. .

Wednesday, May 6, 2009

Tội Ác Kinh Người Của Cộng Sản Việt Nam-Hải Triều NSVietNam

Tội ác kinh người của cộng sản Việt Nam: Thảm sát, lường gạt, vàng, máu và nước mắt của hàng vạn đồng bào không đến được bờ tự do trong những vụ cho đăng ký vượt biên lấy vàng sau 1975
Hải Triều

(Trong năm 2001, khi VC làm ồn ào vụ "Thanh Phong và Bob Kerry" trên báo trong nước, trên đài Hà Nội... để bắt chẹt Mỹ trong nỗ lực kiếm đô la bồi thường và tuyên truyền tội ác "đế quốc Mỹ", vài ngày sau, chúng tôi đã tung ra tài liệu về tội ác kinh người của cộng sản Việt Nam trong vụ thảm sát đồng bào ở xã Tân Lập, Trảng Bom ngày 22/4/1975 sau khi Sư Ðoàn 18 BB được lệnh rút bỏ vùng này.


Việc này xẩy ra khi các sư đoàn Bắc quân của VC đã tràn vào vùng bỏ trống, vướng mìn claymore khi tiến vào Tân Lập, bị chết thêm một số sau những tổn thất nặng nề ở Long Khánh, họ đã tàn sát hơn 50% dân số của xã Tân Lập để trả thù, trong số đó có cả những gia đình có thân nhân nhân theo VC. Vụ thảm sát kinh người và dã man này bị chìm khuất trong trong những biến động lịch sử sau bức màn tre XHCN khi Sài Gòn sụp đổ năm 75.

Bài viết trước đây về vụ Tân Lập không nhằm hóa giải tội của trung úy Bob Kerry/ SEAl, nếu có, nhưng vụ Thanh Phong chỉ là cái dịp để nhóm NSVN đưa tội ác của CSVN về vụ Tân Lập ra ánh sáng.

Vụ thảm sát ở xã Tân Lập khi đưa lên các diễn đàn toàn cầu, đã được anh em ở Hoa Kỳ chuyển ngữ sang tiếng Anh, gửi đi khắp nơi... thì cái loa Phan Thúy Thanh của bộ Ngoại Giao CSVN trên đài Hà Nội bỗng im tiếng, và chuyện VC thuê luật sư Mỹ kiện Bob Kerry về vụ Thanh Phong để đòi tiền bồi thường dường như cũng chìm xuồng luôn. Cán bộ cộng sản ở Hà Nội sau đó đã email đến NSVN kết tội người viết là tay sai đế quốc, đã giúp làm nhẹ tội Bob Kerry..., nhưng điều quan trọng mà chúng tôi ghi nhận không phải là việc hăm dọa hay kết tội người viết, mà là Hà Nội không có lấy một dòng chữ lên tiếng phủ nhận tội ác của họ đối với đồng bào. Hà Nội không thể gột rửa tội ác của mình trong vụ thảm sát ở xã Tân Lập bằng vụ Thanh Phong mù mờ trong thời kỳ chiến tranh ác liệt.

Trong muôn ngàn tội ác kinh người của đảng cộng sản Việt Nam, bài viết kế tiếp sau đây là một trong những vụ thảm sát phi nhân bị vùi chôn trong dòng lịch sử bất hạnh của dân tộc, và việc khai quật sự thật về các loại tội ác này là nhiệm vụ của lương tâm và lịch sử, của bất cứ ai, của bất cứ giai đoạn nào, nếu dấu tích bị nhô ra khỏi bóng tối. Không viết ra, âm khí oan khuất của đồng bào nạn nhân cứ như lờn vờn trong ký ức. Người viết chỉ làm nhiệm vụ của một người Việt Nam còn một chút lương tri, còn một chút đau đớn, không chấp nhận để tội ác của cộng sản chìm mất trong quên lãng; viết và chấp nhận bất cứ loại đòn thù nào, đe dọa nào từ Hà Nội hay từ các nhóm tay sai ở hải ngoại của VC như đã từng xẩy ra trước đây, và biết đâu may ra nó đóng góp chút gì cho tiến trình sụp đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam - Hải Triều)

* * *

Vào bài

Trong dòng chiến sử quốc cộng hơn 30 năm, mặt thực của cộng sản Việt Nam được ẩn kín dưới những huyền thoại dệt từ bộ máy tuyên truyền lừa bịp của chính đảng csvn và phong trào cộng sản quốc tế, vì đảng csvn là một trong những mắc xích quan trọng của chiến lược Ðông Á mà Mạc Tư Khoa xưa rất cần cho chiến lược bành trướng chủ nghĩa cộng sản toàn thế giới. Huyền thoại này được tô đen thêm do tâm thức không tưởng mê muội của nhiều người Việt Nam về chiêu bài giải phóng dân tộc, chiêu bài no cơm ấm áo, chiêu bài xóa bỏ bất công, chiêu bài công bình xã hội, tự do dân chủ... mà người cộng sản đã hứa hẹn, tuyên dương... Ðộc lập dân tộc thực ra chỉ là cái chiêu bài để che dấu mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã nhồi nhét vào đầu vô số những người theo cộng sản kể từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nó trở thành bùa mê thuốc lú với cái khẩu hiệu "yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội". Thế nhưng không bao lâu sau ngày Sài Gòn sụp đổ, mặt thực của đảng csvn, của chế độ Hà Nội đã hiện hình, dần dần rõ nét, kinh hoàng, man rợ, tráo trở, dã man và phản trắc. Khi cả nước bừng tỉnh, thì cả nước đã bị nhốt vào chuồng người, từ Nam tới Bắc, từ Cà Mâu tới Nam Quan.

Vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối
Vì muốn an thân, vì tiếc máu xương
Cả nước đã qui về một mối
Một mối hận thù, một mối đau thương
Hạnh phúc, niềm mơ, nhân phẩm, luân thường
Ðảng tới là tan nát cả...
(Nguyễn Chí Thiện/Vì ấu trĩ)
Thực vậy, khi bức màn tre xã hội chủ nghĩa phủ chụp xuống, cả nước bị đẩy vô tròng, một vòng oan nghiệt giăng phủ cả hai miền Nam Bắc, người ta rùng mình và tìm đường tháo chạy, mấy cây cột đèn bất hạnh đã không có chân để ra đi. Năm năm đầu, từ 1975 đến 1979, cả nước phủ một mầu tang đói khổ, chiến tranh hai đầu Nam (Cambodia) Bắc (biên giới Hoa Việt) và áp bức, chết chóc, tù tội từng ngày, từng giờ, từng tiếng gõ cửa ban đêm, từng giọi nước mắt mẹ khóc con, vợ khóc chồng, anh khóc em, tù đày, ly chia, chết chóc...

Tại miền Nam, sau 1975, nhà tù giăng mắc khắp nước, mỗi sáng mở cửa ra, dường như người dân ai cũng đối diện với cửa nhà tù, gia đình nào cũng có thân nhân xa gần nằm trong tù. Ít có nơi nào trên thế giới bị sống trong quái trạng lạ lùng, đen tối và bi đát này. Ngoài những nhà tù chính hiệu, cộng sản dựng lên vô số những trại tù đủ loại dưới cái tên trá hình là "trại cải tạo" để giam hãm, trả thù những chiến binh đối chiến bại trận. Ðiều này không có trong bất cứ điều khoản nào của công ước quốc tế Geneve về tù hàng binh. Hãy đọc mấy dòng báo Nhân Dân tháng 6/1975:

"Cải tạo là một diễn biến bền bỉ và lâu dài, được quản lý chặt chẽ và liên tục, chúng ta phải quản lý từng cá nhân, quản lý tư tưởng, hành động, lời nói, cách sống của đối tượng, của quân ngụy..."

