Lm Nguyễn Văn Lý
Đăng ngày 29/06/2010 - Thông Luận
Tù nhân lương tâm
Linh mục Nguyễn Văn Lý
“… Em muốn Ba luồn lách để em được tiếp tục đi học, hay muốn Ba em hiên ngang hùng dũng dù em phải nghỉ học?” …”
Làm sao thắng sợ hãi?
Linh Mục Tađêô Nguyễn Văn Lý
I. Nguồn gốc của sự sợ hãi nói chung :* Khi không nhận ra hoặc phủ nhận Thượng Đế, Thần, Phật nên cuộc sống thiếu nền tảng.
* Khi không cảm nhận được Thượng Đế, Thần, Phật hài lòng, chỡ che và chúc phúc.
* Khi làm điều sai, bị lương tâm dày vò hoặc thấy cần phải che dấu.
* Đối mặt với các bí ẩn cuộc đời, nhất là cái chết thê lương.
* Đối mặt các đe dọa “được xem” là mạnh hơn mình.
* Đối mặt các đe dọa mông lung mơ hồ chưa hiểu rõ.
* Đối mặt các phiền phức, đau thương, khốn đốn hầu chắc sẽ xảy ra cho thân nhân.
* Đối mặt các thế lực hung bạo sẵn sàng gây hại cho thân xác, mạng sống và danh dự mình.
* Đối mặt với sự bất lực cố níu giữ địa vị, quyền lợi có nguy cơ đe dọa tuột khỏi tầm tay.
II. Nguồn gốc của sự sợ hãi do bạo quyền độc đoán, phát-xít, CS và CSVN:
Ngoài các nguồn gốc chung nói trên, các đặc trưng sau đây, nhất là về nỗi sợ hãi có tính CSVN, muốn thắng vượt, cần nhận diện cho rõ:
* Một quần chúng luôn bị theo dõi, bị rình mò, có thể bị hạch họe, bị bắt bất cứ lúc nào.
* Một quần chúng thấp kém về nhận thức, quá mau mắn nhẹ dạ tin nghe theo sự tuyên truyền của Nhà Cầm Quyền CSVN (NCQ CSVN). Chỉ cần vài xảo ngôn, thủ thuật là CSVN có thể ngụy biện lừa gạt được quần chúng rồi.
* Một quần chúng quá quen với gian dối xảo trá, ứng xử trâng tráo, trơ trẽn, rất thiếu liêm sỉ.
* Một quần chúng rất dễ bị xách động để “xét xử, phê bình, đấu tố” “đồng bào” mình. Vì lúc đó, “đồng bào” đã trở thành “kẻ thù nhân dân” rồi.
* Một NCQ chuyên dùng đe dọa, trừng phạt để khống chế dân, buộc dân vừa luôn “phấn khởi, hồ hởi, nhiệt liệt” hoan hô ca tụng NCQ liên tục, không còn chút liêm sỉ, vừa luôn lệ thuộc NCQ từ sổ hộ khẩu, thẻ chủ quyền nhà đất, điện thắp,…đến xong đại học rồi bằng tốt nghiệp vẫn có thể bị “giam lại”, vào quan tài chưa chắc đã được cấp.
* Một NCQ luôn rêu rao là “vì dân, của dân, do dân” nhưng chuyên bắt dân “mang ơn Bác, Đảng” đến chết cũng đáp nghĩa chưa xong.
* Một hệ thống Pháp luật quá độc đoán, áp đặt, mâu thuẫn, chồng chéo. Kết tội “gián điệp, xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống NCQ, gây mất đoàn kết, lợi dụng dân chủ, chống đối chính sách, …” quá dễ dàng; phạm vi quá mông lung, mơ hồ, hoàn toàn theo ý chủ quan của Đảng và NCQ. Các nước làm luật để “ngăn ngừa NCQ đừng lạm dụng xâm phạm đời sống Dân”, còn CSVN làm luật để “giới hạn Quyền Tự do rất chính đáng của Dân, cho Đảng và NCQ được an toàn”.
* Các trừng phạt mang tính đê hèn, thâm độc, hậu quả ảnh hưởng quá dễ dàng và lâu dài trên mọi thành viên của gia đình, giòng tộc, “di truyền” cho nhiều thế hệ xuyên qua “chủ nghĩa lý lịch”.
III. Để thắng vượt sự sợ hãi nói chung:
1. Nền tảng cơ bản trên hết và trước hết: Tâm hồn trong sáng. Phải khiêm tốn nhìn nhận rằng: con người không thể tự đứng vững một mình trên đời được, mà phải có sự trợ giúp của Ơn Trên. Còn Ơn Trên chỉ có thể tác động hiệu quả nơi một tâm hồn thành kính. Muốn có một tâm hồn thành kính liên lạc thân mật thường xuyên với Cha Toàn Năng, điều cơ bản là tâm hồn ấy phải trong sáng tối đa có thể. Khi tâm hồn thanh khiết, người ấy sẽ cảm nhận một sức mạnh nâng đỡ lớn lao liên lỉ đêm ngày từ Trên Cao, thanh thản trước các đe dọa của bất cứ mãnh lực nào. Khi làm điều tội lỗi sai trái thì dù một trẻ em, chúng ta cũng sợ em đó biết, thấy và nói ra.
2. Để nuôi dưỡng và củng cố tâm hồn thanh khiết, cần có đời sống thiền định, cầu nguyện, tĩnh tâm. Một chiến sĩ dân chủ đích thật, phải có ít nhất mỗi ngày 30–60 phút tĩnh tâm, thiền định, cầu nguyện. Cần ngồi lưng thẳng, mắt khép, thở sâu, nhẹ và đều. Tập trung tư tưởng rồi nghĩ đến và tâm sự với Đấng Tối Cao mà mình tin yêu phó thác. Dù gọi là Thiên Chúa, Thượng Đế hay Đức Phật, thực ra người bình dân thường cũng chỉ nhắm đến một Cha Toàn Năng mà thôi. Chính đời sống thiền định, cầu nguyện này sẽ giúp chúng ta vượt thắng mọi sợ hãi.
