. .

Tuesday, March 17, 2009

ĐỈNH CAO CHÓI LỌI (part 3)- Tiểu Thuyết- DƯƠNG THU HƯƠNG

Đỉnh Cao Chói Lọi (part 3)

- Dương Thu Hương

KÝ ỨC VỐN BUỒN NHỚ VÀ SẦU THƯƠNG CHO CHÍNH NÓ

Khi chủ tịch mở mắt, đã ba giờ chiều.
Ông chưa bao giờ ngủ một giấc trưa dài và nặng nề đến thế. Những giấc mơ ngắn, hãi hùng, xen lẫn những hình ảnh, những ý tưởng còn đọng lại sau câu chuyện về người tiều phu khiến giấc ngủ ấy đẩy ông tụt xuống một vùng sâu. Ông có cảm tưởng vừa tham dự một cuộc nhảy dù đêm mà trong đó ông là gã lính dù nhút nhát bị cưỡng bức lao qua cửa máy bay để buông mình vào một không gian tối tăm đầy hù doạ.
- Thật tồi tệ..
Ông lẩm bẩm rồi bước ra ngoài hiên. Nắng đổ dài quá nửa sân, một thứ nắng trong suốt, vàng nhạt, không mảy may hơi ấm. Những cành mai rung trong gió. Ông ngơ ngẩn nhìn chúng, vẫn như đang chòng chành giữa những cơn mơ vừa qua và hình ảnh mảnh sân chùa trước mắt. Mảnh sân cách ông chưa đầy sải tay, với những hàng gạch vuông, với nắng quái ngã qua mái ngói phía tây. Từ ngôi chùa bên kia sân, tiếng gõ mõ lẫn tiếng đọc kinh vọng ra. Có thể phân biệt giọng của vị sư già và giọng lảnh lói hơn, của sư nữ. Ông lắng nghe hồi lâu tiếng tụng kinh như để tin chắc rằng giấc mơ đã hoàn toàn qua và giờ đây, ông sống trong hiện thực. Cậu lính trẻ phục phịch đang ngủ say trong chiếc võng mắc bên chái hiên đầu chùa, gương mặt đỏ hồng. Tuy còn trẻ, cậu ta cũng đã ngáy, tiếng ngáy khá to. Cả tiếng ngáy ấy nữa, cũng là hiện thực, một hiện thực mạnh mẽ hiển nhiên kéo ông khỏi những giấc mơ miên man, những giấc mơ khiến tâm hồn ông chìm đắm như con tầu bị bẻ hết buồm lái, bị nhấn xuống đáy bùn.
- Ối...Thôi chết rồi...
Cậu lính trẻ đột nhiên vùng dậy, kêu to :
- Xin lỗi, con ngủ quên đi mất.
- Không sao. Chính tôi cũng ngủ quên. Hôm nay thật mát trời.
- Vâng. Xin chủ tịch chờ cho vài phút. Con xin pha trà ngay.
Chàng lính hối hả cuốn võng, rồi đi cắm nước. Phòng quản trị đã thay chiếc ấm điện mới và từ nay cậu ta sẽ không còn phải hì hục đun nước trong gian bếp nhà chùa. Ông nhìn cậu ta, lặng lẽ. Công việc của một ngày quanh đi quẩn lại chỉ thế thôi. Bỗng nhiên, ông nhớ tới tuổi trẻ của mình, không khỏi tò mò :
« Làm sao cậu ta có thể chịu nổi suốt đời thứ công việc tẻ nhạt này ? Một thứ công việc chẳng mảy may thích hợp với tuổi hai mươi ? Phải chăng, vì một niềm sùng kính mà con người phải hy sinh những đam mê khác ? Hoặc chính họ là những người chẳng có đam mê nào đáng giá hơn là đứng trong một đội quân được trả lương để làm một thứ công việc tẻ nhạt suốt cuộc sinh tồn ? »
Nhưng rồi ông vội vã xua đuổi những thắc mắc ấy vì chúng quả là bất tiện. Ông yêu chàng lính trẻ này, có thể là một cảm tình muộn màng và không chờ đón, tuy nhiên nó vẫn luôn luôn là niềm trìu mến đích thực. Ông không muốn có những ý nghĩ xúc phạm đến cậu ta.