Chính vì cả nước biến thành một nhà tù vĩ đại mà đồng bào, nhất là dân ở miền Nam, ùn ùn tìm đường thoát, bất kể ngày đêm, bất kể sống chết. Thái Bình Dương bỗng hẹp lại như dòng sông Dịch in bóng Kinh Kha trước những chết chóc, tù đày, đói khổ...trùng trùng giăng mắc sau lưng với hàng ngàn, hàng vạn đồng bào bất hạnh len lách trong bóng đêm để thoát ra biển rộng, họ không làm thân Kinh Kha sang sông giết bạo Tần, mà làm kẻ trốn chạy một thứ bạo Tần, một chế độ Tần tân thời bạo ngược, nham hiểm và dã man có hệ thống số một trong cộng đồng nhân loại:

Bên kia sông Dịch dòng sinh tử
Tráng sĩ hề! Thân trao núi sông
Một mối thù nung trên mũi kiếm
Một xác thân nhẹ tựa lông hồng.
Người nay hơn kẻ qua sông Dịch
Cả triệu thuyền nhân vượt biển Ðông
Sông Dịch, Kinh Kha còn ngại sóng
Thái Bình Dương người coi như không!
(Lê khắc Anh Hào)
* * *

Bài viết này không nói đến những vụ cộng sản giết người và tù đày những đồng bào vượt biển đi chui, tức trốn đi bằng đường biển trên khắp nước, mà chỉ tập chú vào vụ lường gạt, giết người hàng loạt bằng mìn sau khi thu hàng chục ngàn cây vàng của những người đăng ký chính thức với cộng sản để được ra đi khỏi nước. Như chúng ta biết, sau khi chiếm miền Nam, cộng sản Việt Nam ngã hẳn theo Nga và chống Trung cộng, vì thế các thành phần người Việt gốc Hoa bị nghi ngờ, bạc đãi. Họ rủ nhau ra đi, giao nạp tài sản cho cộng sản, đóng tiền đăng ký ra đi, bỏ hết chạy lấy người.

Thế giới đã ghi nhận trong 4 nước mà người dân ào ạt bỏ nước ra đi gồm Cuba, Haiti, Albany và Việt Nam, thì các cuộc vượt đại dương của hàng triệu người Việt Nam là gây xúc đông cho lương tâm nhân loại nhất, cụ thể là hai triết gia đối nghịch nhau về tư tưởng chính trị ở Pháp như Jean Paul Sartre (thiên tả) và André Gluckman ( thiên hữu) cũng đã phải động lòng can thiệp với tổng thống Pháp Valeri Giscard d’Estaing chấp nhận cho người tỵ nạn Việt Nam vào Pháp.

Những chuyến nộp vàng đăng ký vượt biên tập the, và số tử vong trên biển rộng

Như chúng ta đã biết, không kể đến thảm trạng đồng bào vượt biên bằng đường bộ qua Miên và Thái, tuyệt đại đa số đã chọn đại dương để ra đi. Về ngả này, tựu trung có hai dạng, hoặc là vượt biển "chui", tức trốn đi bằng các loại ghe thuyền nhỏ, hoặc đi công khai có điều kiện với nhà nước cộng sản bằng các ghe tàu lớn, có chuẩn bị, có ghi danh... được biết dưới tên "vượt biển đăng ký". Như vừa nói trên, phần lớn người ghi danh đăng ký, hiến tài sản nộp vàng cho cộng sản là người Hoa, mỗi lần ghi danh ra đi, số người có thể lên tới vài ngàn. Tiến trình cho mỗi chuyến "vượt biển đăng ký" gồm có lập danh sách người đi, thu vàng nộp cho nhà cầm quyền cộng sản, dọn bãi, đóng hay tân trang ghe tàu, chuẩn bị thức ăn, nước uống, dầu, nhớt và các phương tiện hải hành. Trong tiến trình này, những người đứng ra tổ chức chuyến "vượt biển đăng ký" phải lo từ A đến Z, cộng sản chỉ ngồi thu vàng. Và đây là sách lược "ngồi mát ăn bát vàng" do chính đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam chủ trương. ( phần sau sẽ nói rõ hơn về việc thu vàng xong rồi thu tiếp và giết người hàng loạt...) Lẫn lộn trong số người Hoa ra đi là những người Việt chính gốc tìm đường đi theo bằng giấy tờ giả người Hoa, hay mua chuộc, đút lót vàng bạc cho nhóm tổ chức hay công an để tìm đường sống. Họ là những người không dám liều thân đi "chui", hay đã từng đi "chui" nhưng lại bị thất bại năm lần bẩy lượt, và nghĩ rằng đi "đăng ký" ít ra cũng an toàn hơn, dù phải tốn vàng nhiều hơn....

Về điểm này, chúng tôi xin trích một đoạn trong tác phẩm "Vàng, Máu và Nước Mắt" do Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do phát hành năm 2000:

"Phí tổn về hối lộ để vượt biên.

Không như chính sách giam người trong các trại tù cải tạo rập theo khuôn khổ Nga và Tàu, kế hoạch đoạt vàng của người vượt biên là một sáng kiến của cộng sản Việt Nam. Ðối với người Việt, đây không phải là chuyện khó tin, nhưng trước công luận quốc tế, những phát giác về âm mưu của cộng sản Việt Nam xuất cảng người đã gây chấn động bàng hoàng. Truớc hết, vụ tòa án Hồng Kông "xử tầu" Huey Fong, đã xác nhận nhà cầm quyền Việt Nam đồng lõa với chủ tầu thu vàng của dân tỵ nạn. Về sau, ông Thành Tín ( tức cựu đại tá Bùi Tín của quân đội cộng sản, phó tổng biên tập báo Nhân Dân, hiện tỵ nạn chính trị ở Pháp/ ghi chú thêm của NSVN) trong hồi ký Mặt Thật, đã tiết lộ một kế hoạch của Bộ Nội Vụ cộng sản gọi là kế hoạch số 2, hay kế hoạch B, để lấy vàng bán bãi. Trong vụ Huey Fong, công an thu vàng của người vượt biên, người lớn trả 12 lượng, 10 lượng chia cho nhà nước, 2 lượng cho người tổ chức. Sự chia chát này cũng tùy theo địa phương, kích thước thuyền lớn, thuyền nhỏ, và tuổi tác của các thuyền nhân. Nhiều nơi công an tuyển người đi và thu vàng công khai, nhưng ở miền Nam, họ dùng các kẻ trung gian mánh mung.

Tiền đăng ký hai lượng, phần còn lại phải trả khi sắp được lên tầu, từ 5 đến 8 lượng cho người lớn, nửa giá cho trẻ em, con nít dưới 5 tuổi được miễn phí, trung gian bỏ túi 2 lượng.

Không còn nghi ngờ gì việc nhà nước đứng ra lợi dụng các chuyến vượt biên, trách nhiệm về những nỗi khốn khổ và tử vong trên biển cả của thuyền nhân, cộng sản Việt Nam phải gánh chịu."

("Vàng, Máu và Nước Mắt" trang 45 – 46 / Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do 2000)

Chúng tôi xin được nêu tên vài chiếc tầu chở người đăng ký vượt biên may mắn được cộng sản cho phép chuyển ra tàu lớn hay được tàu lớn vớt ngoài khơi, sống sót đến bờ tự do.

Tầu Hải Hồng chở 2564 người, ra khơi ngày 15/10/1978 được vào Mã Lai vì lý do nhân đạo nhờ sự can thiệp của đại diện LHQ Sampatkumar sau khi điều tra biết được thuyền nhân đã nộp vàng bạc để ra đi. Tháng 12/1978, tầu Tùng An mang cờ Panama chở 2300 thuyền nhân đến Phi, bị chính quyền Marcos ngăn chận và dọa đẩy ra khơi, mãi đến 1980, tức 2 năm sau, nhờ áp lực của quốc tế và sự can thiệp của Ðức Hồng Y Jaime Sin, thuyền nhân Việt Nam mới được vào đất Phi.

Ngày 19/12/1978, tầu Huey Fong chuyển đến Hồng Kông 3300 thuyền nhân. Nhà cầm quyền Hồng Kông không cho thuyền nhân lên bờ, đồng thờ đưa thuyền trưởng và 10 người khác ra tòa. Kết quả cuộc xử án, tòa kết tội các bị cáo, đồng thời xác nhận nhà cầm quyền Việt Nam là đồng lõa cho vụ lấy tiền cho vượt biên. Các thuyền nhân trên tầu lớn sau đó được lên bộ...

Về mặt tử vong trên đường vượt biển, người chết trên biển vì nhiều lý do như thuyền đắm, cướp biển, thuyền nhỏ không chịu nỗi sóng lớn, hơn nữa, các thương thuyền đi ngang không tiếp cứu đến nỗi Cao Ủy Tỵ Nạn phải lên tiếng trong báo cáo tại Genève. Khó mà biết được có bao nhiêu người chết trên biển. Có nhiều ước lượng về số người bỏ mạng trong các chuyến vượt biển. Bernard Le Roy trong luận án Bác Sĩ Y Khoa đệ trình năm 1993 cho rằng có tới 500.000 người vượt biên chết, tức vào khoảng 27% tổng số thuyền nhân...