3. Không hận thù, căm tức: Chúng ta không tán thành tội ác, lên án điều ác xấu bất cứ từ đâu, nhưng chúng ta luôn thao thức và cầu nguyện cho người đang làm điều ác, nhất là những người vì cơm áo mà phải phục vụ Bạo quyền. Một quả tim luôn yêu thương thì hằng vững mạnh. Thánh Gioan đã xác quyết ngay từ cuối thế kỷ I: “Tình yêu hoàn hảo loại trừ mọi sợ hãi” (Tân Ước, 1 Ga 4,18). Nếu chúng ta hận thù, căm tức thì chúng ta yếu nhược và chết dần đến chết hẳn trong tinh thần. Sức mạnh của chúng ta cốt ở chỗ luôn yêu thương, hằng từ bi, mãi thông cảm, kiên trì lễ độ, nhẫn nhịn khoan dung.
4. Không ước muốn tầm thường: Con người cao cả, có giá trị và hạnh phúc nhờ sống trong sạch và hữu ích cho người khác. Do đó không nên ham muốn những điều mà không có chúng, chúng ta vẫn sống được. Càng không nên ham muốn những điều mà để có được chúng, chúng ta buộc lòng phải trở nên yếu đuối bạc nhược còn hơn một em bé thèm kem, phải quỵ lụy cầu cạnh đôi khi không còn chút liêm sỉ. Để vô úy (không sợ), một trong các điều cần thiết đầu tiên là phải vô cầu (không xin). (“Vô cầu” ở đây chỉ nhắm đến việc không cầu cạnh xin xỏ người đời).
IV. Để thắng vượt sự sợ hãi đặc trưng do bạo quyền CSVN gây ra:
Cần xác định cho thật chính xác và rõ các điều sau đây:
1. Mọi thế lực gian ác không bao giờ mạnh cả, tự bản chất, thế lực gian xảo là rất yếu, luôn luôn yếu, chỉ tạm thời “mạnh” bề ngoài và chỉ “xem ra mạnh” về bạo lực, bạo quyền mà thôi. Ngay cả các nhân viên của bạo quyền cũng tự cảm thấy mình dựa trên một quyền lực hư ảo, vì chỉ run rẩy chao đảo dựa trên sự sợ hãi của dân, không thể tìm được chỗ tựa vững chắc và bền lâu là lòng kính trọng, khâm phục và tin yêu của người dân. Do đó, đứng trước sự hiên ngang, vô tội, ngay thẳng của người dân thì bạo quyền run sợ, lúng túng, đành phải dọa nạt, trấn áp, mắng chửi, bôi lọ và đánh đập hành hung. Bạo quyền VN gian trá quá lâu - 75 năm rồi - nên ngày càng yếu hơn. Vậy nếu chúng ta bình tĩnh và sáng suốt, ôn hòa mà hiên ngang, dịu dàng nhưng cương quyết thì chúng ta không sợ ai cả, trái lại còn chinh phục được các nhân viên của bạo quyền nữa.
2. Không ngụy biện rằng chúng ta không cần điều gì đó cho chúng ta, nhưng chỉ vì người thân mà chúng ta phải làm điều này điều nọ. Hoàn cảnh của “tôi” thì nào là, nào là…. Việc ấy đã có những người chuyên môn gánh vác,…Đáng tiếc, các kiểu ngụy biện này thường được “vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt” quá nhiều hiện nay tại VN. Người thân chúng ta cần an ninh, cần cơm gạo, cần học hành,…nhưng người thân chúng ta còn cần sự hiên ngang, anh dũng chiến đấu cho lẽ phải của chúng ta và của chính họ hơn cả mọi thứ khác và chúng ta có bổn phận giúp người thân hiểu rõ điều này, nếu giả như họ chưa hiểu. Thực ra người bình dân thường trực giác và phán đoán về đúng / sai nhạy bén và chuẩn hơn người đã có chút địa vị, quyền lợi. Nếu một em học sinh lớp 10 được hỏi rằng: “Em muốn ba luồn lách để em được tiếp tục đi học, hay muốn ba em hiên ngang hùng dũng dù em phải nghỉ học?” Có lẽ đa số học sinh sẽ chọn phương án 2 ! Đáng buồn là đa số phụ huynh cứ tự cưỡng ép lòng mà chọn phương án 1 và cho rằng đó là “khôn ngoan” nhất. Chúng ta phải tin vào sự chuẩn xác của lương tri tự nhiên của những người “trong sạch” nhất dù là thiếu nhi.
3. Nếu đông người cùng làm một điều gì đó hợp lẽ phải thì bạo quyền sẽ không làm gì được. NCQ CSVN vẫn luôn rêu rao rằng là một NCQ “vì Dân, của Dân, do Dân”. Do đó, chúng ta phải khôn ngoan triệt để vận dụng nguyên tắc này mà đoàn kết lại để bảo vệ các quyền cơ bản của chúng ta. Cần nghiên cứu vài điều cơ bản của Hiến pháp 1992, bộ luật Hình sự 1995 và các bộ luật khác để buộc các Cán bộ (CB) NCQ ít nhất phải giữ Pháp luật theo nguyên tắc: “Dân được phép làm tất cả những gì Pháp luật không cấm rõ ràng, còn CB chỉ được phép làm những gì Pháp luật cho phép.” (ví dụ CB không được phép làm nhục, đánh đập dân; lục soát, khám xét nhà; đe dọa và tịch thu sách báo, băng đĩa, hoặc sờ đụng vào người và đồ đạc của dân khi chưa có lệnh bằng văn bản chính thức…). Dù một điều mà bạo quyền buộc dân làm (như đi bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp,…), nhưng dân thấy vô lý, giả tạo, gian trá, bất công, lố bịch,… mà đông người cùng nhau quyết tâm không làm (như trong cùng 1 khu phố, 1 thôn, 1 khuôn hội, 1 giáo xứ, 1 phường, 1 xã,…), thì NCQ luôn tự cho mình là “vì dân” đành buộc lòng phải thua dân, sẽ tỏ ra rất lúng túng buồn cười. Ví dụ kỳ bầu cử Quốc hội 2011 tới đây, nếu dân, nhất là các nhân sĩ có địa vị, biết tẩy chay trò bầu cử giả tạo đã kéo dài quá lâu (12 kỳ trong 65 năm) này, cương quyết đồng loạt cùng nhau không đi bầu, thì QH giả tạo ấy sẽ không thể thành hình ngay chính được. Chỉ là hài hước.
