang ở tư thế tác chiến. Họ thuộc sư đoàn 18 bộ binh của Miền Nam Việt Nam . Anh em Biệt động quân giải thích cho họ biết là chúng tôi từ đâu tới. Đoàn quân đi lại con đường đó nhưng lần nầy họ đi ngược lại, vì con đường đã trống trơn. Họ đang tìm cách bọc sau lưng bọn cộng sản Bắc Việt để liên lạc với đơn vị Dù.
Thành phố Xuân Lộc đầy khói và đầy những tiếng nổ. Tháp chuông nhà thờ bị nhiều quả đạn bắn bay hết một góc, nhà ga đang cháy. Các cột điện sập ngã đầy đường, giây điện bị đứt. Gần bên hông trường Nhà Dòng, hai khẩu pháo 105 ly đang bắn về hướng quốc lộ đi Phan Thiết. Khỏi chợ chừng 200 thước, súng liên thanh nổ từng tràng ngắn, xen lẫn vào lại có những tiếng nổ chát chúa của lựu đạn cầm tay. Thật khó mà có môt ý niệm về tình hình. Hai chiến xa M.48 có ống kính hồng ngoại tuyến bên hông pháo tháp đang tiến về phía chợ. Các binh sĩ Biệt động quân thì đang bố trí các ổ súng máy phía sau những đống gạch vụn của gần chục ngôi nhà đã sụp đổ bên phải của bưu điện . Họ cũng có một số súng phóng lựu M.79, một loại vũ khí tấn công nòng ngắn rất hữu hiệu trong thế cận chiến. Tôi ngồi phía sau một vách tường đã sụp đổ, và tôi sẽ ở đây suốt buổi trưa và tối nay.
Vào lúc 6 giờ chiều, một loạt hỏa tiễn rơi vào chợ. Năm, mười hay mười hai quả gì đó, nổ điếc cả tai.... và sau đó có tiếng la hét. Nhiều chị đàn bà và trẻ con rách rưới mình đầy máu vừa la vừa băng qua đường, chạy ùa về phía nhà dòng.
Ở về hướng Đông Bắc, chung quanh sân bay không còn nghi ngờ gì nữa, nghe có tiếng súng liên thanh nặng bắn liên hồi. Và đùng một cái pháo binh Bắc Việt nã ngay vào thành phố. Chúng tôi bị kẹp cứng trong vòng lửa đạn. Không thể đếm được là bao nhiêu quả. Cá nhân tôi chưa từng bị pháo kích nặng như vậy bao giờ. Các quả đạn pháo binh cày rất có hệ thống từng căn nhà một, căn nầy sập đến căn khác. Thành phố bị một cái bừa thép cày lên sới lại.. liên tục trong vòng 2 giờ đồng hồ. Không có môt bóng người nhúc nhích. Đêm đã bắt đầu xuống, trời nóng bức. Tôi không có gì để ăn, không có gì để uống, lại không có mũ sắt nữa ! Thật là không ổn tý nào!
Vào lúc 10 giờ , hai trái bom sáng nổ trên không trung và vô số ngôi sao sáng rơi xuống màn đêm như một cơn mưa ánh sáng... Tiếp theo đó là đạn pháo binh lại tiếp tục rơi xống thành phố. Lần nầy là pháo 130 ly. Tôi nghe tiếng đạn đi trên đầu chúng tôi ầm ầm như tiếng tầu hỏa đang mở hết tốc độ, và ngay sau đó là những tiếng bùng nổ tiếng nầy tiếp tiếng kia liên tục.. Đất cát, rồi đá sỏi, rồi lửa rồi miểng đạn bắn đi tung tóe khắp nơi..Và nổi lo sợ làm bụng quặn đau....
Đến khoảng nửa đêm thì ngưng pháo kích. Người tôi ướt đẩm mồ hôi. Có một sự yên lặng hoàn toàn trong vài giây... và thình lình tiếng dế nổi lên gáy đều đều môt cách kỳ lạ và bất lịch sự, vì chúng là những con dế mèn nhỏ bé đâu cần biết đến chiến tranh hay giặc giã là gì, cứ gáy cứ hát lên một cách bền bỉ và ngạo nghể để mà sống... Con người tìm cách giết lẫn nhau, dế mèn có gì đâu mà phải lo sợ !
Vào khoảng 3 giờ sáng, bóng đêm lại bất thần sáng rực lên. Bách kích pháo, súng liên thanh, súng tự động thi nhau nỗ. Từng đợt một, bộ đội Bắc Việt mỡ những cuộc xung phong . Tiếng hô "Tiến lên" nghe vang dội. Bấy giờ binh sĩ Biệt động quân mới xử dụng vũ khí của họ. Súng liên thanh thi nhau quét những làn sóng xung phong của địch, hàng ngàn tia lửa như điện chớp xé nát màn đêm... các khẩu đại bác pháo binh bắn trực xạ, bẻ gãy các đợt xung kích, làm im tiếng xung phong của địch. Chung quanh ngôi chợ, các chiến xa T.54 đang dùng đại bác bắn sập từng ngôi nhà. Chiến xa M.48 của Miền Nam chạm súng với họ trong một cự ly thật ngắn . Cảnh tượng trông thật là khủng khiếp. Với thân hình nặng nề màu xám và các đại bác nòng dài cứ lóe sáng lên mỗi lần tác xạ, gợi lên một trận chiến quái dị giữa những con voi khổng lồ.. Thật hoàn toàn là một trận đụng độ với nhau. Một trận mưa trái sáng soi tất cả chu vi phòng ngự bằng một ánh sáng mờ nhạt. Hai phi cơ võ trang C.119, được trang bị liên thanh điện tử (6000 viên phút). nhảy vào vòng chiến, tác xạ nhanh đến độ tai mình không còn phân biệt được từng tiếng đạn đi, người ta cứ tưởng đó là tiếng của một miếng tôn thiếc bị xé toẹt ra...
Vào tảng sáng, các phóng pháo cơ A 37 lại đến dội bom và bắn hỏa tiễn vào phía sau ngôi chợ và cả về hướng phi trường. Binh sĩ Biệt động quân ra khỏi hầm trú ẩn của họ, vừa tiến lên từng đoạn ngắn vừa ném lựu đạn. Tôi thấy có 3 người ngã xuống, và người thứ tư thì bị một loạt đạn vào đầu.
Đến 10 giờ sáng, tôi vẫn ở đằng sau bức tường của tôi. Tôi thấy hàng trăm binh sĩ Miền Nam đầu đội mũ sắt đang tiến tới . Một trung úy lúc đi ngang qua bức tường của tôi đã cho lệnh : " Có hơn trăm tên bộ đội chết bầm đang trốn trong bệnh viện, Mình phải đuổi bọn chúng ra ngoài."
Vẫn còn đạn pháo và vẫn có một số binh sĩ bị tung lên trời. Một chiến xa T.54 bị một phát đạn 105 bắn trực xạ giữa xích, đang cháy khói lên nghi ngút.
Có nhiều chiến xa M.48 đang yểm trợ cho bộ binh trước bệnh viện. Thời gian trôi qua..có nhiều tiếng hò reo và nổ ì ầm nhưng cũng có đôi lúc có sự yên lặng tuy ngắn ngủi. Và viện binh đã đến, Binh sĩ Miền Nam bắt đầu lục soát những căn nhà đổ nát bằng lựu đạn...
Đến 3 giờ chiều, lúc đã im hết tiếng súng trong thành phố thì tôi rời chổ núp của tôi. Thành phố coi như vẫn còn trong vòng kiểm soát của Miền Nam Việt Nam. Người ta bắt đầu kiểm điểm xác chết của quân Bắc Việt. Họ mặc quân phục xanh ô liu và đi giày "tơ nít" hiệu Bata bằng cao su. Tôi đếm được rải rác chừng 30 bị chôn nừa thân mình dưới những đống gạch vụn. Một toán nhỏ Biệt động quân đang đẩy trước mặt họ 3 tù binh, đội nón cối bằng mớp được bọc vải màu xanh, trên nón có gắn môt ngôi sao bằng đồng. Nom họ còn rất trẻ, cao lắm là 16 hay 17 tuổi. Một trong ba người đó bị thương ở vai. Xa hơn môt chút, có một T.54 bị hạ, nằm phơi xác dưới một góc mái hiên đổ sụp. Cách đó vài thước, trước một hiệu thuốc tây vỡ kính, có một chiến xa của Miền Nam pháo tháp mở rộng, đầu chiến xa bị một viên đạn bộc phá B.40, đứt hết xích, giống như một con quái vật nằm bất động. Tất cả những tiệm buôn chung quanh chợ đều bị đạn pháo binh quạt sập đổ xuống hết. Kim Long, một quán ăn lâu đời nhất của thành phố (nơi mà cách đây 30 năm binh sĩ của trung đoàn 22 bộ binh của người Pháp (22ème R.I.C.) thường đến đây để ăn hủ tiếu) đã sập chỉ còn là một đống gạch vụn bị cháy đen.
Bệnh viện chỉ còn là một cái vỏ nám đen vì khói. Rải rác trong sân là giường chiếu, dụng cụ y khoa, bô, bốc lẫn lộn khắp nơi với một số tử thi của bộ đội Bắc Việt mất tay mất chân mảnh vụn vung vãi ra cùng khắp.
Cạnh bên chợ về phía rừng, một xe ủi đất đang đào một đường dài độ một thước. Và anh em Biệt động quân đang xếp tất cả những tử thi và những gì còn rơi vãi trên chiến trường vừa qua. Một tuyên úy đi dài theo đó lẫm nhẫm đọc kinh cầu nguyện lần cuối cùng cho họ, sau đó xe ủi đất đẩy họ xuống hố và lấp đất lại.Tôi quay trở lại. Gần nhà thờ, dưới hai cây to mà cành lá đã gảy nát, có khoảng 30 binh sĩ bị thương nặng được cho nằm trên băng ca. Những chai huyết thanh được treo trên báng súng cắm thẳng đứng xuống đất bằng lưỡi lê, và từ đó các ống cao su truyền máu thẳng đến kim tiêm vào cho thương binh. Các y tá đang săn sóc cho họ và vừa đuổi ruồi cho họ vừa trò chuyện nho nhỏ với họ.
Tôi gặp tướng Đảo trước cửa Nhà Dòng. người ông nom ốm gầy , có vẻ mệt nhọc.
- "Chúng tôi đã đẩy lui được họ, ông nói. Đây là một thành quả tốt nhằm nâng cao tinh thần
cho anh em binh sĩ và cho cả hậu phương.. Họ bỏ lại 400 xác trên trận địa và chúng tôi đã hạ được 9 chiến xa T.54, bắt được 20 tù binh trong đó có 1 sĩ quan . Nặng nhất là chiến trận ở gần phi trường, và phía sau nhà ga.. Bây giờ thì trận tuyến đã phát triển ở hướng Bắc và hướng Tây, trên cao nguyên Bình Lộc và chung quanh Gia Kiệm. Anh em phi công báo cho biết là lực lượng cộng sản Bắc Việt đang tập trung mạnh lắm ở Giá Rai. Anh em Dù đã giải tỏa được ngả ba Suzannah rồi. Tất cả người Pháp ở đồn điền S.I.P.H. đều an toàn. Các đồn điền cũng không bị thiệt hại gì sau các cuộc đụng độ ở đó."
Gia Kiệm với 40.000 dân. là một thị trấn rất phồn thịnh được mọc lên hai bên đường đi Dalat, cách Xuân Lộc khoảng 15 cây số. Ở đây nhà cửa tiệm tùng sung túc nằm san sát bên nhau, có rào dậu, có lũy tre. Dân chúng toàn là người công giáo di cư từ Miền Bắc, một lòng với nhau. Không một người lạ mặt nào lẻn vào được ở đây. Nếu cộng sản Bắc Việt tấn công vào đây thì nhất định sẽ bị thiệt hại lớn.
Vùng Giá Rai, nơi các đơn vị Bắc Việt tập trung nhiều nhất, nhờ dựa lưng vào vùng rừng bụi của núi Chứa Chang, một ngọn núi đất cao khoảng 900 thước, trên đó có gần 3000 giống thảo mộc nhiệt đới mà Viện Khoa Học Sai Gòn đã ra công gìn giữ. Ngọn núi nầy là một đài quan sát rất lý tưởng, và dựa vào khu rừng của ngọn núi nầy, cộng sản có thể sẽ tung ra một cuộc tấn công mới từ phía Đông vào Xuân Lộc.
Vào lúc 5 giờ chiều có một chiếc xe vận tải nhẹ đi liên lạc với Trảng Bom. Tôi nhảy lên xe đó. Ngã ba Suzannah được đơn vị Dù trấn giữ, nằm kín trong hố cá nhân, và một số chiến xa thuộc lữ đoàn 3 Thiết Giáp. Có nhiều xe đã đi phía trước chúng tôi . Đi được khoảng 3 cây số, cách chúng tôi độ hơn 100 thước, một chiếc xe chở dân chúng bị trúng một quả đạn pháo. Tiếp theo tiếng nỗ chói tai là bụi, lửa bắn lên tung tóe. Cả chiếc xe và những người hành khách trên xe đều không còn gì cả ! Chỉ còn trên đường một chấm đen lớn, và vung vãi thịt xương tóc tai của người chết và mấy mảnh kim khí của hộp số.. Và như vậy là chỉ trong có một giây đồng hồ, mà trên 20 người dân vô tội đã bị xóa hẳn tên trong danh sách người Việt.
Ở Việt Nam chuyện đó xảy ra không biết bao nhiêu lần hằng ngày. Làm sao mà dân tộc nầy, một dân tộc đã bị quá nhiều đau khổ, chết chóc, đã từng bị xua đuổi khỏi thành phố của họ với đất đai làng mạc mồ mả bị tàn phá, mà người ta vẫn còn chém giết nhau mãi như vậy dai dẳng năm nầy qua năm khác một cách bền bỉ và dã man như vậy được ?
Ai sẽ là người chấm dứt được chuyện nầy vĩnh viễn một ngày nào đó, chấm dứt được cơn ác mộng đẩm máu và đáng ghê tởm nầy cho người dân vô tội?
CHƯƠNG MƯỜI
"CHÚNG TÔI KHÔNG HÈN NHÁT
CHÚNG TÔI KHÔNG SỢ CHẾT"
Thứ Hai, ngày 14 tháng Tư, 1975
Vừa là Chủ Tịch "Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam", một tổng liên đoàn rất hùng mạnh vừa là Phó Chủ Tịch Tổng Công Đoàn Công Giáo Quốc Tế, ông Trần quốc Bửu là một người rất có quyền lực và rất được kính nể. Ở vào trạc tuổi 60, người tuy có hơi gầy nhưng rắn chắc với đôi mắt sáng ngời, ông luôn luôn ăn mặc rất giản dị với chiếc quần dài màu xám và một chiếc áo bốn túi nhẹ bỏ ngoài.
Vừa tranh đấu cho lý tưởng quốc gia vừa tranh đấu cho công đoàn, bị lưu đày ra Côn Sơn trong thập niên 40, ở đó ông từng ở chung phòng giam với Lê Duẫn, hiện là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông đã vượt ngục và chỉ huy toán "đặc công 25" nổi danh của ông trong thời gian trên 5 năm kháng chiến chống Pháp.
Bị tướng một mắt Nguyễn Bình và đội an ninh chánh trị cộng sản hăm dọa tử hình, vì ông không chịu gia nhập đảng, ông về Sai Gòn năm 1951 và qua Pháp. Ở đó ông theo học khóa công đoàn từ 1952 đến 1954 ở đường Montholon, Ba Lê với Tổng Liên Đoàn Lao Công Pháp (C.F.T.C.).
Về lại Sai Gòn, ông thành lập Tổng Công Đoàn Lao Công Việt Nam (C.T.V.), nơi tập trung 85% lao công Việt Nam .
Tổ chức của ông rất vững mạnh, uy tín và đức tánh bình dân của ông trong giới cần lao đã giúp ông có nhiều sự nâng đỡ từ các công đoàn Hoa Kỳ. Cả phía cộng sản cũng muốn chiêu dụ ông. Lê Duẫn người đã từng ở chung nhà lao với ông ở Côn Sơn, bây giờ là tổng bí thư đảng CSV N đã gởi cho ông một bức thư riêng để yêu cầu ông đừng đứng chung với "bọn tư bản", phải giữ "thế trung lập" hoặc"về với chánh nghĩa cách mạng". Ông Bửu đã trả lời thẳng thừng: "Kinh nghiệm mà tôi đã có được với phương pháp của ông, và với lòng tôn kính của tôi đối với quốc gia dân tộc của chúng ta không cho phép tôi tin rằng chủ nghĩa cộng sản là giải đáp duy nhất cho nguyện vọng của dân tộc chúng ta". Do đó cộng sản đã nhiều lần mưu sát ông nhưng không thành.
Trụ sở của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam nằm ở số 14 đại lộ Lê văn Duyệt (đường Verdun cũ) trong môt tòa nhà kiếng lớn, nóc nhọn thềm cao, kiến trúc theo kiểu Pháp, trước kia là trụ sở của Câu lạc Bộ Thể Thao Đông Dương.
Ông Trần quốc Bửu tiếp tôi trong phòng làm việc của ông, một căn phòng rộng lớn sáng sủa, có một bàn lớn và một số ghế dựa. Trên tường có treo một bức tranh lụa với hình một con trâu màu xám tro, mõm to, chân đứng dưới ruộng lúa (biểu tượng của Tổng Liên Đoàn là con trâu trong một bánh xe có răng cưa). Trên một giá đầy sách có treo hình một sĩ quan Việt Nam còn trẻ, có cài một băng đen trên chéo góc. Ông Trần quốc Bửu bắt gặp cái nhìn của tôi, liền giải thích :
-"Đó là hình của con trai tôi. tử trận hồi tháng 10 vừa qua. Thằng nhỏ đẹp trai quá, phải không ? Nó là một đứa rất gan dạ, thông minh và thẳng tánh. Môn nào nó cũng thành công, học hành, thể thao, và đường đời nữa. Nó có vợ rất đẹp và nhu mì, và một đứa con trai năm nay 3 tuổi. Nó chỉ huy một đại đội và đóng đồn trong quận lỵ của một quận thuộc tỉnh Bà rịa. Nó mới vừa được 27 tuổi thì....
Nói tới đây ông Bửu lắc đầu nhè nhẹ, ngưng một vài giây và tiếp tục với một giọng thật rõ ràng, chậm rãi và có mức độ.
"Tôi muốn nói cho anh nghe về thằng con trai nầy, anh Pierre ạ. Con trai tôi đã chọn quân đội, không phải vì nó ham chiến tranh, mà vì chúng ta đang ở trong thời chiến. Nó đánh đấm cũng khá lắm và đã được khá nhiều huy chương. Chúng tôi khắng khít với nhau lắm. Nó thường viết thư cho tôi. Vài tháng trước khi chết, nó đã tỏ ra rất băn khoăn lo lắng, có lúc hoảng sợ nữa. Trong những ngày đầu của tháng 10, nó có gởi cho tôi một lá thư, để tôi đọc cho anh nghe .
Trần quốc Bửu lấy trong ví ra 3 tờ giấy mà ông đã xếp thật cẩn thận và ông bắt đầu đọc:
- " Ba kính yêu,
Trong tiểu khu của con tình hình đã đi xuống. Không phải vì dân chúng đã ngả theo sự tuyên truyền của "phía bên kia", mà tại vì chúng tôi đang thiếu phương tiện để chiến đấu. Mấy anh nông dân trong hàng ngũ "nhân dân tự vệ" không có đủ đạn cho súng của họ, và họ còn phải tìm mua lựu đạn của mấy anh lính chánh quy, thường ít đụng trận hơn họ. Phần các đơn vị chánh quy thì không phải họ tránh chạm súng, mà cứ mỗi lần chạm địch, môt địch quân hơn hẳn họ cả về chiến cụ lẫn đạn dược, nên họ cứ bị tổn thất thật nặng.
Để Ba hiểu rõ hơn tình hình của tụi con, con phải giải thích cho Ba nghe một vài điểm về kỹ thuật. Cộng sản Bắc Việt thì dùng chiến xa T. 54 và đại bác 130 ly của Liên Xô. T.54 là loại chiến xa rất năng động, tuy thô kệch nhưng được bọc sắt rất dày và võ trang hùng mạnh: một đại bác 100 ly lòng dài với 34 quả đạn trong xe, 2 liên thanh 30 ly, và một liên thanh 50 ly, có tầm hoạt động 400 cây số đường bán kính. Trong trường hợp tấn công, tụi con chỉ có ống phóng M.72 (loại ba-zô-ca chống chiến xa). Súng nầy chỉ xử dụng có một lần, bắn xong là phải vứt ống phóng đi, và nó chỉ thật sự hữu hiệu trong vòng 100 thước mà thôi. Do đó mình phải bắn chiến xa địch trên bộ, thật gần, mới trúng đích được . Có nghĩa là mình phải đi bộ đến trong tầm tác xạ chính xác của vũ khí tự động trên chiến xa địch, để cho người ta giết chết mình ... mà không chắc là mình sẽ hạ được nó. Trên thực tế muốn tiến sát đến gần chiến xa thường rất là khó, gần như không thể được, vì lúc nào chiến xa cũng có "bộ binh tùng thiết" đi mở đường cho nó và bảo vệ nó. Còn pháo binh 130 ly dù là một loại vũ khí xưa, cũ, trên 20 năm rồi nhưng là một vũ khí đáng sợ. Nặng khoản 8 tấn, được xe xích kéo, có tầm tác xạ tới 27 cây số và có thể bắn đi 6 quả đạn trong một phút. Chỉ cần có 3 khẩu pháo 130 dấu kín trong rừng, và với 1 giờ tác xạ (1000 quả đạn thôi) cũng đủ đánh sập quận lỵ của bất cứ một quận nào. Đạn pháo 130 ly có thể phá vỡ một miếng thép dày 27 ly, cho nên không có một kiến trúc nào, một công sự nào chịu nổi sức công phá của loại pháo nầy. Dân chúng bỏ chạy hết và quân đội của tụi con không thể nào chống trả mà không bị thiệt hại nặng vì chúng tôi chỉ có pháo binh 105 ly với tầm tác xạ ngắn hơn nhiều , và đạn pháo thì được đếm từng quả, 3 viên cho một khẩu trong một ngày, trong lúc địch thì được tiếp tế quá dồi dào về đạn dược.
Để khóa miệng mấy khẩu pháo binh cộng sản nầy, chúng ta bắt buộc phải có ưu thế tuyệt đối về Không quân. Điều nầy rất đúng trên lý thuyết, nhưng hoàn toàn sai trên thực tế.. Từ khi có cuộc khủng khoảng xăng dầu, trực thăng quan sát và thám thính của chúng ta chỉ được phép bay có 3 giờ mỗi ngày. Ngoài ra cộng sản còn được trang bị hoả tiễn tầm nhiệt S.A.7 rất dễ xử dụng và rất chính xác để vô hiệu hóa các loại phi cơ của chúng ta .
Thưa Ba yêu quý,
Con biết rằng Ba có nhiều mối liên hệ với người Mỹ. Cương vị Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động của Ba sẽ giúp Ba có tiếng nói mạnh hơn. Ba phải giải thích cho họ hiểu rằng tình hình ở đây đã rất là nghiêm trọng lắm rồi. Họ phải cung cấp cho chúng ta vũ khí cần thiết, như hỏa tiễn Tows trên thớt cơ động, và trực thăng võ trang "cobra" trang bị chuyên về chống chiến xa. Họ có hết các thứ nầy mà tại sao họ từ chối ? Họ phải viện trợ cho chúng ta về quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Tôi yêu cầu Ba, Ba ơi, Ba hãy can thiệp với họ. Nếu không thì chúng ta sẽ bị đè bẹp và bại trận ngay. Chúng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Chúng tôi không bao giờ sợ chết. Với điều kiện là còn giữ được một cơ may để chiến thắng, hay là để chống cự với cộng sản có hiệu quả.
Xin Ba tha lỗi cho con vì bắt Ba phải nghe một tờ trình quân sự quá dài dòng. Trong tiểu khu của con, số lần chạm súng và số lần tác xạ của pháo binh tăng lên theo cấp số nhân. Dù sao thì con cũng giữ được đồn của con và con sẽ không rút đi đâu hết..... dĩ nhiên là vẫn còn sống. Binh sĩ của con theo con, và dân chúng vẫn tin tưởng nơi chúng con.
Đứa con lúc nào cũng kính mến và trung thành của Ba"
Ông Bửu từ từ xếp lá thư lại, đằng hắng để lấy giọng và để dằn cơn xúc cảm lại rồi mới tiếp tục:
- " Tất cả mọi thất bại của chúng tôi đều được gói gọn trong những hàng nầy. Tôi nhận được thư nầy của con tôi sau chuyến đi thăm Á Châu và Âu Châu của tôi trở về. Khi tôi đọc được lá thư nầy thì con tôi đã tử trận được3 ngày rồi.
- Ông có nói gì cho người Mỹ họ nghe không ?
- Dĩ nhiên là có. Tôi đã gặp Đại sứ Martin, và các tùy viên quân sự Hoa Kỳ . Tôi cũng có viết thư qua Mỹ. Không có người nào nghi ngờ về những tin tức của tôi. Ông Đại sứ và các tùy viên quân sự đã có ghi chú đầy đủ, và tôi cũng nhận thấy thực tình họ đang quá bận rộn. Nhưng không thấy có ai làm gì hết, tôi muốn nói là họ không có một biện pháp cụ thể nào cả.
- Như vậy cái gì sẽ xảy ra ?
- Chuyện gì cũng được hết ! Các ông dân cử chắc sẽ nhúc nhích.Tổng Thống Ford sẽ có những lời tuyên bố dễ nghe. Quốc Hội sẽ kéo dài các cuộc tranh cãi để khỏi phải chuẩn chi ngân khoản viện trợ. Ông Thiệu sẽ ra đi hay sẽ để bị ám sát. Các sĩ quan và binh sĩ trẻ và tự hào như con trai tôi sẽ bị hy sinh vì danh dự, hay vì để kéo dài thêm thời gian cho một vài chánh trị gia tự phụ kịp leo lên nắm quyền, Đủ thời gian để dàn dựng một kịch bản tưởng như bất thần được ứng biến, mà thật ra đã được viết sẵn từ lâu.. Người Mỹ sẽ đóng cửa các văn phòng cuối cùng của họ. Hạm đội 7 sẽ có mặt tuần rỏn ở biển Đông.
Rồi cộng sản sẽ chiếm Sai Gòn . Và tất cả lỗi đều sẽ được đổ hết cho chúng tôi !!.
*
* *
"Đây thật đúng là thời điểm để trở lại nhận xét nghiêm túc về Hiệp Định Paris . Chế độ cảnh sát và quân đội của ông Thiệu phải nhường chỗ cho những người đại diện, có trách nhiệm và xứng đáng hơn, để họ bắt đầu một cuộc nói chuyện thành thực và nghiêm chỉnh với cộng sản trước khi đã quá trễ. "
Người nói với tôi lời tuyên bố nầy là Nghị sĩ Vũ văn Mẫu, tiến sĩ luật xuất thân từ trường Đại Học Luật khoa ở Paris, (đúng như tấm biển treo trước văn phòng luật sư của ông), và Chủ Tịch Phong Trào Hòa Giải Quốc Gia, một phong trào của Phật giáo quy tụ những người chống đối dai dẳng nhứt của ông Thiệu.
Nhỏ người, tròn trịa, khoảng sáu mươi, hay lăng xăng quậy phá, với gương mặt xương xẩu và giọng nói thanh tao kỳ lạ, là luật sư cho các công ty xăng dầu (Shell và Socony) , ông Mẫu là một người giàu có và liến thoắng, khôn khéo và cơ hội chủ nghĩa hơn là thành thực và quả cảm. Dân Sai Gòn không hề thích ông, một phần vì ông gốc người Miền Bắc, một phần vì họ thấy ông kiêu căng và xảo trá. Dù sao thì ông cũng thông minh và lanh lợi. Ông đã từng là Tổng trưởng Ngoại giao của Tổng Thống Ngô đình Diệm, đã nhiệt tình và hết lòng phục vụ Tổng Thống Diệm và ủng hộ đường lối cương quyết chống cộng, nhưng sau đó, khi có cuộc khủng khoảng Phật Giáo, ông tự từ chức và cạo đầu để chứng tỏ một lòng với sự tranh đấu của các sư sãi. Ba tháng sau đó thì Tổng Thống Diệm bị sát hại.
Tin chắc là Phật tử đang cần có một người "lãnh đạo thực sự" nên ông Mẫu đi sát với các sư cốt cán của chùa Ấn Quang, những người chống đối tất cả mọi hình thức của chế độ quân nhân, và với sự yểm trợ của họ, ông đắc cử Nghị sĩ.
Trước hết ông đụng ngay ông tướng Kỳ, sau đó mới tới ông Thiệu.
Cuối năm 1973, lúc ông Thiệu định cho sửa đổi Hiến Pháp nhằm ra tranh cử Tổng Thống một nhiệm kỳ thứ ba, Vũ văn Mẫu lại cạo đầu một lần nữa để chống đối, và tuyên bố là chỉ để tóc lại "ngày nào mà chế độ độc tài được cáo chung" . Từ đó ông được thêm một biệt danh là "thợ cạo hàn thử biểu"
- "Ông Thiệu đã dối gạt tất cả mọi người, trừ tôi, Chỉ có một cách để chấm dứt cuộc chiến, là cho ông Thiệu đi và đưa tướng Minh lên thay thế ông ta. Ông Mẫu nói với tôi bằng một giọng lạ lùng của một cậu bé hỗn xược.
- Còn Hiến Pháp thì sao ?
Bằng một cử chỉ kiên quyết, ông gạt phăng luận cứ nầy:
- " Ông Thiệu đã vi phạm Hiến Pháp để tiếp tục chiến tranh. Ai cấm cản chúng tôi vi phạm Hiến Pháp để đem lại hòa bình ? Chúng tôi sẽ tìm được đa số tương tự để làm chuyện đó.
- Và người nào sẽ là Thủ Tướng ?
- Tôi !
Luật sư Vũ văn Mẫu phá lên cười nắc nẻ có vẻ bực tức, sau đó làm mghiêm trở lại, và nói tiếp với một giọng tâm tình:
- Ông biết không, tôi tốt với tướng Minh lắm. Ông đã có nói với tôi là ông rất cần môt người giỏi về luật để bàn cãi với cộng sản... và ông đã nhắm vào tôi.
- Ông tin thật là có thể thương thảo trong khuôn khổ Hiệp Định Paris à ?
- Không có một căn bản nào khác để mà thương thảo, và đây là nghề của tôi, nghề bàn cãi, biện hộ, thuyết phục và ngay cả dùng mưu nữa. Tôi biết bênh vực cho một hồ sơ, tin tôi đi. Khó mà có thể bắt bí tôi lắm, tôi sẽ dùng một luận cứ mà không một ai dám làm. Một khi tôi lên rồi, tôi sẽ đòi hỏi tất cả người Mỹ phải rời khỏi ngay đất nước nầy trong vòng 24 tiếng đồng hồ, và ông hãy tin tôi đi, họ sẽ đi ngay cho ông xem ! Ông có vẻ hoài nghi hả ? ông sai rồi. Đây nầy, tôi cho ông một cái hẹn trước ba tuần lễ ở Dinh Độc Lập. Tôi sẽ là Thủ Tướng, tôi sẽ tiếp ông, và chừng đó ông sẽ thấy là tôi giữ lời hứa của tôi.
Vô liêm sỉ?... hay là biết chắc một trò chơi mà ông ta đã nắm được những con bài chủ nhưng không muốn trưng ra?
Tôi nghiêng về giả thuyết thứ hai. Vì Luật sư Vũ văn Mẫu là con người không bao giờ chịu liều lĩnh.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
VỚI ĐOÀN NGƯỜI CHẠY LOẠN
Thứ Ba, ngày 15 tháng Tư năm 1975
S au một đợt nghỉ ngơi khoảng 30 giờ, trận chiến Xuân Lộc lại tái diễn. Từng đợt cách nhau khoảng 30 phút, hai trung đoàn cộng sản Bắc Việt được một tiểu đoàn chiến xa T.54 dẫn đầu tràn ra tấn công vào các vị trí của Biệt động quân và của sư đoàn 18 bộ binh .Bị đẩy lui với tổn thất nặng nề, hơn 1000 tử thương và 21 chiến xa bị hạ, họ lại tấn kích với một trung đoàn thứ ba, và trận chiến khốc liệt lại tiếp tục.
Sau khi lệnh giới nghiêm vừa chấm dứt tôi lại đi lên Biên Hòa. Ở đó tôi tìm lên được một chiếc xe vận tải chở đầy thùng cây đi Trãng Bom. Một khi lên ngồi giữa hai thùng cây rồi tôi mới khám phá ra đó toàn là những thùng lựu đạn và đạn được chở ra Tràng Bom. Nếu xe nầy mà lãnh một quả đạn pháo của Bắc Việt thì tất cả những bài toán về tài chánh của tôi đều tức khắc được giải quyết.
Trời quá nóng, cái nóng của mùa khô ờ đây, với ánh nắng chói chang trong vắt. Xe cộ đều để lại vết hằn trên đường nhựa đang mềm đi vì sức nóng. Hai bên đường nhìn mút mắt là những rẩy rau cải được trồng ngay ngắn từng ô vuông vắn ... Chúng tôi đi qua Hố Nai, một trấn nhỏ với 60000 dân công giáo di cư từ Miền Bắc vào năm 1954. Hai bên con đường chính dẫn vào trấn Hố Nai. có những tiệm buôn, những quán nhỏ bán đồ mỹ nghệ, và có một ngôi thánh đường hùng vĩ nằm ngay sau một bồn cỏ tròn, nơi đó các trẻ em đang chơi, quanh 3 linh mục mặc áo dòng đen.
Chiếc xe vọt lên con đường dẫn đến một khu đồi. Hai chục cây số nữa là đến Trãng Bom rồi. Có mấy chiếc trực thăng đang lượn quanh, mấy hàng binh sĩ đội nón sắt, và hai pháo đội 155 ly , tất cả đang trong cảnh ì ầm của chiến trận. Có nhiều chiến xa lớn, mang đầy cành lá, đại bác chĩa ra phía trước, đang tung tăng trong một đám bụi như có mùi thuốc súng. Còn vài cây số nữa thì đến thị trấn, xe của tôi phải ngừng lại một lúc ở một ụ đất được đấp lên trước một tượng đài bằng đá, dựng lên để kỷ niệm cho những người thợ rừng đầu tiên người Pháp chết ở Nam Kỳ (nguyên tác: Cochinchine). Ngày xưa ở phía sau tượng đài nầy là một trong những vườn bách thảo phong phú nhất ở vùng Đông Nam Á: có đến 6000 loại cây giống, cây kiểng, và lan quí, đã được chọn trồng trong gần 70 năm. Bây giờ thì không còn gì nữa cả , vì vào năm 1968, người Mỹ đã ủi bỏ và đốt sạch để cho hai bên đường được trống trải, dễ giữ an ninh cho các đoàn xe. Ở chỗ vườn cây giống bây giờ chỉ còn lại một bãi cỏ ngắn èo uột và vài cây chuối khô cằn.
Chiếc xe của tôi tiếp tục đi trong vòng 5 hay 6 cây số nữa giữa những làng xóm tiếp giáp nhau, sau đó rẽ sang trái, đi vào một con đường đất gồ ghề dẫn tới một lô trồng cao su. Giữa những hàng cây cao su cách nhau chừng 10 thườc, tôi thấy các chiến xa đang trấn giữ một khoảng đất trống khá rộng. Chạy đến khoảng trống đó chiếc xe của tôi ngừng lại và những anh lính thiết giáp còn trẻ cởi trần trùng trục chạy ra nhận các thùng đạn và lựu đạn tiếp tế. Tôi nhảy xuống đất. Hai xe cứu thương từ mặt trận đưa những thương binh về đây, các băng ca được khiêng đến một chiếc lều kaki lớn, ờ đó có một toán quân y lưu động đang làm việc. Anh em binh sĩ tản ra, tôi nhận ra được đại úy Niệm trên một băng ca, đại úy Biệt động quân mà tôi đã quá giang với ông hôm thứ sáu vừa qua. Mặt ông nhợt nhạt, đôi môi cắn chặt lại, ông bị mất bàn tay trái. Vết thương chưa được băng bó lại, trông thật là thiểu não, máu tươi thỉnh thoảng từ cánh tay bắn lên, và gân tay chỗ đó hình như nát hết. Tôi đi theo băng ca của ông đến toán quân y Tôi nắm thật chặt bàn tay mặt của ông, ông nhìn tôi, nhíu mày lại. Một đại úy quân y gạt tôi ra và nói: "Ông cứ để anh ta ở đây, tôi sẽ lo cho ông ta ngay." Tôi trở lại một trong những xe cứu thương đang trở ra đường và ngồi đằng sau với anh em khiêng cáng. Sàn xe nơi để các băng ca vương vãi đầy vết máu và đầy "cứt đái", xông lên một mùi nồng nặc, mùi hôi thúi của phần phía dưới bụng bị vỡ tung ra, gần như có mùi của sự chết chóc, của tử thần ...
Xe rẽ về trái và chạy về hướng lửa đạn của mặt trận. Độ chừng 15 phút sau chúng tôi ngừng lại. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn vì được thở không khí trong lành hơn. Chúng tôi đang ở ngay làng Hậu Nghĩa, làng cuối cùng trước khi đến Ngã ba Suzannah.
Nằm dài theo các hố bên dường, cách nhau chừng 5 thước một, hàng trăm binh sĩ đầu đội nón sắt đang hút thuốc nghỉ xả hơi chờ tiến ra trận. Toàn là những người vạm vở, lớn con, rạm nắng, và có đôi tay kệch cộm của người nông dân quen làm đất. Con đường hiện đang bị nghẽn vì một đoàn dân chạy loạn quá dài. Hàng ngàn người chạy giặc đang đi lần xuống Trãng Bom, hết làng nầy đến làng khác. Có những chiếc xe bò, có những xe ba bánh chở đầy đến bánh xe muốn sạt ra vì chở quá nhiều bao lúa quá nặng, có nhiều chiếc xe đạp đã chở cả 3 đứa con trên sườn trước rồi lại còn đèo thêm đứa thứ tư phía sau. Họ đến từ đường đi Dalat, tù Túc Trưng hay từ Gia Kiệm. Họ đi trong yên lặng, trang nghiêm đáng kính và nghèo khổ, vì họ đã bỏ hết tất cả lại sau lưng họ, từ làng mạc trù phú đến nhà cửa ruộng vườn, mùa màng của họ, và cả mồ mã của ông cha nữa.!.
Đoàn quân tiếp tục tiến tới và băng xuyên qua một miếng ruộng cỏ ngắn, có từng bờ đê vuông lác đác có vài đống đất khô nhỏ làm bụi đỏ tung lên theo bước chân của chúng tôi . Tôi tìm một sĩ quan và cuối cùng gặp được một người, đại úy Châu. Ông vừa đi vừa giải thích cho tôi nghe :
- " Cộng sản muốn bao vây Xuân Lộc và cắt đứt hậu tuyến của chúng tôi ở phía sau ngã ba Dầu Giây (tức Suzannah). Trực thăng chúng tôi đã đổ 1000 binh sĩ Dù xuống bìa rừng phía Tây
của thị trấn nầy để tăng cường cho lực lượng phòng thủ ở đó. Hai trực thăng đã bị cao xạ phòng không Bắc Việt bắn rớt. Và lực lượng Dù đã chạm súng rất nặng, nhưng họ vẫn còn bám đất.
Hiện giờ chiến trận đang mở rộng trên 10 cây số về hướng Tây Bắc giữa Gia Kiệm và Suzsnnah. Hai bên đang đành nhau trên các đường xe be và trong các lô cao su. Cộng sản Bắc Việt đang cố cho bám chặt các trục di chuyển của chúng tôi bằng những toán đặc công được võ trang
rất hùng hậu, và cố giữ chúng tôi để báo cho pháo binh của họ nện chúng tôi . Cách đây không đầy 7 cây số đang có một cuộc chạm súng lớn lắm , vậy ông đừng rời khỏi hàng quân nghen!"
Chúng tôi càng tiến tới thì càng nghe tiếng đại bác rõ hơn. Các phi cơ khu trục phóng pháo bay ngang chúng tôi thật thấp và chỉ vài giây sau tiếng rú là chúng tôi nghe được tiếng bom nổ điếc tai làm rung chuyển trận địa.. Các khu trục nối tiếp nhau từng đợt 3 chiếc một, cách khoảng nhau chừng 20 giây.
Chúng tôi tiến lên đã được hơn một giờ rồi. Con đường mòn đi sâu vào một rẽo đất có hàng tre già và vườn chuối bao quanh.Thình lình một tràng đạn pháo nổ trên con đường mòn trước mặt chúng tôi chừng vài chục thước. .
Anh em binh sĩ nhảy xuống mấy cái hố, đặt súng máy và bắn vào các hàng tre nhiều loạt đạn. Bộ đội Bắc Việt không còn xa nữa đâu. Tôi bám theo đại úy Châu. đang dùng máy truyền tin cho lệnh bố trí các trung đội của ông. Một số đạn pháo khác đang nổ trong bờ chuối, phạt ngã một số. Xuyên qua kẻ hở của vườn chuối vừa bị phạt ngã, tôi thấy có mấy cái nhà lá đang bốc cháy. những nhóm thường dân từ bốn phía chạy túa ra, đàn bà thì mặc đồ đen, đội nón lá, tay dắt con, tay xách bọc quần áo chạy băng ra đường mòn. Một chị bị một mảnh đạn vào bụng té sấp xuống phia trước như một con thỏ bị đạn trong lúc đang chạy. Một bé trai bị thương ở trán, máu chảy đỏ cả chiếc áo trắng của em, vừa đi, vừa run vừa khóc. Một em bé gái ốm yếu nắm vai em lại và dắt em đi .
Anh em binh sĩ đã tiến đến bờ dậu của mấy căn nhà lá đang cháy với tiếng lên cò súng nghe lắc cắc. Một số thường dân chạy túa ra từ các hầm trú ẩn và chạy xuyên qua cánh đồng. Họ lợi dụng sự tiến quân của binh lính Chánh Phủ để cố chạy ra thẳng quốc lộ trước mặt họ. Các khu trục phóng pháo cơ đang dùng đại bác yểm trợ quân bạn chừng trăm thước trước mặt chúng tôi. Có nhiều cột khói lên thẳng trên không trung. Hàng quân bị đạn bách kích pháo chận đứng lại. Có mộ số bị thương. Đại úy Châu nói nhanh với tôi :
- "Anh hãy đi với đám thường dân lánh nạn nầy đi. Không có gì ở đây đáng cho anh xem nữa đâu.. Rồi anh sẽ bị bắn gục như một con thú vậy. "
Và tôi quay gót trở lại con đường mòn, đi ra quốc lộ.
Trở lại con đường, qua khỏi bờ tre, đến cánh đồng trống, tôi nhập vào với đoàn người chạy di lánh nạn. Đoàn người quá dài đang sắp rời khòi cánh đồng. Có nhiều người bị thương, một ông già lạ thường với chiếc áo trắng và nón cối kiểu thực dân, đang lảo đảo đi vì một vết thương to bằng nấm tay trên vai . Ông đi chừng trăm thước là ngã quỵ xuống. Tôi cố gắng đở ông ta dậy, nhưng ông không còn nhúch nhích gì nữa, ông đã chết rồi ! Một bà mẹ đi ngang qua tôi, vai gánh một đôi gióng. Có một em bé phúng phính má bầu được cho ngồi trên một cái gối đặt ở một đầu gióng đang vô tư đùa nghịch theo nhịp đi của bà mẹ. Phía bên mặt của tôi cũng có một bà khác mặt mày biến dạng lơ láo vì lo sợ và đau khổ, vừa đi vừa lớn tiếng cầu nguyện. Bà ôm cứng đứa con gái khoảng 4 hay 5 tuổi vào lòng, bị trúng đạn ở đầu, tóc tai bê bết máu. Trông thật là thiểu não chịu không nổi !
Tôi đang ở đây, lẫn lộn với một dân tộc mà tôi rất thương. Tôi được sanh ra trong lòng dân tộc nầy, tôi lớn lên trên đất nước của họ phần nào cũng là đất nước của tôi, mà giờ đây tôi chỉ đứng nhìn họ đang đau khổ, đang chết dần mà không làm gì hơn được, chỉ biết cùng đi trên con đường này với họ mà không có một miếng thuốc, không có một cuốn băng, cũng không thể bế giùm một trong những đứa bé nầy, vì chúng hiện là tài sản quý báu nhất mà mẹ của chúng không lúc nào muốn buông ra, và tôi rất hiểu tâm trạng của họ. Nhưng mà tôi muốn kêu lên, muốn hét lên thật to để cho cả thế giới cùng được nghe: "Hãy để cho họ được sống ! hãy chấm dứt sự đau khổ của họ đi..! hãy xúm nhau lại để ra sức cố dập tắt giùm các họng súng đi....."
Nhưng làng mạc cứ thay nhau cháy ... hết làng nầy đến làng khác, như những bó đuốc.. và dân chúng nghèo khổ chạy trốn với con cái của họ, quá ray rức vì nỗi lo sợ. Tôi chỉ là một nhân chứng không có một chút quyền hành . Quá thất vọng, người mẹ ôm chặt đứa con gái bị thương chỉ còn biết kêu Trời, gọi Chúa xin Người hãy ban cho sự cứu giúp.
Cuối cùng thì đoàn người lánh nạn cũng ra đến quốc lộ. Có nhiều xe vận tải đang chờ họ. Một số Dân vệ và sinh viên công giáo tình nguyện từ Hố Nai đến, đã giúp đưa họ lên xe.
Đối với những người nầy, coi như cơn ác mộng tạm chấm dứt. Nhưng còn những người khác, hằng ngàn người khác còn đang lang thang trong rừng nằm giữa hai lằn đạn của đơn vị Dù và bộ đội Bắc Việt, dưới tầm đại bác của các chiến xa đang bắn nhau, dưới các quả đạn của bách kích pháo, của pháo binh, của hỏa tiễn, và cả dưới bom đạn của phi cơ. Họ đang kẹt cứng trong cái bẫy sập của hai bên Miền Nam và Miền Bắc đang ra sức hăng say tiêu diệt lẫn nhau ...
Đến Trãng Bom, lúc tôi rời khỏi đoàn dân lánh nạn mà không có đủ can đảm dám nói với họ được nửa lời, thì một thiếu tá chỉ huy một đơn vị Dù tưởng tôi là một nhà báo Mỹ chụp cổ tôi và cho tôi một câu với một giọng khinh bĩ : " Ê ! Nầy anh Mỹ kia, ở chiến trường về, anh hãy viết rõ trong tờ báo của anh là lính Dù Miền Nam chúng tôi không cần phải có đô la mới có đủ can đảm chết cho Đất nước chúng tôi đâu nghen !"
*
* *
Thủ đô Phnom Penh đang trong cơn hấp hối. Quân Khmer Đỏ chỉ còn 5 cây số nữa là đến phi trường Pochentong, một phi trường mà họ đang nện bằng bách kích pháo hạng nặng và các loại Súng Không Zdật (SKZ) Các phi cơ vận tải loại nặng của Hoa Kỳ còn có nhiệm vụ tiếp tế cho Thủ đô nầy, đáp xuống mà vẫn cho máy nổ, bỏ hàng xuống thật nhanh trong vài phút xong cất cánh bay lên ngay, dưới những tràng đạn pháo.
Tất cả nhân viên dân sự người Campuchia làm việc cho phi trường đều nghỉ hết. Việc hướng dẫn cho phi cơ Mỹ đáp xuống được tiến hành bằng các đài kiểm soát không lưu lưu động được thiết lập tạm dưới đất, trên các nạn chống, tháo ráp ra được . Tòa đại sứ Hoa Kỳ, cơ sở ngoại giao duy nhất còn làm việc ở Nam Vang, đã cho di tản hết ba phần tư nhân viên và tất cả hồ sơ lưu trữ. Phần lớn các nhà báo đều đã rời khỏi đây.
Các bệnh viện đầy người bị thương, chất nằm trên băng ca đặt ờ ngoài các hàng hiên. Dân chúng, điềm nhiên và thụ động, lo chôn cất những người chết một cách yên lặng. Những người dân chạy loạn tiếp tục đổ về đây, che lều trại bằng ván thùng, bằng giấy bồi hay bất cứ thứ gì mà họ kiếm được kể cả lá chuối và những mảnh tôn vụn , và nằm tràn lan khắp các lề đường. Đôi khi, sau một tiếng nổ khủng khiếp, một quả đạn hỏa tiễn cuốn phăng đi cả hàng chục căn lều tạm bợ nầy, vứt ra đường những mãnh vụn của thân người nát bét cùng với nồi niêu, ván, gổ.. giữa những vũng máu tươi to lớn.
Dửng dưng với thảm cảnh chung quanh chúng, những con bò sữa đói khát đang tìm gậm vài cọng cỏ hiếm hoi trong các công viên. Tất cả các xe cộ nhất là các mô tô và xcutơ đã không còn chạy được nữa vì không có xăng, được dành cho xe vận tải công cộng và quân xa..
Chánh Phủ đã mang về từ Kompong Cham và Siemreap 8000 quân nhân để tăng cường và hiện có 30 tiểu đoàn đang nằm chung quanh thủ đô.. Nhờ có cầu không vận, họ còn được 20 ngày lương thực và đạn dược, Từ khi chiếm được Neak Luông, một vị trí then chốt trên sông Cửu Long, quân Khmer Đỏ đang sẵn sàng dàn hàng ngang đến 60 tiểu đoàn. Quân trú phòng Neak Luông đã chống cự suốt trong hai tháng nhưng cuối cùng vị trí nầy đã thất thủ ngày 1 tháng 4 trong những điều kiện hơi phi lý.
Ngày đó, vào lúc 12 giờ trưa, thống tướng Lon Nol từ dinh Chamcar-Mon dùng trực thăng bay ra phi trường Pochentong để rời vĩnh viễn khỏi Campuchia trên một phi cơ Hoa Kỳ . Một tiếng đồng hồ trước khi ông rời khỏi sân bay, tất cả các đơn vị Không quân chiến đấu của Campuchia (trên 30 chiếc khu trục T.28) đều nhận được lệnh cấm bay vì lý do an ninh (sợ họ mưu sát thống tướng Lon Nol) nên tất cả đều nằm bất động tại chỗ dưới đất.
Vào lúc 12 giờ 15, tướng Limsi- Seath chỉ huy căn cứ NeakLuong, nơi binh sĩ vừa đẩy lui một cuộc tấn công của Khmer Đỏ dữ dội đến độ có lúc phải đánh xáp lá cà, đã lên tiếng trên máy truyền tin : "Tôi đòi hỏi một sự yểm trỡ cao độ của tất cả các khu trục còn xử dụng được để đánh mạnh địch quân trước khi họ tái tổ chức được trên tuyến xuất phát và trở lại tấn công chúng
tôi. Đó là cơ may duy nhất để giữ vững được Neak Luong, nếu không thì tối đa chỉ trong hai
giờ nữa thôi thì chúng tôi sẽ bị tràn ngập."
Bộ Tổng Tham Mưu của Phnom Penh chỉ biết trả lời là "Do lệnh thượng cấp, các khu trục không được cất cánh"
Và như thế là 2 giờ sau đó, Neak Luong thất thủ. Tướng Limsi-Seat bị thương, 80 sĩ quan và 2000 binh sĩ bị bắt làm tù binh với cả pháo đội 6 khẩu 105 ly.
Quân Khmer Đỏ dùng 6 khẩu pháo 105 ly đó để bắn vào thủ đô coi như để dọn đường chuẫn bị cho trận tấn kích cuối cùng của họ vào Phnom Penh. Họ hy vọng chiếm được thủ đô trong dịp đầu năm âm lịch của họ (từ 13 đến 15 tháng 4 dương lịch). Như vậy là quân thủ thành sấp được hưởng một cái Tết hứa hẹn là sẽ khủng khiếp và đầy tang tóc vì họ đang bị vây khổn trong một cái rọ sắt đầy lửa.
Chiếc hàng không mẫu hạm Okinawa (chuyên chở trực thăng) đậu tại cảng Kompong Som (trước kia là Sihanouk-ville) với 120 trực thăng và 900 Thủy quân lục chiến, sẽ can thiệp để bảo đảm sự "di tản" trong vòng trật tự và an toàn của 80 hay 90 người Mỹ còn đang có mặt tại Phnom Penh. Dĩ nhiên họ cũng sẽ lo cho một vài nhân vật Campuchia nào đã dính sâu vào cuộc chiến và những người khá giả giàu có.
Nhưng còn 3 triệu người dân tị nạn đã bỏ tỉnh bỏ làng chạy loạn, bỏ hết tất cả.... để "chọn tự do" và cần có sự bảo vệ của những người thuộc chế độ Cộng Hòa "đồng minh của Hoa Kỳ" thì phải ở lại trong cái bẫy đang từ từ đóng sập xuống trên đầu họ. Đó là những nông dân nghèo khổ, chất phát và dễ tin. Vả lại, họ sẽ làm được gì nếu người ta mang họ ra ngoại quốc ? Họ không biết nói tiếng Anh, Họ lại không có tiền và cũng không có một ai là thân nhân ở đó ? Họ không có con còn nhỏ và trần truồng mà họ chỉ ôm trong tay những bình tro hài cốt mà họ sẽ đem đi chôn ở các chùa. Tro cốt của những người đàn ông rạm nắng vì phải lội sình hằng ngày dưới ruộng sâu, đi theo sau những con trâu đen mập mạp nhưng ngu đần, không có thì giờ để kịp nghe theo lệnh gọi lên tỉnh thành để nhập ngũ đánh đuổi giặc "Việt Nam xăm lược" ! Họ đã giết người Khmer và chết vì bị người Khmer giết, và không một ai biết được, hay vì họ không muốn và cũng không cần biết , biết tại sao họ chết, chết cho ai hay chết bằng cách nào ....
CHƯƠNG MƯỜI HAI
VỚI NGƯỜI PHÁP LỚN TUỔI Ở SAI GON
Thứ Tư, ngày 16 tháng Tư
B ất chấp tử thần có thể ập tới bất cứ lúc nào, nhất là hành động do đức tin, từ nóc cao của nhà thờ Sai Gòn vọng lên những tiếng hát trầm bổng bằng tiếng la tinh. Bàn thờ Chúa chưng đầy hoa và được trải một tấm lụa sáng rực rỡ. Hàng ngàn tín đồ công giáo đang dự lễ tấn phong của 25 linh mục đại diện cho các địa phận trong nước.
Khi buổi lễ chấm dứt, tất cả tín đồ hiện diện nắm tay nhau chúc bình an và cầu nguyện cho tất cả các Giám mục, các Linh mục và các tín hữu tự nguyện ở lại nhiệm sở của họ trên lãnh thổ bị chiếm để chia xẻ thử thách của mọi anh chị em cả lương lẫn giáo.
Sau đó cả 25 vị linh mục vừa được tấn phong được cho mặc thêm một chiếc áo choàng trắng có thêu một chữ thập bằng sa ten đỏ, nắm tay nhau bước ra ngoài, người nào cũng có thân nhân và bè bạn mặc lễ phục tươm tất đi kèm. Đám đông thân bằng quyến thuộc nầy từ hàng trăm giáo xứ đến đây cùng nhau qui tụ dưới chân tượng đài Đức Mẹ Đồng Trinh nổi bật cao lên giữa công viên Nhà Thờ.Các linh mục với áo dòng đen và nón đen, các tu sĩ với áo chùng vải thô, các bà nữ tu sĩ, các anh em hướng đạo sinh, các nông dân tay lấm chân bùn nhưng vẫn mặc áo dài có mang huy hiệu Trái Tim của Chúa, các cô thiếu nữ với áo dài nhẹ nhàng, các bô lão với khăn đóng áo dài, các binh sĩ với quân phục rằn ri, chào nhau, ôm nhau kêu gọi nhau và kể cho nhau nghe về tin tức của những người bị cộng sản bắt đi làm tù binh hay những người bị coi là thất lạc trong cơn lốc loạn ly nầy.
Họ ở đó hàng mấy giờ, cười đùa chuyện trò, chiếm hết các lề đường, làm tắt nghẽn lưu thông và sau đó, vào khoảng 12 giờ trưa, theo một dấu hiệu của các linh mục, đám đông kỳ lạ và bất thường nầy, kể cả các chánh trị gia và thương gia, xem chừng như đã sung sướng và hảnh diện được biểu lộ đức tin của mình ngay giữa trung tâm của thành phố kinh doanh nầy, mới chịu giải tán hết trong vòng vài phút, mạnh ai nấy chạy về xe của mình , những chiếc xe vận tải hay xe buýt đã đưa họ tận đây, từ các đồng ruộng và làng mạc của họ. Mỗi xe khi ra khỏi bãi đậu đều được một linh mục cởi mô tô hướng dẫn mở đường. Và nửa giờ sau đó là tất cả không còn một người công giáo nào ở đó nữa.
Trung tâm thành phố đã trở lại với những cảnh kẹt xe, xe xì cút tơ, xe tắc xi, và các xe bán hàng dạo. Sự ồn ào của các sự vận động và mậu dịch cũng đã trở lại trên đường Tự Do (Catinat) dài dài từ nhà thờ đến bờ sông . Các chuyên viên về tin tức cũng bắt đầu vui vẽ phao tin, không cần biết -
là đúng hay thất thiệt . Chuyện khó nhất là phải biết lọc tin đó.
- Một kho đạn ở Biên Hòa đã bị nổ, làm rung chuyễn cả thành phố: tin nầy đúng.
- Một bản tin đánh đi của UPI xác nhận đó là do sự đột kích của đặc công Việt Cộng. An ninh quân đội thì thản nhiên quả quyết đó chỉ là một tai nạn rủi ro: một tàn thuốc dụi tắt không kỹ, bén lửa qua cỏ khô gây lên một đám cháy làm nổ một kho đạn phế thải.
- Ông Thiệu đã nhờ công ty Balair chở 16 tấn vàng thỏi, số vàng dự trữ của Ngân Hàng Quốc Gia sang Thụy Sỹ. Ông Lý long Thân, một người Tầu giàu có, cố vấn tài chánh của Tổng Thống V NCH đã bán cho một tổ hợp Nhật bản một khối đồng của Chánh Phủ trị giá 300 triệu mỹ kim : tin thất thiệt. Vàng vẫn còn trong hầm của Ngân Hàng (Giám Đốc Ngân Hàng từ chối không ký lệnh xuất kho), và không một phi cơ thương mại nào có thể chở đi 16 tấn vàng một lần một mà không vở sàn kho chứa hàng của phi cơ.
- Ở Việt Nam vẫn còn 2 tỷ mỹ kim "sắt vụn" do quân đội Hoa Kỳ bỏ lại lúc họ rời khỏi Việt Nam . Chánh Phủ Sài Gòn đang thương lưộng với một công ty lớn ở Hoa Kỳ định mua với giá 1 tỷ mỹ kim. Chuyện mua bán nầy chưa ngã ngũ.
- Những người Mỹ ở khách sạn Brinks, gần trụ sở Quốc Hội đã rút đi êm trong đêm tối trên 3 xe vận tải được cảnh sát Miền Nam họ tống : tin nầy rất khó kiểm. Không ai có quyền di chuyển vì có lệnh thiết quân luật từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng. Một điều chắc chắn là: tòa đại sứ Hoa Kỳ đã báo cho tất cả các kiều dân Mỹ trong lãnh vực tư và những người làm việc cho Phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ (D.A.O.) có trách nhiệm về tiếp vận quân sự , trừ những người làm việc cho ngành Y dược và tiếp tế lương thực, là phải sẳn sàng rời Việt Nam trong vòng 30 ngày sấp tới.
- Tất cả những chuyến bay quốc tế đều ngưng vì biện pháp an ninh : Tin không đúng, chỉ có các phi công thuộc hãng Cathay Pacific đang đình công. Họ đòi hỏi phải có một số tiền thưởng về nguy hiểm khi phải đáp xuống Sài Gòn . Các hãng hàng không khác đều bảo đảm giữ nguyên các chuyến bay.
Tiếng đại bác nghe cách thủ đô chừng vài chục cây số. Sự uy hiếp từ phía cộng sản Bắc Việt mỗi ngày mỗi đến gần hơn, nhưng khối lượng lớn dân Sài Gòn cố gắng giữ bình tĩnh.
Các viên chức hành chánh làm việc bình thường. Các chợ búa đều được tiếp tế đều đặn . Đồng mỹ kim còn đổi được 1000 đồng bạc. Người dân vẫn còn đi lại với những xe ba bánh nặng trĩu, xe tắc xi vẫn vét túi hành khách, xe kéo xe lôi lại thấy tái xuất hiện.
Ở Chợ Lớn, thương buôn không thấy hốt hoảng. Dự kiến cho một cuộc tấn công có thể bị cúp điện, họ đã tìm mua hết nến để dự trữ, để có thể bán lại với giá cao gấp ba lần. Dự trù trường hợp cộng sản vào được thủ đô, họ cũng đã vét mua hết tất cả vải đỏ. Họ biết rằng ở những thành phố bị cộng sản chiếm ở Miền Trung, dân chúng được lệnh phải treo cờ Hà Nội và M TGP MN trước nhà. Họ đã tính toán rất kỹ. Bốn triệu lá cờ cộng sản phải cung cấp cho người dân trong vòng 48 tiếng đồng hồ : ba tỷ đồng bạc lời, một áp phe không thể bỏ qua được !
Những người Pháp cố cựu gồm các thầu khoán, kỹ thuật gia, giám đốc xí nghiệp, các nhà trồng tỉa... gặp lại nhau ở tiệm Impérial, của Bonelli (50 năm ở Đông Dương.) hay ở quán cà phê mát mẻ của "papa" Charbonnier, ở cảng, một cựu tỉnh trưởng chuyển sang nghề bán cà phê, và dưới bức tranh của ông lãnh sự đầu tiên Dominique, một người dân thuộc đảo Corse vô cùng vui vẻ, đã phục vụ khách từ 27 năm món súp thập cẩm tôm cá biển ngon nhất Sài Gòn và rượu chát quí hiếm Cinarca .
Người ta thấy có những anh cựu quân nhân của đội quân viễn chinh, những người đã sống sót qua bao nhiêu biến cố. Họ đến từ những tỉnh xa xôi của vùng Đồng bằng, hay từ những đồn điền nho nhỏ ở ven biên của chiến trường. Rất mạnh khỏe, rạm nắng, nhưng kín đáo, họ biết tất cả mà nói thật ít và giữ im lặng khi có người lạ xuất hiện.
Tôi đã gặp được ở đây nhiều bạn cũ :
Moulin, một cựu sĩ quan Dù. Chúng tôi đã cùng được huấn luyện về biệt kích, ở Ấn Độ năm 1945. Đồn điền của anh bị Việt Cộng chiếm.
Nasica, con của một anh hùng kháng chiến bị Đức xử bắn năm 1944, có một tượng kỷ niệm trước khi vào thị xã d'Arnay-le-duc. Anh là một cựu kháng chiến quân người Ý, kỹ sư nhiệt lượng, và chuyên viên đóng tàu chuyên chở đường sông. Xí nghiệp cùa anh còn chưa gặp khó khăn nào.
Roger Routin, một binh sĩ gốc Tunisie, râu xồm nhưng rất có tình huynh đệ. Anh là một phi công dân sự giỏi nhất của Miền Nam . Với chiếc phi cơ nhỏ của anh, anh đã lái đi "nhặt" hết người Pháp ở Dalat và Nha Trang dưới lằn đạn của cộng sản.
Le Gall, chín con, vợ là Lucienne. Mặc dầu đông con nhưng anh đã xây cất một viện mồ côi để nuôi trẻ và mang từ mặt trận về đây được hơn hai mươi đứa.
Tino Agopian, một người trên sáu mươi tuổi người nhỏ thó rất tao nhã, luôn luôn ăn mặc rất kẻng, kỵ sĩ lão thành và đáng tin cậy của các trường đua.
Cũng cần phải nói qua về những người truyền giáo và các mục sư, đuối sức nhưng không mệt mỏi, đã biến những viện tế bần thành những trung tâm xã hội . Tặng phẩm cứ dồn dập được gởi tới và xe nầy đến xe khác đầy thuốc men được chở đến các trại dân lánh nạn.
Câu lạc bộ thể thao, với hồ tắm nổi, đầy đủ tiêu chuẩn tranh tài quốc tế, với những dàn hoa vạn lý, với những sân tơ nít, và nhà thể thao đa dụng, những phòng đánh kiếm và sân tập võ thuật và một vòng đua chạy bộ . . . . đó là ốc đảo cuối cùng của "xã hội" người Pháp ở Sài Gòn. Được một hàng me to và hàng rào xanh bao quanh, đây là một câu lạc bộ hạng sang và lịch sự, ở đó những máy điều hòa không khí của Nhật chưa thể thay thế được các cây quạt trần già nua nhưng còn rất êm lặng và đủ tiện nghi. . Người ta còn tìm thấy phía sau các hàng hiên trong những căn phòng rộng rãi mát mẻ với những bàn ghế toàn bằng gổ nặng, những ghế dựa rộng sâu, những ông chủ ngân hàng bình thản, những nhà ngoại giao lạnh lùng, những giám đốc đồn điền, những tay vô địch bài tây (bridge), những nhà sản xuất bia da đỏ ao như gạch, một vài anh tóc dài, quần ống voi và những cô gái dịu dàng tươi trẻ. . . . .
Nhờ đi thăm người nầy đến người kia, từ một người bạn thân đến một sự giao thiệp vững chắc, tôi thu lượm được một vài tin tức đã được kiểm chứng:
Đức Giám Mục Seitz ở Kontum, 40 năm phục vụ ở Việt Nam , vẫn còn, không hề hấn gì.. Bá tước del Fante, người có biệt danh là "vua ở Cao Nguyên", vẫn còn sống. Con người quí tộc Ý nầy, người nói được tất cả thổ ngữ của đồng bàoThượng, vừa là bạn vừa là cố vấn của tất cả các trưởng bộ lạc.. là một nhân vật rất lạ thường. Cứng rắn trong công việc nhưng khoan hồng độ lượng với mọi người làm, ông có một sức khỏe sắt đá và một tinh thần lạc quan không gì lay chuyễn nổi, và không có gì làm cho ông ta cảm xúc hết.
Ông M. Mercurio, niên trưởng của các nhà trồng tỉa, chết ở Ban mê Thuột vì một trái bom của không quân Miền Nam đã làm sập nhà ông.
Hơn 30 người Pháp trong đó có 12 giáo viên còn ở lại Dalat, vì thiếu phương tiện di tản, nhưng họ vẫn còn khỏa mạnh.
Những nhà trồng trà và cà phê (10.000 mẫu và khoàn 100 nhà khai thác đặc biệt) trãi dài giữa Blao, Djiring và Ban mê Thuột, bị bắt hay đã chạy khỏi , đều coi như bị phá sản hết. Mùa màng khá lắm, nhưng vì đường bị cắt đừt, nên tất cả đều bị kẹt lại và hư thối hết tại đồn điền. Các nhà máy ở Sài Gòn và Chợ Lớn chuyên sấy trà đen, trà xanh , và rang cà phê đều phải đóng cửa vì không có hàng dự trử. Thua lổ tính ra đến hàng trăm triệu đồng.
Bỏ qua các nhộn nhịp và ồn ào của đường Tự Do, trở lại bệnh viện Grall ở nửa đường giữa nhà thờ Đức Bà và vườn bách thảo. Với những dãy nhà xây sáng sủa có hàng hiên chung quanh và nằm dưới tàng cây to rợp bóng mát, cơ sở nầy vừa là một nơi trú ẩn vừa là một học đường. Được thành lập từ năm 1860, bệnh viện 400 giùờng nói trên trong những tuần lễ sau cùng nầy đã có con số bệnh nhân tăng lên gấp 4 lần. Toán quân y của bác sỉ tổng quát Mazeaud đã đến nhập vào với 20 bác sĩ quân y người Pháp ở đây. Ngay sau khi thảm trạng ở miền Trung bộ Việt Nam bắt đầu có tầm mức nguy kịch , thì vị cựu Giám đốc bệnh viện Grall (4 thời phục vụ ở Đông Dương, chuyên viên về các bệnh của vùng nhiệt đới) đã tình nguyện sang đây với một bác sĩ giải phẩu, một bác sĩ khoa tổng quát và một bác sĩ nhi khoa. Mười bác sĩ dân sự đã tình nguyện đến tăng cường toán quân y của ông. Và toán y sĩ nầy đi từ trại lánh nạn nầy đến trại lánh nạn khác, từ Cân Thơ đến Vũng Tàu hay ra tận đảo Phú Quốc để chăm sóc cho các thương binh và các thường dân bị thương vì chiến cuộc.
Chung quanh Sài Gòn hệ thống an ninh từ từ siết chặt lại. Các đơn vị cảnh sát đặc biệt đều mang áo giáp và đội nón sắt, trang bị hùng hậu đã đi tuần khắp các vùng ngoại ô và được lệnh bắn bất cứ người tình nghi nào mà không cần phải gọi hỏi trước .
*
* *
Chiều nay tôi nhận một lá thơ từ bên Mỹ rất đáng được chú ý. Lá thư của một người bạn của tôi, anh Dick Benham 32 tuổi, cựu phi công trực thăng võ trang thuộc lực lượng Tuần Giang (đơn vị giang thuyền). Hai lần bị thương ở Việt Nam , chuyển sang ngành giáo dục sau khi về Mỹ lấy được bằng tiến sĩ về chánh trị kinh doanh. Và đây là nội dung bức thơ :
" Anh Pierre thân mến,(1)
"Tôi đã gọi điện thoại tới Paris, vợ anh đã cho tôi biết là anh đã đi Việt Nam . Bà ta cho tôi số hộp thơ của anh ở Sài Gòn (hộp thơ số 1303). Tôi hy vọng rằng mặc dầu có một "không khí hỗn loạn tại đó, nhưng bức thư của tôi cũng có cơ may đến tay anh được . Có rất nhiều người bạn Việt Nam viết thư hỏi tôi cái gì đang xảy ra ở Hoa Kỳ ? Họ không hiểu "được thái độ chống đối của Quốc Hội và tính thụ động của người đứng đầu Nhà Trắng." Có rất nhiều lý do để Hoa Kỳ bỏ rơi nước Việt Nam, nhưng tất cả đều dính với câu "chuyện tai tiếng Watergate và chuyện bầu cử lại của dân biểu Hạ viện và 1/3 nghị sĩ "trong tháng 11 / 1974 nầy. Cuộc vận động bầu cử vào mùa thu 1974 được đánh dấu bằng một sự chán nản chung của dư luận quần chúng. Đến độ mà tất cả các kỷ lục về "không đi bầu" đều bị phá hết ! Năm chục phần trăm cử tri Mỹ đã không đi bầu. Đảng Dân Chủ đã đạt được một thắng lợi hoàn toàn áp đảo. Một vài tuần sau đó, ông Jay Lovestone từ lâu là cánh tay mặt của ông George Meany trong tổ chức Công Đoàn Lao Động, đã ước tính trong một cuộc nói chuyện riêng tư rằng trong số những người mới được bầu vào Quốc Hội đã có đến ít nhất 80 là những người còn ướt sũng đằng sau "xe"(2), có nghĩa là những trẻ con thất học (3) và vô trách nhiệm. Vả lại đó chỉ là một đánh giá còn quá thấp, bởi vì 3 tháng sau đó ( tháng 3 / 1975) trong lúc Đông Dương đang trong cơn khủng khoảng, người ta ước lượng con số của những tay "ngu dốt mới" đó đã vào được Hạ Viện Hoa Kỳ 140 đứa (4). Nhất là đặc điểm của bọn "ngu đần" nầy được thể hiện qua thái độ của con đà điểu, không cần suy nghĩ vẫn khăng khăng nhất quyết từ chối không muốn quan tâm đến tình hình của vùng Đông Nam Á Châu. Tự mãn là đã "thuộc một xã hội giàu có, bọn chúng không muốn nhìn ra ngoài những bức tường của chúng đang sống. "Chúng tôi không muốn nghe nói về Việt Nam nữa !" . Đó là câu mà "bọn chúng đã nhắc đi nhắc lại đối với những tiếng vọng từ bên ngoài. Đến khi mà phải gởi một phái đoàn dân cử đi sang Việt Nam để điều tra tình hình tại chỗ, thì người ta đã chọn những con "đà điểu" đẹp nhất. Thí dụ như James Mac Closky (đại diện cho "California), người đã từng khẳng định năm 1967 rằng không thể thắng Việt Cộng nổi; như bà Bella Abzug, một người tranh đấu cho phụ nữ và cho hòa bình đã từng nổi tiếng trong cuộc đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ. Cuộc điều tra của phái đoàn 8 người dân cử đó chỉ được tiến hành vỏn vẹn có 2 ngày và chỉ thừa nhận những thành kiến và định kiến mà họ đã có sẵn từ lâu rồi. Thái độ của những nhà lập pháp đó thật ra chỉ đưa đến một chiến dịch đầu độc rộng lớn từng được các chương trình truyền hình lớn và của báo chí như tờ New York Times, tờ Washington Post, những tập san như New York Review of books (5) (không phải đơn thuần là những tập san văn hóa mà là những phương tiện tranh đấu của những người trí thức như Mary Mac Carthy và 500 người khác với "ý nghĩ "tốt " cùng loại như thế. Những người to đầu cầm chịch cho trò chơi, cho chiến dịch nầy "chỉ là một nhóm hạt nhân bé nhỏ, nhưng hành động của họ được sức mạnh của truyền thông báo chí Mỹ nhân lên. Một vài nhà báo mà chúng tôi cho họ một biệt danh là "kẻ cả" như James Reston, Antony Lewis, Kraft hay Broder, mà những bài viết của họ được "nghiệp đoàn hóa" (có nghĩa là được phổ biến cùng lúc do một số lượng báo chí địa phương ở các tiểu bang và như thế là có một số lớn độc giã) đã làm mất uy tín của VNCH và những nhà lãnh đạo của họ một cách có hệ thống. Chính những người nầy đã hạ ông Nixon và những người dân cử mới nầy là hình bóng của báo chí đã tạo dựng cho họ lên. Tôi tin chắc là Quốc Hội không chấp thuận ngân khoản viện trợ "
________________________________________
Chú thích:
(1) trong thư bạn của tác giả toàn dùng danh từ "mầy" và "tao" vì họ là bạn chí thân, nhưng trong bản dịch chúng tôi phải dịch là "anh" và "tôi"
(2) nguyên tác bằng tiếng Mỹ "who are still wet behind the cars" (có vẽ khinh bỉ)
(3) nguyên tác của tác giả : des jeunes enfants ignares
(4) nguyên tác của tác giả : "nouveaux imbéciles". Lá thư dùng đến 2 lần danh từ "imbéciles" .