(Theo "Vàng, Máu và Nước Mắt" trang 42 –43 - 44 / Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt nam Tự Do 2000)

Một trường hợp điển hình về tội ác kinh người của cộng sản tại Bến Tre qua những vụ đăng ký vượt biên lấy vàng: từ lường gạt đến thảm sát đồng bào.

Như trong phần trình bày cô đọng, ngắn ngủi ở trên, chúng ta đã thấy nỗi kinh hoàng của thế giới khi biết được những âm mưu của cộng sản Việt Nam trong chính sách xuất cảng thuyền nhân để lấy vàng. Dường như chưa có một chế độ nào trên thế giới có cái can đảm làm những việc làm tồi tệ về mặt con người như thế. Nhưng, thế giới làm sao biết được cộng sản Việt Nam có nhiều cái tồi tệ dã man nghìn lần hơn việc cho thuyền nhân ra đi để lấy vàng bỏ túi: Họ đã vét sạch vàng của thuyền nhân, một số cho mìn nổ chìm ghe khi ghe ra cửa biển, một số giam giữ lại như những tù nhân, bệnh hoạn, đói khổ và tiếp tục cho người tiếp xúc với thân nhân thuyền nhân ở Sài Gòn và tỉnh thành. Cuối cùng của màn lường gạt, sát nhân, tráo trở này là hàng trăm người chết, hàng vạn người tan nát cuộc đời... mà không đến được bờ tự do.

Thế giới không hề biết chuyện này. Và nếu chuyện này đến tai LHQ và thế giới loài người văn minh, có thể họ không tin hay không tưởng tượng chuyện đó có thể xẩy ra trên trái đất này.

Nhưng, sự thật là nó đã xẩy ra. Nó đã xẩy ra ở Vũng Tàu, nó đã xẩy ra ở Tiền Giang, Cần Thơ và nhiều nơi khác khi thỉnh thoảng có một chiếc ghe đăng ký bị cho nổ mìn, xác người trôi tấp lớp lớp vào bờ. Bao nhiêu người vừa mất cả vàng bạc, tài sản, vừa mất cả mạng sống. Dường như người ta, thân nhân người chết, đã câm lặng, chịu đựng oan khiên và cho những cái chết tức tưởi đó chôn sâu vào quên lãng, không một tiếng kêu than, không một lời cáo trách, kể cả những người dân ở Vũng Tàu chứng kiến hàng trăm xác đồng bào mình dạt vô bờ biển năm nào.

Người viết nghe kể, nhưng không có dữ kiện cho các trường hợp vừa kể trên ở các địa phương khác, nhưng có tạm đủ dữ kiện cho trường hợp thảm sát ở Bến Tre. Nó là trường hợp điển hình về một thứ tội ác kinh tởm không thể bỏ qua. Chỉ một vụ này chế độ Hà Nội cũng đủ bị thế giới lên án gắt gao.

Trong hai năm liên tục, từ 1978 đến 1979, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, theo kế hoạch 2 hay kế hoạch B của Bộ Nội Vu, như tiết lộ của ông Bùi Tín trong Mặt Thật, đã cho thi hành chính sách bán bãi, đăng ký vượt biên lấy vàng tại nhiều nơi, mà một trong những nơi chủ yếu là tỉnh Bến Tre. Cơ quan thi hành chính sách là công an Bến Tre. Người nhận chỉ thị hoàn thành công tác đảng là Hai Chiến, trung tá công an Bến Tre.

Trong chiến dịch hốt vàng năm 1978, công an tỉnh Bến Tre đã cho phép những người đăng ký vượt biên đóng từ 6 đến 10 chiếc tàu đăng ký lớn nhỏ, có khả năng chở từ 250 người đến 4000 người. Họ bắt đầu thu vàng theo công thức mỗi người 10 lượng vàng cho nhà nước cộng sản, 2 lượng cho nhóm chủ tàu đóng tàu. Khi tàu đóng xong, sẳn sàng mọi thứ để lên đường và bắt đầu ra đi thì công an thường gửi thêm từ 100 đến 150 người nữa. Số vàng dâng nộp của nhóm sau cùng này hoàn toàn nằm trong tay của công an. Người ta không biết trong số này có bao nhiêu là thân nhân, bạn bè liên hệ với công an, bao nhiêu là thành phần nộp tiền cho công an để được gửi đi, và bao nhiêu là các cán bộ tình báo VC được cài theo ra nước ngoài cho các điệp vụ tương lai của cộng sản. Thế nhưng, theo những người đã sống ở Bến Tre, chứng kiến những cái chết thảm của đồng bào, chứng kiến những vụ tàu đăng ký ra đi... thì đa số những chuyến đăng ký ra đi có người của công an gởi kèm theo vào giờ chót đều ra biển rộng an toàn, đến nơi đến chốn. Còn lại, một số tàu không có người công an gởi theo, khi ra cửa sông Ba Lai và Hàm Luông, tàu bị nổ tan như xác pháo trên biển. Các vụ nổ mìn vỡ tàu đầy ắp thuyền nhân sau khi đã giao vàng cho cộng sản này xẩy ra năm 1978 mấy lần, có chiếc đông lên tới 600 người, tất cả đều tử nạn, lớp lớp xác người trôi tắp ngược vô bờ sông thuộc các xã Thừa Ðức, Thế Thuận, Bình Ðại tỉnh Bến Tre. Xác người lềnh bềnh trên dòng sông, xác người lềnh bền trôi ra biển, xác người lềnh bền tắp vô bờ... làm ô nhiễm, hôi thối cả một vùng dân cư sống hai bên bờ sông. Sau đó, xác người lớn, xác trẻ em bị cá ăn... và một thời gian sau đó, dân chài đã lưới được những con cá còn cả xương người trong bụng. Dân tại vùng này đã không dám ăn cá gần cả hai năm 1978 – 1979...

Thời gian lại phôi phai, sức ép của chế độ, của đói khổ, của khát vọng ra đi tìm tự do, của khát vọng tìm đất sống, đã lại dồn người ta vào những chuyến tàu đăng ký khác, cũng ở Bến Tre. Còn gì oan nghiệt hơn hở trời!

Sau các vụ cho đi thoát, cho nổ mìn thảm sát thuyền nhân trên biển, hàng chục ngàn lượng vàng được Trung tá công an Hai Chiến thu gom rồi chuyển ra Bắc cho Lê Duẩn/Lê Ðức Thọ và các tay chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam, năm 1979, nhà nước cộng sản lại cho phép đóng 12 chiếc tàu đăng ký cho số người đi dự trù khoảng 4000 người, mỗi người đóng tổng cộng 12 lượng vàng.

Khi tàu đóng xong, tất cả sẳn sàng lên đường với đầy đủ lương thực, nước uống, dầu và thiết bị hải hành... thì công an Bến Tre cho hay là họ đã móc nối được một chiếc tàu sắt lớn mang cờ Panama có khả năng bốc một lược 4000 người, đi biển an toàn hơn.

Chiếc Panama có mặt ở cửa biển Bình Ðại, được công an cộng sản thỏa thuận/deal với giá 2 lượng vàng mỗi người đi, vị chi là 8000 cây vàng cho số 4000 người mà công an phải giao cho nhóm điều khiển tàu Panama trước khi tàu nhổ neo. Cũng theo giải pháp này, tất cả chủ ghe của 12 chiếc ghe đóng xong phải giao cho nhà nước cộng sản. Làm một bài toán, nhà nước cộng sản Việt Nam ngồi không vẫn thu được 8 lượng vàng x 4000 = 32.000 lượng, cộng với 12 chiếc ghe đóng sẵn có đầy đủ phương tiện hải hành sẵn sàng ra đi.( Sau khi chi 2 lượng mỗi đầu người cho tàu lớn...)

Chấp nhận giải pháp được chuyển qua tàu sắt vì nghĩ sẽ được an toàn hơn trên biển, hàng 4 ngàn người đồng ý qua tàu Panama, nằm đầy các hầm tàu và boang tàu. Rồi ngày một, ngày hai... tàu không nhổ neo. Khi công an cộng sản nắm được trong tay toàn bộ số vàng khổng lồ và 12 chiếc ghe hiến lại, họ trở mặt, không thi hành những điều giao ước với tàu Panama.