- Thưa chủ tịch, mời người vào phòng dùng trà.
- Cảm ơn. Chú pha trà gì vậy ?
- Dạ, trà ướp nhài, như hôm trước.
- Tốt, tôi vào đây.
Ông quay vào phòng, không gian đã thoang thoảng hương nhài. Ấm chè vừa pha toả khói. Rót đầy một chén, ông nhấm nháp từng ngụm nhỏ. Hồi còn ở chiến khu Việt - Bắc, ông cho trồng một bụi nhài ngay sát chân nhà sàn. Bụi nhài ấy mọc nhanh hơn cỏ, chỉ sau một năm đã lan rộng như tấm chiếu đơn. Những chiều hè oi nồng cũng như những đêm mưa rả rích, hương nhài bốc lên ngây ngất. Những bông hoa nhỏ xíu kia, vì sao chúng cho một mùi thơm nồng nàn đến như vậy ? Nhiều đêm, ông đứng bên cửa sổ, nhìn ra khoảng rừng tối đen, thở hít đầy lồng ngực làn khí của rừng đêm hoà với hương nhài. Rồi đến khi có nàng, ông thường gặp hoa nhài hơn, bởi nàng thích cài hoa nhài và hoa ngọc lan trên tóc.
« Ta có nàng trong tay vào năm 1953, khi ấy nàng đã hơn hai mươi tuổi. Từ buổi trưa bắt gặp nàng cùng cô bạn ngồi chia nhau chùm vả trên cây, ta còn phải đợi chờ thêm hai năm nữa. Hai năm trông ngóng, mỏi mòn. Ta đâu có yêu một đứa trẻ vị thành niên ? Về luật đời, ta chẳng mảy may phạm lỗi. Ông lão tiều phu kia còn kết hôn với một cô gái trẻ hơn nàng, cô ta mười tám tuổi. »
Chén trà đã cạn, chỉ sót lại một cánh nhài khô dưới đáy. Chủ tịch chăm chú nhìn cánh hoa héo và chợt hồi nhớ cảm giác ghen tuông của thời đã qua. Ghen tuông, kì cục thay, một thứ yếu đuối bất khả thú nhận.
Ông mường tượng lại không gian lạ lùng đêm ấy, mùi thuốc Ca-ra-ven lẫn mùi thuốc Gaulois ông đốt liên tục thứ nọ xen lẫn thứ kia một cách lộn xộn, và ông cũng hút một cách máy móc, bất tri kì vị. Ông nhớ lại chiếc gạt tàn đất nung đầy ắp đọt thuốc, và mớ tài liệu mà ông lật giở hết trang nọ đến trang kia nhưng không đọc nổi một dòng. Đêm đầu tiên họ làm tình. Đêm đầu tiên tấm thân nõn nà của nàng hiển lộ trước mắt ông, không áo chàm, cũng không áo cánh tân thời, cũng không cả chiếc xu-chiêng may bằng vải phin trắng sợi thưa dếch dác. Chỉ da thịt thuần khiết, vẻ đẹp thuần khiết do thiên nhiên tác tạo. Người xưa bảo : « Trong ngọc, trắng ngà », ông nghe vậy nhưng chỉ tới đêm ấy mới hiểu rõ ý nghĩa từng câu từng chữ. Nhan sắc của nàng đích thực là châu báu. Ông nhớ tiếng nàng cười, dưới ánh sáng mờ mờ của cây đèn nơi góc phòng, hàm răng nàng ánh lên như ngọc. Đấy là khoảnh khắc mà dĩ vãng lẫn tương lai chẳng còn tồn tại, không gian tiêu biến như cõi mộng, và tất thảy những rào cản giữa hai sinh thể rơi xuống. Nàng ở trong ông, tan hoà trong da thịt của ông, nhào quyện trong tâm hồn ông. Mãi mãi. Mãi mãi...