(5) về tên của các tờ báo, chúng tôi không muốn dịch ra tiếng Việt, để cho các độc giả nhận diện được rõ ràng những tờ báo Mỹ đó.
CHƯƠNG MƯỜI BA
QUỐC HỘI HOA KỲ BÀN CÃI VỀ NGÂN KHOẢN, TRONG LÚC NGƯỜI DÂN MIỀN NAM LO CHÔN CON MÌNH
N gày hôm qua 16 tháng 4, ngỏ lời cùng Hiệp Hội các Chủ Báo Hoa Kỳ với tư cách là vị khách danh dự, Tổng Thống Gerald Ford tuyên bố là "sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam là không sao tránh khỏi được" Ông đã xác nhận :
"Theo các điều khoản của Hiệp Định được ký kết tại Paris ngày 27 tháng giêng 1973, trong khuôn khổ một sự thỏa thuận với Miền Nam Việt Nam , Hoa Kỳ đã cam kết cung cấp chiến cụ thay thế và ngân khoản viện trợ kinh tế cho họ. Tôi nghĩ rằng Liên Xô và Cộng Hòa Nhân DânTrung Hoa cũng đã có những cam kết tương tự như thế đối với Miền Bắc Việt Nam . Những cam kết nầy hình như đã được thực hiện. Điều bất hạnh là về phần cam kết của chúng ta, Hoa Kỳ đã không thực hiện được những lời hứa của mình. Nếu chúng ta thực hiện đúng lời hứa thì Miền Nam Việt Nam không gặp cơn khủng khoảng quá bi thảm như hôm nay. Tôi nghĩ rằng trong trường hợp đặc biệt đó, chúng ta không thể trách Liên Xô hay Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc được. Nếu chúng ta giữ đúng lời cam kết với đồng minh của chúng ta thì thảm trạng nầy tôi tưởng là có thể tránh khỏi được ."
Từ hai ngày nay, ông Kissinger và ông Schesinger, tổng trưởng ngoại giao và quốc phòng đã cùng với tướng Weyand, tham mưu trưởng quân đội Hoa Kỳ sau chuyến đi thanh sát Việt Nam trở về, đã phải tranh đấu "một trận cuối cùng về ngân khoản viện trợ" với Quốc Hội . Họ đã nhấn mạnh đến sự cần thiết để chấp thuận 722 triệu mỹ kim mà Tổng Thống đã xin, như là một "ngân khoản tối thiểu rất cần thiết cho cuộc phòng thủ Miền Nam Việt Nam ". trong đó 326 triệu để tái trang bị cho 4 sư đoàn , để tập họp các đơn vị lại và tái trang bị cho họ, phần còn lại sẽ cung cấp cơ phận thay thế và dụng cụ y khoa và thuốc men để có thể "hổ trợ được cho 60 ngày tác chiến mãnh liệt"
Ông Kissinger đã nói tới trách nhiệm tinh thần tuyệt đối là phải nâng đở một đồng minh đang trong cơn nguy kịch . Vừa làm giảm nhẹ những khuyến cáo từ trước của ông, Kissinger vừa nhấn mạnh là nếu Quốc Hội từ chối không bỏ phiếu thuận cho ngân khoản viện trợ đòi hỏi thì "niềm tin và danh dự của Hoa Kỳ dù không bị sụp đổ thì cũng sẽ bị giảm đi". "Nếu hai bên muốn tiến tới một sự thương thuyết với nhau thì ít nhất tình hình quân sự phải được ổn định, và nếu không có được sự ổn định tiên quyết đó , thì chỉ có một khả năng thương lượng duy nhất mà thôi, đó là sự thương lượng để đầu hàng !"
Sau khi họp kín, tiểu ban ngoại giao Thượng Viện đã thỏa thuận trên nguyên tắc "chấp thuận một ngân khoản khẩn cấp" là 200 triệu mỹ kim dành để di tản trong vòng trật tự những công dân Hoa Kỳ ở Sài Gòn và "vài người Việt Nam " có thể bị đe dọa đặc biệt đến tánh mạng.
Trong lúc các cuộc bàn cãi đó tiếp tục một cách tế nhị ở Hoa Thạnh Đốn , thì trận chiến vẫn tiếp diễn ở chung quanh Xuân Lộc, và hiện đang mở rộng ra trên 100 cây số về hướng Đông và hướng Nam của thủ đô Sài Gòn . Các khu trục phóng pháo cơ thuộc căn cứ Biên Hòa cứ bay lên và đáp xuống theo nhịp độ từng 2 chiếc một, cách nhau mỗi 3 phút một. Cứ phải có 3 phi công ứng trực để tuần tự thay phiên nhau trong 6 giờ cho mỗi chiếc khu trục.
Phía cộng sản họ có một lực lượng đại bác phòng không rất hùng hậu cơ động bằng xe kéo . Các phi công phải nhận lấy nhiều sự nguy hiểm không lường được để yểm trợ cho các đơn vị bạn dưới đất, như trong khu vực Bình Giã (cách Sài Gòn 120 cây số về phía Đông Nam ) binh sĩ đang đánh xáp lá cà với địch. Chỉ trong vòng 2 ngày pháo binh Bắc Việt đã rót 8000 quả đại bác xuống các vị trí của sư đoàn 18 bộ binh . Liên lạc truyền tin với Bộ chỉ huy của tướng Đảo. người có trách nhiệm mặt trận Xuân Lộc bị mất đi và sau đó được thiết lập lại được . Binh sĩ của ông bám lấy trận địa, chống cự hết sức mãnh liệt gần như điên cuồng, và không để mất một tấc đất nào mặc cho lửa đạn như bão táp liên tục được trút xuống vị trí của họ.
Sáng nay, tôi rời khỏi thủ đô và đã qua cầu Bình Lợi với một tóan 10 vị bác sỉ, do một người bạn của tôi hướng dẫn, bác sĩ Triễn. Ông bác sĩ 60 tuổi nầy là một người công giáo thuần thành, đã có 11 đứa con, có một đức tin và một tinh thần từ thiện không hề suy giảm, người ta thường gọi ông là "bác sĩ của người nghèo" vì ông từ chối không nhận một thù lao nào từ những người nghèo khổ mà ông thường chăm sóc mỗi ngày .
Qua cầu rồi chúng tôi đi theo xa lộ Đại Hàn, và đi khoảng 10 cây số thì đến một bìa làng Tam Bình, một đồn điền cao su chừng 30 mẫu có bóng râm, nơi đó có trên 20 ngàn dân lánh nạn đang ở đó: một đám người nghèo, khổ, ốm gầy, áo quần tơi tả, đi chân đất, toàn là đàn bà, trẻ con và người già. Hầu hết đều không có gì cả, có khi nằm ngay dưới đất, có người thì che tạm lều bằng một vài mảnh ván thùng, hay giấy bồi. Họ đến đây từ 10 tỉnh khác nhau, có nhiều người từ Quãng Trị và Huế, phải đi bộ trên 600 cây số mới đến được bờ biển rồi chen chúc nhau trên những chiếc thuyền đưa họ tới bến tàu ở Sài Gòn rồi từ đó nhờ những anh em công giáo đưa họ đến đồn điền cao su nầy, nơi đây ít nhất họ cũng tránh được hỏa tiễn và đạn pháo binh của Bắc Việt được trong vài ngày.
Các bác sĩ sấp xếp chỗ làm việc ở ngay bìa đồn điền, trống trải, để săn sóc cho các bệnh nhân. Hơn 800 người bệnh (rét rừng, sưng phổi, .. . . ) ngồi bẹp dưới đất yên lặng chờ đến phiên mình được khám. Trẻ con thì mình đầy ghẻ, mắt thì sưng húp lên vì nhặm, vì toét, hay run lên cầm cập vì rét rừng. Có nhiều bà bị thương và không được thay băng trong 3 ngày nay, nên vết thương hôi thúi không chịu được nhưng không nghe người nào than vãn một câu.
Một vị linh mục mặc áo chùng, vậm vỡ, đầu húi ngắn tới đây bằng mô tô. Vừa xuống xe là cả đám đông vây quanh ông, chào ông và lễ ông nữa. Đó là cha Joachim Châu, ở ngay họ đạo gần nhà thờ Đức Mẹ Fatima. Ông đi dài trên đường dọc theo các hàng cao su , và tôi đi theo ông . Ông nói với tôi :
- "Tình hình có vẻ khả quan hơn đôi chút rồi. Binh sĩ thuộc sư đoàn 5 bộ binh đã cho tôi 200 tấm lều cá nhân, và cho tôi mượn 3 xe bồn chứa nước.. Tôi lấy được của anh em thiết giáp 100 kí lô xà phòng và 200 cái thau nhựa của Mỹ. Phần các bác sĩ thì mang theo 500 kí thuốc men, nhưng chắc không đủ đâu, Ở đây đã có nhiều trường hỡp bệnh thiên thời và chúng tôi hết thuốc chủng ngừa rồi. Từ khi Nha Trang bị thất thủ, viện Pasteur ở thành phố đó không cung cấp được gì cho mình hết, và viện Pasteur ở Sài Gòn thì không thể cung ứng nổi nhu cầu đòi hỏi. Mỗi đêm, đã có từ 10 đến 12 đứa trẻ chết. Riêng tôi thì đang chờ đoàn xe chở gạo đến: ba chiếc ghe chài loại 10 tấn, có thể đủ để nuôi những người khốn khổ nầy trong 2 ngày ."
Ngay sát bên mấy lều đầu, khoảng 20 ông già cởi trần trùng trục lòi xương ra, đang dùng cuốc cặm cụi đào đất. Trước mấy hố vừa đào đó có hai hàng dài thây trẻ nít được quấn chiếu hay bọc ny lông trong suốt , đó là 13 đứa vừa chết đêm qua.
Ngồi trước thây của con mình, mấy bà mẹ đờ đẫn và im lặng không còn sức đâu mà khóc được nữa. Tôi đứng lặng người tại chỗ, không sao có được một cử động nào. Nói gì bây giờ đây ? và làm gì bây giờ đây ? Phải có một sức bật nào đó của cả thế giới để bốc tất cả những người nầy ra khỏi cảnh nghèo đói, sợ sệt và chết chóc ! Một ông già mặt mày nhăn nheo tiến đến gần tôi và nức nở nói với tôi:
-"Ông là một nhà báo Pháp phải không ? Ông hãy viết trên báo của ông là hãy giúp chúng tôi cứu những đứa trẻ nầy, chúng nó vô tội mà. Phải cho chùng nó một cơ hội để sống sót.. Còn chúng tôi hả, chúng tôi có thể chết, chúng tôi đã chịu quá nhiều thử thách rồi, quá nhiều điều khủng khiếp rồi, quá nhiều tang tóc rồi, nhưng chúng nó, chúng nó chỉ mới bắt đầu thấy ánh sáng, chúng nó còn quá yếu đuối. . . .Chúng tôi không còn sữa cho chúng nó nữa. Hằng ngày chúng tôi chỉ có thể cho chúng nó mỗi một chén cơm . Rồi đây trong vài ngày nữa, khi những cơn bão đầu tiên của mùa mưa ập xuống thì chúng sẽ nằm dưới bùn.Muỗi mòng sẽ hoành hành và con số tử vong sẽ tăng lên gấp 4 lần ! Tôi van ông, ông ơi, ông hãy làm một cái gì đi !"
Tôi lấp bấp một vài lời hứa. Cổ họng tôi co thắt lại, và tôi không có can đảm nhìn thẳng vào cặp mắt trang nghiêm chững chạc nhưng đầy vẻ thất vọng của ông già nầy.
Nếu chiến trận đến gần chỗ nầy, nếu đạn pháo hay rốc kết lại bắt đầu rơi xuống đây, xuống cái trại tạm coi là còn có cơ may cuối cùng nầy, thì những người khốn khổ kia sẽ đi đâu ? trong lúc họ gần như không còn sức để lê bước nữa ?
Linh mục Joachim Châu đã có dựng tạm một bàn thờ trên một cái bàn khập khiễng, đặt bộ đồ làm lễ bằng bạc lên tấm trải vá víu, rồi mặc lại bộ đồ giáo sĩ của ông, xong đâu đó ông bắt đầu làm lễ trên một vùng đất rộng đầy cỏ khô cằn. Rất thong thả và trong vòng trật tự, hàng ngàn tín đồ chạy loạn quỳ xuống thành một vòng chung quanh bàn thờ và lớn tiếng cùng cầu nguyện. Tất cả cùng nắm chặt tay nhau họ làm thành một sợi giây thiêng tôn kính, gắn chặt với nhau bằng sự nghèo khó khổ sở mà họ đang chia sớt với nhau. Từ những tín đồ công giáo rách tả tơi nầy, kết giây thân ái chặt chẽ với nhau trên mảnh đất khô cằn sỏi cát nầy, tôi thấy toát ra một cảm tưởng thật lạ kỳ đầy phẩm cách, đầy ước vọng làm cho người ta phải kính nể. Bị người đời và cả Chánh Phủ bỏ rơi, lạc loài lánh nạn trong một mảnh đất nhỏ bé đầy lùm bụi bị lãng quên, không ai biết tới nầy, xa đường, xa lộ, vắng vẻ không ai lui tới nầy, trong một giai đoạn chạy loạn mà không ai còn một món gì trong tay, họ chỉ còn biết giao số phận mình cho Chúa một cách mù quáng. Nhưng Chúa có còn nghe họ hay không đây?
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
"PHNOM PENH THẤT THỦ"
" MỘT TRIỆU CHỨNG ĐÁNG BUỒN CHO SAI GON"
Thứ Sáu, ngy 18tháng Tư năm 1975
P hnom Penh đã thất thủ. Bị vây trong năm tháng liền, bị pháo binh 105 và rốc kết nã vào, thủ đô Nam Vang của Campuchia đã chống trả rất can đảm trong vô vọng, Bây giờ thì coi như đã hết rồi .
Nhiều cánh quân kháng chiến, mặc quân phục bằng vải thô đen, đầu đội nón cối Trung Cộng, trang bị súng liên thanh và Súng Không Zdật (SKZ), đã tràn vào thành phố, Không đầy 48 giờ sau khi tòa Đại sứ Hoa Kỳ vừa mới di tản xong là Khmer Đỏ đã làm chủ đất nước Campuchia. Xuất phát từ trong rừng, từ những đầm lầy và từ đêm tối , họ đến Phnom Penh để trừng phạt bọn "phản động", đến để xóa hết tàng tích của bọn tham nhũng tư bản và để trị vì dân chúng Campuchia. Họ dùng bá súng đập phá hết cửa nhà của những người mà họ gọi là "trưởng giã", vứt hết các xe cộ, các máy chơi nhạc, những máy thâu thanh , những lò tự động của mọi người dân vào những bãi rác công cộng.Họ bắt buộc dân chúng ở thành phố mà họ gọi là đã quá hư hõng vì đồng tiền,vì phương tiện và những tiện nghi, phải đi hết về đồng ruộng.
Sự thất thủ của thủ đô Campuchia là một biến cố đe dọa nặng nề đối với Miền Nam Việt Nam . Mà còn hơn thế nữa với sự việc Khmer Đỏ đã chiếm được thành phố nầy và cái lối mà người Mỹ đã bỏ rơi thủ đô Pnhom Penh nầy , Sài Gòn đã có một cảm nhận rất nặng nề vừa như một xúc phạm , một sự sỉ nhục, vừa là một loại triệu chứng bất tường cho chính mình. Dưới sự bảo vệ của một lá chắn bằng khu trục phản lực cơ bay lượn thường trực trên vòm trời của sân bay Pochentong, gần bốn chục chiếc trục thăng đã đáp xuống một thành phố đang bị vây hãm và đang bị pháo kích, các Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ với một sự can đảm, một sự chính xác và một hành động khôn ngoan, đã bốc đi hết 82 người Mỹ và trên 100 cộng sự viên người Khmer. Nhưng hành động nầy không được đánh giá là một hành động đầy tính chất kỹ thuật quân sự mà phải được coi là một sự cố ý bỏ rơi một cách lạnh lùng, có tính toán và dự trù từ trước của Hoa Kỳ. Người Việt Nam không thể không liên tưởng đến một hành động song song giữa tình hình của Campuchia và tình hình của quốc gia họ. Họ sẽ nói: "Hoa Kỳ đã can thiệp quân sự ở Campuchia trong khi họ chánh thức tố giác sự hiện diện của các sư đoàn Bắc Việt trên lãnh thổ nầy. Họ đã cho quân đội và không quân tham chiến ở đây, họ đã nhìn nhận Chánh Phủ của Tổng Thống Lon Nol ngay sau khi ông Hoàng Sihanouk bị truất phế và lật đổ. Họ đã can thiệp vào nội bộ nước Campuchia. Đại sứ John Dean của họ đã tự coi mình như một viên quan thái thú, chấp chánh ở đây. Rồi đùng một cái, không có một lời báo trước không có một câu giã từ đối với những người mà họ bỏ rơi lại phía sau, họ rũ áo ra đi mà không muốn ở nán lại một giây nào nữa để tính sổ cho hành động can thiệp quân sự của họ ở đây: 5 năm cho cuộc chiến, năm năm tang tóc và điêu tàn, với bao nhiêu tỉnh thành làng mạc bị tàn phá, và một phần năm dân chúng bị chết hay bị thương,
Những cuộc tranh cãi kéo dài vô tận giữa Lập Pháp và Hành Pháp Hoa Kỳ về một sự "cần thiết tối khẩn" cho một ngân khoản viện trợ cho Phnom Penh, cuối cùng bị ngưng trệ vô điều kiện vì những người có trách nhiệm của Hoa Kỳ , đã thực sự báo động cho dân chúng Miền Nam Việt Nam . Họ còn bồn chồn lo sợ hơn nữa khi thấy sự phản đối công khai và hiển nhiên của đa số Quốc Hội Hoa Kỳ đối với những đòi hỏi nhắc đi nhắc lại của Tổng Thống Ford mong muốn giúp cho Sài Gòn, cũng như một cuộc thăm dò dư luận gần đây của đài NBC theo đó 70 % dân chúng Mỹ tin chắc rằng dù Hoa Kỳ có làm gì đi chăng nữa thì cũng không thể ngăn cản được Miền Nam Việt Nam bị rơi chắc chắn vào tay cộng sản . Những người Việt Nam đang lo sợ nhất là những người thuộc mấy thành phần rõ rệt sau đây: nhiều nhất trước hết là những người trực tiếp làm việc trong các cơ sở dịch vụ của Hoa Kỳ - như phòng thông tin tuyên truyền và báo chí - các nhân viên tòa đại sứ, các nhà trí thức, các giáo sư, các nhà xuất bản hay chánh trị gia đang hoạt động (số nầy hơn 40.000) kế đó là những nhà hào phú: các ông giàu có nhờ biết lợi dụng chiến tranh (cũng đến hằng ngàn ) đang tìm cách mua giấy phép xuất cảnh hay giấy chứng nhận là công dân ngoại quốc với bất cứ giá nào. Ngoài ra còn có tất cả cán bộ các cấp trong guồng máy quân sự và hành chánh của Miền Nam Việt Nam các sĩ quan cao cấp, sĩ quan an ninh quân đội , tỉnh trưởng hay quận trưởng, thanh tra cảnh sát. . . những người đang lo sợ nếu cộng sản chiếm được Miền Nam . Con số những người nầy cũng từ 150.000 đến 200.000. Đối với 20 triệu dân thì con số nầy chỉ đại diện cho một thiểu số mà thôi (chừng 1 %).
Hầu hết dân chúng Miền Nam khiêm nhường và siêng năng đều gắn liền với đồng ruộng của họ. Họ không muốn tự đặt mình dưới sự cai trị của quân thù, nhất là những người đến từ Miền Bắc. Bằng chứng là đã có hằng bao nhiêu ngàn nguời dân sống chết cũng phải bỏ chạy. Họ không chạy đến những người tự xưng là "giải phóng cho họ" và họ cũng không chờ đợi những anh "giải phóng" nầy ở tại làng của họ. Tất cả họ đều kéo nhau chạy về Sài Gòn vì bàn tay sắt khát máu của cộng sản đã làm cho họ run sợ.
Hơn nữa, tránh được làn sóng hoảng loạn lan truyền trên khắp miền Trung của đất nước, Miền Nam đang cứng rắn chịu đựng mối đe dọa của các sư đoàn Bắc Việt.Ý thức kỳ thị và óc địa phương đã bắt rễ thật sự rồi! Sài Gòn và Đồng Bằng Cửu Long là vùng đất cũ của người Nam Bộ, và họ muốn giữ lấy cho họ. Quân dội Miền Nam sẽ đánh và sẽ cố giữ từng tấc đất của họ. Các đơn vị địa phương quân tình nguyện tham gia các cuộc hành quân. Tại Vùng 4, tướng Nam giữ chặt tính chủ động, đường sá vẫn được mở cho mọi sự lưu thông và Sài Gòn vốn được tiếp tế đều đặn, không thấy có dấu hiệu hoảng hốt nào.
Chánh Phủ mới, một "Chánh Phủ chiến đấu" , cuối cùng đã được thành lập xong. Thành phần gồm có những người liêm khiết, những kỹ thuật gia có giá trị, những người lãnh đạo các trường đại học, các lãnh tụ tôn giáo, công đoàn và lần đầu tiên hầu hết đều là những người gốc Miền Nam . Nhưng dù cho có một sự hợp tác rộng rãi của mọi thành phần dân chúng, dù binh sĩ có đầy đủ tinh thần can đảm và ý chí chiến đấu, tương lai gần đây của Miền Nam vẫn phải tùy thuộc vào thái độ của người Mỹ. Muốn đương đầu với môt kẻ thù cứng rắn và cương quyết, được võ trang thật hùng hậu, lại được các đồng minh lớn Liên Xô và Trung Cộng hậu thuẫn vô điều kiện, Miền Nam cần phải có thêm thật nhiều võ khí nặng, đạn dược, cơ phận thay thế và xăng dầu. Chỉ có Hoa Kỳ là có thể cung cấp được ngần ấy thứ mà thôi. Báo chí Mỹ loan báo là Quốc Hội sẽ cho biết quyết định của họ vào ngày mai 19 tháng 4.
Nếu các nhà Lập Pháp Hoa Kỳ chấp thuận giải tỏa ngân khoản do Tổng Thống Ford đề nghị, thì Chánh Phủ chiến đấu mới thành lập nầy còn có cơ may làm tròn nhiệm vụ của họ được. Nhưng nếu không có một sự trợ giúp về tiếp vận và tài chánh, thì Chánh Phủ này sẽ chỉ là một Chánh Phủ chyển tiếp mà thôi, đối diện với một thảm kich tấn thối lưỡng nan: hoặc bán đứng Miền Nam và đưa Miền Nam cho Hà Nội giám hộ, hoặc chống cự lại như kiểu Campuchia với cái giá cuối cùng của một sự tắm máu thật kinh khủng.
Những tin tức từ mặt trận đưa về thường không đầy đủ. Ba sư đoàn Bắc Việt được rút ra từ sau khi Campuchia bị hoàn toàn thất thủ, đã được tung ra để cô lập hoàn toàn tỉnh Tây Ninh, thủ đô tôn giáo của Đạo Cao Đài nằm về hướng Bắc của Sài Gòn khoản 100 cây số. Bốn sư đoàn khác tiến về hướng Đông cốt đánh bật chốt Xuân Lộc . Trong khu vực nầy lực lượng Miền Nam ngày hôm qua đã thành công giành được chút không khí khi họ tiến lên phía trước khoảng 10 cây số, nhưng sau đó bị Bắc Việt cầm chân bằng nhiều cuộc phản công, đồng thời các đơn vị Bắc Việt đã lợi dụng sự cầm chân nầy để tiến đánh bọc hai bên sườn quân Miền Nam .
Hai Trung đoàn thuộc sư đoàn 7 Bắc Việt khóa cứng ngã ba Dầu Dây (Suzannah) đồng thời tiến về hướng Trảng Bom. Quân Chánh Phủ tung ra lực lượng trừ bị cuối cùng: sư đoàn 5 và một lữ đoàn Dù.
Chánh quyền quân sự đã phải cho lệnh về an ninh trở lại cho dân chúng: đào hầm trú ẩn, thành lập các toán phòng thủ thụ động và cứu thương.
Chiếc tàu hàng già nua Taboa đã phải ngược dòng sông Sài Gòn mang thuốc men và dụng cụ giải phẫu cho các bác sĩ Pháp thuộc bệnh viện Grall.
Lúc nãy, tôi có gặp được bạn tôi là ông Hoàng đức Nhã, cựu bộ trưởng Thông Tin, ở tại biệt thự của ông trong khu vực của bệnh viện Grall. Ông có vẻ bận rộn nhưng cũng tâm tình với tôi một vài điều:
" Ngưòi Mỹ chơi trò lạ lùng lắm . Họ không bao giờ ngưng tiếp xúc với "phía bên kia". Phương tiện họ dùng cũng giản dị thôi . Hằng tuần vẫn có một chiếc phi cơ Mỹ do người Mỹ lái ra Hà Nội . Phi cơ đó chở những nhân viên đi phép thuộc phái đoàn quân sự Bắc Việt trong Ủy Ban Kiểm Soát Ngừng Bắn đang đóng ở Tân sơn Nhứt. Chúng tôi biết là viên phi công Mỹ lái chiếc máy bay liên lạc nầy, có mang theo một số thư mật của Kissinger gởi cho Thủ Tướng Bắc Việt . Chúng tôi biết từ một nguồn tin chắc chắn là cách nay mấy ngày có một đặc phái viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đến Hà Nội , mang theo một lá thư của Chánh Phủ Hoa Kỳ . Bức thư đó đã bảo đảm với Bắc Việt rằng trong trường hợp quân đội Miền Nam sụp đổ hoàn toàn, thì Hoa Kỳ sẽ cho rút hết toàn bộ nhân viên của sứ quán Mỹ ở Sài Gòn " với điều kiện là lực lượng cộng sản không được bắn vào các trực thăng chuyên chở đang lo việc di tản nầy ". Để cho lời cảnh cáo nầy được thêm nặng ký, bức thư nầy cũng có nhấn mạnh với lãnh đạo Hà Nội rằng : "các pháo đài bay B.52 hiện đang đậu trên căn cứ ở Thái Lan và hạm đội VII với tất cả các hàng không mẫu hạm của mình đã ở trong tình trạng báo động." Bất cứ một sơ suất nhỏ nào của bộ đội Bắc Việt cũng sẽ dẫn đến những hành động trả đủa thật ghê gớm."
Tin tức nầy có thể là một "ngòi nổ" lớn được lắm đó, nhưng tôi tin chắc rằng người Mỹ sẽ đính chánh ngay thôi, và dù sao hệ thống kiểm duyệt của Chánh Phủ cũng phải xóa ngay điện tín của tôi. Và hơn nữa tôi không có môt phương tiện nào để kiểm chứng hay phối kiểm được..
Không còn nghi ngờ gì nữa, những ngày sắp tới sẽ là những ngày quyết định. Trong khi chờ đợi, biện pháp duy nhất để tránh sự ám ảnh về sự bí mật và nguồn tin nầy là phải ra sát mặt trận.. Bài toán tương đối cũng không khó giải quyết: chiến trận chỉ còn cách đây chưa tới một giờ lái xe. Ở một vài điểm người ta đang đánh nhau chỉ cách thủ đô chừng 40 cây số.. Tại Biên Hòa pháo binh bắn gần như liên tục, không ngừng. Pháo binh cộng sản thì nã vào các vị trí (đồn) của bộ binh canh gác hay phòng thủ chung quanh vòng đai căn cứ không quân, và pháo binh của Chánh Phủ thì bắn phản pháo.. Những quả đạn pháo 130 ly của Liên Xô chạm mục tiêu nổ rền trời và làn sóng âm thanh vang dội nặng nề trong vòng hàng trăm thước chung quanh..
Trên các đường bay của căn cứ không quân, trông thật là nhộn nhịp trong không khí chiến đấu. Các chiến đấu phóng pháo cơ bay lên và đáp xuống với một nhịp độ 3 chiếc mỗi 5 phút. Các phi công với quần áo bay và súng cá nhân nai nịch gọn gàng lúc nào cũng sẳn sàng chờ bay ngay tại phi cơ của mình, trong lúc mà các thợ máy và các nhân viên lo đổ xăng và tiếp thêm đạn dược, sau đó cất cánh ngay sau khi thấy chiếc phi cơ của mình đã được đầy đủ bom và rốc kết.
Có nhiều anh phải bay đến 8 phi vụ mỗi ngày.
Đối với anh em phi công, chuyện quan trọng là phải định được vị trí của ánh sáng lóe lên lúc đạn đại bác của pháo 130 liên xô được bắn vào căn cứ của mình, để họ có thể dùng vài tràng đại liên chính xác, vô hiệu hóa khẩu đại bác đó. Nhiệm vụ không phải dễ dàng lắm.
Những phi cơ quan sát nhỏ hơn và các trực thăng thay phiên nhau để có mặt thường trực trên vòm trời căn cứ và đặc biệt canh chừng khu vực rừng Tri Han. Các khẩu pháo130 được ngụy trang rất kỹ duới các tàng cây to cứ mỗi 2 phút bắn đi hai tràng 6 viên đạn đại bác vào căn cứ rồi sau đó thì chạy ngoằn nghoèo di chuyễn đi tìm chỗ khác cách đó từ 2 hay 3 cây số.. . .
Tôi phải chờ ở đây lâu đến 2 tiếng đồng hồ để tìm trực thăng đi Xuân Lộc, nhưng vô ích, nên tôi đành phải dùng xe đến Hố Nai, một cộng đồng 60.000 giáo dân tỵ nạn từ Miền Bắc vào năm 1954.. Người ta gọi Hố Nai là "Hà Nội nhỏ", gồm có một cuộc đất cao và một cuộc đất thấp; đây là một thị trấn nhỏ nhưng rất năng động, đông dân, và quy tựu chung quanh các thánh đường (gần 20 nhà thờ), mỗi khu có một nhà thờ riêng, có linh mục riêng tuy ốm yếu nhưng được mọi người tín đồ tin theo một cách mù quáng.
"Chúng tôi chỉ tin chắc có một thực tế, Cha Sửu nói với tôi, là chúng tôi phải chiến đấu. Chúng tôi không có con đường nào khác để chọn lựa, chúng tôi đã từ bỏ Miền Bắc hai chục năm nay
rồi, để chạy khỏi chế độ cộng sản . Khi chúng tôi đến đây, chúng tôi chẳng có gì. Không tiền bạc, không dụng cụ. Chúng tôi chỉ mang theo với chúng tôi những cái chuông bằng đồng của
các nhà thờ cũ của chúng tôi , những tượng thánh bằng gỗ chạm và vật dụng làm lễ. Chúng tôi đã xây cất thánh đường mới, cất nhà cho chúng tôi , trồng vườn cây ăn trái và những vườn
hoa nầy cưốp đất từ những cánh rừng nầy, và chúng tôi có phải chết thì sẽ chết ở đây thôi !"
Giáo dân ở đây rất có kỷ luật, rất siêng năng, và được tổ chức rất chặt chẻ, đoàn kết với nhau chung quanh các giáo xứ có ảnh hưởng còn hơn Chánh Phủ nữa. Giờ đây họ đang chuẩn bị để chiến đấu. Để chứng tỏ ý chí chiến đấu và lòng tin vững mạnh của mình, các linh mục mời những đồng bào tản cư từ vùng Xuân Lộc hãy ở lại Hố Nai, Có hằng ngàn người được chia ra ở trong những lều thấp được dựng lên quanh các nhà thờ, hay dưới sân trường học, được giáo dân và hướng đạo sinh săn sóc cho họ chu đáo.
Ông xã trưởng Nguyễn xuân Phiệt đã khẳng định với tôi : " Không có một người nào sẽ rút lui. Tôi có 4 tiểu đoàn nhân dân tự vệ và xin tỉnh trang bị cho chúng tôi . Chúng tôi muốn có súng không zdật, súng liên thanh nặng và súng M.16. Nếu được trang bị như vậy chúng tôi sẽ dùng nhà thờ làm căn cứ để giữ vùng nầy. Nếu không thì chúng tôi cũng sẽ chiến đấu nhưng với súng ống xấu hay bằng vũ khí thô sơ . Chúng tôi không có gì phải nói với bọn Quốc Hội Hoa Kỳ và Tổng Thống Ford của họ. Mọi người đều nói nhiều quá, nhưng lời nói không dùng được việc gì hết. Bây giờ chỉ có hành động mà thôi. Mỗi gia đình của chúng tôi đều đã mất hoặc một người con trai, môt đứa em hay một người cha, hy sinh trong chiến trận, trong hàng ngũ của quân đội . Nếy Hoa Kỳ giúp chúng ta thì cũng tốt nếu họ bỏ rơi chúng ta thì cũng tốt thôi, không có gì gọi là quan trọng hết.. Tựu trung coi như chúng tôi không còn đất để mà lui nữa. Chúng tôi sẽ ở nguyên tại đây để chứng tỏ đức tin của chúng tôi . Chúa sẽ là chỗ dựa duy nhất của chúng tôi và chỉ có Chúa là không bao giờ phản bội chúng ta ! .
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
THỜI KỲ CỦA NHỮNG TRÁI BOM "THÍ NGHIỆM"
Thứ Bảy, ngày 19 tháng Tư
Ở đầu một đường bay, những người lính chữa lửa đang chữa cho một phi cơ phản lực 2 động cơ, bị trúng một hỏa tiễn SA.7 của Liên Xô lúc mới vừa cất cánh . Cạnh một chiếc xe vận tải tôi nhìn thấy 4 bao ny lông dài đã đóng kín. Đó là những gì còn nhặt lại được từ thân thể của phi hành đoàn 4 người .
Vào lúc 2 giờ trưa, tôi lại lên được một chiếc phi cơ vận tải "chinook" để bay lên vùng mặt trận. Tôi được tháp tùng với khoảng 40 anh em biệt kích người vậm vở, gọn ghẽ trong bộ quân phục đen, được trang bị súng phóng lựu và tiểu liên 45 ly ngắn nòng M3 A.1 bá xếp. Huy hiệu mà họ mang trên tay áo là một con ó và một chiếc dù được thêu trong một hình tam giác, chỉ cho tôi biết họ thuộc lực lượng biệt kích dù Lôi Hổ (cọp bay). Đây là một đơn vị đặc biệt, chuyên hành quân ban đêm từng toán 3 người một, trong vùng địch, có nhiệm vụ tìm vị tríđịnh, các trục tấn công của địch, sau đó báo cho pháo binh và không quân bạn để có hành động phản ứng kịp thời.
Giờ đây tôi lại đang trên đường đi đến Xuân Lộc : đây là lần thứ ba trong tám ngày nay tôi lên khu vực nầy, mà lần nầy thì chuyến đi có vẻ thoải mái và anh em đoan chắc với tôi là đến một vị trí tương đối yên tĩnh và sạch sẻ hơn . Chiếc trực thăng bay độ 15 phút thì đến vùng Xuân Lộc , bay trên quốc lộ 1 và ngoặc hẳn về hướng Đông, hạ thấp xuống độ 700 bộ đến một vườn cao su bạt ngàn thẳng tấp.
Chiếc "chinook" xuống rất nhanh. Từ trên nhìn xuống, Xuân Lộc ít nhất nếu còn gì thì cũng chỉ có một quang cảnh mờ nhạt. Rất lo ngại tôi ghi nhận là có nhiều chùm lửa, cột khói do đạn pháo cứ rơi đều xuống vòng đai đã bị tàn phá. Chiếc "chinook" của chúng tôi hạ cánh đáp xuống làm tung bụi mù đỏ thẳm. Khoảng 50 người dân rách rưới chạy lại bao quanh chiếc trực thăng. Có nhiều người đã bị thương ; và vẫn một cảnh tượng cũ : các bà mẹ bế con trẻ áo quần đầy máu, vẻ mặt hốt hoảng đang muốn đi khỏi đây. Một chiếc xe Jeep, chạy gần như nhảy qua các đống gạch vụn, chở tôi đến một trạm cứu thương.
Mỗi một làn gió nhẹ đưa tới là có một mùi hôi thối kinh người từ mấy trăm xác chết của cộng sản Bắc Việt đầy ruồi nhặng xông lên.. Một người y tá nói với tôi :
- "Chúng tôi làm gì có thì giờ để chôn cất họ, chỉ kịp rải lên mình họ một lớp vài vá cát đá vụn mà thôi".
Ở trạm cứu thương nầy đầy những quân nhân bị thương. Có hai vị bác sĩ trẻ đang làm những gì mà họ có thể làm được dưới một ánh đèn mờ màu xanh. Họ gọt, họ cắt xén, khâu lại, hay cưa bỏ... Có nhiều người mang những vết thương kinh hoàng đầy mủ trắng. Các tay chân bị cắt được vất lẫn lộn vào một thùng phuy xăng mà các anh y tá đã mang tới lúc còn đầy xăng. Các mảnh vụn khác thì được chôn ở một hố được đào lên cách đó chừng 20 thước có tưới thuốc khử trùng và được lấp đất lại cẩn thận.. Ngoài sân trời đang vần vũ , mấy đám mây đen kịt đang là đà dưới chân trời. Cơn bão lại sắp đến.
Tôi cố tìm đại tá Phước, chỉ huy trưởng đơn vị biệt động quân . Một trung sĩ cho tôi biết là ông đang ở gần nhà bưu diện, nơi sắp có cuộc đụng độ mạnh. Mưa đã bắt đầu rơi nặng hột xuống mảnh đất khô khan đầy máu nầy, và sau đó thì mưa to, mưa quá to và chỉ trong vài phút đã làm ướt ngập trũng hết nơi đây. Anh em binh sĩ ai cũng phải choàng áo đi mưa vào. Hằng đàn chuột to từ những lổ cống hay từ các bức tường sập tuông ra. Có đến hằng ngàn con xám đen, từng đàn, lì lợm tuông ra từ những đống thây ma chôn vội vàng.
Một sĩ quan biệt động quân dẫn tôi đi và bắt tôi phải ẩn nấp trong một hầm trú ẩn lụp xụp trong đó có khoảng một tiểu đội với súng liên thanh nhẹ được bố trí đạn đã lên lòng.. Viên trung úy liên lạc vô tuyến. Mưa càng ngày càng to. Các anh em binh sĩ dù nằm hay ngồi dựa lưng sau bức tường sập tất cả ai cũng đều trong tư thế sẵn sàng chờ chiến đấu.
Vào lúc cơn mưa bão đang hoành hành, một tràng đạn rốc kết bay xuống nhà bưu điện và tất cả những vùng quanh đó. Tất cả phải chen nhau xuống hố chiến đấu đầy bùn đầy nước nhầy nhụa hay nấp trong những ô tường không nóc để chịu trận, nghe tiếng gầm rú xé tai và tiếng nổ chát chúa của các quả rốc kết. Và sau rốc kết lại đến phiên đạn bách kích pháo, khô khan hơn, chát tai hơn và chính xác hơn. Và thình lình, nhìn xuyên qua cơn mưa tầm tã, xuất hiện những bóng người mặc quân phục xanh sậm. đội nón cối tròn, sát cánh nhau đi tới: đó là bộ đội Bắc Việt đang tấn công. Họ đến từ dường rày xe lửa. Viên trung úy ra hiệu và các súng liên thanh bắt đầu đua nhau nhả đạn. Toán nầy ngã gục nằm xuống lại có toán khác tràn lên. Họ tiến vào bưu điện. người ta nghe được nhiều loạt nổ của lựu đạn trong nhà bưu điện, và hai tiếng nổ thật lớn sau đó. Một mảnh tường bay lên vụn vằn. Đó là 2 tên đặc công cộng sản đang mở đường bằng cốt mìn. Một toán người nhỏ thó đang tràn vào nhà bưu điện. Cùng lúc với cứ điểm nầy, nhiều loạt tấn công khác đã được tiến hành.
Cộng sản Bắc Việt hiện đang ở thế mạnh. ít nhất củng phải đến một tiểu đoàn. Họ bắn liên tục không ngừng. Lần xung phong sấp tới, chắc là đến lượt chỗ của chúng tôi . Nhưng một hàng rào chính xác và hữu hiệu của đạn pháo 105 ly trên chiến xa ở phía sau chúng tôi chừng 800 thước đã cứu vãn tình thế. Những trái đạn đi rồi nổ trước mặt chúng tôi làm chúng tôi muốn ngưng thở, nhưng đã sát hại kinh khủng hàng ngũ của cộng sản . Qua 10 phút bắn cuốn chiếu, pháo đội ngưng bắn. Các biệt động quân ra khỏi hầm trú ẩn và phản công. Những gì còn lại của nhà bưu điện đang cháy như một ngọn núi lửa. Đến 5 giờ chiều, tất cả coi như xong.. Châu vi bãi chiến trường gần như quang đãng, cơn bảo củng đã qua, bầu trời lại xanh trở lại. Một sự yên tĩnh không tả được đang ở đâu đây, chung quanh chúng tôi .Chỉ có một con chó phèn duy nhất đang đau khổ chạy quanh khu nhà sập đổ nát, kêu la ầm ĩ vì bị các mảnh đạn trên lưng.
Tôi quay trở lại bản doanh của sư đoàn . Dưới chân của tượng Chúa trước nhà thờ, một anh lính Dù đội mũ nồi đỏ đang quì cầu nguyện, hai tay chấp lại nhưng vẫn tì trên khẩu súng của mình..Tôi có cảm tưởng là thành phố nầy đã bị cày xới lên bằng máy ủi . Tất cả chỉ còn là những đống gạch vụn của các bức tường đổ nát, các tấm tôn và gạch vữa bị nhào đi nhào lại với nhau rải rác thành từng đống một, và trên tất cả là chiếc thánh giá của nhà thờ với tường lỗ chỗ dầy vết đạn, và những lỗ hổng tác hoác. Trong dãy nhà của trường đạo đầy lỗ thủng đạn, tôi gặp đại tá Hiếu, 40 tuổi, quân phục vẫn láng cót, với chiếc nón vải đi rừng nhưng vẫn có khẩu súng lục đeo ngang lưng. Ông rất tự hào về trung đoàn 40 của ông, đơn vị đang phòng thủ cả mặt Nam của thành phố. Ơng ta nói:
"Anh biết không , chúng tôi có thể đánh họ chớ sao không . Chúng tôi đã đẩy họ ra khỏi thành phố rồi đấy chứ, và chúng tôi không rời khỏi thành phố nầy đâu. Giả thiết mà chúng tôi có được một số đại bác 130 quỷ quái mà họ dùng để nã vô tội vạ vào chúng tôi! Tinh thần dù sao cũng vững lắm, Chúng tôi đã lãnh đủ 12 ngàn quả đạn pháo và ba ngàn quả rốc kết từ ngày 9 tháng 4 đến nay. Cộng sản đã tấn công chúng tôi 6 trận trong 8 ngày nay. Chúng tôi đã đẩy lui được hết, nhưng trận tấn công quyết liệt nhất chưa đến đâu. Tôi chắc chắn là nó cũng sẽ đến gần đây thôi .
Trong vài ngày nữa đây, thế nào họ cũng gom lực lượng của họ lại bằng cách tập trung các sư đoàn được rảnh tay sau khi các tỉnh ở Miến Trung bị thất thủ, và đây có lẽ sẽ là trận chiến cuối cùng. Nếu chúng tôi chịu không nởi, thì Sài Gòn chắc không đứng được lâu đâu."
Sau hai giờ tôi vừa sống ở đây, thật tình tôi không muốn nghĩ tới "trận chiến cuối cùng" nó sẽ như thế nào.
Phía ngoài, giữa nhà thờ và những gì còn lại của các văn phòng hành chánh, các chiến binh Dù, những người đã đụng trận nặng hồi đêm qua, đang nằm dài nghỉ ngơi dưới đất ở bìa sân bay. Có 3 người trong số nầy gác súng của họ vào môt cái cây và họ ngồi cạnh nhau, vừa đàn gui ta vừa hát nho nhỏ theo tiếng đàn.. Trông họ cũng đã có tuổi rồi. ..
Tôi rảo chân đi về phía chợ. Binh sĩ thuộc khu phòng thủ trung ương nầy được rải dài ra trên năm trăm thước khỏi nhà thờ (đã bay hết nóc, kính thì củng vỡ tan, tường rạn nứt), nằm vững chắc trong những hầm núp kiên cố, có bao cát che đầu được sấp trên các tấm đan bằng bê tông, tất cả đều có đường dây điện thoại chôn duới đất nối liền với nhau. Các vị trí nầy đều tua tủa súng liên thanh, súng phóng hỏa tiễn chống chiến xa, và đại bác không dật. Các chiến xa M.48, có trang bị đèn chiếu hồng ngoại tuyến cho đại bác để tác chiến ban đêm đang bố trí dài theo hai bên bệnh viện có một đại đội Dù trấn giữ.
Đến 6 giờ chiều thì tôi mới được gặp đại tá Phước, ông đi thanh sát các tiền đồn vừa mới trở về. Là một sĩ quan với diện mạo và tướng đi trông rất trẻ trung, 39 tuổi, người chắc nịch như một trụ đá, ông Phước không bao giờ đeo súng hay nón sắt tác chiến. Chúng tôi đã biết nhau từ trận tấn kích Tết Mậu Thân của cộng sản . Lúc đó ông chỉ huy các liên đội biệt động quân đến thay thế các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến ở Chợ Lớn. Ông đã có tiếng là một sĩ quan đặc biệt liêm khiết, ham tiến chớ ít chịu lùi, nhưng biết tiết kiệm gìn giử từng mạng sống của binh sĩ mình. Sau đó tôi lại gặp ông ở Neak Luông, nơi đó các đơn vị Miền Nam đã thiết lập một căn cứ lớn trong chiến dịch tấn kích lên CampuChia. Đại tá Phước nắm tay tôi và nói :
-" Vào đây, vào phòng hành quân của tôi, chúng mình sẽ ăn một chén cháo gà với nhau đã . Tôi chưa có ăn gì cả từ sáng đến giờ, đói muốn chết đây bạn "
Phòng hành quân (phòng chỉ huy) của người chỉ huy biệt động quân nầy nằm ngay trước chợ, trong một nhà xe được tổ chức cẩn thận lắm, có rào kẽm gai và có gài lựu đạn, xem còn nguyên trạng. Các tường được tăng cường bằng các khúc gổ tròn, các khúc sắt đường rầy xe lửa và những tấm thép dày. Trên bàn có gắn những tấm bản đồ của từng khu vực của thành phố được vẽ lớn và ghi chú rõ bằng tay và có cả đèn măng sông soi sáng. Một chiếc tủ lạnh chạy bằng dầu đang ướp lạnh các thùng bia. Nhà bếp có năm cái lò bằng đất nung nằm gọn trong góc, không tốn chỗ bao nhiêu. Các sĩ quan thì nằm trên chiếu thường. Ông Phước dẫn tôi đến một chỗ trống, chỉ có một cái bàn thấp, trên đó có một bình trà và mấy chén cháo nóng có vài cọng rau thơm và ớt. Chúng tôi ngồi bẹp xuống ăn. Phước ăn vội tô cháo của anh, uống một tách trà nóng, xong dựa lưng vào vách và nói: xà ngang của đường rầy lấy được bằng cách tháo gở đường xe lửa cũ . . .
Anh rót thêm một tách trà, hớp từng ngụm và tiếp tục:
- " Trước hết, chúng tôi thiếu cái gì ? Đó là một sư đoàn hành quân di động tốt. Bao giờ chúng tôi mới thật sự đánh úp họ được và bẻ gãy các cuộc tấn công của họ được .Nhưng chúng tôi không - " Như vậy là anh tới thăm tôi ? Tướng Đảo có nói với tôi là anh đã tới đây 3 hôm trước . . . Ê, được lắm ! Tình hình càng ngày càng quyết liệt hơn rồi đó. Trên phương diện giá trị chiến đấu của binh sĩ, tôi không có gì lo ngại hết . Anh em Dù và Biệt động quân đều có cú đấm của mình, và sư đoàn của tướng Đảo là một đơn vị ưu tú. Trước mặt chúng tôi là bộ đội Bắc Việt còn rất trẻ nhưng thiếu kinh nghiệm hơn chúng tôi, nhưng họ có quân trừ bị quan trọng, và có lực lượng tăng cường cho họ đều đều. Vì không có đầy đủ quân số cần thiết nên chúng tôi phải nằm cứng ở thế phòng ngự và vì thế bị chúng nó tấn công có phương pháp. Kết quả là chúng tôi phải đào lỗ và sống như những con chuột chù và thiết trí những hầm trú ẩn hay đường hầm tác chiến nhờ có các nên nằm mơ ! Tướng Đảo đã cố gắng gần một tuần nay để đem về lại Trung đoàn 43 của ông (trung đoàn thứ ba của sư đoàn ) đang bị cầm chưn ở Củ Chi. Bộ Tư Lệnh đã từ chối, và ông rút trung đoàn về không được . Nhưng còn một bài toán rất trầm trọng hơn nữa, đó là vấn đề tiếp vận . Tôi sẽ cho anh một vài con số. Hiện giờ cấp số đạn của chúng tôi, mỗi binh sĩ chỉ có được 100 viên đạn và hai trái lựu đạn mỗi ngày. Với khẩu súng tự động M.16 (nhịp bắn thực dụng là 400 viên / phút ) 100 viên đạn thật ra là không có gì cả ! Lúc còn người Mỹ ở đây, không có một binh sĩ nào có dưới 400 viên đạn khi đi hành quân. Cấp số tổng quát cho vòng đai phòng thủ là 15 tấn. Với 20.000 người trên mặt trận, thì phải có 50 khẩu pháo binh, chưa kể bách kích pháo, như vậy là chỉ tính cho một giờ tác xạ mà thôi đó nghen. Anh em pháo thủ của chúng ta không thể nào thực hiện được những tác xạ "ngăn chận" nhằm dùng hỏa lực của mình để đánh vào những trục tiến quân của địch và ngăn chận được sự tập trung của địch ở những tuyến xuất phát. Chúng tôi xoay sở bằng cách gài mìn cá nhân và tăng các đội tuần tiễu của biệt động quân trên những đường tiến sát hay đường xâm nhập của địch mà thôi. Khi họ ghi nhận hay khám phá được một sự di chuyễn của địch thì họ gọi Không quân. Còn thì chúng tôi phải ấn định một kỷ luật tác xạ thật khắc nghiệt. Pháo binh chỉ tác xạ chận các đợt xung phong của địch, và bộ binh thì chỉ bắn diệt địch thật hữu hiệu ở tầm gần. Đây là một chiến thuật có nhiều nguy hiểm bởi vì mình phải chở cho các làn xung phong của địch đến thật gần, ở cự ly xáp lá cà mới được bắn. Hiện giờ thì coi như cũng được đi vì binh sĩ của chúng tôi toàn là dân thiện chiến, không hốt hoảng và chịu nằm yên dưới làn đạn pháo binh của địch. Nhưng chuyện đó không thể kéo dài tuần nầy qua tuần khác dài dài như vậy được . Chúng tôi mất từ 60 đến 80 mạng hằng ngày như vậy, chỉ tính riêng cho Dù và Biệt động quân thôi đó. Và một người lính thiện chiến già dặn khó mà tìm được người thay thế lắm !
- Anh đã bi quan rồi sao đó ?
Phước nở một nụ cười có vẻ ngạo nghễ :
- " Bi quan hả ? nó có nghĩa gì ? Chúng ta đang ở trong thời chiến. Không có ba mươi sáu giải pháp đâu. Chỉ có thắng, hay bại hay chết mà thôi. Tướng Đảo có chín người con, tôi thì có năm. Gia đình chúng tôi ở Sài Gòn . Cả anh em binh sĩ của tôi cũng vậy. . . . và chúng tôi không muốn bị bọn Bắc Việt khốn kiếp nầy đè bẹp. Có thế thôi.
- Anh nghĩ là bọn cộng sản sẽ làm gì ?
- Ồ, đâu có gì hơn đâu ? Họ đang cố gắng bóp cổ chúng tôi . Họ cắt đứt đường ở phía sau lưng của chúng tôi để ngăn chận không cho đạn dược tới được . Họ tiếp tục dập chúng tôi bằng pháo 130 ly và tập họp 5 sư đoàn lại để cuối cùng họ nghiền nát chúng tôi . Trong khi chờ đợi giây phút đó, tôi cố gắng không cho mất cái mạng nầy. Tôi cho cái mũ nồi nâu của tôi đi dạo khắp nơi, tôi cố gắng đứng thẳng khi bọn cộng sản Bắc Việt bắn tôi . . .
- Anh thích cuộc chiến hả anh Phước ?
- Anh nói thế có nghĩa là thế nào đó anh Pierre ? Thích cuộc chiến hả ? Tôi thương vợ tôi, thương con tôi, thương đất nước tôi. Tôi thích sống như cha mẹ tôi đã sống, có lễ độ, thích tổ chức nghi lễ theo truyền thống của dân tộc tôi, thích đi xem chiếu bóng, thích đi dạo trên thuyền hay chăm sóc vườn tuợc. Cái phiền là ở Việt Nam người ta không thể đi dạo chơi từ lâu rồi mà không sợ lảnh một viên đạn vào đầu hay bị giẫm vào một trái mìn nào đó. Hồi Tết Mậu Thân chúng tôi đã sửa soạn tất cả rồi để ăn một cái Tết.. Nhà cửa được trang hoàng đầy hoa thủy tiên, bánh mức truyền thống cho Ông Táo bày ra rồi, bánh chưng, chè, và một chai rượu nếp nhỏ nữa, lại có cả một bức tranh lụa vẽ hình một con chim đại bàng đang tung cánh bay và một con ngựa đang phi. Các con tôi đang cười đùa, vợ tôi vui lắm. Chúng tôi đã có một buổi tối thật hạnh phúc. Nhưng đùng một cái đúng 4 giờ khuya thì Việt Cộng tấn công. Tôi phải rời khỏi gia đình tôi tức khắc,, và chỉ được về phép năm tháng sau đó. Đêm đó thằng em út của tôi, trung úy Dù, và vợ nó (chúng nó ở Chợ Lớn) đã bị Việt Cộng cắt cổ. xơi tái. . .
Đại tá Phước đứng dậy và bước lại đài vô tuyến truyền tin của ông. Tôi còn ngồi lại một mình ở cái phòng nhỏ còn có được một cây đèn măng xông đang chiếu lên tường cái bóng chập chờn của bình trà.
Ở ngoài , đêm thật là yên lặng. Ở về hướng Gia Kiệm, tiếng súng đại bác vẫn rền vang như một cơn bão xa xăm. Tôi nghĩ tới điều lạ lùng của một sự bất ngờ . Cách đây 28 năm, tôi đang ở một cái đồn nhỏ có rào tre vạt nhọn, gần hành dinh mà tôi vừa mới đến ban chiều. Các bạn thân của tôi gồm có một người Pháp ở Miền Bắc (Bretagne), và một người Đức. Ông bạn Pháp thì vậm vỡ hồng hào tên là Massé, là trung úy chỉ huy một đại đội thân binh, đi đâu củng mang theo một cái máy hát quay tay và cả một chồng dĩa nhạc cổ điển, đã mòn gần láng hết rồi vì xài quá nhiều. Còn ông bạn người Đức là một cựu sĩ quan quân đội Đức, đã từng chiến đấu ở Tây ban Nha, sau dó vào lê dương (đã từng chiến đấu chống lại tướng Rommel ở Ý), một tay lực sĩ với nước da ngâm đen và một cái nhìn xám xịt, tên là Guerlach. Sau khi đã trở thành một nhà trồng tĩa rồi, anh vẫn không chịu rời bỏ khẩu súng tự động KAR 43 của anh, mà anh gọi là "dụng cụ cá nhân " của mình, và một khẩu súng ngắn Walther P.38. Trung úy Massé đã chết trong một trận tấn công đoàn xe ngày 18 tháng 5, năm 1948, do Hoàng Thọ, một chỉ huy đặc công Việt Cộng có râu quai hàm như một linh mục, mà tàn ác như một con hổ đói. Còn anh bạn Guerlach thì bị giết vài tháng sau đó trong một trận phục kích trên đồn đỉền Courtenay. Nhưng trước khi chết anh đã hạ chín Việt Cộng với hai khẩu súng mà anh gọi là "dụng cụ cá nhân" của anh" .
Bao nhiêu năm đã trôi qua rồi nhưng tôi tự hỏi tại sao tôi luôn luôn còn đây ? Mà cũng vẫn ở vùng Xuân Lộc, không ở nơi khác ? Trong cái thành phố ma quỷ nầy, thành phố chỉ còn là một cái tên, với kỷ niệm của những con ma khác mà tôi đang nhớ đến ?
Đại tá Phước trở lại với một chén cà phê nóng. Ông đặt chén cà phê lên bàn và nói với tôi :
- " Nầy, cái nầy tốt cho anh đó, anh Pierre ! Anh em Lôi Hổ đã thành công, họ đã tìm và định được vị trí của một trung đoàn cộng sản Bắc Việt đang di chuyễn khoảng 10 cây số cách quận lỵ. Nếu Lôi Hổ mà định được chính xác đúng dường đi của trung đoàn nầy thì chúng tôi sẽ dập tan họ bằng Không quân trước khi họ mở cuộc tấn công. Như vậy sẽ tiết kiệm được cho chúng tôi một cuộc chiến không mấy tốt. Trong khi chờ đợi, tôi không có quyền đi ngủ.."
Sự bình tĩnh quá cứng rắn của vị sĩ quan nầy được thể hiện rõ trên nét mặt điềm nhiên của một người có thói quen nhìn thấy trước một việc không tốt sẽ xảy đến cho mình mà vẫn bình thản để có giải pháp đối đầu . . .xem rất là cảm động. Ông ngồi xuống dựa lưng vào tường và hỏi tôi :
-" Ông bạn Thomann của anh thế nào rồi anh Pierre ? Không thấy anh ta đến đây chuyến nầy ?
- Anh ta đang ở Ba Lê. Hiện anh đang có một đứa con trai nhỏ.
- Anh ta nghĩ không đi làm phóng sự nữa sao ?
- Không phải vì anh mới có con nhỏ đâu. Cơ quan mướn anh đã tính sổ cho anh ta luôn rồi.
- Tôi thích anh đó lắm. Anh ta đã từng đi với chúng tôi trong nhiều tháng hành quân ở nhiều khu vực khác nhau. Anh ta cũng dai như đỉa đói vậy, không biết mệt mỏi là gì mà không nói quá ba tiếng trong cả tuần . Anh ta cùng ăn với chúng tôi, cùng ngủ dưới đất như chúng tôi và không bao giờ rời khỏi máy quay phim của mình. Anh ta bị thương 3 lần khi cùng lặn lội với chúng tôi : lần thứ nhất bị thương trên đầu ở thung lũng A Shau, tháng hai 1969 , vì miển đạn bách kích pháo; lần thứ nhì vào tháng giêng 1970 trong khu vực "Thất Sơn" ở gần biên giới Campuchia, vì một trái đạn bách kích nổ cách anh ta chỉ có 2 thước, lần đó tôi có 4 binh sĩ tử thương nhưng anh ta thì 2 chơn đầy miểng ; lần thứ ba vào tháng 7 năm 1972, trong khi anh ta đang quay cảnh một đoàn dân chúng đang bị pháo 130 ly của Liên xô. Lần đó anh ta suýt nằm luôn tại chỗ rồi ! Anh ta bị thương rất nặng: cườm tay trái gần đứt lìa và đùi phải bị quá nặng. Các anh em biệt động quân của tôi đánh giá anh ta cao lắm.
- Đánh giá cao là phải rồi ! Tôi nghĩ là họ rất có lý . Anh Phước nầy! tôi biết anh Raymond Thomann nầy từ lâu rồi. Anh ta là một cựu chiến binh Biệt kích Dù của Algérie đó! Sau đó anh vào làm lính đánh thuê ở Yémen và ở Congo, trước khi sang Việt Nam làm việc cho đài NBC và AP của Mỹ. Anh ta đi bộ không bao giờ biết mệt và không sợ gì cả. Anh ta đã thành công rất đẹp vào tháng giêng năm 1969. Không biết làm thế nào mà anh ta biết được là người Mỹ sẽ trao đổi tù binh với Việt Cộng , nên đã đi trước hai ngày lên Tây Ninh, rồi từ đó anh lôi bộ vào bưng, lang thang không biết chỗ nào là chỗ nào hết vì không biết rõ địa điểm trao đổi chính xác nằm ở đâu . Anh tìm cách qua được Sông Bé bằng xuồng, tránh được nhiều đội tuần tiễu của Việt Cộng và cuối cùng anh tìm đến được một bìa rừng trống trải, ở đó sẽ có cuộc trao đổi tù binh. Cả người Mỹ và Việt Cộng đều ngạc nhiên khi anh ta xuất hiện. Việt Cộng ngạc nhiên vì họ đã lừa được hệ thống canh chừng của bọn họ, còn người Mỹ ngạc nhiên vì họ tới đó bằng trực thăng và không thể tưởng tượng nổi một người tay không như anh ta mà lại đột nhập thật sâu vao đây một mình được như vậy, để xuất hiện như một con ma trong lúc không một bên nào chờ đợi sự có mặt nầy . Lần đó Raymond đã mang về một số hình ảnh thật là tuyệt vời. Bọn Việt Cộng thì đội nón vải đi rừng mặc quần cụt, người chỉ huy của họ có một lỗ mũi khá kỳ dị, nhọn hoắc và có một cái bứu. Còn đại tá Mỹ là một người ốm gầy cao mặt xương, nói tiếng Việt rất rành tên là Sauvageot (1). Ông ta quá đỗi giận khi thấy Raymond có mặt ở ngay nơi có buổi trao đổi bí mật nầy, nên đã từ chối không cho anh ta về bằng trực thăng, nên ông bạn tôi lại phải lội bộ trở về..
Đại tá Phước cười lên nắc nẻ, nấm tay đập xuống đầu gối và la lên :
- " Tiếc quá, thật tình tôi không biết sự việc nầy, nhưng nó chỉ xác nhận những gì tôi đã nói với anh về Thomann. Muốn làm được một "cú" đẹp như thế, tôi nghĩ là phải có một bản lĩnh ! Nếuanh còn gặp anh ta ở Ba Lê, anh cho anh ta biết cái tình bạn thật thân thiết của tôi đối với anh ta nhé .
Một đại úy đến đứng nghiêm, chào đại tá Phước và trình :- " Thưa đại tá, có "Lôi Hổ 6" gọi.
Đại tá Phước nhảy lên gọn gàng và chạy lại trung tâm truyền tin của ông. Có một giọng nói chắc nịch đang bình tĩnh báo cáo :
- " một trung đoàn cộng sản Bắc Việt đang tập trung ở 5 cây số về hướng Đông Bắc trước khi xuất phát. Tiền sát của họ đã nằm ở cách sân bay khoảng 2 cây số. Có hai tiểu đoàn chiến xa yểm trợ. xin đại tá ghi giùm tọa độ đi." Phước ghi vội tọa độ và cho lệnh ngay, ngắn gọn:
-" Tránh ngay khỏi trục tiến quân của họ. Hết "
Sau đó ông báo động ngay cho Biên Hòa, tin tức, tọa độ, và xin một "yễm trợ nặng". Sau đó ông mới liên lạc và chuyển hết tin tức cho Pháo binh,
Tôi bước ra khỏi nhà xe. Bên ngoài, trời về đêm vẫn yên tĩnh, thỉnh thoảng chỉ nghe một vài tiếng động nhỏ dều đều của tiếng vá đào đất , chắc hẳn là binh sĩ đang tu bổ các hầm trú ẩn của họ..
Mười phút trôi qua, Có tiếng máy nghe được xa xa, trên trời cao. Pháo binh bắt đầu tác xạ. Có tiếng kẻn khua, tiếng đạn đi ngang qua và vài giây sau đó là những tiếng nổ inh tai.
-"Họ bắn dài để chận đường rút lui của trung đoàn địch và che lấp tiếng phi cơ bay đến" đại tá Phước theo đứng bên cạnh tôi và nói .
Có ba vừng ánh sáng liên tiếp lóe lên cao, và ba tiếng nổ kinh hồn như những trái đạn của hải quân, cửa nhà xe rung lên ba lần.. Chúng tôi nhìn thấy có mấy ánh lửa lóe lên nhưng ngay sau đó bị các cột khói lên che lấp ngay, mấy chiếc nấm lớn khói đen kịt hình như đang tụ lại bao vòng một khỏang lớn của chân trời. . . . Pháo binh đã ngừng bắn. Đại tá Phước trở lại đài chỉ huy vô tuyến. Hai chục phút trôi qua. Có tiếng gọi của Lôi Hổ trên đài. Bây giờ là 1 giờ sáng rồi.
- " Đơn vị Bắc Việt bị đánh trúng rất nặng. Có vài tên sống sót đang chạy tán loạn. Thống kê kinh hoàng !"
Đại tá Phước dùng vô tuyến cho lệnh hai tiểu đội biết động của ông tiến chiếm và tảo thanh vùng vừa bị dội bom. Ông xây qua tôi và nói :
-"Anh có thể vào ngủ yên, sẽ không có gì xảy ra nữa trong đêm nay. Bọn chúng phải cần có một thời gian mới có thể tiêu hóa xong những trái "C.B.U. 55" nầy.
- Anh muốn nói những trái "Cluster Bomb Unit" ?Tôi cũng đã biết chúng nó rồi. Đó là loại bom có nhiều miển, chống cá nhân, được thả từng chùm , khi đụng đất, nổ tung ra nhiều trái đạn nhỏ bằng trái banh tennis phải không ? Loại bom nầy gây nhiều thiệt hại đáng kể . . ".
Đại tá Phước đưa tay chận tôi lại ngay
- " Loại CBU.55 nầy cũng được thả từng chùm, nhưng là một loại bom đặc biệt, cho đến giờ nầy chưa bao giờ được xử dụng.
- Anh nói "đặc biệt", nó có nghĩa gì đây ?
- Tôi không muốn giải thích chuyện đó bây giờ cho anh nghe đâu. Anh sẽ thấy rõ kết quả ngày mai khi trời sáng. Chúng ta sẽ đến đó xem tận mắt. Bây giiờ anh hảy đi ngủ đi."
Tôi đến nằm trên một chiếc chiếu và ngủ ngon lành.
Đến 6 giờ sáng, có người đánh thức tôi dậy. Tôi nhận ra đó là đại úy hồi hôm.
- " Đại tá tôi đang chờ ông "
Chúng tôi đi bằng xe Jeep. Ba cây số về hướng Đông Bắc, và sau đó chúng tôi xuống xe và có ba anh biệt động quân vai choàng đại liên M.60, mình mang đầy mấy giây đạn hướng dẫn chúng tôi đi.
Và thình lình giữa những hàng cây trụi lá, một cảnh tượng thật rùng rợn, như một ảo tưởng ! Trong một khoảng trống mỗi bề độ 100 thước, hằng trăm bộ đội Bắc Việt không còn hình dạng rãi rác cùng khắp nơi. Một chiến xa bị lật ngữa. Các tử thi không thấy có một vết thương nào trên mình. Chỉ thấy cò vài vết máu chung quanh mồm và mủi. người ta có thể nói là họ bị một cơn lốc cuốn lên cao và ném họ nằm bẹp xuống đất. Đại tá Phước giải thích :
- " CBU.55 là một loại bom "rút hết khí trời". Công thức của nó còn là " tối kín / mật". Bộ Tham mưu chỉ cho biết là nó "đốt" hết dưỡng khí trong không khí và làm cho tất cả đều ngộp thở, chết tức khắc. Thông thường thì dưỡng khí chỉ là một nhiệt khí, (có nghĩa là không thể cháy được ). Theo tôi thì loại bom CBU.55 nầy đốt hết không khí, gây ra sự bùng nổ mãnh liệt tạo ra một làn sóng va chạm cực mạnh làm vỡ hết buồng phổi, và những người chết không có một dấu vết gì gọi là thương tích trên thân thể. (2)
Dầu muốn dầu không thì kết quả thật khủng khiếp. Tất cả cây cối bị thổi bay hết lá cùng tất cả bộ đội bất thần bị chết chung trong một thời gian không đến một giây. . . tất cả để lại một cảm tưởng như một đoạn phim kinh hoàng do các nhà phù thủy bí mật của phòng nghiên cứu đạo diễn. Nhưng đây thật sự không phải một màn hay một cảnh trong phim, và người chết ở đây không phải là những hình nộm !
Tôi vội vã ra đi. . . .
Vào lúc 8 giớ một trực thăng đưa tôi về lại Biên Hòa . Trực thăng có chở một lô binh sĩ bị thương, ở bụng, ở đầu. Có nhiều người bị bể cặp mắt.
________________________________________
Chú thích: (của dịch giả DHN)
(1)- đại tá người Mỹ tên Sauvageot nầy là một nhân viên tình báo thuộc Cơ Quan Tình Báo Trung Hoa Kỳ ( CIA), nói và viết tiếng Miền Nam như một người Việt Nam chính cống. Từ tháng 3 năm 1973 đến 30/4/75 đóng vai quân nhân thông dịch viên chánh thức cho Phái Đoàn Quân Sự Mỹ trong Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên Trung Ương tại Tân Sơn Nhất Sài Gòn nhưng không đeo cấp bực nào của quân đội Mỹ.
(2) - Theo giải thích chánh thức của một đại tá Hoa Kỳ , cố vấn trưởng cho một tiểu khu ở Đồng bằng Sông Cửu Long: loại bom nầy khi đến gần mặt đất khoảng 100 thước thì có một chiếc dù bung ra, còn cách mặt đất chừng 10 thước thì nổ. Bom không có miểng, không giết người bằng mảnh bom. Nhưng khi nổ sẽ "hút" hết dưỡng khí trong một vùng khoảng 1 cây số đường bán kính. Tất cả mọi sinh vật nào ở trong vòng ảnh hưởng nầy đều tức khắc không còn dưỡng khí để thở, (kể cả cây cối, nên lá phải rụng hết ), bị trào máu ra miệng và mũi chết ngay tức khắc (kể cả những người ở dưới hầm sâu dưới đất). Chẳng những không có một vết bị thương nào trên người mà chết trong tư thế tự nhiên (như đang ngồi, nằm, hay đứng, đi v,v,) . Nguyên văn trong sách tác giả dùng danh từ "đốt" nhưng sự thật phải nói là "hút đi" mới đúng. Loại bom nầy được giao cho Hải Quân Hoa Kỳ thí nghiệm lần đầu tiên năm 1972 ở Đồng bằng sông Cửu Long.
CHƯƠNG MƯỜI SÁU
TỔNG THỐNG THIỆU TỪ CHỨC
Thứ Hai, ngày 21 tháng Tư
Sài Gòn đã bắt đầu nhúc nhích và có hành động. Tổng Thống Ford với lý do cấp bách của tình hình, đã đòi hỏi Quốc Hội phải công bố những đề nghị viện trợ quân sự cho Miền Nam Việt Nam "trước ngày 19 tháng 4". Nhưng, bất chấp hạn định do Hành Pháp yêu cầu, các nhà Lập Pháp Hoa Kỳ một lần nữa lại tiếp tục triển hoãn việc trả lời . Báo chí ở Sài Gòn đã công khai nói đến chuyện người Mỹ bỏ rơi Miền Nam Việt Nam . Trong lúc mà quân đội Miền Nam Việt Nam dựa lưng vào tường để chiến đấu, và đang cần có một số lớn phương tiện để nuôi dưỡng và yểm trợ cho cuộc chiến, thì sự triển hạn bỏ phiếu của Quốc Hội được coi như một sự "phản bội" đồng minh thật sự. Người dân Việt Nam nói là "người Mỹ đang tái diễn hành động của họ ở Phnom Penh (Campuchia). trước hết là cắt viện trợ, và sau đó là sẽ rút đi "
Thành phố Sài Gòn đầy rẫy tin đồn : Hoa Thạnh Đốn đã quyết định tiến hành nhanh chóng cuộc hành quân di tản công dân của họ. Một công điện của Bộ Ngoại Giao sẽ được gởi đến cho đại sứ Graham Martin để ra lệnh cho ông ta phải thi hành sớm cuộc hành quân nầy.