Tình trạng kỳ kèo nhùng nhằng này kéo dài gần cả nửa tháng, hàng ngàn người sống chen chúc, đói khát, mất vệ sinh dưới các hầm tàu lâm vào tình trạng sống dở chết dở tuyệt vọng. Các toán công an cộng sản bắt đầu màn trấn lột vô lương kế tiếp, tàn nhẫn, lạnh lùng: họ bán từng gói thức ăn, từng lon nước uống để lột từng chỉ vàng còn sót lại của đồng bào theo kiểu "tiền trao, cháo múc", họ thả xuống hầm tàu một sợ dây cột cai lon hay chiếc móc để khi kéo lên một khâu vàng, họ mới thả xuống một lon nước hay một gói thức ăn. Màn vơ vét này có chỉ thị của bộ Nội Vụ cộng sản hay chỉ là chuyện lợi dụng của công an cấp dưới, không ai biết, nhưng nó quả đã diễn ra trước mũi công an cấp trên, công khai và tàn nhẫn. Trong thời gian đó, nhiều trẻ em và người già đã chết, và xác bị vứt xuống biển một cách lạnh lùng, không kể số người lã liệt, bệnh tật, đói khát rũ liệt đầy khoang tàu.

Không biết giữa tàu Panama và công an Bến Tre kèn cựa ra sao, công an lại trở mặt thông báo cho các nhóm tổ chức đăng ký, đòi thêm mỗi đầu người một cây vàng thì tàu mới nhổ neo ra đi. Ai còn vàng thì đóng tại chỗ, ai không vàng thì cử đại diện, mỗi người viết một cái thư cho gia đình, công an chở về Sài Gòn, gia đình cung cấp thêm hay vay mượn nộp cho đủ. Thế nhưng sau đợt vét hàng ngàn lượng vàng sau cùng này, cộng sản cũng không giao số lượng vàng mà họ thỏa thuận cho nhóm người điều khiển tàu Panama, và tàu Panama đã quyết định rời bến không chở theo bất cứ một thuyền nhân nào.

Truớc quyết định này của tàu Panama, công an Bến Tre không nhượng bộ, họ quyết định ăn hết số vàng thu được, vì nạn nhân là hàng ngàn người Việt Nam mà đa số là người Hoa... đối với cộng sản Việt Nam chỉ là cỏ rác. Hai Chiến, trung tá công an và các giới chức công an Bến Tre, có thể cả trung ương đảng ở Hà Nội, đã tìm cái cớ để chuyển hết thuyền nhân đăng ký ra khỏi tàu để tập trung ở An Nhơn, Thạnh Phú.

Cái lý cớ ngụy tạo đó là: Có bọn phản động trong đám thuyền nhân. Hàng ngàn người lũ lượt chen chúc, vật vờ, bệnh hoạn đói khát như những thây ma được cộng sản dùng những ghe đăng ký đã đóng sẳn và để lại cho họ, bốc khỏi tàu Panama và chuyển lên bờ, nhốt tập trung ở An Nhơn, Thạnh Phú... Thuyền nhân lên lại đất liền như những như những người sắp chết, họ quá đói, họ quá yếu, họ ăn cả củ non, ăn cả chuối sống và nhiều người đã chết sau đó vì bệnh hoạn tiêu chảy, thổ tả....

Ðể cho "gánh nặng người" sau khi đã bị trấn lột sạch tan biến dần, công an thả lỏng sự kiểm soát cho ai muốn trốn thì trốn, hoặc giả họ không còn nhu cầu giam giữ sau khi kế hoạch tận thu vàng đã thành công, hoặc giả công an không đủ nhân lực để kiểm soát hàng ngàn người tá túc gần như ăn xin ở An Nhơn, Thạnh Phú và các xã lân cận... Số người sống sót sau cơn ác mộng tìm cách trốn về Sài Gòn hay về quê cũ.

Tàu Panama đã ra khơi.

Hàng ngàn người ở lại phờ phạc, đau ốm, đói khát,trốn chui, trốn nhủi... để thảm kịch Bình Ðại, Bến Tre của chuyến đi đăng ký không thành tan biến, phai mờ dần trong câm nín và uất hận của nạn nhân, và của cả đồng bào Việt Nam trong vùng, những người đã âm thầm chia cơm xẻ áo, dang tay bảo bọc và giúp đỡ đồng bào nạn nhân khốn khổ. Biết bao nước mắt đã đổ ra trong những đêm bà con tâm sự cùng nhau. Cái ghê gớm kinh người của cộng sản Việt Nam là ở chỗ đó.

Theo ước đoán của đồng bào địa phương tại .... Bến Tre thì trong 2 năm 1978 và 1979, số người chết vì bị vỡ tàu tại cửa biển có khoảng từ 5 đến 8 ngàn người tại cửa Ba Lai, Bình Ðại... mà đa số là ghe tàu vỡ chìm đều do mìn nổ trong hầm máy. Người chịu trách nhiệm cho các "chiến dịch" vét vàng và giết người tàn độc này là trung tá công an Hai Chiến, phó công an tỉnh Bến Tre thời đó. Ngoài những chia chác tại địa phương, số vàng vét được từ những vụ ghe tàu đăng ký vượt biên cho đi lọt, hay bị thảm sát, riêng chỉ tại Bến Tre, số vàng chuyển ra Hà Nội cũng là con số khổng lồ mà khó ai biết được chính xác bao nhiêu.

Tại sao họ dám làm chuyện tày trời đó? Dường như sau 1975, khi người và đảng cộng sản Việt Nam vỗ ngực, ưỡn ra đại dương gào thét "đảng cộng sản Việt Nam vô địch, bách chiến bách thắng, đánh bại một lèo ba đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ..." thì phần còn lại của trái đất dưới mắt họ bỗng nhỏ lại, nhỏ hơn nước Việt Nam mà họ mới vừa thống trị toàn vẹn, "nhân loại và nước Mỹ im thin thít trước chiến thắng vĩ đại của đảng ta" (!)... Và từ đó họ nghĩ họ là con mãnh sư vô địch giữa rừng Phi châu toàn là nai non khật khờ, không cần dư luận thế giới, nên họ có thể ra tay làm bất cứ điều gì... mà không sợ bất cứ ai hài tội.

Tạm kết.

Sau khi cộng sản thành công trong việc cưỡng chiếm miền Nam, họ đã triệt để thực hiện công tác toàn đảng gặt hái chiến thắng bằng các nổ lực mà người dân miền Nam gọi gọn là "Vào vơ vét về".

Một miền Nam sung túc, giàu đẹp, cho dù ngay cả trong chiến tranh, đã tàn lụi, héo hắt, nghèo nàn và kiệt quệ. Họ đã vắt kiệt sức sống của miền Nam.

Ðánh tư sản (Ðỗ Mười là chủ chốt) hốt vàng bạc, nhà cửa, đẩy dân đi kinh tế mới chưa đủ; tháo gỡ chở về Bắc toàn bộ tài sản của chính phủ miền Nam để lại, chưa đủ, Bộ Nội Vụ cộng sản cho thi hành kế hoạch số 2 ( kế hoạch B), theo như bài viết của ông Bùi Tín trong "Mặt Thật", để triệt vét vàng qua các vụ xuất cảng thuyền nhân. Chắc chắn trong phần tài sản kếch xù của những đảng viên cộng sản và gia đình, của tập đoàn lãnh đạo tư bản đỏ Mafia Hà Nội/Huế/SàiGòn có hiện nay... không thiếu những thỏi "vàng, máu và nước mắt" của hàng vạn thuyền nhân Việt Nam bất hạnh không đến được bờ tự do. Xin đồng bào trong và ngoài nước nhớ cho điều đó!!!

Bài viết này sẽ không có, sẽ không tới tay bạn đọc và thế giới nếu cộng sản Việt Nam còn một chút tính người là cho thuyền nhân Việt Nam một kẻ hở sau cùng để sống, để vượt biển rộng, sau khi đảng đã thẳng tay vét sạch vàng bạc của dân, nghĩa là cho họ ra đi.

Nhưng không, chứng tích tội ác của cộng sản Việt Nam trong các vụ bóc lột và thảm sát thuyền nhân một cách tàn độc, dã man, có chủ ý, có chỉ thị, có sách lược chỉ đạo.... đã cho thấy đảng cộng sản Việt nam, các nhà lãnh đạo của đảng này, từ xưa tới nay, là một tập đoàn tội ác kinh người trước mắt Thượng Ðế và lương tri nhân loại, mà dường như từ Angola cho đến Cuba, từ Bắc Hàn cho đến Liên Bang Nga thời trước... không một nhà cầm quyền nào, dù là cộng sản, lại ra tay đối với đồng bào mình dã man như cộng sản Việt Nam.