4. Khi có việc va chạm với dân, CB một bạo quyền luôn sợ hãi, chóng mệt, mất kiên nhẫn hơn dân, nếu dân biết sức mạnh có thật dựa trên lẽ phải của mình. Các CB dù luôn muốn thăng chức lên lương, nhưng vẫn vừa bị lung lay trong bạo lực tham tàn, vừa luôn nôn nóng về với gia đình, tìm chỗ yên thân, bất đắc dĩ mới phải va chạm dân, nên bề ngoài thì hùng hổ, quát tháo mà bên trong thì căng thẳng, lo âu, sợ hãi. Mỗi khi chúng ta bị phiền lụy, bị giữ lại đồn bót, bị tạm giam ở Công an phường, xã, huyện, …nếu chúng ta biết bình thản, lịch sự, vui vẻ chấp nhận giá phải trả của một chiến sĩ dân chủ luôn ôn hòa bất bạo động (không có chi nhiều, chỉ cần an tâm thanh thản ngồi yên lặng, nghỉ ngơi, thiền định và cầu nguyện ở nơi bị tạm giữ bao lâu cũng được, không một chút nôn nóng muốn được về sớm), thì CB của bất cứ loại bạo quyền nào cũng chóng mệt mỏi hơn chúng ta và sẽ tìm cách dọa nạt qua loa rồi đành để chúng ta ra về, chứ biết làm gì hơn. (Đón đọc: Cách ứng xử khi bị triệu tập hoặc bị bắt và làm thế nào để chinh phục đối phương ? trong “Phác thảo Chân dung người Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình Việt Nam” và “Người Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình Việt Nam hôm nay cần phải ưu tiên làm gì ?”.
5. Trước đây NCQ CSVN vốn không đáng sợ như nhiều người đã lầm tưởng, và kể từ đầu năm 2005, đặc biệt từ tháng 8-2005, NCQ CSVN càng không đáng sợ nữa, vì đã bộc lộ rõ hơn các suy yếu:
– Cùng lúc phải chịu 6 áp lực rất mạnh, nếu kể riêng các Tôn giáo (cùng với dân) ngày càng đấu tranh với NCQ bằng nhiều hình thức ngày càng mạnh thì NCQ CSVN đang phải chịu 7 áp lực cùng lúc ( “Vấn đề tương lai gần của VN” cùng tác giả ngày 08-8-2005).
– Một NCQ chỉ biết lợi dụng sự sợ hãi của người Dân để tồn tại thì không thể vững mạnh được.
– Đa số CB không còn tin vào CNXH nữa.
– Đa số CB không còn tin vào giai cấp lãnh đạo nữa.
– Đa số CB không còn thiết tha củng cố quyền lực NCQ như trước nữa.
– Đa số CB không còn hăng say “thi hành nhiệm vụ Đảng và Nhân dân giao phó” cách sáo rỗng như bao năm qua đã từng mê muội bị lợi dụng nữa.
– Đa số CB hiện nay đã thấy rõ tính độc đoán, mâu thuẫn, chồng chéo và bất hợp lý của Hiến pháp và hệ thống Pháp luật của NCQ CSVN, nên rất mất tự tin khi bị buộc gượng ép hành xử.
– Đa số CB hiện nay chỉ chăm chăm tìm cơ hội làm kinh tế, thu vén thêm ngày nào hay ngày đó, tìm chỗ quen thân để tham gia cổ phần hóa các doanh nghiệp NCQ, chuẩn bị cho ngày tàn của chế độ.
– Đa số CB hiện nay xấu hổ về các quyền lợi mình đang hưởng một cách quá bất công.
– Một số CB không còn dám mạnh tay đàn áp dân thô bạo như trước nữa.
– Một số CB lo cho “hậu sự”, không dám làm mất lòng dân, đề phòng cho “ngày mai” thay chủ đổi ngôi đang trong tiến trình xảy đến và chắc chắn phải đến.
– Một NCQ dồn Dân đến chỗ tự thiêu (PGHH), thì NCQ đó là loại NCQ gì ? NCQ ấy chắc chắn đang bộc lộ rõ bản chất đớn hèn của mình và đang lết đến hồi tự kết thúc, không thể đảo ngược.
Do đó, nếu Dân biết mạnh mẽ biện luận, thì CB đành êm re, chuồn khéo cho mau …
6. Trong lúc toàn Dân VN chưa có Tự do Ngôn luận bình thường như hầu hết các Nước toàn cầu theo qui định của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hiệp Quốc (LHQ) ngày 16.12.1966 và NCQ CSVN đã xin gia nhập ngày 24-9-1982 (mà không hề giữ), thì một điều dân cần biết nhất để bình thản đối phó hiện nay là: Nếu khi đang đọc 1 tờ báo, 1 cuốn sách, 1 tài liệu như bài này mà gặp loại CB HCM-Mácxít-Lêninít gây khó dễ, đòi tịch thu, thì:
a/- Lịch sự hỏi CB: “Chúng ta đang ở trong một Nước VN văn minh hay không?” Đương nhiên CB phải trả lời: “Tất nhiên là văn minh rồi”. “Thế thì VN phải tuân giữ điều 19,2 của Công ước Quốc tế của LHQ" (về các quyền dân sự, chính trị 1966): "Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.")
b/- Nếu CB vẫn độc đoán cho rằng:“Đã vi phạm luật pháp của NCQ CSVN”, thì chúng ta ôn tồn đáp lại: “Xin cho chúng tôi xem văn bản cấm, tịch thu, do ai ban hành, ký tên”. Tất nhiên là không thể có loại văn bản nào như vậy cả. Nếu CB cố tình côn đồ hung hãn, thì chúng ta càng kiên nhẫn ôn tồn lễ độ:“Chúng tôi hi vọng được đối thoại với nhân viên một NCQ văn minh. Còn nếu NCQ này là một NCQ độc tài chuyên chính, thì chúng tôi không còn gì để nói nữa. Xin mời CB cứ việc thi hành nhiệm vụ sai trái và mất hết nhân tính này”. Hết. Không nên và không cần nói thêm. Tránh thách thức khiêu khích để thoát khỏi các đòn bạo lực đầy dẫy sẵn trong đối phương.