Nhưng những chuyến di tản đầu tiên đã được bắt đầu vào ngày 10 tháng 4, khi hầu hết những xí nghiệp lớn của Hoa Kỳ (các hảng Hàng Không , các công ty xăng dầu, và công ty đang có những công tác lớn) đã có quyết định cho hồi hương các cán bộ và nhân viên của họ. 2000 người Mỹ và 6000 người Việt (các chuyên viên kỹ thuật và gia đình của họ) đã được đi sang Hoa Kỳ .
Trong tuần lễ từ 14 đến 20 tháng 4, các phi cơ vận tải khổng lồ thuộc cầu không vận quân sự của Ngũ Giác Đài, chuyển quân dụng thay thế cho quân đội Miền Nam (2 liên đội pháo binh, một số cao xạ phòng không và 2 tiểu đoán chiến xa ) lượt về sẽ được xử dụng để chở những người dân tỵ nạn. Các phi cơ có khả năng chuyên chở nhiều người, loại Galaxie, Starfighter và Hercules. sẽ bốc đi trong 6 ngày khoảng 20.000 người Việt Nam tỵ nạn, và 2000 người Mỹ. Nhưng cũng còn hơn 5000 người Mỹ ở Sài Gòn và Bộ Ngoại Giao ước tính có khoảng 130.000 người Việt Nam mà "tánh mạng bị cộng sản đe dọa" cần phải được di tản . Như vậy con số người phải được bốc đi củng không phải nhỏ .
Vào hồi 1 giờ trưa, tôi biết được là có một điện tín của hảng thông tấn UPI loan báo là Xuân Lộc đã bị thất thủ. Tin nầy ở đâu ra ? Tôi vẫn còn ở Xuân Lộc chỉ cách đây vài giờ, lúc đó binh sĩ còn giữ chặt vị trí của họ kia mà. . . Tin tức nầy dù sao cũng đã được tung ra khắp thành phố như một giây thuốc pháo và tinh thần của dân chúng do đó đang bị một cú sốc.
Nếu cộng sản Bắc Việt thật sự đã chiếm được Xuân Lộc thì tình thế trở nên thật là nghiêm trọng. Chiếm được một giao điểm quan trọng trên quốc lộ, và tập trung lực lượng ở một nơi chỉ cách thủ đô Sài Gòn có 50 cây số, cộng sản Bắc Việt sẽ có khả năng tiến nhanh về hướng Vũng Tàu ở phía Nam , và về hướng Biên Hòa ở phía Tây. Nếu họ chiếm được Vũng Tàu (nguyên tác :Cap Saint Jacques) thì họ sẽ cắt đứt con đường rút lui duy nhất còn lại của Sài Gòn để đi ra biển, Nếu họ chiếm được Biên Hòa , họ sẽ vô hiệu hóa được một trong hai căn cứ không quân sau cùng của Miền Nam Việt Nam và coi như thủ đô Sài Gòn bị nằm trong tầm pháo binh nặng 130 ly của họ.
Tôi cố gắng liên lạc được bằng điện thoại với đại tá Xuân ở phòng nhì. Ông ta xác nhận là - "Xuân Lộc chưa bị mất, nhưng từ 10 giờ sáng nay cộng sản Bắc Việt đã nã vào thành phố điêu tàn nầy bằng pháo binh nặng 130 ly với nhịp độ 2000 quả trong một giờ. Để tránh bị thiệt hại quá nặng về nhân mạng, binh sĩ của tướng Đảo và anh em biệt động quân đã di tản khỏi đống gạch vụn nầy để ra nằm bố trí chung quanh thành phố. Nhưng mặt trận Xuân Lộc chưa bị chọc thủng, chiến trận vẫn còn đang tiếp diễn, liên lạc vô tuyến vẫn chưa bị gián đoạn. Tất cả phi cơ đều sẵn sàng bay lên để thay phiên nhau nện các đoàn quân cộng sản đang di chuyển."
Hai ngàn quả đạn đại bác 130 ly trong một giờ ! Tôi hiểu tại sao binh sĩ phải bỏ cả hầm trú ẩn.. Cả một biển lửa ập xuống thành phố điêu tàn, đó là câu trả lời của cộng sản Bắc Việt đối với mấy trái CBU được thả xuống đêm qua. ! Và để nói rằng : Xuân Lộc còn có nghĩa là mùa xuân có lộc (hạnh phúc) hay không ?
Bắt đầu buổi trưa, tôi đi thăm bà Ngô bá Thành, một người đàn bà nhỏ con đang ở trong một biệt thự khiêm nhường ở trung tâm thủ đô, bên cạnh dãy nhà của những người Pháp và được nằm trong khu vực do tòa đại sứ Pháp bảo vệ như những tấm bảng yết thị mới được thấy dán ở ngoài. Là một mưu sĩ của "lực lượng thứ ba", bà tiếp khách thường xuyên ở ngoài vườn, nhất là những nhà báo ngoại quốc..Bà đỗ ba bằng tiến sĩ luật học (Pháp, Hoa Kỳ và Bồ đào Nha), nói được nhiều ngoại ngữ, bà là Chủ tịch "Phong Trào Phụ Nữ đòi Quyền Sống", một trong nhiều tổ chức đào tạo về công dân, về tôn giáo và về nghiệp vụ trong "Tổ hợp 36 chợ của Sài Gòn" thuộc phong trào chống tham nhũng, dự định sẽ ngồi giữa CPLTCHMN và chánh quyền Sài Gòn trong Hội Đồng Hòa Giải Quốc Gia được dự trù trong Hiệp Định Ba Lê.. Là môt địch thủ hăng say của Tổng Thống Thiệu, điều làm cho bà phải 4 lần vào khám, bà Thành hiện bị quản thúc tại gia. Báo chí Mỹ trong những tháng gần đây đã từng lên tiếng ồn ào về vấn đề "giải phóng phụ nữ" của bà, đã cho biết là bà hiện đang bị canh phòng cẩn mật.. Thế nhưng con trai của bà, một người trẻ tuổi, cao lớn, tóc để dài, là lính đào ngũ mà vẫn sống kín đáo trong nhà nhiều tháng nay mà không sợ gì cảnh sát hết. . . . Là con gái của một nhân sĩ Miền Bắc , chồng là một bác sĩ thú y dễ dãi và sống âm thầm, bà Thành là một người tranh đấu tiến bộ, quả quyết nhưng ương ngạnh. Bà nói với tôi :
- "Thiệu đã ở thế cùng rồi, Số phận của ông ta được tính từng giờ. Ông ta dựa vào người Mỹ và quân đội . Người Mỹ đã bỏ rơi ông ta, và quân đội thì đã tan rã rồi. Sĩ quan và binh sĩ đã chán ghét ông ta rồi. Có lẽ ông không biết là các binh sĩ ưu tú - biệt động quân và thủy quân lục chiến - có nhiệm vụ bảo vệ nơi chôn nhao cắt rrún của ông ta gần Phan Rang, đã nổi dậy và đã dùng chất nổ để phá tan mồ mả của gia đình ông ta rồi. Việc phá nát mộ phần của cha mẹ ông bà của ông ta là một sự chối bỏ nghiêm khắc đối với Thiệu và tất cả những gì ông hiện đang nắm giữ. Ở Việt Nam , nơi mà sự thờ cúng ông bà là nền tảng của Tôn Giáo của chúng tôi , không có một sỉ nhục to lớn và nghiêm trọng nào như sự xúc phạm như thế. Đó vừa là một sự chửi rủa, vừa là một sự khinh bỉ hoàn toàn và là một lời nguyền rủa nữa.. Còn về ông Kissinger, thì mới chiều hôm qua đây, ông đã tuyên bố một câu ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa :" Hoa Kỳ chúng tôi ủng hộ một Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam , nhưng không ủng hộ đặc biệt một cá nhân nào cả " Quá rõ rồi phải không ? Hơm nữa, những ngày sau cùng nầy, đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin và đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã tấn công ông Thiệu để bảo ông ta hãy rút lui đi, và nhường chỗ lại cho một toán khác có khả năng chận đứng được chiến cuộc lại "
Ông Ngô bá Thành mời khách dùng trà trong những cốc đẹp màu xanh với cử chỉ chậm chạp giống như các bà, mà không hề nói một tiếng nào. Vợ ông mặt rạng rỡ, cặp mắt sáng ngời, lại tiếp tục đánh tiếp với những luận điệu của bà:
- " Ông Thiệu bao giờ cũng chỉ biết nghĩ đến tương lai qua một cuộc chống trả cực đoan và một chiến thắng quân sự . Sự tan rã của quân đội ngay tại chiến trường đã lên án ông không chống đỡ nổi. Ông cứ khư khư tin rằng Hoa Kỳ không bao giờ bỏ rơi ông.. Ông không để ý tớí những chuyện thay đổi đã xảy ra ở bên Hoa Kỳ. Từ hai năm nay, dân chúng Hoa Kỳ đã gạch bỏ hai chữ Việt Nam rồi. Quốc Hội đã từ chối không bỏ phiếu cho mọi viện trợ quân sự và họ đã gạt hẳn ra ngoài việc cho phép tái can thiệp bằng võ lực. Ông Ford là một Tổng Thống được chỉ định chớ không phải do dân bầu, nên không có đủ phương tiện để có thể giữ lời hứa của ông Nixon được . Còn Kissinger hả ? ông ta là một con người quá thực tế nên đâu có dại gì đi khư khư bênh vực khi đã nắm chắc phần thua? "Quân đội nhân dân giải phóng" chỉ còn không đầy một tiếng đồng hồ nữa trên đường đến Sài Gòn rồi. Và Hoa Thạnh Đốn cũng dư biết là vài trăm triệu mỹ kim, vài trăm chiến xa hay đại bác thêm nữa củng đâu có cứu được nước Việt Nam của ông Thiệu ? Nhiều lắm là nó chỉ có thể kéo dài giây phút hấp hối của một kẻ sấp chết mà thôi.. . . "
Bà đưa ngón tay trỏ chỉ ngay tôi và nói với một giọng đổ lỗi :
- " Các nhà báo nước Pháp của anh - ngoại trừ các phóng viên của tờ Le Monde - đều không biết làm công việc của họ. Phải đập ông Thiệu. Phải tố cáo những tội sát nhân của ông ta, tố cáo chế độ cảnh sát trị của ông ta. Các anh phải giúp chúng tôi mở cửa các nhà tù đang nhốt 200.000 tù nhân chánh trị . Và hơn thế nữa các anh không đặt nặng tầm quan trọng và một chỗ đứng cho "lực lượng thứ ba" của chúng tôi. Lực lượng nầy có thực, các anh phải thấy rõ là nó cò một vai trò chánh trị quan trọng trong đất nước chúng tôi , trong một tương lai rất gần đây thôi. Ngay như những người cộng sản ,họ củng nhìn nhận là họ phải nghĩ đến chúng tôi .!."
- Thưa bà, các nhà báo Pháp, chưa bao giờ tỏ ra quá mềm dịu đối với Tổng ThốngThiệu đâu. Nhưng chúng tôi không có phận sự phải đề cao một phong trào chánh trị và cho phong trào nầy một tầm vóc hay một sự kết hợp mà nó vốn không có. Về vấn đề tù chánh trị , thì con số 200.000 là con số thật sự được Hà Nội, và phe đối lập của ông Thiệu thổi phồng lên. Con số 200.000 nầy đã nhiều lần được báo chí Tây Phương nhắc đi nhại lại nhưng không bao giờ được Hội Hồng Thập Tự Quốc tế củng như hầu hết các Hội Nhân Quyền quốc tế thuộc các tổ chừc Tôn Giáo hay không Tôn giáo xác nhận, dù là tất cả đều rất quan tâm đặc biệt đến vấn đề nầy trong 2 năm gần đây. Theo thống kê thì nhân số trong tất cả các nhà tù của Miền Nam Việt Nam (kể cả các người bị nhốt tạm ở các xã ấp đến những tù nhân đang bị giam giữ ở các nhà lao lớn ở Côn Sơn) đều không quá con số 36.000 người . . . "
Bà Ngô bá Thành nhảy dựng lên, giận dữ, tuông ra một tràng :
-" Thật là đê tiện, quá buồn cười, Sai ! và hoàn toàn sai bét !" Gương mặt bà thay đổi thình lình, mặt mày nhăn nhó. . .bà ho lên một tràng dài, ho và nấc lên từng cơn, rung động cả người.
Bằng một giọng đau khổ lẫn trách móc, chồng bà nói với tôi :
- " Lẽ ra ông không nên nói những điều nghịch ý với vợ tôi. Bà vợ tôi đang rất hào hứng khi nói về vấn đề chánh trị . Bà không thể chịu nổi những điều trái ngược với ý của bà ta. Bà ta giận ngay, nhanh lắm, khó chịu lắm và cơn suyễn lại kéo đến và bà ta sẽ ngộp thở. Mỗi lần như vậy là tôi phải cho bà một liều thuốc kháng sinh (nguyên tác : hydrocortisone). Bà vẫn biết đó là thuốc độc, nhưng đó là phương thuốc duy nhất. . . "
Tôi ra về mà không hỏi được bà Ngô bá Thành một câu hỏi có ích lợi nào cả. Bà ta đã nằm co ro trong cái ghế bành lớn bằng mây rồi. Trông bà có vẻ rất là yếu đuối để bảo đảm sự thay thế các tướng lãnh đang đối diện trận chiến khốc liệt với cộng sản Bắc Việt, những bộ đội đã từng sống cam khổ qua những trường huấn luyện rừng núi, nay đang sấp sửa tiến vào Sài Gòn . Và sau đó tôi bỗng thình lình sực nhớ lại cách đây 2 năm, được gọi phải ra gặp vị Chánh Án ở Toà Án tỉnh Gia Định, người đàn bà yếu đuối và bệnh hoạn nầy đã rình trước cửa Tòa Án và dùng một viên đá lớn liệng vỡ kính trước xe của ông Chánh án nầy . Sau đó bà chạy lại lôi tuột ông nầy ra khỏi xe, kéo vào lề đường và dùng cán dù đánh ông nầy một trận nhừ tử, sau đó lại còn đá ông mấy đá vào cạnh sườn làm ông nầy đo ván luôn.
*
* *
Vào khoảng 4 giờ chiều, một tin đồn nữa được tung ra khắp thành phố Sài Gòn. Tổng Thống Thiệu đang sửa soạn từ chức. Phải chăng đây là những tiếng đồn bậy bạ, báo động một lần nữa? hay chỉ là lời đồn giỡn chơi như thường ngày để làm cho thủ đô lên cơn sốt ? Có nhiều chỉ dấu ít nhất cũng rất nghiêm trọng hơn là bình thường. Ngay như buổi sáng nay, vị nguyên thủ Quốc Gia không dự buổi lễ Thanh Minh truyền thống. Bí thư của ông đã dùng điện thoại báo cho tất cả những nhân sĩ là các buổi hẹn trong vòng 48 tiếng đồng hồ sấp tới đều được hủy bỏ. Rõ ràng là sẽ có một chuyện gì đó, quan trọng lắm sấp xảy ra.
Vào lúc 5 giờ chiều , Hội đồng Chánh Phủ họp bất thường tại Dinh Độc Lập. Nhiều người nói đây là một buỗi họp mặt để từ giã nhau.
Vào 6 giờ chiều, đài phát thanh báo cho biết là Tổng ThốngThiệu đã mời hết tất tất cả các Tổng Bộ trưởng, Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, các nhân viên Tòa Thượng Thẩm và các vị dân cử thuộc lưỡng viện Quốc Hội , có mặt lúc 7 giờ tối để Tổng Thống đọc một bài diễn văn của ông, được trực tiếp truyền thanh. .
Trong ba tuần nay, chiến lược gia của các tiệm cá phê ở đường Catinat đã tiên đoán là sự từ chức của Tổng Thống Thiệu là chuyện đương nhiên rồi.
Trong những ngày đầu tháng tư, một nguồn tin đã được loan đi và báo chí cũng đã có nói lại rõ ràng là một "hội đồng tướng lãnh" của Miền Nam đã trao cho Tổng Thống Thiệu một tối hậu thơ, khuyên ông nên từ chức trong vòng 3 ngày. . . nhưng rồi có thấy chuyện gì xảy ra đâu ?
Khi nào nhịp độ tấn công của cộng sản Bắc Việt càng mạnh thì phía đối lập lại cứng rắn thêm. Cảnh sát đã phá vỡ hai mưu toan ám sát và dinh Độc Lập đã bị dội bom. Nhưng cho tới giờ nầy Tổng Thống Thiệu không thấy có một dấu hiệu gì nhượng bộ.. Càng ngày càng có nhiều nhân sĩ chánh trị hay tôn giáo đã công khai yêu cầu ông hảy ra đi, để người ta có thể đàm phán với "phía bên kia". Phần đông các đối thủ của ông dường như tin chắc rằng ông Thiệu muốn ngồi mãi ở cái ghế Tổng Thống nầy cho đến cùng. Ngày hôm kia, ông ta còn dọa giết ông Ngô khắc Tỉnh, người anh em bà con bạn dì với ông, đương kiêm Tổng trưởng Giáo dục, khi ông nầy muốn nói với ông ta về sự nghiêm trọng của tình hình trong hiện tại, làm ông ta giận dữ hét lên :
-"Anh chỉ là một thằng chủ bại bẩn thỉu. Nếu anh còn tiếp tục nói nữa, thì tôi sẽ cho anh ăn đủ 12 viên đạn của tiểu đội hành quyết ngay bây giờ "
*
* *
Ông Dominique, người chủ tiệm ăn Valinco, chuồi cho tôi một tuy dô "hết ý"
Theo ông ta thì Tổng trưởng ngoại giao Sauvagnargues của chúng tôi đã có điện thoại cho ông Mérillon (đại sứ Pháp ở Sài Gòn) để bảo ông nầy :"Anh hãy đi gặp ông Thiệu đi, và bảo cho ông Thiệu là ông ta phải đi đi . . . "
(xin đính kèm nguyên văn lời chú thích của tác giả: Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ báo Nouvel Observateur, ông Sauvagnargues xác nhận tin tức lạ lùng nầy :" Theo đúng chỉ thị của tôi, đại sứ Pháp đã có đến gặp ông Thiệu và nói với ông nầy rằng :"Ông phải ra đi thôi. . . ", một cách thi hành Hiệp Định Paris hết sức quái lạ. . . . . )
Trước cổng vào dinh Tổng Thống, người ta phải mất độ 30 phút để cẩn thận hướng dẫn các xe chánh thức . Vào một buổi hoàng hôn ấm áp, với bãi cỏ và các vòi nước phun lên được đèn rọi chiếu sáng, với các anh tài xế toàn đội kết trắng tinh, tất cả đều làm cho người ta liên tưởng đến một dạ hôi nào đó. Nhưng những chiếc áo dài lụa xinh xắn của Sài Gòn hoa lệ thường hay làm đẹp mắt cho các buổi tiếp tân lại không thấy góp mặt ở đây, mà chỉ thấy toàn là quân cảnh khắp nơi trong khu vực..
Vào hồi 7 giờ rưỡi, nửa giờ trước giờ giới nghiêm (thình lình được tăng lên 1 giờ), đường phố đã gần như vắng vẻ. Đằng sau các tấm rèm che phía trước tiệm buôn, các gia đình tựu họp lại quanh chiếc máy truyền thanh. Các cảnh sát cũng lẩn quẩn ở trước cửa tiệm để cùng nghe diễn văn của Tổng Thống Thiệu.
7 giờ 43 phút: Trong căn phòng lớn ở tầng dưới của Dinh Độc Lập, đứng trước bức họa tượng trưng của 18 vua Hùng, theo truyền thuyết là những vị vua dựng nước Việt Nam , Tổng ThốngThiệu bắt đầu nói. Với một giọng rắn rõi, bình tĩnh, nhưng không dấu được một sự bực tức , ông đi vào một trong những sự trình bày dài mà đó là sở trường của ông. Ông nhắc lại từng giai đoạn lớn của cuộc chiến ở Việt Nam và những giai đoạn của những cuộc thương thuyết dẫn đến sự ký kết Hiệp Định Ba Lê. Ông hết sức nhấn mạnh các lần từ chối liên tục mà ông đã phải đối đầu chống lại với Kissinger trong cuộc hòa đàm:
- từ chối không chấp nhận một "Chánh Phủ ba thành phần" mà ở các tỉnh và xã ấp củng phải có một nền hành chánh với ba thành phần.
- từ chối không chấp nhận "Đông Dương chỉ có 3 nước là Việt Nam , Campuchia và Lào", và nhấn mạnh đòi hỏi của chúng ta là phải trở lại Hiệp Định Genève 1954 với 2 nước Việt Nam, Bắc Việt và Nam Việt..
Ở điểm thứ ba, Tổng ThốngThiệu đã xác nhận rõ là:
- "Tôi nhìn nhận là tôi đã thất bại, vì tôi chỉ đạt được thỏa thuận là "sự rút quân của người Mỹ phải được đổi lấy sự rút quân của tất cả các đơn vị cộng sản Bắc Việt ra khỏi lãnh thổ Miền Nam mà họ đã lấn chiếm." Tôi đã tranh đấu suốt 4 tháng để diều khoảng nầy phải được đưa vào bản văn của Hiệp Định , một điều khoản cực kỳ quan trọng.
Cuối cùng tôi phải chịu thua dưới áp lực của người Mỹ. Họ nói :"Nếu ông không chịu ký thì Quốc Hội sẽ "chấm dứt ngay mọi viện trợ kinh tế và quân sự " . Để thuyết phục tôi phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp Định của họ, tôi đã nhận được một sự cam kết chánh thức của Tổng Thống Nixon - một cam kết trong danh dự của một đại cường quốc, một lãnh tụ của thế giới tự do - bao gồm có 2 sự bảo đảm:
* Hoa Kỳ sẽ can thiệp bằng võ lực và ngay tức khắc nếu cộng sản Bắc Việt tiếp tục cuộc chiến.
* Hoa Kỳ chỉ nhìn nhận có một Chánh Phủ của nước Việt Nam : đó là Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa, mà Hoa Kỳ sẽ viện trợ ồ ạt và đúng lúc, viện trợ cần thiết về kinh tế và quân sự .
Tuy nhiên, việc gì đã xảy ra ?
Khi cộng sản Bắc Việt đã chiếm căn cứ quân sự Tống lê Chân vào tháng 5 / 1973, người Mỹ không có một phản ứng nào. Dựa vào thái độ tiêu cực nầy của người Mỹ, cộng sản Bắc Việt từ đó đã không ngừng tiếp tục các cuộc tấn công của họ. Sau khi đã lấn chiếm xong các căn cứ xa xôi hẻo lánh, họ tiến chiếm đến các quận lỵ, rồi tỉnh lỵ. Nhưng rồi với thảm kịch Watergate và những ảnh hưởng chánh trị tiếp theo cuộc khủng khoảng về năng lượng trên thế giới, Hoa Kỳ tằn tiện từ từ cắt bớt viện trợ ngày nầy qua ngày khác. Trong lúc Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh thì lợi dụng được các biến cố nầy và gởi cho đồng minh Bắc Việt của họ một số lượng vũ khí chiến cụ to lớn , càng ngày càng tăng lên rất quan trọng, giúp cho các đơn vị chánh quy Bắc Việt xâm nhập không ngừng vào Miền Nam với nhiều chiến xa và chiến cụ, quân dụng tối tân.
Vì thế mà trong khoảng thời gian không đầy 2 năm mà cán cân quân sự hoàn toàn bị đảo ngược với phần thất lợi về phía chúng ta .Chỗ nào chúng ta có một sư đoàn thì cộng sản Bắc Việt có hai. Chỗ nào chúng ta có 10 chiến xa thì họ có hai chục. Quân đội chúng ta mất đi 60% khả năng tác chiến và khả năng di động.Chúng ta không có được sự yểm trợ ồ ạt của không lực nữa và hỏa lực của chúng ta ở trận địa kém hơn hỏa lực của cộng sản quá nhiều .
Hoa Kỳ vốn cam kết phải thay thế với tiêu chuẩn một đổi một các quân dụng và chiến cụ hư hỏng, nhưng kể như không có thay thế chi hết.
Tổng ThốngThiệu cố nói to lên :"Trong chiến tranh, không thể có phép lạ. Phải có bom, có đại bác, phải có đạn dược, và những phương tiện tiếp vận.
Chính vì tình trạng thua sút nầy mà tôi đến phải có quyết định chánh trị và chiến thuật lui quân, không thể làm khác hơn được như đã chứng minh."
Vừa trình bày cho thấy một số lỗi lầm và một số trường hợp "yếu hèn" của một số cấp chỉ huy liên quan đến thảm trạng quân sự trong sáu tuần lễ vừa qua, vừa nhìn nhận là ông rất tiếc là tình hình các biến cố ở Cao Nguyên diễn tiến quá nhanh, ông Thiệu chỉ rõ: chính Hoa Kỳ là kẻ phải chịu trách nhiệm chính trong vấn đề nầy:
- Tôi đã nói với người Mỹ là : các ông muốn tôi làm những gì mà quân đội của các ông với 300 tỷ mỹ kim, đã không làm được trong sáu năm.
- "Tôi đã nói với họ là : Các ông muốn rút ra khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam trong danh dự và bây giờ các ông đòi hỏi chúng tôi phải làm những chuyện vô lý và không thể làm được. Điều hành một cuộc chiến với viện trợ quân sự bị cắt xén thì có khác nào mấy ông trao cho tôi 3 mỹ kim mỗi ngày mà bảo chúng tôi phải sống như một du khách hạng sang."
Sau đó tường trình về những cuộc nói chuyện vào cuối tháng 2 với những thành viên của Quốc Hội lúc họ sang Việt Nam nghiên cứu tình hình, Tổng Thống Thiệu tuyên bố :
- "Tôi đã nói với họ rằng câu hỏi duy nhất được đặt ra là liệu Hoa Kỳ có quyết định giữ những cam kết của mình hay không ? và lời nói của Tổng Thống Mỹ có còn chút giá trị nào hay không ? Tôi nói với họ rằng so với 300 tỷ mỹ kim mà người Mỹ đã xài ở đây thì 300 triệu mỹ kim mà họ đang tranh luận chỉ là số tiền đủ chi tiêu trong 3 ngày tác chiến mà thôi, vậy mà họ vừa trả giá với tôi trong lúc họ đòi hỏi tôi phải chận đứng được làn sóng tấn công xâm lược của cộng sản , một điều mà ngay chính họ, với sức mạnh vô địch của một đại cường quốc, Hoa Kỳ đã không có khả năng chận đứng được trong sáu năm dài chiến đấu.
Thái độ vô nhân đạo của Hoa Kỳ là thái độ của một cường quốc lớn đang trốn tránh trách nhiệm của mình."
Với một giọng giận dỗi và khích động, ông Thiệu gào to lên:
-"Không bao giờ tưởng tượng nổi là tôi có thể chứng kiến trong một thời gian nào đó tấn bi kịch của những sự trả giá bẩn thỉu đang diễn ra bên trong toà nhà Lập Pháp của Quốc Hội Hoa Kỳ . Không bao giờ tôi tưởng tượng nổi một người như Kissinger lại có thể đưa dân tộc Việt Nam mình vào một định mệnh hết sức thảm khốc như ngày hôm nay ".
Đúng 8 giờ 36 phút, sau 53 phút đọc diễn văn, Ông Thiệu loan báo là ông từ chức . Ông nói thêm :
- "Tôi nghĩ rằng sự hy sinh của tôi sẽ giúp thay đổi được tiến trình viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa, và giúp thay đổi được diễn tiến trên chiến trường. Nếu nó có thể mang lại hòa bình cho toàn dân, và đem lại cho quân đội và cho đất nước sự giúp đở cần thiết cho sự sống còn của họ thì đó chỉ là một sự hy sinh tối thiểu mà thôi. Đối với những người luôn luôn chỉ trích tôi cho tôi là một chướng ngại cho nền hòa bình, tôi xin họ vì tình yêu của Tổ Quốc họ hãy giúp đỡ người kế vị tôi, là Tổng Thống Trần văn Hương, để ông mang lại hòa bình cho đất nước , một việc mà tôi đã không thể làm được. Tôi hy vọng rằng hành động của Ông, căn cứ trên sự thi hành Hiệp Định Ba Lê và căn cứ trên quyền tự quyết của dân tộc, sẽ đi đến một giải pháp chánh trị trong hòa bình và ngăn chận được cộng sản Bắc Việt không tiến chiếm Sài Gòn . Kể từ giờ phút nầy, tôi xin tự đặt mình hoàn toàn dưới sự xử dụng của vị Tân Tổng Thống, của dân tộc và của quân đội . Tôi tiếp tục làm việc bên cạnh đồng bào và các chiến sĩ để bảo vệ đất nước chúng ta ."
Bây giờ là 9 giờ đêm. Đèn ở Dinh Độc Lập đã lần lượt tắt hết. Các bãi cỏ và các vòi nước cũng đã chìm trong bóng tối. Ông Thiiệu không còn là Tổng Thống nữa. Trong thời gian 8 năm, đối với Hoa Kỳ cũng như đối với tất cả những người thân của ông, Nguyễn văn Thiệu đã là một người mạnh, một đồng minh trung thực và chắc chắn, là thành lũy cuối cùng chống chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, và ngay đối với Tổng Thống Nixon, ông Thiệu là một trong những chánh trị gia khôn khéo nhất của thời đại.. Đối với kẻ thù cộng sản và những những đối thủ chống đối ông thì ông là một kẻ độc tài và một người tham nhũng tay sai của đế quốc Mỹ . Chiều nay, ông chỉ còn là một người cô đơn, chua chát và thất vọng, một người đang bất thần đứng ra đo lường sự khoa trương hão huyền về danh dự con người , đo lường những sự cam kết và sức mạnh của chánh trị . Có nhiều người sợ rằng nếu ông ta cứ giữ một thái độ hiếu chiến muốn tử thủ, thì ông có thể sẽ đưa thủ đô Sài Gòn vào một trận chiến đẫm máu và phá hoại điêu linh.
CHƯƠNG MƯỜI BẢY
ĐẾN LƯỢT ĐẠI SỨ M. MÉRILLON LÊN SÂN KHẤU
Thứ Ba, ngày 22 tháng Tư
Với sự thờ ơ nhẫn nại trên đường phố Sài Gòn , với sự bối rối ở Hoa Thạnh Đốn , với sự kín đáo ở Mạc Tư Khoa , với niềm hy vọng ở Ba Lê, với sự từ chức của Tổng Thống Thiệu được loan báo chiều hôm qua. . . cho tới giờ nầy chỉ thấy có phản ứng vừa phải ở khắp mọi nơi thôi. Trên cả thế giới, chánh phủ nào bây giờ cũng chỉ chú ý đến những gì gọi là "biến cố sẽ xảy ra" mà thôi.
Đài phát thanh Sài Gòn chỉ đưa ra hai đoạn trích dẫn từ những bài bình luận đầu tiên của báo chí ngoại quốc:
* Của tờ "Thời Báo Nữu Ước" (New York Times) ở Hoa Kỳ :
-"Sự từ nhiệm của Nguyễn văn Thiệu trong chức vụ Tổng Thống V NCH đã làm giảm đi khả năng sẽ có một cuộc chiến đẫm máu dẫn đến sự "kết thúc" (nguyên văn của tác giả: "finish" bằng tiếng Mỹ, trong dấu ngoặc).. Các bên hiện diện của Việt Nam cuối cùng sẽ có một cơ hội thiết thực để tìm đến một giải pháp phù hợp với các điều khoản của Hiệp Định Ba Lê năm 1973"
* Của tờ "Thời Báo" (Times) ở Luân Đôn :
-"Ai đã phản bội ? người nào ? Đây là một câu hỏi rắc rối. Từ đây không còn nghi ngờ gì nữa là Chánh Phủ Hoa Kỳ rõ ràng đã có trao hẳn hòi cho Tổng Thống Thiệu những sự bảo đảm trong trường hợp tối cần thiết.. Tổng Thống Thiệu đã có hành động đúng khi ông tuyên bố rút lui vì quyền lợi của đất nước của ông ta, để mở đường cho những cuộc đàm phán....."
Câu hỏi mà mọi người đều đặt ra chỉ vỏn vẹn là : "Tổng Thống Trần văn Hương, người được chỉ định thay thế ông Thiệu, theo đúng Hiến Pháp Việt Nam, sẽ giữ được chánh quyền được bao nhiêu thời gian nữa?"
Ông Trần văn Hương, người thay thế ông Thiệu, là một ông già 72 tuổi, người đau yếu được may mắn qua khỏi bệnh bướu tim, có một dáng đi nặng nề và có tính hay do dự, luôn đeo kính râm dày để che dấu và bảo vệ cặp mắt hơn là sợ ánh sáng. Vốn sanh trưởng ở tỉnh Vĩnh Long, cha là một ông giáo và mẹ là người bán hàng, ông cũng trở thành một giáo viên, và sau đó là một thanh tra tiểu học, ông bước vào con đường chánh trị ngay sau khi Thế chiến Hai chấm dứt, và được bầu làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Tỉnh Tây Ninh trước khi được chỉ định vào chức vụ Thị Trưởng Sài Gòn . Liêm khiết và không ngại ngùng, với chiếc xe đạp hay bằng một chiếc xe 4 ngựa cũ kỹ loại vá víu, ông đi khắp mọi nơi, đến với mọi người, với mọi yêu cầu có tính cách nhân đạo, ông cũng tiếp những người nghèo hơn người giàu sang nên từ đó rất nhanh chóng được nổi tiếng là một người bình dân.
Ông chỉ giữ chức vụ nầy có 2 năm, và mặc dầu đứng ngoài chế độ của ông Diệm, ông vẫn bị bắt năm 1961 vì đã ký tên vào một bản tuyên ngôn chống Chánh Phủ .
Năm 1964, ông Hương trở lại chính trường sau khi ông Diệm bị các tướng lãnh lật đổ. Ông được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chỉ định làm Thủ Tướng Chánh Phủ , nhưng ba tháng sau đó ông bắt buộc phải từ chức vì áp lực của Phật Tử và của tướng Nguyễn cao Kỳ.
Sau thời gian 4 năm về hưu mới nầy, năm 1967 ông lại có mặt trên chính trường, với tư cách là ứng cử viên Tổng Thống, đối lập với Tướng Thiệu, nhưng không hề chỉ trích cá nhân Tướng Thiệu trong thời gian tranh cử.. Nhờ vậy vài tháng sau đó ông lại được Tổng Thống Thiệu trọng dụng, mời ông thành lập Chánh Phủ. Sau nhiều lần cải tổ, ông mới thành lập xong Chánh Phủ và ông là Thủ Tướng. Nhưng đến tháng 8 năm 1969, Thủ Tướng Trần thiện Khiêm lại thay thế ông. Đến năm 1971 ông được Tổng Thống Thiệu chọn đứng chung liên danh ứng cử Tổng Thống và từ đó ông mới là Phó Tổng Thống.
Có nhiều dư luận đồn đại ở Sài Gòn theo đó thì trong tương lai lại đến lượt ông Hương phải từ chức Tổng Thống , giao lại cho ông Trần văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện., cựu Tổng Trưởng Ngoại Giao trong thời kỳ hòa đàm Ba Lê, và với chức vụ nầy ông Lắm là một trong những người đã ký Hiệp Định Paris 1973..
Nhưng các tin đồn ở Sài Gòn nầy thực hư cần phải được kiểm chứng lại.Vị nguyên thủ Quốc Gia mới nầy, người mà tôi đã có dịp tiếp xúc nhiều lần trong những năm gần đây, mặc dầu trong tình thế cấp bách, không phải là người chịu lấy quyết định một cách vội vã, Trái lại, ông còn phải có thì giờ để tham khảo, dò hỏi, tiếp các nhân sĩ, các nghị sĩ, các dân biểu, các tướng lãnh, các nhà ngoại giao để biết được ý kiến từng người , biết được lập luận của họ, vừa cân nhắc từng khả năng trước khi ông từ chức, vừa phải giữ đúng mọi hình thức thủ tục, để chọn người nào mà ông nhận định là có đủ khả năng nhất, có thế đứng mạnh nhất để có thể đứng ra đàm phán với kẻ thù.
Nhìn vào tuổi tác của ông, tình trạng sức khỏe của ông, với sự nghiên cứu tiểu sử của ông, người ta có thể suy đoán được ngay thái độ và cách xử sự của ông. Là một người có óc địa phương cứng rắn, được thấm nhuần luân lý Khổng Mạnh, lại được đào tạo trên trường đời, hấp thụ một nền công dân giáo dục và toàn loại văn chương tuyển lựa (thư viện của ông đầy sách của tác giả cổ điển Pháp), ông già cộng hòa cứng đầu, gắt gỏng và tỉ mỉ nầy biểu lộ một sự gắn bó với truyền thống và luật lệ. Nếu có nhiều lần cải vã ra trò cho thấy ông có chống đối Tổng Thống Thiệu, hay nếu ông thường tố cáo trên báo về tham nhũng và những hành động thái quá trong chiến tranh, nhưng ông không bao giờ tán thành chuyện thương lượng với cộng sản mà lúc nào ông cũng khăng khăng gọi "bọn xâm lược Miền Bắc" (nguyên tác:Tonkinois). Là người giữ Hiến Pháp , nếu được chỉ định phải xúc tiến việc thương lượng với kẻ thù, ông nghĩ là ông phải thi hành trong khuôn khổ của thể chế mà ông có bổn phận phải gìn giữ.. "Phía bên kia" hình như không sẵn sàng để cho ông thi hành điều đó một cách dễ dàng đâu.
Chỉ vài giờ sau khi ông Hương nhận chức, Hà Nội đã xẵng giọng nói rõ quan điểm của họ :"Sự từ chức của Nguyễn văn Thiệu chỉ là một mưu mẹo, một toan tính chánh trị nhằm duy trì chế độ Thiệu mà không có Thiệu. Thật sự không có gì thay đổi hết, và đương nhiên cuộc chiến vẫn phải được tiếp tục".
Vả lại nhất thời cộng sản không có một lý do nào để đi đến một thỏa hiệp. Họ luôn luôn nhấn mạnh là họ chiến đấu trên ba mặt trận : quân sự , chánh trị và ngoại giao.
Trên phương diện quân sự , họ đang ở thế mạnh. Nhưng Sài Gòn cũng vẫn còn vài đơn vị có khả năng bám chặt trận địa, và Miền Đồng Bằng sông Cửu Long vẫn chưa hề hấn gì cả. Như vậy , vì không muốn chiếm một thủ đô Miền Nam đổ nát , họ muốn thúc hối tiến trình của một sự sụp đổ của Chánh Phủ hiện hữu trên phương diện chánh trị , để đi đến một sự thay đổi thành phần của một Chánh Phủ mới có thể ra lệnh cho quân đội ngừng băn , giúp mở toang cửa thủ đô Sài Gòn và Đồng Bằng sông Cửu Long cho họ thong thả tiến vào mà không cần phải chiến đấu.
Cuộc đấu tranh chánh trị được cộng sản đưa lên hàng đầu: có nghĩa là cộng sản muốn đạt được Hiến Pháp của một Chánh Phủ hoàn toàn không có một người nào mà họ gọi là "bè lũ Mỹ Thiệu". Nhiệm vụ chính của "nội các hòa bình" đó tạo điều kiện dễ dàng cho sự ra đời của một "Hội Đồng Quốc Gia Hòa Hợp và Hòa Giải" mà theo Hiệp Định Paris Hội Đồng nầy sẽ sửa soạn cho cuộc bầu cử.. Theo Hiệp Định Paris thì Hội Đồng nầy sẽ gồm có ba thành phần (CPLTCHMN, Sài Gòn , và lực lượng trung lập), cộng sản sẽ không gặp một điều bất trắc nào mà chỉ hoàn toàn có lợi cho họ khi họ bám chặt vào phương thức hợp pháp nầy . Làm chủ được tiềm lực của Sài Gòn nhờ vào số phận hẩm hiu của vũ khí và sự bỏ rơi của người Mỹ, cộng sản đang ở vị thế chọn lựa và áp đặt điều kiện với Sài Gòn (họ muốn chọn ai thì chọn, muốn loại bỏ người nào không thích hợp với họ thì loại bỏ). Họ cũng tự cho mình có quyền kiểu đó để lựa chọn những nhân vật trung lập "tin cậy được" để đưa vào đại diện cho lực lượng thứ ba trong Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia tương lai.
Như vậy, trên phương diện "hình thức", Hiệp Định Paris sẽ coi như được họ tôn trọng, không ai có thể chê trách là cộng sản đã không thi hành đúng từng chữ trong Hiệp Định Paris trên phương diện chánh trị . Và như vậy họ cũng bảo đảm được những phê phán thuận lợi cho họ đối với dư luận quốc tế, bảo đảm được sự cộng tác của các nhà ngoại giao ngoại quốc đang lo ngại không tránh được một trận chiến đẫm máu trong thủ đô Sài Gòn.
Trong hiện tại, với những mặc cả khó khăn, những nhà chánh trị của Miền Nam đang bàn cãi nhắm tìm một người đối thoại khả dĩ có thể được phía cộng sản chấp nhận.
Tổng Thống Hương vừa bắt đầu tỏ thiện chí của mình bằng cách chấp nhận sự từ nhiệm của "Chánh Phủ chiến tranh" vừa mới được vị Tổng Thống tiền nhiệm chỉ định cách đây 12 ngày. Bây giờ Ông đang cố gắng liên lạc với những lãnh tụ khác của Miền Nam và với những nhà ngoại giao Mỹ và Pháp ở Sài Gòn , để tiến hành một sự thay đổi đường lối chánh trị mà phía cộng sản đòi hỏi. Nhưng ông Tổng Thống già nầy vẫn cứng rắn không chịu từ chức:
- "Tôi không có quyền buông bỏ tính cách hợp pháp của Quốc Gia nầy ( một điều mà ông thường nhắc đi nhắc lại) để trao cho một nhân vật không được dân chúng bầu lên. Thay vì chuyển giao quyền hành và trách nhiệm một cách bất hợp pháp, tôi muốn thành lập một tân Chánh Phủ hẳn hòi, không có một dấu ấn nào về đường lối trước kia, để họ có đầy đủ quyền hành mà đàm phán với bên kia. "
Trong sổ tay của Tổng Thống Hương, thấy có tên của ba người có thể là Thủ Tướng, cả ba đều là người Miền Nam , ông Trần văn Lắm, ông Nguyễn văn Huyền, và tướng Trần văn Đôn. Ông đã tiếp cả ba người , tuần tự từng người một.
- Ông Trần văn Lắm, là người sanh trưởng ở Chợ Lớn, 62 tuổi, đầu tròn trịa tóc chải nằm xuống thật kỹ lưỡng, gương mặt rất thản nhiên. Ông là một nhân sĩ ung dung, tự tin, với một tư thế hay giúp người . Ông đã học Dược ở Hà Nội và có một số vốn liếng khá lớn nhờ sản xuất và bán thuốc tây. Ông đã từng là Thống Đốc Nam Kỳ, Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến, Đại sứ V NCH ở Úc Châu, và sau đó là Tổng trưởng Ngoại Giao, và với tư cách nầy ông là người đã ký vào Hiệp Định Paris 1973, nhưng sau đó ông bị Tổng ThốngThiệu bãi nhiệm chỉ vì Tổng Thống Thiệu không thích cử chỉ của ông khi ông ôm bà Nguyễn thị Bình vào lúc ký Hiệp Định và gọi bà Bộ Trưởng Ngoại Giao của CPLTCHMN bằng " bà chị thân yêu". Được bầu làm Chủ Tịch Thượng Viện vào cuối năm 1973, được người Mỹ tích cực ủng hộ, kể từ lúc đó ông đã cố gắng tỏ thái độ độc lập đối với ông Thiệu, và giữ một khoảng cách nào đó với những vấn đề liên quan đến chánh trị, một thái độ cũng không khó gì lắm, so với công tác quản trị công việc làm ăn riêng của mình, công tác nầy coi như đã chiếm gần hết thì giờ của ông - nhất là ngân hàng tư của ông, một ngân hàng rất thịnh vượng-
- Ông Nguyễn văn Huyền: 61 tuổi, tiến sĩ luật học, một luật sư có tài. Sanh trưởng ở Mỹ Tho, ông là một người rất liêm khiết và được mọi người kính nể. Ông là lãnh đạo những người công giáo Miền Nam (ôn hòa hơn những người công giáo từ Miền Bắc vào), là bạn thân với Đức Cha Nguyễn văn Bình, Tổng Giám Mục giáo phận Sài Gòn . Ông có một đời sống rất khắc khổ, rất xứng đáng, tận tụy hết sức mình với Đạo giáo, và công việc của Quốc Gia . Là Chủ Tịch Thượng Viện từ 1967 đến 1973, ông từ chức để phản đối việc sửa đổi Hiến Pháp theo ý của Tổng Thống Thiệu để giúp ông ta được ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ thứ ba. Ông tuyên bố ngay lúc đó :
- " Sự chấp thuận bản văn đó, nhờ vào những áp lực không thể chấp nhận được, kèm theo những "bao thơ" được phân phát... đã tước hết hy vọng của những người trong chúng tôi lúc nào củng muốn đóng góp vào công tác xây dựng một nền dân chủ thật sự cho đất nước " .
Sau đó ông tham gia phong trào "chống tham nhũng" của linh mục Thanh và từ đó lúc nào ông cũng kêu gọi sự từ chức của Tổng ThốngThiệu.
- Trung tướng Trần văn Đôn: 58 tuổi, sanh trưởng và được đào tạo bên Pháp. Ông thuộc một gia đình cổ xưa và có uy tín ở Miền Nam. Cha ông là một người tình nguyện trong Thế Chiến thứ Nhất , đã học Y Khoa ở Bordeaux, và vô dân Pháp. Khi trở về Việt Nam , ông nổi danh trong việc hành nghề ở Sài Gòn , trở thành một nhân sĩ có tên tuổi của thành phố, và được các vị Toàn Quyền người Pháp ở Miền Nam che chở và thường xuyên tiếp kiến. Là bạn thân của lãnh tụ Nam Việt Trần văn Hữu, Thủ Tướng đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa, ông được đặc ân của Thủ Tướng Hữu bổ nhiệm ông làm Thị Trưởng Sài Gòn Chợ Lớn, và sau đó làm Đại Sứ ở Luân Đôn. Nhưng vì ông quá thân thiết với Đại sứ Pháp ở Anh Quốc (ông Massigli) đến độ ông thường tiết lộ những chuyện mật kín của Việt Nam , cho nên Thủ Tướng Hữu thấy cần phải thận trọng hơn và đổi ông sang làm Đại sứ ở La Mã (Ý đại Lợi).. Vào năm 1956, rất nhiều người dân lớn tuổi ở Miền Nam đã nghiêm khắc phê phán ông, khi ông ta vì muốn được sự trọng dụng của Tổng Thống Diệm , kẻ thù của người bảo trợ cũ của ông mà từ bỏ quốc tịch Pháp. Thái độ có tánh cách cơ hội nầy đã làm cho người ta hiểu rõ hơn về những hành động liên tiếp và mâu thuẫn của đứa con trai của ông, Trần văn Đôn, lúc nào củng bị ám ảnh về một "sự thành công" nào đó.
Con người mảnh khảnh nhưng có thân hình đẹp trai, với những nét thanh bai, tao nhã và quyến rũ, ông Trần văn Đôn là một tướng lãnh chánh trị hơn là một chỉ huy quân sự . Thành thạo trong những tằng tịu vụng trộm và trong những cuộc vận động ở cấp Bộ, nghề nghiệp và sự thăng quan tiến chức của ông phần lớn nhờ vào sự bảo trợ mà ông biết giành được qua những hành động nổi bật của mình. Cựu sinh viên sĩ quan trường đào tạo sĩ quan Saint Maixent (Pháp), sau đó trường quân sự Tông (Bắc Việt ), trung úy André Trần văn Đôn bắt đầu đi lên từ các văn phòng Phủ Thủ Tướng (Xuân, Hữu và Diệm). Vào năm 1956, thình lình ông mất hết sự kính trọng của tất cả những người bạn cũ người Pháp và của nhiều người bạn trong quân đội, khi vì muốn làm vui lòng ông Diệm , ông đã chủ tọa buổi lễ "thiêu hủy những tàng tích quân sự trong thời thuộc địa dưới sự thống trị của người Pháp". Ngày hôm đó, tướng Trần văn Đôn đã cho đốt hết những cấp bậc và huy chương của quân đội Pháp bằng cách đích thân châm lửa vào củi. Bà chị ruột của ông phẩn nộ vì hành động và cử chỉ của ông, đã phải tát cho ông hai tát nên thân.
Về sau nầy, vì ông đã quay lưng lại với bạn bè và nguồn gốc Pháp của mình, tướng Đôn lại đi tham gia vào cuộc hạ sát Tổng Thống Diệm, người đã cho ông quá nhiều danh vọng và đã bổ nhiệm ông làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Tướng Đôn đã tham gia sau đó vào tất cả các biến chuyển chánh trị ở Miền Nam Việt Nam . Là bạn của tướng Dương văn Minh, ông Đôn lại xa lánh ông nầy để nhảy sang với tướng Cao Kỳ, nhờ tướng Kỳ nâng đỡ để được bầu vào Thượng Viện, rồi lại bỏ tướng Kỳ để làm thân lại với Tổng Thống Thiệu.... bằng cách trình và bênh vực trước lưỡng viện Quốc Hội dự án sửa đổi Hiến Pháp nhằm tăng nhiệm kỳ của Tổng Thống lên 5 năm thay vì 4 năm và cho phép Tổng Thống được quyền ra ứng cử nhiệm kỳ thứ ba.
Để đền bù lại việc nầy, coi như một trao đổi, Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm ông Đôn làm Phó Thủ Tướng. Nhưng rồi, quá lo nghĩ cho tương lai của mình, tướng Đôn lại khôn ngoan tránh né không muốn dính chặt với Tổng Thống Phủ bằng cách đi tìm cách ngao du khắp nơi ở ngoại quốc, qua Âu Châu, Phi Châu thuộc Pháp, đi Nhật và Hoa Kỳ . Nhất là ở Paris, ông nối lại liên lạc với một số thượng cấp cũ của ông, biểu lộ những sự hối tiếc của mình đã có hành động "không tế nhị" khi chủ tọa "buổi lễ dại dột để đốt cấp bậc và huy chương Pháp".
Ông ta được các ông Giscard d'Estain và Poniatowsky tiếp kiến, cảm động vì cử chỉ tốt của ông, vì tiếng Pháp quá gọt dũa của ông, và vì những cam kết gắn bó vời "nền văn hóa và sự rạng rỡ" của nước Pháp .
Ông ta nhờ một người bạn lâu đời của Việt Nam là tướng Loisillon để can thiệp xin cho ông được quyền lãnh trợ cấp của quân đội Pháp, vì ông đã phục vụ trong quân đội nầy 16 năm... và lãnh hồi tố được một số tiền là 130.000 quan Pháp (3 quan Pháp = 1 mỹ kim lúc đó). Đồng thời, nhờ sự giúp đỡ của ông Sainteny (cựu Toàn Quyền Cộng Hòa Pháp ở Bắc Việt ), ông giữ được liên lạc đều đặn với những thành phần trung lập bị trục xuất sang Pháp, những người còn quan hệ chặt chẽ với Hà Nội và CPLTCHMN. Tại Sài Gòn ông giữ mối giao hảo mật thiết với đại sứ Pháp, ông Mérillon, người coi ông như một trong những lãnh tụ có khả năng lãnh đạo một Chánh Phủ liên hiệp. Là một con người kín đáo, nhiều màu sắc, và lịch lãm không chê được, cho tới giờ nầy ông Trần văn Đôn đã thành công trong việc luồn lách qua những giọt nước của các cơn mưa sa bão táp mà vẫn không ướt bàn chân.
Là một người quyến rũ may mắn, ông Đôn còn đi đến hành động ve vãn và thân thiện với mấy ông chồng khờ dại mà ông ta lường gạt để cưỡm mấy bà vợ nhẹ dạ- nhưng ông khôn khéo vẫn giữ được gia đình của mình nguyên vẹn và êm ấm. Mấy đứa con của ông cũng được giáo dục tốt như ông, học hành cũng rất tốt và vẫn rất mực kính trọng ông.
Trong khi Tổng Thống Hương tiếp tục thăm dò và thử thành lập một Chánh Phủ với sự góp ý của các ông Trần văn Lắm, Nguyễn văn Huyền và Trần văn Đôn, thì người ta chú ý nhiều hơn về những cố gắng ngoại giao hướng về một nền "hòa bình qua thương lượng" hơn là về tình hình quân sự thật tình đang rất nguy kịch.
Góp mặt như những nhà trung gian hòa giải đắc lực nhất, là người Pháp, họ giữ những sự tiếp xúc với tất cả các Bên trong cuộc chiến, không riêng gì ở Sài Gòn, mà cả ở Paris và Hà Nội.
Thái độ và hành vi sau cùng của Chánh Phủ Pháp đã có một tiếng vang nào đó trong thủ đô Miền Nam , ở đó nhiều nhà trí thức tưởng rằng Paris đã lấp khoảng trống do Hoa Kỳ bỏ lại. Đối với một dân tộc đang lo sợ sẽ bị bỏ rơi thật sự, sự kiện mà điện Élysée kêu gọi (nguyên tác :inviter :mời) người Pháp hãy ở lại Việt Nam , hình như là một bằng chứng cho thấy là mọi việc rồi sẽ không kết thúc bằng một cuộc tàn sát, hay tắm máu đâu.
Tất cả dân chúng ở Sài Gòn đều nhắm vào ông Đại sứ Pháp Mérillon, Người nhỏ thó, gầy, nhưng nóng tính, tóc đen , ông Mérillon có cặp mắt tròn sáng ngời dưới cặp kính râm. Ông là cựu sinh viên trường E.N.A., năm 1970 đã nổi bật và được dư luận chú ý trong lúc chiến cuộc "tháng chín đen" ở Jordan đang hồi khốc liệt . Lúc bấy giờ ông đang là Đại sứ Pháp ở thủ đô Amman, ông đã bỏ tiền ra bất chấp tốn hao để lo chuyển thực phẩm và thuốc men đến cho dân chúng, cho những người ngoại quốc đang bị phong tỏa kẹt trong vòng chiến, và cho những con tin đang bị du kích Palestine cầm giữ.. Táo tợn hơn dưới cơn mưa đạn và rốc kết, ông đích thân đứng ra hướng dẫn các phi công của các phi cơ cứu viện đáp xuống phi trường. .Là một nhà ngoại giao bất chấp hết thủ tục, thường mặc sơ mi nhẹ và quần kaki dài hơn là đứng đắn có thắt cà vạt, ông hăng say làm việc nhưng không được kiên nhẫn lắm, nên đôi lúc có những cơn nóng giận bất thường.
Các cộng sự viên của ông thường nói về ông :
-" Ông rất tự tin, có thói quen tổng kết tình hình và phán đoán con người qua vài câu bén nhọn và nhanh gọn, ông tự biết mình là một người thông minh và không bỏ qua một cơ hội nào để chứng minh điều đó ".
Những người Pháp lớn tuổi ở đây nhận thấy ông đã "tăng cường" nhân viên của Tòa Đại Sứ, để làm tăng giá trị cho vị thế của ông hơn là muốn có một sự hữu hiệu thật sự cho công việc, và họ nhún vai phê bình thêm:
- " Ông ta khuấy động nhiều quá, làm ồn quá, coi chừng ông ta sẽ có nguy cơ trèo cao té nặng đó !"
Thật ra, từ mấy ngày nay, ông Jean- Marie Mérillon đã tỏ ra rất năng động. Tin chắc là cái giá phải trả cho một cuộc "chiến đấu trong danh dự" của Sài Gòn sẽ thật sự rất đắt, nên điều lo lắng đầu tiên của ông là phải cố tránh không để cho thủ đô bị đánh chiếm. Muốn được như vậy, ông hình dung ra một sơ đồ căn cứ trên một ý nghĩ thật giản dị : phải đạt cho được sự từ chức của Tổng Thống Hương và thành lập một Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải với những nhân vật thuộc "thành phần thứ ba". Hội đồng nầy chỉ cần tồn tại trong vòng hai hay ba tuần lễ mà thôi. Một thời gian trì hoãn. Muốn được như vậy, là ông phải lắc mạnh cái mà ông gọi là "sự bất động cố hữu" của ông già Hương; phải cố thuyết phục cho đến cùng rằng sự chống trả bằng võ lực bây giờ là điều hoàn toàn vô ích; và cố gắng hòa giải các nhóm "đối lập hợp pháp" vì lúc nào họ cũng chia rẻ với nhau.
Vậy bây giờ là ông bắt đầu tiến hành những cuộc mặc cả hết sức khó khăn rồi trở thành mạnh bạo hơn khi mà mỗi giờ trôi qua là mỗi giờ áp lực của lực lượng cộng sản càng nặng thêm lên.
Hà Nội vừa mới xác định một lần nữa lập trường của họ :
- "Trong bộ máy chánh quyền mới sẽ được thành lập ở Sài Gòn , không được có mặt bất cứ người nào đã ở trong bè cánh của Thiệu, có nghĩa là những người đã hợp tác chặt chẽ với Thiệu để chống phá quyền lợi Quốc Gia, kéo dài cuộc chiến và phá hoại Hiệp Định Ba Lê. "
Với những lời tuyên bố nầy, đương nhiên bị loại ra ngoài ông Trần văn Lắm, đương kim Chủ Tịch Thượng Viện và tướng Trần văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Qyốc Phòng của Chánh Phủ "chiến đấu", tuy đã từ nhiệm nhưng vẫn còn là "xử lý thường vụ".
Về phía ông Nguyễn văn Huyền, ông đã từ chối không nhận đề nghị lập Chánh Phủ bằng một lời tuyên bố rất giản dị "Trong lúc tình hình cần có một sự đoàn kết Quốc Gia rộng rãi, với tư cách một người lãnh đạo công giáo, tôi sẽ nhanh chóng bị phê phán là muốn lập một "Chánh Phủ tôn giáo "
Do vậy lại bắt đầu trở lại những sự mặc cả mới.., mà ông Mérillon hơi chua chát gọi đó là "những trò chơi viển vông" . Tin tức từ mặt trận đưa về thật đáng lo ngại.. Một số đơn vị của Chánh Phủ đang thiếu đạn . Về hướng Tây Bắc của thủ đô, trung đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 25 đang phòng thủ một giao lộ rất quan trọng là Gò Dầu Hạ, chỉ còn có vài tràng mỗi ngày dự trữ cho các khẩu pháo 105 và 155 ly. Trên mặt trận hướng Đông, số phận của chiến trận chỉ tùy thuộc vào sự yểm trợ của Không quân chiến thuật..
Tin chắc rằng những cuộc bàn cải dài dòng của các chánh trị gia và các nhà ngoại giao còn phải kéo dài trong vài ngày nữa, nên tôi muốn đi trở lên mặt trận hơn.
CHƯƠNG MƯỜI TÁM
NGỌN ĐỒI CUỐI CÙNG
THỨ TƯ, NGÀY 23 tháng 4
C ứ cách nhau 3 phút là các phóng pháo khu trục cơ cất cánh và đáp xuống phi trường.Trên bãi đáp trực thăng số 42, đang có 4 chiếc gồm 2 chiếc vận tải loại lớn "Chinooks" và 2 trực thăng võ trang U.H. 1 B. đang sắp sửa cất cánh. Nhiệm vụ: tiếp tế đạn cho 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 48 bộ binh đang đụng địch ở chân núi Thị, một ngọn núi chế ngự hết cả vùng của đồn điền cao su An Lộc rộng lớn (S.I.P.H.), và đang chuẩn bị chống trả những trận tấn công dữ dội hơn của cộng sản .
Thiếu tá Luân, 36 tuổi (với 4000 giờ bay vá 12 huy chương), một trong những phi công ưu tú nhất thuộc Không Quân chiến thuật, đã chấp nhận cho tôi cùng bay với ông ta. Chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại mỏm núi và sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ bay lượn trên khắp vùng trận địa - 60 cây số dàn quân - của chiến trường Xuân Lộc trên quốc lộ 1 và tỉnh lộ 24 .
Có một số thợ máy mặc quần áo chống cháy đang gắn những tấm lưới thép dưới lườn thực thăng Chinooks và chất đầy ắp các thùng đạn vào đó. Mặc vào một cái áo giáp chống đạn và đội một nón sắt có kính che mắt, tôi nịt giây nịt an toàn vào rất kỹ lưỡng. Trên phòng lái, là thiếu tá Luân và sĩ quan hoa tiêu. Bên trái của tôi là một sĩ quan pháo binh có cả ống nghe trên mủ và ống nói dưới cằm. Phía sau tôi ở hai bên trong hai ụ súng là hai anh xạ thủ với hai khẩu đại liên 50 chỉa ra ngoài, và dưới lườn trực thăng có hai ống phóng mỗi ống chứa 7 quả rốc kết. Chúng tôi cất cánh lúc 18 giờ 15 phút.
Trực thăng lấy cao độ nhanh, và trực chỉ hướng Đông. Xuyên qua các đám mây chúng tôi thấy một đường thẳng dài của quốc lộ 1 , lấm chấm có vài dấu nổ của đạn pháo.: đó là tác xạ ngăn chặn của pháo binh sư đoàn 5 bộ binh đang phòng thủ các ngõ vào Trãng Bom.
Trực thăng sau đó chui qua các đám mây xuống thấp , bay rà rà trên các ngọn cây cao su của hàng S.I.P.H. Trên một con đường mòn thẳng vắt ngang đồn điền cao su, trên 12 xe vận tải Molotova chở đầy bộ đội đang chạy rất gần. Thiếu tá Bẻ cần quẹo gấp Luân đưa trực thăng nằm đúng ngay trên trục của đường mòn. Thình lình, hai, rồi bốn sự rung chuyển ngắn làm chấn động chiếc trực thăng. Bốn quả rốc kết đã được Luân phóng đi từ hai ống phóng và nổ đúng vào đoàn xe vận tải của Bắc Việt . Nhiều tiếng nổ dữ dội cho thấy là các quả rốc kết đều trúng mục tiêu. Lửa , khói và miểng đạn bắn ra tung tóe gần như bao trùm chiếc trực thăng, vì nó bay rất thấp. Tôi nghĩ là chúng tôi cũng có thể gập nguy cơ lắm. Chiếc trực thăng rung lên từng chập. Các đại liên thôi thì thi nhau nhả đạn. Xuyên qua cửa ngang hông được mở toang ra, trong chớp nhoáng tôi thấy một chiếc xe đang cháy và những tên bộ đội bé nhỏ mặc quân phục xanh bị cháy đang nhảy tứ tung như những tia lửa bắn lên tứ hướng từ một cục than hồng. Thế rồi không còn nghe thấy gì nữa cả. Chiếc Chinooks lại bay rà lên trên tấm thảm xanh của rừng cao su trở lại, chỉ còn nghe tiếng phành phạch của hai cánh trực thăng. Cuộc tấn công vừa rồi chỉ kéo dài có 20 giây. Sáu phút sau, chúng tôi đã thấy Núi Thi., Một mỏm đá với một chòm cây và một gian nhà lớn chỉ còn nửa nóc . Đó là biệt thự của viên thanh tra đồn điền cao su. Thiếu tá Luân đáp xuống một bãi đất rộng được đánh dấu bằng mấy trái khói mầu vàng, nằm cao hơn mỏm đá. Một anh thiếu úy đưa chúng tôi đến Bộ chỉ huy của Trung tá Phát, một phòng lớn ở tầng trệt của biệt thự, có bao cát chung quanh, và một số bàn đầy máy móc truyền tin và điện thoại.
Trung tá Phát hớt tóc ngắn, cầm to, tôi có cảm tưởng như người ông toát ra sức mạnh và nghị lực. Chung quanh ông thấy có một nhóm sĩ quan ăn mặc sạch sẽ và chỉnh tề, đang chờ nhận lệnh. Trung tá Phát bắt tay tôi, tay kia đấm Luân một phát, rồi đãi chúng tôi mỗi người một cốc cà phê nóng có chế vào một ly rượu mạnh, xong vùa cười vừa nói :
- " Các anh đừng lo, căn nhà nầy chắc lắm, toàn là xi măng cốt sắt và trước khi có giặc nghen ! Năm 1947 biệt thự nầy đã bị cháy và người Pháp đã bỏ đi. Hai chục năm sau người Mỹ lại sửa lại, tăng cường tới nóc nhà bằng các tấm thép. Họ đặt mấy chiếc tủ lạnh và sơn phết lại hết, màu xanh lá cây."
Rồi sau đó ông ta nghiêm sắc mặt lại, nói với thiếu tá Luân :
- "Tôi đã mang lên được trên ngọn đồi nầy 4 khẩu pháo binh 105 ly và 3 khẩu 155 ly. Nhưng tôi thiếu đạn, tôi chỉ có 30 quả cho mỗi khẩu. Tôi cần gấp ba lần như thế, và một số đạn bách kích pháo. Anh cố tìm mọi cách mang lên đây cho tôi. Đi làm 6 hay 8 chuyến. Và làm sao để tôi có một trực thăng võ trang C.119 trước 12 giờ đêm và cho nó trực thôi, sẳn sàng chờ lệnh, vì bọn Bắc Việt chắc chắn sẽ chơi tôi vào lúc 2, 3 giờ sáng gì đó thôi.
- Hai chiếc Chinooks đang mang đến cho Anh 3 tấn đạn , thiếu tá Luân đáp ngay. Họ sẽ đến đặt trước nhà cho anh trong một vài phút nữa thôi. Về phần còn lại tôi sẽ làm cho anh tối đa".
Thiếu tá Luân tiến tới một máy truyền tin và gọi Biên Hòa , Trung tá Phát đốt một điếu thuốc , lật bản đồ ra và giải thích cho tôi nghe về tình hình :
- " Sư đoàn 18 và Liên đoàn biệt động quân của đại tá Phước đã đánh nhau với bọn nó như những con sư tử trong suốt 14 ngày ở thành phố Xuân Lộc đổ nát nầy. Họ đã bình tĩnh lãnh đủ hơn 20.000 quả pháo và rốc kết. Họ đã bắn sụm 37 chiến xa T.54 và cho đo ván hơn 5000 tên cộng sản . Thứ hai vừa rồi, Bắc Việt đã bọc vòng phía sau thành phố chiếm lại giao lộ Suzannah và sơi luôn một đoàn xe tiếp tế của mình. Sau đó họ bố trí cẩn thận hai bên ngã tư, điều chỉnh sẳn tác xạ và để 2 sư đoàn gần đó trong tư thế chờ đợi, hy vọng đánh tan xác chúng ta khi ta rút quân. Nhưng tướng Đảo đã "chộp" được chúng nó. Trưa thứ hai Tướng Đảo đã phản công và giải tỏa phần đất chung quanh phi trường trên hơn 2 cây số..đồng thời xin tiếp tế đạn thật nhiều cả bằng trực thăng và thả dù. Sau đó ngày thứ ba, nghĩa là mới hôm qua đây, thay vì lui về ông đã cho cả sư đoàn đi thẳng về phía trước theo trục các đồn điền Courtenay- Xa Bang- Bình Ba- Bà Rịa. Ông đã bất thần phá vỡ vòng vây Bắc Việt , mang theo tất cả thương binh, tất cả xe cộ (50 xe vận tải và trên 30 chiến xa. Không quân đã yểm trợ ông bằng cách dội bom CBU để dọn đường cho sư đoàn , loại bom mà cộng sản Bắc Việt rất khiếp sợ. Để giúp cho tướng Đảo thành công trong sự điều quân của ông ta, chúng tôi đã cho 2 tiểu đoàn đánh ngược hướng tiến quân của sư đoàn (1 tiểu đoàn dù và tiểu đoàn của tôi), để cho cộng sản Bắc Việt tưởng rằng chúng ta sẽ rút lui về hướng Sài Gòn theo quốc lộ 1. Tiểu đoàn Dù tình nguyện đâm thẳng vào Gia Kiệm để cầm chân một trung đoàn địch. Tiểu đoàn của tôi đã băng ngang đồn điền S.I.P.H. đánh ngay sau lưng địch, hạ sát trên 300 tên bộ đội, cắt hết đướng dây điện thoại của chúng, và bất ngờ đã bắn hạ 2 chiến xa T.54... Và chúng ta đã lên thẳng trên ngọn đồi nầy vốn chỉ được có một đại đội địa phương quân phòng thủ, và chúng tôi đã mất hết hai ngày hai đêm dùng cuốc , vá để tổ chức vị trí phòng ngự. Muốn đuổi chúng tôi ra khỏi đây hả?, chúng cũng phải trả một giá hết sức đắt."
Đại úy Nhân đưa tôi đi xem vị trí phòng ngự. Thiếu tá Luân đã cất cánh với chiếc trực thăng của ông ta.
Ngọn đồi nầy chiếm một vị trí rất đặc biệt, nó là một khối đá cao trên 100 thước , mặt phía Tây thẳng đứng và rất nguy hiểm, mặt phía Bắc và phía Đông toàn là rừng, duy mặt Nam thì có một lô cao su khá lớn bao quanh.. Là một cao điểm duy nhất giữa một khu đất bằng phẳng rộng lớn, vị trí nầy chế ngự cả vùng, địch khó có đường tiến sát đến đây được mà không bị lộ, và không thể leo lên hay tràn ngập vị trí phòng thủ được bằng một cuộc tấn công trực diện. Dưới chân đồi và ở cách xa khoảng 1500 thước là trung tâm đồn điền An Lộc, với một hệ thống dường sá như bàn cờ ở dưới làn sóng xanh um của dồn điền cao su An Lộc. Một bên là sân bay và bệnh xá, bên kia là một dãy nhà kho, câu lạc bộ, biệt thự của giám đốc đồn điền, nhà của các nhân viên phụ tá, hồ tắm, sân tơ nít, và trung tâm truyền tin. Chỉ là một thành phố rất nhỏ nhưng hiện đại như thế thôi, do một nhúm người Pháp điều hành mà nó nuôi sống được hằng ngàn công nhân và kỹ thuật gia Việt Nam cư ngụ trong các làng khéo tổ chức với những căn nhà tuy nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi (điện nước v.v..)
Các nhà trồng tỉa Pháp ở Việt Nam thật là đáng phục. Siêng năng, thẳng tánh nhưng kín miệng, họ sống với nhau rất là đoàn kết.. Đã quen với những sự nguy hiểm, thường đối đầu với những bài toán rất tế nhị, hay bị bọn Việt Cộng ở địa phương quấy nhiễu, thường hay bị bắt để đòi tiền chuộc, đôi khi còn bị không quân của ta bắn nữa, còn di chuyển thì bắt buộc phải đi trên những con đường hay bị phục kích, những người Pháp nầy làm việc trong những điều kiện hết sức khó khăn. Họ phải đi khắp các lô cao su, kiểm soát công việc cạo mủ hằng ngày, lo tu bổ dụng cụ, kiểm soát số lượng mủ., theo dỏi cây ương và còn phải chú ý đến sức khỏe của nhân công mà họ vừa là chủ vừa là những người đỡ đầu. Họ phải giải quyết tất cả các bài toán về nhân sinh , như dàn xếp các cuộc gây gỗ trong gia đình , giữ luôn cả sổ sách về hộ tịch và còn phải giúp đở về dịch vụ săn sóc y tế cấp thời miễn phí nữa. Họ không bao giờ phàn nàn điều gì cả và chỉ có một lo âu : làm sao cho công việc mà họ có trách nhiệm được chạy đều. Lúc nảy, cũng gần như mỗi buỗi chiều, họ có nghe tiếng đại bác. Nhưng đêm nay, có thể họ có nguy cơ bị kẹt giữa hai lằn đạn của chiến trận.. Có phải vì thế mà mặc dầu đêm đã xuống rồi mà sở An Lộc vẫn chưa lên đèn ?
Tôi chia xẻ nhận xét đó với đại úy Nhân.