Cộng sản Việt Nam là số một, về man tính, tính từ đáy địa ngục! Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên về những cuộc thãm sát đã xẩy ra trên đất Bắc trong những vụ "cải cách ruộng đất" những năm 54, những vụ chôn sống hàng ngàn đồng bào ở Huế trong trận Mậu Thân 68.... dưới sự chỉ đạo hay đồng lõa của đảng VC.

Bài này, ngoài việc công bố trước dư luận đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, trước dư luận thế giới như để mở một chéo màn đen đau khổ trên đầu dân tộc Việt Nam riêng về vụ thảm sát các tàu đăng ký ra đi không bao giờ đến bến. Người viết cũng xin được gửi đến tất cả những nạn nhân còn sống sót qua những vụ thảm sát, hiện sống bên trong nước hay ở các nước tự do, gửi đến thân nhân gia đình nạn nhân, và anh đặc biệt anh kỹ sư Phạm Hùng, một trong hàng ngàn người sống sót trong vụ tàu Panama ở cửa biển Bình Ðại năm xưa, khi thoát được về Sài Gòn và "vượt biên chui" đến Úc năm 1980.

Chúng tôi và thế giới cần nghe thêm những tiếng nói câm nín, uất hận của quý vị đã cầm lòng dấu kín những đau thương đó từ ¼ thế kỷ nay. Khi người viết đã bất chấp những đe dọa của tà quyền Hà Nội, đưa ra ánh sáng những vụ thảm sát này, thì không có lý do gì các tiếng nói của những nạn nhân trực tiếp lại bị chính mình tiếp tục cầm giữ trong ký ức đớn đau, oan nghiệt một thời khi quý vị đang sống dưới trời tự do...

Người viết xin nói thêm, cộng sản Việt Nam có thể viện dẫn khói súng trong chiến tranh để tàn sát hàng ngàn đồng bào Việt Nam tại Huế trong trận Mậu Thân 1968, tàn sát hàng ngàn đồng bào trên Ðại Lộ Kinh Hoàng 1972 khi di tản khỏi Quảng Trị, tàn sát vô số đồng bào trên quốc lộ 14 và liên tỉnh lộ 7B và hai bên bờ sông Ba năm 1975 trong cuộc triệt thoái Cao Nguyên..., nhưng không, muôn ngàn lần không, không có bất cứ điều gì có thể biện minh được hàng ngàn vụ hành quyết quân nhân VNCH bên trong và bên ngoài các trại tù "cải tạo" trên khắp nước sau cái gọi là "đại thắng mùa xuân 75". Và oan nghiệt hơn, lại không có bất cứ cái gì biện minh được các tội ác kinh người khi thảm sát đồng bào không một tấc sắt trong tay sau khi thu vét sạch vàng bạc, tài sản của họ, khi họ bỏ lại hết cho đảng để ra đi.

Nói như Nguyễn Chí Thiện. "Ðảng thực chất chỉ là đảng cướp!". Chưa đủ! Có cái đảng cướp nào "ưu việt" hơn đảng cộng sản Việt Nam trong nghệ thuật trấn áp, bóc lột và thảm sát người đồng chủng? Không! So với đảng cộng sản Việt Nam, các loại đảng cướp khác trên giang hồ là con số zero vĩ đại.

Và dòng cuối cùng gửi đảng cộng sản Việt Nam: Hãy thử lên tiếng phủ nhận vụ thảm sát đồng bào kinh người ở xã Tân Lập, Trảng Bom ngày 22/4/1975 và vụ đăng ký vượt biên ở Bến Tre trong hai năm 1978 – 1979 như vừa được đề cập trong bài này ...

* * *

Người viết mở lại đống tro, một trong những đống tro đầy hài cốt, thịt xương, máu, nước mắt của đồng bào ba miền Trung Nam Bắc Việt Nam trong dòng lịch sử cận đại. Ðống tro, vẫn còn hâm hấp nóng, chưa bao giờ nguội tàn trong tim người viết từ hơn 25 măm nay, và cảm thấy là mình có tội cho đến ngày cuối đời nếu không viết ra những dòng này. Khi tội ác của đảng cộng sản Việt Nam được phơi bày, ngày tàn của tà quyền Hà Nội sẽ đến gần dần. Xin hãy giữ lửa ấm trong những đóng tro chưa tàn...

Hải Triều
1/6/2002

Ghi chú:

1. Nguyệt San Việt Nam sẵn sàng đón nhận tất cả những đóng góp hay ý kiến bất cứ từ đâu đến, kể cả của đảng cộng sản Việt Nam, về bài viết trên đây. Và chúng tôi mong được liên lạc với những nạn nhân hay thân nhân của những đồng bào nạn nhân còn sống sót trong những vụ thãm sát mà chúng tôi viết trong bài này, đăc biệt là anh kỹ sư Phạm Hùng hiện sống bên Úc. Xin anh em bên Úc, ai biết anh Phạm Hùng, nhờ nhắn tiếp giùm.

Mọi tin tức, hình ảnh, chi tiết nhất là tên tuổi người liên lạc sẽ được giữ kín.

Chúng tôi nhận trách nhiệm về bài viết và sẵn sàng đối diện với sự thực.

Xin liên lạc về Nguyệt San Việt Nam
PO.Box 74013 Hillcrest Park. PO
Vancouver. BC., V5V - 5C8, Canada
Phone/Fax: 604.8795.9022
Email: nsvietnam@yahoo.com


Sau bài vết này của Hải Triều 7 năm, tức năm 2009 này, tháng 5, trên Đàn Chim Việt, ông Nguyễn Văn Lục viết bài ngắn bổ sung thêm một ít Tội Ác Kinh Người của VC như sau :


Cây Cộng sản, Cỏ cụ Hồ

Nguyễn Vă n Lục 15/5/2009


Cây Cộng Sản, Cỏ Hồ Chí Minh, tên nghe đến lạ. Phan Khôi là người đã đặt ra cái tên thực vật quái dị đó cách đây trên nửa thế kỷ. Nhiều người không còn nhớ nữa. Nhưng người bây giờ hỏi cây đó, cỏ đó tự đâu mang về? Trồng ở đâu?

Theo Phan Khôi cho biết thoạt đầu tiên Cây Cộng Sản mọc ở các đồn điền của Tây ở chung quanh các vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang để che đất cho mát gốc. Riết rồi Cây Cộng sản mọc tràn lan, chui vào mọi ngõ ngách khiến đất trở nên khan hiếm... Tây thuộc địa muốn trừ khử đi cũng không xong. Người Pháp mới đặt ra cái tện tiếng Tây là Herbe communiste. Đáng lẽ phải dịch là cỏ Cộng Sản mới đúng.

Không biết tại sao có người lại dịch là Cây Cộng Sản. Người dân thường không biết tiếng Pháp nên dung dị họ gọi đơn giản là cây Bọ Xít hay Cây Chó Đẻ.

Tôi nghĩ nên giữ cái tên nguyên thủy của nó lúc ban đầu là Cây Cộng Sản. Vả lại là người có văn hóa, tôi chẳng muốn gọi biếm nhã là cây Bọ Xít hay cây Chó Đẻ. Nghe thô tục quá.

Người Pháp trừ khử Cây Cộng Sản không xong.Từ một cây ra nhiều cây đến rừng cây. Nó như nạn dịch bèo tây, cỏ lùm. Cứ thế mà lan ra.

Nước mình xưa nay không ai ưa gì các cây dại đó.

Như trong Nam người ta chỉ quen trồng dừa, nhất là dọc theo các kinh rạch. Ngoài Bắc thì cây cau. Cả hai thứ cây đều đem lại lợi ích trăm bề.

Cây dừa nước làm nên cái văn hóa miệt vườn trong cái thế sông nước với con người. Nó trở thành biểu tượng văn hóa dân gian cho một nửa phần đất nước của “vùng đất mới” hay đất của lục châu. Xưa gọi là lục châu, sau này đổi ra lục tỉnh. Người dân miền Nam quý mảnh đất này còn gọi là vùng lạc thổ. Tức là đất đem vui hay đất lành, đất hạnh phúc.

Miền Bắc có cây cau, dáng cau thẳng đứng, được trồng ngay hàng thẳng lối hai bên sân nhà. Cau là một sản phẩm dùng trong các dịp quan hôn tương tế và đi vào huyền thoại dân gian như truyện Trầu Cau… và câu truyện dân gian: Con mèo mà trèo cây cau...

Cả hai thứ cây đó là biểu tượng cho con người Việt Nam mỗi miền về các mặt phong tục, nếp sống, sinh hoạt kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử.