7. Dù hệ thống Pháp luật VN hiện nay còn rất độc đoán áp đặt, thực tế, nếu nhân danh quyền Tự do Ngôn luận rất chính đáng của người dân mà Nước nào đã gia nhập LHQ như CHXHCNVN đều phải thật lòng tôn trọng, thì việc nghiên cứu, thông tin và bất cứ hành động đấu tranh ôn hòa bất bạo động nào cũng không đủ lý do để bị bắt. Và nếu NCQ bắt càn ẩu thì cũng không thể đưa ra tòa xét xử công khai được mà đành phải “xử chui” một cách rất ô nhục như các phiên tòa chùng lén đã và đang xảy ra mà thôi. Dân không nên sợ loại phiên tòa lén lút rất man trá này. Chỉ cần im lặng trước “tòa” là đủ làm NCQ CSVN quá sợ hãi và mất hết uy tín rồi. Không cần nói gì thêm với NCQ độc tài cả. Nếu CSVN buộc lòng phải xét xử công khai, thì chúng ta phải tận dụng cơ hội, biến phiên tòa thành diễn đàn trực diện đấu tranh cho quyền Tự do Ngôn luận theo Công pháp QT. Nếu dân cùng nhau giành lấy quyền Tự do Ngôn luận hoàn toàn chính đáng cho mình, thì NCQ đành phải nhượng bộ, dù vẫn còn hù dọa bằng vài loại đàn áp cổ điến và tinh quái khác, mà cùng lắm chúng ta chỉ cần can đảm chấp nhận phiền lụy đôi chút lúc đầu rồi đâu lại vào đó ngay, không cần quá bận tâm lo âu về chúng (v/d: bị cắt điện thoại, thu sổ hộ khẩu, giam bằng đại học, gây rắc rối khó khăn về thương mại, giao thông, tịch thu máy móc, bị lệnh quản chế,…). Khi không ngại các phiền lụy ấy, chúng ta sẽ thấy chúng chỉ là chuyện quá nhỏ so với Sứ mạng cần phải giải thoát toàn dân khỏi ngục tù nô lệ mới hôm nay. Là một qui luật, trong mọi cuộc đối đầu, đặc biệt trong cuộc đối đầu toàn cục có tính quyết định cuối cùng này, nếu chúng ta không sợ bạo quyền, thì bạo quyền buộc phải sợ chúng ta ! Nếu người nào Vô úy (không sợ), Vô cầu (không xin), Vô thủ (không e phòng), Vô ngã (không lo cho bản thân), Vô biệt (không phân biệt) thì dù không mưu cầu nhắm đến, vẫn đương nhiên đạt tới lục vô (vô cầu tất đạt): VÔ ĐỊCH.
8. Khước từ mọi hình thức bạo lực: Người sử dụng bạo lực là đã tỏ ra yếu đuối rồi. “Sức mạnh trên đầu ngọn súng” (Mao Trạch Đông) thì muôn ngàn lần thua xa sức mạnh đích thật và chân chính của Quả tim và Lương tri. Bạo lực chỉ sinh ra sợ hãi dây chuyền. Tình yêu, kiên nhẫn, lẽ phải sinh ra bình an và sức mạnh trường cửu chân chính. Kể cả bạo lực của ngôn từ (cường điệu thái quá) chúng ta cũng phải tránh xa mới dễ thuyết phục lòng người. Lời Ngài Mahatma Mohandas K. Gandhi “Khi tôi phê phán đối phương, tôi chỉ phê phán 80% sai lầm của họ, phòng khi tôi quá xúc động mà lỡ lời thì chỉ tăng lên đôi chút là vừa với sự thật, khỏi gây nên bất công cho đối phương” đáng cho chúng ta tâm đắc và nguyện quyết tâm sống theo. Đầu năm 2001, người viết đã kêu gọi 2 lần trước Quốc hội Mỹ rằng: “Để giải quyết vấn đề VN, cần làm sáng tỏ công và tội của ông Hồ Chí Minh, vì đây là một con người đại gian ác, siêu cao thủ, lừa gạt được gần cả thế giới” thì hoàn toàn chính xác, chứ không cường điệu chút nào. Đấu tranh ôn hòa bất bạo động là như thế.
9. Luôn tích cực chinh phục mọi đối tượng, kể cả đối phương: nếu chúng ta chỉ phê phán đối phương mà không sao thuyết phục được họ thì phương pháp và nội dung phê phán của chúng ta chưa chính xác khách quan và khoa học đủ. Chúng ta muốn giải cứu toàn dân khỏi nô lệ lầm lạc thì trong đó có bao gồm một bộ phận không nhỏ tuy tạm thời đang là đối thủ, nhưng vẫn là Đồng bào và một ngày nào đó chắc chắn sẽ phải trở thành đồng minh của chúng ta. Do đó, dù đang là đối tượng bị đe dọa, bị lên án, chúng ta vẫn vững tin vào lẽ phải mà tìm mọi cách và mọi dịp thuận tiện để chinh phục cho được đối phương càng đông, càng nhanh, càng tốt. Vì thế, là Chiến sĩ Hòa bình, chúng ta phải luôn yêu thương, hằng từ bi, mãi thông cảm, kiên trì lễ độ, nhẫn nhịn khoan dung mới có thể thành công được, không có chỗ cho sợ hãi và hận thù.
Mến chúc Quý Vị và Bạn hữu luôn nhân từ, an vui, tĩnh định và chấm dứt hết mọi loại sợ hãi.
Tù nhân lương tâm Linh Mục Tađêô Nguyễn Văn Lý
29.6.2010
69, Phan Đình Phùng, Huế
Đơn kiện nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam
của cựu tù nhân lương tâm – Lm Nguyễn Văn Lý
Thiện Ý
Qua các phương tiện truyền thông đại chúng, chắc quý độc giả đã biết, ngày 8 tháng 6 năm 2010 vừa qua, một tù nhân lương tâm là Linh mục Công giáo Nguyễn Văn Lý đã gửi “Đơn kiện số 1” đến Tòa án Nhân quyền của Liên Hiếp Quốc có trụ sở ở Thụy Sĩ, để kiện Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam (NCQ CSVN). Nội dung đơn kiện gồm 3 phần chính:
- Một là tiến trình Linh mục Nguyễn Văn Lý bị NCQ CSVN giam cầm tất cả 4 lần, tổng cộng 17 năm tù giam, 14 năm quản chế trong 7 lần. (Yếu tố cấu thành tội phạm).
- Hai là các văn kiện pháp luật và các sự kiện lịch sử làm căn cứ khởi kiện. (Luật pháp quốc tế và quốc nội qui kết).