-" Không phải đâu, người sĩ quan trẻ nầy đáp lời, những người Pháp của đồn điền nầy không có ở đây nữa. Họ đã gặp rất nhiều khó khăn. trước hết là đối với những người dân chạy giặc từ Miền Trung vào, rồi sau đó là dân Xuân Lộc nữa . Hằng ngàn người bất thần bị bom đạn, nên đã ùa vào đồn điền cao su lánh nạn. Chủ đồn điền là ông Parnès, không lo xuể. Ông ta đã thiếu gạo, nên đã phải băng ngang qua vùng lửa đạn để tìm xe lấy gạo. Ông đã săn sóc cho đàn bà và trẻ con , đích thân chích thuốc cho họ, nhưng không có cách nào để điều trị cho những người bị thương và những bệnh nhân nặng. Vã lại có quá nhiều người . Ông ta đã cố xuống Xuân Lộc để tìm một trong năm bác sĩ của bệnh viện dân chính, nhưng không còn ông nào, họ đã chạy hết cả rồi. Ông ta lại phải trở về đồn điền, và tiếp tục đi tìm họ trong những người dân tỵ nạn đang ở trong các lô cao su.. Cuối cùng ông ta cũng gặp được một người đang giả dạng thường dân, mặc bộ đồ bà ba đen, choàng khăn và đội nón lá sùm sụp để che mặt lại. Ông ta đã nắm lấy bác sĩ nầy và lôi về xe Jeep của ông. Bác sĩ nầy khẩn khoản xin cho ông một thời gian :" Tôi đang tìm bà vợ của tôi, bà ta sắp sửa tới ngày giờ sinh cháu rồi mà lạc mất 3 ngày nay. Khi nào tôi gặp được bà ta thì tôi theo ông ngay" Ông Parnès đã giúp bác sĩ nầy đi tìm bà vợ, và cuối cùng họ đã gặp người đàn bà bất hạnh nầy nằm trên một vũng bùn gần một con rạch nhỏ. Bà đã sanh con trên miếng đất trống, giống như một con thú vậy !
- Và ông bác sĩ đã làm gì ?
- "Vợ ông bụng căng lên đầy mủ. Bà ta qua đời vài giờ sau đó, nhưng ông bác sĩ đã giữ lời
hứa, mang đứa con của ông về bệnh viện của đồn điền và sau đó đã làm việc thật bận bịu với những người dân chạy loạn.
Đại úy Nhân đưa tôi một điếu thuốc , dẫn tôi tới xem một ụ phòng thủ và nói tiếp :
- " Các ông chủ sở cao su nầy có những mối ưu phiền khác. Các đơn vị Bắc Việt đã đi ngang qua đồn điền. Một trung đoàn "bộ đội" (nguyên tác :Bo- Dois") quá khát nước đã tràn vào nhà máy và đã nốc sạch cả bồn nước của nhà máy, làm nhà máy phải ngưng hoạt động vì bồn nước nầy dùng để làm nguội máy móc của nhà máy. Rồi lại đến lượt một trung đoàn khác sau đó không lâu. Toán tiền sát của họ đã đến trung tâm đồn điền. Toàn là người Bắc và toàn là nông dân là những người chưa từng thấy cái gì hết. Họ đã lục lọi đủ mọi thứ, và đã dùng báng súng đập vỡ hết các thứ kể cả các máy thu thanh. (nguyên tác :postes de radio). Sau đó họ đã bắt đi 3 vị phụ tá, trói họ lại và dẫn vào rừng, còn đe dọa giết họ nữa bởi vì họ là "gián điệp của Mỹ" . Các anh công nhân chạy đi tìm gặp bọn Việt Cộng ở địa phương, một chánh trị viên người Nam đã đến gặp bộ đội Miền Bắc và cuối cùng đã lãnh họ về được với một "giấy đi đường". Các anh phụ tá nầy đã trở về làm việc ở sở. Rồi một đơn vị Bắc Việt khác lại đi qua, lại bắt họ trói dẫn đi vào rừng. Nhưng lần nầy thì không còn một ai biết được số phận của họ ra sao nữa .
- Còn thợ thầy công nhân thì sao ?
- Họ vẫn làm việc nhưng họ sợ bị trả thù. Cách đây 2 ngày, một tiểu đoàn chánh quy Miền Bắc đã bị thiệt mạng trên 100 người trong một bãi mìn. Họ đã tràn vào làng công nhân ở khu D và đã dùng loa kêu tất cả phải ra ngoài. Có một số ra ngoài, nhưng phần đông đều ở trong nhà không ra. Các binh sĩ Bắc Việt đã nổ súng và liệng lựu đạn vào các căn nhà một cách rất ung dung và đã tàn sát trên 100 người phần đông là đàn bà và trẻ con...."
Đêm đã xuống hoàn toàn. Binh sĩ đã nằm ở vị trí chiến đấu , Và rải rác ở phía bên đường dẫn xuống đồng bằng, giữa những hòn đá, ở những vị trí pháo binh và bách kích pháo, các xạ thủ củng đã sẵn sàng. Dài theo bìa phía đồn điền, là một đại đội biệt động quân với các khẩu trung liên , súng phóng lựu và súng không dật 57 ly. Phải biết chờ đợi và biết giữ yên lặng.
Vào lúc 10 giờ đêm, có tiếng phành phạch của trực thăng Chinooks nghe được mỗi lúc một gần... Binh sĩ cho đốt những ngọn đèn mà ánh sáng chỉ có trên không mới nhìn thấy, đánh dấu bãi đáp để nhận hàng tiếp liệu. Những chiếc trực thăng đảo tròn trên Bộ Chỉ Huy, với những kiện hàng nặng trong các lưới thép lòng thòng dưới lườn. Chỉ trong vòng vài phút, họ đã đặt các kiện hàng tiếp liệu xuống đất, hệ thống dây bịt thả ra hết và trực thăng lại bay đi. Và họ trở lại hai lần nữa. Từ xa, các tiếng nổ của đại bác gầm thét như những tiếng sấm trong cơn mưa. Nhưng cơn bão mà chúng tôi đang chờ đợi lại không thấy tới. Nằm gọn trong một hốc đá, tôi không tài nào ngủ được . Chỉ nghe tiếng dế gáy liên hồi.....
Nhưng đến 3 giờ sáng thì mọi sự đều biến chuyển. Nhiều chùm lửa đỏ rực của pháo binh Bắc Việt bay vào ngọn đồi. Có môt số cây bị trốc cả gốc lên. Rồi có một đợt tiếng la vang dội dưới chân các mỏm đá, phía dưới chân đồi.. Đó là lệnh xung phong của cán binh cộng sản . Bộ đội Bắc Việt tấn công trực diện dọc theo hai bên con đường . Binh sĩ Miền Nam không bắn phát súng nào. Họ chờ cho "bộ đội" đến gần hơn dưới 100 thước. Và lúc đó tất cả các loại súng đều nổ một lượt.. Mấy ống bách kích pháo nhắm vào hai bên đường, nã đạn, nòng súng gần như thẳng đứng cho tầm tác xạ ngắn lại. Pháo binh 105 ly tác xạ ở cự ly 0 độ. Thấp hơn phía dưới, về phía bên trái thì các khẩu trung liên của biệt động quân nổ như bắp rang. Có vài trái sáng được bắn lên xé tan màn đêm tối, cho thấy các bóng người tan tác, ngã lăn oằn oại dưới đất với những tiếng kêu la thảm thiết. Rồi hai trực thăng võ trang C119 lại xuất hiện, đang xé gió bay tới,,, sau tiếng gầm, lao xuống như hai con chim ưng gặp mồi và dùng các khẩu đại liên điện bắn như mưa xuống đám cán binh Bắc Việt còn sống sót đang tháo chạy tán loạn dưới cánh đồng.
Có nhiều tràng pháo 130 ly bắn quá ngắn nên rơi hết xuống đám rừng làm trốc gốc thêm một số cây . Pháo binh 155 ly của Miền Nam phản pháo lại cũng dữ dội như sấm sét.. Đến 5 giờ sáng thì mọi tiếng súng đều ngưng.. Lúc trời sáng tỏ thì binh sĩ mới cẩn thận bước ra khỏi phòng tuyến và đi lần xuống đồi, súng lăm lăm cầm tay sẳn sàng nhả đạn. Trên mặt đất có rất nhiều thây của cán binh Bắc Việt mặc quân phục xanh lá cây. Đại úy Nhân trao cho tôi một ly cà phê nóng và nói :
- " Đêm rồi mọi việc đều rất tốt. Nhưng mà họ sẽ trở lại. Một tiếng đồng hồ nữa là thiếu Tá Luân sẽ có mặt ở đây, và anh sẽ đi về với ông ta."
Vào 7 giờ sáng tôi lên trực thăng của thiếu tá Luân, và chúng tôi cất cánh, lên cao độ 1200 bộ và bay về hướng Bắc. .. Nhìn từ trên cao, Xuân Lộc chỉ là một đống gạch vụn đầy bụi, duy nhất chỉ còn mỗi lầu chuông của nhà thờ sừng sững như một ngọn hải đăng. Trực thăng đổi hướng về hướng Đông và xuống thấp là là trên ngọn cao su. Qua khỏi đồn điền Hàng Gòn, chúng tôi thấy một đoàn xe dài của Bắc Việt , các chiến xa , các xe pháo binh, và xe vận tải chở đầy cán binh đang di chuyển dài trên mấy cây số ngang nhiên như chỗ không người và không thấy có nghi trang.Thiếu tá Luân tạt thật nhanh đi chỗ khác, dùng vô tuyến báo động ngay cho Biên Hòa và vọt thẳng lên cao độ 1500 bộ. Mười phút sau, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng quá kinh hồn. Hai, rồi bốn, rồi sáu chiến đấu cơ A.37 đâm bổ xuống tác xạ từ phía sau của đoàn xe gây nhiều đám cháy, lửa khói mịt mù.. Vài giây sau đó lại có hai chiếc vận tải cơ C.130 thả xuống từ trên cao hai thùng tròn đen, có dù , và khi gần chạm đất gây ra hai tiếng nổ thật kinh khủng và phi thường, tiếp theo sau đó là hai lằn ánh sáng ngắn màu xanh kỳ dị. Hai ngọn khói hình nấm tròn bốc lên cao với một luồng gió mạnh phi thường đến đỗi trực thăng của chúng tôi ở cao độ 500 thước bị ảnh hưởng, phải bị lắc lư rung chuyển thật mạnh, rồi rơi tuột xuống một khoảng không như một hòn đá, đến cao độ 800 bộ mới lấy lại được cự thăng bằng. Khi khói tan biến hết, thì mới thấy được con đường ngổn ngang đầy xe cộ bị lật ngã, nghiêng ngữa, tan nát, các khẩu pháo bị tung xuống hố và thây người chết nằm rãi rác trên 200 thước bề ngang, cây cối bị trốc gốc ngã lộn nhào đưa cả rễ lên trời . Thật là một cái nhìn khiếp đảm, cả một sự hủy diệt chỉ trong nháy mắt . Thiếu tá Luân cho trực thăng bay sà xuống đường và bắn hết tất cả rốc kết dọc theo hai bên đường . Không có một tiếng súng bắn trả: Thì ra thiếu tá Luân đã bắn vào một đoàn người chết.....
Sau khi đáp xuống sân bay Biên Hòa , Thiếu tá Luân vừa cởi nón sắt ra vừa nói với tôi;
- " Anh có thấy rõ mức độ thiệt hại không ? Hai thùng tròn đen được thả xuống ban nảy là hai trái bom C.B.U. 55. Một đầu đạn được gắn vào phía trước hai thùng đen đó là bộ phận kích hỏa phát nổ gần mặt đất. Như vậy là không có góc độ "tử giác" .Trong vòng 150 thước đường bán kính, không còn một chút không khí nào hết, dĩ nhiên là không còn dưỡng khí ở đâu cả. Cộng thêm với làn sóng cực mạnh của sức nổ. Cho nên đây là một loại vũ khí kinh hoàng, chỉ có thể dùng nó khi nào địch quân tập trung đông đảo thì mới có hiệu quả cao.
- Như vậy họ dùng thuốc nổ loại nào ?
- Tôi cũng không biết chính xác cho lắm. Công thức nấy còn là "Tối Mật" và chỉ có người Mỹ là có thể biết thôi. Tôi nghĩ đây là một sự pha trộn giữa chất nổ T.N.T và một chất hóa học nào đó. Loại bom nầy đã có từ lâu rồi, nhưng vì sợ dư luận của dân chúng Hoa Kỳ , nên người Mỹ chưa bao giờ xử dụng . Khi rời khỏi Việt Nam , họ để lại cho chúng tôi trên 20 trái bom nầy và có dặn chúng tôi là chỉ nên xử dụng khi nào tối cần thiết, coi như đó là biện pháp sau cùng., Gần như đây là loại vũ khí của "cơ may cuối cùng".... chúng tôi đã xử dụng 7 trái trong vòng 3 ngày nay.
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH XUẤT HIỆN
Thứ Năm, ngày 24 tháng Tư, 1975
Cứ mỗi lần từ vùng chiến trận trở về Sài Gòn , là mỗi lần tôi gần như bị chấn động vì không khí rất khác biệt giữa thành phố và tiền tuyến. Một bên là sự khốc liệt quá mức của chiến tranh, những người chết, những người bị thương, xóm làng nhà cửa bị tàn phá dưới sức rung chuyển của bom đạn như những cơn động đất, những cỗ pháo, những phóng pháo oanh tạc cơ, những binh sĩ đang bám đất, những người nông dân đang chạy loạn..... Một bên thì sự yên tĩnh của thành phố với những bãi cỏ được săn sóc hằng ngày thật công phu cẩn thận, với những ngân hàng, và tấp nập những nhà buôn , với những nhà ngoại giao v.v.. Chỉ cách nhau không quá 50 cây số mà tôi có cảm tưởng như là cách xa nhau vạn dậm, hay không cùng ở một hành tinh !
Sài Gòn đang tranh cãi với nhau, đang lợi dụng lẫn nhau, và đang dàn cảnh một sân khấu chánh trị để cho các nhân sĩ có nơi cho họ xuất hiện nhanh để rồi biến đi to nhỏ với nhau ngoài hành lang. Một hoạt cảnh vừa mới bắt đầu đã nhanh chóng trở thành vô ích hay đã lỗi thời ngay sau đó !.
Ngày hôm kia, thứ ba 22/4, một đám đông dân chúng, theo lời kêu gọi của 4 Tôn Giáo lớn ở Miền Nam - Ki tô giáo, Phật giáo, Cao đài và Phật Giáo Hòa hảo - đã tập hợp lại trong nhà thờ Chánh Tòa ở Sài Gòn . Đứng dưới một tấm biểu ngữ thật lớn có vẽ hai chữ "Hòa Bình" thật to bằng sơn đỏ, là một hàng rào các sư sãi đầu cạo nhẳn bóng láng mặc cà sa vàng hực hỡ, đức Tổng Giám Mục với lễ phục trắng, các thân hào nhân sĩ mặc áo dài đen, và đang quì phía sau họ là cả một khối giáo dân .
Người ta chỉ thấy đại diện duy nhất của ngoại giao đoàn là Đại Sứ Pháp, Jean-Marie Mérillon, một người được mời dự buổi lễ đặc biệt nầy và là người được người ta chú ý đến nhiều nhất. Các quan sát viên cho rằng đây là nhân vật đương nhiên tự thừa nhận là mình đang tiến hành một cuộc vận động chánh trị để đi đến hòa bình.
Nhưng chương trình của buổi lễ hôm nay đã được dự tính từ nhiều ngày trước rồi, được dự trù là sau khi hành lễ xong tất cả đều sẽ kéo nhau đến dinh Độc Lập cách đây không xa, để kêu gọi "Tổng Thống Thiệu hãy từ chức" .
Sự ra đi bất ngờ của vị nguyên thủ Quốc Gia vừa qua đã làm bể hết kế hoạch và mất hết ý nghĩa của những sự vận động của các nhóm người chỉ có sát cánh nhau vì cùng chung một động cơ hành động. Tất cả đều mong muốn có "hòa bình", nhưng con đường mà họ định đi đến đích thì không người nào giống người nào !
Bây giờ thì mọi người đều nghĩ đến một cái tên , tên của tướng Dương văn Minh, thường được gọi là "Minh Lớn" ( nguyên tác: "Grand Minh"), người được xem như là phương sách cuối cùng.
Ông Đại sứ Mérillon nghĩ rằng CPLTCHMN sẽ chấp nhận ông Dương văn Minh, nên hối thúc ông Trần văn Hương nên mời ông Minh lập một Chánh Phủ gọi là "Chánh Phủ để Thương Thuyết".
Ông Đại sứ Pháp thấy rằng tình hình đã quá nghiêm trọng rồi nên cần phải có những quyết định cấp bách. Nhưng từ 48 giờ qua, ông vẫn giẫm chân tại chỗ trong sự nhẫn nại. Ông đã hai lần ngồi xe D.S của ông có gắn cờ Pháp để đi vào Dinh Độc Lập hối thúc ông Tổng Thống già nua nên sớm "có hành động" kịp thời.
Hôm nay lúc 5 giờ chiều, đã có một phát súng bị tịt ngòi trên sân khấu chánh trị. Tướng Minh đã mời các nhà báo và đã nói với họ rằng:
- " Tổng Thống Trần văn Hương đã mời tôi nhận chức vụ Thủ Tướng , Tôi đã từ chối. Ở cương
vị Thủ tướng tôi không thể mở đường đi đến một cuộc thương thảo được với "phía bên kia". Tôi đã trả lời cho Tổng Thống Hương là: điều kiện tiên quyết mà những người "cách mạng" đặt ra
là Tổng Thống phải từ nhiệm. Đó không phải là một điều mong muốn, mà là một sự bắt buộc "
Sự từ chối chức vụ Thủ tướng của tướng Minh đã nói lên ý muốn "đốt giai đoạn" của ông ta. Đại sứ Pháp, người đã hướng dẫn cho ông ta, đã chơi một ván bài nguy hiểm. Sơ đồ hành động của ông, nhằm đẩy cụ già Hương ra khỏi ghế Tổng Thống và thay thế ông bằng một người chưa từng bao giờ "bị phía bên kia chỉ trích", chủ yếu được dựa trên niềm tin rằng cộng sản sẽ sẵn sàng thương thảo trên căn bản của Hiệp Định Paris 1973. Và theo ông thì không có gì là không vững chắc. Mười hai ngàn người có quốc tịch Pháp ở Miền Nam Việt Nam, được Tổng Thống Giscard d'Estaing và Đại sứ của họ kêu gọi hãy ở lại tại chỗ, có thể có nguy cơ phải trả giá rất đắt với tài sản và sanh mạng của mình, nếu giải pháp chánh trị nầy bất thành.
Cân nhắc kỹ lưỡng rồi, ông Mérillon ước tính là cơ nguy đó phải được qua và ông dùng cách để thuyết phục cộng đồng người Pháp ở đây là không có gì đáng phải lo sợ hết..
Trước tiên là ông quyết định vẫn giữ nguyên ngày giờ thi Tú Tài toàn phần là ngày thứ hai 28 tháng 4, mặc dầu có những sự vận động khẩn thiết của các phụ huynh học sinh .
Kế tiếp là trong lúc hầu hết các tòa đại sứ Tây Phương ở đây đều đóng cửa, ông Jean- Marie Mérillon đã công khai cho sơn lại mặt tiền của tòa đại sứ và cho trồng thêm bông hoa trong khu vườn của tư dinh ông .
Có 12 người hiến binh được gởi tới bằng đường hàng không để tăng cường canh gác, Ông đã cho họ thay phiên nhau đứng gác ngoài cổng rào của tòa đại sứ.. Ông cho một số thợ hồ xây thêm tường rào tòa đại sứ cho cao hơn lên, vừa để tránh những sự dòm ngó của kẻ tò mò nhằm bảo vệ cho các nhân sĩ Việt Nam ra vào tiếp xúc với Ông, vừa có thể dùng tòa đại sứ như một nơi tỵ nạn đúng theo quyền tỵ nạn chánh trị , nếu có xảy ra chiến trận ở đây.
Và cuối cùng, để dự trù trường hợp xấu nhất, có một số tiêu lệnh đã được ban ra cho một số người "đầu đàn" trong cộng đồng người Pháp. Ba điểm tập trung đã được dự trù: đó là bệnh viện Grall, trường trung học Saint Exupéry (Chasseloup Laubat cũ) và cư xá Lareynières, nơi cư trú của các giáo chức Pháp. Tất cả những cơ sở công cộng, tất cả những tiệm buôn và nhà cửa, tài sản hay nơi cư trú của người Pháp đều phải được treo cờ tam tài Pháp.
Những người nào còn nghi ngờ về tương lai và thiện chí của cộng sản , tự thấy mình "bi quan thái quá" và muốn nghe câu trả lời thì đây :
"Hãy làm một bản thống kê chính xác tất cả tài sản của mình. Thiết lập hồ sơ thật đầy đủ, nhưng vẫn phải ở lại tại chỗ. Vì khi rời khỏi nước Việt Nam , trước tiên là mình sẽ mất hết tất cả các quyền cứu xét để được bồi thường vì lý do chiến tranh, nếu có."
*
* *
Mặc dầu ông Đại Sứ Pháp đã cho thấy tất cả sự lạc quan của mình, cuộc khủng hoảng chánh trị xem ra khó có thể tháo gỡ được . Phía ngoài hàng rào có vẻ yên tĩnh và mặc cho bối cảnh vận động chánh trị bận rộn của tòa đại sứ , thành phố Sài Gòn vẫn đầy rẫy những mánh khóe và những sự âm mưu toan tính . Những sự liên minh vừa mới được kết hợp ngày hôm qua thì ngày mai lại tan rã ...
Từ đêm ngày thứ năm cho tới thứ sáu, ở khách sạn Palace đã có một buổi họp của đại diện các phe nhóm ở Miền Nam, một số các tướng lãnh trẻ, các đại diện của người công giáo di cư và những lãnh tụ đối lập. Nhưng sau nhiều giờ bàn cải, họ không muốn chọn tướng Minh Dương . Họ có ý trách ông nầy rất thụ động về phương diện chánh trị trong mười năm qua, và thiếu năng lực phán đoán. Tin chắc rằng mục tiêu duy nhất mà cộng sản đang theo đuổi là chiếm Miền Nam Việt Nam bằng giải pháp quân sự , họ nghĩ rằng ông Minh "không đủ sức" nên các cuộc thương lượng với cộng sản nếu có đi chăng nữa thì củng chỉ sẽ dẫn đến một sự đầu hàng mà thôi không hơn không kém.
Đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo đề nghị đem lên Sài Gòn hai chục ngàn người tình nguyện (20.000) để "thanh toán hết các phần tử chủ bại và thành lập một Chánh Phủ cứu quốc". Đặc biệt hơn ông nầy tấn công ngay tướng Trần văn Đôn vì ông Đôn không chịu phát vũ khí cho các lực lượng tôn giáo và hằn học kết luận là :"Phải bắt ông ta, đưa lên đoạn đầu đài và xử bắn ông ta!"
Linh mục Hoàng Quỳnh , người được những người công giáo di cư tuyệt đối tin tưởng, xác nhận là ông "sẵn sàng đưa hai trăm ngàn người công giáo (200.000) xuống đường" (biểu tình).
Luật sư Trần văn Tuyên thì tố cáo Đại sứ Pháp đã có hành động không thể tha thứ được là xen vào công việc nội bộ của Việt Nam . Ông Tuyên nói :
- "Ông Mérillon đã dám xấc xược nói với tôi rằng Tổng Thống Hương đã già yếu bệnh hoạn. Phải đưa ông ta vào bệnh viện để người ta giải phẩu cho ông, và nếu ông nằm ở bệnh viện thì bài toán sẽ được giải quyết "
Ông Trần văn Tuyên, 62 tuổi, một luật sư có tài, là trưởng nhóm xã hội trong Quốc Hội và là một đối thủ của ông Thiệu. Ông là một trong những người hoạt động tích cực cho "Phong tràio Tự Do Báo Chí" . Ông Tuyên nói tiếp :
- " Tổng ThốngTrần văn Hương rất phẫn uất vì thái độ khinh khỉnh và không thân thiện của
ông Mérillon. Nản lòng vì những lời mỉa mai cay độc nhắm vào ông, và những áp lực đối với ông, vị Tổng Thống lớn tuổi của chúng ta đã đe dọa sẽ tự tử bằng ống thuốc thạch tín mà ông luôn luôn đeo ở bên mình "
Tham vọng và sự nóng giận đã thúc đẩy những người có trách nhiệm nầy ý thức được mối nguy cơ cộng sản và sẵn sàng làm tất cả những gì để tránh nguy cơ nầy. Người nào củng tin rằng mình có thể cung ứng hàng ngàn chiến sĩ. Có người người còn dự trù thành lập một khu kháng chiến ở Đồng Bằng sông Cửu Long ở Miền Tây. Họ đề nghị chuyển hết các kho vũ khí và đạn dược về vùng nầy. Còn các tướng lãnh trẻ thì thề nhứt quyết họ không bao giờ đầu hàng cộng sản .. Nhưng liệu cuộc kháng chiến như thế có cơ may kéo dài được bao lâu nếu không có một sự yểm trợ từ bên ngoài ? Dù gì đi nữa thì Hoa Kỳ sẽ không can dự vào nữa rồi. Lên tiếng ở tiểu bang New Orléans , Tổng Thống Ford vừa mới thản nhiên xác nhận điều đó làm cho tim mọi người muốn ngừng đập .Ông ta đã yêu cầu người Mỹ "hãy lật sang trang khác" để hướng về tương lai. Ông ta đã tuyên bố thêm là ông đã gạt ra ngoài mọi khả năng tái can thiệp của Hoa Kỳ bằng hai câu ngắn :
- " Bây giờ thì chúng ta có thể tìm thấy lại được sự hãnh diện mà Hoa Kỳ đã có từ trước sự kiện Việt Nam ..,Một sự hãnh diện mà Hoa Kỳ sẽ không bao giờ tìm lại được, nếu còn tham gia vào một cuộc chiến coi như đã hoàn toàn chấm dứt đối với chúng ta." !
CHƯƠNG HAI MƯƠI
NHỮNG TRÒ CHƠI VÔ VỊ CUỐI CÙNG
Thứ Sáu, ngày 25 tháng Tư
Hôm nay Tổng Thống Hương lại tiếp ông M. Mérillon trong vòng 80 phút và sau đó lại họp với ông M. Martin, Đại sứ Hoa Kỳ . Cả hai nhà ngoại giao nầy người nào cũng cố thuyết phục Tổng Thống Hương là nên cấp tốc đưa ra một phương thức khả dĩ có thể mở đường cho một cuộc thương thảo với những người "cách mạng" (nguyên văn: révolutionnaires") Cả hai đều nói "phương thức nầy nên gạt ra ngoài Hiến Pháp năm 1967,.... cần có sự từ chức của Ngài, và giao lại cho một toán nào đó mà "phía bên kia" có thể chấp nhận được "
Vị Tổng Thống già đồng ý chấp thuận mục đích của các đề nghị, nhưng khăng khăng muốn tìm một giải pháp theo đúng với Hiến Pháp .. Ông Mérillon càu nhàu:
- "Ông ta cứng đầu lắm! như một con lừa vậy ! Lúc nào cũng "Tôn trọng hình thức hợp Hiến"., ông ta chỉ nói hoài có bấy nhiêu đó . Như một người nghèo sắp sửa bị cháy nhà mà cứ từ chối không chịu kêu lính chữa lửa, vì nghĩ rằng mình đang có trong túi một hợp đồng bảo hiểm đúng cách."
Trong cuộc tiếp xúc nầy, Ông Hương đọc lại một bài thơ trào phúng của văn hào Pháp Sully Prud'homme tuyên dương hành động anh hùng của một người chỉ huy Ba Lan, khi ông nầy muốn chận đứng đoàn quân Nga trước một con rạch cạn , bằng cách làm cho họ tin tưởng rằng con rạch nầy khó có thể lội qua được . Để chứng minh điều nầy người Ba Lan lội xuống nước và gập hai chân lại đi bằng đầu gối, rồi sau đó nằm sấp xuống, trước khi giả bộ chìm hẳn và bị chết đuối. Jean M. Mérillon trợn tròn đôi mắt lên nhìn thẳng Tổng Thống Hương và vừa nhún vai vừa sốt ruột nói:
- "Chúng ta không còn ở thế kỷ 19 nữa, thưa Ngài Tổng Thống , và những tên cộng sản bây giờ đã có những chiến xa lội nước và đã có cầu nổi được kéo theo để qua sông dễ dàng "
Những ngày vừa qua, đã có nhiều nhân sĩ Việt Nam đến gặp Đại Sứ Pháp. Đó là : Đức Tổng Giám Mục Bình , Thượng Tọa Thích Trí Quang, thuộc chùa Ấn Quang, và Chủ Tịch Luật sư đoàn. Tất cả đều có một đề nghị: " Ông hãy có một hành động nào đó để tránh những trận đánh nhau trên dường phố trước khi đã quá muộn. "
Nhưng Tổng Thống Hương cứ ôm cứng Hiến Pháp không lay chuyển nổi !.
Cuối cùng, sau khi làm việc rất lâu với những người thân cận của mình, ông mới quyết định triệu tập phiên họp đặc biệt của Lưỡng Viện Quốc Hội vào sáng ngày mai thứ bảy 26/4.
*
* *
Một tiểu đoàn chánh quy cộng sản Bắc Việt từ Đồng Tháp Mười định tiến đánh bất ngờ tỉnh lỵ Tân An , một thành phố nằm cách Sài Gòn khoảng 30 cây số về hướng Tây Nam . Cuộc tiến công nầy được diễn ra trên một cánh đồng lúa quá trống trải nên đã bị Không quân đập tan. Tiểu đoàn cộng sản đã bị diệt gọn. Nhưng cuộc tấn công nầy được xem như một cuộc hành quân của một đơn vị tiền phương, đã cho thấy là các đại đơn vị Bắc Việt từ Cam Bốt đang chuẩn bị tràn sang Việt Nam để siết chặt vòng vây Thủ đô Sài Gòn của Miền Nam Việt Nam .
Từ hôm thứ hai vừa rồi, thiên hạ đua nhau xin hộ chiếu. Đi ra khỏi Việt Nam từ đầu tháng đã là một chuyện rất khó rồi, còn bây giờ thì gần như không còn thế nào được nữa. Trừ một vài trường hợp được ân huệ riêng là thân nhân hay bạn rất thân của giới lãnh đạo Miền Nam Việt Nam Từ hai tuần nay, có người đã phải trả thật đắt (đến 15 triệu đồng bạc) cho một chiếu khán. Bây giờ thì chiếu khán đó không còn dùng vào đâu được nữa rồi. Có một số người Việt Nam đến phi trường Tân sơn Nhứt với một hộ chiếu (giấy thông hành) và một chiếu khán "đã mua", mới được biết là có một cú điện thoại từ Bộ Nội Vụ (Bô Trưởng đã được thay rồi) báo cho họ biết là những giấy tờ đó đã không còn giá trị nữa. Đồng đô la trong ba ngày đã vọt từ 1200 lên đến 2500 đồng. Và cái giá phải trả cho những "biện pháp ân huệ" cũng tăng theo nhịp độ đó. Do vậy số người được xuất ngoại "hợp pháp" càng ngày càng ít đi.
Hầu hết những người Việt Nam có cơ may rời khỏi nước đều nhờ vào cầu không vận cùa Hoa Kỳ . Cầu không vận nầy hoạt động suốt ngày đêm và khả năng bốc người đi được tăng lên gấp 3 lần. Mục đích đầu tiên của Hoa Kỳ là nhằm đưa về nước khoản 800 công dân Mỹ còn đang kẹt lại ở Việt Nam ..Công tác nầy chỉ đến cuối tuần nầy là hoàn tất. Cùng đi với người Mỹ mỗi ngày, có từ ba đến bốn ngàn người Việt Nam được tháp tùng, những ai được ghi danh trong "danh sách ưu tiên", gồm có những người làm việc cho các công ty Mỹ , những công chức hay công nhân làm việc cho văn phòng thuộc sứ quán hay các sở Mỹ, các nhân viên tình báo, các cấp thuộc chương trình bình định và gia đình của họ.
Sự việc được phép mang cả gia đình theo đã mở toang cửa cho tất cả mọi sự móc nối làm tiền. Có những người khi đã được ghi tên vào danh sách được đi rồi thì cho ghi thêm thân nhân của chính mình càng ngày càng nhiều ra và đã cho họ cùng đi với mình với một số tiền thù lao rất là hậu hĩ.
Nhịp độ ra đi càng ngày càng nhanh hơn. Những người di cư được các xe buýt to có lưới thép bọc bên ngoài cửa kiến chở đến Tân sơn Nhứt. Ngay ở cổng phi trường đã có nhiều thảm cảnh rất đau lòng giữa kẻ đi người ở. Sau đó họ được đưa vào các gian nhà lớn ở trong khuôn viên của Phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ, nằm trong khu vực sân bay Tân sơn Nhứt. Ở đây không thiếu chỗ và có đầy đủ tiện nghi: có gần 1000 chiếc giường bố xếp cho họ nghỉ ngơi chờ đợi chuyến bay, có phần ăn nóng sốt 3 bữa mỗi ngày. Khi được kiểm điểm lý lịch xong, họ lại được xe buýt đưa thẳng ra phi đạo lên các phi cơ vận tải quân sự để đi đến Phi luật Tân, Đài Loan hay tới đảo Guam, và Honolulu (Hạ uy Di). Thỉnh thoảng cũng có một vài cô chiêu đải viên hàng không mảnh khảnh và duyên dáng trong chiếc áo dài xanh lơ đã tìm cách được kín đáo đưa lên các chuyến bay nầy.
Những người không có một mối liên hệ nào với người Mỹ hay với những người được Mỹ "bảo trợ" đã cố gắng tìm hết mọi cách và mọi phương tiện để được đi ra khỏi Miền Nam Việt Nam :
- Những nhà buôn khá giả bỏ tiền ra mua hay mướn các chiếc tàu, thuyền máy đánh cá của dân chài ngoài biển hay những chiếc thuyền đi biển để đưa họ đến Malaysia hay Thái Lan, nếu dọc đường họ không bị cướp hay giết chết để đoạt sạch tài sản vòng vàng tiền bạc mà họ dấu đút mang theo trong người .
- Có những người lanh lợi hơn liên lạc thẳng với các phi công của "câu lạc bô hàng không" và đề nghị mười ngàn đô la (10.000) cho mỗi hành khách nếu họ chịu chở những người nầy ra ngoại quốc.
- Có nhiều người bạn Pháp của tôi được mấy người Việt Nam lớn tuổi , đạo mạo khả kính, đến gạ với họ ngay ngoài đường phố, với đề nghị cưới giùm các cô con gái của họ với một số tiền hồi môn kếch sù lên đến hai chục triệu đồng cho mỗi người (khoản 80.000 quan Pháp), để mang các cô nầy về Pháp, với cam kết là khi đến nơi rồi họ sẽ làm thủ tục "ly dị ngay"
- Có một người Mỹ vừa mới bị bắt và bị trục xuất, vì anh ta đòi bảy ngàn đô la (7000) mỗi người để nhận họ là "thân nhân trong gia đình". Anh Mỹ nầy đã thành công trong việc đưa đi 18 người Việt Nam đến đảo Guam qua trung gian của người vợ Việt Nam của anh ta.
- Ở quán rượu Impérial của ông già Bonelli, một bà giám đốc cơ sở bào chế thuốc Tây (Bà Anh) đang tìm cách bán nhà của bà. Bà nói với tôi :
- "Đây là một biệt thự tuyệt đẹp, ở một địa điểm rất tốt, nằm trên đầu đường Paul Blanchy. Tám phòng, với hai nhà xe và 800 thước vuông vườn. Ba tháng trước tôi đã không bán với giá 30 triệu đồng. Bây gìờ thì tôi sẵn sàng nhượng lại với giá 3 triệu thôi (chưa đến 12.000 quan Pháp với hối đoái chánh thức). , và tôi sẽ để lại tất cả đồ đạc trong nhà gồm có bàn tủ ghế, quần áo, chén bát, máy lạnh và hai tủ lạnh...."
Ba ta móc bóp lấy một xấp giấy tờ ra và nói thêm :
- " Đây là giấy bán nhà, tôi đã ký sẵn rồi, chỉ còn ghi tên người mua vào là xong hết."
Ông già Bonelli trầm ngâm suy nghĩ và mỉm cười, ngẫng đầu lên mệt mỏi nhún vai và nói:
- "Ít nhất bà là người thứ hai đã đến đây gặp tôi từ hai hôm nay. Làm gì còn có người muốn mua nhà trong lúc nầy ?
Bà Anh lại quay sang tôi :
- " Tôi cũng có một chiếc xe Mercédès chạy dầu gần như mới toanh, 5000 cây số thôi, có đủ cả ra diô và cát sét. Tôi muốn bán nó với giá rẽ 500 đô la
- Chừng nào bà sẽ đi ?
- Trưa nay
- Bà làm sao có được chiếu khán xuất cảnh hay vậy ?
- Ông nghĩ xem. bà vừa trả lời cho tôi vừa cười rộ lên , các chiếu khán bây giờ vô giá. Tôi tự xoay sở với người Mỹ. Tôi đã giao dịch với họ từ 15 năm nay rồi và con gái tôi là một nhà sinh vật học ở Cựu Kim Sơn. Nếu ông muốn dùng chiếc xe tôi, ông hãy điện thoại cho tôi trước 15 giờ, Đây là số điện thoại của tôi .
Tôi không có ý định mua xe Mercédès của bà Anh, nhưng vì tò mò tôi đã điện thoại đến nhà bà vài phút sau 15 giờ. Một người làm cho bà đã trả lời cho tôi là bà ta đã đi ngoại quốc rồi và bà ta cũng không thèm ghé lại nhà để lấy chiếc va ly của bà nữa !
*
* *
Vào chiều tối, hành khách của chiếc phi cơ "ca ra ven" thuộc hãng Hàng Không Việt Nam đi Băng Cốc (Thái Lan) đã được chứng kiến một cảnh rất não lòng. Trong chiếc phi cơ, ông tướng Trần văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng của nội các vừa từ nhiệm, nhưng vẫn còn là Xử Lý Thường Vụ, đang mơn trớn vuốt ve một người đàn bà đẹp rất duyên dáng trong bộ đồ mỏng mùa hè, có đeo một nhẫn hột xoàn lớn bên tay trái. Vừa mới ngày hôm qua đây, tướng Đôn đã cổ võ quân đội Quốc Gia phải bảo vệ đất nước đến hơi thở cuối cùng, thì hôm nay ở đây ông ta đang vừa rót vào tai của người bạn gái của ông ta những lời êm ái vừa vuốt ve hai bàn tay của cô ta. Sau đó ông trao cho cô ta một tấm ngân phiếu mà ông ta ký ngay tại ghế ngồi, và từ giã cô nàng với vẻ mặt vồn vã và đau khổ của những cặp tình nhân ở lứa tuổi sinh viên. Ngay trong lúc đó hẳn nhiên là vị tướng lãnh nầy chỉ dán cặp mắt và tâm tư của mình vào người đẹp sắp đi đến một nơi yên ổn. Các quân nhân đang chết trong các hầm chiến đấu của họ, chỉ cách nơi nầy có vài cây số, chắc hẳn không bao giờ ngờ được rằng họ đang hy sinh để giữ an ninh cho những sự trao đổi tình cảm yêu đương vụn vặt của một vị tham mưu lớn tuổi như vầy, một vị mà tên tuổi của ông ta đã từng được nêu lên như là một Thủ Tướng tương lai của một Chánh Phủ Liên Hiệp !
Thứ Bảy, ngày 26 tháng Tư
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã bay đi Đài Loan tối nay rồi. Có những lời đồn đãi từ "đài phát thanh Catinat" quả quyết là ông ta đã "mang theo 16 tấn hàng gồm có cả một bộ sưu tầm đá quý và đồ cổ đánh cắp ở Viện Bảo Tàng Quốc Gia và 4 tỷ vàng nén."
Một đại úy Dù đã tức giận nói với tôi :
- "Ông Thiệu ra đi không có một lời nói. Ông ta đã tuyên bố trên truyền hình là ông ta sẽ ở lại
với chúng tôi và sẽ chiến đấu bên cạnh chúng tôi cho đến cùng. Tất cả dân chúng trong nước
đều có thấy và có nghe. Và giờ đây ông ta trốn đi như một tên hèn, lợi dụng ban đêm để mọi người không trông thấy ông ta Bọn Tàu ở Đài Loan đã trải thảm đỏ để đón ông ta. Chỉ có một cách để chào đón ông ta, đó là để vào đầu ông ta một viên đạn !"
Tờ báo Pháp Le Courrier d'Extrême - Orient và báo chí Việt Nam đã cho hành động của TổngThống Giscard d'Estaing có một "tầm quan trọng rất lớn", khi ông đã nói chuyện rất lâu qua điện thoại với ông Đại sứ Pháp tại Sài Gòn . Làm như là Ba Lê đã thay thế Hoa Thạnh Đốn trong vấn đề tìm kiếm một giải pháp bằng thương thuyết cho Miền Nam Việt Nam rồi vậy .
Ông nghị sĩ Paul d'Ornano, đại diện cho người Pháp ở Việt Nam , đã đến Sài Gòn tối hôm qua bằng phi cơ. Ông đã có tuyên bố như sau :
- "Tôi rất sung sướng được trở lại với những người Pháp ở Sài Gòn , những người mà tôi thấy
là đã rất trầm tĩnh và rất là xứng đáng như lúc tôi còn ở đây 3 tuần lễ trước . Tôi cũng rất lấy làm sung sướng để được nói với họ rằng Tổng Thống của nước Cộng Hòa Pháp đã có tiếp tôi ngay trước khi tôi rời khỏi Ba Lê, để bày tỏ tất cả sự ân cần của Ngài đối với cộng đồng người Pháp ở Sài Gòn mà Ngài đã biết và đánh giá cao lòng can đảm và phẩm chất...."
Nghị Sĩ Paul d'Ornano là một kỹ sư hầm mỏ, thuộc một gia đình quý phái lâu đời ở đảo Corse, đã từng phục vụ ở Đông Dương 22 năm. Là một cựu giám đốc đồn điền, ông là một người rất cứng cỏi và nhã nhặn, môt người biết rất rõ đất nước nầy.. Sự có mặt của ông ta làm yên lòng cộng đồng người Pháp ở đây, mà nếu có chuyện gì xảy ra thì họ sẽ trông cậy vào ông ta hơn là vị Đại Sứ, một người quá bận rộn với những sự theo dõi và suy nghĩ tới các giai đoạn biến chuyển chánh trị của Việt Nam
Và cũng ngay trong lúc đó, phần đông các nhà báo ngoại quốc đang dự buổi họp báo hàng tuần của sĩ quan Việt Cộng và của Bắc Việt, thành viên của Ủy Ban Kiểm Soát và Thi Hành Lệnh Ngừng Bắn đã được Hiệp Định Ba Lê ấn định. Lại thêm một chuyện rời rạc nữa, và không phải chuyện nhỏ đâu, vì cái chuyện "chấm dứt chiến tranh" nầy đã trở thành rất khó hiểu, và trên bình diện chánh trị nó là một vở kịch quá nực cười.
Kể từ tháng 3 năm 1973, 200 Việt Cộng và 500 cộng sản Bắc Việt đã đóng quân ở ngay giữa sân bay Tân sơn Nhứt, chiếm mấy dãy nhà có rào kẽm gai chung quanh, bên trong thì cộng sản tự canh gác với súng A.K.47 còn bên ngoài thì được quân cảnh Miền Nam bảo vệ. Cách doanh trại nầy chừng vài trăm thước, các phóng pháo oanh tạc cơ của Miền Nam cất cánh ầm ĩ mang bom đến đánh các đơn vị Bắc Việt trên đường tiến về thủ đô Sài Gòn
Đại tá Võ đông Giang, phát ngôn viên của Việt Cộng ngồi dưới bức ảnh cụ Hồ với chòm râu dưới cằm. Cũng giống như các cuộc họp báo trước, anh ta tố cáo những "hành động tội ác" của Tổng Thống Hoa Kỳ và của "Ngụy quyền" Sài Gòn - lời của ông ta thường xuyên bị ngắt quãng do tiếng gầm thét của các phản lực - nhưng lần nầy thì anh ta nhấn mạnh rằng chiến tranh giải phóng ngày càng tốt hơn cho "lực lượng cách mạng" .
Để kết thúc ông ta nhắc lại dai dẳng những điều kiện do "lực lượng cách mạng" đặt ra cho Chánh Phủ Sài Gòn để bắt đầu những cuộc thương lượng nghiêm chỉnh :
" - chấm dứt sự hiện diện của Hoa Kỳ
- Thành lập một tân Chánh Phủ, với tuyên ngôn "cho hòa bình, độc lập, dân chủ và hòa giải quốc gia"
- Thi hành Hiệp Định Ba Lê
- Loại bỏ tất cả những người đã từng nằm trong guồng máy của Thiệu
- Từ bỏ đường lối hiếu chiến, phát xít, áp bức và đàn áp đối với nhân dân
- Hủy bỏ tất cả các luật lệ phản dân chủ. Bảo đảm tôn trọng tự do dân chủ. Trả tự do cho tất cả những người bị giam giữ vì đã tranh đấu cho hòa bình và độc lập quốc gia."
Một phần lớn các điều kiện đó đang trên con đường được thực hiện.
Nhưng đại tá Võ đông Giang muốn nói gì khi ông ta đặt điều kiện "phải thi hành Hiệp Định Ba Lê" ? trong lúc 23 sư đoàn Bắc Việt tràn vào chiếm hai phần ba lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam ?
Và trong lúc ông vừa nói vừa đang đập bàn rầm rầm ở đây thì hàng trăm người Mỹ đang xếp hàng chạy lên chiếc phi cơ vận tải khổng lồ "Galaxie" đang chuẩn bị cất cánh.. Chuyến ra đi hấp tấp của người Mỳ nầy đang diễn ra không xa vị trí đồn trú của cộng sản bao nhiêu, nơi mà người Mỹ gọi là "Trại Davis" để kỷ niệm cho một người binh sĩ Hoa Kỳ tên Davis bị tử trận đầu tiên ở Miền Nam Việt Nam
*
* *
Về phía Sài Gòn , tiến trình giải thể Chánh Phủ đang được xúc tiến. Chỉ còn một vài hình thức bề ngoài cần phải xem xét lại mà thôi.
Hồi 10 giờ sáng nay, chiếc xe Mercédès dài của Phủ Tổng Thống đến đậu trước cửa Thượng Viện. Tổng Thống Hương, một ông lão đáng kính, bước xuống xe, chống gậy, chậm rãi đi duyệt qua hàng binh mặc lễ phục trắng đang dàn chào Ông. Các dân biểu và nghị sĩ thuộc lưỡng viện Quốc Hội tập họp đầy đủ đang đứng chờ ông trong sảnh đường lớn của tòa nhà. Họ đến như vậy là khá đông đấy: 183 trên 219 người dân cử thuộc lưỡng viện Quốc Hội . Vì còn phải tính đến mọi sự khó khăn trong vấn đề di chuyển, nào là đường sá bị cắt đứt, nào là các tỉnh và thành phố đang bị cô lập hay đã bị cộng sản chiếm. Như vậy cho thấy là Quốc Hội rất quan tâm đến phiên họp đặc biệt quan trọng nầy. Tổng Thống Hương mở đầu phiên họp với một bản tường trình về những biến cố đã xảy ra từ khi ông lên nắm quyền.. Sau khi nói về những "khó khăn gặp phải trong các cuộc tiếp xúc" và những "áp lực liên tục mà ông phải chịu với những nhà ngoại giao ngoại quốc và với một số chánh trị gia của Miền Nam ", ông tuyên bố:
- " Tôi không muốn dấu quý vị lâu hơn nữa rằng cần phải và bắt buộc phải thương thuyết với phía bên kia. Nhưng vẫn còn có dân tộc và đất nước.Tôi không mong muốn Sài Gòn trở thành một Nam Vang thứ hai. Tôi không muốn thủ đô của chúng ta bị xóa tên trên bản đồ và cũng không muốn dân chúng của chúng ta bị bom đạn tàn sát.. Nhưng tôi muốn chứng tỏ sự kính trọng của tôi đối với đất nước cho đến cùng. Những trọng trách mà tôi đang gánh vác đây được gắn liền vơi tính cách hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa, của Lưỡng Viện Quốc Hội và của quý vị dân cử. Tôi thấy tôi không có quyền đơn phương từ bỏ trọng trách đó. Tôi phải trông chờ vào quyền lực của Quốc Hội vì chỉ có Quốc Hội mới có đủ tư cách để quyết định phải xúc tiến việc thương thuyết và chỉ có Quốc Hội mới có quyền chỉ định cá nhân nào mà Quốc Hội xét thấy có đủ khả năng nhất để thi hành nhiệm vụ thương thuyết nầy.. "
Và sau đó ông Hương không có nêu thẳng ra tên tuổi của ai cả, nhưng ông giải thích chi tiết rõ ràng về những sự điều đình của ông với tướng Dương văn Minh:
- "Trước hết tôi đã đề nghị trên giấy trắng mực đen với "người đó" về chức vụ Thủ Tướng Chánh Phủ với đầy đủ quyền hành. Ông ta đã từ chối. Tôi đã phải mời ông ta đến gặp tôi tại Dinh Độc Lập. Ông ta cũng lại từ chối. Với một thiện ý muốn giải quyết vấn đề, tôi bất chấp hết mọi thủ tục và mặc dầu tuổi già sức yếu, tôi đã phải chấp nhận di đến nhà một người bạn để gặp "người đó". Tôi đã đề nghị với "ông ta" chiếc ghế Phó Tổng Thống nhưng một lần nữa "người đó" chẳng những đã khước từ đề nghị của tôi mà còn nói với tôi rằng: "Phải có tất cả hay không có gì hết ", có nghĩa là "phải là Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hòa". Tôi có lưu ý như vậy là ông ta đòi hỏi tôi phải vi phạm Hiến Pháp, và ông ta đã trả lời rằng "Đó không phải là việc của ông ta ". Sau đó tôi đã đặt cho ông ta một câu hỏi: " Có gì bảo đảm rằng phía bên kia sẽ chấp nhận thương thuyết với ông ?". Người đó đã trả lời rất gọn : " Tôi đã nhận được từ phía bên kia đầy đủ những bảo đảm để tôi làm tròn vai trò của tôi ". Mặc dầu tôi đã có nhấn mạnh nhưng tôi không thể có thêm một giải thích nào khác về những lời nói úp mở của ông ta và tôi thú thật là tôi không tin vào những lời nói đó.Tôi sẽ không bao giờ gánh lấy trách nhiệm về việc trao quyền hành một cách bất hợp hiến , vì lẽ đó nên ngày hôm nay tôi xin quý vị hãy trao quyền hành pháp lại cho người đó bằng lá phiếu hợp pháp của lưỡng viện Quốc Hội . Đó là phương thức duy nhât vừa để cứu Sài Gòn khỏi một thảm họa vừa không làm mất thể diện của quốc gia và chế độ."
Nói xong những lời đó, ông Hương rời phòng họp và trở về Dinh. có 2 xe hộ tống mở dường qua các phố đang đông nghẹt dân chúng.
Ông Trần văn Lắm, Chủ tịch Thượng Viện đề nghị ngay sau đó là các trưởng nhóm thảo luận ở các tiểu ban trước khi trở lại hội nghị khoáng đai . Sự bàn thảo của các trưởng nhóm đã được nhanh chóng tổ chức.
Trưởng nhóm "Dân Tộc Xã Hội" thuận cho tướng Minh nên muốn "Tổng Thống Hương phải từ chức một cách đơn giản".
Trưởng nhóm Cộng Hòa lớn tiếng : " Chúng tôi không có một tín nhiệm nào đối với tướng Minh. Ông ta đã thường thay đổi màu áo của ông ta, và không có gì để chứng minh rằng ông ta đã có xúc tiến bàn thảo với phía bên kia. Ông ta có thể đưa ra được một chứng từ nào không ? Ai là người đã liên lạc với ông ta và người đó ở vào đẳng cấp nào ?
Trưởng nhóm "Độc Lập" vỗ bàn : "Chúng ta không thể đặt tương lai của đất nước trên những giả thuyêt suông !"
Chủ tịch Thương Viện nhắc lại một liên lạc điện thoại của ông M.Graham Martin, đại sứ Hoa Kỳ. Ông nói : "Người Mỹ đã mạnh dạn khuyên chúng ta đừng nghĩ đến Hiến Pháp. Thời giờ đã quá cấp bách rồi . Không còn phải lúc để cho chúng ta tự trói buộc vào những lý sự cùn nữa "
Tướng Trần văn Đôn đang làm việc ngoài hành lang, tâm tình nhỏ to với các nghị sĩ : "Người Pháp là những người duy nhất có thể nói chuyện với Bắc Kinh , Mạc tư Khoa, Hoa thạnh Đốn, Hà Nội và CPLTCHMN, họ ủng hộ triệt để tướng Minh. Họ đoan chắc là cộng sản chỉ muốn bàn thảo với ông ta mà thôi."
Cuộc thảo luận công khai đã diễn ra lúc 14 giờ.Và nó kéo dài cho đến 22 giờ. Các diễn giả thay phiên nhau lên diễn đàn. Các cuộc thảo luận vô vị cứ kéo dài. Họ cãi vã, xô đẩy nhau, trao đổi nhau những lời đe dọa, nhưng cuối cùng rồi họ cũng đi đến thỏa thuận cho một bản văn quyết nghị vô thưởng vô phạt không giải quyết được gì cả :
- " Quốc Hội nhìn nhận Tổng Thống Hương có đầy đủ tư cách và thẩm quyền để chọn người thay thế ông. Người nầy sẽ được ủy thác để tiến hành các cuộc thương thuyết."
Tên của tướng Minh Dương không thấy nêu lên trong bản văn của quyết nghị.
Chủ Nhật, ngày 27 tháng Tư
Vào lúc 4 giờ sáng có nhiều tràng rốc kết được nã vào Sài Gòn . Những tiếng nổ làm rung chuyễn các cửa sổ. Sau đó chừng vài phút tôi nghe thấy tiếng còi hụ của các xe cứu hỏa và xe cứu thương. Từ trên sân thượng của mình tôi nhìn thấy ánh lửa và những cột khói đen quyện vào lửa đỏ trên nền trời.Có cháy ở về hướng nhà ga Sài Gòn , một khu vực có nhiều nhà gạch và nhà cây nhỏ. Nhưng phải đợi đến hết giờ giới nghiêm mới biết được chính xác là các quả rốc kết rơi ở khu vực nào, và gây thiệt hại ra sao cho dân chúng.
Đến 7 giờ sáng tôi mới đi săn tin được. Một quả đánh trúng khách sạn Majestic, nằm ở cạnh bờ sông Sài Gòn . Quả thứ hai nổ trên lề đường gần chợ Sài Gòn. Sáu quả khác đã nổ trong khu đông dân cư nằm bên kia đường đối diện với Bộ Tư Lệnh Cành Sát. Hàng trăm lều trại, xưởng nhỏ đang bốc cháy với những tiếng nổ như pháo. Mặt đất có cả một lớp tro đen phủ lên trên nhầy nhụa vì nước của các anh cứu hỏa. Những tấm tôn cong vẹo nằm vắt vưởng lên các bức tường đổ nát, và các bàn tủ ghế chỉ còn là những que củi cháy dở dang. . Các bà đang ngồi xổm , im lặng bới đám tro tàn. Các trẻ em bất động đứng nhìn chần chầm vào mấy bà mẹ.Các anh khiêng cáng đang chuyển lên xe cứu thương ba thây người co rúm, chỉ còn khoảng nửa thân mình, ba con người mà giống như những hình nộm bị cháy đen.
Tổng kết của cuộc pháo kích và của đám cháy : chín chết và 36 bị thương, Hai ngàn người không nơi cư trú. . . .
Trong những khu khác trong thành phố, cuộc sống vẫn tiêp tục rất bình thường. Bạn hàng trong chợ vẫn bày hàng trên sạp của mình. Các tiệm buôn vẫn kéo màn mở cửa . Lưu thông vẫn tấp nập nhưng đôi khi bị nghẽn vì có đoàn xe tang năm sáu chiếc của quân đội có trang hoàng vòng hoa đang chở các binh sĩ bị tử thương từ mặt trận về.
Trong một vài quán rượu còn sót lại hay những phòng "đấm bóp" trên đường Catinat, các cô gái xinh đẹp chuyên buôn hương bán phấn đã thay đổi hoàn toàn . Họ đã búi tóc lên và không còn sơn móng tay đỏ nữa và không còn mặc cũn lẳng lơ hay quần bó sát thân mình nữa mà đã mặc lại chiếc áo dài truyền thống của Việt Nam . Có tin nói là các cô đang tìm cách trữ thuốc ngừa thai dự kiến là cộng sản vào họ sẽ tịch thu hết.
Giá dồng đô la lên xuống giữa 3500 đến 4000 đồng. Các tay buôn bán ngoại tệ người Ấn đang trúng mối to với sự đầu cơ giấy 100 đô la (người cầm đầu là Ali Ismael nhìn nhận rằng đã kiếm lời trong mười năm qua được trên hai triệu đô la) 6000 người Mỹ đã rời khỏi Việt Nam , bỏ lại trên 8000 chiếc xe bừa bãi khắp nơi, tạm thời được coi như vô chủ.
*
* *
Cũng vào ngay chúa nhật đó, lúc 12 giờ trưa, ông Chủ Tịch Thượng Viện nhận được một văn thư của Tổng Thống VNCH do mô tô mang đến trao tận tay. Đại ý:
" Theo các điều khoản của Hiến Pháp thì Quốc Hội phải ra quyết định thay thế tôi và phải chỉ định người kế vị tôi với tên họ đầy đủ. Do đó tôi đòi hỏi Quốc Hội phải nhanh chóng bày tỏ ý kiến của mình."
Vào lúc 14 giờ đài phát thanh đã kêu gọi tất cả các nghị sĩ và dân biểu phải có mặt ở Quốc Hội đúng 17 giờ để dự một "phiên họp khoáng đại vì quyền lợi quốc gia"
Vào giờ ấn định, các nghị sĩ và dân biểu đến Thượng Viện cũng đông đủ như ngày hôm qua. Chủ tịch Thượng Viện thông báo với họ là trước khi mở khoáng đại hôi nghị, tướng Trần văn Đôn, xử lý thường vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng, sẽ thuyết trình về tình hình quân sự .
Tướng Đôn mặc thường phục có 3 vị tướng lãnh và một đề đốc tháp tùng: Tổng Tham mưu Trưởng, Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô,Tư Lệnh Không Quân và Tư Lệnh Hải Quân. Ông yêu cầu sự có mặt của các vị nầy để chứng thật tin tức trong bài thuyết trình của ông ta. Tướng Đôn đưa ra một hình ảnh quá đen tối:
" Mười bốn sư đoàn Bắc Việt được trang bị pháo binh thật hùng hậu đang bao vây thủ đô Sài Gòn . Biệt kích và đặc công cộng sản đang xâm nhập vòng đai. Trận chiến ờ Xuân Lộc vẫn còn đang tiếp diễn chung quanh thị xã, ờ đó các đơn vị của Chánh Phủ đang hăng say chiến đấu, nhưng họ bị phân tán và pháo binh của họ bị pháo binh cộng sản vượt trội về tầm xa. Họ pháo ta từ xa nên không bị thiệt hại gì. Không quân của ta được xử dụng liên tục ngày đêm không ngơi nghỉ trong nhiều tuần lễ nay, nên cả anh em phi công và phi cơ đều đã quá sức chịu đựng. Ngoài ra còn bị thiệt hại khá nặng do phòng không địch và hỏa tiễn địa không của họ. Căn cứ Không quân Biên Hòa dưới hỏa lực của địch đã gần như bị tê liệt. Trong vài ngày nữa, mà cũng có thể là trong vài giờ nữa không chừng, có thể sẽ đến lượt Sài Gòn phải bị tàn phá vì đạn pháo 130 ly tầm xa của Bắc Việt . Nhất định cần phải thương thuyết với họ để ngừng bắn càng sớm càng tốt..."
Một số dân biểu trẻ hung hăn chen vào la lối om sòm một cách giận dữ và mỉa mai :
"Bị bán đứng rồi ! Đồ hèn nhát, chủ bại, tướng phòng ngũ !"
Tiến sĩ Vũ quốc Thúc trưởng nhóm "Độc Lập" vừa tiến tới tướng Đôn vừa hét to lên nhiều lần :
" phản bội, đồ phản bội, anh chỉ là một tên phản bội, đáng được đem ra xử bắn ". Khi nghe chửi như thế, Tướng Đôn mặt tái mét im thin thít không nói được một tiếng nào . Các tướng lãnh đi theo ông sửng sốt về những phản ứng dữ dội của cử tọa nên cũng cúi đầu im thin thít.Chủ tịch Trần văn Lắm cố gắng trấn tĩnh mọi người nên khuyên can :
" Các anh em nên đặt câu hỏi là phải hơn, các vị tướng lãnh sẽ trả lời cho mình." Các câu hỏi được đưa lên loạn xà ngầu :
" Ông chỉ nói về hành động và sáng kiến của địch mà về phần ông ông đã có biện pháp nào chưa? Ông đã có đi lên mặt trận mấy lần rồi?"
Nghị sĩ Vũ văn Mẫu đứng lên và chẩm rải nói gằn từng tiếng :
"Ông là Tổng Trưởng Quốc Phòng phải không ? Vậy tôi lập lại câu hỏi của tôi : Ông đã có những sáng kiến và những biện pháp nào để lo phòng thủ Sài Gòn chưa ? Và để chận đứng sức tiến của địch ?
Tướng Đôn lắc đầu và trả lời lạc giọng :
"Các sự chuyển quân và các biện pháp chiến thuật đều thuộc về bí mật quân sự"
Cuộc điều trần coi như được chấm dứt. Tổng trưởng Quốc Phòng và những quân nhân tháp tùng đi ra khỏi phòng họp dưới những tiếng la ó. Cuộc tranh luận của Quốc Hội kéo dài 4 tiếng đồng hồ. Còn sôi động và dữ dội hơn ngày hôm qua nữa, bị ngắt khoảng bởi các sự chửi mắng và những cuộc ấu đả ngắn . Tay chân đôi khi thay cho lời nói. Nhưng rồi lần lần sự mệt mỏi đã có tác dụng. Cuối cùng rồi những đề kháng quyết liệt nào cũng phải bị chìm xuống vì cảm giác bất lực và uể oải, vì ai cũng thấy rõ là những lời nói dù có nóng bỏng đến đâu cũng không có một chút cân lượng nào đối với những biến cố quân sự .
Lúc bấy giờ Chủ tịch Trần văn Lắm mới can thiệp vào :
"Chúng ta phải kết thúc thôi ! và phải nhìn thẳng vào sự việc. Than van cũng vô ích thôi. Chúng ta đã thua rồi. Mình phải chấp nhận sự nhục nhã nầy bằng một lời an ủi là dầu sao họ cũng cùng một dân tộc với chúng ta, vẫn còn đỡ hơn là đối với những người ngoại quốc."
Rồi sau dó ông lại nói thêm, hình như để tìm cách xóa tan những ý nghĩ ngại ngùng của chính ông vừa nói ra:
Tôi chỉ mong sao những kẻ chiến thắng hiểu rằng người Miền Nam Việt Nam cũng là những người anh em của họ... Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác là giao hết quyền hành cho tướng Minh Dương. Đây là văn bản mà tôi đề nghị với quý vị :
" Quốc Hội với đầy đủ quyền tự do của chế độ, thấy rằng phải mở ngay các cuộc thương thuyết không thể tránh được . Tướng Dương văn Minh được chỉ định thay thế Tổng Thống Trần văn Hương để lãnh đạo Quốc gia, là người có nhiệm vụ phải tiến hành công tác thương thuyết nầy."
Lưỡng viện Quốc Hội đã đưa tay bỏ phiếu, chấp thuận bản quyết nghị với đa số 120 phiếu thuận, 32 phiếu chống và 20 phiếu trắng. Lúc đó là 9 giờ đêm.
Vào lúc chủ tịch Thượng Viện rời phòng họp, ông Nguyễn hữu Thống, một dân biểu trẻ thuộc nhóm Cộng Hòa đã buông ra một câu đầy khinh bỉ :
" Ông Trần văn Lắm có thể rất là bằng lòng. Ông ta đáng được người Mỹ vàViệt Cộng khen thưởng!".
Cách ông ta vài bước nghị sĩ Trần trung Dung bàn cãi với cựu Tổng Trưởng Trần chánh Thành :
"Thật là khó hiểu được thái độ của người Mỹ. Họ đã áp lực ông Thiệu để ông nầy phải ra đi, viện cớ đó là biện pháp duy nhất để Quốc Hội Hoa Kỳ bỏ phiếu chấp thuận ngân khoản viện trợ. Cuối cùng ông Thiệu phải từ chức. Tổng Thống Hương, người kế vị cho ông Thiệu lại được nghe một câu nói của đại sứ Martin ngay sau đó: "Đã quá trể rồi, Quốc Hội Hoa Kỳ không còn bỏ phiếu cho ngân khoản viện trợ nữa.Ông phải nhường ghế Tổng Thống lại cho
một người khác đi, người đó phải "được phía bên kia chấp nhận". Ông già Hương đã bảo vệ Hiến Pháp đến cùng, Hiến Pháp mà chính những người làm luật của Hoa Kỳ đã tham gia tạo dựng nên.. Nhưng tới giai đoạn nầy người Mỹ thông thường là những người rất tôn trọng luật pháp, lại thấy rằng như vậy sẽ làm mất quá nhiều thì giờ. Cuối cùng, trước khi chúng ta bỏ phiếu chấp thuận trao toàn quyền cho tướng Minh , đại sứ Martin đã mời ông Hương chuẩn bị để cùng ra đi với những người Mỹ cuối cùng. Ông Hương đã thẳng thắng trả lời :
- " Tôi không đi đâu hết, Chỗ của tôi phải là ở trong nước của tôi . " Người Mỹ thật sự đã tưởng chúng mình là những người không biết đến hai chữ danh dự là gì chắc !!!!. "
Trần chánh Thành nhúng vai và nói :
"Anh sẽ thấy là họ sẽ đòi hỏi tướng Minh phải ra lệnh cho họ rời khỏi nước Việt Nam ... và họ sẽ ra đi không kèn không trống cho mà xem !. "
Một vị trưởng tòa đưa tay tắt ngọn đèn xanh đang chiếu sáng chiếc bàn hình móng ngựa ở Dinh Độc Lập. Nơi đây sẽ tổ chức buỗi lễ bàn giao quyền hành ngày mai. Tướng Minh sau đó sẽ nói chuyện với quốc dân đồng bào qua hệ thống truyền thanh và truyền hình.
.
CHIẾN TRẬN ĐẪM MÁU Ở XUÂN LỘC
Ngày Thứ Sáu, 11 tháng Tư
Lần nầy thì sắt thép đụng nhau rồi ! Đụng rất nặng ở Xuân Lộc.
Câu chuyện bắt đầu từ đêm thứ tư đến ngày thứ năm 10/4 bằng một cuộc pháo kích dọn đường rất dữ dội : 2000 quả đạn pháo và hỏa tiễn đã được rót xuống thành phố. Vào lúc hừng sáng, 2000 đặc công cộng sản có chuến xa T.54 yểm trợ đã mở cuộc xung phong vào Xuân Lộc . Đến 8 giờ, coi như họ đã chiếm được ba phần tư thị trấn, trong khi có 2 trung đoàn đang đánh bọc vào 2 bên sườn.
Suốt cả ngày hôm qua, chiến trận đã hoành hành khốc liệt. Nhưng chúng tôi chỉ được biết vào hồi 7 giờ sáng sau giờ chấm dứt thiết quân luật. Vừa biết được hai bên đã đụng nhau ác liệt, tôi đi ngay lên Biên Hòa, đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Quân Đoàn lo cả phòng thủ cho Sai Gòn. Tại đây tôi đã gặp Trung tướng Toàn, một người lớn con vạm vỡ từng theo học ở trường Thiết Giáp Kỵ Binh Saumur ở Pháp. Ông có tính nóng nảy nhưng là một người thích ra trận, nhất là tấn công. Vào năm 1972, chính ông đã bẻ gãy tất cả các trận tấn công của cộng sản Bắc Việt vào Cao Nguyên. Ông vừa mới từ mặt trận trở về bằng trực thăng. Các sĩ quan tham mưu vây quanh ông để nhận lệnh. Ông nói với họ vài ba câu xong ra hiệu cho tôi và nói :
-" Rất vui mừng được gặp lại anh ở đây, anh Pierre . Nhưng chắc tôi không có thì giờ để lo cho anh đâu. Nếu anh muốn đi xem thì anh hãy lên Ngã ba Biên Hòa rồi từ đó nhảy lên một chiếc cam nhông nào đó để lên thẳng Trảng Bom. Nhưng hảy cẩn thận nghe. Nặng lắm rồi đó."
Tôi biết rất rõ vùng Xuân Lộc. Từ năm 1947 đến 1948 tôi đã đi hành quân trong tiểu khu nầy ròng rã cả năm với toán đặc công của tôi. Vào thời kỳ đó, Xuân Lộc chỉ là một thị trấn nhỏ với khoảng vài dãy phố chừng 50 căn nhà gạch liền vách nhau hai bên chợ có nóc, và trên trăm nhà lá. Ga xe lửa là trạm dừng chân của đoàn "tàu thiết giáp", một đơn vị "an ninh thiết lộ" của lê dương xâm mình, được trang bị loại đại bác Bofor và liên thanh nồi, nối liền Sai Gòn với miền Nam Trung Phần.. Dinh ông quận trưởng hành chánh người Pháp được tô điểm bằng một dàn hoa leo, nằm đối diện với trại "lính kỷ luật" , một đơn vị tập trung các binh sĩ nhiều lần bị kỷ luật, mà chỉ có một cơ may trở về đội ngũ của mình bằng một huy chương tưởng thưởng trong tác chiến. Xa xa về phía trước là một bộ phận của Hiến Binh lưu động, và đơn vị thân binh người Thượng, tất cả đều trú đóng trong một thành có tường đá bao quanh. Lúc bấy giờ tiểu khu nầy cũng không yên lắm đâu. Đã có nhiều trận phục kích, tấn công đoàn tàu hỏa hay đoàn xe trên quốc lộ vì hai bên đường đều có rừng hay đồn điền cao su của hảng SIPH (đã trồng 20.000 mẫu và đang khai thác 12.000 mẫu), và cao nguyên Bình Lộc với cỏ voi lá bén như dao cạo, với tre to và rừng cây già.
Từ đó thị trấn nầy đã lớn lần ra. Hằng ngàn dân tỵ nạn rách như bươm, người thiên chúa giáo từ Miền Bắc đến định cư ở đây vào năm 1954. Chủ đồn điền ở đây đã cho các cha xứ 120 mẫu đất không lấy tiền để cất một ngôi thánh đường, một ngôi trường đạo và một nhà ở cho Linh mục do Sai Gòn bổ nhiệm. Quận cũ được cải biến thành quận lỵ của tỉnh, với một bệnh viện tối tân, và một dinh thự cho vị tỉnh trưởng, một nhà bưu điện, một trung tâm học vụ và một sân vận động. Dân tỵ nạn từ Miền Bắc vào đã xây nhiều ngôi nhà xinh xắn bằng gạch, nhiều căn nhà có dàn cho hoa leo, họ cũng đã mở ra hàng trăm tiệm buôn bán và xưởng mỹ nghệ. Một sư đoàn lính Mỹ đã đóng quân ở đây ba năm, đã xây cất một phi trường và nhiều doanh trại với đầy đủ tiện nghi. Xã đã biến thành thị trấn, và một thành phố trù phú đang sinh hoạt với 60.000 dân, nơi đây hằng ngày đều có hàng loạt "xe be" chở cây lóng và các xe rau cải đi về Sài Gòn.
Bây giờ thì chiến tranh làm vỡ tan hết tất cả dưới một cơn bảo thép. Tôi đã đến đây không biết bao nhiêu lần rồi. Tôi đã thuộc hết hình ảnh của Xuân Lộc nầy, và những tiếng ồn ào ở đây, tiếng gầm của các khẩu pháo binh đang tác xạ làm rung chuyển mặt đất, tiếng rít khô khan và sắc bén của những viên đạn bắn đi với những chùm lửa, chùm sắt thép làm nát hết thân người và ném các mảnh xương thịt đó đây vung vãi....trên mặt đất.
Bây giờ là 9 giờ sáng rồi, trời cũng đã quá nóng, mặc dù có dồn điền cao su thường giữ được độ mát nhờ có bóng râm. Trước khi vào Trảng Bom, cảnh sát dã chiến có dựng lên một hàng rào chữ chi để kiểm soát mọi sự lưu thông, tiếng súng bắn chỉ thiên thay cho tiếng tu hít., tôi xuống xe, kiểm soát xong tôi tiếp tục tản bộ đi về phía trước khoảng 100 thước.
Thị trấn rất yên tĩnh và cần cù siêng năng nầy được thu hẹp chung quanh những cơ sở lớn sơn màu vàng được lợp ngói đỏ, thuộc công ty đồn điền SIPH, (nhà máy, văn phòng, trung tâm truyền thanh, nhà của giám đốc v.v..). Các anh thợ rèn và thợ mộc, cởi trần trùng trục đang tiếp tục làm việc trong mấy căn chái dựa hai bên đường. Tôi cố gắng tìm một đồn cũ của người Pháp hồi trước, nằm về bên phải của ngôi chợ. Vào năm 1948, đồn nầy được một đại đội binh sĩ dưới quyền của trung úy Suako, một lực sĩ người đảo Antilles, với bộ mặt cứng rắn đến hung dữ, một tay thiện chiến, đã từng làm chủ mảnh đất nầy trong vòng 30 cây số chung quanh, thiện chiến đến độ Việt Cộng phải sợ và đặt cho anh ta cái tên là "beo đen". Dĩ nhiên cái đồn nầy không còn nữa. trung úy Suako đã chết và trong 25 năm nay, cuộc chiến đã thay đổi hẳn bộ mặt của nó, nhưng nó vẫn còn ở đây. Dữ dội hơn và gây chết chóc nhiều hơn! Một pháo đội 105 ly đặt sau hàng cây đã bắn đi một tràng. Một chiếc xe Jeep vừa hụ còi vừa đi qua. Một sĩ quan đứng bên cạnh tài xế khoát tay. Đoàn xe tiếp tục lăn bánh, tôi lại lên xe và tiếp tục đi.