Sau này có Cỏ Cụ Hồ từ đâu đến? Phải chăng sau đó là cái họa bắt đầu từ cây cỏ, thực vật? Đất lành nay thành đất dữ. Nhiều người rủ nhau bỏ xứ mà đi. Nay có đến hơn 3 triệu nguời lìa xa đất mẹ.

Miền Bắc thì nay ít còn thấy cây cau như hồi nào. Nếu còn cây nào thì như thể một mình đối chọi với Cây Cộng Sản. Phải chăng, những cây cau cuối cùng còn sót lại là hình ảnh của các ông nhà văn như Nguyễn Khải, nhạc sĩ Tô Hải còn sót lại?

Cây dừa miền Nam có hy vọng may mắn hơn số phận cây cau miền Bắc chăng?

Nhưng còn cỏ Hồ Chí Minh là cỏ gì? Cái này theo dân miền sơn cước đặt ra. Có cụ già người Thổ thấy có loại cỏ dại không biết từ đâu mọc tràn lan khắp nơi. Trước đây thì cỏ đó không có. Nhưng từ ngày có cụ Hồ về đây lập chiến khu thì tự nhiên cỏ mọc nhiều. Người miền sơn cước vốn mê tín, dị đoan nên chẳng biết gọi tên cỏ là gì.

Vì thế người ta gọi cho tiện là Cỏ Cụ Hồ.


Cỏ cụ Hồ
Nguồn: arkeis.com
Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ cứ thế mà lan tràn cho đến lúc người Pháp phải ra đi. Người Mỹ đến thay chỗ người Pháp. Sau này người Mỹ đến đây cũng tìm cách diệt Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ. Nhưng cũng không được. Họ đã phải dùng đến thuốc khai quang.

Vậy mà diệt cũng không xong.

Thuốc khai quang, bom săng đặc, B52 trải thảm. Hết lớp này đến lớp khác. Nhưng chỉ ít lâu sau không biết từ đâu Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ lại xuất hiện nhan nhản. Có người kẻ sĩ như Nguyễn Ngọc Lan lúc ấy lo sợ Mỹ khai quang quá, hủy hoại sinh thái đã viết rằng: Cho cây rừng còn xanh lá. Nếu lúc này, Nguyễn Ngọc Lan còn trên dương gian này thì chỉ xin được hỏi cây rừng nào? Có Cây Cộng Sản hay Cỏ Cụ Hồ không? Có lẽ, ông sẽ lắc đầu quầy quậy. Đừng hỏi.

Câu truyện Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ dù sao cũng chỉ là truyện dân gian, ví von tưởng tượng. Phần người viết vốn không quen viết phiếm luận.

Bản chất thật thà nên gọi thẳng tên Cây Cộng Sản là chủ nghĩa cộng sản, Cỏ Cụ Hồ là đám cán bộ, đảng viên đảng Hồ.

Người viết tự hỏi nay đã hơn 30 năm mà cái đảng ấy vẫn muốn diệt, san bằng cây dừa miền Nam, sau khi đã thanh toán xong cây cau miền Bắc? Cây dừa vốn làm nên sinh cảnh miền Nam, cái hồn của dân miệt vườn.

Cây cỏ miền Nam có tội tình gì mà cứ muốn diệt cho bằng được?

Và sau đây là những phân tích, lý giải, trình bày của người viết bài này.

Hoàn cảnh cây cau và cây dừa

Sự thực là khi người cộng sản vào Hà Nội năm 1954, họ coi người dân từ vĩ tuyến 17 trở như “người của họ,” cây cau và họ là một gốc về phương diện hành chánh, lịch sử, quản lý, chính trị. Họ cư xử như người “trong một nước,” dù là thứ nước của một đảng độc tài toàn trị.


Cây dừa miền Nam
Nguồn: photobento.blogspot.com
Nếu có những thành phần chống đối trong cái “trong một nước” không tránh khỏi thì cùng lắm nó giới hạn vào một nhóm người, một cá nhân. Chẳng hạn, khi mới tiếp thu Hà Nội, có sự phân biệt người “Hà Nội Mới” và người “Hà Nội cũ” trong cách sống, cách ăn mặc. Một bên gọn ghẽ sạch sẽ, “văn minh thành thị” nề nếp trong cử chỉ lời ăn, tiếng nói. Ta gọi là Tỉnh. Bên kia ăn mặc lố bịch lôi thôi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói quê mùa. Ta gọi là Quê. Quê và tỉnh chỉ đại diện cho nếp sống văn hóa cá biệt, nhưng vẫn có thể sống chung.

Sau này ở miền Nam, cũng có sự khác biệt giữa Cỏ Cụ Hồ và cây dừa miền Nam. Nhưng khác biệt rõ nét và sâu sắc hơn nhiều. Khác đến đối kháng, đến muốn hủy diệt nhau. Nó không còn là tỉnh với quê nữa. Mà là nếp sống văn minh và nếp sống lạc hậu. Kẻ thua trở thành nạn nhân đủ kiểu của kẻ thắng. Nhưng ở một mặt khác, đôi khi kẻ thua là kẻ mở mắt cho kẻ thắng,dẫn đường cho một lối sống mới khác hẳn thế giới u tối, kìm kẹp của Cỏ Cụ Hồ.

Nhưng chẳng bao lâu sau ở miền Bắc sau 1954 thì khái niệm mới cũ tan loãng do những áp lực dân số của định luật đa số. Khái niệm mới cũ không còn lý do tồn tại, vì cũ mới gì cũng chỉ còn là những con người cùng khổ cùng một lo toan cơm áo.

Vì thế, Cây Cộng Sản không có tâm trạng kẻ chiến thắng đối với kẻ thua cuộc. Không có so bì gìữa Cây Cộng sản và cây cau. Không có não trạng đế quốc. Cho nên cũng không có mấy cảnh cố vơ vét, chiếm đoạt cho bằng được.

Trái lại, tại miền Nam Cỏ Cụ Hồ và cây dừa miền Nam là những lực đối kháng muốn truy diệt. Từ đó nảy sinh ra hiện trạng cá nhân vơ vét theo cá nhân, chính quyền vơ vét theo chính quyền như thể chiếm miền Nam là “một chiến lợi phẩm” giữa hai nước thù địch. Hàng đoàn xe trở về Bắc vật tư, kho dự trữ, xe cộ, máy móc.

Người ta nói rằng Cỏ Cụ Hồ khi vào miền Nam tối mắt lại, lòng tham nổi dậy, gặp gì cũng vơ vét.

Chẳng hạn, hãng Cogido còn tồn kho 8000 tấn giấy in. Thế là chở ra Bắc. Tất cả các xe hơi mới của các hãng Citroen, Renault, Peugeot cũng được lệnh chở ra Bắc. Hãng Engineco có 165 xe đã được nối đuôi nhau ra Bắc. (Xem thêm La mousson de la liberté-Viet Nam Du colonialisme au Stalinisme, Friang Brigitte, Plon, 1976)

Sĩ quan, cán bộ thì chuyên chở về Bắc, xe Honda, salon, tủ lạnh, tivi, quạt máy, vải vóc, đồ gia dụng, thuốc Tây. Từ chổi cùn rếrách khuân tất, dọn sạch.

Người nước ngoài nhận xét, đây là một hình thức tự thực dân hóa chính người mình hay đúng ra là một cuộc hôi của.

Nay xe Honda chạy đầy đường thành phố Hà Nội thay cho xe đạp và nhất là dẹp bỏ xe điện một toa. Một nét đẹp cổ của thủ đô Hà Nội. Xem ra có sự lấn lướt về giá trị giữa hai miền. Cái gì của miền Nam thuộc vật chất thì được coi là tốt, là đẹp, là tiện nghi, là văn minh tiến bộ.

Sự vơ vét chiếm chiếm đoạt mang tính chất nhà nước, như một định chế bất khoan nhượng, luật rừng. Cái luật rừng ấy củng cố thêm cho cái hào quang chiến thắng và làm mờ lương tri và lẽ phải. Dựa vào chiến thắng biến chuyện vơ vét thành chuyện chính đáng, tự nhiên.

Như một thứ cướp ngày.

Năm 1975, khi Sài Gòn rơi vào tay cộng sản thì có hơn 30.000 công xưởng kỹ nghệ rơi vào tay chính quyền mới. Có hằng trăm cơ sở kỹ nghệ có từ 1000 đến 3000 công nhân viên nay do nhà nước quản lý.