- Ba là mục tiêu khởi kiện nhằm thành đạt mục đích gì. (Thỉnh cầu).
|
Trước hết trong tiến trình bị bắt bất công 4 lần, Linh mục Nguyễn Văn Lý đã trình bày chi tiết các lần bị bắt, bị đối xử tàn tệ và bị giam cầm tổng cộng 17 năm trong nhà tù khắc nghiệt của chế độ, đã đưa đến tác hại đến thể xác và tinh thần của nguyên cáo ra sao. Tất cả sự bắt bớ, giam cầm, đối xử tàn tệ này của NCQ CSVN, trước sau chỉ vì những hoạt động đấu tranh ôn hòa của nguyên cáo Nguyễn Văn Lý, cho các Quyền Tự do, Dân chủ, Nhân quyền phù hợp với qui định trong Luật pháp Quốc tế mà chính NCQ CSVN cũng đã ký kết và cam kết thi hành. Chính vì vậy mà nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý, đã kiện bị cáo là NCQ CSVN trước Cơ quan Tài phán Quốc tế, căn cứ trên các văn kiện pháp lý quốc tế và quốc nội có hiệu lực thi hành sau đây:
1/ Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc ngày 16-12-1966, và NCQ CSVN đã xin tham gia ngày 24-9-1982.
- Điều 19, khoản 2: “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
- Điều 22, khoản 1: “Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.”
2/ Tuyên ngôn Quốc tế Bảo vệ những Người Đấu tranh cho Nhân quyền ngày 9 -12-1998;
- Điều 5: Qui định “Nhằm thăng tiến và bảo vệ quyền con người và các tự do căn bản, mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền trên bình diện quốc gia hay quốc tế:
a) Hội họp và tụ họp một cách thuần hòa;
b) Thành lập những tổ chức, những hội đoàn hay những nhóm phi chính phủ, gia nhập và tham dự vào những tổ chức, những hội đoàn, những nhóm phi chính phủ ấy.
- Điều 7: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền dự kiến những nguyên tắc mới và những ý kiến trong lĩnh vực nhân quyền, thảo luận về nhân quyền và làm thăng tiến sự hiểu biết về nhân quyền.
- Điều 8,1: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác và trên căn bản không phân biệt đối xử, đều có quyền tham gia hữu hiệu vào chính quyền nước họ và vào việc quản lý việc công.
- Điều 8,2: Nhất là quyền này bao hàm quyền, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đệ trình các cơ quan và các thiết chế quốc gia, cũng như các cơ cấu đảm lãnh việc công, những phê phán và những đề nghị nhằm cải thiện sự tiến hành các cơ quan này và báo hiệu về mọi mặt công tác của họ có nguy cơ gây trở ngại hay ngăn cản sự thăng tiến, bảo vệ và thực hiện nhân quyền cùng các tự do căn bản.
- Điều 12,1: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác đều có quyền tham gia các hoạt động hòa bình để đấu tranh chống mọi vi phạm nhân quyền và các tự do căn bản.
3/ Luật ký kết, tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế do NCQ CSVN ban hành ngày 24-6-2005 và có hiệu lực thi hành ngày 1-1-2006. Trong luật quốc nội này, còn quy định rõ nguyên tắc hiệu lực luật quốc tế cao hơn luật quốc nội, rằng khi có điều nào trong Luật pháp của một Nước thành viên Liên hiệp quốc khác với hoặc mâu thuẫn với Công ước Quốc tế, thì phải áp dụng Công ước Quốc tế là Văn bản pháp lý có gí trị ràng buộc cao hơn.
- 6,1: Trong trường hợp Văn bản Qui phạm Pháp luật trong Nước và Điều ước Quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của Điều ước Quốc tế.
- 6,2: Việc ban hành Văn bản Qui phạm Pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thi hành Điều ước Quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định về cùng một vấn đề.
Đồng thời, để hỗ trợ cho căn bản pháp lý khởi kiện vừa nêu, nguyên cáo Nguyễn Văn Lý còn đưa ra những sự kiện thực tiễn lịch sử để so sánh hoạt động tranh đấu của nguyên cáo với hành động tương tự về tính chất của một số nhân vât lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam, nhưng đều không bị Nhà cầm quyền đương thời bắt bớ, giam cầm và đối xử tàn tệ như NCQ CSVN đối xử với nguyên cáo và những nhà đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền Việt Nam ngày nay.
Đó là trường hợp Karl Marx khi viết và công bố Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản ở Luân Đôn Anh quốc, Nguyễn Ái Quốc tức các nhà ái quốc Việt Nam như Cụ Phan Chu Trinh, Luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Hồ Chí Minh, v.v. đã viết sách, báo chống lại chế độ thực dân Pháp ngay tại thủ đô Paris, không hề bị bắt. Người Việt làm báo chống Thực dân Pháp ngay tại Việt Nam như Cụ Huỳnh Thúc Kháng xuất bản báo “Tiếng Dân” ngay tại Huế năm 1927; Ông Nguyễn An Ninh xuất bản báo La cloche fêlée (Tiếng chuông rè, Tiếng chuông rạn) ở Sài Gòn năm 1923 đều không bị Thực dân Pháp bắt vì dám làm báo chống lại Pháp. Nhất là thời đó, riêng tại Nam Kỳ, Việt Nam, các đảng viên Cộng sản, nếu đấu tranh bất bạo động, dù công khai, vẫn không bị bắt.