Quốc lộ đi qua nhiều làng mạc, có rào đóng kín và bên trong có nhà thờ. Hầu hết dân làng đều là dân "di cư", tỵ nạn từ Miền Bắc . Các cụ già thản nhiên im lặng ngồi nhìn binh sĩ đi ngang qua trước nhà. Các trẻ em thì cứ nô đùa, các bà thì đang đập lúa. Cả một dảy nhà gỗ là của người "Nùng", những người rạm nắng di cư vào đây từ miền Thượng Du Bắc Việt, giáp giới với Trung Quốc. Họ là những người nhai thuốc lá và cũng thích "sơi" thịt cầy, có truyền thống làm giặc hay cướp biển, không sợ Trời, không sợ quỷ thần, không sợ Việt Cộng, và cũng không sợ sen đầm nốt!
Tuyến phòng ngự thứ nhất nằm ở phía trước Trảng Bom chừng 10 cây số. Từ đó trở đi, thình lình không khí thay đổi hẳn. Hai bên đường vốn được khai quang sạch sẽ khoảng 100 thước bề sâu cốt để tránh bị phục kích, có nhiều chiến xa hạng nặng và thiết vận xa đang tuần tiễu dọc theo các bờ chuối trong bìa rừng. Chung quanh một công sự đổ nát, trên một chục khẩu pháo binh 105 ly đang tác xạ, làm tung bụi lên mù mịt. Giữa một khoảng trống có đánh dấu bằng khói màu, các trực thăng khổng lồ "chinook" đang thả xuống nhiều toán binh sĩ mặc quân phục Biệt động quân, đội mũ nâu, mang đầy mình đạn dược và lựu đạn.. Một đoàn chiến xa M41 với cờ đuôi nheo cột trên ăng ten, đang di chhuyển về hướng mặt trận.
Rồi lại đến lượt các binh sĩ thuộc binh chủng Nhảy Dù với quân phục xanh lá cây, mủ đỏ, súng tự động M.16 cầm tay. Chúng tôi gặp hai xe cam nhông chở thương binh, chỉ được băng bó sơ khởi, như những bóng ma, máu me bê bết, nằm la liệt chồng chất lẫn lộn lên nhau.
Chúng tôi đi được thêm 5 cây số nữa thì phải ngừng lại.Tiếng súng nghe như gần bên rồi. Những tiếng nổ ròn của đại liên nghe rất rõ cùng với tiếng tác xạ ầm ầm của pháo binh. Chiến xa dẫn đầu, sau đó là các xe Jeep và xe 4/4 chở Biệt động quân. Tôi nhảy xuống xe vá quyết định đi tới trước với toán binh sĩ nầy. Biệt động quân là các đơn vị tiếp viện, hành quân từng tiểu đoàn 600 người gồm phần đông là binh sĩ lớn tuổi, già kinh nghiệm chiến trận và không biết hốt hoảng. Tôi lên một xe 4/4, ngồi cạnh đại úy Niệm . Trong khi di chuyển ông kể cho tôi nghe một vài câu chuyện. Đại đội của ông từ Chơn Thành về, ở đó ông và đại đội đã chiến đấu suốt 16 ngày liền và chỉ về nghỉ xả hơi được có 48 tiếng đồng hồ là phải ra trận nữa đây.
Lực lượng cộng sản được tung vào mặt trận Xuân Lộc rất là quan trọng : 3 sư đoàn Bắc Việt được tăng cường 1 trung đoàn chiến xa T. 54 và được khoảng 30 khẩu pháo 130 ly và 152 ly viện trợ từ Liên Xô.
Đối diện với lực lượng tấn công của cộng sản, phía Chánh Phủ chỉ có sư đoàn 18 bộ binh của tướng Lê minh Đảo, 1 lữ đoàn Dù, 5 Liên đội Biệt động quân và lữ đoàn 3 Thiết giáp của tướng Trần quang Khôi.
- "Chúng tôi được lệnh phải đến Xuân Lộc bằng mọi giá", đại úy Niệm kết luận với tôi như thế. Và chắc không dễ dàng lắm đâu. Trước mặt chúng ta là sư đoàn 6 Bắc Việt . Chính sư đoàn
nầy, cách đây 3 ngày, đã tấn công vào ngã ba Suzannah, các xã chung quanh đó, nhà máy và trung tâm đồn điền nầy,. Hai tiểu đoàn Dù đã phản công đêm nay và đã chiếm lại ngã ba nầy. Cộng sản Bắc Việt đã có chiến xa yểm trợ và tổn thất nghe đâu cũng nặng lắm. Nhưng lực lượng Dù vẫn bám đất. Chúng tôi chắc phải xuống xe và phải đi bộ chừng 10 cây số, vòng qua ngã
ba Suzannah mới tới Xuân Lộc được ."
Đoàn xe chúng tôi đến gần Suzannah. Và chúng tôi lọt vô luôn giữa chiến trận. Những tràng đạn pháo binh, bách kích, hỏa tiễn chém nát mấy ngọn cây và mảnh đạn ghim xuống đường. Anh em Biệt động quân bỏ hết xe và tiến lên theo hướng thị trấn. Họ chia ra làm 3 toán, họ tiến lên từng đoạn ngắn, súng cầm tay. Bên trái và bên phải chúng tôi những hàng cây cao su đều đặn và thẳng tấp tạo nên những hành lang tranh tối tranh sáng. Suzannah là một đồn điền xưa nhất trong vùng, có khoảng 3.500 mẫu và 300.000 cây cao su. Đồn điền được chia ra thành từng lô 100 mẫu có đánh số...... Dửng dưng với chiến sự và mặc cho sự ồn ào của đạn súng, lén lén và yên lặng các phu đồn điền vẫn tiếp tục công việc cạo mủ của họ, dao đục mang ở lưng và thùng đựng mủ xách tay, họ không buồn nhìn lên khi chúng tôi đi ngang qua họ.
Chúng tôi tiến lên trong một khung trời mờ ảo, đi dưới một vòm lá xanh um rợp bóng nửa tối nửa sáng có nơi biến màu đất đỏ dưới chân thành màu xám tro. Chúng tôi đi sâu thêm một đoạn nữa dưới những tàng cây. Không khí thấy đã ẩm ướt làm tôi khó chịu. Tôi tự hỏi không biết lúc nào bọn Việt Cộng nằm đâu đó trong vườn cao su rộng mênh mông nầy sẽ khai hỏa đây ? Nhưng vẫn chưa có gì xảy ra. Và chúng tôi tiếp tục tiến tới, hơn nửa giờ nữa. Và thình lình tiếng đại bác nghe như gần bên tai, đại liên thi nhau nhả đạn. Biệt động quân bắt đầu chạy tới, trăm thước, rồi hai trăm thước, một con đường mòn, một khoảng đất trống và đến con đường.
Chiến xa, xe vận tải .. cả một đoàn binh sĩ đang ở tư thế tác chiến. Họ thuộc sư đoàn 18 bộ binh của Miền Nam Việt Nam . Anh em Biệt động quân giải thích cho họ biết là chúng tôi từ đâu tới. Đoàn quân đi lại con đường đó nhưng lần nầy họ đi ngược lại, vì con đường đã trống trơn. Họ đang tìm cách bọc sau lưng bọn cộng sản Bắc Việt để liên lạc với đơn vị Dù.
Thành phố Xuân Lộc đầy khói và đầy những tiếng nổ. Tháp chuông nhà thờ bị nhiều quả đạn bắn bay hết một góc, nhà ga đang cháy. Các cột điện sập ngã đầy đường, giây điện bị đứt. Gần bên hông trường Nhà Dòng, hai khẩu pháo 105 ly đang bắn về hướng quốc lộ đi Phan Thiết. Khỏi chợ chừng 200 thước, súng liên thanh nổ từng tràng ngắn, xen lẫn vào lại có những tiếng nổ chát chúa của lựu đạn cầm tay. Thật khó mà có môt ý niệm về tình hình. Hai chiến xa M.48 có ống kính hồng ngoại tuyến bên hông pháo tháp đang tiến về phía chợ. Các binh sĩ Biệt động quân thì đang bố trí các ổ súng máy phía sau những đống gạch vụn của gần chục ngôi nhà đã sụp đổ bên phải của bưu điện . Họ cũng có một số súng phóng lựu M.79, một loại vũ khí tấn công nòng ngắn rất hữu hiệu trong thế cận chiến. Tôi ngồi phía sau một vách tường đã sụp đổ, và tôi sẽ ở đây suốt buổi trưa và tối nay.
Vào lúc 6 giờ chiều, một loạt hỏa tiễn rơi vào chợ. Năm, mười hay mười hai quả gì đó, nổ điếc cả tai.... và sau đó có tiếng la hét. Nhiều chị đàn bà và trẻ con rách rưới mình đầy máu vừa la vừa băng qua đường, chạy ùa về phía nhà dòng.
Ở về hướng Đông Bắc, chung quanh sân bay không còn nghi ngờ gì nữa, nghe có tiếng súng liên thanh nặng bắn liên hồi. Và đùng một cái pháo binh Bắc Việt nã ngay vào thành phố. Chúng tôi bị kẹp cứng trong vòng lửa đạn. Không thể đếm được là bao nhiêu quả. Cá nhân tôi chưa từng bị pháo kích nặng như vậy bao giờ. Các quả đạn pháo binh cày rất có hệ thống từng căn nhà một, căn nầy sập đến căn khác. Thành phố bị một cái bừa thép cày lên sới lại.. liên tục trong vòng 2 giờ đồng hồ. Không có môt bóng người nhúc nhích. Đêm đã bắt đầu xuống, trời nóng bức. Tôi không có gì để ăn, không có gì để uống, lại không có mũ sắt nữa ! Thật là không ổn tý nào!
Vào lúc 10 giờ , hai trái bom sáng nổ trên không trung và vô số ngôi sao sáng rơi xuống màn đêm như một cơn mưa ánh sáng... Tiếp theo đó là đạn pháo binh lại tiếp tục rơi xống thành phố. Lần nầy là pháo 130 ly. Tôi nghe tiếng đạn đi trên đầu chúng tôi ầm ầm như tiếng tầu hỏa đang mở hết tốc độ, và ngay sau đó là những tiếng bùng nổ tiếng nầy tiếp tiếng kia liên tục.. Đất cát, rồi đá sỏi, rồi lửa rồi miểng đạn bắn đi tung tóe khắp nơi..Và nổi lo sợ làm bụng quặn đau....
Đến khoảng nửa đêm thì ngưng pháo kích. Người tôi ướt đẩm mồ hôi. Có một sự yên lặng hoàn toàn trong vài giây... và thình lình tiếng dế nổi lên gáy đều đều môt cách kỳ lạ và bất lịch sự, vì chúng là những con dế mèn nhỏ bé đâu cần biết đến chiến tranh hay giặc giã là gì, cứ gáy cứ hát lên một cách bền bỉ và ngạo nghể để mà sống... Con người tìm cách giết lẫn nhau, dế mèn có gì đâu mà phải lo sợ !
Vào khoảng 3 giờ sáng, bóng đêm lại bất thần sáng rực lên. Bách kích pháo, súng liên thanh, súng tự động thi nhau nỗ. Từng đợt một, bộ đội Bắc Việt mỡ những cuộc xung phong . Tiếng hô "Tiến lên" nghe vang dội. Bấy giờ binh sĩ Biệt động quân mới xử dụng vũ khí của họ. Súng liên thanh thi nhau quét những làn sóng xung phong của địch, hàng ngàn tia lửa như điện chớp xé nát màn đêm... các khẩu đại bác pháo binh bắn trực xạ, bẻ gãy các đợt xung kích, làm im tiếng xung phong của địch. Chung quanh ngôi chợ, các chiến xa T.54 đang dùng đại bác bắn sập từng ngôi nhà. Chiến xa M.48 của Miền Nam chạm súng với họ trong một cự ly thật ngắn . Cảnh tượng trông thật là khủng khiếp. Với thân hình nặng nề màu xám và các đại bác nòng dài cứ lóe sáng lên mỗi lần tác xạ, gợi lên một trận chiến quái dị giữa những con voi khổng lồ.. Thật hoàn toàn là một trận đụng độ với nhau. Một trận mưa trái sáng soi tất cả chu vi phòng ngự bằng một ánh sáng mờ nhạt. Hai phi cơ võ trang C.119, được trang bị liên thanh điện tử (6000 viên phút). nhảy vào vòng chiến, tác xạ nhanh đến độ tai mình không còn phân biệt được từng tiếng đạn đi, người ta cứ tưởng đó là tiếng của một miếng tôn thiếc bị xé toẹt ra...
Vào tảng sáng, các phóng pháo cơ A 37 lại đến dội bom và bắn hỏa tiễn vào phía sau ngôi chợ và cả về hướng phi trường. Binh sĩ Biệt động quân ra khỏi hầm trú ẩn của họ, vừa tiến lên từng đoạn ngắn vừa ném lựu đạn. Tôi thấy có 3 người ngã xuống, và người thứ tư thì bị một loạt đạn vào đầu.
Đến 10 giờ sáng, tôi vẫn ở đằng sau bức tường của tôi. Tôi thấy hàng trăm binh sĩ Miền Nam đầu đội mũ sắt đang tiến tới . Một trung úy lúc đi ngang qua bức tường của tôi đã cho lệnh : " Có hơn trăm tên bộ đội chết bầm đang trốn trong bệnh viện, Mình phải đuổi bọn chúng ra ngoài."
Vẫn còn đạn pháo và vẫn có một số binh sĩ bị tung lên trời. Một chiến xa T.54 bị một phát đạn 105 bắn trực xạ giữa xích, đang cháy khói lên nghi ngút.
Có nhiều chiến xa M.48 đang yểm trợ cho bộ binh trước bệnh viện. Thời gian trôi qua..có nhiều tiếng hò reo và nổ ì ầm nhưng cũng có đôi lúc có sự yên lặng tuy ngắn ngủi. Và viện binh đã đến, Binh sĩ Miền Nam bắt đầu lục soát những căn nhà đổ nát bằng lựu đạn...
Đến 3 giờ chiều, lúc đã im hết tiếng súng trong thành phố thì tôi rời chổ núp của tôi. Thành phố coi như vẫn còn trong vòng kiểm soát của Miền Nam Việt Nam. Người ta bắt đầu kiểm điểm xác chết của quân Bắc Việt. Họ mặc quân phục xanh ô liu và đi giày "tơ nít" hiệu Bata bằng cao su. Tôi đếm được rải rác chừng 30 bị chôn nừa thân mình dưới những đống gạch vụn. Một toán nhỏ Biệt động quân đang đẩy trước mặt họ 3 tù binh, đội nón cối bằng mớp được bọc vải màu xanh, trên nón có gắn môt ngôi sao bằng đồng. Nom họ còn rất trẻ, cao lắm là 16 hay 17 tuổi. Một trong ba người đó bị thương ở vai. Xa hơn môt chút, có một T.54 bị hạ, nằm phơi xác dưới một góc mái hiên đổ sụp. Cách đó vài thước, trước một hiệu thuốc tây vỡ kính, có một chiến xa của Miền Nam pháo tháp mở rộng, đầu chiến xa bị một viên đạn bộc phá B.40, đứt hết xích, giống như một con quái vật nằm bất động. Tất cả những tiệm buôn chung quanh chợ đều bị đạn pháo binh quạt sập đổ xuống hết. Kim Long, một quán ăn lâu đời nhất của thành phố (nơi mà cách đây 30 năm binh sĩ của trung đoàn 22 bộ binh của người Pháp (22ème R.I.C.) thường đến đây để ăn hủ tiếu) đã sập chỉ còn là một đống gạch vụn bị cháy đen.
Bệnh viện chỉ còn là một cái vỏ nám đen vì khói. Rải rác trong sân là giường chiếu, dụng cụ y khoa, bô, bốc lẫn lộn khắp nơi với một số tử thi của bộ đội Bắc Việt mất tay mất chân mảnh vụn vung vãi ra cùng khắp.
Cạnh bên chợ về phía rừng, một xe ủi đất đang đào một đường dài độ một thước. Và anh em Biệt động quân đang xếp tất cả những tử thi và những gì còn rơi vãi trên chiến trường vừa qua. Một tuyên úy đi dài theo đó lẫm nhẫm đọc kinh cầu nguyện lần cuối cùng cho họ, sau đó xe ủi đất đẩy họ xuống hố và lấp đất lại.Tôi quay trở lại. Gần nhà thờ, dưới hai cây to mà cành lá đã gảy nát, có khoảng 30 binh sĩ bị thương nặng được cho nằm trên băng ca. Những chai huyết thanh được treo trên báng súng cắm thẳng đứng xuống đất bằng lưỡi lê, và từ đó các ống cao su truyền máu thẳng đến kim tiêm vào cho thương binh. Các y tá đang săn sóc cho họ và vừa đuổi ruồi cho họ vừa trò chuyện nho nhỏ với họ.
Tôi gặp tướng Đảo trước cửa Nhà Dòng. người ông nom ốm gầy , có vẻ mệt nhọc.
- "Chúng tôi đã đẩy lui được họ, ông nói. Đây là một thành quả tốt nhằm nâng cao tinh thần
cho anh em binh sĩ và cho cả hậu phương.. Họ bỏ lại 400 xác trên trận địa và chúng tôi đã hạ được 9 chiến xa T.54, bắt được 20 tù binh trong đó có 1 sĩ quan . Nặng nhất là chiến trận ở gần phi trường, và phía sau nhà ga.. Bây giờ thì trận tuyến đã phát triển ở hướng Bắc và hướng Tây, trên cao nguyên Bình Lộc và chung quanh Gia Kiệm. Anh em phi công báo cho biết là lực lượng cộng sản Bắc Việt đang tập trung mạnh lắm ở Giá Rai. Anh em Dù đã giải tỏa được ngả ba Suzannah rồi. Tất cả người Pháp ở đồn điền S.I.P.H. đều an toàn. Các đồn điền cũng không bị thiệt hại gì sau các cuộc đụng độ ở đó."
Gia Kiệm với 40.000 dân. là một thị trấn rất phồn thịnh được mọc lên hai bên đường đi Dalat, cách Xuân Lộc khoảng 15 cây số. Ở đây nhà cửa tiệm tùng sung túc nằm san sát bên nhau, có rào dậu, có lũy tre. Dân chúng toàn là người công giáo di cư từ Miền Bắc, một lòng với nhau. Không một người lạ mặt nào lẻn vào được ở đây. Nếu cộng sản Bắc Việt tấn công vào đây thì nhất định sẽ bị thiệt hại lớn.
Vùng Giá Rai, nơi các đơn vị Bắc Việt tập trung nhiều nhất, nhờ dựa lưng vào vùng rừng bụi của núi Chứa Chang, một ngọn núi đất cao khoảng 900 thước, trên đó có gần 3000 giống thảo mộc nhiệt đới mà Viện Khoa Học Sai Gòn đã ra công gìn giữ. Ngọn núi nầy là một đài quan sát rất lý tưởng, và dựa vào khu rừng của ngọn núi nầy, cộng sản có thể sẽ tung ra một cuộc tấn công mới từ phía Đông vào Xuân Lộc.
Vào lúc 5 giờ chiều có một chiếc xe vận tải nhẹ đi liên lạc với Trảng Bom. Tôi nhảy lên xe đó. Ngã ba Suzannah được đơn vị Dù trấn giữ, nằm kín trong hố cá nhân, và một số chiến xa thuộc lữ đoàn 3 Thiết Giáp. Có nhiều xe đã đi phía trước chúng tôi . Đi được khoảng 3 cây số, cách chúng tôi độ hơn 100 thước, một chiếc xe chở dân chúng bị trúng một quả đạn pháo. Tiếp theo tiếng nỗ chói tai là bụi, lửa bắn lên tung tóe. Cả chiếc xe và những người hành khách trên xe đều không còn gì cả ! Chỉ còn trên đường một chấm đen lớn, và vung vãi thịt xương tóc tai của người chết và mấy mảnh kim khí của hộp số.. Và như vậy là chỉ trong có một giây đồng hồ, mà trên 20 người dân vô tội đã bị xóa hẳn tên trong danh sách người Việt.
Ở Việt Nam chuyện đó xảy ra không biết bao nhiêu lần hằng ngày. Làm sao mà dân tộc nầy, một dân tộc đã bị quá nhiều đau khổ, chết chóc, đã từng bị xua đuổi khỏi thành phố của họ với đất đai làng mạc mồ mả bị tàn phá, mà người ta vẫn còn chém giết nhau mãi như vậy dai dẳng năm nầy qua năm khác một cách bền bỉ và dã man như vậy được ?
Ai sẽ là người chấm dứt được chuyện nầy vĩnh viễn một ngày nào đó, chấm dứt được cơn ác mộng đẩm máu và đáng ghê tởm nầy cho người dân vô tội?
CHƯƠNG MƯỜI
"CHÚNG TÔI KHÔNG HÈN NHÁT
CHÚNG TÔI KHÔNG SỢ CHẾT"
Thứ Hai, ngày 14 tháng Tư, 1975
Vừa là Chủ Tịch "Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam", một tổng liên đoàn rất hùng mạnh vừa là Phó Chủ Tịch Tổng Công Đoàn Công Giáo Quốc Tế, ông Trần quốc Bửu là một người rất có quyền lực và rất được kính nể. Ở vào trạc tuổi 60, người tuy có hơi gầy nhưng rắn chắc với đôi mắt sáng ngời, ông luôn luôn ăn mặc rất giản dị với chiếc quần dài màu xám và một chiếc áo bốn túi nhẹ bỏ ngoài.
Vừa tranh đấu cho lý tưởng quốc gia vừa tranh đấu cho công đoàn, bị lưu đày ra Côn Sơn trong thập niên 40, ở đó ông từng ở chung phòng giam với Lê Duẫn, hiện là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông đã vượt ngục và chỉ huy toán "đặc công 25" nổi danh của ông trong thời gian trên 5 năm kháng chiến chống Pháp.
Bị tướng một mắt Nguyễn Bình và đội an ninh chánh trị cộng sản hăm dọa tử hình, vì ông không chịu gia nhập đảng, ông về Sai Gòn năm 1951 và qua Pháp. Ở đó ông theo học khóa công đoàn từ 1952 đến 1954 ở đường Montholon, Ba Lê với Tổng Liên Đoàn Lao Công Pháp (C.F.T.C.).
Về lại Sai Gòn, ông thành lập Tổng Công Đoàn Lao Công Việt Nam (C.T.V.), nơi tập trung 85% lao công Việt Nam .
Tổ chức của ông rất vững mạnh, uy tín và đức tánh bình dân của ông trong giới cần lao đã giúp ông có nhiều sự nâng đỡ từ các công đoàn Hoa Kỳ. Cả phía cộng sản cũng muốn chiêu dụ ông. Lê Duẫn người đã từng ở chung nhà lao với ông ở Côn Sơn, bây giờ là tổng bí thư đảng CSV N đã gởi cho ông một bức thư riêng để yêu cầu ông đừng đứng chung với "bọn tư bản", phải giữ "thế trung lập" hoặc"về với chánh nghĩa cách mạng". Ông Bửu đã trả lời thẳng thừng: "Kinh nghiệm mà tôi đã có được với phương pháp của ông, và với lòng tôn kính của tôi đối với quốc gia dân tộc của chúng ta không cho phép tôi tin rằng chủ nghĩa cộng sản là giải đáp duy nhất cho nguyện vọng của dân tộc chúng ta". Do đó cộng sản đã nhiều lần mưu sát ông nhưng không thành.
Trụ sở của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam nằm ở số 14 đại lộ Lê văn Duyệt (đường Verdun cũ) trong môt tòa nhà kiếng lớn, nóc nhọn thềm cao, kiến trúc theo kiểu Pháp, trước kia là trụ sở của Câu lạc Bộ Thể Thao Đông Dương.
Ông Trần quốc Bửu tiếp tôi trong phòng làm việc của ông, một căn phòng rộng lớn sáng sủa, có một bàn lớn và một số ghế dựa. Trên tường có treo một bức tranh lụa với hình một con trâu màu xám tro, mõm to, chân đứng dưới ruộng lúa (biểu tượng của Tổng Liên Đoàn là con trâu trong một bánh xe có răng cưa). Trên một giá đầy sách có treo hình một sĩ quan Việt Nam còn trẻ, có cài một băng đen trên chéo góc. Ông Trần quốc Bửu bắt gặp cái nhìn của tôi, liền giải thích :
-"Đó là hình của con trai tôi. tử trận hồi tháng 10 vừa qua. Thằng nhỏ đẹp trai quá, phải không ? Nó là một đứa rất gan dạ, thông minh và thẳng tánh. Môn nào nó cũng thành công, học hành, thể thao, và đường đời nữa. Nó có vợ rất đẹp và nhu mì, và một đứa con trai năm nay 3 tuổi. Nó chỉ huy một đại đội và đóng đồn trong quận lỵ của một quận thuộc tỉnh Bà rịa. Nó mới vừa được 27 tuổi thì....
Nói tới đây ông Bửu lắc đầu nhè nhẹ, ngưng một vài giây và tiếp tục với một giọng thật rõ ràng, chậm rãi và có mức độ.
"Tôi muốn nói cho anh nghe về thằng con trai nầy, anh Pierre ạ. Con trai tôi đã chọn quân đội, không phải vì nó ham chiến tranh, mà vì chúng ta đang ở trong thời chiến. Nó đánh đấm cũng khá lắm và đã được khá nhiều huy chương. Chúng tôi khắng khít với nhau lắm. Nó thường viết thư cho tôi. Vài tháng trước khi chết, nó đã tỏ ra rất băn khoăn lo lắng, có lúc hoảng sợ nữa. Trong những ngày đầu của tháng 10, nó có gởi cho tôi một lá thư, để tôi đọc cho anh nghe .
Trần quốc Bửu lấy trong ví ra 3 tờ giấy mà ông đã xếp thật cẩn thận và ông bắt đầu đọc:
- " Ba kính yêu,
Trong tiểu khu của con tình hình đã đi xuống. Không phải vì dân chúng đã ngả theo sự tuyên truyền của "phía bên kia", mà tại vì chúng tôi đang thiếu phương tiện để chiến đấu. Mấy anh nông dân trong hàng ngũ "nhân dân tự vệ" không có đủ đạn cho súng của họ, và họ còn phải tìm mua lựu đạn của mấy anh lính chánh quy, thường ít đụng trận hơn họ. Phần các đơn vị chánh quy thì không phải họ tránh chạm súng, mà cứ mỗi lần chạm địch, môt địch quân hơn hẳn họ cả về chiến cụ lẫn đạn dược, nên họ cứ bị tổn thất thật nặng.
Để Ba hiểu rõ hơn tình hình của tụi con, con phải giải thích cho Ba nghe một vài điểm về kỹ thuật. Cộng sản Bắc Việt thì dùng chiến xa T. 54 và đại bác 130 ly của Liên Xô. T.54 là loại chiến xa rất năng động, tuy thô kệch nhưng được bọc sắt rất dày và võ trang hùng mạnh: một đại bác 100 ly lòng dài với 34 quả đạn trong xe, 2 liên thanh 30 ly, và một liên thanh 50 ly, có tầm hoạt động 400 cây số đường bán kính. Trong trường hợp tấn công, tụi con chỉ có ống phóng M.72 (loại ba-zô-ca chống chiến xa). Súng nầy chỉ xử dụng có một lần, bắn xong là phải vứt ống phóng đi, và nó chỉ thật sự hữu hiệu trong vòng 100 thước mà thôi. Do đó mình phải bắn chiến xa địch trên bộ, thật gần, mới trúng đích được . Có nghĩa là mình phải đi bộ đến trong tầm tác xạ chính xác của vũ khí tự động trên chiến xa địch, để cho người ta giết chết mình ... mà không chắc là mình sẽ hạ được nó. Trên thực tế muốn tiến sát đến gần chiến xa thường rất là khó, gần như không thể được, vì lúc nào chiến xa cũng có "bộ binh tùng thiết" đi mở đường cho nó và bảo vệ nó. Còn pháo binh 130 ly dù là một loại vũ khí xưa, cũ, trên 20 năm rồi nhưng là một vũ khí đáng sợ. Nặng khoản 8 tấn, được xe xích kéo, có tầm tác xạ tới 27 cây số và có thể bắn đi 6 quả đạn trong một phút. Chỉ cần có 3 khẩu pháo 130 dấu kín trong rừng, và với 1 giờ tác xạ (1000 quả đạn thôi) cũng đủ đánh sập quận lỵ của bất cứ một quận nào. Đạn pháo 130 ly có thể phá vỡ một miếng thép dày 27 ly, cho nên không có một kiến trúc nào, một công sự nào chịu nổi sức công phá của loại pháo nầy. Dân chúng bỏ chạy hết và quân đội của tụi con không thể nào chống trả mà không bị thiệt hại nặng vì chúng tôi chỉ có pháo binh 105 ly với tầm tác xạ ngắn hơn nhiều , và đạn pháo thì được đếm từng quả, 3 viên cho một khẩu trong một ngày, trong lúc địch thì được tiếp tế quá dồi dào về đạn dược.
Để khóa miệng mấy khẩu pháo binh cộng sản nầy, chúng ta bắt buộc phải có ưu thế tuyệt đối về Không quân. Điều nầy rất đúng trên lý thuyết, nhưng hoàn toàn sai trên thực tế.. Từ khi có cuộc khủng khoảng xăng dầu, trực thăng quan sát và thám thính của chúng ta chỉ được phép bay có 3 giờ mỗi ngày. Ngoài ra cộng sản còn được trang bị hoả tiễn tầm nhiệt S.A.7 rất dễ xử dụng và rất chính xác để vô hiệu hóa các loại phi cơ của chúng ta .
Thưa Ba yêu quý,
Con biết rằng Ba có nhiều mối liên hệ với người Mỹ. Cương vị Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động của Ba sẽ giúp Ba có tiếng nói mạnh hơn. Ba phải giải thích cho họ hiểu rằng tình hình ở đây đã rất là nghiêm trọng lắm rồi. Họ phải cung cấp cho chúng ta vũ khí cần thiết, như hỏa tiễn Tows trên thớt cơ động, và trực thăng võ trang "cobra" trang bị chuyên về chống chiến xa. Họ có hết các thứ nầy mà tại sao họ từ chối ? Họ phải viện trợ cho chúng ta về quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Tôi yêu cầu Ba, Ba ơi, Ba hãy can thiệp với họ. Nếu không thì chúng ta sẽ bị đè bẹp và bại trận ngay. Chúng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Chúng tôi không bao giờ sợ chết. Với điều kiện là còn giữ được một cơ may để chiến thắng, hay là để chống cự với cộng sản có hiệu quả.
Xin Ba tha lỗi cho con vì bắt Ba phải nghe một tờ trình quân sự quá dài dòng. Trong tiểu khu của con, số lần chạm súng và số lần tác xạ của pháo binh tăng lên theo cấp số nhân. Dù sao thì con cũng giữ được đồn của con và con sẽ không rút đi đâu hết..... dĩ nhiên là vẫn còn sống. Binh sĩ của con theo con, và dân chúng vẫn tin tưởng nơi chúng con.
Đứa con lúc nào cũng kính mến và trung thành của Ba"
Ông Bửu từ từ xếp lá thư lại, đằng hắng để lấy giọng và để dằn cơn xúc cảm lại rồi mới tiếp tục:
- " Tất cả mọi thất bại của chúng tôi đều được gói gọn trong những hàng nầy. Tôi nhận được thư nầy của con tôi sau chuyến đi thăm Á Châu và Âu Châu của tôi trở về. Khi tôi đọc được lá thư nầy thì con tôi đã tử trận được3 ngày rồi.
- Ông có nói gì cho người Mỹ họ nghe không ?
- Dĩ nhiên là có. Tôi đã gặp Đại sứ Martin, và các tùy viên quân sự Hoa Kỳ . Tôi cũng có viết thư qua Mỹ. Không có người nào nghi ngờ về những tin tức của tôi. Ông Đại sứ và các tùy viên quân sự đã có ghi chú đầy đủ, và tôi cũng nhận thấy thực tình họ đang quá bận rộn. Nhưng không thấy có ai làm gì hết, tôi muốn nói là họ không có một biện pháp cụ thể nào cả.
- Như vậy cái gì sẽ xảy ra ?
- Chuyện gì cũng được hết ! Các ông dân cử chắc sẽ nhúc nhích.Tổng Thống Ford sẽ có những lời tuyên bố dễ nghe. Quốc Hội sẽ kéo dài các cuộc tranh cãi để khỏi phải chuẩn chi ngân khoản viện trợ. Ông Thiệu sẽ ra đi hay sẽ để bị ám sát. Các sĩ quan và binh sĩ trẻ và tự hào như con trai tôi sẽ bị hy sinh vì danh dự, hay vì để kéo dài thêm thời gian cho một vài chánh trị gia tự phụ kịp leo lên nắm quyền, Đủ thời gian để dàn dựng một kịch bản tưởng như bất thần được ứng biến, mà thật ra đã được viết sẵn từ lâu.. Người Mỹ sẽ đóng cửa các văn phòng cuối cùng của họ. Hạm đội 7 sẽ có mặt tuần rỏn ở biển Đông.
Rồi cộng sản sẽ chiếm Sai Gòn . Và tất cả lỗi đều sẽ được đổ hết cho chúng tôi !!.
*
* *
"Đây thật đúng là thời điểm để trở lại nhận xét nghiêm túc về Hiệp Định Paris . Chế độ cảnh sát và quân đội của ông Thiệu phải nhường chỗ cho những người đại diện, có trách nhiệm và xứng đáng hơn, để họ bắt đầu một cuộc nói chuyện thành thực và nghiêm chỉnh với cộng sản trước khi đã quá trễ. "
Người nói với tôi lời tuyên bố nầy là Nghị sĩ Vũ văn Mẫu, tiến sĩ luật xuất thân từ trường Đại Học Luật khoa ở Paris, (đúng như tấm biển treo trước văn phòng luật sư của ông), và Chủ Tịch Phong Trào Hòa Giải Quốc Gia, một phong trào của Phật giáo quy tụ những người chống đối dai dẳng nhứt của ông Thiệu.
Nhỏ người, tròn trịa, khoảng sáu mươi, hay lăng xăng quậy phá, với gương mặt xương xẩu và giọng nói thanh tao kỳ lạ, là luật sư cho các công ty xăng dầu (Shell và Socony) , ông Mẫu là một người giàu có và liến thoắng, khôn khéo và cơ hội chủ nghĩa hơn là thành thực và quả cảm. Dân Sai Gòn không hề thích ông, một phần vì ông gốc người Miền Bắc, một phần vì họ thấy ông kiêu căng và xảo trá. Dù sao thì ông cũng thông minh và lanh lợi. Ông đã từng là Tổng trưởng Ngoại giao của Tổng Thống Ngô đình Diệm, đã nhiệt tình và hết lòng phục vụ Tổng Thống Diệm và ủng hộ đường lối cương quyết chống cộng, nhưng sau đó, khi có cuộc khủng khoảng Phật Giáo, ông tự từ chức và cạo đầu để chứng tỏ một lòng với sự tranh đấu của các sư sãi. Ba tháng sau đó thì Tổng Thống Diệm bị sát hại.
Tin chắc là Phật tử đang cần có một người "lãnh đạo thực sự" nên ông Mẫu đi sát với các sư cốt cán của chùa Ấn Quang, những người chống đối tất cả mọi hình thức của chế độ quân nhân, và với sự yểm trợ của họ, ông đắc cử Nghị sĩ.
Trước hết ông đụng ngay ông tướng Kỳ, sau đó mới tới ông Thiệu.
Cuối năm 1973, lúc ông Thiệu định cho sửa đổi Hiến Pháp nhằm ra tranh cử Tổng Thống một nhiệm kỳ thứ ba, Vũ văn Mẫu lại cạo đầu một lần nữa để chống đối, và tuyên bố là chỉ để tóc lại "ngày nào mà chế độ độc tài được cáo chung" . Từ đó ông được thêm một biệt danh là "thợ cạo hàn thử biểu"
- "Ông Thiệu đã dối gạt tất cả mọi người, trừ tôi, Chỉ có một cách để chấm dứt cuộc chiến, là cho ông Thiệu đi và đưa tướng Minh lên thay thế ông ta. Ông Mẫu nói với tôi bằng một giọng lạ lùng của một cậu bé hỗn xược.
- Còn Hiến Pháp thì sao ?
Bằng một cử chỉ kiên quyết, ông gạt phăng luận cứ nầy:
- " Ông Thiệu đã vi phạm Hiến Pháp để tiếp tục chiến tranh. Ai cấm cản chúng tôi vi phạm Hiến Pháp để đem lại hòa bình ? Chúng tôi sẽ tìm được đa số tương tự để làm chuyện đó.
- Và người nào sẽ là Thủ Tướng ?
- Tôi !
Luật sư Vũ văn Mẫu phá lên cười nắc nẻ có vẻ bực tức, sau đó làm mghiêm trở lại, và nói tiếp với một giọng tâm tình:
- Ông biết không, tôi tốt với tướng Minh lắm. Ông đã có nói với tôi là ông rất cần môt người giỏi về luật để bàn cãi với cộng sản... và ông đã nhắm vào tôi.
- Ông tin thật là có thể thương thảo trong khuôn khổ Hiệp Định Paris à ?
- Không có một căn bản nào khác để mà thương thảo, và đây là nghề của tôi, nghề bàn cãi, biện hộ, thuyết phục và ngay cả dùng mưu nữa. Tôi biết bênh vực cho một hồ sơ, tin tôi đi. Khó mà có thể bắt bí tôi lắm, tôi sẽ dùng một luận cứ mà không một ai dám làm. Một khi tôi lên rồi, tôi sẽ đòi hỏi tất cả người Mỹ phải rời khỏi ngay đất nước nầy trong vòng 24 tiếng đồng hồ, và ông hãy tin tôi đi, họ sẽ đi ngay cho ông xem ! Ông có vẻ hoài nghi hả ? ông sai rồi. Đây nầy, tôi cho ông một cái hẹn trước ba tuần lễ ở Dinh Độc Lập. Tôi sẽ là Thủ Tướng, tôi sẽ tiếp ông, và chừng đó ông sẽ thấy là tôi giữ lời hứa của tôi.
Vô liêm sỉ?... hay là biết chắc một trò chơi mà ông ta đã nắm được những con bài chủ nhưng không muốn trưng ra?
Tôi nghiêng về giả thuyết thứ hai. Vì Luật sư Vũ văn Mẫu là con người không bao giờ chịu liều lĩnh.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
VỚI ĐOÀN NGƯỜI CHẠY LOẠN
Thứ Ba, ngày 15 tháng Tư năm 1975
S au một đợt nghỉ ngơi khoảng 30 giờ, trận chiến Xuân Lộc lại tái diễn. Từng đợt cách nhau khoảng 30 phút, hai trung đoàn cộng sản Bắc Việt được một tiểu đoàn chiến xa T.54 dẫn đầu tràn ra tấn công vào các vị trí của Biệt động quân và của sư đoàn 18 bộ binh .Bị đẩy lui với tổn thất nặng nề, hơn 1000 tử thương và 21 chiến xa bị hạ, họ lại tấn kích với một trung đoàn thứ ba, và trận chiến khốc liệt lại tiếp tục.
Sau khi lệnh giới nghiêm vừa chấm dứt tôi lại đi lên Biên Hòa. Ở đó tôi tìm lên được một chiếc xe vận tải chở đầy thùng cây đi Trãng Bom. Một khi lên ngồi giữa hai thùng cây rồi tôi mới khám phá ra đó toàn là những thùng lựu đạn và đạn được chở ra Tràng Bom. Nếu xe nầy mà lãnh một quả đạn pháo của Bắc Việt thì tất cả những bài toán về tài chánh của tôi đều tức khắc được giải quyết.
Trời quá nóng, cái nóng của mùa khô ờ đây, với ánh nắng chói chang trong vắt. Xe cộ đều để lại vết hằn trên đường nhựa đang mềm đi vì sức nóng. Hai bên đường nhìn mút mắt là những rẩy rau cải được trồng ngay ngắn từng ô vuông vắn ... Chúng tôi đi qua Hố Nai, một trấn nhỏ với 60000 dân công giáo di cư từ Miền Bắc vào năm 1954. Hai bên con đường chính dẫn vào trấn Hố Nai. có những tiệm buôn, những quán nhỏ bán đồ mỹ nghệ, và có một ngôi thánh đường hùng vĩ nằm ngay sau một bồn cỏ tròn, nơi đó các trẻ em đang chơi, quanh 3 linh mục mặc áo dòng đen.
Chiếc xe vọt lên con đường dẫn đến một khu đồi. Hai chục cây số nữa là đến Trãng Bom rồi. Có mấy chiếc trực thăng đang lượn quanh, mấy hàng binh sĩ đội nón sắt, và hai pháo đội 155 ly , tất cả đang trong cảnh ì ầm của chiến trận. Có nhiều chiến xa lớn, mang đầy cành lá, đại bác chĩa ra phía trước, đang tung tăng trong một đám bụi như có mùi thuốc súng. Còn vài cây số nữa thì đến thị trấn, xe của tôi phải ngừng lại một lúc ở một ụ đất được đấp lên trước một tượng đài bằng đá, dựng lên để kỷ niệm cho những người thợ rừng đầu tiên người Pháp chết ở Nam Kỳ (nguyên tác: Cochinchine). Ngày xưa ở phía sau tượng đài nầy là một trong những vườn bách thảo phong phú nhất ở vùng Đông Nam Á: có đến 6000 loại cây giống, cây kiểng, và lan quí, đã được chọn trồng trong gần 70 năm. Bây giờ thì không còn gì nữa cả , vì vào năm 1968, người Mỹ đã ủi bỏ và đốt sạch để cho hai bên đường được trống trải, dễ giữ an ninh cho các đoàn xe. Ở chỗ vườn cây giống bây giờ chỉ còn lại một bãi cỏ ngắn èo uột và vài cây chuối khô cằn.
Chiếc xe của tôi tiếp tục đi trong vòng 5 hay 6 cây số nữa giữa những làng xóm tiếp giáp nhau, sau đó rẽ sang trái, đi vào một con đường đất gồ ghề dẫn tới một lô trồng cao su. Giữa những hàng cây cao su cách nhau chừng 10 thườc, tôi thấy các chiến xa đang trấn giữ một khoảng đất trống khá rộng. Chạy đến khoảng trống đó chiếc xe của tôi ngừng lại và những anh lính thiết giáp còn trẻ cởi trần trùng trục chạy ra nhận các thùng đạn và lựu đạn tiếp tế. Tôi nhảy xuống đất. Hai xe cứu thương từ mặt trận đưa những thương binh về đây, các băng ca được khiêng đến một chiếc lều kaki lớn, ờ đó có một toán quân y lưu động đang làm việc. Anh em binh sĩ tản ra, tôi nhận ra được đại úy Niệm trên một băng ca, đại úy Biệt động quân mà tôi đã quá giang với ông hôm thứ sáu vừa qua. Mặt ông nhợt nhạt, đôi môi cắn chặt lại, ông bị mất bàn tay trái. Vết thương chưa được băng bó lại, trông thật là thiểu não, máu tươi thỉnh thoảng từ cánh tay bắn lên, và gân tay chỗ đó hình như nát hết. Tôi đi theo băng ca của ông đến toán quân y Tôi nắm thật chặt bàn tay mặt của ông, ông nhìn tôi, nhíu mày lại. Một đại úy quân y gạt tôi ra và nói: "Ông cứ để anh ta ở đây, tôi sẽ lo cho ông ta ngay." Tôi trở lại một trong những xe cứu thương đang trở ra đường và ngồi đằng sau với anh em khiêng cáng. Sàn xe nơi để các băng ca vương vãi đầy vết máu và đầy "cứt đái", xông lên một mùi nồng nặc, mùi hôi thúi của phần phía dưới bụng bị vỡ tung ra, gần như có mùi của sự chết chóc, của tử thần ...
Xe rẽ về trái và chạy về hướng lửa đạn của mặt trận. Độ chừng 15 phút sau chúng tôi ngừng lại. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn vì được thở không khí trong lành hơn. Chúng tôi đang ở ngay làng Hậu Nghĩa, làng cuối cùng trước khi đến Ngã ba Suzannah.
Nằm dài theo các hố bên dường, cách nhau chừng 5 thước một, hàng trăm binh sĩ đầu đội nón sắt đang hút thuốc nghỉ xả hơi chờ tiến ra trận. Toàn là những người vạm vở, lớn con, rạm nắng, và có đôi tay kệch cộm của người nông dân quen làm đất. Con đường hiện đang bị nghẽn vì một đoàn dân chạy loạn quá dài. Hàng ngàn người chạy giặc đang đi lần xuống Trãng Bom, hết làng nầy đến làng khác. Có những chiếc xe bò, có những xe ba bánh chở đầy đến bánh xe muốn sạt ra vì chở quá nhiều bao lúa quá nặng, có nhiều chiếc xe đạp đã chở cả 3 đứa con trên sườn trước rồi lại còn đèo thêm đứa thứ tư phía sau. Họ đến từ đường đi Dalat, tù Túc Trưng hay từ Gia Kiệm. Họ đi trong yên lặng, trang nghiêm đáng kính và nghèo khổ, vì họ đã bỏ hết tất cả lại sau lưng họ, từ làng mạc trù phú đến nhà cửa ruộng vườn, mùa màng của họ, và cả mồ mã của ông cha nữa.!.
Đoàn quân tiếp tục tiến tới và băng xuyên qua một miếng ruộng cỏ ngắn, có từng bờ đê vuông lác đác có vài đống đất khô nhỏ làm bụi đỏ tung lên theo bước chân của chúng tôi . Tôi tìm một sĩ quan và cuối cùng gặp được một người, đại úy Châu. Ông vừa đi vừa giải thích cho tôi nghe :
- " Cộng sản muốn bao vây Xuân Lộc và cắt đứt hậu tuyến của chúng tôi ở phía sau ngã ba Dầu Giây (tức Suzannah). Trực thăng chúng tôi đã đổ 1000 binh sĩ Dù xuống bìa rừng phía Tây
của thị trấn nầy để tăng cường cho lực lượng phòng thủ ở đó. Hai trực thăng đã bị cao xạ phòng không Bắc Việt bắn rớt. Và lực lượng Dù đã chạm súng rất nặng, nhưng họ vẫn còn bám đất.
Hiện giờ chiến trận đang mở rộng trên 10 cây số về hướng Tây Bắc giữa Gia Kiệm và Suzsnnah. Hai bên đang đành nhau trên các đường xe be và trong các lô cao su. Cộng sản Bắc Việt đang cố cho bám chặt các trục di chuyển của chúng tôi bằng những toán đặc công được võ trang
rất hùng hậu, và cố giữ chúng tôi để báo cho pháo binh của họ nện chúng tôi . Cách đây không đầy 7 cây số đang có một cuộc chạm súng lớn lắm , vậy ông đừng rời khỏi hàng quân nghen!"
Chúng tôi càng tiến tới thì càng nghe tiếng đại bác rõ hơn. Các phi cơ khu trục phóng pháo bay ngang chúng tôi thật thấp và chỉ vài giây sau tiếng rú là chúng tôi nghe được tiếng bom nổ điếc tai làm rung chuyển trận địa.. Các khu trục nối tiếp nhau từng đợt 3 chiếc một, cách khoảng nhau chừng 20 giây.
Chúng tôi tiến lên đã được hơn một giờ rồi. Con đường mòn đi sâu vào một rẽo đất có hàng tre già và vườn chuối bao quanh.Thình lình một tràng đạn pháo nổ trên con đường mòn trước mặt chúng tôi chừng vài chục thước. .
Anh em binh sĩ nhảy xuống mấy cái hố, đặt súng máy và bắn vào các hàng tre nhiều loạt đạn. Bộ đội Bắc Việt không còn xa nữa đâu. Tôi bám theo đại úy Châu. đang dùng máy truyền tin cho lệnh bố trí các trung đội của ông. Một số đạn pháo khác đang nổ trong bờ chuối, phạt ngã một số. Xuyên qua kẻ hở của vườn chuối vừa bị phạt ngã, tôi thấy có mấy cái nhà lá đang bốc cháy. những nhóm thường dân từ bốn phía chạy túa ra, đàn bà thì mặc đồ đen, đội nón lá, tay dắt con, tay xách bọc quần áo chạy băng ra đường mòn. Một chị bị một mảnh đạn vào bụng té sấp xuống phia trước như một con thỏ bị đạn trong lúc đang chạy. Một bé trai bị thương ở trán, máu chảy đỏ cả chiếc áo trắng của em, vừa đi, vừa run vừa khóc. Một em bé gái ốm yếu nắm vai em lại và dắt em đi .
Anh em binh sĩ đã tiến đến bờ dậu của mấy căn nhà lá đang cháy với tiếng lên cò súng nghe lắc cắc. Một số thường dân chạy túa ra từ các hầm trú ẩn và chạy xuyên qua cánh đồng. Họ lợi dụng sự tiến quân của binh lính Chánh Phủ để cố chạy ra thẳng quốc lộ trước mặt họ. Các khu trục phóng pháo cơ đang dùng đại bác yểm trợ quân bạn chừng trăm thước trước mặt chúng tôi. Có nhiều cột khói lên thẳng trên không trung. Hàng quân bị đạn bách kích pháo chận đứng lại. Có mộ số bị thương. Đại úy Châu nói nhanh với tôi :
- "Anh hãy đi với đám thường dân lánh nạn nầy đi. Không có gì ở đây đáng cho anh xem nữa đâu.. Rồi anh sẽ bị bắn gục như một con thú vậy. "
Và tôi quay gót trở lại con đường mòn, đi ra quốc lộ.
Trở lại con đường, qua khỏi bờ tre, đến cánh đồng trống, tôi nhập vào với đoàn người chạy di lánh nạn. Đoàn người quá dài đang sắp rời khòi cánh đồng. Có nhiều người bị thương, một ông già lạ thường với chiếc áo trắng và nón cối kiểu thực dân, đang lảo đảo đi vì một vết thương to bằng nấm tay trên vai . Ông đi chừng trăm thước là ngã quỵ xuống. Tôi cố gắng đở ông ta dậy, nhưng ông không còn nhúch nhích gì nữa, ông đã chết rồi ! Một bà mẹ đi ngang qua tôi, vai gánh một đôi gióng. Có một em bé phúng phính má bầu được cho ngồi trên một cái gối đặt ở một đầu gióng đang vô tư đùa nghịch theo nhịp đi của bà mẹ. Phía bên mặt của tôi cũng có một bà khác mặt mày biến dạng lơ láo vì lo sợ và đau khổ, vừa đi vừa lớn tiếng cầu nguyện. Bà ôm cứng đứa con gái khoảng 4 hay 5 tuổi vào lòng, bị trúng đạn ở đầu, tóc tai bê bết máu. Trông thật là thiểu não chịu không nổi !
Tôi đang ở đây, lẫn lộn với một dân tộc mà tôi rất thương. Tôi được sanh ra trong lòng dân tộc nầy, tôi lớn lên trên đất nước của họ phần nào cũng là đất nước của tôi, mà giờ đây tôi chỉ đứng nhìn họ đang đau khổ, đang chết dần mà không làm gì hơn được, chỉ biết cùng đi trên con đường này với họ mà không có một miếng thuốc, không có một cuốn băng, cũng không thể bế giùm một trong những đứa bé nầy, vì chúng hiện là tài sản quý báu nhất mà mẹ của chúng không lúc nào muốn buông ra, và tôi rất hiểu tâm trạng của họ. Nhưng mà tôi muốn kêu lên, muốn hét lên thật to để cho cả thế giới cùng được nghe: "Hãy để cho họ được sống ! hãy chấm dứt sự đau khổ của họ đi..! hãy xúm nhau lại để ra sức cố dập tắt giùm các họng súng đi....."
Nhưng làng mạc cứ thay nhau cháy ... hết làng nầy đến làng khác, như những bó đuốc.. và dân chúng nghèo khổ chạy trốn với con cái của họ, quá ray rức vì nỗi lo sợ. Tôi chỉ là một nhân chứng không có một chút quyền hành . Quá thất vọng, người mẹ ôm chặt đứa con gái bị thương chỉ còn biết kêu Trời, gọi Chúa xin Người hãy ban cho sự cứu giúp.
Cuối cùng thì đoàn người lánh nạn cũng ra đến quốc lộ. Có nhiều xe vận tải đang chờ họ. Một số Dân vệ và sinh viên công giáo tình nguyện từ Hố Nai đến, đã giúp đưa họ lên xe.
Đối với những người nầy, coi như cơn ác mộng tạm chấm dứt. Nhưng còn những người khác, hằng ngàn người khác còn đang lang thang trong rừng nằm giữa hai lằn đạn của đơn vị Dù và bộ đội Bắc Việt, dưới tầm đại bác của các chiến xa đang bắn nhau, dưới các quả đạn của bách kích pháo, của pháo binh, của hỏa tiễn, và cả dưới bom đạn của phi cơ. Họ đang kẹt cứng trong cái bẫy sập của hai bên Miền Nam và Miền Bắc đang ra sức hăng say tiêu diệt lẫn nhau ...
Đến Trãng Bom, lúc tôi rời khỏi đoàn dân lánh nạn mà không có đủ can đảm dám nói với họ được nửa lời, thì một thiếu tá chỉ huy một đơn vị Dù tưởng tôi là một nhà báo Mỹ chụp cổ tôi và cho tôi một câu với một giọng khinh bĩ : " Ê ! Nầy anh Mỹ kia, ở chiến trường về, anh hãy viết rõ trong tờ báo của anh là lính Dù Miền Nam chúng tôi không cần phải có đô la mới có đủ can đảm chết cho Đất nước chúng tôi đâu nghen !"
*
* *
Thủ đô Phnom Penh đang trong cơn hấp hối. Quân Khmer Đỏ chỉ còn 5 cây số nữa là đến phi trường Pochentong, một phi trường mà họ đang nện bằng bách kích pháo hạng nặng và các loại Súng Không Zdật (SKZ) Các phi cơ vận tải loại nặng của Hoa Kỳ còn có nhiệm vụ tiếp tế cho Thủ đô nầy, đáp xuống mà vẫn cho máy nổ, bỏ hàng xuống thật nhanh trong vài phút xong cất cánh bay lên ngay, dưới những tràng đạn pháo.
Tất cả nhân viên dân sự người Campuchia làm việc cho phi trường đều nghỉ hết. Việc hướng dẫn cho phi cơ Mỹ đáp xuống được tiến hành bằng các đài kiểm soát không lưu lưu động được thiết lập tạm dưới đất, trên các nạn chống, tháo ráp ra được . Tòa đại sứ Hoa Kỳ, cơ sở ngoại giao duy nhất còn làm việc ở Nam Vang, đã cho di tản hết ba phần tư nhân viên và tất cả hồ sơ lưu trữ. Phần lớn các nhà báo đều đã rời khỏi đây.
Các bệnh viện đầy người bị thương, chất nằm trên băng ca đặt ờ ngoài các hàng hiên. Dân chúng, điềm nhiên và thụ động, lo chôn cất những người chết một cách yên lặng. Những người dân chạy loạn tiếp tục đổ về đây, che lều trại bằng ván thùng, bằng giấy bồi hay bất cứ thứ gì mà họ kiếm được kể cả lá chuối và những mảnh tôn vụn , và nằm tràn lan khắp các lề đường. Đôi khi, sau một tiếng nổ khủng khiếp, một quả đạn hỏa tiễn cuốn phăng đi cả hàng chục căn lều tạm bợ nầy, vứt ra đường những mãnh vụn của thân người nát bét cùng với nồi niêu, ván, gổ.. giữa những vũng máu tươi to lớn.
Dửng dưng với thảm cảnh chung quanh chúng, những con bò sữa đói khát đang tìm gậm vài cọng cỏ hiếm hoi trong các công viên. Tất cả các xe cộ nhất là các mô tô và xcutơ đã không còn chạy được nữa vì không có xăng, được dành cho xe vận tải công cộng và quân xa..
Chánh Phủ đã mang về từ Kompong Cham và Siemreap 8000 quân nhân để tăng cường và hiện có 30 tiểu đoàn đang nằm chung quanh thủ đô.. Nhờ có cầu không vận, họ còn được 20 ngày lương thực và đạn dược, Từ khi chiếm được Neak Luông, một vị trí then chốt trên sông Cửu Long, quân Khmer Đỏ đang sẵn sàng dàn hàng ngang đến 60 tiểu đoàn. Quân trú phòng Neak Luông đã chống cự suốt trong hai tháng nhưng cuối cùng vị trí nầy đã thất thủ ngày 1 tháng 4 trong những điều kiện hơi phi lý.
Ngày đó, vào lúc 12 giờ trưa, thống tướng Lon Nol từ dinh Chamcar-Mon dùng trực thăng bay ra phi trường Pochentong để rời vĩnh viễn khỏi Campuchia trên một phi cơ Hoa Kỳ . Một tiếng đồng hồ trước khi ông rời khỏi sân bay, tất cả các đơn vị Không quân chiến đấu của Campuchia (trên 30 chiếc khu trục T.28) đều nhận được lệnh cấm bay vì lý do an ninh (sợ họ mưu sát thống tướng Lon Nol) nên tất cả đều nằm bất động tại chỗ dưới đất.
Vào lúc 12 giờ 15, tướng Limsi- Seath chỉ huy căn cứ NeakLuong, nơi binh sĩ vừa đẩy lui một cuộc tấn công của Khmer Đỏ dữ dội đến độ có lúc phải đánh xáp lá cà, đã lên tiếng trên máy truyền tin : "Tôi đòi hỏi một sự yểm trỡ cao độ của tất cả các khu trục còn xử dụng được để đánh mạnh địch quân trước khi họ tái tổ chức được trên tuyến xuất phát và trở lại tấn công chúng
tôi. Đó là cơ may duy nhất để giữ vững được Neak Luong, nếu không thì tối đa chỉ trong hai
giờ nữa thôi thì chúng tôi sẽ bị tràn ngập."
Bộ Tổng Tham Mưu của Phnom Penh chỉ biết trả lời là "Do lệnh thượng cấp, các khu trục không được cất cánh"
Và như thế là 2 giờ sau đó, Neak Luong thất thủ. Tướng Limsi-Seat bị thương, 80 sĩ quan và 2000 binh sĩ bị bắt làm tù binh với cả pháo đội 6 khẩu 105 ly.
Quân Khmer Đỏ dùng 6 khẩu pháo 105 ly đó để bắn vào thủ đô coi như để dọn đường chuẫn bị cho trận tấn kích cuối cùng của họ vào Phnom Penh. Họ hy vọng chiếm được thủ đô trong dịp đầu năm âm lịch của họ (từ 13 đến 15 tháng 4 dương lịch). Như vậy là quân thủ thành sấp được hưởng một cái Tết hứa hẹn là sẽ khủng khiếp và đầy tang tóc vì họ đang bị vây khổn trong một cái rọ sắt đầy lửa.
Chiếc hàng không mẫu hạm Okinawa (chuyên chở trực thăng) đậu tại cảng Kompong Som (trước kia là Sihanouk-ville) với 120 trực thăng và 900 Thủy quân lục chiến, sẽ can thiệp để bảo đảm sự "di tản" trong vòng trật tự và an toàn của 80 hay 90 người Mỹ còn đang có mặt tại Phnom Penh. Dĩ nhiên họ cũng sẽ lo cho một vài nhân vật Campuchia nào đã dính sâu vào cuộc chiến và những người khá giả giàu có.
Nhưng còn 3 triệu người dân tị nạn đã bỏ tỉnh bỏ làng chạy loạn, bỏ hết tất cả.... để "chọn tự do" và cần có sự bảo vệ của những người thuộc chế độ Cộng Hòa "đồng minh của Hoa Kỳ" thì phải ở lại trong cái bẫy đang từ từ đóng sập xuống trên đầu họ. Đó là những nông dân nghèo khổ, chất phát và dễ tin. Vả lại, họ sẽ làm được gì nếu người ta mang họ ra ngoại quốc ? Họ không biết nói tiếng Anh, Họ lại không có tiền và cũng không có một ai là thân nhân ở đó ? Họ không có con còn nhỏ và trần truồng mà họ chỉ ôm trong tay những bình tro hài cốt mà họ sẽ đem đi chôn ở các chùa. Tro cốt của những người đàn ông rạm nắng vì phải lội sình hằng ngày dưới ruộng sâu, đi theo sau những con trâu đen mập mạp nhưng ngu đần, không có thì giờ để kịp nghe theo lệnh gọi lên tỉnh thành để nhập ngũ đánh đuổi giặc "Việt Nam xăm lược" ! Họ đã giết người Khmer và chết vì bị người Khmer giết, và không một ai biết được, hay vì họ không muốn và cũng không cần biết , biết tại sao họ chết, chết cho ai hay chết bằng cách nào ....
CHƯƠNG MƯỜI HAI
VỚI NGƯỜI PHÁP LỚN TUỔI Ở SAI GON
Thứ Tư, ngày 16 tháng Tư
B ất chấp tử thần có thể ập tới bất cứ lúc nào, nhất là hành động do đức tin, từ nóc cao của nhà thờ Sai Gòn vọng lên những tiếng hát trầm bổng bằng tiếng la tinh. Bàn thờ Chúa chưng đầy hoa và được trải một tấm lụa sáng rực rỡ. Hàng ngàn tín đồ công giáo đang dự lễ tấn phong của 25 linh mục đại diện cho các địa phận trong nước.
Khi buổi lễ chấm dứt, tất cả tín đồ hiện diện nắm tay nhau chúc bình an và cầu nguyện cho tất cả các Giám mục, các Linh mục và các tín hữu tự nguyện ở lại nhiệm sở của họ trên lãnh thổ bị chiếm để chia xẻ thử thách của mọi anh chị em cả lương lẫn giáo.
Sau đó cả 25 vị linh mục vừa được tấn phong được cho mặc thêm một chiếc áo choàng trắng có thêu một chữ thập bằng sa ten đỏ, nắm tay nhau bước ra ngoài, người nào cũng có thân nhân và bè bạn mặc lễ phục tươm tất đi kèm. Đám đông thân bằng quyến thuộc nầy từ hàng trăm giáo xứ đến đây cùng nhau qui tụ dưới chân tượng đài Đức Mẹ Đồng Trinh nổi bật cao lên giữa công viên Nhà Thờ.Các linh mục với áo dòng đen và nón đen, các tu sĩ với áo chùng vải thô, các bà nữ tu sĩ, các anh em hướng đạo sinh, các nông dân tay lấm chân bùn nhưng vẫn mặc áo dài có mang huy hiệu Trái Tim của Chúa, các cô thiếu nữ với áo dài nhẹ nhàng, các bô lão với khăn đóng áo dài, các binh sĩ với quân phục rằn ri, chào nhau, ôm nhau kêu gọi nhau và kể cho nhau nghe về tin tức của những người bị cộng sản bắt đi làm tù binh hay những người bị coi là thất lạc trong cơn lốc loạn ly nầy.
Họ ở đó hàng mấy giờ, cười đùa chuyện trò, chiếm hết các lề đường, làm tắt nghẽn lưu thông và sau đó, vào khoảng 12 giờ trưa, theo một dấu hiệu của các linh mục, đám đông kỳ lạ và bất thường nầy, kể cả các chánh trị gia và thương gia, xem chừng như đã sung sướng và hảnh diện được biểu lộ đức tin của mình ngay giữa trung tâm của thành phố kinh doanh nầy, mới chịu giải tán hết trong vòng vài phút, mạnh ai nấy chạy về xe của mình , những chiếc xe vận tải hay xe buýt đã đưa họ tận đây, từ các đồng ruộng và làng mạc của họ. Mỗi xe khi ra khỏi bãi đậu đều được một linh mục cởi mô tô hướng dẫn mở đường. Và nửa giờ sau đó là tất cả không còn một người công giáo nào ở đó nữa.
Trung tâm thành phố đã trở lại với những cảnh kẹt xe, xe xì cút tơ, xe tắc xi, và các xe bán hàng dạo. Sự ồn ào của các sự vận động và mậu dịch cũng đã trở lại trên đường Tự Do (Catinat) dài dài từ nhà thờ đến bờ sông . Các chuyên viên về tin tức cũng bắt đầu vui vẽ phao tin, không cần biết -
là đúng hay thất thiệt . Chuyện khó nhất là phải biết lọc tin đó.
- Một kho đạn ở Biên Hòa đã bị nổ, làm rung chuyễn cả thành phố: tin nầy đúng.
- Một bản tin đánh đi của UPI xác nhận đó là do sự đột kích của đặc công Việt Cộng. An ninh quân đội thì thản nhiên quả quyết đó chỉ là một tai nạn rủi ro: một tàn thuốc dụi tắt không kỹ, bén lửa qua cỏ khô gây lên một đám cháy làm nổ một kho đạn phế thải.
- Ông Thiệu đã nhờ công ty Balair chở 16 tấn vàng thỏi, số vàng dự trữ của Ngân Hàng Quốc Gia sang Thụy Sỹ. Ông Lý long Thân, một người Tầu giàu có, cố vấn tài chánh của Tổng Thống V NCH đã bán cho một tổ hợp Nhật bản một khối đồng của Chánh Phủ trị giá 300 triệu mỹ kim : tin thất thiệt. Vàng vẫn còn trong hầm của Ngân Hàng (Giám Đốc Ngân Hàng từ chối không ký lệnh xuất kho), và không một phi cơ thương mại nào có thể chở đi 16 tấn vàng một lần một mà không vở sàn kho chứa hàng của phi cơ.
- Ở Việt Nam vẫn còn 2 tỷ mỹ kim "sắt vụn" do quân đội Hoa Kỳ bỏ lại lúc họ rời khỏi Việt Nam . Chánh Phủ Sài Gòn đang thương lưộng với một công ty lớn ở Hoa Kỳ định mua với giá 1 tỷ mỹ kim. Chuyện mua bán nầy chưa ngã ngũ.
- Những người Mỹ ở khách sạn Brinks, gần trụ sở Quốc Hội đã rút đi êm trong đêm tối trên 3 xe vận tải được cảnh sát Miền Nam họ tống : tin nầy rất khó kiểm. Không ai có quyền di chuyển vì có lệnh thiết quân luật từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng. Một điều chắc chắn là: tòa đại sứ Hoa Kỳ đã báo cho tất cả các kiều dân Mỹ trong lãnh vực tư và những người làm việc cho Phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ (D.A.O.) có trách nhiệm về tiếp vận quân sự , trừ những người làm việc cho ngành Y dược và tiếp tế lương thực, là phải sẳn sàng rời Việt Nam trong vòng 30 ngày sấp tới.
- Tất cả những chuyến bay quốc tế đều ngưng vì biện pháp an ninh : Tin không đúng, chỉ có các phi công thuộc hãng Cathay Pacific đang đình công. Họ đòi hỏi phải có một số tiền thưởng về nguy hiểm khi phải đáp xuống Sài Gòn . Các hãng hàng không khác đều bảo đảm giữ nguyên các chuyến bay.
Tiếng đại bác nghe cách thủ đô chừng vài chục cây số. Sự uy hiếp từ phía cộng sản Bắc Việt mỗi ngày mỗi đến gần hơn, nhưng khối lượng lớn dân Sài Gòn cố gắng giữ bình tĩnh.
Các viên chức hành chánh làm việc bình thường. Các chợ búa đều được tiếp tế đều đặn . Đồng mỹ kim còn đổi được 1000 đồng bạc. Người dân vẫn còn đi lại với những xe ba bánh nặng trĩu, xe tắc xi vẫn vét túi hành khách, xe kéo xe lôi lại thấy tái xuất hiện.
Ở Chợ Lớn, thương buôn không thấy hốt hoảng. Dự kiến cho một cuộc tấn công có thể bị cúp điện, họ đã tìm mua hết nến để dự trữ, để có thể bán lại với giá cao gấp ba lần. Dự trù trường hợp cộng sản vào được thủ đô, họ cũng đã vét mua hết tất cả vải đỏ. Họ biết rằng ở những thành phố bị cộng sản chiếm ở Miền Trung, dân chúng được lệnh phải treo cờ Hà Nội và M TGP MN trước nhà. Họ đã tính toán rất kỹ. Bốn triệu lá cờ cộng sản phải cung cấp cho người dân trong vòng 48 tiếng đồng hồ : ba tỷ đồng bạc lời, một áp phe không thể bỏ qua được !
Những người Pháp cố cựu gồm các thầu khoán, kỹ thuật gia, giám đốc xí nghiệp, các nhà trồng tỉa... gặp lại nhau ở tiệm Impérial, của Bonelli (50 năm ở Đông Dương.) hay ở quán cà phê mát mẻ của "papa" Charbonnier, ở cảng, một cựu tỉnh trưởng chuyển sang nghề bán cà phê, và dưới bức tranh của ông lãnh sự đầu tiên Dominique, một người dân thuộc đảo Corse vô cùng vui vẻ, đã phục vụ khách từ 27 năm món súp thập cẩm tôm cá biển ngon nhất Sài Gòn và rượu chát quí hiếm Cinarca .
Người ta thấy có những anh cựu quân nhân của đội quân viễn chinh, những người đã sống sót qua bao nhiêu biến cố. Họ đến từ những tỉnh xa xôi của vùng Đồng bằng, hay từ những đồn điền nho nhỏ ở ven biên của chiến trường. Rất mạnh khỏe, rạm nắng, nhưng kín đáo, họ biết tất cả mà nói thật ít và giữ im lặng khi có người lạ xuất hiện.
Tôi đã gặp được ở đây nhiều bạn cũ :
Moulin, một cựu sĩ quan Dù. Chúng tôi đã cùng được huấn luyện về biệt kích, ở Ấn Độ năm 1945. Đồn điền của anh bị Việt Cộng chiếm.
Nasica, con của một anh hùng kháng chiến bị Đức xử bắn năm 1944, có một tượng kỷ niệm trước khi vào thị xã d'Arnay-le-duc. Anh là một cựu kháng chiến quân người Ý, kỹ sư nhiệt lượng, và chuyên viên đóng tàu chuyên chở đường sông. Xí nghiệp cùa anh còn chưa gặp khó khăn nào.
Roger Routin, một binh sĩ gốc Tunisie, râu xồm nhưng rất có tình huynh đệ. Anh là một phi công dân sự giỏi nhất của Miền Nam . Với chiếc phi cơ nhỏ của anh, anh đã lái đi "nhặt" hết người Pháp ở Dalat và Nha Trang dưới lằn đạn của cộng sản.
Le Gall, chín con, vợ là Lucienne. Mặc dầu đông con nhưng anh đã xây cất một viện mồ côi để nuôi trẻ và mang từ mặt trận về đây được hơn hai mươi đứa.
Tino Agopian, một người trên sáu mươi tuổi người nhỏ thó rất tao nhã, luôn luôn ăn mặc rất kẻng, kỵ sĩ lão thành và đáng tin cậy của các trường đua.
Cũng cần phải nói qua về những người truyền giáo và các mục sư, đuối sức nhưng không mệt mỏi, đã biến những viện tế bần thành những trung tâm xã hội . Tặng phẩm cứ dồn dập được gởi tới và xe nầy đến xe khác đầy thuốc men được chở đến các trại dân lánh nạn.
Câu lạc bộ thể thao, với hồ tắm nổi, đầy đủ tiêu chuẩn tranh tài quốc tế, với những dàn hoa vạn lý, với những sân tơ nít, và nhà thể thao đa dụng, những phòng đánh kiếm và sân tập võ thuật và một vòng đua chạy bộ . . . . đó là ốc đảo cuối cùng của "xã hội" người Pháp ở Sài Gòn. Được một hàng me to và hàng rào xanh bao quanh, đây là một câu lạc bộ hạng sang và lịch sự, ở đó những máy điều hòa không khí của Nhật chưa thể thay thế được các cây quạt trần già nua nhưng còn rất êm lặng và đủ tiện nghi. . Người ta còn tìm thấy phía sau các hàng hiên trong những căn phòng rộng rãi mát mẻ với những bàn ghế toàn bằng gổ nặng, những ghế dựa rộng sâu, những ông chủ ngân hàng bình thản, những nhà ngoại giao lạnh lùng, những giám đốc đồn điền, những tay vô địch bài tây (bridge), những nhà sản xuất bia da đỏ ao như gạch, một vài anh tóc dài, quần ống voi và những cô gái dịu dàng tươi trẻ. . . . .
Nhờ đi thăm người nầy đến người kia, từ một người bạn thân đến một sự giao thiệp vững chắc, tôi thu lượm được một vài tin tức đã được kiểm chứng:
Đức Giám Mục Seitz ở Kontum, 40 năm phục vụ ở Việt Nam , vẫn còn, không hề hấn gì.. Bá tước del Fante, người có biệt danh là "vua ở Cao Nguyên", vẫn còn sống. Con người quí tộc Ý nầy, người nói được tất cả thổ ngữ của đồng bàoThượng, vừa là bạn vừa là cố vấn của tất cả các trưởng bộ lạc.. là một nhân vật rất lạ thường. Cứng rắn trong công việc nhưng khoan hồng độ lượng với mọi người làm, ông có một sức khỏe sắt đá và một tinh thần lạc quan không gì lay chuyễn nổi, và không có gì làm cho ông ta cảm xúc hết.