Nhưng cũng thật lạ lùng, vì sao ông lại ghen tuông như vậy ? Trên đường đi của mình, ông đâu thiếu những cuộc gặp gỡ, ông đâu thiếu hơi ấm đàn bà ? Tuy chẳng phải là một gã đàn ông trăng gió, nhưng ông cũng là người từng trải. Vậy mà ông vẫn không tránh khỏi thứ tình cảm thông tục rất đỗi thấp kém này. Sau cuộc làm tình, ông nói với nàng rằng ông cần đọc gấp một mớ tài liệu, rồi ông ra khỏi căn phòng. Nhưng ngồi dưới ánh đèn, ông lật từng trang giấy và mường tượng xem ai là kẻ « đã từng » với nàng ? Ai là người đầu tiên được chiếm cứ tấm thân mỹ miều, tươi thắm ấy ? Ông biết nàng là sơn nữ, cuộc sống của sơn dân phóng khoáng như nước suối, mây rừng. Trai gái đến tuổi trưởng thành được tự do luyến ái. Đối với người châu Á thì dân miền núi chính là thứ người « Âu hoá » trước hết và đầu tiên. Một cô gái khoẻ mạnh, xinh đẹp như nàng, hẳn phải được biết bao chàng trai dòm ngó. Đặc biệt, là những chàng trai đã lớn lên trong cùng một bản, bên cùng một dòng suối, một cánh rừng...
« Ta đã không tránh được thứ tình cảm rất đỗi tầm thường ấy. Cũng thật là khó hiểu, một gã đàn ông đã qua hai mươi năm tuổi trẻ ở phương tây, và người đàn bà đầu tiên trong cuộc đời ta là người tóc vàng, da trắng. ».
Bất giác, ông buông tiếng thở dài :
« Từ cuộc làm tình đầu tiên đến nay đã hơn nửa thế kỉ. Nói một cách chính xác, đã xấp xỉ sáu mươi năm. Không ai đo dược chiều dài của thời gian, vì nó co giãn theo những kỉ niệm của con người.»
Rót tiếp chén thứ hai, ông nhìn thấy người đàn bà đầu tiên trong làn hơi nước bốc trên miệng chén trà.
« Goá phụ. Người đàn bà trong ngõ hẻm. Cô thợ mũ dày dạn và lỗ mãng, người thày tình ái của ta ... »
Gương mặt chị ta giờ đây nhù nhoà như khói, nhưng hơi thở hổn hển và những tiếng hét đứt quãng của chị ta trong những cuộc làm tình không bao giờ ông có thể quên. Họ đều là dân thuê nhà trong một ngõ cụt, sát phố Saint John, nơi một bồn phun nước nhưng chẳng còn nước đứng han rỉ giữa đám bồ công anh già cỗi. Chị ta hơn ông khá nhiều tuổi, chồng làm bưu tá vừa chết được vài năm. Ba đứa con trứng gà trứng vịt suốt ngày bị nhốt trong nhà. Ngày ấy, ông tròn hai mươi. Chắc hẳn, tuổi trẻ tự nó toát ra vẻ quyến rũ giống như một con cầy hương toát ra chất xạ để lôi cuốn bạn tình. Một buổi chiều, người đàn bà goá gặp ông cùng trên đường quay về ngõ nhỏ, nơi ông thuê căn phòng áp mái, còn chị ta sống trong một căn buồng dành cho người ở, thông lưng với một ga-ra cũ. Chị ta làm thợ khâu, trong một xưởng nhỏ sản xuất các loại mũ ngủ. Hình như đấy là nghề cổ truyền của gia đình, và chị ta đã làm thợ từ thuở mười ba . Họ im lặng đi song song với nhau một đoạn đường, rồi đột nhiên goá phụ mỉm cười hỏi ông :
- Sao, công việc tốt đẹp chứ ?
- Cảm ơn , tôi hy vọng như vậy.
Ông trả lời, trong lòng buồn rười rượi vì đã rạc cẳng tìm việc hơn hai tháng mà chưa thấy mảy may tia hy vọng.
- Tốt.
Người đàn bà tiếp lời, sau đấy chị ta hạ giọng :
- Đêm nay, lúc một giờ, cửa nhà tôi mở. Anh đến chứ ?
Ông sững sờ, chưa biết đối đáp ra sao, người đàn bà đã nắm lấy khuỷu tay ông, bóp mạnh và đồng thời lặp lại :