Một phần các cơ sở kỹ nghệ tập trung trong khu Kỹ Nghệ Biên Hòa, thành lập năm 1963, rộng hơn 300 hectares, cách Sài Gòn 25 kilômét. Nơi đây có nhiều hãng: Như Chế biến thực phẩm. Chế biến Hóa chất. Sản xuất vật liệu xây dựng. Sản xuất Giấy và các sản phẩm giấy. Các hãng Thủy tinh. Hãng Bao Bì. HãngThép, hãng Cáp điện. Hãng Sơn gỗ.

Tiêu Biểu có các hãng Coronel, Vimytex, Vinatexco, Sicovina. Các hãng dược phẩm như Roussel, Vina-Spécia, Hoechst, hãng sữa Nestlé. Về kỹ nghệ, có các hãng xăng dầu Nhà Bè, các hãng dệt (năng xuất 240 triệu mét/năm)các hãng bia, nước ngọt,(250 triệu lít/năm) hãng sữa, các hãng thực phẩm như Bột Ngọt, làm mì gói, dầu ăn. Các hãng như Pin Con Ó, hãng bông gòn Bạch Tuyết. Các nhà máy xi măng, nhà máy giấy.

Rồi đến các cảng biển như bến cảng Sài Gòn bốc dỡ 7 tiệu tấn/năm. Các hãng tàu biển, các kho hàng. Thu tất. Chở tất cả về Bắc cái gì chở được.

Rồi còn các phi trường.

Xin được đưa một vài chi tiết mà Cỏ Cụ Hồ gọi là “chiến lợi phẩm” tại phi trường Tân Sơn Nhất. Trong bài: Những ngày đầu tiếp quản Tân Sơn Nhất, ông Trần Vĩnh Khâm cho hay: Ngoài các cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhà xưởng. Họ tịch thu được 2 DC6, 7 DC3, 5 DC 4 một B.727, một 707. Cộng thêm 76 máy bay quân sự gồm các loại C.130, Ch.47. C.7A, v.v... (Trích Trần Vĩnh Khâm, người trách nhiệm tiếp quản sân bay Tân Sơn Nhất, thuộc cục cảng Hàng Không Việt Nam)

Tôi thật ngạc nhiên không hiểu các vị tổng giám đốc Hàng không VN lại có thể để lại một cách phí phạm những phi cơ phản lực như B.727 như vậy cũng như vô số máy bay vận tải quân sự. Với chừng đó máy bay, ít lắm cũng cứu được vài ngàn người ra khỏi Việt Nam.

Chưa kể các căn cứ quân sự và quân trang, quân dụng với hàng ngàn xe tăng đủ loại của Việt Nam và của Mỹ để lại.



Về Ngân hàng Quốc Gia và 16 tấn vàng

Chiếm được Sài Gòn là nghĩ ngay tới tài sản ở ngân hàng. Nay thì đã rõ TT Nguyễn Văn Thiệu đã không dính dáng gì đến 16 tấn vàng mà dư luận đã đổ oan cho ông. Khi người cộng sản chiếm được Sài Gòn thì cái “chiến lợi phẩm” đầu tiên mà họ nghĩ tới là Ngân hàng Quốc Gia ở 17 bến Chương Dương. Theo lời tường thuật của ông ông Huỳnh Bửu Sơn, kiểm soát viên, người giữ chìa khóa hầm chứa vàng và Ông Lê Minh Kiêm, người giữ mã số hầm bạc của ngân hàng quốc gia như sau. Tháng 6/1975, có lệnh kiểm kê. Ông Huỳnh Bửu Sơn lãnh trách nhiệm kiểm kê số vàng và tiền. Vàng có 1234 thoi, nặng 12 hoặc 14kg/một thoi. Và hơn một ngàn tỉ đồng tiền Việt Nam. Cả hai bên đã làm một kiểm kê thì số lượng vàng để lại trong ngân hàng ăn khớp với giấy tờ. Công việc hoàn tất, ông Huỳnh Bửu Sơn trao lại cho đại diện chính quyền mới là ông Hoàng Minh Duyệt, chỉ huy phó đơn vị tiếp quản ngân hàng.

Nay được hỏi số vàng đó đi đâu thì ông Ba Châu, nguyên Tổng Giám Đốc ngân hàng trả lời cho biết như sau:

Khi tiếp quản, liệu tiền vàng có bị thất thoát không? Ông trả lời nước đôi. Theo tôi thì không thể. Ngân hàng của chính quyền cũ quản lý rất chặt, ta cũng chặt.

Số vàng đó sau này đi về đâu? Nó trở thành tài sản quốc gia, được quản lý theo luật pháp của chính quyền cách mạng, sau đó là của nhà nước Việt Nam thống nhất? (Trích Trở lại câu chuyện 16 tấn vàng ngày 30/4/1975 VnMedia.Vn, ngày 17/10/2006)

Câu hỏi còn lại bây giờ vẫn là: Số vàng đó sau này đi về đâu? Và nếu tiêu thì tiêu vào việc gì?

Lần này thì không ai có thể có câu trả lời được. Bởi vì rất chặt và cũng chặt đã hẳn khác nhau.

Tất cả rơi vào tay Cỏ cụ Hồ.


Cau miền Bắc Nguồn: thvl.vn
Nhưng 16 tấn vàng có nhằm nhò gì. Theo một ông tây, ông Michel Tauriac, tác giả nhiều cuốn sách viết về Việt Nam. Tauriac kết án nặng nề chế độ cộng sản Hà Nội là 50 năm tội ác và dối gạt. Ông viết báo chí ở Việt Nam chỉ là công cụ được trả tiền để tuyên truyền “phúc âm” của chế độ: “Ils ne sont payés que pour diffuser l’évangile du régime.” (Trích Viet Nam. Le dossier noir du communism de 1945 à nos jours, 2001, trang 187) Không biết ông tính toán làm sao mà cho rằng việc diện người Hoa đi bán chính thức đã đem về cho chính quyền Hà Nội 25 tấn vàng.

Nhưng theo tôi nếu nhà nước chiếm 25 tấn vàng thì chủ tầu người Hoa cũng ẵm thêm 25 tấn nữa. Vị chi là 50 tấn vàng. Michel Tauriac gọi những người di tản là những con bò sữa cho chế độ cộng sản Hà Nội vắt sữa.

Nếu thế thì phải chăng ngoài loại Cỏ Cụ Hồ còn có loại sữa miền Nam bị Cỏ Cụ Hồ vắt sau khi chiếm miền Nam?

Mặc dầu ăn ngập đầu, ngập cổ, mặc dầu tham lam vô độ, họ vẫn có thể không biết ngượng đưa ra tuyên cáo trấn an lừa phỉnh dân chúng miền Nam như sau: “Không có bất cứ tổ chức nào, không có bất cứ đơn vị quân đội nào có quyền trục xuất những người ở trong các biệt thự đó cũng như tịch thu tài sản của họ.”

Nói thì ngon lắm. Năm 1981, tôi bảo lãnh được gia đình qua. Căn nhà của tôi ở số 224B Nguyễn Huỳnh Đức, nhà nước không cho bán, cũng không cho nhường lại cho em gái tôi. Họ đã chiếm nhà và chỉ cho một mảnh giấy vỏn vẹn ghi rõ từng chữ sau đây: Nhà này do nhà nước quản lý. Vậy bây giờ có trả lại không? Quản lý là lấy luôn? Một bất công xảy ra cho một người là một đe dọa cho cả mọi người? Không phải chỉ một gia đình tôi là nạn nhân mà hằng vài trăm ngàn gia đình người miền Nam. Hằng trăm ngàn cây dừa miền Nam đã bị đốn chặt nhường chỗ cho những Cây Cộng Sản, những Cỏ Cụ Hồ.

Tự nhiên mà lấy, công khai mà lấy. Lấy vô tư. Cái tự nhiên vô tư trở thành một vô thức tập thể, cướp của người không hối hận mà còn hãnh diện. Nó có khác gì tâm trạng những vua quan thời xưa xâm chiếm đất nước Chiêm Thành không? Nó còn tồi tệ hơn chế độ thực dân Pháp một bực.

Cỏ Cụ Hồ là loại cỏ ăn được đủ thú, một mối đe dọa cho những cây dừa miền Nam. Sau này, nếu có chống đối, có vùng lên thì chỉ trông cậy vào những cây dừa đã mất nhà, nhất là mất đất đứng dậy vùng lên. Họ sẽ nhân danh cây cỏ, nhất là cây dừa miền Nam đòi lại công lý.

Đến ngay những người trước đây vốn là dân miền Nam chính hiệu, nhưng sau này theo Măt Trận Giải Phóng Miền Nam, sau 1975, họ cũng tự coi mình là kẻ chiến thắng, hành xử như kẻ chiến thắng. Cũng mỗi ông từ bưng biền trở về, ông nào cũng được cấp một căn nhà, nhiều khi đồ dùng trong nhà còn nguyên vẹn.