Ông M. Mercurio, niên trưởng của các nhà trồng tỉa, chết ở Ban mê Thuột vì một trái bom của không quân Miền Nam đã làm sập nhà ông.
Hơn 30 người Pháp trong đó có 12 giáo viên còn ở lại Dalat, vì thiếu phương tiện di tản, nhưng họ vẫn còn khỏa mạnh.
Những nhà trồng trà và cà phê (10.000 mẫu và khoàn 100 nhà khai thác đặc biệt) trãi dài giữa Blao, Djiring và Ban mê Thuột, bị bắt hay đã chạy khỏi , đều coi như bị phá sản hết. Mùa màng khá lắm, nhưng vì đường bị cắt đừt, nên tất cả đều bị kẹt lại và hư thối hết tại đồn điền. Các nhà máy ở Sài Gòn và Chợ Lớn chuyên sấy trà đen, trà xanh , và rang cà phê đều phải đóng cửa vì không có hàng dự trử. Thua lổ tính ra đến hàng trăm triệu đồng.
Bỏ qua các nhộn nhịp và ồn ào của đường Tự Do, trở lại bệnh viện Grall ở nửa đường giữa nhà thờ Đức Bà và vườn bách thảo. Với những dãy nhà xây sáng sủa có hàng hiên chung quanh và nằm dưới tàng cây to rợp bóng mát, cơ sở nầy vừa là một nơi trú ẩn vừa là một học đường. Được thành lập từ năm 1860, bệnh viện 400 giùờng nói trên trong những tuần lễ sau cùng nầy đã có con số bệnh nhân tăng lên gấp 4 lần. Toán quân y của bác sỉ tổng quát Mazeaud đã đến nhập vào với 20 bác sĩ quân y người Pháp ở đây. Ngay sau khi thảm trạng ở miền Trung bộ Việt Nam bắt đầu có tầm mức nguy kịch , thì vị cựu Giám đốc bệnh viện Grall (4 thời phục vụ ở Đông Dương, chuyên viên về các bệnh của vùng nhiệt đới) đã tình nguyện sang đây với một bác sĩ giải phẩu, một bác sĩ khoa tổng quát và một bác sĩ nhi khoa. Mười bác sĩ dân sự đã tình nguyện đến tăng cường toán quân y của ông. Và toán y sĩ nầy đi từ trại lánh nạn nầy đến trại lánh nạn khác, từ Cân Thơ đến Vũng Tàu hay ra tận đảo Phú Quốc để chăm sóc cho các thương binh và các thường dân bị thương vì chiến cuộc.
Chung quanh Sài Gòn hệ thống an ninh từ từ siết chặt lại. Các đơn vị cảnh sát đặc biệt đều mang áo giáp và đội nón sắt, trang bị hùng hậu đã đi tuần khắp các vùng ngoại ô và được lệnh bắn bất cứ người tình nghi nào mà không cần phải gọi hỏi trước .
*
* *
Chiều nay tôi nhận một lá thơ từ bên Mỹ rất đáng được chú ý. Lá thư của một người bạn của tôi, anh Dick Benham 32 tuổi, cựu phi công trực thăng võ trang thuộc lực lượng Tuần Giang (đơn vị giang thuyền). Hai lần bị thương ở Việt Nam , chuyển sang ngành giáo dục sau khi về Mỹ lấy được bằng tiến sĩ về chánh trị kinh doanh. Và đây là nội dung bức thơ :
" Anh Pierre thân mến,(1)
"Tôi đã gọi điện thoại tới Paris, vợ anh đã cho tôi biết là anh đã đi Việt Nam . Bà ta cho tôi số hộp thơ của anh ở Sài Gòn (hộp thơ số 1303). Tôi hy vọng rằng mặc dầu có một "không khí hỗn loạn tại đó, nhưng bức thư của tôi cũng có cơ may đến tay anh được . Có rất nhiều người bạn Việt Nam viết thư hỏi tôi cái gì đang xảy ra ở Hoa Kỳ ? Họ không hiểu "được thái độ chống đối của Quốc Hội và tính thụ động của người đứng đầu Nhà Trắng." Có rất nhiều lý do để Hoa Kỳ bỏ rơi nước Việt Nam, nhưng tất cả đều dính với câu "chuyện tai tiếng Watergate và chuyện bầu cử lại của dân biểu Hạ viện và 1/3 nghị sĩ "trong tháng 11 / 1974 nầy. Cuộc vận động bầu cử vào mùa thu 1974 được đánh dấu bằng một sự chán nản chung của dư luận quần chúng. Đến độ mà tất cả các kỷ lục về "không đi bầu" đều bị phá hết ! Năm chục phần trăm cử tri Mỹ đã không đi bầu. Đảng Dân Chủ đã đạt được một thắng lợi hoàn toàn áp đảo. Một vài tuần sau đó, ông Jay Lovestone từ lâu là cánh tay mặt của ông George Meany trong tổ chức Công Đoàn Lao Động, đã ước tính trong một cuộc nói chuyện riêng tư rằng trong số những người mới được bầu vào Quốc Hội đã có đến ít nhất 80 là những người còn ướt sũng đằng sau "xe"(2), có nghĩa là những trẻ con thất học (3) và vô trách nhiệm. Vả lại đó chỉ là một đánh giá còn quá thấp, bởi vì 3 tháng sau đó ( tháng 3 / 1975) trong lúc Đông Dương đang trong cơn khủng khoảng, người ta ước lượng con số của những tay "ngu dốt mới" đó đã vào được Hạ Viện Hoa Kỳ 140 đứa (4). Nhất là đặc điểm của bọn "ngu đần" nầy được thể hiện qua thái độ của con đà điểu, không cần suy nghĩ vẫn khăng khăng nhất quyết từ chối không muốn quan tâm đến tình hình của vùng Đông Nam Á Châu. Tự mãn là đã "thuộc một xã hội giàu có, bọn chúng không muốn nhìn ra ngoài những bức tường của chúng đang sống. "Chúng tôi không muốn nghe nói về Việt Nam nữa !" . Đó là câu mà "bọn chúng đã nhắc đi nhắc lại đối với những tiếng vọng từ bên ngoài. Đến khi mà phải gởi một phái đoàn dân cử đi sang Việt Nam để điều tra tình hình tại chỗ, thì người ta đã chọn những con "đà điểu" đẹp nhất. Thí dụ như James Mac Closky (đại diện cho "California), người đã từng khẳng định năm 1967 rằng không thể thắng Việt Cộng nổi; như bà Bella Abzug, một người tranh đấu cho phụ nữ và cho hòa bình đã từng nổi tiếng trong cuộc đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ. Cuộc điều tra của phái đoàn 8 người dân cử đó chỉ được tiến hành vỏn vẹn có 2 ngày và chỉ thừa nhận những thành kiến và định kiến mà họ đã có sẵn từ lâu rồi. Thái độ của những nhà lập pháp đó thật ra chỉ đưa đến một chiến dịch đầu độc rộng lớn từng được các chương trình truyền hình lớn và của báo chí như tờ New York Times, tờ Washington Post, những tập san như New York Review of books (5) (không phải đơn thuần là những tập san văn hóa mà là những phương tiện tranh đấu của những người trí thức như Mary Mac Carthy và 500 người khác với "ý nghĩ "tốt " cùng loại như thế. Những người to đầu cầm chịch cho trò chơi, cho chiến dịch nầy "chỉ là một nhóm hạt nhân bé nhỏ, nhưng hành động của họ được sức mạnh của truyền thông báo chí Mỹ nhân lên. Một vài nhà báo mà chúng tôi cho họ một biệt danh là "kẻ cả" như James Reston, Antony Lewis, Kraft hay Broder, mà những bài viết của họ được "nghiệp đoàn hóa" (có nghĩa là được phổ biến cùng lúc do một số lượng báo chí địa phương ở các tiểu bang và như thế là có một số lớn độc giã) đã làm mất uy tín của VNCH và những nhà lãnh đạo của họ một cách có hệ thống. Chính những người nầy đã hạ ông Nixon và những người dân cử mới nầy là hình bóng của báo chí đã tạo dựng cho họ lên. Tôi tin chắc là Quốc Hội không chấp thuận ngân khoản viện trợ "
________________________________________
Chú thích:
(1) trong thư bạn của tác giả toàn dùng danh từ "mầy" và "tao" vì họ là bạn chí thân, nhưng trong bản dịch chúng tôi phải dịch là "anh" và "tôi"
(2) nguyên tác bằng tiếng Mỹ "who are still wet behind the cars" (có vẽ khinh bỉ)
(3) nguyên tác của tác giả : des jeunes enfants ignares
(4) nguyên tác của tác giả : "nouveaux imbéciles". Lá thư dùng đến 2 lần danh từ "imbéciles" .
(5) về tên của các tờ báo, chúng tôi không muốn dịch ra tiếng Việt, để cho các độc giả nhận diện được rõ ràng những tờ báo Mỹ đó.
CHƯƠNG MƯỜI BA
QUỐC HỘI HOA KỲ BÀN CÃI VỀ NGÂN KHOẢN, TRONG LÚC NGƯỜI DÂN MIỀN NAM LO CHÔN CON MÌNH
N gày hôm qua 16 tháng 4, ngỏ lời cùng Hiệp Hội các Chủ Báo Hoa Kỳ với tư cách là vị khách danh dự, Tổng Thống Gerald Ford tuyên bố là "sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam là không sao tránh khỏi được" Ông đã xác nhận :
"Theo các điều khoản của Hiệp Định được ký kết tại Paris ngày 27 tháng giêng 1973, trong khuôn khổ một sự thỏa thuận với Miền Nam Việt Nam , Hoa Kỳ đã cam kết cung cấp chiến cụ thay thế và ngân khoản viện trợ kinh tế cho họ. Tôi nghĩ rằng Liên Xô và Cộng Hòa Nhân DânTrung Hoa cũng đã có những cam kết tương tự như thế đối với Miền Bắc Việt Nam . Những cam kết nầy hình như đã được thực hiện. Điều bất hạnh là về phần cam kết của chúng ta, Hoa Kỳ đã không thực hiện được những lời hứa của mình. Nếu chúng ta thực hiện đúng lời hứa thì Miền Nam Việt Nam không gặp cơn khủng khoảng quá bi thảm như hôm nay. Tôi nghĩ rằng trong trường hợp đặc biệt đó, chúng ta không thể trách Liên Xô hay Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc được. Nếu chúng ta giữ đúng lời cam kết với đồng minh của chúng ta thì thảm trạng nầy tôi tưởng là có thể tránh khỏi được ."
Từ hai ngày nay, ông Kissinger và ông Schesinger, tổng trưởng ngoại giao và quốc phòng đã cùng với tướng Weyand, tham mưu trưởng quân đội Hoa Kỳ sau chuyến đi thanh sát Việt Nam trở về, đã phải tranh đấu "một trận cuối cùng về ngân khoản viện trợ" với Quốc Hội . Họ đã nhấn mạnh đến sự cần thiết để chấp thuận 722 triệu mỹ kim mà Tổng Thống đã xin, như là một "ngân khoản tối thiểu rất cần thiết cho cuộc phòng thủ Miền Nam Việt Nam ". trong đó 326 triệu để tái trang bị cho 4 sư đoàn , để tập họp các đơn vị lại và tái trang bị cho họ, phần còn lại sẽ cung cấp cơ phận thay thế và dụng cụ y khoa và thuốc men để có thể "hổ trợ được cho 60 ngày tác chiến mãnh liệt"
Ông Kissinger đã nói tới trách nhiệm tinh thần tuyệt đối là phải nâng đở một đồng minh đang trong cơn nguy kịch . Vừa làm giảm nhẹ những khuyến cáo từ trước của ông, Kissinger vừa nhấn mạnh là nếu Quốc Hội từ chối không bỏ phiếu thuận cho ngân khoản viện trợ đòi hỏi thì "niềm tin và danh dự của Hoa Kỳ dù không bị sụp đổ thì cũng sẽ bị giảm đi". "Nếu hai bên muốn tiến tới một sự thương thuyết với nhau thì ít nhất tình hình quân sự phải được ổn định, và nếu không có được sự ổn định tiên quyết đó , thì chỉ có một khả năng thương lượng duy nhất mà thôi, đó là sự thương lượng để đầu hàng !"
Sau khi họp kín, tiểu ban ngoại giao Thượng Viện đã thỏa thuận trên nguyên tắc "chấp thuận một ngân khoản khẩn cấp" là 200 triệu mỹ kim dành để di tản trong vòng trật tự những công dân Hoa Kỳ ở Sài Gòn và "vài người Việt Nam " có thể bị đe dọa đặc biệt đến tánh mạng.
Trong lúc các cuộc bàn cãi đó tiếp tục một cách tế nhị ở Hoa Thạnh Đốn , thì trận chiến vẫn tiếp diễn ở chung quanh Xuân Lộc, và hiện đang mở rộng ra trên 100 cây số về hướng Đông và hướng Nam của thủ đô Sài Gòn . Các khu trục phóng pháo cơ thuộc căn cứ Biên Hòa cứ bay lên và đáp xuống theo nhịp độ từng 2 chiếc một, cách nhau mỗi 3 phút một. Cứ phải có 3 phi công ứng trực để tuần tự thay phiên nhau trong 6 giờ cho mỗi chiếc khu trục.
Phía cộng sản họ có một lực lượng đại bác phòng không rất hùng hậu cơ động bằng xe kéo . Các phi công phải nhận lấy nhiều sự nguy hiểm không lường được để yểm trợ cho các đơn vị bạn dưới đất, như trong khu vực Bình Giã (cách Sài Gòn 120 cây số về phía Đông Nam ) binh sĩ đang đánh xáp lá cà với địch. Chỉ trong vòng 2 ngày pháo binh Bắc Việt đã rót 8000 quả đại bác xuống các vị trí của sư đoàn 18 bộ binh . Liên lạc truyền tin với Bộ chỉ huy của tướng Đảo. người có trách nhiệm mặt trận Xuân Lộc bị mất đi và sau đó được thiết lập lại được . Binh sĩ của ông bám lấy trận địa, chống cự hết sức mãnh liệt gần như điên cuồng, và không để mất một tấc đất nào mặc cho lửa đạn như bão táp liên tục được trút xuống vị trí của họ.
Sáng nay, tôi rời khỏi thủ đô và đã qua cầu Bình Lợi với một tóan 10 vị bác sỉ, do một người bạn của tôi hướng dẫn, bác sĩ Triễn. Ông bác sĩ 60 tuổi nầy là một người công giáo thuần thành, đã có 11 đứa con, có một đức tin và một tinh thần từ thiện không hề suy giảm, người ta thường gọi ông là "bác sĩ của người nghèo" vì ông từ chối không nhận một thù lao nào từ những người nghèo khổ mà ông thường chăm sóc mỗi ngày .
Qua cầu rồi chúng tôi đi theo xa lộ Đại Hàn, và đi khoảng 10 cây số thì đến một bìa làng Tam Bình, một đồn điền cao su chừng 30 mẫu có bóng râm, nơi đó có trên 20 ngàn dân lánh nạn đang ở đó: một đám người nghèo, khổ, ốm gầy, áo quần tơi tả, đi chân đất, toàn là đàn bà, trẻ con và người già. Hầu hết đều không có gì cả, có khi nằm ngay dưới đất, có người thì che tạm lều bằng một vài mảnh ván thùng, hay giấy bồi. Họ đến đây từ 10 tỉnh khác nhau, có nhiều người từ Quãng Trị và Huế, phải đi bộ trên 600 cây số mới đến được bờ biển rồi chen chúc nhau trên những chiếc thuyền đưa họ tới bến tàu ở Sài Gòn rồi từ đó nhờ những anh em công giáo đưa họ đến đồn điền cao su nầy, nơi đây ít nhất họ cũng tránh được hỏa tiễn và đạn pháo binh của Bắc Việt được trong vài ngày.
Các bác sĩ sấp xếp chỗ làm việc ở ngay bìa đồn điền, trống trải, để săn sóc cho các bệnh nhân. Hơn 800 người bệnh (rét rừng, sưng phổi, .. . . ) ngồi bẹp dưới đất yên lặng chờ đến phiên mình được khám. Trẻ con thì mình đầy ghẻ, mắt thì sưng húp lên vì nhặm, vì toét, hay run lên cầm cập vì rét rừng. Có nhiều bà bị thương và không được thay băng trong 3 ngày nay, nên vết thương hôi thúi không chịu được nhưng không nghe người nào than vãn một câu.
Một vị linh mục mặc áo chùng, vậm vỡ, đầu húi ngắn tới đây bằng mô tô. Vừa xuống xe là cả đám đông vây quanh ông, chào ông và lễ ông nữa. Đó là cha Joachim Châu, ở ngay họ đạo gần nhà thờ Đức Mẹ Fatima. Ông đi dài trên đường dọc theo các hàng cao su , và tôi đi theo ông . Ông nói với tôi :
- "Tình hình có vẻ khả quan hơn đôi chút rồi. Binh sĩ thuộc sư đoàn 5 bộ binh đã cho tôi 200 tấm lều cá nhân, và cho tôi mượn 3 xe bồn chứa nước.. Tôi lấy được của anh em thiết giáp 100 kí lô xà phòng và 200 cái thau nhựa của Mỹ. Phần các bác sĩ thì mang theo 500 kí thuốc men, nhưng chắc không đủ đâu, Ở đây đã có nhiều trường hỡp bệnh thiên thời và chúng tôi hết thuốc chủng ngừa rồi. Từ khi Nha Trang bị thất thủ, viện Pasteur ở thành phố đó không cung cấp được gì cho mình hết, và viện Pasteur ở Sài Gòn thì không thể cung ứng nổi nhu cầu đòi hỏi. Mỗi đêm, đã có từ 10 đến 12 đứa trẻ chết. Riêng tôi thì đang chờ đoàn xe chở gạo đến: ba chiếc ghe chài loại 10 tấn, có thể đủ để nuôi những người khốn khổ nầy trong 2 ngày ."
Ngay sát bên mấy lều đầu, khoảng 20 ông già cởi trần trùng trục lòi xương ra, đang dùng cuốc cặm cụi đào đất. Trước mấy hố vừa đào đó có hai hàng dài thây trẻ nít được quấn chiếu hay bọc ny lông trong suốt , đó là 13 đứa vừa chết đêm qua.
Ngồi trước thây của con mình, mấy bà mẹ đờ đẫn và im lặng không còn sức đâu mà khóc được nữa. Tôi đứng lặng người tại chỗ, không sao có được một cử động nào. Nói gì bây giờ đây ? và làm gì bây giờ đây ? Phải có một sức bật nào đó của cả thế giới để bốc tất cả những người nầy ra khỏi cảnh nghèo đói, sợ sệt và chết chóc ! Một ông già mặt mày nhăn nheo tiến đến gần tôi và nức nở nói với tôi:
-"Ông là một nhà báo Pháp phải không ? Ông hãy viết trên báo của ông là hãy giúp chúng tôi cứu những đứa trẻ nầy, chúng nó vô tội mà. Phải cho chùng nó một cơ hội để sống sót.. Còn chúng tôi hả, chúng tôi có thể chết, chúng tôi đã chịu quá nhiều thử thách rồi, quá nhiều điều khủng khiếp rồi, quá nhiều tang tóc rồi, nhưng chúng nó, chúng nó chỉ mới bắt đầu thấy ánh sáng, chúng nó còn quá yếu đuối. . . .Chúng tôi không còn sữa cho chúng nó nữa. Hằng ngày chúng tôi chỉ có thể cho chúng nó mỗi một chén cơm . Rồi đây trong vài ngày nữa, khi những cơn bão đầu tiên của mùa mưa ập xuống thì chúng sẽ nằm dưới bùn.Muỗi mòng sẽ hoành hành và con số tử vong sẽ tăng lên gấp 4 lần ! Tôi van ông, ông ơi, ông hãy làm một cái gì đi !"
Tôi lấp bấp một vài lời hứa. Cổ họng tôi co thắt lại, và tôi không có can đảm nhìn thẳng vào cặp mắt trang nghiêm chững chạc nhưng đầy vẻ thất vọng của ông già nầy.
Nếu chiến trận đến gần chỗ nầy, nếu đạn pháo hay rốc kết lại bắt đầu rơi xuống đây, xuống cái trại tạm coi là còn có cơ may cuối cùng nầy, thì những người khốn khổ kia sẽ đi đâu ? trong lúc họ gần như không còn sức để lê bước nữa ?
Linh mục Joachim Châu đã có dựng tạm một bàn thờ trên một cái bàn khập khiễng, đặt bộ đồ làm lễ bằng bạc lên tấm trải vá víu, rồi mặc lại bộ đồ giáo sĩ của ông, xong đâu đó ông bắt đầu làm lễ trên một vùng đất rộng đầy cỏ khô cằn. Rất thong thả và trong vòng trật tự, hàng ngàn tín đồ chạy loạn quỳ xuống thành một vòng chung quanh bàn thờ và lớn tiếng cùng cầu nguyện. Tất cả cùng nắm chặt tay nhau họ làm thành một sợi giây thiêng tôn kính, gắn chặt với nhau bằng sự nghèo khó khổ sở mà họ đang chia sớt với nhau. Từ những tín đồ công giáo rách tả tơi nầy, kết giây thân ái chặt chẽ với nhau trên mảnh đất khô cằn sỏi cát nầy, tôi thấy toát ra một cảm tưởng thật lạ kỳ đầy phẩm cách, đầy ước vọng làm cho người ta phải kính nể. Bị người đời và cả Chánh Phủ bỏ rơi, lạc loài lánh nạn trong một mảnh đất nhỏ bé đầy lùm bụi bị lãng quên, không ai biết tới nầy, xa đường, xa lộ, vắng vẻ không ai lui tới nầy, trong một giai đoạn chạy loạn mà không ai còn một món gì trong tay, họ chỉ còn biết giao số phận mình cho Chúa một cách mù quáng. Nhưng Chúa có còn nghe họ hay không đây?
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
"PHNOM PENH THẤT THỦ"
" MỘT TRIỆU CHỨNG ĐÁNG BUỒN CHO SAI GON"
Thứ Sáu, ngy 18tháng Tư năm 1975
P hnom Penh đã thất thủ. Bị vây trong năm tháng liền, bị pháo binh 105 và rốc kết nã vào, thủ đô Nam Vang của Campuchia đã chống trả rất can đảm trong vô vọng, Bây giờ thì coi như đã hết rồi .
Nhiều cánh quân kháng chiến, mặc quân phục bằng vải thô đen, đầu đội nón cối Trung Cộng, trang bị súng liên thanh và Súng Không Zdật (SKZ), đã tràn vào thành phố, Không đầy 48 giờ sau khi tòa Đại sứ Hoa Kỳ vừa mới di tản xong là Khmer Đỏ đã làm chủ đất nước Campuchia. Xuất phát từ trong rừng, từ những đầm lầy và từ đêm tối , họ đến Phnom Penh để trừng phạt bọn "phản động", đến để xóa hết tàng tích của bọn tham nhũng tư bản và để trị vì dân chúng Campuchia. Họ dùng bá súng đập phá hết cửa nhà của những người mà họ gọi là "trưởng giã", vứt hết các xe cộ, các máy chơi nhạc, những máy thâu thanh , những lò tự động của mọi người dân vào những bãi rác công cộng.Họ bắt buộc dân chúng ở thành phố mà họ gọi là đã quá hư hõng vì đồng tiền,vì phương tiện và những tiện nghi, phải đi hết về đồng ruộng.
Sự thất thủ của thủ đô Campuchia là một biến cố đe dọa nặng nề đối với Miền Nam Việt Nam . Mà còn hơn thế nữa với sự việc Khmer Đỏ đã chiếm được thành phố nầy và cái lối mà người Mỹ đã bỏ rơi thủ đô Pnhom Penh nầy , Sài Gòn đã có một cảm nhận rất nặng nề vừa như một xúc phạm , một sự sỉ nhục, vừa là một loại triệu chứng bất tường cho chính mình. Dưới sự bảo vệ của một lá chắn bằng khu trục phản lực cơ bay lượn thường trực trên vòm trời của sân bay Pochentong, gần bốn chục chiếc trục thăng đã đáp xuống một thành phố đang bị vây hãm và đang bị pháo kích, các Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ với một sự can đảm, một sự chính xác và một hành động khôn ngoan, đã bốc đi hết 82 người Mỹ và trên 100 cộng sự viên người Khmer. Nhưng hành động nầy không được đánh giá là một hành động đầy tính chất kỹ thuật quân sự mà phải được coi là một sự cố ý bỏ rơi một cách lạnh lùng, có tính toán và dự trù từ trước của Hoa Kỳ. Người Việt Nam không thể không liên tưởng đến một hành động song song giữa tình hình của Campuchia và tình hình của quốc gia họ. Họ sẽ nói: "Hoa Kỳ đã can thiệp quân sự ở Campuchia trong khi họ chánh thức tố giác sự hiện diện của các sư đoàn Bắc Việt trên lãnh thổ nầy. Họ đã cho quân đội và không quân tham chiến ở đây, họ đã nhìn nhận Chánh Phủ của Tổng Thống Lon Nol ngay sau khi ông Hoàng Sihanouk bị truất phế và lật đổ. Họ đã can thiệp vào nội bộ nước Campuchia. Đại sứ John Dean của họ đã tự coi mình như một viên quan thái thú, chấp chánh ở đây. Rồi đùng một cái, không có một lời báo trước không có một câu giã từ đối với những người mà họ bỏ rơi lại phía sau, họ rũ áo ra đi mà không muốn ở nán lại một giây nào nữa để tính sổ cho hành động can thiệp quân sự của họ ở đây: 5 năm cho cuộc chiến, năm năm tang tóc và điêu tàn, với bao nhiêu tỉnh thành làng mạc bị tàn phá, và một phần năm dân chúng bị chết hay bị thương,
Những cuộc tranh cãi kéo dài vô tận giữa Lập Pháp và Hành Pháp Hoa Kỳ về một sự "cần thiết tối khẩn" cho một ngân khoản viện trợ cho Phnom Penh, cuối cùng bị ngưng trệ vô điều kiện vì những người có trách nhiệm của Hoa Kỳ , đã thực sự báo động cho dân chúng Miền Nam Việt Nam . Họ còn bồn chồn lo sợ hơn nữa khi thấy sự phản đối công khai và hiển nhiên của đa số Quốc Hội Hoa Kỳ đối với những đòi hỏi nhắc đi nhắc lại của Tổng Thống Ford mong muốn giúp cho Sài Gòn, cũng như một cuộc thăm dò dư luận gần đây của đài NBC theo đó 70 % dân chúng Mỹ tin chắc rằng dù Hoa Kỳ có làm gì đi chăng nữa thì cũng không thể ngăn cản được Miền Nam Việt Nam bị rơi chắc chắn vào tay cộng sản . Những người Việt Nam đang lo sợ nhất là những người thuộc mấy thành phần rõ rệt sau đây: nhiều nhất trước hết là những người trực tiếp làm việc trong các cơ sở dịch vụ của Hoa Kỳ - như phòng thông tin tuyên truyền và báo chí - các nhân viên tòa đại sứ, các nhà trí thức, các giáo sư, các nhà xuất bản hay chánh trị gia đang hoạt động (số nầy hơn 40.000) kế đó là những nhà hào phú: các ông giàu có nhờ biết lợi dụng chiến tranh (cũng đến hằng ngàn ) đang tìm cách mua giấy phép xuất cảnh hay giấy chứng nhận là công dân ngoại quốc với bất cứ giá nào. Ngoài ra còn có tất cả cán bộ các cấp trong guồng máy quân sự và hành chánh của Miền Nam Việt Nam các sĩ quan cao cấp, sĩ quan an ninh quân đội , tỉnh trưởng hay quận trưởng, thanh tra cảnh sát. . . những người đang lo sợ nếu cộng sản chiếm được Miền Nam . Con số những người nầy cũng từ 150.000 đến 200.000. Đối với 20 triệu dân thì con số nầy chỉ đại diện cho một thiểu số mà thôi (chừng 1 %).
Hầu hết dân chúng Miền Nam khiêm nhường và siêng năng đều gắn liền với đồng ruộng của họ. Họ không muốn tự đặt mình dưới sự cai trị của quân thù, nhất là những người đến từ Miền Bắc. Bằng chứng là đã có hằng bao nhiêu ngàn nguời dân sống chết cũng phải bỏ chạy. Họ không chạy đến những người tự xưng là "giải phóng cho họ" và họ cũng không chờ đợi những anh "giải phóng" nầy ở tại làng của họ. Tất cả họ đều kéo nhau chạy về Sài Gòn vì bàn tay sắt khát máu của cộng sản đã làm cho họ run sợ.
Hơn nữa, tránh được làn sóng hoảng loạn lan truyền trên khắp miền Trung của đất nước, Miền Nam đang cứng rắn chịu đựng mối đe dọa của các sư đoàn Bắc Việt.Ý thức kỳ thị và óc địa phương đã bắt rễ thật sự rồi! Sài Gòn và Đồng Bằng Cửu Long là vùng đất cũ của người Nam Bộ, và họ muốn giữ lấy cho họ. Quân dội Miền Nam sẽ đánh và sẽ cố giữ từng tấc đất của họ. Các đơn vị địa phương quân tình nguyện tham gia các cuộc hành quân. Tại Vùng 4, tướng Nam giữ chặt tính chủ động, đường sá vẫn được mở cho mọi sự lưu thông và Sài Gòn vốn được tiếp tế đều đặn, không thấy có dấu hiệu hoảng hốt nào.
Chánh Phủ mới, một "Chánh Phủ chiến đấu" , cuối cùng đã được thành lập xong. Thành phần gồm có những người liêm khiết, những kỹ thuật gia có giá trị, những người lãnh đạo các trường đại học, các lãnh tụ tôn giáo, công đoàn và lần đầu tiên hầu hết đều là những người gốc Miền Nam . Nhưng dù cho có một sự hợp tác rộng rãi của mọi thành phần dân chúng, dù binh sĩ có đầy đủ tinh thần can đảm và ý chí chiến đấu, tương lai gần đây của Miền Nam vẫn phải tùy thuộc vào thái độ của người Mỹ. Muốn đương đầu với môt kẻ thù cứng rắn và cương quyết, được võ trang thật hùng hậu, lại được các đồng minh lớn Liên Xô và Trung Cộng hậu thuẫn vô điều kiện, Miền Nam cần phải có thêm thật nhiều võ khí nặng, đạn dược, cơ phận thay thế và xăng dầu. Chỉ có Hoa Kỳ là có thể cung cấp được ngần ấy thứ mà thôi. Báo chí Mỹ loan báo là Quốc Hội sẽ cho biết quyết định của họ vào ngày mai 19 tháng 4.
Nếu các nhà Lập Pháp Hoa Kỳ chấp thuận giải tỏa ngân khoản do Tổng Thống Ford đề nghị, thì Chánh Phủ chiến đấu mới thành lập nầy còn có cơ may làm tròn nhiệm vụ của họ được. Nhưng nếu không có một sự trợ giúp về tiếp vận và tài chánh, thì Chánh Phủ này sẽ chỉ là một Chánh Phủ chyển tiếp mà thôi, đối diện với một thảm kich tấn thối lưỡng nan: hoặc bán đứng Miền Nam và đưa Miền Nam cho Hà Nội giám hộ, hoặc chống cự lại như kiểu Campuchia với cái giá cuối cùng của một sự tắm máu thật kinh khủng.
Những tin tức từ mặt trận đưa về thường không đầy đủ. Ba sư đoàn Bắc Việt được rút ra từ sau khi Campuchia bị hoàn toàn thất thủ, đã được tung ra để cô lập hoàn toàn tỉnh Tây Ninh, thủ đô tôn giáo của Đạo Cao Đài nằm về hướng Bắc của Sài Gòn khoản 100 cây số. Bốn sư đoàn khác tiến về hướng Đông cốt đánh bật chốt Xuân Lộc . Trong khu vực nầy lực lượng Miền Nam ngày hôm qua đã thành công giành được chút không khí khi họ tiến lên phía trước khoảng 10 cây số, nhưng sau đó bị Bắc Việt cầm chân bằng nhiều cuộc phản công, đồng thời các đơn vị Bắc Việt đã lợi dụng sự cầm chân nầy để tiến đánh bọc hai bên sườn quân Miền Nam .
Hai Trung đoàn thuộc sư đoàn 7 Bắc Việt khóa cứng ngã ba Dầu Dây (Suzannah) đồng thời tiến về hướng Trảng Bom. Quân Chánh Phủ tung ra lực lượng trừ bị cuối cùng: sư đoàn 5 và một lữ đoàn Dù.
Chánh quyền quân sự đã phải cho lệnh về an ninh trở lại cho dân chúng: đào hầm trú ẩn, thành lập các toán phòng thủ thụ động và cứu thương.
Chiếc tàu hàng già nua Taboa đã phải ngược dòng sông Sài Gòn mang thuốc men và dụng cụ giải phẫu cho các bác sĩ Pháp thuộc bệnh viện Grall.
Lúc nãy, tôi có gặp được bạn tôi là ông Hoàng đức Nhã, cựu bộ trưởng Thông Tin, ở tại biệt thự của ông trong khu vực của bệnh viện Grall. Ông có vẻ bận rộn nhưng cũng tâm tình với tôi một vài điều:
" Ngưòi Mỹ chơi trò lạ lùng lắm . Họ không bao giờ ngưng tiếp xúc với "phía bên kia". Phương tiện họ dùng cũng giản dị thôi . Hằng tuần vẫn có một chiếc phi cơ Mỹ do người Mỹ lái ra Hà Nội . Phi cơ đó chở những nhân viên đi phép thuộc phái đoàn quân sự Bắc Việt trong Ủy Ban Kiểm Soát Ngừng Bắn đang đóng ở Tân sơn Nhứt. Chúng tôi biết là viên phi công Mỹ lái chiếc máy bay liên lạc nầy, có mang theo một số thư mật của Kissinger gởi cho Thủ Tướng Bắc Việt . Chúng tôi biết từ một nguồn tin chắc chắn là cách nay mấy ngày có một đặc phái viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đến Hà Nội , mang theo một lá thư của Chánh Phủ Hoa Kỳ . Bức thư đó đã bảo đảm với Bắc Việt rằng trong trường hợp quân đội Miền Nam sụp đổ hoàn toàn, thì Hoa Kỳ sẽ cho rút hết toàn bộ nhân viên của sứ quán Mỹ ở Sài Gòn " với điều kiện là lực lượng cộng sản không được bắn vào các trực thăng chuyên chở đang lo việc di tản nầy ". Để cho lời cảnh cáo nầy được thêm nặng ký, bức thư nầy cũng có nhấn mạnh với lãnh đạo Hà Nội rằng : "các pháo đài bay B.52 hiện đang đậu trên căn cứ ở Thái Lan và hạm đội VII với tất cả các hàng không mẫu hạm của mình đã ở trong tình trạng báo động." Bất cứ một sơ suất nhỏ nào của bộ đội Bắc Việt cũng sẽ dẫn đến những hành động trả đủa thật ghê gớm."
Tin tức nầy có thể là một "ngòi nổ" lớn được lắm đó, nhưng tôi tin chắc rằng người Mỹ sẽ đính chánh ngay thôi, và dù sao hệ thống kiểm duyệt của Chánh Phủ cũng phải xóa ngay điện tín của tôi. Và hơn nữa tôi không có môt phương tiện nào để kiểm chứng hay phối kiểm được..
Không còn nghi ngờ gì nữa, những ngày sắp tới sẽ là những ngày quyết định. Trong khi chờ đợi, biện pháp duy nhất để tránh sự ám ảnh về sự bí mật và nguồn tin nầy là phải ra sát mặt trận.. Bài toán tương đối cũng không khó giải quyết: chiến trận chỉ còn cách đây chưa tới một giờ lái xe. Ở một vài điểm người ta đang đánh nhau chỉ cách thủ đô chừng 40 cây số.. Tại Biên Hòa pháo binh bắn gần như liên tục, không ngừng. Pháo binh cộng sản thì nã vào các vị trí (đồn) của bộ binh canh gác hay phòng thủ chung quanh vòng đai căn cứ không quân, và pháo binh của Chánh Phủ thì bắn phản pháo.. Những quả đạn pháo 130 ly của Liên Xô chạm mục tiêu nổ rền trời và làn sóng âm thanh vang dội nặng nề trong vòng hàng trăm thước chung quanh..
Trên các đường bay của căn cứ không quân, trông thật là nhộn nhịp trong không khí chiến đấu. Các chiến đấu phóng pháo cơ bay lên và đáp xuống với một nhịp độ 3 chiếc mỗi 5 phút. Các phi công với quần áo bay và súng cá nhân nai nịch gọn gàng lúc nào cũng sẳn sàng chờ bay ngay tại phi cơ của mình, trong lúc mà các thợ máy và các nhân viên lo đổ xăng và tiếp thêm đạn dược, sau đó cất cánh ngay sau khi thấy chiếc phi cơ của mình đã được đầy đủ bom và rốc kết.
Có nhiều anh phải bay đến 8 phi vụ mỗi ngày.
Đối với anh em phi công, chuyện quan trọng là phải định được vị trí của ánh sáng lóe lên lúc đạn đại bác của pháo 130 liên xô được bắn vào căn cứ của mình, để họ có thể dùng vài tràng đại liên chính xác, vô hiệu hóa khẩu đại bác đó. Nhiệm vụ không phải dễ dàng lắm.
Những phi cơ quan sát nhỏ hơn và các trực thăng thay phiên nhau để có mặt thường trực trên vòm trời căn cứ và đặc biệt canh chừng khu vực rừng Tri Han. Các khẩu pháo130 được ngụy trang rất kỹ duới các tàng cây to cứ mỗi 2 phút bắn đi hai tràng 6 viên đạn đại bác vào căn cứ rồi sau đó thì chạy ngoằn nghoèo di chuyễn đi tìm chỗ khác cách đó từ 2 hay 3 cây số.. . .
Tôi phải chờ ở đây lâu đến 2 tiếng đồng hồ để tìm trực thăng đi Xuân Lộc, nhưng vô ích, nên tôi đành phải dùng xe đến Hố Nai, một cộng đồng 60.000 giáo dân tỵ nạn từ Miền Bắc vào năm 1954.. Người ta gọi Hố Nai là "Hà Nội nhỏ", gồm có một cuộc đất cao và một cuộc đất thấp; đây là một thị trấn nhỏ nhưng rất năng động, đông dân, và quy tựu chung quanh các thánh đường (gần 20 nhà thờ), mỗi khu có một nhà thờ riêng, có linh mục riêng tuy ốm yếu nhưng được mọi người tín đồ tin theo một cách mù quáng.
"Chúng tôi chỉ tin chắc có một thực tế, Cha Sửu nói với tôi, là chúng tôi phải chiến đấu. Chúng tôi không có con đường nào khác để chọn lựa, chúng tôi đã từ bỏ Miền Bắc hai chục năm nay
rồi, để chạy khỏi chế độ cộng sản . Khi chúng tôi đến đây, chúng tôi chẳng có gì. Không tiền bạc, không dụng cụ. Chúng tôi chỉ mang theo với chúng tôi những cái chuông bằng đồng của
các nhà thờ cũ của chúng tôi , những tượng thánh bằng gỗ chạm và vật dụng làm lễ. Chúng tôi đã xây cất thánh đường mới, cất nhà cho chúng tôi , trồng vườn cây ăn trái và những vườn
hoa nầy cưốp đất từ những cánh rừng nầy, và chúng tôi có phải chết thì sẽ chết ở đây thôi !"
Giáo dân ở đây rất có kỷ luật, rất siêng năng, và được tổ chức rất chặt chẻ, đoàn kết với nhau chung quanh các giáo xứ có ảnh hưởng còn hơn Chánh Phủ nữa. Giờ đây họ đang chuẩn bị để chiến đấu. Để chứng tỏ ý chí chiến đấu và lòng tin vững mạnh của mình, các linh mục mời những đồng bào tản cư từ vùng Xuân Lộc hãy ở lại Hố Nai, Có hằng ngàn người được chia ra ở trong những lều thấp được dựng lên quanh các nhà thờ, hay dưới sân trường học, được giáo dân và hướng đạo sinh săn sóc cho họ chu đáo.
Ông xã trưởng Nguyễn xuân Phiệt đã khẳng định với tôi : " Không có một người nào sẽ rút lui. Tôi có 4 tiểu đoàn nhân dân tự vệ và xin tỉnh trang bị cho chúng tôi . Chúng tôi muốn có súng không zdật, súng liên thanh nặng và súng M.16. Nếu được trang bị như vậy chúng tôi sẽ dùng nhà thờ làm căn cứ để giữ vùng nầy. Nếu không thì chúng tôi cũng sẽ chiến đấu nhưng với súng ống xấu hay bằng vũ khí thô sơ . Chúng tôi không có gì phải nói với bọn Quốc Hội Hoa Kỳ và Tổng Thống Ford của họ. Mọi người đều nói nhiều quá, nhưng lời nói không dùng được việc gì hết. Bây giờ chỉ có hành động mà thôi. Mỗi gia đình của chúng tôi đều đã mất hoặc một người con trai, môt đứa em hay một người cha, hy sinh trong chiến trận, trong hàng ngũ của quân đội . Nếy Hoa Kỳ giúp chúng ta thì cũng tốt nếu họ bỏ rơi chúng ta thì cũng tốt thôi, không có gì gọi là quan trọng hết.. Tựu trung coi như chúng tôi không còn đất để mà lui nữa. Chúng tôi sẽ ở nguyên tại đây để chứng tỏ đức tin của chúng tôi . Chúa sẽ là chỗ dựa duy nhất của chúng tôi và chỉ có Chúa là không bao giờ phản bội chúng ta ! .
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
THỜI KỲ CỦA NHỮNG TRÁI BOM "THÍ NGHIỆM"
Thứ Bảy, ngày 19 tháng Tư
Ở đầu một đường bay, những người lính chữa lửa đang chữa cho một phi cơ phản lực 2 động cơ, bị trúng một hỏa tiễn SA.7 của Liên Xô lúc mới vừa cất cánh . Cạnh một chiếc xe vận tải tôi nhìn thấy 4 bao ny lông dài đã đóng kín. Đó là những gì còn nhặt lại được từ thân thể của phi hành đoàn 4 người .
Vào lúc 2 giờ trưa, tôi lại lên được một chiếc phi cơ vận tải "chinook" để bay lên vùng mặt trận. Tôi được tháp tùng với khoảng 40 anh em biệt kích người vậm vở, gọn ghẽ trong bộ quân phục đen, được trang bị súng phóng lựu và tiểu liên 45 ly ngắn nòng M3 A.1 bá xếp. Huy hiệu mà họ mang trên tay áo là một con ó và một chiếc dù được thêu trong một hình tam giác, chỉ cho tôi biết họ thuộc lực lượng biệt kích dù Lôi Hổ (cọp bay). Đây là một đơn vị đặc biệt, chuyên hành quân ban đêm từng toán 3 người một, trong vùng địch, có nhiệm vụ tìm vị tríđịnh, các trục tấn công của địch, sau đó báo cho pháo binh và không quân bạn để có hành động phản ứng kịp thời.
Giờ đây tôi lại đang trên đường đi đến Xuân Lộc : đây là lần thứ ba trong tám ngày nay tôi lên khu vực nầy, mà lần nầy thì chuyến đi có vẻ thoải mái và anh em đoan chắc với tôi là đến một vị trí tương đối yên tĩnh và sạch sẻ hơn . Chiếc trực thăng bay độ 15 phút thì đến vùng Xuân Lộc , bay trên quốc lộ 1 và ngoặc hẳn về hướng Đông, hạ thấp xuống độ 700 bộ đến một vườn cao su bạt ngàn thẳng tấp.
Chiếc "chinook" xuống rất nhanh. Từ trên nhìn xuống, Xuân Lộc ít nhất nếu còn gì thì cũng chỉ có một quang cảnh mờ nhạt. Rất lo ngại tôi ghi nhận là có nhiều chùm lửa, cột khói do đạn pháo cứ rơi đều xuống vòng đai đã bị tàn phá. Chiếc "chinook" của chúng tôi hạ cánh đáp xuống làm tung bụi mù đỏ thẳm. Khoảng 50 người dân rách rưới chạy lại bao quanh chiếc trực thăng. Có nhiều người đã bị thương ; và vẫn một cảnh tượng cũ : các bà mẹ bế con trẻ áo quần đầy máu, vẻ mặt hốt hoảng đang muốn đi khỏi đây. Một chiếc xe Jeep, chạy gần như nhảy qua các đống gạch vụn, chở tôi đến một trạm cứu thương.
Mỗi một làn gió nhẹ đưa tới là có một mùi hôi thối kinh người từ mấy trăm xác chết của cộng sản Bắc Việt đầy ruồi nhặng xông lên.. Một người y tá nói với tôi :
- "Chúng tôi làm gì có thì giờ để chôn cất họ, chỉ kịp rải lên mình họ một lớp vài vá cát đá vụn mà thôi".
Ở trạm cứu thương nầy đầy những quân nhân bị thương. Có hai vị bác sĩ trẻ đang làm những gì mà họ có thể làm được dưới một ánh đèn mờ màu xanh. Họ gọt, họ cắt xén, khâu lại, hay cưa bỏ... Có nhiều người mang những vết thương kinh hoàng đầy mủ trắng. Các tay chân bị cắt được vất lẫn lộn vào một thùng phuy xăng mà các anh y tá đã mang tới lúc còn đầy xăng. Các mảnh vụn khác thì được chôn ở một hố được đào lên cách đó chừng 20 thước có tưới thuốc khử trùng và được lấp đất lại cẩn thận.. Ngoài sân trời đang vần vũ , mấy đám mây đen kịt đang là đà dưới chân trời. Cơn bão lại sắp đến.
Tôi cố tìm đại tá Phước, chỉ huy trưởng đơn vị biệt động quân . Một trung sĩ cho tôi biết là ông đang ở gần nhà bưu diện, nơi sắp có cuộc đụng độ mạnh. Mưa đã bắt đầu rơi nặng hột xuống mảnh đất khô khan đầy máu nầy, và sau đó thì mưa to, mưa quá to và chỉ trong vài phút đã làm ướt ngập trũng hết nơi đây. Anh em binh sĩ ai cũng phải choàng áo đi mưa vào. Hằng đàn chuột to từ những lổ cống hay từ các bức tường sập tuông ra. Có đến hằng ngàn con xám đen, từng đàn, lì lợm tuông ra từ những đống thây ma chôn vội vàng.
Một sĩ quan biệt động quân dẫn tôi đi và bắt tôi phải ẩn nấp trong một hầm trú ẩn lụp xụp trong đó có khoảng một tiểu đội với súng liên thanh nhẹ được bố trí đạn đã lên lòng.. Viên trung úy liên lạc vô tuyến. Mưa càng ngày càng to. Các anh em binh sĩ dù nằm hay ngồi dựa lưng sau bức tường sập tất cả ai cũng đều trong tư thế sẵn sàng chờ chiến đấu.
Vào lúc cơn mưa bão đang hoành hành, một tràng đạn rốc kết bay xuống nhà bưu điện và tất cả những vùng quanh đó. Tất cả phải chen nhau xuống hố chiến đấu đầy bùn đầy nước nhầy nhụa hay nấp trong những ô tường không nóc để chịu trận, nghe tiếng gầm rú xé tai và tiếng nổ chát chúa của các quả rốc kết. Và sau rốc kết lại đến phiên đạn bách kích pháo, khô khan hơn, chát tai hơn và chính xác hơn. Và thình lình, nhìn xuyên qua cơn mưa tầm tã, xuất hiện những bóng người mặc quân phục xanh sậm. đội nón cối tròn, sát cánh nhau đi tới: đó là bộ đội Bắc Việt đang tấn công. Họ đến từ dường rày xe lửa. Viên trung úy ra hiệu và các súng liên thanh bắt đầu đua nhau nhả đạn. Toán nầy ngã gục nằm xuống lại có toán khác tràn lên. Họ tiến vào bưu điện. người ta nghe được nhiều loạt nổ của lựu đạn trong nhà bưu điện, và hai tiếng nổ thật lớn sau đó. Một mảnh tường bay lên vụn vằn. Đó là 2 tên đặc công cộng sản đang mở đường bằng cốt mìn. Một toán người nhỏ thó đang tràn vào nhà bưu điện. Cùng lúc với cứ điểm nầy, nhiều loạt tấn công khác đã được tiến hành.
Cộng sản Bắc Việt hiện đang ở thế mạnh. ít nhất củng phải đến một tiểu đoàn. Họ bắn liên tục không ngừng. Lần xung phong sấp tới, chắc là đến lượt chỗ của chúng tôi . Nhưng một hàng rào chính xác và hữu hiệu của đạn pháo 105 ly trên chiến xa ở phía sau chúng tôi chừng 800 thước đã cứu vãn tình thế. Những trái đạn đi rồi nổ trước mặt chúng tôi làm chúng tôi muốn ngưng thở, nhưng đã sát hại kinh khủng hàng ngũ của cộng sản . Qua 10 phút bắn cuốn chiếu, pháo đội ngưng bắn. Các biệt động quân ra khỏi hầm trú ẩn và phản công. Những gì còn lại của nhà bưu điện đang cháy như một ngọn núi lửa. Đến 5 giờ chiều, tất cả coi như xong.. Châu vi bãi chiến trường gần như quang đãng, cơn bảo củng đã qua, bầu trời lại xanh trở lại. Một sự yên tĩnh không tả được đang ở đâu đây, chung quanh chúng tôi .Chỉ có một con chó phèn duy nhất đang đau khổ chạy quanh khu nhà sập đổ nát, kêu la ầm ĩ vì bị các mảnh đạn trên lưng.
Tôi quay trở lại bản doanh của sư đoàn . Dưới chân của tượng Chúa trước nhà thờ, một anh lính Dù đội mũ nồi đỏ đang quì cầu nguyện, hai tay chấp lại nhưng vẫn tì trên khẩu súng của mình..Tôi có cảm tưởng là thành phố nầy đã bị cày xới lên bằng máy ủi . Tất cả chỉ còn là những đống gạch vụn của các bức tường đổ nát, các tấm tôn và gạch vữa bị nhào đi nhào lại với nhau rải rác thành từng đống một, và trên tất cả là chiếc thánh giá của nhà thờ với tường lỗ chỗ dầy vết đạn, và những lỗ hổng tác hoác. Trong dãy nhà của trường đạo đầy lỗ thủng đạn, tôi gặp đại tá Hiếu, 40 tuổi, quân phục vẫn láng cót, với chiếc nón vải đi rừng nhưng vẫn có khẩu súng lục đeo ngang lưng. Ông rất tự hào về trung đoàn 40 của ông, đơn vị đang phòng thủ cả mặt Nam của thành phố. Ơng ta nói:
"Anh biết không , chúng tôi có thể đánh họ chớ sao không . Chúng tôi đã đẩy họ ra khỏi thành phố rồi đấy chứ, và chúng tôi không rời khỏi thành phố nầy đâu. Giả thiết mà chúng tôi có được một số đại bác 130 quỷ quái mà họ dùng để nã vô tội vạ vào chúng tôi! Tinh thần dù sao cũng vững lắm, Chúng tôi đã lãnh đủ 12 ngàn quả đạn pháo và ba ngàn quả rốc kết từ ngày 9 tháng 4 đến nay. Cộng sản đã tấn công chúng tôi 6 trận trong 8 ngày nay. Chúng tôi đã đẩy lui được hết, nhưng trận tấn công quyết liệt nhất chưa đến đâu. Tôi chắc chắn là nó cũng sẽ đến gần đây thôi .
Trong vài ngày nữa đây, thế nào họ cũng gom lực lượng của họ lại bằng cách tập trung các sư đoàn được rảnh tay sau khi các tỉnh ở Miến Trung bị thất thủ, và đây có lẽ sẽ là trận chiến cuối cùng. Nếu chúng tôi chịu không nởi, thì Sài Gòn chắc không đứng được lâu đâu."
Sau hai giờ tôi vừa sống ở đây, thật tình tôi không muốn nghĩ tới "trận chiến cuối cùng" nó sẽ như thế nào.
Phía ngoài, giữa nhà thờ và những gì còn lại của các văn phòng hành chánh, các chiến binh Dù, những người đã đụng trận nặng hồi đêm qua, đang nằm dài nghỉ ngơi dưới đất ở bìa sân bay. Có 3 người trong số nầy gác súng của họ vào môt cái cây và họ ngồi cạnh nhau, vừa đàn gui ta vừa hát nho nhỏ theo tiếng đàn.. Trông họ cũng đã có tuổi rồi. ..
Tôi rảo chân đi về phía chợ. Binh sĩ thuộc khu phòng thủ trung ương nầy được rải dài ra trên năm trăm thước khỏi nhà thờ (đã bay hết nóc, kính thì củng vỡ tan, tường rạn nứt), nằm vững chắc trong những hầm núp kiên cố, có bao cát che đầu được sấp trên các tấm đan bằng bê tông, tất cả đều có đường dây điện thoại chôn duới đất nối liền với nhau. Các vị trí nầy đều tua tủa súng liên thanh, súng phóng hỏa tiễn chống chiến xa, và đại bác không dật. Các chiến xa M.48, có trang bị đèn chiếu hồng ngoại tuyến cho đại bác để tác chiến ban đêm đang bố trí dài theo hai bên bệnh viện có một đại đội Dù trấn giữ.
Đến 6 giờ chiều thì tôi mới được gặp đại tá Phước, ông đi thanh sát các tiền đồn vừa mới trở về. Là một sĩ quan với diện mạo và tướng đi trông rất trẻ trung, 39 tuổi, người chắc nịch như một trụ đá, ông Phước không bao giờ đeo súng hay nón sắt tác chiến. Chúng tôi đã biết nhau từ trận tấn kích Tết Mậu Thân của cộng sản . Lúc đó ông chỉ huy các liên đội biệt động quân đến thay thế các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến ở Chợ Lớn. Ông đã có tiếng là một sĩ quan đặc biệt liêm khiết, ham tiến chớ ít chịu lùi, nhưng biết tiết kiệm gìn giử từng mạng sống của binh sĩ mình. Sau đó tôi lại gặp ông ở Neak Luông, nơi đó các đơn vị Miền Nam đã thiết lập một căn cứ lớn trong chiến dịch tấn kích lên CampuChia. Đại tá Phước nắm tay tôi và nói :
-" Vào đây, vào phòng hành quân của tôi, chúng mình sẽ ăn một chén cháo gà với nhau đã . Tôi chưa có ăn gì cả từ sáng đến giờ, đói muốn chết đây bạn "
Phòng hành quân (phòng chỉ huy) của người chỉ huy biệt động quân nầy nằm ngay trước chợ, trong một nhà xe được tổ chức cẩn thận lắm, có rào kẽm gai và có gài lựu đạn, xem còn nguyên trạng. Các tường được tăng cường bằng các khúc gổ tròn, các khúc sắt đường rầy xe lửa và những tấm thép dày. Trên bàn có gắn những tấm bản đồ của từng khu vực của thành phố được vẽ lớn và ghi chú rõ bằng tay và có cả đèn măng sông soi sáng. Một chiếc tủ lạnh chạy bằng dầu đang ướp lạnh các thùng bia. Nhà bếp có năm cái lò bằng đất nung nằm gọn trong góc, không tốn chỗ bao nhiêu. Các sĩ quan thì nằm trên chiếu thường. Ông Phước dẫn tôi đến một chỗ trống, chỉ có một cái bàn thấp, trên đó có một bình trà và mấy chén cháo nóng có vài cọng rau thơm và ớt. Chúng tôi ngồi bẹp xuống ăn. Phước ăn vội tô cháo của anh, uống một tách trà nóng, xong dựa lưng vào vách và nói: xà ngang của đường rầy lấy được bằng cách tháo gở đường xe lửa cũ . . .
Anh rót thêm một tách trà, hớp từng ngụm và tiếp tục:
- " Trước hết, chúng tôi thiếu cái gì ? Đó là một sư đoàn hành quân di động tốt. Bao giờ chúng tôi mới thật sự đánh úp họ được và bẻ gãy các cuộc tấn công của họ được .Nhưng chúng tôi không - " Như vậy là anh tới thăm tôi ? Tướng Đảo có nói với tôi là anh đã tới đây 3 hôm trước . . . Ê, được lắm ! Tình hình càng ngày càng quyết liệt hơn rồi đó. Trên phương diện giá trị chiến đấu của binh sĩ, tôi không có gì lo ngại hết . Anh em Dù và Biệt động quân đều có cú đấm của mình, và sư đoàn của tướng Đảo là một đơn vị ưu tú. Trước mặt chúng tôi là bộ đội Bắc Việt còn rất trẻ nhưng thiếu kinh nghiệm hơn chúng tôi, nhưng họ có quân trừ bị quan trọng, và có lực lượng tăng cường cho họ đều đều. Vì không có đầy đủ quân số cần thiết nên chúng tôi phải nằm cứng ở thế phòng ngự và vì thế bị chúng nó tấn công có phương pháp. Kết quả là chúng tôi phải đào lỗ và sống như những con chuột chù và thiết trí những hầm trú ẩn hay đường hầm tác chiến nhờ có các nên nằm mơ ! Tướng Đảo đã cố gắng gần một tuần nay để đem về lại Trung đoàn 43 của ông (trung đoàn thứ ba của sư đoàn ) đang bị cầm chưn ở Củ Chi. Bộ Tư Lệnh đã từ chối, và ông rút trung đoàn về không được . Nhưng còn một bài toán rất trầm trọng hơn nữa, đó là vấn đề tiếp vận . Tôi sẽ cho anh một vài con số. Hiện giờ cấp số đạn của chúng tôi, mỗi binh sĩ chỉ có được 100 viên đạn và hai trái lựu đạn mỗi ngày. Với khẩu súng tự động M.16 (nhịp bắn thực dụng là 400 viên / phút ) 100 viên đạn thật ra là không có gì cả ! Lúc còn người Mỹ ở đây, không có một binh sĩ nào có dưới 400 viên đạn khi đi hành quân. Cấp số tổng quát cho vòng đai phòng thủ là 15 tấn. Với 20.000 người trên mặt trận, thì phải có 50 khẩu pháo binh, chưa kể bách kích pháo, như vậy là chỉ tính cho một giờ tác xạ mà thôi đó nghen. Anh em pháo thủ của chúng ta không thể nào thực hiện được những tác xạ "ngăn chận" nhằm dùng hỏa lực của mình để đánh vào những trục tiến quân của địch và ngăn chận được sự tập trung của địch ở những tuyến xuất phát. Chúng tôi xoay sở bằng cách gài mìn cá nhân và tăng các đội tuần tiễu của biệt động quân trên những đường tiến sát hay đường xâm nhập của địch mà thôi. Khi họ ghi nhận hay khám phá được một sự di chuyễn của địch thì họ gọi Không quân. Còn thì chúng tôi phải ấn định một kỷ luật tác xạ thật khắc nghiệt. Pháo binh chỉ tác xạ chận các đợt xung phong của địch, và bộ binh thì chỉ bắn diệt địch thật hữu hiệu ở tầm gần. Đây là một chiến thuật có nhiều nguy hiểm bởi vì mình phải chở cho các làn xung phong của địch đến thật gần, ở cự ly xáp lá cà mới được bắn. Hiện giờ thì coi như cũng được đi vì binh sĩ của chúng tôi toàn là dân thiện chiến, không hốt hoảng và chịu nằm yên dưới làn đạn pháo binh của địch. Nhưng chuyện đó không thể kéo dài tuần nầy qua tuần khác dài dài như vậy được . Chúng tôi mất từ 60 đến 80 mạng hằng ngày như vậy, chỉ tính riêng cho Dù và Biệt động quân thôi đó. Và một người lính thiện chiến già dặn khó mà tìm được người thay thế lắm !
- Anh đã bi quan rồi sao đó ?
Phước nở một nụ cười có vẻ ngạo nghễ :
- " Bi quan hả ? nó có nghĩa gì ? Chúng ta đang ở trong thời chiến. Không có ba mươi sáu giải pháp đâu. Chỉ có thắng, hay bại hay chết mà thôi. Tướng Đảo có chín người con, tôi thì có năm. Gia đình chúng tôi ở Sài Gòn . Cả anh em binh sĩ của tôi cũng vậy. . . . và chúng tôi không muốn bị bọn Bắc Việt khốn kiếp nầy đè bẹp. Có thế thôi.
- Anh nghĩ là bọn cộng sản sẽ làm gì ?
- Ồ, đâu có gì hơn đâu ? Họ đang cố gắng bóp cổ chúng tôi . Họ cắt đứt đường ở phía sau lưng của chúng tôi để ngăn chận không cho đạn dược tới được . Họ tiếp tục dập chúng tôi bằng pháo 130 ly và tập họp 5 sư đoàn lại để cuối cùng họ nghiền nát chúng tôi . Trong khi chờ đợi giây phút đó, tôi cố gắng không cho mất cái mạng nầy. Tôi cho cái mũ nồi nâu của tôi đi dạo khắp nơi, tôi cố gắng đứng thẳng khi bọn cộng sản Bắc Việt bắn tôi . . .
- Anh thích cuộc chiến hả anh Phước ?
- Anh nói thế có nghĩa là thế nào đó anh Pierre ? Thích cuộc chiến hả ? Tôi thương vợ tôi, thương con tôi, thương đất nước tôi. Tôi thích sống như cha mẹ tôi đã sống, có lễ độ, thích tổ chức nghi lễ theo truyền thống của dân tộc tôi, thích đi xem chiếu bóng, thích đi dạo trên thuyền hay chăm sóc vườn tuợc. Cái phiền là ở Việt Nam người ta không thể đi dạo chơi từ lâu rồi mà không sợ lảnh một viên đạn vào đầu hay bị giẫm vào một trái mìn nào đó. Hồi Tết Mậu Thân chúng tôi đã sửa soạn tất cả rồi để ăn một cái Tết.. Nhà cửa được trang hoàng đầy hoa thủy tiên, bánh mức truyền thống cho Ông Táo bày ra rồi, bánh chưng, chè, và một chai rượu nếp nhỏ nữa, lại có cả một bức tranh lụa vẽ hình một con chim đại bàng đang tung cánh bay và một con ngựa đang phi. Các con tôi đang cười đùa, vợ tôi vui lắm. Chúng tôi đã có một buổi tối thật hạnh phúc. Nhưng đùng một cái đúng 4 giờ khuya thì Việt Cộng tấn công. Tôi phải rời khỏi gia đình tôi tức khắc,, và chỉ được về phép năm tháng sau đó. Đêm đó thằng em út của tôi, trung úy Dù, và vợ nó (chúng nó ở Chợ Lớn) đã bị Việt Cộng cắt cổ. xơi tái. . .
Đại tá Phước đứng dậy và bước lại đài vô tuyến truyền tin của ông. Tôi còn ngồi lại một mình ở cái phòng nhỏ còn có được một cây đèn măng xông đang chiếu lên tường cái bóng chập chờn của bình trà.
Ở ngoài , đêm thật là yên lặng. Ở về hướng Gia Kiệm, tiếng súng đại bác vẫn rền vang như một cơn bão xa xăm. Tôi nghĩ tới điều lạ lùng của một sự bất ngờ . Cách đây 28 năm, tôi đang ở một cái đồn nhỏ có rào tre vạt nhọn, gần hành dinh mà tôi vừa mới đến ban chiều. Các bạn thân của tôi gồm có một người Pháp ở Miền Bắc (Bretagne), và một người Đức. Ông bạn Pháp thì vậm vỡ hồng hào tên là Massé, là trung úy chỉ huy một đại đội thân binh, đi đâu củng mang theo một cái máy hát quay tay và cả một chồng dĩa nhạc cổ điển, đã mòn gần láng hết rồi vì xài quá nhiều. Còn ông bạn người Đức là một cựu sĩ quan quân đội Đức, đã từng chiến đấu ở Tây ban Nha, sau dó vào lê dương (đã từng chiến đấu chống lại tướng Rommel ở Ý), một tay lực sĩ với nước da ngâm đen và một cái nhìn xám xịt, tên là Guerlach. Sau khi đã trở thành một nhà trồng tĩa rồi, anh vẫn không chịu rời bỏ khẩu súng tự động KAR 43 của anh, mà anh gọi là "dụng cụ cá nhân " của mình, và một khẩu súng ngắn Walther P.38. Trung úy Massé đã chết trong một trận tấn công đoàn xe ngày 18 tháng 5, năm 1948, do Hoàng Thọ, một chỉ huy đặc công Việt Cộng có râu quai hàm như một linh mục, mà tàn ác như một con hổ đói. Còn anh bạn Guerlach thì bị giết vài tháng sau đó trong một trận phục kích trên đồn đỉền Courtenay. Nhưng trước khi chết anh đã hạ chín Việt Cộng với hai khẩu súng mà anh gọi là "dụng cụ cá nhân" của anh" .
Bao nhiêu năm đã trôi qua rồi nhưng tôi tự hỏi tại sao tôi luôn luôn còn đây ? Mà cũng vẫn ở vùng Xuân Lộc, không ở nơi khác ? Trong cái thành phố ma quỷ nầy, thành phố chỉ còn là một cái tên, với kỷ niệm của những con ma khác mà tôi đang nhớ đến ?
Đại tá Phước trở lại với một chén cà phê nóng. Ông đặt chén cà phê lên bàn và nói với tôi :
- " Nầy, cái nầy tốt cho anh đó, anh Pierre ! Anh em Lôi Hổ đã thành công, họ đã tìm và định được vị trí của một trung đoàn cộng sản Bắc Việt đang di chuyễn khoảng 10 cây số cách quận lỵ. Nếu Lôi Hổ mà định được chính xác đúng dường đi của trung đoàn nầy thì chúng tôi sẽ dập tan họ bằng Không quân trước khi họ mở cuộc tấn công. Như vậy sẽ tiết kiệm được cho chúng tôi một cuộc chiến không mấy tốt. Trong khi chờ đợi, tôi không có quyền đi ngủ.."
Sự bình tĩnh quá cứng rắn của vị sĩ quan nầy được thể hiện rõ trên nét mặt điềm nhiên của một người có thói quen nhìn thấy trước một việc không tốt sẽ xảy đến cho mình mà vẫn bình thản để có giải pháp đối đầu . . .xem rất là cảm động. Ông ngồi xuống dựa lưng vào tường và hỏi tôi :
-" Ông bạn Thomann của anh thế nào rồi anh Pierre ? Không thấy anh ta đến đây chuyến nầy ?
- Anh ta đang ở Ba Lê. Hiện anh đang có một đứa con trai nhỏ.
- Anh ta nghĩ không đi làm phóng sự nữa sao ?
- Không phải vì anh mới có con nhỏ đâu. Cơ quan mướn anh đã tính sổ cho anh ta luôn rồi.
- Tôi thích anh đó lắm. Anh ta đã từng đi với chúng tôi trong nhiều tháng hành quân ở nhiều khu vực khác nhau. Anh ta cũng dai như đỉa đói vậy, không biết mệt mỏi là gì mà không nói quá ba tiếng trong cả tuần . Anh ta cùng ăn với chúng tôi, cùng ngủ dưới đất như chúng tôi và không bao giờ rời khỏi máy quay phim của mình. Anh ta bị thương 3 lần khi cùng lặn lội với chúng tôi : lần thứ nhất bị thương trên đầu ở thung lũng A Shau, tháng hai 1969 , vì miển đạn bách kích pháo; lần thứ nhì vào tháng giêng 1970 trong khu vực "Thất Sơn" ở gần biên giới Campuchia, vì một trái đạn bách kích nổ cách anh ta chỉ có 2 thước, lần đó tôi có 4 binh sĩ tử thương nhưng anh ta thì 2 chơn đầy miểng ; lần thứ ba vào tháng 7 năm 1972, trong khi anh ta đang quay cảnh một đoàn dân chúng đang bị pháo 130 ly của Liên xô. Lần đó anh ta suýt nằm luôn tại chỗ rồi ! Anh ta bị thương rất nặng: cườm tay trái gần đứt lìa và đùi phải bị quá nặng. Các anh em biệt động quân của tôi đánh giá anh ta cao lắm.
- Đánh giá cao là phải rồi ! Tôi nghĩ là họ rất có lý . Anh Phước nầy! tôi biết anh Raymond Thomann nầy từ lâu rồi. Anh ta là một cựu chiến binh Biệt kích Dù của Algérie đó! Sau đó anh vào làm lính đánh thuê ở Yémen và ở Congo, trước khi sang Việt Nam làm việc cho đài NBC và AP của Mỹ. Anh ta đi bộ không bao giờ biết mệt và không sợ gì cả. Anh ta đã thành công rất đẹp vào tháng giêng năm 1969. Không biết làm thế nào mà anh ta biết được là người Mỹ sẽ trao đổi tù binh với Việt Cộng , nên đã đi trước hai ngày lên Tây Ninh, rồi từ đó anh lôi bộ vào bưng, lang thang không biết chỗ nào là chỗ nào hết vì không biết rõ địa điểm trao đổi chính xác nằm ở đâu . Anh tìm cách qua được Sông Bé bằng xuồng, tránh được nhiều đội tuần tiễu của Việt Cộng và cuối cùng anh tìm đến được một bìa rừng trống trải, ở đó sẽ có cuộc trao đổi tù binh. Cả người Mỹ và Việt Cộng đều ngạc nhiên khi anh ta xuất hiện. Việt Cộng ngạc nhiên vì họ đã lừa được hệ thống canh chừng của bọn họ, còn người Mỹ ngạc nhiên vì họ tới đó bằng trực thăng và không thể tưởng tượng nổi một người tay không như anh ta mà lại đột nhập thật sâu vao đây một mình được như vậy, để xuất hiện như một con ma trong lúc không một bên nào chờ đợi sự có mặt nầy . Lần đó Raymond đã mang về một số hình ảnh thật là tuyệt vời. Bọn Việt Cộng thì đội nón vải đi rừng mặc quần cụt, người chỉ huy của họ có một lỗ mũi khá kỳ dị, nhọn hoắc và có một cái bứu. Còn đại tá Mỹ là một người ốm gầy cao mặt xương, nói tiếng Việt rất rành tên là Sauvageot (1). Ông ta quá đỗi giận khi thấy Raymond có mặt ở ngay nơi có buổi trao đổi bí mật nầy, nên đã từ chối không cho anh ta về bằng trực thăng, nên ông bạn tôi lại phải lội bộ trở về..
Đại tá Phước cười lên nắc nẻ, nấm tay đập xuống đầu gối và la lên :
- " Tiếc quá, thật tình tôi không biết sự việc nầy, nhưng nó chỉ xác nhận những gì tôi đã nói với anh về Thomann. Muốn làm được một "cú" đẹp như thế, tôi nghĩ là phải có một bản lĩnh ! Nếuanh còn gặp anh ta ở Ba Lê, anh cho anh ta biết cái tình bạn thật thân thiết của tôi đối với anh ta nhé .
Một đại úy đến đứng nghiêm, chào đại tá Phước và trình :- " Thưa đại tá, có "Lôi Hổ 6" gọi.
Đại tá Phước nhảy lên gọn gàng và chạy lại trung tâm truyền tin của ông. Có một giọng nói chắc nịch đang bình tĩnh báo cáo :
- " một trung đoàn cộng sản Bắc Việt đang tập trung ở 5 cây số về hướng Đông Bắc trước khi xuất phát. Tiền sát của họ đã nằm ở cách sân bay khoảng 2 cây số. Có hai tiểu đoàn chiến xa yểm trợ. xin đại tá ghi giùm tọa độ đi." Phước ghi vội tọa độ và cho lệnh ngay, ngắn gọn:
-" Tránh ngay khỏi trục tiến quân của họ. Hết "
Sau đó ông báo động ngay cho Biên Hòa, tin tức, tọa độ, và xin một "yễm trợ nặng". Sau đó ông mới liên lạc và chuyển hết tin tức cho Pháo binh,
Tôi bước ra khỏi nhà xe. Bên ngoài, trời về đêm vẫn yên tĩnh, thỉnh thoảng chỉ nghe một vài tiếng động nhỏ dều đều của tiếng vá đào đất , chắc hẳn là binh sĩ đang tu bổ các hầm trú ẩn của họ..
Mười phút trôi qua, Có tiếng máy nghe được xa xa, trên trời cao. Pháo binh bắt đầu tác xạ. Có tiếng kẻn khua, tiếng đạn đi ngang qua và vài giây sau đó là những tiếng nổ inh tai.
-"Họ bắn dài để chận đường rút lui của trung đoàn địch và che lấp tiếng phi cơ bay đến" đại tá Phước theo đứng bên cạnh tôi và nói .
Có ba vừng ánh sáng liên tiếp lóe lên cao, và ba tiếng nổ kinh hồn như những trái đạn của hải quân, cửa nhà xe rung lên ba lần.. Chúng tôi nhìn thấy có mấy ánh lửa lóe lên nhưng ngay sau đó bị các cột khói lên che lấp ngay, mấy chiếc nấm lớn khói đen kịt hình như đang tụ lại bao vòng một khỏang lớn của chân trời. . . . Pháo binh đã ngừng bắn. Đại tá Phước trở lại đài chỉ huy vô tuyến. Hai chục phút trôi qua. Có tiếng gọi của Lôi Hổ trên đài. Bây giờ là 1 giờ sáng rồi.