Dựa trên căn bản pháp luật và thực tiễn lịch sử trên đây, nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý đã đòi bị cáo là NCQ CSVN phải trả lại tất cả những gì thuộc sở hữu cá nhân mà Công an Cộng sản đã tịch thu những lần khám xét trú sở và bắt cầm tù nguyên cáo, bồi thường mọi thiệt hại vật chất, sức khỏe, tinh thần đã gây ra cho nguyên cáo.v.v.
| |
Cách thế “đối xử” Lm Nguyễn Văn Lý | Lm Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng |
Nhận định nội dung đơn kiện số 01 của người tù lương tâm Linh mục Nguyễn Văn Lý, người ta thấy đã nêu lên được những yếu tố cấu thành tội phạm theo các điều khoản qui định của các Công ước Quốc tế được coi là Luật pháp Quốc tế và vi phạm Luật Quốc nội của chính NCQ CSVN ban hành liên quan đến việc thi hành Luật pháp Quốc tế, khi bắt bớ giam cầm nguyên cáo Nguyễn Văn Lý chỉ vì các hành vi đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền phù hợp với Luật pháp Quốc tế và Quốc nội. Công luận quốc dân Việt Nam ở hải ngoại cũng như trong nước hy vọng rằng, nếu Cơ quan Tài phán Quốc tế chấp nhận đơn kiện, tiến hành xét xử, nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý có nhiều yếu tố và cơ hội thắng kiện. Nhưng để thắng kiện, nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý cần sự trợ giúp thiện nguyện của các Luật sư Việt Nam tài giỏi thông thạo Công pháp và Tư pháp Quốc tế ở hải ngoại cũng như trong nước. Quý vị Luật sư tài giỏi của Việt Nam nghĩ sao? Liệu quý vị có thể qui tụ thành một Tổ hợp Luật sư để nhiệm cách miễn phí cho nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý trước tòa án có thẩm quyền hay không?
Tuy nhiên niềm hy vọng Tòa án Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc có trụ sở ở Thụy Sĩ thụ lý vụ này đã khó, nếu vượt qua được, thì bản án nếu được tuyên phạt bị cáo là NCQ CSVN cũng khó thi hành trên thực tế, khi chính Tòa Án Quốc tế cũng chưa có phương thức thi hành án hữu hiệu, trong bối cảnh ĐCSVN vẫn độc quyền thống trị độc tài, độc tôn và độc quyền như hiện nay. Tất nhiên, dù được xét hay không và có thắng kiện hay không thì đơn kiện số 01 của người tù lương tâm Linh mục Nguyễn Văn Lý đã có tác dụng tức thời như bản cáo trạng số 01 mở đầu cho nhiều bản cáo trạng khác sau này về tội ác của nhà cầm quyền cộng sản hiện nay đối với các nhà bất đồng chính kiến đã và đang đấu tranh ôn hòa cho nhân quyền và dân quyền căn bản của mọi tầng lớp nhân dân trong nước.
Thiện Ý
Houston, ngày 21/6/2010
Xin ghi lại chính lời của Lm Nguyễn Văn Lý:
Thực ra, tôi chắc chắn thắng kiện không cốt ở chỗ có Tòa án Nhân Quyền của LHQ xử thắng hay không. Vì hiện nay, rất tiếc, chưa có Tòa án Nhân quyền của LHQ, mà mới chỉ có các Tòa án Nhân quyền của các Tổ chức Nhân quyền Quốc tế và Tòa án Tội ác Chiến tranh, hoặc Tội ác Chống Loài người (The International Criminal Court) và Tòa án Công lý của LHQ (The International Court of Justice, chưa xét xử các loại tội vi phạm nhân quyền của các Nhà nước). Mục tiêu cốt yếu tôi nhắm là Bản Cáo trạng số 1 này chắc chắn được đón nhận cách thuyết phục trong công luận quốc tế rằng NCQ CSVN đã vi phạm Công pháp Quốc tế, còn tôi lại là người đã hành động hợp pháp, đã và đang có quyền lên án và kết án NCQ CSVN. Phải cần hàng trăm, hàng ngàn người dân Việt Nam kiện tụng như thế, để LHQ nhận thức được tình trạng bức thiết mà sớm thiết lập loại Tòa án xét xử các tội vi phạm nhân quyền tương tự, điều mà hiện nay Tòa án Công lý LHQ mới chỉ biết khuyến cáo, nhắc nhở các nhà cầm quyền vi phạm, mà chưa thể kết tội thành bản án ràng buộc pháp lý chặt chẽ được. Trong khi đó, các Tòa án Nhân quyền của các Tổ chức Nhân quyền Quốc tế hoặc của các nước thì chưa thể xét xử một nhà cầm quyền đang tại chức, dù nhà cầm quyền ấy độc tài và tàn bạo đến đâu đi nữa. Vì thế, các loại Tòa án này mới chỉ biết đơn phương lên án và kết án, chưa thể có biện pháp chế tài nghiêm minh hiệu quả. Tuy nhiên, các Tổ chức này có thể khuyến cáo các Chính phủ và các Tổ chức Phi chính phủ phải có những hành động chế tài thích hợp. Ít ra, đây là điều các Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình chúng tôi đang mong đợi.
ĐƠN KIỆN SỐ 01
của Linh mục tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý
KIỆN NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM
về việc Nhà cầm quyền CSVN đã bắt giam trái công luật quốc tế lần thứ 4
từ ngày 18-2-2007 đến thời hạn không rõ ràng
Huế, Việt Nam, ngày 08 tháng 6 năm 2010
Kính gửi:- Tòa án Nhân quyền của Liên hiệp quốc, Thụy Sĩ.Đồng kính gửi:
- Các Tổ chức Nhân quyền quốc tế.
– Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam.Kính thưa quí vị,
- Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam.
Tôi là tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Linh mục thuộc Tổng giáo phận Huế, Giáo hội Công giáo Rôma, đang bị quản chế và điều trị bệnh tại Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam, muốn trình bày với quí vị các khiếu kiện sau đây:
1/- Ngày 18.8.1977 tôi bị NCQ CSVN bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế (18.8.1977 – 24.12.1977). Lý do là tôi phổ biến 2 bài phát biểu của Đức cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền rằng Việt Nam chưa có Tự do Tôn giáo thực sự, trong 2 Hội nghị do chính NCQ CSVN tổ chức năm 1977. Sau đó tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế gần 01 năm (1977-1978) và tại giáo xứ Đốc Sơ, Hương Sơ, Huế 2 năm (1981-1983).
2/- Cuối năm 1983 tôi bị NCQ CSVN kết án 10 năm tù, 3 năm quản chế và bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; 2 trại cải tạo K1, Thanh Cẩm, Thanh Hóa, và K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.1983 – 29.7.1992); cướp đoạt của tôi 4 thùng sách quí, một số máy ghi âm và phát thanh mà không có một biên bản nào. Lý do là ngày 13.8.1981, tôi đã hướng dẫn giáo hữu đứng bên lề đường nguyện kinh 4 lần, khi chúng tôi đi hành hương kính Đức Mẹ La Vang, nhưng bị Công an CSVN ngăn chặn, để khai thông tuyến giao thông cho các giáo hữu hành hương dịp Lễ Đức Mẹ Về Trời 15.8.1981. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 3 năm (1992-1995) và bị quản chế ở Nhà thờ Nguyệt Biều, Huế hơn 5 năm (1995-2001) vì đã viết bản Tuyên ngôn về thực trạng Giáo hội Công giáo Giáo phận Huế ngày 24.11.1994.