Ngoài các cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng. Họ an nhiên tin chắc họ xứng đáng được ở những căn nhà đó. Như ông cách mạng Lữ Phương chẳng hạn. Đứng về mặt thuần túy Cách Mạng, các ông như Lữ Phương vốn là người tự hào theo cách mạng vì lý tưởng Mác Xít, tự hào vì con đường giải phóng dân tộc, tự hào vì đủ thứ. Ông có nghĩ rằng căn nhà ông đang ở nay công bằng của lẽ phải nên trả lại người chủ cũ, nếu người ta đòi hoặc dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ hay trăm ngàn người lính ngoài mặt trận? Tất cả những thành phần đó, họ có xứng đáng ở căn nhà đó hơn ông không? Và đã có một ai trong số hàng triệu những người đó được ở trong những căn nhà tương tự?

Nếu có những Cỏ Cụ Hồ sau này từ bỏ lớp Cỏ Cụ Hồ thì đó là những cựu cán binh, cựu bộ đội, cựu kháng chiến Nam bộ- Những người đã hy sinh cả đời mình cuối cùng bị loại bỏ- Đó là những thành phần sẽ đứng lên đòi công lý sau lớp nông dân miền Nam mất đất ở trên.
Phần ông Lữ Phương, tôi giả dụ rằng ông Lữ Phương đang chiếm ngụ căn nhà lại chính là căn nhà của tôi. Có thể là bất hạnh cho ông Lữ Phương và may mắn cho tôi vì tôi đã gặp được một con người đã hy sinh đi theo lý tưởng cách mạng, đã dám hy sinh cả mạng sống mình, ông có thể nghĩ lại trao trả một căn nhà hợp pháp lại cho chủ cũ là tôi không?

Cả đời tôi đi làm. Không tham nhũng, không hối lộ. Không phạm pháp. Tất cả còn lại là chữ KHÔNG.

Tôi là cây dừa miền Nam chính hiệu.

Tôi đã bị Cỏ Cụ Hồ lấn áp, cướp cạn. Tôi để dành để dụm cả đời mới có nhà, có xe, có cửa. Ra đi có giấy tờ. Nhưng chịu cảnh trấn lột trắng tay. Hai cha con ra đi đã nộp 18 lạng vàng cho Cỏ Cụ Hồ. Không còn một xu dính túi, chỉ còn nhét dấu được đôi chút nữ trang làm của hồi môn cho con dâu sau này.

Có đất nước nào như đất nước chúng ta không?

Tôi trắng tay, ai là kẻ có trách nhiệm? Có một nước văn minh nào trên thế giới hành xử như quý ông không?

Tôi hỏi để mà hỏi thôi. Sau tôi, hàng ngàn, hàng vạn hàng trăm ngàn người, người dân quê, giới lao động đã bị nhà nước thu vét tài sản đến không còn đồng xu dính túi.

Nhưng tôi cũng nghĩ tới những nạn nhân chiến thắng, cũng bị bỏ rơi như tôi. Đó là các thương binh, bộ đội, các đàn bà góa miền Bắc vì có chồng đi làm vật hy sinh, có “những làng không chồng” trong số họ.

Tất cả đều dành hy sinh cho Cỏ Cụ Hồ. Họ được gì? Cách mạng ở chỗ nào, thưa các ông?

Cho nên, người cộng sản đánh đuổi chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ để cuối cùng khoác cho mình một chủ nghĩa tự thực dân (autocolonisation) chính người dân của mình, coi tất cả những gì thuộc miền Nam đều là một thứ “chiến lợi phẩm.” Ngay cả “chiến lợi phẩm” là con người.

Phải chăng, chiến lợi phẩm là chính con người? Phải chăng đó là điều tệ hại nhất mà ta có thể tưởng tượng ra được.


Lê Hiếu Đằng,
Phó chủ tịch MTTQ TP HCM
Nguồn: vietnamnet

Họ biến những kẻ thua cuộc trở thành những kẻ thù. Nhưng họ vẫn môi mép. Họ là những người như ông Lê Hiếu Đằng (1) đã không biết ngượng khi trả lời trên Tin Sáng coi cây dừa miền Nam như: “Những cái hôn thắm thiết, những bàn tay xiết chặt tưởng chừng như không muốn rời ra. Đây là một cuộc Bắc Nam xum họp một nhà cảm động và đông đủ nhất.”

Viết được đến như thế thì thôi và khoảng cách giữa con người với con người còn cách xa nhau lắm.

Cho nên, tài sản thì họ chiếm đoạt. Nhà cửa họ chiếm đoạt. Tiền bạc họ chiếm đoạt. Nghĩa là tất cả những gì thuộc giá trị vật chất như đất đai, kho tàng, thì đều thuộc về họ.

Tất cả đều rất thơm, rất tốt. Tranh nhau mà lấy.

Sau 1975, phần lớn các khu biệt thự đường Bà Huyện Thanh Quan, Công Lý, Pasteur, Nguyễn Du cũ nay là nhà của quan chức lớn nhỏ. Những khu buôn bán như Nguyễn Huệ, Gia Long, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, chợ An Đông, Chợ Lớn Mới thì nay vợ con quan chức miền Bắc vào chiếm ngụ buôn bán.

Chưa thấy một ai trong số họ chê bai hoặc từ chối tài sản Mỹ Ngụy để lai. Chưa ai có can đảm, muối mặt dám nhận rằng đó là tài sản do bóc lột, ăn cướp của dân nghèo. Chưa một người nghèo khổ nào, chưa một người bộ đội nào được phân chia nhà cửa, đất đai của chế độ Sài Gòn.

Tất cả những người đã hy sinh cho chế độ cộng sản thì đều được chia một phần bánh vẽ. Bánh vẽ không làm bằng tay mà bánh vẽ bằng mồm.

Nhưng tất cả những gì còn lại liên quan đến con người miền Nam từ văn học, xã hội, lịch sử thì đều là “tàn dư,” đều xấu.

Họ đã đồng hóa chiến thắng quân sự đi đôi với đạo đức, đi đôi với các tiêu chuẩn giá trị tốt xấu.

Họ đã giản lược xã hội con người dựa trên Nhị nguyên tính: chính và tà. Kẻ chiến thắng đồng nghĩa với chính nghĩa. Kẻ thua được đồng loại với Tà. Đó là một thế gìới truyện giản lược của Kim Dung: Đại diện cho chính phái và tà phái.

Hay nói theo ngôn ngữ chính trị thời nay phân chia thế gìới lưỡng cực: Thế giới Cực của điều xấu (Axes du Mal) và một thế giới cực của điều tốt (Axes du Bien).

Bổn phận của chúng ta ngày nay là đánh tụt giá tất cả những quan điểm cực đoan về điều xấu, điều thiện. Trong đó có quan điểm cực đoan giáo điều của Cây cộng sản.

Cây dừa miền Nam vẫn là biểu tượng giá trị tinh thần, văn hoá, tình cảm của miền Nam.

Tôi rất mừng là cho đến lúc viết bài này cây dừa miền Nam vẫn còn đứng vững, vẫn trụ. Nhưng một mặt khác, tôi cảm thấy ngượng, vì bài viết của tôi so với thực tế bây giờ thì chỉ là truyện muối bỏ biển.

Ngày nay, Cỏ Cụ Hồ tham lam trấn lột cả nước, gấp 10 lần so với năm 1975. Trấn lột một cách ngang nhiên, không còn pháp luật.

Nhưng cũng vì thế nay không chỉ có những người tỵ nạn ở Hải ngoại chống lại người cộng sản. Mà cả nước chống. Mọi người chống cái đảng “ăn cướp” ấy. Người ta tự đặt câu hỏi liệu cái đảng ấy còn đứng vững được bao lâu?

Như nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả Truyện kể năm 2000 hiện nay đang ở Cali thăm bạn bè Người Việt Hải Ngọai đã dặn dò Vũ Thư Hiên như sau: “Chúng mình phải viết về những gì chúng mình thấy. Trách nhiệm đấy".

Theo gương các người đã từng sống trong chế độ cộng sản đã viết như những người chứng tố cáo chế độ ấy như Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Chí Thiện, nhạc sĩ Tô Hải.

Tôi đã viết và sẽ còn viết, mặc dầu tiếng nói nhỏ nhoi và không trọng lượng bằng những người trên.


© DCVOnline

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...