- " Đơn vị Bắc Việt bị đánh trúng rất nặng. Có vài tên sống sót đang chạy tán loạn. Thống kê kinh hoàng !"
Đại tá Phước dùng vô tuyến cho lệnh hai tiểu đội biết động của ông tiến chiếm và tảo thanh vùng vừa bị dội bom. Ông xây qua tôi và nói :
-"Anh có thể vào ngủ yên, sẽ không có gì xảy ra nữa trong đêm nay. Bọn chúng phải cần có một thời gian mới có thể tiêu hóa xong những trái "C.B.U. 55" nầy.
- Anh muốn nói những trái "Cluster Bomb Unit" ?Tôi cũng đã biết chúng nó rồi. Đó là loại bom có nhiều miển, chống cá nhân, được thả từng chùm , khi đụng đất, nổ tung ra nhiều trái đạn nhỏ bằng trái banh tennis phải không ? Loại bom nầy gây nhiều thiệt hại đáng kể . . ".
Đại tá Phước đưa tay chận tôi lại ngay
- " Loại CBU.55 nầy cũng được thả từng chùm, nhưng là một loại bom đặc biệt, cho đến giờ nầy chưa bao giờ được xử dụng.
- Anh nói "đặc biệt", nó có nghĩa gì đây ?
- Tôi không muốn giải thích chuyện đó bây giờ cho anh nghe đâu. Anh sẽ thấy rõ kết quả ngày mai khi trời sáng. Chúng ta sẽ đến đó xem tận mắt. Bây giiờ anh hảy đi ngủ đi."
Tôi đến nằm trên một chiếc chiếu và ngủ ngon lành.
Đến 6 giờ sáng, có người đánh thức tôi dậy. Tôi nhận ra đó là đại úy hồi hôm.
- " Đại tá tôi đang chờ ông "
Chúng tôi đi bằng xe Jeep. Ba cây số về hướng Đông Bắc, và sau đó chúng tôi xuống xe và có ba anh biệt động quân vai choàng đại liên M.60, mình mang đầy mấy giây đạn hướng dẫn chúng tôi đi.
Và thình lình giữa những hàng cây trụi lá, một cảnh tượng thật rùng rợn, như một ảo tưởng ! Trong một khoảng trống mỗi bề độ 100 thước, hằng trăm bộ đội Bắc Việt không còn hình dạng rãi rác cùng khắp nơi. Một chiến xa bị lật ngữa. Các tử thi không thấy có một vết thương nào trên mình. Chỉ thấy cò vài vết máu chung quanh mồm và mủi. người ta có thể nói là họ bị một cơn lốc cuốn lên cao và ném họ nằm bẹp xuống đất. Đại tá Phước giải thích :
- " CBU.55 là một loại bom "rút hết khí trời". Công thức của nó còn là " tối kín / mật". Bộ Tham mưu chỉ cho biết là nó "đốt" hết dưỡng khí trong không khí và làm cho tất cả đều ngộp thở, chết tức khắc. Thông thường thì dưỡng khí chỉ là một nhiệt khí, (có nghĩa là không thể cháy được ). Theo tôi thì loại bom CBU.55 nầy đốt hết không khí, gây ra sự bùng nổ mãnh liệt tạo ra một làn sóng va chạm cực mạnh làm vỡ hết buồng phổi, và những người chết không có một dấu vết gì gọi là thương tích trên thân thể. (2)
Dầu muốn dầu không thì kết quả thật khủng khiếp. Tất cả cây cối bị thổi bay hết lá cùng tất cả bộ đội bất thần bị chết chung trong một thời gian không đến một giây. . . tất cả để lại một cảm tưởng như một đoạn phim kinh hoàng do các nhà phù thủy bí mật của phòng nghiên cứu đạo diễn. Nhưng đây thật sự không phải một màn hay một cảnh trong phim, và người chết ở đây không phải là những hình nộm !
Tôi vội vã ra đi. . . .
Vào lúc 8 giớ một trực thăng đưa tôi về lại Biên Hòa . Trực thăng có chở một lô binh sĩ bị thương, ở bụng, ở đầu. Có nhiều người bị bể cặp mắt.
________________________________________
Chú thích: (của dịch giả DHN)
(1)- đại tá người Mỹ tên Sauvageot nầy là một nhân viên tình báo thuộc Cơ Quan Tình Báo Trung Hoa Kỳ ( CIA), nói và viết tiếng Miền Nam như một người Việt Nam chính cống. Từ tháng 3 năm 1973 đến 30/4/75 đóng vai quân nhân thông dịch viên chánh thức cho Phái Đoàn Quân Sự Mỹ trong Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên Trung Ương tại Tân Sơn Nhất Sài Gòn nhưng không đeo cấp bực nào của quân đội Mỹ.
(2) - Theo giải thích chánh thức của một đại tá Hoa Kỳ , cố vấn trưởng cho một tiểu khu ở Đồng bằng Sông Cửu Long: loại bom nầy khi đến gần mặt đất khoảng 100 thước thì có một chiếc dù bung ra, còn cách mặt đất chừng 10 thước thì nổ. Bom không có miểng, không giết người bằng mảnh bom. Nhưng khi nổ sẽ "hút" hết dưỡng khí trong một vùng khoảng 1 cây số đường bán kính. Tất cả mọi sinh vật nào ở trong vòng ảnh hưởng nầy đều tức khắc không còn dưỡng khí để thở, (kể cả cây cối, nên lá phải rụng hết ), bị trào máu ra miệng và mũi chết ngay tức khắc (kể cả những người ở dưới hầm sâu dưới đất). Chẳng những không có một vết bị thương nào trên người mà chết trong tư thế tự nhiên (như đang ngồi, nằm, hay đứng, đi v,v,) . Nguyên văn trong sách tác giả dùng danh từ "đốt" nhưng sự thật phải nói là "hút đi" mới đúng. Loại bom nầy được giao cho Hải Quân Hoa Kỳ thí nghiệm lần đầu tiên năm 1972 ở Đồng bằng sông Cửu Long.
CHƯƠNG MƯỜI SÁU
TỔNG THỐNG THIỆU TỪ CHỨC
Thứ Hai, ngày 21 tháng Tư
Sài Gòn đã bắt đầu nhúc nhích và có hành động. Tổng Thống Ford với lý do cấp bách của tình hình, đã đòi hỏi Quốc Hội phải công bố những đề nghị viện trợ quân sự cho Miền Nam Việt Nam "trước ngày 19 tháng 4". Nhưng, bất chấp hạn định do Hành Pháp yêu cầu, các nhà Lập Pháp Hoa Kỳ một lần nữa lại tiếp tục triển hoãn việc trả lời . Báo chí ở Sài Gòn đã công khai nói đến chuyện người Mỹ bỏ rơi Miền Nam Việt Nam . Trong lúc mà quân đội Miền Nam Việt Nam dựa lưng vào tường để chiến đấu, và đang cần có một số lớn phương tiện để nuôi dưỡng và yểm trợ cho cuộc chiến, thì sự triển hạn bỏ phiếu của Quốc Hội được coi như một sự "phản bội" đồng minh thật sự. Người dân Việt Nam nói là "người Mỹ đang tái diễn hành động của họ ở Phnom Penh (Campuchia). trước hết là cắt viện trợ, và sau đó là sẽ rút đi "
Thành phố Sài Gòn đầy rẫy tin đồn : Hoa Thạnh Đốn đã quyết định tiến hành nhanh chóng cuộc hành quân di tản công dân của họ. Một công điện của Bộ Ngoại Giao sẽ được gởi đến cho đại sứ Graham Martin để ra lệnh cho ông ta phải thi hành sớm cuộc hành quân nầy.
Nhưng những chuyến di tản đầu tiên đã được bắt đầu vào ngày 10 tháng 4, khi hầu hết những xí nghiệp lớn của Hoa Kỳ (các hảng Hàng Không , các công ty xăng dầu, và công ty đang có những công tác lớn) đã có quyết định cho hồi hương các cán bộ và nhân viên của họ. 2000 người Mỹ và 6000 người Việt (các chuyên viên kỹ thuật và gia đình của họ) đã được đi sang Hoa Kỳ .
Trong tuần lễ từ 14 đến 20 tháng 4, các phi cơ vận tải khổng lồ thuộc cầu không vận quân sự của Ngũ Giác Đài, chuyển quân dụng thay thế cho quân đội Miền Nam (2 liên đội pháo binh, một số cao xạ phòng không và 2 tiểu đoán chiến xa ) lượt về sẽ được xử dụng để chở những người dân tỵ nạn. Các phi cơ có khả năng chuyên chở nhiều người, loại Galaxie, Starfighter và Hercules. sẽ bốc đi trong 6 ngày khoảng 20.000 người Việt Nam tỵ nạn, và 2000 người Mỹ. Nhưng cũng còn hơn 5000 người Mỹ ở Sài Gòn và Bộ Ngoại Giao ước tính có khoảng 130.000 người Việt Nam mà "tánh mạng bị cộng sản đe dọa" cần phải được di tản . Như vậy con số người phải được bốc đi củng không phải nhỏ .
Vào hồi 1 giờ trưa, tôi biết được là có một điện tín của hảng thông tấn UPI loan báo là Xuân Lộc đã bị thất thủ. Tin nầy ở đâu ra ? Tôi vẫn còn ở Xuân Lộc chỉ cách đây vài giờ, lúc đó binh sĩ còn giữ chặt vị trí của họ kia mà. . . Tin tức nầy dù sao cũng đã được tung ra khắp thành phố như một giây thuốc pháo và tinh thần của dân chúng do đó đang bị một cú sốc.
Nếu cộng sản Bắc Việt thật sự đã chiếm được Xuân Lộc thì tình thế trở nên thật là nghiêm trọng. Chiếm được một giao điểm quan trọng trên quốc lộ, và tập trung lực lượng ở một nơi chỉ cách thủ đô Sài Gòn có 50 cây số, cộng sản Bắc Việt sẽ có khả năng tiến nhanh về hướng Vũng Tàu ở phía Nam , và về hướng Biên Hòa ở phía Tây. Nếu họ chiếm được Vũng Tàu (nguyên tác :Cap Saint Jacques) thì họ sẽ cắt đứt con đường rút lui duy nhất còn lại của Sài Gòn để đi ra biển, Nếu họ chiếm được Biên Hòa , họ sẽ vô hiệu hóa được một trong hai căn cứ không quân sau cùng của Miền Nam Việt Nam và coi như thủ đô Sài Gòn bị nằm trong tầm pháo binh nặng 130 ly của họ.
Tôi cố gắng liên lạc được bằng điện thoại với đại tá Xuân ở phòng nhì. Ông ta xác nhận là - "Xuân Lộc chưa bị mất, nhưng từ 10 giờ sáng nay cộng sản Bắc Việt đã nã vào thành phố điêu tàn nầy bằng pháo binh nặng 130 ly với nhịp độ 2000 quả trong một giờ. Để tránh bị thiệt hại quá nặng về nhân mạng, binh sĩ của tướng Đảo và anh em biệt động quân đã di tản khỏi đống gạch vụn nầy để ra nằm bố trí chung quanh thành phố. Nhưng mặt trận Xuân Lộc chưa bị chọc thủng, chiến trận vẫn còn đang tiếp diễn, liên lạc vô tuyến vẫn chưa bị gián đoạn. Tất cả phi cơ đều sẵn sàng bay lên để thay phiên nhau nện các đoàn quân cộng sản đang di chuyển."
Hai ngàn quả đạn đại bác 130 ly trong một giờ ! Tôi hiểu tại sao binh sĩ phải bỏ cả hầm trú ẩn.. Cả một biển lửa ập xuống thành phố điêu tàn, đó là câu trả lời của cộng sản Bắc Việt đối với mấy trái CBU được thả xuống đêm qua. ! Và để nói rằng : Xuân Lộc còn có nghĩa là mùa xuân có lộc (hạnh phúc) hay không ?
Bắt đầu buổi trưa, tôi đi thăm bà Ngô bá Thành, một người đàn bà nhỏ con đang ở trong một biệt thự khiêm nhường ở trung tâm thủ đô, bên cạnh dãy nhà của những người Pháp và được nằm trong khu vực do tòa đại sứ Pháp bảo vệ như những tấm bảng yết thị mới được thấy dán ở ngoài. Là một mưu sĩ của "lực lượng thứ ba", bà tiếp khách thường xuyên ở ngoài vườn, nhất là những nhà báo ngoại quốc..Bà đỗ ba bằng tiến sĩ luật học (Pháp, Hoa Kỳ và Bồ đào Nha), nói được nhiều ngoại ngữ, bà là Chủ tịch "Phong Trào Phụ Nữ đòi Quyền Sống", một trong nhiều tổ chức đào tạo về công dân, về tôn giáo và về nghiệp vụ trong "Tổ hợp 36 chợ của Sài Gòn" thuộc phong trào chống tham nhũng, dự định sẽ ngồi giữa CPLTCHMN và chánh quyền Sài Gòn trong Hội Đồng Hòa Giải Quốc Gia được dự trù trong Hiệp Định Ba Lê.. Là môt địch thủ hăng say của Tổng Thống Thiệu, điều làm cho bà phải 4 lần vào khám, bà Thành hiện bị quản thúc tại gia. Báo chí Mỹ trong những tháng gần đây đã từng lên tiếng ồn ào về vấn đề "giải phóng phụ nữ" của bà, đã cho biết là bà hiện đang bị canh phòng cẩn mật.. Thế nhưng con trai của bà, một người trẻ tuổi, cao lớn, tóc để dài, là lính đào ngũ mà vẫn sống kín đáo trong nhà nhiều tháng nay mà không sợ gì cảnh sát hết. . . . Là con gái của một nhân sĩ Miền Bắc , chồng là một bác sĩ thú y dễ dãi và sống âm thầm, bà Thành là một người tranh đấu tiến bộ, quả quyết nhưng ương ngạnh. Bà nói với tôi :
- "Thiệu đã ở thế cùng rồi, Số phận của ông ta được tính từng giờ. Ông ta dựa vào người Mỹ và quân đội . Người Mỹ đã bỏ rơi ông ta, và quân đội thì đã tan rã rồi. Sĩ quan và binh sĩ đã chán ghét ông ta rồi. Có lẽ ông không biết là các binh sĩ ưu tú - biệt động quân và thủy quân lục chiến - có nhiệm vụ bảo vệ nơi chôn nhao cắt rrún của ông ta gần Phan Rang, đã nổi dậy và đã dùng chất nổ để phá tan mồ mả của gia đình ông ta rồi. Việc phá nát mộ phần của cha mẹ ông bà của ông ta là một sự chối bỏ nghiêm khắc đối với Thiệu và tất cả những gì ông hiện đang nắm giữ. Ở Việt Nam , nơi mà sự thờ cúng ông bà là nền tảng của Tôn Giáo của chúng tôi , không có một sỉ nhục to lớn và nghiêm trọng nào như sự xúc phạm như thế. Đó vừa là một sự chửi rủa, vừa là một sự khinh bỉ hoàn toàn và là một lời nguyền rủa nữa.. Còn về ông Kissinger, thì mới chiều hôm qua đây, ông đã tuyên bố một câu ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa :" Hoa Kỳ chúng tôi ủng hộ một Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam , nhưng không ủng hộ đặc biệt một cá nhân nào cả " Quá rõ rồi phải không ? Hơm nữa, những ngày sau cùng nầy, đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin và đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã tấn công ông Thiệu để bảo ông ta hãy rút lui đi, và nhường chỗ lại cho một toán khác có khả năng chận đứng được chiến cuộc lại "
Ông Ngô bá Thành mời khách dùng trà trong những cốc đẹp màu xanh với cử chỉ chậm chạp giống như các bà, mà không hề nói một tiếng nào. Vợ ông mặt rạng rỡ, cặp mắt sáng ngời, lại tiếp tục đánh tiếp với những luận điệu của bà:
- " Ông Thiệu bao giờ cũng chỉ biết nghĩ đến tương lai qua một cuộc chống trả cực đoan và một chiến thắng quân sự . Sự tan rã của quân đội ngay tại chiến trường đã lên án ông không chống đỡ nổi. Ông cứ khư khư tin rằng Hoa Kỳ không bao giờ bỏ rơi ông.. Ông không để ý tớí những chuyện thay đổi đã xảy ra ở bên Hoa Kỳ. Từ hai năm nay, dân chúng Hoa Kỳ đã gạch bỏ hai chữ Việt Nam rồi. Quốc Hội đã từ chối không bỏ phiếu cho mọi viện trợ quân sự và họ đã gạt hẳn ra ngoài việc cho phép tái can thiệp bằng võ lực. Ông Ford là một Tổng Thống được chỉ định chớ không phải do dân bầu, nên không có đủ phương tiện để có thể giữ lời hứa của ông Nixon được . Còn Kissinger hả ? ông ta là một con người quá thực tế nên đâu có dại gì đi khư khư bênh vực khi đã nắm chắc phần thua? "Quân đội nhân dân giải phóng" chỉ còn không đầy một tiếng đồng hồ nữa trên đường đến Sài Gòn rồi. Và Hoa Thạnh Đốn cũng dư biết là vài trăm triệu mỹ kim, vài trăm chiến xa hay đại bác thêm nữa củng đâu có cứu được nước Việt Nam của ông Thiệu ? Nhiều lắm là nó chỉ có thể kéo dài giây phút hấp hối của một kẻ sấp chết mà thôi.. . . "
Bà đưa ngón tay trỏ chỉ ngay tôi và nói với một giọng đổ lỗi :
- " Các nhà báo nước Pháp của anh - ngoại trừ các phóng viên của tờ Le Monde - đều không biết làm công việc của họ. Phải đập ông Thiệu. Phải tố cáo những tội sát nhân của ông ta, tố cáo chế độ cảnh sát trị của ông ta. Các anh phải giúp chúng tôi mở cửa các nhà tù đang nhốt 200.000 tù nhân chánh trị . Và hơn thế nữa các anh không đặt nặng tầm quan trọng và một chỗ đứng cho "lực lượng thứ ba" của chúng tôi. Lực lượng nầy có thực, các anh phải thấy rõ là nó cò một vai trò chánh trị quan trọng trong đất nước chúng tôi , trong một tương lai rất gần đây thôi. Ngay như những người cộng sản ,họ củng nhìn nhận là họ phải nghĩ đến chúng tôi .!."
- Thưa bà, các nhà báo Pháp, chưa bao giờ tỏ ra quá mềm dịu đối với Tổng ThốngThiệu đâu. Nhưng chúng tôi không có phận sự phải đề cao một phong trào chánh trị và cho phong trào nầy một tầm vóc hay một sự kết hợp mà nó vốn không có. Về vấn đề tù chánh trị , thì con số 200.000 là con số thật sự được Hà Nội, và phe đối lập của ông Thiệu thổi phồng lên. Con số 200.000 nầy đã nhiều lần được báo chí Tây Phương nhắc đi nhại lại nhưng không bao giờ được Hội Hồng Thập Tự Quốc tế củng như hầu hết các Hội Nhân Quyền quốc tế thuộc các tổ chừc Tôn Giáo hay không Tôn giáo xác nhận, dù là tất cả đều rất quan tâm đặc biệt đến vấn đề nầy trong 2 năm gần đây. Theo thống kê thì nhân số trong tất cả các nhà tù của Miền Nam Việt Nam (kể cả các người bị nhốt tạm ở các xã ấp đến những tù nhân đang bị giam giữ ở các nhà lao lớn ở Côn Sơn) đều không quá con số 36.000 người . . . "
Bà Ngô bá Thành nhảy dựng lên, giận dữ, tuông ra một tràng :
-" Thật là đê tiện, quá buồn cười, Sai ! và hoàn toàn sai bét !" Gương mặt bà thay đổi thình lình, mặt mày nhăn nhó. . .bà ho lên một tràng dài, ho và nấc lên từng cơn, rung động cả người.
Bằng một giọng đau khổ lẫn trách móc, chồng bà nói với tôi :
- " Lẽ ra ông không nên nói những điều nghịch ý với vợ tôi. Bà vợ tôi đang rất hào hứng khi nói về vấn đề chánh trị . Bà không thể chịu nổi những điều trái ngược với ý của bà ta. Bà ta giận ngay, nhanh lắm, khó chịu lắm và cơn suyễn lại kéo đến và bà ta sẽ ngộp thở. Mỗi lần như vậy là tôi phải cho bà một liều thuốc kháng sinh (nguyên tác : hydrocortisone). Bà vẫn biết đó là thuốc độc, nhưng đó là phương thuốc duy nhất. . . "
Tôi ra về mà không hỏi được bà Ngô bá Thành một câu hỏi có ích lợi nào cả. Bà ta đã nằm co ro trong cái ghế bành lớn bằng mây rồi. Trông bà có vẻ rất là yếu đuối để bảo đảm sự thay thế các tướng lãnh đang đối diện trận chiến khốc liệt với cộng sản Bắc Việt, những bộ đội đã từng sống cam khổ qua những trường huấn luyện rừng núi, nay đang sấp sửa tiến vào Sài Gòn . Và sau đó tôi bỗng thình lình sực nhớ lại cách đây 2 năm, được gọi phải ra gặp vị Chánh Án ở Toà Án tỉnh Gia Định, người đàn bà yếu đuối và bệnh hoạn nầy đã rình trước cửa Tòa Án và dùng một viên đá lớn liệng vỡ kính trước xe của ông Chánh án nầy . Sau đó bà chạy lại lôi tuột ông nầy ra khỏi xe, kéo vào lề đường và dùng cán dù đánh ông nầy một trận nhừ tử, sau đó lại còn đá ông mấy đá vào cạnh sườn làm ông nầy đo ván luôn.
*
* *
Vào khoảng 4 giờ chiều, một tin đồn nữa được tung ra khắp thành phố Sài Gòn. Tổng Thống Thiệu đang sửa soạn từ chức. Phải chăng đây là những tiếng đồn bậy bạ, báo động một lần nữa? hay chỉ là lời đồn giỡn chơi như thường ngày để làm cho thủ đô lên cơn sốt ? Có nhiều chỉ dấu ít nhất cũng rất nghiêm trọng hơn là bình thường. Ngay như buổi sáng nay, vị nguyên thủ Quốc Gia không dự buổi lễ Thanh Minh truyền thống. Bí thư của ông đã dùng điện thoại báo cho tất cả những nhân sĩ là các buổi hẹn trong vòng 48 tiếng đồng hồ sấp tới đều được hủy bỏ. Rõ ràng là sẽ có một chuyện gì đó, quan trọng lắm sấp xảy ra.
Vào lúc 5 giờ chiều , Hội đồng Chánh Phủ họp bất thường tại Dinh Độc Lập. Nhiều người nói đây là một buỗi họp mặt để từ giã nhau.
Vào 6 giờ chiều, đài phát thanh báo cho biết là Tổng ThốngThiệu đã mời hết tất tất cả các Tổng Bộ trưởng, Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, các nhân viên Tòa Thượng Thẩm và các vị dân cử thuộc lưỡng viện Quốc Hội , có mặt lúc 7 giờ tối để Tổng Thống đọc một bài diễn văn của ông, được trực tiếp truyền thanh. .
Trong ba tuần nay, chiến lược gia của các tiệm cá phê ở đường Catinat đã tiên đoán là sự từ chức của Tổng Thống Thiệu là chuyện đương nhiên rồi.
Trong những ngày đầu tháng tư, một nguồn tin đã được loan đi và báo chí cũng đã có nói lại rõ ràng là một "hội đồng tướng lãnh" của Miền Nam đã trao cho Tổng Thống Thiệu một tối hậu thơ, khuyên ông nên từ chức trong vòng 3 ngày. . . nhưng rồi có thấy chuyện gì xảy ra đâu ?
Khi nào nhịp độ tấn công của cộng sản Bắc Việt càng mạnh thì phía đối lập lại cứng rắn thêm. Cảnh sát đã phá vỡ hai mưu toan ám sát và dinh Độc Lập đã bị dội bom. Nhưng cho tới giờ nầy Tổng Thống Thiệu không thấy có một dấu hiệu gì nhượng bộ.. Càng ngày càng có nhiều nhân sĩ chánh trị hay tôn giáo đã công khai yêu cầu ông hảy ra đi, để người ta có thể đàm phán với "phía bên kia". Phần đông các đối thủ của ông dường như tin chắc rằng ông Thiệu muốn ngồi mãi ở cái ghế Tổng Thống nầy cho đến cùng. Ngày hôm kia, ông ta còn dọa giết ông Ngô khắc Tỉnh, người anh em bà con bạn dì với ông, đương kiêm Tổng trưởng Giáo dục, khi ông nầy muốn nói với ông ta về sự nghiêm trọng của tình hình trong hiện tại, làm ông ta giận dữ hét lên :
-"Anh chỉ là một thằng chủ bại bẩn thỉu. Nếu anh còn tiếp tục nói nữa, thì tôi sẽ cho anh ăn đủ 12 viên đạn của tiểu đội hành quyết ngay bây giờ "
*
* *
Ông Dominique, người chủ tiệm ăn Valinco, chuồi cho tôi một tuy dô "hết ý"
Theo ông ta thì Tổng trưởng ngoại giao Sauvagnargues của chúng tôi đã có điện thoại cho ông Mérillon (đại sứ Pháp ở Sài Gòn) để bảo ông nầy :"Anh hãy đi gặp ông Thiệu đi, và bảo cho ông Thiệu là ông ta phải đi đi . . . "
(xin đính kèm nguyên văn lời chú thích của tác giả: Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ báo Nouvel Observateur, ông Sauvagnargues xác nhận tin tức lạ lùng nầy :" Theo đúng chỉ thị của tôi, đại sứ Pháp đã có đến gặp ông Thiệu và nói với ông nầy rằng :"Ông phải ra đi thôi. . . ", một cách thi hành Hiệp Định Paris hết sức quái lạ. . . . . )
Trước cổng vào dinh Tổng Thống, người ta phải mất độ 30 phút để cẩn thận hướng dẫn các xe chánh thức . Vào một buổi hoàng hôn ấm áp, với bãi cỏ và các vòi nước phun lên được đèn rọi chiếu sáng, với các anh tài xế toàn đội kết trắng tinh, tất cả đều làm cho người ta liên tưởng đến một dạ hôi nào đó. Nhưng những chiếc áo dài lụa xinh xắn của Sài Gòn hoa lệ thường hay làm đẹp mắt cho các buổi tiếp tân lại không thấy góp mặt ở đây, mà chỉ thấy toàn là quân cảnh khắp nơi trong khu vực..
Vào hồi 7 giờ rưỡi, nửa giờ trước giờ giới nghiêm (thình lình được tăng lên 1 giờ), đường phố đã gần như vắng vẻ. Đằng sau các tấm rèm che phía trước tiệm buôn, các gia đình tựu họp lại quanh chiếc máy truyền thanh. Các cảnh sát cũng lẩn quẩn ở trước cửa tiệm để cùng nghe diễn văn của Tổng Thống Thiệu.
7 giờ 43 phút: Trong căn phòng lớn ở tầng dưới của Dinh Độc Lập, đứng trước bức họa tượng trưng của 18 vua Hùng, theo truyền thuyết là những vị vua dựng nước Việt Nam , Tổng ThốngThiệu bắt đầu nói. Với một giọng rắn rõi, bình tĩnh, nhưng không dấu được một sự bực tức , ông đi vào một trong những sự trình bày dài mà đó là sở trường của ông. Ông nhắc lại từng giai đoạn lớn của cuộc chiến ở Việt Nam và những giai đoạn của những cuộc thương thuyết dẫn đến sự ký kết Hiệp Định Ba Lê. Ông hết sức nhấn mạnh các lần từ chối liên tục mà ông đã phải đối đầu chống lại với Kissinger trong cuộc hòa đàm:
- từ chối không chấp nhận một "Chánh Phủ ba thành phần" mà ở các tỉnh và xã ấp củng phải có một nền hành chánh với ba thành phần.
- từ chối không chấp nhận "Đông Dương chỉ có 3 nước là Việt Nam , Campuchia và Lào", và nhấn mạnh đòi hỏi của chúng ta là phải trở lại Hiệp Định Genève 1954 với 2 nước Việt Nam, Bắc Việt và Nam Việt..
Ở điểm thứ ba, Tổng ThốngThiệu đã xác nhận rõ là:
- "Tôi nhìn nhận là tôi đã thất bại, vì tôi chỉ đạt được thỏa thuận là "sự rút quân của người Mỹ phải được đổi lấy sự rút quân của tất cả các đơn vị cộng sản Bắc Việt ra khỏi lãnh thổ Miền Nam mà họ đã lấn chiếm." Tôi đã tranh đấu suốt 4 tháng để diều khoảng nầy phải được đưa vào bản văn của Hiệp Định , một điều khoản cực kỳ quan trọng.
Cuối cùng tôi phải chịu thua dưới áp lực của người Mỹ. Họ nói :"Nếu ông không chịu ký thì Quốc Hội sẽ "chấm dứt ngay mọi viện trợ kinh tế và quân sự " . Để thuyết phục tôi phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp Định của họ, tôi đã nhận được một sự cam kết chánh thức của Tổng Thống Nixon - một cam kết trong danh dự của một đại cường quốc, một lãnh tụ của thế giới tự do - bao gồm có 2 sự bảo đảm:
* Hoa Kỳ sẽ can thiệp bằng võ lực và ngay tức khắc nếu cộng sản Bắc Việt tiếp tục cuộc chiến.
* Hoa Kỳ chỉ nhìn nhận có một Chánh Phủ của nước Việt Nam : đó là Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa, mà Hoa Kỳ sẽ viện trợ ồ ạt và đúng lúc, viện trợ cần thiết về kinh tế và quân sự .
Tuy nhiên, việc gì đã xảy ra ?
Khi cộng sản Bắc Việt đã chiếm căn cứ quân sự Tống lê Chân vào tháng 5 / 1973, người Mỹ không có một phản ứng nào. Dựa vào thái độ tiêu cực nầy của người Mỹ, cộng sản Bắc Việt từ đó đã không ngừng tiếp tục các cuộc tấn công của họ. Sau khi đã lấn chiếm xong các căn cứ xa xôi hẻo lánh, họ tiến chiếm đến các quận lỵ, rồi tỉnh lỵ. Nhưng rồi với thảm kịch Watergate và những ảnh hưởng chánh trị tiếp theo cuộc khủng khoảng về năng lượng trên thế giới, Hoa Kỳ tằn tiện từ từ cắt bớt viện trợ ngày nầy qua ngày khác. Trong lúc Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh thì lợi dụng được các biến cố nầy và gởi cho đồng minh Bắc Việt của họ một số lượng vũ khí chiến cụ to lớn , càng ngày càng tăng lên rất quan trọng, giúp cho các đơn vị chánh quy Bắc Việt xâm nhập không ngừng vào Miền Nam với nhiều chiến xa và chiến cụ, quân dụng tối tân.
Vì thế mà trong khoảng thời gian không đầy 2 năm mà cán cân quân sự hoàn toàn bị đảo ngược với phần thất lợi về phía chúng ta .Chỗ nào chúng ta có một sư đoàn thì cộng sản Bắc Việt có hai. Chỗ nào chúng ta có 10 chiến xa thì họ có hai chục. Quân đội chúng ta mất đi 60% khả năng tác chiến và khả năng di động.Chúng ta không có được sự yểm trợ ồ ạt của không lực nữa và hỏa lực của chúng ta ở trận địa kém hơn hỏa lực của cộng sản quá nhiều .
Hoa Kỳ vốn cam kết phải thay thế với tiêu chuẩn một đổi một các quân dụng và chiến cụ hư hỏng, nhưng kể như không có thay thế chi hết.
Tổng ThốngThiệu cố nói to lên :"Trong chiến tranh, không thể có phép lạ. Phải có bom, có đại bác, phải có đạn dược, và những phương tiện tiếp vận.
Chính vì tình trạng thua sút nầy mà tôi đến phải có quyết định chánh trị và chiến thuật lui quân, không thể làm khác hơn được như đã chứng minh."
Vừa trình bày cho thấy một số lỗi lầm và một số trường hợp "yếu hèn" của một số cấp chỉ huy liên quan đến thảm trạng quân sự trong sáu tuần lễ vừa qua, vừa nhìn nhận là ông rất tiếc là tình hình các biến cố ở Cao Nguyên diễn tiến quá nhanh, ông Thiệu chỉ rõ: chính Hoa Kỳ là kẻ phải chịu trách nhiệm chính trong vấn đề nầy:
- Tôi đã nói với người Mỹ là : các ông muốn tôi làm những gì mà quân đội của các ông với 300 tỷ mỹ kim, đã không làm được trong sáu năm.
- "Tôi đã nói với họ là : Các ông muốn rút ra khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam trong danh dự và bây giờ các ông đòi hỏi chúng tôi phải làm những chuyện vô lý và không thể làm được. Điều hành một cuộc chiến với viện trợ quân sự bị cắt xén thì có khác nào mấy ông trao cho tôi 3 mỹ kim mỗi ngày mà bảo chúng tôi phải sống như một du khách hạng sang."
Sau đó tường trình về những cuộc nói chuyện vào cuối tháng 2 với những thành viên của Quốc Hội lúc họ sang Việt Nam nghiên cứu tình hình, Tổng Thống Thiệu tuyên bố :
- "Tôi đã nói với họ rằng câu hỏi duy nhất được đặt ra là liệu Hoa Kỳ có quyết định giữ những cam kết của mình hay không ? và lời nói của Tổng Thống Mỹ có còn chút giá trị nào hay không ? Tôi nói với họ rằng so với 300 tỷ mỹ kim mà người Mỹ đã xài ở đây thì 300 triệu mỹ kim mà họ đang tranh luận chỉ là số tiền đủ chi tiêu trong 3 ngày tác chiến mà thôi, vậy mà họ vừa trả giá với tôi trong lúc họ đòi hỏi tôi phải chận đứng được làn sóng tấn công xâm lược của cộng sản , một điều mà ngay chính họ, với sức mạnh vô địch của một đại cường quốc, Hoa Kỳ đã không có khả năng chận đứng được trong sáu năm dài chiến đấu.
Thái độ vô nhân đạo của Hoa Kỳ là thái độ của một cường quốc lớn đang trốn tránh trách nhiệm của mình."
Với một giọng giận dỗi và khích động, ông Thiệu gào to lên:
-"Không bao giờ tưởng tượng nổi là tôi có thể chứng kiến trong một thời gian nào đó tấn bi kịch của những sự trả giá bẩn thỉu đang diễn ra bên trong toà nhà Lập Pháp của Quốc Hội Hoa Kỳ . Không bao giờ tôi tưởng tượng nổi một người như Kissinger lại có thể đưa dân tộc Việt Nam mình vào một định mệnh hết sức thảm khốc như ngày hôm nay ".
Đúng 8 giờ 36 phút, sau 53 phút đọc diễn văn, Ông Thiệu loan báo là ông từ chức . Ông nói thêm :
- "Tôi nghĩ rằng sự hy sinh của tôi sẽ giúp thay đổi được tiến trình viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa, và giúp thay đổi được diễn tiến trên chiến trường. Nếu nó có thể mang lại hòa bình cho toàn dân, và đem lại cho quân đội và cho đất nước sự giúp đở cần thiết cho sự sống còn của họ thì đó chỉ là một sự hy sinh tối thiểu mà thôi. Đối với những người luôn luôn chỉ trích tôi cho tôi là một chướng ngại cho nền hòa bình, tôi xin họ vì tình yêu của Tổ Quốc họ hãy giúp đỡ người kế vị tôi, là Tổng Thống Trần văn Hương, để ông mang lại hòa bình cho đất nước , một việc mà tôi đã không thể làm được. Tôi hy vọng rằng hành động của Ông, căn cứ trên sự thi hành Hiệp Định Ba Lê và căn cứ trên quyền tự quyết của dân tộc, sẽ đi đến một giải pháp chánh trị trong hòa bình và ngăn chận được cộng sản Bắc Việt không tiến chiếm Sài Gòn . Kể từ giờ phút nầy, tôi xin tự đặt mình hoàn toàn dưới sự xử dụng của vị Tân Tổng Thống, của dân tộc và của quân đội . Tôi tiếp tục làm việc bên cạnh đồng bào và các chiến sĩ để bảo vệ đất nước chúng ta ."
Bây giờ là 9 giờ đêm. Đèn ở Dinh Độc Lập đã lần lượt tắt hết. Các bãi cỏ và các vòi nước cũng đã chìm trong bóng tối. Ông Thiiệu không còn là Tổng Thống nữa. Trong thời gian 8 năm, đối với Hoa Kỳ cũng như đối với tất cả những người thân của ông, Nguyễn văn Thiệu đã là một người mạnh, một đồng minh trung thực và chắc chắn, là thành lũy cuối cùng chống chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, và ngay đối với Tổng Thống Nixon, ông Thiệu là một trong những chánh trị gia khôn khéo nhất của thời đại.. Đối với kẻ thù cộng sản và những những đối thủ chống đối ông thì ông là một kẻ độc tài và một người tham nhũng tay sai của đế quốc Mỹ . Chiều nay, ông chỉ còn là một người cô đơn, chua chát và thất vọng, một người đang bất thần đứng ra đo lường sự khoa trương hão huyền về danh dự con người , đo lường những sự cam kết và sức mạnh của chánh trị . Có nhiều người sợ rằng nếu ông ta cứ giữ một thái độ hiếu chiến muốn tử thủ, thì ông có thể sẽ đưa thủ đô Sài Gòn vào một trận chiến đẫm máu và phá hoại điêu linh.
CHƯƠNG MƯỜI BẢY
ĐẾN LƯỢT ĐẠI SỨ M. MÉRILLON LÊN SÂN KHẤU
Thứ Ba, ngày 22 tháng Tư
Với sự thờ ơ nhẫn nại trên đường phố Sài Gòn , với sự bối rối ở Hoa Thạnh Đốn , với sự kín đáo ở Mạc Tư Khoa , với niềm hy vọng ở Ba Lê, với sự từ chức của Tổng Thống Thiệu được loan báo chiều hôm qua. . . cho tới giờ nầy chỉ thấy có phản ứng vừa phải ở khắp mọi nơi thôi. Trên cả thế giới, chánh phủ nào bây giờ cũng chỉ chú ý đến những gì gọi là "biến cố sẽ xảy ra" mà thôi.
Đài phát thanh Sài Gòn chỉ đưa ra hai đoạn trích dẫn từ những bài bình luận đầu tiên của báo chí ngoại quốc:
* Của tờ "Thời Báo Nữu Ước" (New York Times) ở Hoa Kỳ :
-"Sự từ nhiệm của Nguyễn văn Thiệu trong chức vụ Tổng Thống V NCH đã làm giảm đi khả năng sẽ có một cuộc chiến đẫm máu dẫn đến sự "kết thúc" (nguyên văn của tác giả: "finish" bằng tiếng Mỹ, trong dấu ngoặc).. Các bên hiện diện của Việt Nam cuối cùng sẽ có một cơ hội thiết thực để tìm đến một giải pháp phù hợp với các điều khoản của Hiệp Định Ba Lê năm 1973"
* Của tờ "Thời Báo" (Times) ở Luân Đôn :
-"Ai đã phản bội ? người nào ? Đây là một câu hỏi rắc rối. Từ đây không còn nghi ngờ gì nữa là Chánh Phủ Hoa Kỳ rõ ràng đã có trao hẳn hòi cho Tổng Thống Thiệu những sự bảo đảm trong trường hợp tối cần thiết.. Tổng Thống Thiệu đã có hành động đúng khi ông tuyên bố rút lui vì quyền lợi của đất nước của ông ta, để mở đường cho những cuộc đàm phán....."
Câu hỏi mà mọi người đều đặt ra chỉ vỏn vẹn là : "Tổng Thống Trần văn Hương, người được chỉ định thay thế ông Thiệu, theo đúng Hiến Pháp Việt Nam, sẽ giữ được chánh quyền được bao nhiêu thời gian nữa?"
Ông Trần văn Hương, người thay thế ông Thiệu, là một ông già 72 tuổi, người đau yếu được may mắn qua khỏi bệnh bướu tim, có một dáng đi nặng nề và có tính hay do dự, luôn đeo kính râm dày để che dấu và bảo vệ cặp mắt hơn là sợ ánh sáng. Vốn sanh trưởng ở tỉnh Vĩnh Long, cha là một ông giáo và mẹ là người bán hàng, ông cũng trở thành một giáo viên, và sau đó là một thanh tra tiểu học, ông bước vào con đường chánh trị ngay sau khi Thế chiến Hai chấm dứt, và được bầu làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Tỉnh Tây Ninh trước khi được chỉ định vào chức vụ Thị Trưởng Sài Gòn . Liêm khiết và không ngại ngùng, với chiếc xe đạp hay bằng một chiếc xe 4 ngựa cũ kỹ loại vá víu, ông đi khắp mọi nơi, đến với mọi người, với mọi yêu cầu có tính cách nhân đạo, ông cũng tiếp những người nghèo hơn người giàu sang nên từ đó rất nhanh chóng được nổi tiếng là một người bình dân.
Ông chỉ giữ chức vụ nầy có 2 năm, và mặc dầu đứng ngoài chế độ của ông Diệm, ông vẫn bị bắt năm 1961 vì đã ký tên vào một bản tuyên ngôn chống Chánh Phủ .
Năm 1964, ông Hương trở lại chính trường sau khi ông Diệm bị các tướng lãnh lật đổ. Ông được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chỉ định làm Thủ Tướng Chánh Phủ , nhưng ba tháng sau đó ông bắt buộc phải từ chức vì áp lực của Phật Tử và của tướng Nguyễn cao Kỳ.
Sau thời gian 4 năm về hưu mới nầy, năm 1967 ông lại có mặt trên chính trường, với tư cách là ứng cử viên Tổng Thống, đối lập với Tướng Thiệu, nhưng không hề chỉ trích cá nhân Tướng Thiệu trong thời gian tranh cử.. Nhờ vậy vài tháng sau đó ông lại được Tổng Thống Thiệu trọng dụng, mời ông thành lập Chánh Phủ. Sau nhiều lần cải tổ, ông mới thành lập xong Chánh Phủ và ông là Thủ Tướng. Nhưng đến tháng 8 năm 1969, Thủ Tướng Trần thiện Khiêm lại thay thế ông. Đến năm 1971 ông được Tổng Thống Thiệu chọn đứng chung liên danh ứng cử Tổng Thống và từ đó ông mới là Phó Tổng Thống.
Có nhiều dư luận đồn đại ở Sài Gòn theo đó thì trong tương lai lại đến lượt ông Hương phải từ chức Tổng Thống , giao lại cho ông Trần văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện., cựu Tổng Trưởng Ngoại Giao trong thời kỳ hòa đàm Ba Lê, và với chức vụ nầy ông Lắm là một trong những người đã ký Hiệp Định Paris 1973..
Nhưng các tin đồn ở Sài Gòn nầy thực hư cần phải được kiểm chứng lại.Vị nguyên thủ Quốc Gia mới nầy, người mà tôi đã có dịp tiếp xúc nhiều lần trong những năm gần đây, mặc dầu trong tình thế cấp bách, không phải là người chịu lấy quyết định một cách vội vã, Trái lại, ông còn phải có thì giờ để tham khảo, dò hỏi, tiếp các nhân sĩ, các nghị sĩ, các dân biểu, các tướng lãnh, các nhà ngoại giao để biết được ý kiến từng người , biết được lập luận của họ, vừa cân nhắc từng khả năng trước khi ông từ chức, vừa phải giữ đúng mọi hình thức thủ tục, để chọn người nào mà ông nhận định là có đủ khả năng nhất, có thế đứng mạnh nhất để có thể đứng ra đàm phán với kẻ thù.
Nhìn vào tuổi tác của ông, tình trạng sức khỏe của ông, với sự nghiên cứu tiểu sử của ông, người ta có thể suy đoán được ngay thái độ và cách xử sự của ông. Là một người có óc địa phương cứng rắn, được thấm nhuần luân lý Khổng Mạnh, lại được đào tạo trên trường đời, hấp thụ một nền công dân giáo dục và toàn loại văn chương tuyển lựa (thư viện của ông đầy sách của tác giả cổ điển Pháp), ông già cộng hòa cứng đầu, gắt gỏng và tỉ mỉ nầy biểu lộ một sự gắn bó với truyền thống và luật lệ. Nếu có nhiều lần cải vã ra trò cho thấy ông có chống đối Tổng Thống Thiệu, hay nếu ông thường tố cáo trên báo về tham nhũng và những hành động thái quá trong chiến tranh, nhưng ông không bao giờ tán thành chuyện thương lượng với cộng sản mà lúc nào ông cũng khăng khăng gọi "bọn xâm lược Miền Bắc" (nguyên tác:Tonkinois). Là người giữ Hiến Pháp , nếu được chỉ định phải xúc tiến việc thương lượng với kẻ thù, ông nghĩ là ông phải thi hành trong khuôn khổ của thể chế mà ông có bổn phận phải gìn giữ.. "Phía bên kia" hình như không sẵn sàng để cho ông thi hành điều đó một cách dễ dàng đâu.
Chỉ vài giờ sau khi ông Hương nhận chức, Hà Nội đã xẵng giọng nói rõ quan điểm của họ :"Sự từ chức của Nguyễn văn Thiệu chỉ là một mưu mẹo, một toan tính chánh trị nhằm duy trì chế độ Thiệu mà không có Thiệu. Thật sự không có gì thay đổi hết, và đương nhiên cuộc chiến vẫn phải được tiếp tục".
Vả lại nhất thời cộng sản không có một lý do nào để đi đến một thỏa hiệp. Họ luôn luôn nhấn mạnh là họ chiến đấu trên ba mặt trận : quân sự , chánh trị và ngoại giao.
Trên phương diện quân sự , họ đang ở thế mạnh. Nhưng Sài Gòn cũng vẫn còn vài đơn vị có khả năng bám chặt trận địa, và Miền Đồng Bằng sông Cửu Long vẫn chưa hề hấn gì cả. Như vậy , vì không muốn chiếm một thủ đô Miền Nam đổ nát , họ muốn thúc hối tiến trình của một sự sụp đổ của Chánh Phủ hiện hữu trên phương diện chánh trị , để đi đến một sự thay đổi thành phần của một Chánh Phủ mới có thể ra lệnh cho quân đội ngừng băn , giúp mở toang cửa thủ đô Sài Gòn và Đồng Bằng sông Cửu Long cho họ thong thả tiến vào mà không cần phải chiến đấu.
Cuộc đấu tranh chánh trị được cộng sản đưa lên hàng đầu: có nghĩa là cộng sản muốn đạt được Hiến Pháp của một Chánh Phủ hoàn toàn không có một người nào mà họ gọi là "bè lũ Mỹ Thiệu". Nhiệm vụ chính của "nội các hòa bình" đó tạo điều kiện dễ dàng cho sự ra đời của một "Hội Đồng Quốc Gia Hòa Hợp và Hòa Giải" mà theo Hiệp Định Paris Hội Đồng nầy sẽ sửa soạn cho cuộc bầu cử.. Theo Hiệp Định Paris thì Hội Đồng nầy sẽ gồm có ba thành phần (CPLTCHMN, Sài Gòn , và lực lượng trung lập), cộng sản sẽ không gặp một điều bất trắc nào mà chỉ hoàn toàn có lợi cho họ khi họ bám chặt vào phương thức hợp pháp nầy . Làm chủ được tiềm lực của Sài Gòn nhờ vào số phận hẩm hiu của vũ khí và sự bỏ rơi của người Mỹ, cộng sản đang ở vị thế chọn lựa và áp đặt điều kiện với Sài Gòn (họ muốn chọn ai thì chọn, muốn loại bỏ người nào không thích hợp với họ thì loại bỏ). Họ cũng tự cho mình có quyền kiểu đó để lựa chọn những nhân vật trung lập "tin cậy được" để đưa vào đại diện cho lực lượng thứ ba trong Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia tương lai.
Như vậy, trên phương diện "hình thức", Hiệp Định Paris sẽ coi như được họ tôn trọng, không ai có thể chê trách là cộng sản đã không thi hành đúng từng chữ trong Hiệp Định Paris trên phương diện chánh trị . Và như vậy họ cũng bảo đảm được những phê phán thuận lợi cho họ đối với dư luận quốc tế, bảo đảm được sự cộng tác của các nhà ngoại giao ngoại quốc đang lo ngại không tránh được một trận chiến đẫm máu trong thủ đô Sài Gòn.
Trong hiện tại, với những mặc cả khó khăn, những nhà chánh trị của Miền Nam đang bàn cãi nhắm tìm một người đối thoại khả dĩ có thể được phía cộng sản chấp nhận.
Tổng Thống Hương vừa bắt đầu tỏ thiện chí của mình bằng cách chấp nhận sự từ nhiệm của "Chánh Phủ chiến tranh" vừa mới được vị Tổng Thống tiền nhiệm chỉ định cách đây 12 ngày. Bây giờ Ông đang cố gắng liên lạc với những lãnh tụ khác của Miền Nam và với những nhà ngoại giao Mỹ và Pháp ở Sài Gòn , để tiến hành một sự thay đổi đường lối chánh trị mà phía cộng sản đòi hỏi. Nhưng ông Tổng Thống già nầy vẫn cứng rắn không chịu từ chức:
- "Tôi không có quyền buông bỏ tính cách hợp pháp của Quốc Gia nầy ( một điều mà ông thường nhắc đi nhắc lại) để trao cho một nhân vật không được dân chúng bầu lên. Thay vì chuyển giao quyền hành và trách nhiệm một cách bất hợp pháp, tôi muốn thành lập một tân Chánh Phủ hẳn hòi, không có một dấu ấn nào về đường lối trước kia, để họ có đầy đủ quyền hành mà đàm phán với bên kia. "
Trong sổ tay của Tổng Thống Hương, thấy có tên của ba người có thể là Thủ Tướng, cả ba đều là người Miền Nam , ông Trần văn Lắm, ông Nguyễn văn Huyền, và tướng Trần văn Đôn. Ông đã tiếp cả ba người , tuần tự từng người một.
- Ông Trần văn Lắm, là người sanh trưởng ở Chợ Lớn, 62 tuổi, đầu tròn trịa tóc chải nằm xuống thật kỹ lưỡng, gương mặt rất thản nhiên. Ông là một nhân sĩ ung dung, tự tin, với một tư thế hay giúp người . Ông đã học Dược ở Hà Nội và có một số vốn liếng khá lớn nhờ sản xuất và bán thuốc tây. Ông đã từng là Thống Đốc Nam Kỳ, Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến, Đại sứ V NCH ở Úc Châu, và sau đó là Tổng trưởng Ngoại Giao, và với tư cách nầy ông là người đã ký vào Hiệp Định Paris 1973, nhưng sau đó ông bị Tổng ThốngThiệu bãi nhiệm chỉ vì Tổng Thống Thiệu không thích cử chỉ của ông khi ông ôm bà Nguyễn thị Bình vào lúc ký Hiệp Định và gọi bà Bộ Trưởng Ngoại Giao của CPLTCHMN bằng " bà chị thân yêu". Được bầu làm Chủ Tịch Thượng Viện vào cuối năm 1973, được người Mỹ tích cực ủng hộ, kể từ lúc đó ông đã cố gắng tỏ thái độ độc lập đối với ông Thiệu, và giữ một khoảng cách nào đó với những vấn đề liên quan đến chánh trị, một thái độ cũng không khó gì lắm, so với công tác quản trị công việc làm ăn riêng của mình, công tác nầy coi như đã chiếm gần hết thì giờ của ông - nhất là ngân hàng tư của ông, một ngân hàng rất thịnh vượng-
- Ông Nguyễn văn Huyền: 61 tuổi, tiến sĩ luật học, một luật sư có tài. Sanh trưởng ở Mỹ Tho, ông là một người rất liêm khiết và được mọi người kính nể. Ông là lãnh đạo những người công giáo Miền Nam (ôn hòa hơn những người công giáo từ Miền Bắc vào), là bạn thân với Đức Cha Nguyễn văn Bình, Tổng Giám Mục giáo phận Sài Gòn . Ông có một đời sống rất khắc khổ, rất xứng đáng, tận tụy hết sức mình với Đạo giáo, và công việc của Quốc Gia . Là Chủ Tịch Thượng Viện từ 1967 đến 1973, ông từ chức để phản đối việc sửa đổi Hiến Pháp theo ý của Tổng Thống Thiệu để giúp ông ta được ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ thứ ba. Ông tuyên bố ngay lúc đó :
- " Sự chấp thuận bản văn đó, nhờ vào những áp lực không thể chấp nhận được, kèm theo những "bao thơ" được phân phát... đã tước hết hy vọng của những người trong chúng tôi lúc nào củng muốn đóng góp vào công tác xây dựng một nền dân chủ thật sự cho đất nước " .
Sau đó ông tham gia phong trào "chống tham nhũng" của linh mục Thanh và từ đó lúc nào ông cũng kêu gọi sự từ chức của Tổng ThốngThiệu.
- Trung tướng Trần văn Đôn: 58 tuổi, sanh trưởng và được đào tạo bên Pháp. Ông thuộc một gia đình cổ xưa và có uy tín ở Miền Nam. Cha ông là một người tình nguyện trong Thế Chiến thứ Nhất , đã học Y Khoa ở Bordeaux, và vô dân Pháp. Khi trở về Việt Nam , ông nổi danh trong việc hành nghề ở Sài Gòn , trở thành một nhân sĩ có tên tuổi của thành phố, và được các vị Toàn Quyền người Pháp ở Miền Nam che chở và thường xuyên tiếp kiến. Là bạn thân của lãnh tụ Nam Việt Trần văn Hữu, Thủ Tướng đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa, ông được đặc ân của Thủ Tướng Hữu bổ nhiệm ông làm Thị Trưởng Sài Gòn Chợ Lớn, và sau đó làm Đại Sứ ở Luân Đôn. Nhưng vì ông quá thân thiết với Đại sứ Pháp ở Anh Quốc (ông Massigli) đến độ ông thường tiết lộ những chuyện mật kín của Việt Nam , cho nên Thủ Tướng Hữu thấy cần phải thận trọng hơn và đổi ông sang làm Đại sứ ở La Mã (Ý đại Lợi).. Vào năm 1956, rất nhiều người dân lớn tuổi ở Miền Nam đã nghiêm khắc phê phán ông, khi ông ta vì muốn được sự trọng dụng của Tổng Thống Diệm , kẻ thù của người bảo trợ cũ của ông mà từ bỏ quốc tịch Pháp. Thái độ có tánh cách cơ hội nầy đã làm cho người ta hiểu rõ hơn về những hành động liên tiếp và mâu thuẫn của đứa con trai của ông, Trần văn Đôn, lúc nào củng bị ám ảnh về một "sự thành công" nào đó.
Con người mảnh khảnh nhưng có thân hình đẹp trai, với những nét thanh bai, tao nhã và quyến rũ, ông Trần văn Đôn là một tướng lãnh chánh trị hơn là một chỉ huy quân sự . Thành thạo trong những tằng tịu vụng trộm và trong những cuộc vận động ở cấp Bộ, nghề nghiệp và sự thăng quan tiến chức của ông phần lớn nhờ vào sự bảo trợ mà ông biết giành được qua những hành động nổi bật của mình. Cựu sinh viên sĩ quan trường đào tạo sĩ quan Saint Maixent (Pháp), sau đó trường quân sự Tông (Bắc Việt ), trung úy André Trần văn Đôn bắt đầu đi lên từ các văn phòng Phủ Thủ Tướng (Xuân, Hữu và Diệm). Vào năm 1956, thình lình ông mất hết sự kính trọng của tất cả những người bạn cũ người Pháp và của nhiều người bạn trong quân đội, khi vì muốn làm vui lòng ông Diệm , ông đã chủ tọa buổi lễ "thiêu hủy những tàng tích quân sự trong thời thuộc địa dưới sự thống trị của người Pháp". Ngày hôm đó, tướng Trần văn Đôn đã cho đốt hết những cấp bậc và huy chương của quân đội Pháp bằng cách đích thân châm lửa vào củi. Bà chị ruột của ông phẩn nộ vì hành động và cử chỉ của ông, đã phải tát cho ông hai tát nên thân.
Về sau nầy, vì ông đã quay lưng lại với bạn bè và nguồn gốc Pháp của mình, tướng Đôn lại đi tham gia vào cuộc hạ sát Tổng Thống Diệm, người đã cho ông quá nhiều danh vọng và đã bổ nhiệm ông làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Tướng Đôn đã tham gia sau đó vào tất cả các biến chuyển chánh trị ở Miền Nam Việt Nam . Là bạn của tướng Dương văn Minh, ông Đôn lại xa lánh ông nầy để nhảy sang với tướng Cao Kỳ, nhờ tướng Kỳ nâng đỡ để được bầu vào Thượng Viện, rồi lại bỏ tướng Kỳ để làm thân lại với Tổng Thống Thiệu.... bằng cách trình và bênh vực trước lưỡng viện Quốc Hội dự án sửa đổi Hiến Pháp nhằm tăng nhiệm kỳ của Tổng Thống lên 5 năm thay vì 4 năm và cho phép Tổng Thống được quyền ra ứng cử nhiệm kỳ thứ ba.
Để đền bù lại việc nầy, coi như một trao đổi, Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm ông Đôn làm Phó Thủ Tướng. Nhưng rồi, quá lo nghĩ cho tương lai của mình, tướng Đôn lại khôn ngoan tránh né không muốn dính chặt với Tổng Thống Phủ bằng cách đi tìm cách ngao du khắp nơi ở ngoại quốc, qua Âu Châu, Phi Châu thuộc Pháp, đi Nhật và Hoa Kỳ . Nhất là ở Paris, ông nối lại liên lạc với một số thượng cấp cũ của ông, biểu lộ những sự hối tiếc của mình đã có hành động "không tế nhị" khi chủ tọa "buổi lễ dại dột để đốt cấp bậc và huy chương Pháp".
Ông ta được các ông Giscard d'Estain và Poniatowsky tiếp kiến, cảm động vì cử chỉ tốt của ông, vì tiếng Pháp quá gọt dũa của ông, và vì những cam kết gắn bó vời "nền văn hóa và sự rạng rỡ" của nước Pháp .
Ông ta nhờ một người bạn lâu đời của Việt Nam là tướng Loisillon để can thiệp xin cho ông được quyền lãnh trợ cấp của quân đội Pháp, vì ông đã phục vụ trong quân đội nầy 16 năm... và lãnh hồi tố được một số tiền là 130.000 quan Pháp (3 quan Pháp = 1 mỹ kim lúc đó). Đồng thời, nhờ sự giúp đỡ của ông Sainteny (cựu Toàn Quyền Cộng Hòa Pháp ở Bắc Việt ), ông giữ được liên lạc đều đặn với những thành phần trung lập bị trục xuất sang Pháp, những người còn quan hệ chặt chẽ với Hà Nội và CPLTCHMN. Tại Sài Gòn ông giữ mối giao hảo mật thiết với đại sứ Pháp, ông Mérillon, người coi ông như một trong những lãnh tụ có khả năng lãnh đạo một Chánh Phủ liên hiệp. Là một con người kín đáo, nhiều màu sắc, và lịch lãm không chê được, cho tới giờ nầy ông Trần văn Đôn đã thành công trong việc luồn lách qua những giọt nước của các cơn mưa sa bão táp mà vẫn không ướt bàn chân.
Là một người quyến rũ may mắn, ông Đôn còn đi đến hành động ve vãn và thân thiện với mấy ông chồng khờ dại mà ông ta lường gạt để cưỡm mấy bà vợ nhẹ dạ- nhưng ông khôn khéo vẫn giữ được gia đình của mình nguyên vẹn và êm ấm. Mấy đứa con của ông cũng được giáo dục tốt như ông, học hành cũng rất tốt và vẫn rất mực kính trọng ông.
Trong khi Tổng Thống Hương tiếp tục thăm dò và thử thành lập một Chánh Phủ với sự góp ý của các ông Trần văn Lắm, Nguyễn văn Huyền và Trần văn Đôn, thì người ta chú ý nhiều hơn về những cố gắng ngoại giao hướng về một nền "hòa bình qua thương lượng" hơn là về tình hình quân sự thật tình đang rất nguy kịch.
Góp mặt như những nhà trung gian hòa giải đắc lực nhất, là người Pháp, họ giữ những sự tiếp xúc với tất cả các Bên trong cuộc chiến, không riêng gì ở Sài Gòn, mà cả ở Paris và Hà Nội.
Thái độ và hành vi sau cùng của Chánh Phủ Pháp đã có một tiếng vang nào đó trong thủ đô Miền Nam , ở đó nhiều nhà trí thức tưởng rằng Paris đã lấp khoảng trống do Hoa Kỳ bỏ lại. Đối với một dân tộc đang lo sợ sẽ bị bỏ rơi thật sự, sự kiện mà điện Élysée kêu gọi (nguyên tác :inviter :mời) người Pháp hãy ở lại Việt Nam , hình như là một bằng chứng cho thấy là mọi việc rồi sẽ không kết thúc bằng một cuộc tàn sát, hay tắm máu đâu.
Tất cả dân chúng ở Sài Gòn đều nhắm vào ông Đại sứ Pháp Mérillon, Người nhỏ thó, gầy, nhưng nóng tính, tóc đen , ông Mérillon có cặp mắt tròn sáng ngời dưới cặp kính râm. Ông là cựu sinh viên trường E.N.A., năm 1970 đã nổi bật và được dư luận chú ý trong lúc chiến cuộc "tháng chín đen" ở Jordan đang hồi khốc liệt . Lúc bấy giờ ông đang là Đại sứ Pháp ở thủ đô Amman, ông đã bỏ tiền ra bất chấp tốn hao để lo chuyển thực phẩm và thuốc men đến cho dân chúng, cho những người ngoại quốc đang bị phong tỏa kẹt trong vòng chiến, và cho những con tin đang bị du kích Palestine cầm giữ.. Táo tợn hơn dưới cơn mưa đạn và rốc kết, ông đích thân đứng ra hướng dẫn các phi công của các phi cơ cứu viện đáp xuống phi trường. .Là một nhà ngoại giao bất chấp hết thủ tục, thường mặc sơ mi nhẹ và quần kaki dài hơn là đứng đắn có thắt cà vạt, ông hăng say làm việc nhưng không được kiên nhẫn lắm, nên đôi lúc có những cơn nóng giận bất thường.
Các cộng sự viên của ông thường nói về ông :
-" Ông rất tự tin, có thói quen tổng kết tình hình và phán đoán con người qua vài câu bén nhọn và nhanh gọn, ông tự biết mình là một người thông minh và không bỏ qua một cơ hội nào để chứng minh điều đó ".
Những người Pháp lớn tuổi ở đây nhận thấy ông đã "tăng cường" nhân viên của Tòa Đại Sứ, để làm tăng giá trị cho vị thế của ông hơn là muốn có một sự hữu hiệu thật sự cho công việc, và họ nhún vai phê bình thêm:
- " Ông ta khuấy động nhiều quá, làm ồn quá, coi chừng ông ta sẽ có nguy cơ trèo cao té nặng đó !"
Thật ra, từ mấy ngày nay, ông Jean- Marie Mérillon đã tỏ ra rất năng động. Tin chắc là cái giá phải trả cho một cuộc "chiến đấu trong danh dự" của Sài Gòn sẽ thật sự rất đắt, nên điều lo lắng đầu tiên của ông là phải cố tránh không để cho thủ đô bị đánh chiếm. Muốn được như vậy, ông hình dung ra một sơ đồ căn cứ trên một ý nghĩ thật giản dị : phải đạt cho được sự từ chức của Tổng Thống Hương và thành lập một Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải với những nhân vật thuộc "thành phần thứ ba". Hội đồng nầy chỉ cần tồn tại trong vòng hai hay ba tuần lễ mà thôi. Một thời gian trì hoãn. Muốn được như vậy, là ông phải lắc mạnh cái mà ông gọi là "sự bất động cố hữu" của ông già Hương; phải cố thuyết phục cho đến cùng rằng sự chống trả bằng võ lực bây giờ là điều hoàn toàn vô ích; và cố gắng hòa giải các nhóm "đối lập hợp pháp" vì lúc nào họ cũng chia rẻ với nhau.
Vậy bây giờ là ông bắt đầu tiến hành những cuộc mặc cả hết sức khó khăn rồi trở thành mạnh bạo hơn khi mà mỗi giờ trôi qua là mỗi giờ áp lực của lực lượng cộng sản càng nặng thêm lên.
Hà Nội vừa mới xác định một lần nữa lập trường của họ :
- "Trong bộ máy chánh quyền mới sẽ được thành lập ở Sài Gòn , không được có mặt bất cứ người nào đã ở trong bè cánh của Thiệu, có nghĩa là những người đã hợp tác chặt chẽ với Thiệu để chống phá quyền lợi Quốc Gia, kéo dài cuộc chiến và phá hoại Hiệp Định Ba Lê. "
Với những lời tuyên bố nầy, đương nhiên bị loại ra ngoài ông Trần văn Lắm, đương kim Chủ Tịch Thượng Viện và tướng Trần văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Qyốc Phòng của Chánh Phủ "chiến đấu", tuy đã từ nhiệm nhưng vẫn còn là "xử lý thường vụ".
Về phía ông Nguyễn văn Huyền, ông đã từ chối không nhận đề nghị lập Chánh Phủ bằng một lời tuyên bố rất giản dị "Trong lúc tình hình cần có một sự đoàn kết Quốc Gia rộng rãi, với tư cách một người lãnh đạo công giáo, tôi sẽ nhanh chóng bị phê phán là muốn lập một "Chánh Phủ tôn giáo "
Do vậy lại bắt đầu trở lại những sự mặc cả mới.., mà ông Mérillon hơi chua chát gọi đó là "những trò chơi viển vông" . Tin tức từ mặt trận đưa về thật đáng lo ngại.. Một số đơn vị của Chánh Phủ đang thiếu đạn . Về hướng Tây Bắc của thủ đô, trung đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 25 đang phòng thủ một giao lộ rất quan trọng là Gò Dầu Hạ, chỉ còn có vài tràng mỗi ngày dự trữ cho các khẩu pháo 105 và 155 ly. Trên mặt trận hướng Đông, số phận của chiến trận chỉ tùy thuộc vào sự yểm trợ của Không quân chiến thuật..
Tin chắc rằng những cuộc bàn cải dài dòng của các chánh trị gia và các nhà ngoại giao còn phải kéo dài trong vài ngày nữa, nên tôi muốn đi trở lên mặt trận hơn.
CHƯƠNG MƯỜI TÁM
NGỌN ĐỒI CUỐI CÙNG
THỨ TƯ, NGÀY 23 tháng 4
C ứ cách nhau 3 phút là các phóng pháo khu trục cơ cất cánh và đáp xuống phi trường.Trên bãi đáp trực thăng số 42, đang có 4 chiếc gồm 2 chiếc vận tải loại lớn "Chinooks" và 2 trực thăng võ trang U.H. 1 B. đang sắp sửa cất cánh. Nhiệm vụ: tiếp tế đạn cho 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 48 bộ binh đang đụng địch ở chân núi Thị, một ngọn núi chế ngự hết cả vùng của đồn điền cao su An Lộc rộng lớn (S.I.P.H.), và đang chuẩn bị chống trả những trận tấn công dữ dội hơn của cộng sản .
Thiếu tá Luân, 36 tuổi (với 4000 giờ bay vá 12 huy chương), một trong những phi công ưu tú nhất thuộc Không Quân chiến thuật, đã chấp nhận cho tôi cùng bay với ông ta. Chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại mỏm núi và sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ bay lượn trên khắp vùng trận địa - 60 cây số dàn quân - của chiến trường Xuân Lộc trên quốc lộ 1 và tỉnh lộ 24 .
Có một số thợ máy mặc quần áo chống cháy đang gắn những tấm lưới thép dưới lườn thực thăng Chinooks và chất đầy ắp các thùng đạn vào đó. Mặc vào một cái áo giáp chống đạn và đội một nón sắt có kính che mắt, tôi nịt giây nịt an toàn vào rất kỹ lưỡng. Trên phòng lái, là thiếu tá Luân và sĩ quan hoa tiêu. Bên trái của tôi là một sĩ quan pháo binh có cả ống nghe trên mủ và ống nói dưới cằm. Phía sau tôi ở hai bên trong hai ụ súng là hai anh xạ thủ với hai khẩu đại liên 50 chỉa ra ngoài, và dưới lườn trực thăng có hai ống phóng mỗi ống chứa 7 quả rốc kết. Chúng tôi cất cánh lúc 18 giờ 15 phút.
Trực thăng lấy cao độ nhanh, và trực chỉ hướng Đông. Xuyên qua các đám mây chúng tôi thấy một đường thẳng dài của quốc lộ 1 , lấm chấm có vài dấu nổ của đạn pháo.: đó là tác xạ ngăn chặn của pháo binh sư đoàn 5 bộ binh đang phòng thủ các ngõ vào Trãng Bom.
Trực thăng sau đó chui qua các đám mây xuống thấp , bay rà rà trên các ngọn cây cao su của hàng S.I.P.H. Trên một con đường mòn thẳng vắt ngang đồn điền cao su, trên 12 xe vận tải Molotova chở đầy bộ đội đang chạy rất gần. Thiếu tá Bẻ cần quẹo gấp Luân đưa trực thăng nằm đúng ngay trên trục của đường mòn. Thình lình, hai, rồi bốn sự rung chuyển ngắn làm chấn động chiếc trực thăng. Bốn quả rốc kết đã được Luân phóng đi từ hai ống phóng và nổ đúng vào đoàn xe vận tải của Bắc Việt . Nhiều tiếng nổ dữ dội cho thấy là các quả rốc kết đều trúng mục tiêu. Lửa , khói và miểng đạn bắn ra tung tóe gần như bao trùm chiếc trực thăng, vì nó bay rất thấp. Tôi nghĩ là chúng tôi cũng có thể gập nguy cơ lắm. Chiếc trực thăng rung lên từng chập. Các đại liên thôi thì thi nhau nhả đạn. Xuyên qua cửa ngang hông được mở toang ra, trong chớp nhoáng tôi thấy một chiếc xe đang cháy và những tên bộ đội bé nhỏ mặc quân phục xanh bị cháy đang nhảy tứ tung như những tia lửa bắn lên tứ hướng từ một cục than hồng. Thế rồi không còn nghe thấy gì nữa cả. Chiếc Chinooks lại bay rà lên trên tấm thảm xanh của rừng cao su trở lại, chỉ còn nghe tiếng phành phạch của hai cánh trực thăng. Cuộc tấn công vừa rồi chỉ kéo dài có 20 giây. Sáu phút sau, chúng tôi đã thấy Núi Thi., Một mỏm đá với một chòm cây và một gian nhà lớn chỉ còn nửa nóc . Đó là biệt thự của viên thanh tra đồn điền cao su. Thiếu tá Luân đáp xuống một bãi đất rộng được đánh dấu bằng mấy trái khói mầu vàng, nằm cao hơn mỏm đá. Một anh thiếu úy đưa chúng tôi đến Bộ chỉ huy của Trung tá Phát, một phòng lớn ở tầng trệt của biệt thự, có bao cát chung quanh, và một số bàn đầy máy móc truyền tin và điện thoại.
Trung tá Phát hớt tóc ngắn, cầm to, tôi có cảm tưởng như người ông toát ra sức mạnh và nghị lực. Chung quanh ông thấy có một nhóm sĩ quan ăn mặc sạch sẽ và chỉnh tề, đang chờ nhận lệnh. Trung tá Phát bắt tay tôi, tay kia đấm Luân một phát, rồi đãi chúng tôi mỗi người một cốc cà phê nóng có chế vào một ly rượu mạnh, xong vùa cười vừa nói :
- " Các anh đừng lo, căn nhà nầy chắc lắm, toàn là xi măng cốt sắt và trước khi có giặc nghen ! Năm 1947 biệt thự nầy đã bị cháy và người Pháp đã bỏ đi. Hai chục năm sau người Mỹ lại sửa lại, tăng cường tới nóc nhà bằng các tấm thép. Họ đặt mấy chiếc tủ lạnh và sơn phết lại hết, màu xanh lá cây."
Rồi sau đó ông ta nghiêm sắc mặt lại, nói với thiếu tá Luân :
- "Tôi đã mang lên được trên ngọn đồi nầy 4 khẩu pháo binh 105 ly và 3 khẩu 155 ly. Nhưng tôi thiếu đạn, tôi chỉ có 30 quả cho mỗi khẩu. Tôi cần gấp ba lần như thế, và một số đạn bách kích pháo. Anh cố tìm mọi cách mang lên đây cho tôi. Đi làm 6 hay 8 chuyến. Và làm sao để tôi có một trực thăng võ trang C.119 trước 12 giờ đêm và cho nó trực thôi, sẳn sàng chờ lệnh, vì bọn Bắc Việt chắc chắn sẽ chơi tôi vào lúc 2, 3 giờ sáng gì đó thôi.
- Hai chiếc Chinooks đang mang đến cho Anh 3 tấn đạn , thiếu tá Luân đáp ngay. Họ sẽ đến đặt trước nhà cho anh trong một vài phút nữa thôi. Về phần còn lại tôi sẽ làm cho anh tối đa".