3/- Cuối năm 2001, tôi bị NCQ CSVN kết án 15 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.2001 -07.2.2005); cướp đoạt của tôi một số sách quí cũng không để lại một biên bản nào. Lý do là từ ngày 12-2-2001 đến ngày 17.5.2001, tôi đã hướng dẫn giáo hữu An Truyền, Phú An, Phú Vang, Thừa Thiên – Huế hiểu biết đôi chút về Tự do Tôn giáo, Tự do Ngôn luận, Tự do Ứng cử – Bầu cử, về Chính trị Công dân (bênh vực công lý, nhân quyền, nhân phẩm) khác với Chính trị Đảng phái (giành quyền quản lý và lãnh đạo đất nước) như thế nào. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 2 năm (2005-2007) và bị quản chế ở Nhà thờ Bến Củi, Phong Xuân, Phong Điền, Thừa Thiên-Huế hơn 1 tháng (25.2.2007 – 29.3.2007).
4/- Ngày 30.3.2007, tôi bị NCQ CSVN kết án 8 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam. (29.3.2007 – 15.3.2010); cướp đoạt của tôi rất nhiều sách báo, tài liệu và máy móc (mà lần này tôi đang đòi lại như sẽ trình bày ở mục III.A.1.a, 1.b, 1.c, 2.a, 2.b, 2.c, 2.d. dưới đây). Lý do là từ ngày 07.02.2005 đến ngày 18.2.2007, tôi đã phổ biến các tài liệu phơi bày sự thật về Ông Hồ Chí Minh và các tài liệu về công lý, dân chủ, nhân quyền; biên soạn và phát hành bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận; đồng thành lập Khối 8406 với Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam ngày 8.4.2006; ủng hộ và giới thiệu đảng Thăng Tiến Việt Nam.
Vì tôi bị rối loạn huyết áp, dẫn đến tai biến mạch máu não 3 lần (25.5.2009; 12.7.2009; 13.11.2009), lần thứ 3, NCQ CSVN đưa tôi lên Hà Nội cấp cứu và ngày 15.3.2010 tạm đình chỉ thi hành án 12 tháng, đưa tôi về điều trị bệnh liệt nửa người bên phải do tai biến rối loạn huyết áp, tại Nhà hưu dưỡng Nhà Chung Tổng giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam.
Dưới chế độ CSVN, từ năm 1977 đến nay, tôi đã ở tù 4 lần, 17 năm; bị quản chế 7 lần, 14 năm. Theo pháp luật của NCQ CSVN, tôi vẫn còn phải ở tù 5 năm và bị quản chế thêm 5 năm nữa.
Sau 3 lần ở tù và 6 lần bị quản chế trước đây, tôi đã phớt lờ các bất công tôi phải gánh chịu, để dành thời giờ cho Sự nghiệp đấu tranh cho công lý, nhân quyền, tự do dân chủ cho Đồng bào Việt Nam. Nhưng lần này, tôi kính nhờ quí vị làm sáng tỏ các bất công tôi phải gánh chịu, để góp phần ngăn chặn NCQ CSVN tiếp tục đàn áp các Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình đang trực diện đấu tranh cho Công lý, Sự thật, Tự do, Dân chủ cho toàn Dân tộc Việt Nam.
A. Căn cứ vào công pháp quốc tế
1. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp quốc ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24.9.1982 qui định:
- Điều 19.2: Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
- Điều 22,1: Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.
2. Tuyên ngôn Quốc tế bảo vệ những người đấu tranh cho nhân quyền ngày 09.12.1998:
- Điều 5: Nhằm thăng tiến và bảo vệ quyền con người và các tự do căn bản, mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền trên bình diện quốc gia hay quốc tế:
a) Hội họp và tụ họp một cách thuần hòa;
b) Thành lập những tổ chức, những hội đoàn hay những nhóm phi chính phủ, gia nhập và tham dự vào những tổ chức, những hội đoàn, những nhóm phi chính phủ ấy.
- Điều 7: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền dự kiến những nguyên tắc mới và những ý kiến trong lĩnh vực nhân quyền, thảo luận về nhân quyền và làm thăng tiến sự hiểu biết về nhân quyền.
- Điều 8.1: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác và trên căn bản không phân biệt đối xử, đều có quyền tham gia hữu hiệu vào chính quyền nước họ và vào việc quản lý việc công.
- Điều 8.2: Nhất là quyền này bao hàm quyền, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đệ trình các cơ quan và các thiết chế quốc gia, cũng như các cơ cấu đảm lãnh việc công, những phê phán và những đề nghị nhằm cải thiện sự tiến hành các cơ quan này và báo hiệu về mọi mặt công tác của họ có nguy cơ gây trở ngại hay ngăn cản sự thăng tiến, bảo vệ và thực hiện nhân quyền cùng các tự do căn bản.
- Điều 12.1: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác đều có quyền tham gia các hoạt động hòa bình để đấu tranh chống mọi vi phạm nhân quyền và các tự do căn bản.
3. Luật Ký kết, Tham gia và Thực hiện Điều ước Quốc tế, do nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 24.6.2005, hiệu lực ngày 01.01.2006, qui định tại “Điều 6 điều ước quốc tế và qui định pháp luật trong nước”:
- 6.1: Trong trường hợp văn bản qui phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của điều ước quốc tế.
- 6.2: Việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thi hành điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định về cùng một vấn đề.
Nghĩa là mọi người lương thiện đều hiểu rất rõ về 2 điều luật trên đây rằng: Khi có điều nào trong Luật pháp của một Nước thành viên Liên hiệp quốc khác với hoặc mâu thuẫn với Công ước Quốc tế, thì phải áp dụng Công ước Quốc tế là Văn bản pháp lý có gí trị ràng buộc cao hơn.
B. Căn cứ vào nhân chứng lịch sử:
1. Karl Marx: Cách đây # 170 năm, Ông Karl Marx viết bộ Tư Bản Luận, Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản tại thủ đô London, đế quốc Anh, không hề bị bắt.
2. Nhóm Nguyễn Ái Quốc: Cách đây # 100 năm, nhóm Nguyễn Ái Quốc gồm nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Hoàng Quang Giụ, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự, Nguyễn Tất Thành viết sách, báo chống lại chế độ thực dân Pháp ngay tại thủ đô Paris, không hề bị bắt.
3. Người Việt làm báo chống Thực dân Pháp ngay tại Việt Nam: Cách đây # 90 năm, cụ Huỳnh Thúc Kháng xuất bản báo Tiếng Dân ngay tại Huế năm 1927; Ông Nguyễn An Ninh xuất bản báo La cloche fêlée (Tiếng chuông rè, Tiếng chuông rạn) ở Sài Gòn năm 1923. Cả 2 ông đều không bị Thực dân Pháp bắt vì dám làm báo chống lại Pháp. Thời đó, riêng tại Nam Kỳ, Việt Nam, các đảng viên cộng sản, nếu đấu tranh bất bạo động, dù công khai, vẫn không bị bắt.
Cho đến hôm nay, trong cả 4 lần tôi bị bắt, bị kết án, bị nhốt tù 17 năm và trong 7 lần bị quản chế 14 năm, 5 năm tù giam và 5 năm quản chế còn tạm đình chỉ thi hành, tôi đều hoàn toàn vô tội, vì tôi luôn chỉ làm những gì Công luật quốc tế cho phép mà Pháp luật NCQ CSVN phải áp dụng, nếu NCQ CSVN muốn còn là thành viên của Liên hiệp quốc. Trái lại, khi bắt giam, kết tội, quản chế tôi và chiếm đoạt các vật dụng của tôi, chính NCQ CSVN đã ngang nhiên vi phạm nghiêm trọng các Công ước quốc tế mà NCQ CSVN đã xin tham gia, ký kết và hứa sẽ thực hiện, nhưng không hề tuân giữ trong suốt 65 năm qua.
Vì thế, tôi kính nhờ quí vị giúp tôi sao cho thật hiệu quả trong việc đòi buộc NCQ CSVN phải nghiêm túc chấp hành thực hiện:
A. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả lại tôi:
1. Tu phục, Chuỗi kinh và kính mắt tôi đang mang trên người:
1.a. Một chiếc áo linh mục đen dài tôi đang mặc: Chiều 29.3.2007, một sĩ quan công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đến Phòng Thánh Nhà thờ Bến Củi mời tôi ra trụ sở thôn Bến Củi làm việc, tôi vừa mở cửa phòng tức khắc một lực lượng công an vũ trang hơn 30 người tràn vào phòng tôi, lấy một tấm vải lớn màu xanh da trời trùm tôi lại và ôm tôi nhét vào xe công an như một bao tải, chở ngay về trại tạm giam Thừa Phủ, Huế. Tại đây, họ lột áo linh mục, tước đoạt một tràng chuỗi Mân Côi và một cái kính viễn thị đeo mắt.
1.b. Một tràng chuỗi Mân Côi nói trên tôi dùng để nguyện kinh.
1.c. Một cái kính viễn thị đeo mắt nói trên tôi dùng để đọc sách báo.
2. Các vật dụng tôi đang sử dụng để phục vụ cho Công lý, Nhân quyền:
2.a. 6 máy Personal Computers (Laptops) hiệu HP, TOSHIBA, ACER mà # 20 Công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đã cướp đoạt của tôi tại phòng số 5, khu nhà Hưu dưỡng thuộc Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế tối 18-2-2007, có Linh mục An-tôn Nguyễn Văn Thăng, Thư ký Tòa TGM Huế chứng kiến và cùng ký tên vào biên bản.
2.b. 6 máy in Laser hiệu CANON trong trường hợp như trên.
2.c. 6 điện thoại di động hiệu NOKIA, SAMSUNG, MOTOROLA và # 120 Sim cards trong trường hợp như trên.
2.d. Gần 200 sách, báo, bài viết (mỗi loại hàng chục bản) về Công lý, Nhân quyền, Dân chủ, Tự do, Bầu cử, sự thật về Ông Hồ Chí Minh và về đảng CSVN trong trường hợp nói trên. Khi cướp đoạt và mang đi, các Công an đã đựng số tài liệu này trong 6 thùng giấy lớn.
B. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải bồi thường:
1. Các thiệt hại vật chất:
1.a. Tất cả các vật dụng cá nhân của tôi đã nêu ở các tiểu mục 2.a, 2.b, 2.c, 2.d của mục III.A.2. trên đây.
1.b. Nếu các thiết bị và máy móc đó đã bị hư hỏng thì NCQ CSVN phải bồi hoàn cho tôi 200 triệu VNĐ theo thời giá hiện nay (2010).
1.c. Riêng các vật dụng ở các tiểu mục 1.a, 1.b, 1.c, 2d. của mục III.A.1.và 2. thì NCQ CSVN phải hoàn trả tôi đúng các vật dụng mà NCQ CSVN đã chiếm đoạt trái phép của tôi.
1.d. Về 3 năm ở tù biệt giam một mình, kèm theo bệnh rối loạn huyết áp phát sinh 4 lần (gần đây có thêm 1 lần vào tháng 5.2010) tai biến mạch máo não, làm tôi bị liệt nửa người bên phải, NCQ CSVN phải bồi thường cho tôi ít nhất là 10 tỉ VNĐ hiện hành.
2. Các thiệt hại tinh thần:
Chỉ cần một lời xin lỗi của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, 01 (một) VNĐ danh dự; chấm dứt mọi hành động đàn áp, bắt bớ, tù đày tất cả các Chiến sĩ Hòa bình đang đấu tranh cho Công lý, Tự do, Dân chủ cho Việt Nam và trả tự do ngay, vô điều kiện, tất cả các Chiến sĩ Hòa bình đang bị giam cầm trong các trại giam của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam.
Nguyện xin Thiên Chúa luôn chúc lành trên thiện tâm phục vụ công lý hòa bình cho Nhân loại của tất cả quí vị.
Xin trân trọng kính chào và chân thành cảm ơn tất cả quí vị.
Khởi kiện từ Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế
69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam
ngày 08 tháng 6 năm 2010
(đã ký tên và đóng dấu)
Tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý
Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế, Việt Nam
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...