Thiếu tá Luân tiến tới một máy truyền tin và gọi Biên Hòa , Trung tá Phát đốt một điếu thuốc , lật bản đồ ra và giải thích cho tôi nghe về tình hình :
- " Sư đoàn 18 và Liên đoàn biệt động quân của đại tá Phước đã đánh nhau với bọn nó như những con sư tử trong suốt 14 ngày ở thành phố Xuân Lộc đổ nát nầy. Họ đã bình tĩnh lãnh đủ hơn 20.000 quả pháo và rốc kết. Họ đã bắn sụm 37 chiến xa T.54 và cho đo ván hơn 5000 tên cộng sản . Thứ hai vừa rồi, Bắc Việt đã bọc vòng phía sau thành phố chiếm lại giao lộ Suzannah và sơi luôn một đoàn xe tiếp tế của mình. Sau đó họ bố trí cẩn thận hai bên ngã tư, điều chỉnh sẳn tác xạ và để 2 sư đoàn gần đó trong tư thế chờ đợi, hy vọng đánh tan xác chúng ta khi ta rút quân. Nhưng tướng Đảo đã "chộp" được chúng nó. Trưa thứ hai Tướng Đảo đã phản công và giải tỏa phần đất chung quanh phi trường trên hơn 2 cây số..đồng thời xin tiếp tế đạn thật nhiều cả bằng trực thăng và thả dù. Sau đó ngày thứ ba, nghĩa là mới hôm qua đây, thay vì lui về ông đã cho cả sư đoàn đi thẳng về phía trước theo trục các đồn điền Courtenay- Xa Bang- Bình Ba- Bà Rịa. Ông đã bất thần phá vỡ vòng vây Bắc Việt , mang theo tất cả thương binh, tất cả xe cộ (50 xe vận tải và trên 30 chiến xa. Không quân đã yểm trợ ông bằng cách dội bom CBU để dọn đường cho sư đoàn , loại bom mà cộng sản Bắc Việt rất khiếp sợ. Để giúp cho tướng Đảo thành công trong sự điều quân của ông ta, chúng tôi đã cho 2 tiểu đoàn đánh ngược hướng tiến quân của sư đoàn (1 tiểu đoàn dù và tiểu đoàn của tôi), để cho cộng sản Bắc Việt tưởng rằng chúng ta sẽ rút lui về hướng Sài Gòn theo quốc lộ 1. Tiểu đoàn Dù tình nguyện đâm thẳng vào Gia Kiệm để cầm chân một trung đoàn địch. Tiểu đoàn của tôi đã băng ngang đồn điền S.I.P.H. đánh ngay sau lưng địch, hạ sát trên 300 tên bộ đội, cắt hết đướng dây điện thoại của chúng, và bất ngờ đã bắn hạ 2 chiến xa T.54... Và chúng ta đã lên thẳng trên ngọn đồi nầy vốn chỉ được có một đại đội địa phương quân phòng thủ, và chúng tôi đã mất hết hai ngày hai đêm dùng cuốc , vá để tổ chức vị trí phòng ngự. Muốn đuổi chúng tôi ra khỏi đây hả?, chúng cũng phải trả một giá hết sức đắt."
Đại úy Nhân đưa tôi đi xem vị trí phòng ngự. Thiếu tá Luân đã cất cánh với chiếc trực thăng của ông ta.
Ngọn đồi nầy chiếm một vị trí rất đặc biệt, nó là một khối đá cao trên 100 thước , mặt phía Tây thẳng đứng và rất nguy hiểm, mặt phía Bắc và phía Đông toàn là rừng, duy mặt Nam thì có một lô cao su khá lớn bao quanh.. Là một cao điểm duy nhất giữa một khu đất bằng phẳng rộng lớn, vị trí nầy chế ngự cả vùng, địch khó có đường tiến sát đến đây được mà không bị lộ, và không thể leo lên hay tràn ngập vị trí phòng thủ được bằng một cuộc tấn công trực diện. Dưới chân đồi và ở cách xa khoảng 1500 thước là trung tâm đồn điền An Lộc, với một hệ thống dường sá như bàn cờ ở dưới làn sóng xanh um của dồn điền cao su An Lộc. Một bên là sân bay và bệnh xá, bên kia là một dãy nhà kho, câu lạc bộ, biệt thự của giám đốc đồn điền, nhà của các nhân viên phụ tá, hồ tắm, sân tơ nít, và trung tâm truyền tin. Chỉ là một thành phố rất nhỏ nhưng hiện đại như thế thôi, do một nhúm người Pháp điều hành mà nó nuôi sống được hằng ngàn công nhân và kỹ thuật gia Việt Nam cư ngụ trong các làng khéo tổ chức với những căn nhà tuy nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi (điện nước v.v..)
Các nhà trồng tỉa Pháp ở Việt Nam thật là đáng phục. Siêng năng, thẳng tánh nhưng kín miệng, họ sống với nhau rất là đoàn kết.. Đã quen với những sự nguy hiểm, thường đối đầu với những bài toán rất tế nhị, hay bị bọn Việt Cộng ở địa phương quấy nhiễu, thường hay bị bắt để đòi tiền chuộc, đôi khi còn bị không quân của ta bắn nữa, còn di chuyển thì bắt buộc phải đi trên những con đường hay bị phục kích, những người Pháp nầy làm việc trong những điều kiện hết sức khó khăn. Họ phải đi khắp các lô cao su, kiểm soát công việc cạo mủ hằng ngày, lo tu bổ dụng cụ, kiểm soát số lượng mủ., theo dỏi cây ương và còn phải chú ý đến sức khỏe của nhân công mà họ vừa là chủ vừa là những người đỡ đầu. Họ phải giải quyết tất cả các bài toán về nhân sinh , như dàn xếp các cuộc gây gỗ trong gia đình , giữ luôn cả sổ sách về hộ tịch và còn phải giúp đở về dịch vụ săn sóc y tế cấp thời miễn phí nữa. Họ không bao giờ phàn nàn điều gì cả và chỉ có một lo âu : làm sao cho công việc mà họ có trách nhiệm được chạy đều. Lúc nảy, cũng gần như mỗi buỗi chiều, họ có nghe tiếng đại bác. Nhưng đêm nay, có thể họ có nguy cơ bị kẹt giữa hai lằn đạn của chiến trận.. Có phải vì thế mà mặc dầu đêm đã xuống rồi mà sở An Lộc vẫn chưa lên đèn ?
Tôi chia xẻ nhận xét đó với đại úy Nhân.
-" Không phải đâu, người sĩ quan trẻ nầy đáp lời, những người Pháp của đồn điền nầy không có ở đây nữa. Họ đã gặp rất nhiều khó khăn. trước hết là đối với những người dân chạy giặc từ Miền Trung vào, rồi sau đó là dân Xuân Lộc nữa . Hằng ngàn người bất thần bị bom đạn, nên đã ùa vào đồn điền cao su lánh nạn. Chủ đồn điền là ông Parnès, không lo xuể. Ông ta đã thiếu gạo, nên đã phải băng ngang qua vùng lửa đạn để tìm xe lấy gạo. Ông đã săn sóc cho đàn bà và trẻ con , đích thân chích thuốc cho họ, nhưng không có cách nào để điều trị cho những người bị thương và những bệnh nhân nặng. Vã lại có quá nhiều người . Ông ta đã cố xuống Xuân Lộc để tìm một trong năm bác sĩ của bệnh viện dân chính, nhưng không còn ông nào, họ đã chạy hết cả rồi. Ông ta lại phải trở về đồn điền, và tiếp tục đi tìm họ trong những người dân tỵ nạn đang ở trong các lô cao su.. Cuối cùng ông ta cũng gặp được một người đang giả dạng thường dân, mặc bộ đồ bà ba đen, choàng khăn và đội nón lá sùm sụp để che mặt lại. Ông ta đã nắm lấy bác sĩ nầy và lôi về xe Jeep của ông. Bác sĩ nầy khẩn khoản xin cho ông một thời gian :" Tôi đang tìm bà vợ của tôi, bà ta sắp sửa tới ngày giờ sinh cháu rồi mà lạc mất 3 ngày nay. Khi nào tôi gặp được bà ta thì tôi theo ông ngay" Ông Parnès đã giúp bác sĩ nầy đi tìm bà vợ, và cuối cùng họ đã gặp người đàn bà bất hạnh nầy nằm trên một vũng bùn gần một con rạch nhỏ. Bà đã sanh con trên miếng đất trống, giống như một con thú vậy !
- Và ông bác sĩ đã làm gì ?
- "Vợ ông bụng căng lên đầy mủ. Bà ta qua đời vài giờ sau đó, nhưng ông bác sĩ đã giữ lời
hứa, mang đứa con của ông về bệnh viện của đồn điền và sau đó đã làm việc thật bận bịu với những người dân chạy loạn.
Đại úy Nhân đưa tôi một điếu thuốc , dẫn tôi tới xem một ụ phòng thủ và nói tiếp :
- " Các ông chủ sở cao su nầy có những mối ưu phiền khác. Các đơn vị Bắc Việt đã đi ngang qua đồn điền. Một trung đoàn "bộ đội" (nguyên tác :Bo- Dois") quá khát nước đã tràn vào nhà máy và đã nốc sạch cả bồn nước của nhà máy, làm nhà máy phải ngưng hoạt động vì bồn nước nầy dùng để làm nguội máy móc của nhà máy. Rồi lại đến lượt một trung đoàn khác sau đó không lâu. Toán tiền sát của họ đã đến trung tâm đồn điền. Toàn là người Bắc và toàn là nông dân là những người chưa từng thấy cái gì hết. Họ đã lục lọi đủ mọi thứ, và đã dùng báng súng đập vỡ hết các thứ kể cả các máy thu thanh. (nguyên tác :postes de radio). Sau đó họ đã bắt đi 3 vị phụ tá, trói họ lại và dẫn vào rừng, còn đe dọa giết họ nữa bởi vì họ là "gián điệp của Mỹ" . Các anh công nhân chạy đi tìm gặp bọn Việt Cộng ở địa phương, một chánh trị viên người Nam đã đến gặp bộ đội Miền Bắc và cuối cùng đã lãnh họ về được với một "giấy đi đường". Các anh phụ tá nầy đã trở về làm việc ở sở. Rồi một đơn vị Bắc Việt khác lại đi qua, lại bắt họ trói dẫn đi vào rừng. Nhưng lần nầy thì không còn một ai biết được số phận của họ ra sao nữa .
- Còn thợ thầy công nhân thì sao ?
- Họ vẫn làm việc nhưng họ sợ bị trả thù. Cách đây 2 ngày, một tiểu đoàn chánh quy Miền Bắc đã bị thiệt mạng trên 100 người trong một bãi mìn. Họ đã tràn vào làng công nhân ở khu D và đã dùng loa kêu tất cả phải ra ngoài. Có một số ra ngoài, nhưng phần đông đều ở trong nhà không ra. Các binh sĩ Bắc Việt đã nổ súng và liệng lựu đạn vào các căn nhà một cách rất ung dung và đã tàn sát trên 100 người phần đông là đàn bà và trẻ con...."
Đêm đã xuống hoàn toàn. Binh sĩ đã nằm ở vị trí chiến đấu , Và rải rác ở phía bên đường dẫn xuống đồng bằng, giữa những hòn đá, ở những vị trí pháo binh và bách kích pháo, các xạ thủ củng đã sẵn sàng. Dài theo bìa phía đồn điền, là một đại đội biệt động quân với các khẩu trung liên , súng phóng lựu và súng không dật 57 ly. Phải biết chờ đợi và biết giữ yên lặng.
Vào lúc 10 giờ đêm, có tiếng phành phạch của trực thăng Chinooks nghe được mỗi lúc một gần... Binh sĩ cho đốt những ngọn đèn mà ánh sáng chỉ có trên không mới nhìn thấy, đánh dấu bãi đáp để nhận hàng tiếp liệu. Những chiếc trực thăng đảo tròn trên Bộ Chỉ Huy, với những kiện hàng nặng trong các lưới thép lòng thòng dưới lườn. Chỉ trong vòng vài phút, họ đã đặt các kiện hàng tiếp liệu xuống đất, hệ thống dây bịt thả ra hết và trực thăng lại bay đi. Và họ trở lại hai lần nữa. Từ xa, các tiếng nổ của đại bác gầm thét như những tiếng sấm trong cơn mưa. Nhưng cơn bão mà chúng tôi đang chờ đợi lại không thấy tới. Nằm gọn trong một hốc đá, tôi không tài nào ngủ được . Chỉ nghe tiếng dế gáy liên hồi.....
Nhưng đến 3 giờ sáng thì mọi sự đều biến chuyển. Nhiều chùm lửa đỏ rực của pháo binh Bắc Việt bay vào ngọn đồi. Có môt số cây bị trốc cả gốc lên. Rồi có một đợt tiếng la vang dội dưới chân các mỏm đá, phía dưới chân đồi.. Đó là lệnh xung phong của cán binh cộng sản . Bộ đội Bắc Việt tấn công trực diện dọc theo hai bên con đường . Binh sĩ Miền Nam không bắn phát súng nào. Họ chờ cho "bộ đội" đến gần hơn dưới 100 thước. Và lúc đó tất cả các loại súng đều nổ một lượt.. Mấy ống bách kích pháo nhắm vào hai bên đường, nã đạn, nòng súng gần như thẳng đứng cho tầm tác xạ ngắn lại. Pháo binh 105 ly tác xạ ở cự ly 0 độ. Thấp hơn phía dưới, về phía bên trái thì các khẩu trung liên của biệt động quân nổ như bắp rang. Có vài trái sáng được bắn lên xé tan màn đêm tối, cho thấy các bóng người tan tác, ngã lăn oằn oại dưới đất với những tiếng kêu la thảm thiết. Rồi hai trực thăng võ trang C119 lại xuất hiện, đang xé gió bay tới,,, sau tiếng gầm, lao xuống như hai con chim ưng gặp mồi và dùng các khẩu đại liên điện bắn như mưa xuống đám cán binh Bắc Việt còn sống sót đang tháo chạy tán loạn dưới cánh đồng.
Có nhiều tràng pháo 130 ly bắn quá ngắn nên rơi hết xuống đám rừng làm trốc gốc thêm một số cây . Pháo binh 155 ly của Miền Nam phản pháo lại cũng dữ dội như sấm sét.. Đến 5 giờ sáng thì mọi tiếng súng đều ngưng.. Lúc trời sáng tỏ thì binh sĩ mới cẩn thận bước ra khỏi phòng tuyến và đi lần xuống đồi, súng lăm lăm cầm tay sẳn sàng nhả đạn. Trên mặt đất có rất nhiều thây của cán binh Bắc Việt mặc quân phục xanh lá cây. Đại úy Nhân trao cho tôi một ly cà phê nóng và nói :
- " Đêm rồi mọi việc đều rất tốt. Nhưng mà họ sẽ trở lại. Một tiếng đồng hồ nữa là thiếu Tá Luân sẽ có mặt ở đây, và anh sẽ đi về với ông ta."
Vào 7 giờ sáng tôi lên trực thăng của thiếu tá Luân, và chúng tôi cất cánh, lên cao độ 1200 bộ và bay về hướng Bắc. .. Nhìn từ trên cao, Xuân Lộc chỉ là một đống gạch vụn đầy bụi, duy nhất chỉ còn mỗi lầu chuông của nhà thờ sừng sững như một ngọn hải đăng. Trực thăng đổi hướng về hướng Đông và xuống thấp là là trên ngọn cao su. Qua khỏi đồn điền Hàng Gòn, chúng tôi thấy một đoàn xe dài của Bắc Việt , các chiến xa , các xe pháo binh, và xe vận tải chở đầy cán binh đang di chuyển dài trên mấy cây số ngang nhiên như chỗ không người và không thấy có nghi trang.Thiếu tá Luân tạt thật nhanh đi chỗ khác, dùng vô tuyến báo động ngay cho Biên Hòa và vọt thẳng lên cao độ 1500 bộ. Mười phút sau, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng quá kinh hồn. Hai, rồi bốn, rồi sáu chiến đấu cơ A.37 đâm bổ xuống tác xạ từ phía sau của đoàn xe gây nhiều đám cháy, lửa khói mịt mù.. Vài giây sau đó lại có hai chiếc vận tải cơ C.130 thả xuống từ trên cao hai thùng tròn đen, có dù , và khi gần chạm đất gây ra hai tiếng nổ thật kinh khủng và phi thường, tiếp theo sau đó là hai lằn ánh sáng ngắn màu xanh kỳ dị. Hai ngọn khói hình nấm tròn bốc lên cao với một luồng gió mạnh phi thường đến đỗi trực thăng của chúng tôi ở cao độ 500 thước bị ảnh hưởng, phải bị lắc lư rung chuyển thật mạnh, rồi rơi tuột xuống một khoảng không như một hòn đá, đến cao độ 800 bộ mới lấy lại được cự thăng bằng. Khi khói tan biến hết, thì mới thấy được con đường ngổn ngang đầy xe cộ bị lật ngã, nghiêng ngữa, tan nát, các khẩu pháo bị tung xuống hố và thây người chết nằm rãi rác trên 200 thước bề ngang, cây cối bị trốc gốc ngã lộn nhào đưa cả rễ lên trời . Thật là một cái nhìn khiếp đảm, cả một sự hủy diệt chỉ trong nháy mắt . Thiếu tá Luân cho trực thăng bay sà xuống đường và bắn hết tất cả rốc kết dọc theo hai bên đường . Không có một tiếng súng bắn trả: Thì ra thiếu tá Luân đã bắn vào một đoàn người chết.....
Sau khi đáp xuống sân bay Biên Hòa , Thiếu tá Luân vừa cởi nón sắt ra vừa nói với tôi;
- " Anh có thấy rõ mức độ thiệt hại không ? Hai thùng tròn đen được thả xuống ban nảy là hai trái bom C.B.U. 55. Một đầu đạn được gắn vào phía trước hai thùng đen đó là bộ phận kích hỏa phát nổ gần mặt đất. Như vậy là không có góc độ "tử giác" .Trong vòng 150 thước đường bán kính, không còn một chút không khí nào hết, dĩ nhiên là không còn dưỡng khí ở đâu cả. Cộng thêm với làn sóng cực mạnh của sức nổ. Cho nên đây là một loại vũ khí kinh hoàng, chỉ có thể dùng nó khi nào địch quân tập trung đông đảo thì mới có hiệu quả cao.
- Như vậy họ dùng thuốc nổ loại nào ?
- Tôi cũng không biết chính xác cho lắm. Công thức nấy còn là "Tối Mật" và chỉ có người Mỹ là có thể biết thôi. Tôi nghĩ đây là một sự pha trộn giữa chất nổ T.N.T và một chất hóa học nào đó. Loại bom nầy đã có từ lâu rồi, nhưng vì sợ dư luận của dân chúng Hoa Kỳ , nên người Mỹ chưa bao giờ xử dụng . Khi rời khỏi Việt Nam , họ để lại cho chúng tôi trên 20 trái bom nầy và có dặn chúng tôi là chỉ nên xử dụng khi nào tối cần thiết, coi như đó là biện pháp sau cùng., Gần như đây là loại vũ khí của "cơ may cuối cùng".... chúng tôi đã xử dụng 7 trái trong vòng 3 ngày nay.
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH XUẤT HIỆN
Thứ Năm, ngày 24 tháng Tư, 1975
Cứ mỗi lần từ vùng chiến trận trở về Sài Gòn , là mỗi lần tôi gần như bị chấn động vì không khí rất khác biệt giữa thành phố và tiền tuyến. Một bên là sự khốc liệt quá mức của chiến tranh, những người chết, những người bị thương, xóm làng nhà cửa bị tàn phá dưới sức rung chuyển của bom đạn như những cơn động đất, những cỗ pháo, những phóng pháo oanh tạc cơ, những binh sĩ đang bám đất, những người nông dân đang chạy loạn..... Một bên thì sự yên tĩnh của thành phố với những bãi cỏ được săn sóc hằng ngày thật công phu cẩn thận, với những ngân hàng, và tấp nập những nhà buôn , với những nhà ngoại giao v.v.. Chỉ cách nhau không quá 50 cây số mà tôi có cảm tưởng như là cách xa nhau vạn dậm, hay không cùng ở một hành tinh !
Sài Gòn đang tranh cãi với nhau, đang lợi dụng lẫn nhau, và đang dàn cảnh một sân khấu chánh trị để cho các nhân sĩ có nơi cho họ xuất hiện nhanh để rồi biến đi to nhỏ với nhau ngoài hành lang. Một hoạt cảnh vừa mới bắt đầu đã nhanh chóng trở thành vô ích hay đã lỗi thời ngay sau đó !.
Ngày hôm kia, thứ ba 22/4, một đám đông dân chúng, theo lời kêu gọi của 4 Tôn Giáo lớn ở Miền Nam - Ki tô giáo, Phật giáo, Cao đài và Phật Giáo Hòa hảo - đã tập hợp lại trong nhà thờ Chánh Tòa ở Sài Gòn . Đứng dưới một tấm biểu ngữ thật lớn có vẽ hai chữ "Hòa Bình" thật to bằng sơn đỏ, là một hàng rào các sư sãi đầu cạo nhẳn bóng láng mặc cà sa vàng hực hỡ, đức Tổng Giám Mục với lễ phục trắng, các thân hào nhân sĩ mặc áo dài đen, và đang quì phía sau họ là cả một khối giáo dân .
Người ta chỉ thấy đại diện duy nhất của ngoại giao đoàn là Đại Sứ Pháp, Jean-Marie Mérillon, một người được mời dự buổi lễ đặc biệt nầy và là người được người ta chú ý đến nhiều nhất. Các quan sát viên cho rằng đây là nhân vật đương nhiên tự thừa nhận là mình đang tiến hành một cuộc vận động chánh trị để đi đến hòa bình.
Nhưng chương trình của buổi lễ hôm nay đã được dự tính từ nhiều ngày trước rồi, được dự trù là sau khi hành lễ xong tất cả đều sẽ kéo nhau đến dinh Độc Lập cách đây không xa, để kêu gọi "Tổng Thống Thiệu hãy từ chức" .
Sự ra đi bất ngờ của vị nguyên thủ Quốc Gia vừa qua đã làm bể hết kế hoạch và mất hết ý nghĩa của những sự vận động của các nhóm người chỉ có sát cánh nhau vì cùng chung một động cơ hành động. Tất cả đều mong muốn có "hòa bình", nhưng con đường mà họ định đi đến đích thì không người nào giống người nào !
Bây giờ thì mọi người đều nghĩ đến một cái tên , tên của tướng Dương văn Minh, thường được gọi là "Minh Lớn" ( nguyên tác: "Grand Minh"), người được xem như là phương sách cuối cùng.
Ông Đại sứ Mérillon nghĩ rằng CPLTCHMN sẽ chấp nhận ông Dương văn Minh, nên hối thúc ông Trần văn Hương nên mời ông Minh lập một Chánh Phủ gọi là "Chánh Phủ để Thương Thuyết".
Ông Đại sứ Pháp thấy rằng tình hình đã quá nghiêm trọng rồi nên cần phải có những quyết định cấp bách. Nhưng từ 48 giờ qua, ông vẫn giẫm chân tại chỗ trong sự nhẫn nại. Ông đã hai lần ngồi xe D.S của ông có gắn cờ Pháp để đi vào Dinh Độc Lập hối thúc ông Tổng Thống già nua nên sớm "có hành động" kịp thời.
Hôm nay lúc 5 giờ chiều, đã có một phát súng bị tịt ngòi trên sân khấu chánh trị. Tướng Minh đã mời các nhà báo và đã nói với họ rằng:
- " Tổng Thống Trần văn Hương đã mời tôi nhận chức vụ Thủ Tướng , Tôi đã từ chối. Ở cương
vị Thủ tướng tôi không thể mở đường đi đến một cuộc thương thảo được với "phía bên kia". Tôi đã trả lời cho Tổng Thống Hương là: điều kiện tiên quyết mà những người "cách mạng" đặt ra
là Tổng Thống phải từ nhiệm. Đó không phải là một điều mong muốn, mà là một sự bắt buộc "
Sự từ chối chức vụ Thủ tướng của tướng Minh đã nói lên ý muốn "đốt giai đoạn" của ông ta. Đại sứ Pháp, người đã hướng dẫn cho ông ta, đã chơi một ván bài nguy hiểm. Sơ đồ hành động của ông, nhằm đẩy cụ già Hương ra khỏi ghế Tổng Thống và thay thế ông bằng một người chưa từng bao giờ "bị phía bên kia chỉ trích", chủ yếu được dựa trên niềm tin rằng cộng sản sẽ sẵn sàng thương thảo trên căn bản của Hiệp Định Paris 1973. Và theo ông thì không có gì là không vững chắc. Mười hai ngàn người có quốc tịch Pháp ở Miền Nam Việt Nam, được Tổng Thống Giscard d'Estaing và Đại sứ của họ kêu gọi hãy ở lại tại chỗ, có thể có nguy cơ phải trả giá rất đắt với tài sản và sanh mạng của mình, nếu giải pháp chánh trị nầy bất thành.
Cân nhắc kỹ lưỡng rồi, ông Mérillon ước tính là cơ nguy đó phải được qua và ông dùng cách để thuyết phục cộng đồng người Pháp ở đây là không có gì đáng phải lo sợ hết..
Trước tiên là ông quyết định vẫn giữ nguyên ngày giờ thi Tú Tài toàn phần là ngày thứ hai 28 tháng 4, mặc dầu có những sự vận động khẩn thiết của các phụ huynh học sinh .
Kế tiếp là trong lúc hầu hết các tòa đại sứ Tây Phương ở đây đều đóng cửa, ông Jean- Marie Mérillon đã công khai cho sơn lại mặt tiền của tòa đại sứ và cho trồng thêm bông hoa trong khu vườn của tư dinh ông .
Có 12 người hiến binh được gởi tới bằng đường hàng không để tăng cường canh gác, Ông đã cho họ thay phiên nhau đứng gác ngoài cổng rào của tòa đại sứ.. Ông cho một số thợ hồ xây thêm tường rào tòa đại sứ cho cao hơn lên, vừa để tránh những sự dòm ngó của kẻ tò mò nhằm bảo vệ cho các nhân sĩ Việt Nam ra vào tiếp xúc với Ông, vừa có thể dùng tòa đại sứ như một nơi tỵ nạn đúng theo quyền tỵ nạn chánh trị , nếu có xảy ra chiến trận ở đây.
Và cuối cùng, để dự trù trường hợp xấu nhất, có một số tiêu lệnh đã được ban ra cho một số người "đầu đàn" trong cộng đồng người Pháp. Ba điểm tập trung đã được dự trù: đó là bệnh viện Grall, trường trung học Saint Exupéry (Chasseloup Laubat cũ) và cư xá Lareynières, nơi cư trú của các giáo chức Pháp. Tất cả những cơ sở công cộng, tất cả những tiệm buôn và nhà cửa, tài sản hay nơi cư trú của người Pháp đều phải được treo cờ tam tài Pháp.
Những người nào còn nghi ngờ về tương lai và thiện chí của cộng sản , tự thấy mình "bi quan thái quá" và muốn nghe câu trả lời thì đây :
"Hãy làm một bản thống kê chính xác tất cả tài sản của mình. Thiết lập hồ sơ thật đầy đủ, nhưng vẫn phải ở lại tại chỗ. Vì khi rời khỏi nước Việt Nam , trước tiên là mình sẽ mất hết tất cả các quyền cứu xét để được bồi thường vì lý do chiến tranh, nếu có."
*
* *
Mặc dầu ông Đại Sứ Pháp đã cho thấy tất cả sự lạc quan của mình, cuộc khủng hoảng chánh trị xem ra khó có thể tháo gỡ được . Phía ngoài hàng rào có vẻ yên tĩnh và mặc cho bối cảnh vận động chánh trị bận rộn của tòa đại sứ , thành phố Sài Gòn vẫn đầy rẫy những mánh khóe và những sự âm mưu toan tính . Những sự liên minh vừa mới được kết hợp ngày hôm qua thì ngày mai lại tan rã ...
Từ đêm ngày thứ năm cho tới thứ sáu, ở khách sạn Palace đã có một buổi họp của đại diện các phe nhóm ở Miền Nam, một số các tướng lãnh trẻ, các đại diện của người công giáo di cư và những lãnh tụ đối lập. Nhưng sau nhiều giờ bàn cải, họ không muốn chọn tướng Minh Dương . Họ có ý trách ông nầy rất thụ động về phương diện chánh trị trong mười năm qua, và thiếu năng lực phán đoán. Tin chắc rằng mục tiêu duy nhất mà cộng sản đang theo đuổi là chiếm Miền Nam Việt Nam bằng giải pháp quân sự , họ nghĩ rằng ông Minh "không đủ sức" nên các cuộc thương lượng với cộng sản nếu có đi chăng nữa thì củng chỉ sẽ dẫn đến một sự đầu hàng mà thôi không hơn không kém.
Đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo đề nghị đem lên Sài Gòn hai chục ngàn người tình nguyện (20.000) để "thanh toán hết các phần tử chủ bại và thành lập một Chánh Phủ cứu quốc". Đặc biệt hơn ông nầy tấn công ngay tướng Trần văn Đôn vì ông Đôn không chịu phát vũ khí cho các lực lượng tôn giáo và hằn học kết luận là :"Phải bắt ông ta, đưa lên đoạn đầu đài và xử bắn ông ta!"
Linh mục Hoàng Quỳnh , người được những người công giáo di cư tuyệt đối tin tưởng, xác nhận là ông "sẵn sàng đưa hai trăm ngàn người công giáo (200.000) xuống đường" (biểu tình).
Luật sư Trần văn Tuyên thì tố cáo Đại sứ Pháp đã có hành động không thể tha thứ được là xen vào công việc nội bộ của Việt Nam . Ông Tuyên nói :
- "Ông Mérillon đã dám xấc xược nói với tôi rằng Tổng Thống Hương đã già yếu bệnh hoạn. Phải đưa ông ta vào bệnh viện để người ta giải phẩu cho ông, và nếu ông nằm ở bệnh viện thì bài toán sẽ được giải quyết "
Ông Trần văn Tuyên, 62 tuổi, một luật sư có tài, là trưởng nhóm xã hội trong Quốc Hội và là một đối thủ của ông Thiệu. Ông là một trong những người hoạt động tích cực cho "Phong tràio Tự Do Báo Chí" . Ông Tuyên nói tiếp :
- " Tổng ThốngTrần văn Hương rất phẫn uất vì thái độ khinh khỉnh và không thân thiện của
ông Mérillon. Nản lòng vì những lời mỉa mai cay độc nhắm vào ông, và những áp lực đối với ông, vị Tổng Thống lớn tuổi của chúng ta đã đe dọa sẽ tự tử bằng ống thuốc thạch tín mà ông luôn luôn đeo ở bên mình "
Tham vọng và sự nóng giận đã thúc đẩy những người có trách nhiệm nầy ý thức được mối nguy cơ cộng sản và sẵn sàng làm tất cả những gì để tránh nguy cơ nầy. Người nào củng tin rằng mình có thể cung ứng hàng ngàn chiến sĩ. Có người người còn dự trù thành lập một khu kháng chiến ở Đồng Bằng sông Cửu Long ở Miền Tây. Họ đề nghị chuyển hết các kho vũ khí và đạn dược về vùng nầy. Còn các tướng lãnh trẻ thì thề nhứt quyết họ không bao giờ đầu hàng cộng sản .. Nhưng liệu cuộc kháng chiến như thế có cơ may kéo dài được bao lâu nếu không có một sự yểm trợ từ bên ngoài ? Dù gì đi nữa thì Hoa Kỳ sẽ không can dự vào nữa rồi. Lên tiếng ở tiểu bang New Orléans , Tổng Thống Ford vừa mới thản nhiên xác nhận điều đó làm cho tim mọi người muốn ngừng đập .Ông ta đã yêu cầu người Mỹ "hãy lật sang trang khác" để hướng về tương lai. Ông ta đã tuyên bố thêm là ông đã gạt ra ngoài mọi khả năng tái can thiệp của Hoa Kỳ bằng hai câu ngắn :
- " Bây giờ thì chúng ta có thể tìm thấy lại được sự hãnh diện mà Hoa Kỳ đã có từ trước sự kiện Việt Nam ..,Một sự hãnh diện mà Hoa Kỳ sẽ không bao giờ tìm lại được, nếu còn tham gia vào một cuộc chiến coi như đã hoàn toàn chấm dứt đối với chúng ta." !
CHƯƠNG HAI MƯƠI
NHỮNG TRÒ CHƠI VÔ VỊ CUỐI CÙNG
Thứ Sáu, ngày 25 tháng Tư
Hôm nay Tổng Thống Hương lại tiếp ông M. Mérillon trong vòng 80 phút và sau đó lại họp với ông M. Martin, Đại sứ Hoa Kỳ . Cả hai nhà ngoại giao nầy người nào cũng cố thuyết phục Tổng Thống Hương là nên cấp tốc đưa ra một phương thức khả dĩ có thể mở đường cho một cuộc thương thảo với những người "cách mạng" (nguyên văn: révolutionnaires") Cả hai đều nói "phương thức nầy nên gạt ra ngoài Hiến Pháp năm 1967,.... cần có sự từ chức của Ngài, và giao lại cho một toán nào đó mà "phía bên kia" có thể chấp nhận được "
Vị Tổng Thống già đồng ý chấp thuận mục đích của các đề nghị, nhưng khăng khăng muốn tìm một giải pháp theo đúng với Hiến Pháp .. Ông Mérillon càu nhàu:
- "Ông ta cứng đầu lắm! như một con lừa vậy ! Lúc nào cũng "Tôn trọng hình thức hợp Hiến"., ông ta chỉ nói hoài có bấy nhiêu đó . Như một người nghèo sắp sửa bị cháy nhà mà cứ từ chối không chịu kêu lính chữa lửa, vì nghĩ rằng mình đang có trong túi một hợp đồng bảo hiểm đúng cách."
Trong cuộc tiếp xúc nầy, Ông Hương đọc lại một bài thơ trào phúng của văn hào Pháp Sully Prud'homme tuyên dương hành động anh hùng của một người chỉ huy Ba Lan, khi ông nầy muốn chận đứng đoàn quân Nga trước một con rạch cạn , bằng cách làm cho họ tin tưởng rằng con rạch nầy khó có thể lội qua được . Để chứng minh điều nầy người Ba Lan lội xuống nước và gập hai chân lại đi bằng đầu gối, rồi sau đó nằm sấp xuống, trước khi giả bộ chìm hẳn và bị chết đuối. Jean M. Mérillon trợn tròn đôi mắt lên nhìn thẳng Tổng Thống Hương và vừa nhún vai vừa sốt ruột nói:
- "Chúng ta không còn ở thế kỷ 19 nữa, thưa Ngài Tổng Thống , và những tên cộng sản bây giờ đã có những chiến xa lội nước và đã có cầu nổi được kéo theo để qua sông dễ dàng "
Những ngày vừa qua, đã có nhiều nhân sĩ Việt Nam đến gặp Đại Sứ Pháp. Đó là : Đức Tổng Giám Mục Bình , Thượng Tọa Thích Trí Quang, thuộc chùa Ấn Quang, và Chủ Tịch Luật sư đoàn. Tất cả đều có một đề nghị: " Ông hãy có một hành động nào đó để tránh những trận đánh nhau trên dường phố trước khi đã quá muộn. "
Nhưng Tổng Thống Hương cứ ôm cứng Hiến Pháp không lay chuyển nổi !.
Cuối cùng, sau khi làm việc rất lâu với những người thân cận của mình, ông mới quyết định triệu tập phiên họp đặc biệt của Lưỡng Viện Quốc Hội vào sáng ngày mai thứ bảy 26/4.
*
* *
Một tiểu đoàn chánh quy cộng sản Bắc Việt từ Đồng Tháp Mười định tiến đánh bất ngờ tỉnh lỵ Tân An , một thành phố nằm cách Sài Gòn khoảng 30 cây số về hướng Tây Nam . Cuộc tiến công nầy được diễn ra trên một cánh đồng lúa quá trống trải nên đã bị Không quân đập tan. Tiểu đoàn cộng sản đã bị diệt gọn. Nhưng cuộc tấn công nầy được xem như một cuộc hành quân của một đơn vị tiền phương, đã cho thấy là các đại đơn vị Bắc Việt từ Cam Bốt đang chuẩn bị tràn sang Việt Nam để siết chặt vòng vây Thủ đô Sài Gòn của Miền Nam Việt Nam .
Từ hôm thứ hai vừa rồi, thiên hạ đua nhau xin hộ chiếu. Đi ra khỏi Việt Nam từ đầu tháng đã là một chuyện rất khó rồi, còn bây giờ thì gần như không còn thế nào được nữa. Trừ một vài trường hợp được ân huệ riêng là thân nhân hay bạn rất thân của giới lãnh đạo Miền Nam Việt Nam Từ hai tuần nay, có người đã phải trả thật đắt (đến 15 triệu đồng bạc) cho một chiếu khán. Bây giờ thì chiếu khán đó không còn dùng vào đâu được nữa rồi. Có một số người Việt Nam đến phi trường Tân sơn Nhứt với một hộ chiếu (giấy thông hành) và một chiếu khán "đã mua", mới được biết là có một cú điện thoại từ Bộ Nội Vụ (Bô Trưởng đã được thay rồi) báo cho họ biết là những giấy tờ đó đã không còn giá trị nữa. Đồng đô la trong ba ngày đã vọt từ 1200 lên đến 2500 đồng. Và cái giá phải trả cho những "biện pháp ân huệ" cũng tăng theo nhịp độ đó. Do vậy số người được xuất ngoại "hợp pháp" càng ngày càng ít đi.
Hầu hết những người Việt Nam có cơ may rời khỏi nước đều nhờ vào cầu không vận cùa Hoa Kỳ . Cầu không vận nầy hoạt động suốt ngày đêm và khả năng bốc người đi được tăng lên gấp 3 lần. Mục đích đầu tiên của Hoa Kỳ là nhằm đưa về nước khoản 800 công dân Mỹ còn đang kẹt lại ở Việt Nam ..Công tác nầy chỉ đến cuối tuần nầy là hoàn tất. Cùng đi với người Mỹ mỗi ngày, có từ ba đến bốn ngàn người Việt Nam được tháp tùng, những ai được ghi danh trong "danh sách ưu tiên", gồm có những người làm việc cho các công ty Mỹ , những công chức hay công nhân làm việc cho văn phòng thuộc sứ quán hay các sở Mỹ, các nhân viên tình báo, các cấp thuộc chương trình bình định và gia đình của họ.
Sự việc được phép mang cả gia đình theo đã mở toang cửa cho tất cả mọi sự móc nối làm tiền. Có những người khi đã được ghi tên vào danh sách được đi rồi thì cho ghi thêm thân nhân của chính mình càng ngày càng nhiều ra và đã cho họ cùng đi với mình với một số tiền thù lao rất là hậu hĩ.
Nhịp độ ra đi càng ngày càng nhanh hơn. Những người di cư được các xe buýt to có lưới thép bọc bên ngoài cửa kiến chở đến Tân sơn Nhứt. Ngay ở cổng phi trường đã có nhiều thảm cảnh rất đau lòng giữa kẻ đi người ở. Sau đó họ được đưa vào các gian nhà lớn ở trong khuôn viên của Phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ, nằm trong khu vực sân bay Tân sơn Nhứt. Ở đây không thiếu chỗ và có đầy đủ tiện nghi: có gần 1000 chiếc giường bố xếp cho họ nghỉ ngơi chờ đợi chuyến bay, có phần ăn nóng sốt 3 bữa mỗi ngày. Khi được kiểm điểm lý lịch xong, họ lại được xe buýt đưa thẳng ra phi đạo lên các phi cơ vận tải quân sự để đi đến Phi luật Tân, Đài Loan hay tới đảo Guam, và Honolulu (Hạ uy Di). Thỉnh thoảng cũng có một vài cô chiêu đải viên hàng không mảnh khảnh và duyên dáng trong chiếc áo dài xanh lơ đã tìm cách được kín đáo đưa lên các chuyến bay nầy.
Những người không có một mối liên hệ nào với người Mỹ hay với những người được Mỹ "bảo trợ" đã cố gắng tìm hết mọi cách và mọi phương tiện để được đi ra khỏi Miền Nam Việt Nam :
- Những nhà buôn khá giả bỏ tiền ra mua hay mướn các chiếc tàu, thuyền máy đánh cá của dân chài ngoài biển hay những chiếc thuyền đi biển để đưa họ đến Malaysia hay Thái Lan, nếu dọc đường họ không bị cướp hay giết chết để đoạt sạch tài sản vòng vàng tiền bạc mà họ dấu đút mang theo trong người .
- Có những người lanh lợi hơn liên lạc thẳng với các phi công của "câu lạc bô hàng không" và đề nghị mười ngàn đô la (10.000) cho mỗi hành khách nếu họ chịu chở những người nầy ra ngoại quốc.
- Có nhiều người bạn Pháp của tôi được mấy người Việt Nam lớn tuổi , đạo mạo khả kính, đến gạ với họ ngay ngoài đường phố, với đề nghị cưới giùm các cô con gái của họ với một số tiền hồi môn kếch sù lên đến hai chục triệu đồng cho mỗi người (khoản 80.000 quan Pháp), để mang các cô nầy về Pháp, với cam kết là khi đến nơi rồi họ sẽ làm thủ tục "ly dị ngay"
- Có một người Mỹ vừa mới bị bắt và bị trục xuất, vì anh ta đòi bảy ngàn đô la (7000) mỗi người để nhận họ là "thân nhân trong gia đình". Anh Mỹ nầy đã thành công trong việc đưa đi 18 người Việt Nam đến đảo Guam qua trung gian của người vợ Việt Nam của anh ta.
- Ở quán rượu Impérial của ông già Bonelli, một bà giám đốc cơ sở bào chế thuốc Tây (Bà Anh) đang tìm cách bán nhà của bà. Bà nói với tôi :
- "Đây là một biệt thự tuyệt đẹp, ở một địa điểm rất tốt, nằm trên đầu đường Paul Blanchy. Tám phòng, với hai nhà xe và 800 thước vuông vườn. Ba tháng trước tôi đã không bán với giá 30 triệu đồng. Bây gìờ thì tôi sẵn sàng nhượng lại với giá 3 triệu thôi (chưa đến 12.000 quan Pháp với hối đoái chánh thức). , và tôi sẽ để lại tất cả đồ đạc trong nhà gồm có bàn tủ ghế, quần áo, chén bát, máy lạnh và hai tủ lạnh...."
Ba ta móc bóp lấy một xấp giấy tờ ra và nói thêm :
- " Đây là giấy bán nhà, tôi đã ký sẵn rồi, chỉ còn ghi tên người mua vào là xong hết."
Ông già Bonelli trầm ngâm suy nghĩ và mỉm cười, ngẫng đầu lên mệt mỏi nhún vai và nói:
- "Ít nhất bà là người thứ hai đã đến đây gặp tôi từ hai hôm nay. Làm gì còn có người muốn mua nhà trong lúc nầy ?
Bà Anh lại quay sang tôi :
- " Tôi cũng có một chiếc xe Mercédès chạy dầu gần như mới toanh, 5000 cây số thôi, có đủ cả ra diô và cát sét. Tôi muốn bán nó với giá rẽ 500 đô la
- Chừng nào bà sẽ đi ?
- Trưa nay
- Bà làm sao có được chiếu khán xuất cảnh hay vậy ?
- Ông nghĩ xem. bà vừa trả lời cho tôi vừa cười rộ lên , các chiếu khán bây giờ vô giá. Tôi tự xoay sở với người Mỹ. Tôi đã giao dịch với họ từ 15 năm nay rồi và con gái tôi là một nhà sinh vật học ở Cựu Kim Sơn. Nếu ông muốn dùng chiếc xe tôi, ông hãy điện thoại cho tôi trước 15 giờ, Đây là số điện thoại của tôi .
Tôi không có ý định mua xe Mercédès của bà Anh, nhưng vì tò mò tôi đã điện thoại đến nhà bà vài phút sau 15 giờ. Một người làm cho bà đã trả lời cho tôi là bà ta đã đi ngoại quốc rồi và bà ta cũng không thèm ghé lại nhà để lấy chiếc va ly của bà nữa !
*
* *
Vào chiều tối, hành khách của chiếc phi cơ "ca ra ven" thuộc hãng Hàng Không Việt Nam đi Băng Cốc (Thái Lan) đã được chứng kiến một cảnh rất não lòng. Trong chiếc phi cơ, ông tướng Trần văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng của nội các vừa từ nhiệm, nhưng vẫn còn là Xử Lý Thường Vụ, đang mơn trớn vuốt ve một người đàn bà đẹp rất duyên dáng trong bộ đồ mỏng mùa hè, có đeo một nhẫn hột xoàn lớn bên tay trái. Vừa mới ngày hôm qua đây, tướng Đôn đã cổ võ quân đội Quốc Gia phải bảo vệ đất nước đến hơi thở cuối cùng, thì hôm nay ở đây ông ta đang vừa rót vào tai của người bạn gái của ông ta những lời êm ái vừa vuốt ve hai bàn tay của cô ta. Sau đó ông trao cho cô ta một tấm ngân phiếu mà ông ta ký ngay tại ghế ngồi, và từ giã cô nàng với vẻ mặt vồn vã và đau khổ của những cặp tình nhân ở lứa tuổi sinh viên. Ngay trong lúc đó hẳn nhiên là vị tướng lãnh nầy chỉ dán cặp mắt và tâm tư của mình vào người đẹp sắp đi đến một nơi yên ổn. Các quân nhân đang chết trong các hầm chiến đấu của họ, chỉ cách nơi nầy có vài cây số, chắc hẳn không bao giờ ngờ được rằng họ đang hy sinh để giữ an ninh cho những sự trao đổi tình cảm yêu đương vụn vặt của một vị tham mưu lớn tuổi như vầy, một vị mà tên tuổi của ông ta đã từng được nêu lên như là một Thủ Tướng tương lai của một Chánh Phủ Liên Hiệp !
Thứ Bảy, ngày 26 tháng Tư
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã bay đi Đài Loan tối nay rồi. Có những lời đồn đãi từ "đài phát thanh Catinat" quả quyết là ông ta đã "mang theo 16 tấn hàng gồm có cả một bộ sưu tầm đá quý và đồ cổ đánh cắp ở Viện Bảo Tàng Quốc Gia và 4 tỷ vàng nén."
Một đại úy Dù đã tức giận nói với tôi :
- "Ông Thiệu ra đi không có một lời nói. Ông ta đã tuyên bố trên truyền hình là ông ta sẽ ở lại
với chúng tôi và sẽ chiến đấu bên cạnh chúng tôi cho đến cùng. Tất cả dân chúng trong nước
đều có thấy và có nghe. Và giờ đây ông ta trốn đi như một tên hèn, lợi dụng ban đêm để mọi người không trông thấy ông ta Bọn Tàu ở Đài Loan đã trải thảm đỏ để đón ông ta. Chỉ có một cách để chào đón ông ta, đó là để vào đầu ông ta một viên đạn !"
Tờ báo Pháp Le Courrier d'Extrême - Orient và báo chí Việt Nam đã cho hành động của TổngThống Giscard d'Estaing có một "tầm quan trọng rất lớn", khi ông đã nói chuyện rất lâu qua điện thoại với ông Đại sứ Pháp tại Sài Gòn . Làm như là Ba Lê đã thay thế Hoa Thạnh Đốn trong vấn đề tìm kiếm một giải pháp bằng thương thuyết cho Miền Nam Việt Nam rồi vậy .
Ông nghị sĩ Paul d'Ornano, đại diện cho người Pháp ở Việt Nam , đã đến Sài Gòn tối hôm qua bằng phi cơ. Ông đã có tuyên bố như sau :
- "Tôi rất sung sướng được trở lại với những người Pháp ở Sài Gòn , những người mà tôi thấy
là đã rất trầm tĩnh và rất là xứng đáng như lúc tôi còn ở đây 3 tuần lễ trước . Tôi cũng rất lấy làm sung sướng để được nói với họ rằng Tổng Thống của nước Cộng Hòa Pháp đã có tiếp tôi ngay trước khi tôi rời khỏi Ba Lê, để bày tỏ tất cả sự ân cần của Ngài đối với cộng đồng người Pháp ở Sài Gòn mà Ngài đã biết và đánh giá cao lòng can đảm và phẩm chất...."
Nghị Sĩ Paul d'Ornano là một kỹ sư hầm mỏ, thuộc một gia đình quý phái lâu đời ở đảo Corse, đã từng phục vụ ở Đông Dương 22 năm. Là một cựu giám đốc đồn điền, ông là một người rất cứng cỏi và nhã nhặn, môt người biết rất rõ đất nước nầy.. Sự có mặt của ông ta làm yên lòng cộng đồng người Pháp ở đây, mà nếu có chuyện gì xảy ra thì họ sẽ trông cậy vào ông ta hơn là vị Đại Sứ, một người quá bận rộn với những sự theo dõi và suy nghĩ tới các giai đoạn biến chuyển chánh trị của Việt Nam
Và cũng ngay trong lúc đó, phần đông các nhà báo ngoại quốc đang dự buổi họp báo hàng tuần của sĩ quan Việt Cộng và của Bắc Việt, thành viên của Ủy Ban Kiểm Soát và Thi Hành Lệnh Ngừng Bắn đã được Hiệp Định Ba Lê ấn định. Lại thêm một chuyện rời rạc nữa, và không phải chuyện nhỏ đâu, vì cái chuyện "chấm dứt chiến tranh" nầy đã trở thành rất khó hiểu, và trên bình diện chánh trị nó là một vở kịch quá nực cười.
Kể từ tháng 3 năm 1973, 200 Việt Cộng và 500 cộng sản Bắc Việt đã đóng quân ở ngay giữa sân bay Tân sơn Nhứt, chiếm mấy dãy nhà có rào kẽm gai chung quanh, bên trong thì cộng sản tự canh gác với súng A.K.47 còn bên ngoài thì được quân cảnh Miền Nam bảo vệ. Cách doanh trại nầy chừng vài trăm thước, các phóng pháo oanh tạc cơ của Miền Nam cất cánh ầm ĩ mang bom đến đánh các đơn vị Bắc Việt trên đường tiến về thủ đô Sài Gòn
Đại tá Võ đông Giang, phát ngôn viên của Việt Cộng ngồi dưới bức ảnh cụ Hồ với chòm râu dưới cằm. Cũng giống như các cuộc họp báo trước, anh ta tố cáo những "hành động tội ác" của Tổng Thống Hoa Kỳ và của "Ngụy quyền" Sài Gòn - lời của ông ta thường xuyên bị ngắt quãng do tiếng gầm thét của các phản lực - nhưng lần nầy thì anh ta nhấn mạnh rằng chiến tranh giải phóng ngày càng tốt hơn cho "lực lượng cách mạng" .
Để kết thúc ông ta nhắc lại dai dẳng những điều kiện do "lực lượng cách mạng" đặt ra cho Chánh Phủ Sài Gòn để bắt đầu những cuộc thương lượng nghiêm chỉnh :
" - chấm dứt sự hiện diện của Hoa Kỳ
- Thành lập một tân Chánh Phủ, với tuyên ngôn "cho hòa bình, độc lập, dân chủ và hòa giải quốc gia"
- Thi hành Hiệp Định Ba Lê
- Loại bỏ tất cả những người đã từng nằm trong guồng máy của Thiệu
- Từ bỏ đường lối hiếu chiến, phát xít, áp bức và đàn áp đối với nhân dân
- Hủy bỏ tất cả các luật lệ phản dân chủ. Bảo đảm tôn trọng tự do dân chủ. Trả tự do cho tất cả những người bị giam giữ vì đã tranh đấu cho hòa bình và độc lập quốc gia."
Một phần lớn các điều kiện đó đang trên con đường được thực hiện.
Nhưng đại tá Võ đông Giang muốn nói gì khi ông ta đặt điều kiện "phải thi hành Hiệp Định Ba Lê" ? trong lúc 23 sư đoàn Bắc Việt tràn vào chiếm hai phần ba lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam ?
Và trong lúc ông vừa nói vừa đang đập bàn rầm rầm ở đây thì hàng trăm người Mỹ đang xếp hàng chạy lên chiếc phi cơ vận tải khổng lồ "Galaxie" đang chuẩn bị cất cánh.. Chuyến ra đi hấp tấp của người Mỳ nầy đang diễn ra không xa vị trí đồn trú của cộng sản bao nhiêu, nơi mà người Mỹ gọi là "Trại Davis" để kỷ niệm cho một người binh sĩ Hoa Kỳ tên Davis bị tử trận đầu tiên ở Miền Nam Việt Nam
*
* *
Về phía Sài Gòn , tiến trình giải thể Chánh Phủ đang được xúc tiến. Chỉ còn một vài hình thức bề ngoài cần phải xem xét lại mà thôi.
Hồi 10 giờ sáng nay, chiếc xe Mercédès dài của Phủ Tổng Thống đến đậu trước cửa Thượng Viện. Tổng Thống Hương, một ông lão đáng kính, bước xuống xe, chống gậy, chậm rãi đi duyệt qua hàng binh mặc lễ phục trắng đang dàn chào Ông. Các dân biểu và nghị sĩ thuộc lưỡng viện Quốc Hội tập họp đầy đủ đang đứng chờ ông trong sảnh đường lớn của tòa nhà. Họ đến như vậy là khá đông đấy: 183 trên 219 người dân cử thuộc lưỡng viện Quốc Hội . Vì còn phải tính đến mọi sự khó khăn trong vấn đề di chuyển, nào là đường sá bị cắt đứt, nào là các tỉnh và thành phố đang bị cô lập hay đã bị cộng sản chiếm. Như vậy cho thấy là Quốc Hội rất quan tâm đến phiên họp đặc biệt quan trọng nầy. Tổng Thống Hương mở đầu phiên họp với một bản tường trình về những biến cố đã xảy ra từ khi ông lên nắm quyền.. Sau khi nói về những "khó khăn gặp phải trong các cuộc tiếp xúc" và những "áp lực liên tục mà ông phải chịu với những nhà ngoại giao ngoại quốc và với một số chánh trị gia của Miền Nam ", ông tuyên bố:
- " Tôi không muốn dấu quý vị lâu hơn nữa rằng cần phải và bắt buộc phải thương thuyết với phía bên kia. Nhưng vẫn còn có dân tộc và đất nước.Tôi không mong muốn Sài Gòn trở thành một Nam Vang thứ hai. Tôi không muốn thủ đô của chúng ta bị xóa tên trên bản đồ và cũng không muốn dân chúng của chúng ta bị bom đạn tàn sát.. Nhưng tôi muốn chứng tỏ sự kính trọng của tôi đối với đất nước cho đến cùng. Những trọng trách mà tôi đang gánh vác đây được gắn liền vơi tính cách hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa, của Lưỡng Viện Quốc Hội và của quý vị dân cử. Tôi thấy tôi không có quyền đơn phương từ bỏ trọng trách đó. Tôi phải trông chờ vào quyền lực của Quốc Hội vì chỉ có Quốc Hội mới có đủ tư cách để quyết định phải xúc tiến việc thương thuyết và chỉ có Quốc Hội mới có quyền chỉ định cá nhân nào mà Quốc Hội xét thấy có đủ khả năng nhất để thi hành nhiệm vụ thương thuyết nầy.. "
Và sau đó ông Hương không có nêu thẳng ra tên tuổi của ai cả, nhưng ông giải thích chi tiết rõ ràng về những sự điều đình của ông với tướng Dương văn Minh:
- "Trước hết tôi đã đề nghị trên giấy trắng mực đen với "người đó" về chức vụ Thủ Tướng Chánh Phủ với đầy đủ quyền hành. Ông ta đã từ chối. Tôi đã phải mời ông ta đến gặp tôi tại Dinh Độc Lập. Ông ta cũng lại từ chối. Với một thiện ý muốn giải quyết vấn đề, tôi bất chấp hết mọi thủ tục và mặc dầu tuổi già sức yếu, tôi đã phải chấp nhận di đến nhà một người bạn để gặp "người đó". Tôi đã đề nghị với "ông ta" chiếc ghế Phó Tổng Thống nhưng một lần nữa "người đó" chẳng những đã khước từ đề nghị của tôi mà còn nói với tôi rằng: "Phải có tất cả hay không có gì hết ", có nghĩa là "phải là Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hòa". Tôi có lưu ý như vậy là ông ta đòi hỏi tôi phải vi phạm Hiến Pháp, và ông ta đã trả lời rằng "Đó không phải là việc của ông ta ". Sau đó tôi đã đặt cho ông ta một câu hỏi: " Có gì bảo đảm rằng phía bên kia sẽ chấp nhận thương thuyết với ông ?". Người đó đã trả lời rất gọn : " Tôi đã nhận được từ phía bên kia đầy đủ những bảo đảm để tôi làm tròn vai trò của tôi ". Mặc dầu tôi đã có nhấn mạnh nhưng tôi không thể có thêm một giải thích nào khác về những lời nói úp mở của ông ta và tôi thú thật là tôi không tin vào những lời nói đó.Tôi sẽ không bao giờ gánh lấy trách nhiệm về việc trao quyền hành một cách bất hợp hiến , vì lẽ đó nên ngày hôm nay tôi xin quý vị hãy trao quyền hành pháp lại cho người đó bằng lá phiếu hợp pháp của lưỡng viện Quốc Hội . Đó là phương thức duy nhât vừa để cứu Sài Gòn khỏi một thảm họa vừa không làm mất thể diện của quốc gia và chế độ."
Nói xong những lời đó, ông Hương rời phòng họp và trở về Dinh. có 2 xe hộ tống mở dường qua các phố đang đông nghẹt dân chúng.
Ông Trần văn Lắm, Chủ tịch Thượng Viện đề nghị ngay sau đó là các trưởng nhóm thảo luận ở các tiểu ban trước khi trở lại hội nghị khoáng đai . Sự bàn thảo của các trưởng nhóm đã được nhanh chóng tổ chức.
Trưởng nhóm "Dân Tộc Xã Hội" thuận cho tướng Minh nên muốn "Tổng Thống Hương phải từ chức một cách đơn giản".
Trưởng nhóm Cộng Hòa lớn tiếng : " Chúng tôi không có một tín nhiệm nào đối với tướng Minh. Ông ta đã thường thay đổi màu áo của ông ta, và không có gì để chứng minh rằng ông ta đã có xúc tiến bàn thảo với phía bên kia. Ông ta có thể đưa ra được một chứng từ nào không ? Ai là người đã liên lạc với ông ta và người đó ở vào đẳng cấp nào ?
Trưởng nhóm "Độc Lập" vỗ bàn : "Chúng ta không thể đặt tương lai của đất nước trên những giả thuyêt suông !"
Chủ tịch Thương Viện nhắc lại một liên lạc điện thoại của ông M.Graham Martin, đại sứ Hoa Kỳ. Ông nói : "Người Mỹ đã mạnh dạn khuyên chúng ta đừng nghĩ đến Hiến Pháp. Thời giờ đã quá cấp bách rồi . Không còn phải lúc để cho chúng ta tự trói buộc vào những lý sự cùn nữa "
Tướng Trần văn Đôn đang làm việc ngoài hành lang, tâm tình nhỏ to với các nghị sĩ : "Người Pháp là những người duy nhất có thể nói chuyện với Bắc Kinh , Mạc tư Khoa, Hoa thạnh Đốn, Hà Nội và CPLTCHMN, họ ủng hộ triệt để tướng Minh. Họ đoan chắc là cộng sản chỉ muốn bàn thảo với ông ta mà thôi."
Cuộc thảo luận công khai đã diễn ra lúc 14 giờ.Và nó kéo dài cho đến 22 giờ. Các diễn giả thay phiên nhau lên diễn đàn. Các cuộc thảo luận vô vị cứ kéo dài. Họ cãi vã, xô đẩy nhau, trao đổi nhau những lời đe dọa, nhưng cuối cùng rồi họ cũng đi đến thỏa thuận cho một bản văn quyết nghị vô thưởng vô phạt không giải quyết được gì cả :
- " Quốc Hội nhìn nhận Tổng Thống Hương có đầy đủ tư cách và thẩm quyền để chọn người thay thế ông. Người nầy sẽ được ủy thác để tiến hành các cuộc thương thuyết."
Tên của tướng Minh Dương không thấy nêu lên trong bản văn của quyết nghị.
Chủ Nhật, ngày 27 tháng Tư
Vào lúc 4 giờ sáng có nhiều tràng rốc kết được nã vào Sài Gòn . Những tiếng nổ làm rung chuyễn các cửa sổ. Sau đó chừng vài phút tôi nghe thấy tiếng còi hụ của các xe cứu hỏa và xe cứu thương. Từ trên sân thượng của mình tôi nhìn thấy ánh lửa và những cột khói đen quyện vào lửa đỏ trên nền trời.Có cháy ở về hướng nhà ga Sài Gòn , một khu vực có nhiều nhà gạch và nhà cây nhỏ. Nhưng phải đợi đến hết giờ giới nghiêm mới biết được chính xác là các quả rốc kết rơi ở khu vực nào, và gây thiệt hại ra sao cho dân chúng.
Đến 7 giờ sáng tôi mới đi săn tin được. Một quả đánh trúng khách sạn Majestic, nằm ở cạnh bờ sông Sài Gòn . Quả thứ hai nổ trên lề đường gần chợ Sài Gòn. Sáu quả khác đã nổ trong khu đông dân cư nằm bên kia đường đối diện với Bộ Tư Lệnh Cành Sát. Hàng trăm lều trại, xưởng nhỏ đang bốc cháy với những tiếng nổ như pháo. Mặt đất có cả một lớp tro đen phủ lên trên nhầy nhụa vì nước của các anh cứu hỏa. Những tấm tôn cong vẹo nằm vắt vưởng lên các bức tường đổ nát, và các bàn tủ ghế chỉ còn là những que củi cháy dở dang. . Các bà đang ngồi xổm , im lặng bới đám tro tàn. Các trẻ em bất động đứng nhìn chần chầm vào mấy bà mẹ.Các anh khiêng cáng đang chuyển lên xe cứu thương ba thây người co rúm, chỉ còn khoảng nửa thân mình, ba con người mà giống như những hình nộm bị cháy đen.
Tổng kết của cuộc pháo kích và của đám cháy : chín chết và 36 bị thương, Hai ngàn người không nơi cư trú. . . .
Trong những khu khác trong thành phố, cuộc sống vẫn tiêp tục rất bình thường. Bạn hàng trong chợ vẫn bày hàng trên sạp của mình. Các tiệm buôn vẫn kéo màn mở cửa . Lưu thông vẫn tấp nập nhưng đôi khi bị nghẽn vì có đoàn xe tang năm sáu chiếc của quân đội có trang hoàng vòng hoa đang chở các binh sĩ bị tử thương từ mặt trận về.
Trong một vài quán rượu còn sót lại hay những phòng "đấm bóp" trên đường Catinat, các cô gái xinh đẹp chuyên buôn hương bán phấn đã thay đổi hoàn toàn . Họ đã búi tóc lên và không còn sơn móng tay đỏ nữa và không còn mặc cũn lẳng lơ hay quần bó sát thân mình nữa mà đã mặc lại chiếc áo dài truyền thống của Việt Nam . Có tin nói là các cô đang tìm cách trữ thuốc ngừa thai dự kiến là cộng sản vào họ sẽ tịch thu hết.
Giá dồng đô la lên xuống giữa 3500 đến 4000 đồng. Các tay buôn bán ngoại tệ người Ấn đang trúng mối to với sự đầu cơ giấy 100 đô la (người cầm đầu là Ali Ismael nhìn nhận rằng đã kiếm lời trong mười năm qua được trên hai triệu đô la) 6000 người Mỹ đã rời khỏi Việt Nam , bỏ lại trên 8000 chiếc xe bừa bãi khắp nơi, tạm thời được coi như vô chủ.
*
* *
Cũng vào ngay chúa nhật đó, lúc 12 giờ trưa, ông Chủ Tịch Thượng Viện nhận được một văn thư của Tổng Thống VNCH do mô tô mang đến trao tận tay. Đại ý:
" Theo các điều khoản của Hiến Pháp thì Quốc Hội phải ra quyết định thay thế tôi và phải chỉ định người kế vị tôi với tên họ đầy đủ. Do đó tôi đòi hỏi Quốc Hội phải nhanh chóng bày tỏ ý kiến của mình."
Vào lúc 14 giờ đài phát thanh đã kêu gọi tất cả các nghị sĩ và dân biểu phải có mặt ở Quốc Hội đúng 17 giờ để dự một "phiên họp khoáng đại vì quyền lợi quốc gia"
Vào giờ ấn định, các nghị sĩ và dân biểu đến Thượng Viện cũng đông đủ như ngày hôm qua. Chủ tịch Thượng Viện thông báo với họ là trước khi mở khoáng đại hôi nghị, tướng Trần văn Đôn, xử lý thường vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng, sẽ thuyết trình về tình hình quân sự .
Tướng Đôn mặc thường phục có 3 vị tướng lãnh và một đề đốc tháp tùng: Tổng Tham mưu Trưởng, Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô,Tư Lệnh Không Quân và Tư Lệnh Hải Quân. Ông yêu cầu sự có mặt của các vị nầy để chứng thật tin tức trong bài thuyết trình của ông ta. Tướng Đôn đưa ra một hình ảnh quá đen tối:
" Mười bốn sư đoàn Bắc Việt được trang bị pháo binh thật hùng hậu đang bao vây thủ đô Sài Gòn . Biệt kích và đặc công cộng sản đang xâm nhập vòng đai. Trận chiến ờ Xuân Lộc vẫn còn đang tiếp diễn chung quanh thị xã, ờ đó các đơn vị của Chánh Phủ đang hăng say chiến đấu, nhưng họ bị phân tán và pháo binh của họ bị pháo binh cộng sản vượt trội về tầm xa. Họ pháo ta từ xa nên không bị thiệt hại gì. Không quân của ta được xử dụng liên tục ngày đêm không ngơi nghỉ trong nhiều tuần lễ nay, nên cả anh em phi công và phi cơ đều đã quá sức chịu đựng. Ngoài ra còn bị thiệt hại khá nặng do phòng không địch và hỏa tiễn địa không của họ. Căn cứ Không quân Biên Hòa dưới hỏa lực của địch đã gần như bị tê liệt. Trong vài ngày nữa, mà cũng có thể là trong vài giờ nữa không chừng, có thể sẽ đến lượt Sài Gòn phải bị tàn phá vì đạn pháo 130 ly tầm xa của Bắc Việt . Nhất định cần phải thương thuyết với họ để ngừng bắn càng sớm càng tốt..."
Một số dân biểu trẻ hung hăn chen vào la lối om sòm một cách giận dữ và mỉa mai :
"Bị bán đứng rồi ! Đồ hèn nhát, chủ bại, tướng phòng ngũ !"
Tiến sĩ Vũ quốc Thúc trưởng nhóm "Độc Lập" vừa tiến tới tướng Đôn vừa hét to lên nhiều lần :
" phản bội, đồ phản bội, anh chỉ là một tên phản bội, đáng được đem ra xử bắn ". Khi nghe chửi như thế, Tướng Đôn mặt tái mét im thin thít không nói được một tiếng nào . Các tướng lãnh đi theo ông sửng sốt về những phản ứng dữ dội của cử tọa nên cũng cúi đầu im thin thít.Chủ tịch Trần văn Lắm cố gắng trấn tĩnh mọi người nên khuyên can :
" Các anh em nên đặt câu hỏi là phải hơn, các vị tướng lãnh sẽ trả lời cho mình." Các câu hỏi được đưa lên loạn xà ngầu :
" Ông chỉ nói về hành động và sáng kiến của địch mà về phần ông ông đã có biện pháp nào chưa? Ông đã có đi lên mặt trận mấy lần rồi?"
Nghị sĩ Vũ văn Mẫu đứng lên và chẩm rải nói gằn từng tiếng :
"Ông là Tổng Trưởng Quốc Phòng phải không ? Vậy tôi lập lại câu hỏi của tôi : Ông đã có những sáng kiến và những biện pháp nào để lo phòng thủ Sài Gòn chưa ? Và để chận đứng sức tiến của địch ?
Tướng Đôn lắc đầu và trả lời lạc giọng :
"Các sự chuyển quân và các biện pháp chiến thuật đều thuộc về bí mật quân sự"
Cuộc điều trần coi như được chấm dứt. Tổng trưởng Quốc Phòng và những quân nhân tháp tùng đi ra khỏi phòng họp dưới những tiếng la ó. Cuộc tranh luận của Quốc Hội kéo dài 4 tiếng đồng hồ. Còn sôi động và dữ dội hơn ngày hôm qua nữa, bị ngắt khoảng bởi các sự chửi mắng và những cuộc ấu đả ngắn . Tay chân đôi khi thay cho lời nói. Nhưng rồi lần lần sự mệt mỏi đã có tác dụng. Cuối cùng rồi những đề kháng quyết liệt nào cũng phải bị chìm xuống vì cảm giác bất lực và uể oải, vì ai cũng thấy rõ là những lời nói dù có nóng bỏng đến đâu cũng không có một chút cân lượng nào đối với những biến cố quân sự .
Lúc bấy giờ Chủ tịch Trần văn Lắm mới can thiệp vào :
"Chúng ta phải kết thúc thôi ! và phải nhìn thẳng vào sự việc. Than van cũng vô ích thôi. Chúng ta đã thua rồi. Mình phải chấp nhận sự nhục nhã nầy bằng một lời an ủi là dầu sao họ cũng cùng một dân tộc với chúng ta, vẫn còn đỡ hơn là đối với những người ngoại quốc."
Rồi sau dó ông lại nói thêm, hình như để tìm cách xóa tan những ý nghĩ ngại ngùng của chính ông vừa nói ra:
Tôi chỉ mong sao những kẻ chiến thắng hiểu rằng người Miền Nam Việt Nam cũng là những người anh em của họ... Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác là giao hết quyền hành cho tướng Minh Dương. Đây là văn bản mà tôi đề nghị với quý vị :
" Quốc Hội với đầy đủ quyền tự do của chế độ, thấy rằng phải mở ngay các cuộc thương thuyết không thể tránh được . Tướng Dương văn Minh được chỉ định thay thế Tổng Thống Trần văn Hương để lãnh đạo Quốc gia, là người có nhiệm vụ phải tiến hành công tác thương thuyết nầy."
Lưỡng viện Quốc Hội đã đưa tay bỏ phiếu, chấp thuận bản quyết nghị với đa số 120 phiếu thuận, 32 phiếu chống và 20 phiếu trắng. Lúc đó là 9 giờ đêm.
Vào lúc chủ tịch Thượng Viện rời phòng họp, ông Nguyễn hữu Thống, một dân biểu trẻ thuộc nhóm Cộng Hòa đã buông ra một câu đầy khinh bỉ :
" Ông Trần văn Lắm có thể rất là bằng lòng. Ông ta đáng được người Mỹ vàViệt Cộng khen thưởng!".
Cách ông ta vài bước nghị sĩ Trần trung Dung bàn cãi với cựu Tổng Trưởng Trần chánh Thành :
"Thật là khó hiểu được thái độ của người Mỹ. Họ đã áp lực ông Thiệu để ông nầy phải ra đi, viện cớ đó là biện pháp duy nhất để Quốc Hội Hoa Kỳ bỏ phiếu chấp thuận ngân khoản viện trợ. Cuối cùng ông Thiệu phải từ chức. Tổng Thống Hương, người kế vị cho ông Thiệu lại được nghe một câu nói của đại sứ Martin ngay sau đó: "Đã quá trể rồi, Quốc Hội Hoa Kỳ không còn bỏ phiếu cho ngân khoản viện trợ nữa.Ông phải nhường ghế Tổng Thống lại cho
một người khác đi, người đó phải "được phía bên kia chấp nhận". Ông già Hương đã bảo vệ Hiến Pháp đến cùng, Hiến Pháp mà chính những người làm luật của Hoa Kỳ đã tham gia tạo dựng nên.. Nhưng tới giai đoạn nầy người Mỹ thông thường là những người rất tôn trọng luật pháp, lại thấy rằng như vậy sẽ làm mất quá nhiều thì giờ. Cuối cùng, trước khi chúng ta bỏ phiếu chấp thuận trao toàn quyền cho tướng Minh , đại sứ Martin đã mời ông Hương chuẩn bị để cùng ra đi với những người Mỹ cuối cùng. Ông Hương đã thẳng thắng trả lời :
- " Tôi không đi đâu hết, Chỗ của tôi phải là ở trong nước của tôi . " Người Mỹ thật sự đã tưởng chúng mình là những người không biết đến hai chữ danh dự là gì chắc !!!!. "
Trần chánh Thành nhúng vai và nói :
"Anh sẽ thấy là họ sẽ đòi hỏi tướng Minh phải ra lệnh cho họ rời khỏi nước Việt Nam ... và họ sẽ ra đi không kèn không trống cho mà xem !. "
Một vị trưởng tòa đưa tay tắt ngọn đèn xanh đang chiếu sáng chiếc bàn hình móng ngựa ở Dinh Độc Lập. Nơi đây sẽ tổ chức buỗi lễ bàn giao quyền hành ngày mai. Tướng Minh sau đó sẽ nói chuyện với quốc dân đồng bào qua hệ thống truyền thanh và truyền hình.
.
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...