- Đừng quên nhé. Một giờ đêm nay.
Rồi chị ta rẽ vào nhà mình. Ông đi tiếp một đoạn nữa, tới căn nhà cuối cùng trong ngõ cụt, leo lên tầng trời thứ bẩy. Ở đấy, ông uống nước lã và ăn khúc bánh mì khô cứng còn lại từ hôm trước. Nước lã, bánh mì xuông, chẳng bơ sữa cũng không thịt cá, vậy mà máu vẫn rạo rực. Bộ phận cứng nhất trong cơ thể ông không chờ được đến nửa đêm, đã dựng lên như cột buồm khiến ông phải đi đi lại lại trong phòng, chẳng thể làm một việc gì khác. Tim ông đập dồn vì phấp phỏng còn lý trí nhếch mép cười nụ cười cay đắng. Ông đã từng mường tượng, ông đã từng mơ ước, ông đã từng dàn cảnh bao nhiêu lần cho cuộc làm tình đầu tiên của cuộc đời mình, và bây giờ nó đến, trong sự suồng xã của bức bối, bần hàn. Chẳng có công chúa trong mộng, cũng không phải hoàng tử của lòng em. Chỉ đơn thuần là một người đàn bà goá cần lấp đầy giường chiếu. Hồi ấy, tuy trẻ tuổi, nhưng ông cũng đã thầm chua chát cho số phận mình. Ông chưa bao giờ hình dung người đầu tiên chiếm lĩnh tấm thân trai trẻ của ông lại là chị ta, một bà goá gấp đôi tuổi ông và dẫu tóc vàng da trắng nhưng không mảy may nhan sắc. Dầu vậy, ông vẫn chờ đợi với nỗi bồn chồn của kẻ chưa từng biết mùi đời chuẩn bị nếm bữa cỗ đầu tiên. Rồi tới giờ hẹn. Ông đi đến khuôn cửa đã mở sẵn ấy, không nói nổi một lời. Người đàn bà cũng không nói một lời, kéo ông vào căn buồng riêng, chính là chiếc ga-ra cũ được dán giấy hoa loè loẹt bốn bên, được trang bị một chiếc giường cổ , rộng thênh thang, gần như chiếm toàn bộ diện tích căn phòng. Điều ấy khẳng định rằng ông bưu tá phải là người ngoại cỡ...
« Thật lạ lùng, chẳng có gì số phận kiêng dè, chẳng con đường nào mà nó tha dẫn con người bước đến. »
Cũng thật lạ lùng là ông gần như quên gương mặt goá phụ, nhưng lại nhớ như in hình ảnh gian buồng bé nhỏ, chiếc giường cổ lỗ với những cây trụ sắt vĩ đại đội quả cầu bên trên. Người ta có cảm giác rằng chiếc giường vững trãi, đen xì như máy phóng đá này đã tồn tại từ tời trung cổ và còn tiếp tục tồn tại nhiều thế kỉ nữa. Ông nhớ như in tấm vải trải giường kẻ sọc lớn mầu nâu, tấm chăn phủ mầu cà-phê sữa. Ông nhớ cách thức chị ta dạy ông ái ân, hai cánh tay cô thợ mũ nóng rực nhưng các thớ thịt lại mềm nhão và hai bàn tay thô nháp, đầy vết chai khiến nhiều lúc ông đau điếng khi những vuốt ve trở nên điên cuồng. Ông nhớ cử chỉ dứt khoát và đôi khi hung bạo khi chị ta lột phăng chiếc váy ngủ qua đầu, đoạn vung tay ném xuống sàn. Ông nhớ cốc sữa nóng chị ta mời ông uống, tiếng chiếc thìa khua lanh canh trong đêm khuya khoắt khiến ông sợ hãi vì những đứa bé ngủ cách họ có một bức tường...Tất thảy những chi tiết trong bài thực hành tình dục vỡ lòng. Tuổi hai mươi của ông đã được ghi dấu như thế.
« Điều đáng sợ hãi hơn cả chính là lòng ghen tị chị ta khuấy lên trong khu. Lòng ghen tị của những người đàn bà khiến cho đến giờ ta còn hổ thẹn. »
Cái ngõ nhỏ ấy đầy ắp những đàn bà thiếu vắng đàn ông. Nào là vợ lính không đủ tiêu chuẩn đi theo chồng, nào là quả phụ trong những cuộc chiến tranh thực dân liên miên từ châu Phi sang châu Mỹ, nào là đám đàn bà Ý chạy trốn xứ sở của mình, những người phụ nữ tóc đen nhánh thường bị riễu cợt là « bọn Rita... » Có quá nhiều lý do khiến cho những chiếc giường lạnh lẽo. Goá phụ của ông bưu tá đã túm chặt lấy người tình nhân hai mươi tuổi như kẻ chết đuối vớ được mảnh bè. Thoạt tiên, chị ta còn e dè, nhưng sau đó, chị ta cư xử với ông như cai ngục với tù nhân, như nông phu với mảnh ruộng của gã. Rồi những người đàn bà khác, trẻ trung hơn, xinh đẹp hơn, dạn dĩ không kém bắt đầu so gươm với kẻ mau chân chạy trước mình. Họ dấy lên những cuộc tranh chấp ghen tuông quanh chàng trai Á đông tươi dòn như trái táo. Ông hổ thẹn. Ông không thể chấp nhận người ta coi mình như một con mồi. Ông lẳng lặng tìm một căn gác xép ở quận khác. Và một đêm, ông xách hành lý ra đi.
*
- Thưa chủ tịch, người dùng trà xong chưa để con dọn.
- Cảm ơn, tôi xong rồi.
Cậu lính bưng khay trà ra ngoài, và ông quen lệ kéo tập tài liệu xuống trước mặt. Quen lệ, ông lật các trang giấy, trong lúc thầm riễu cợt mình :
« Ta lật những trang giấy này chẳng khác chi lật những trang tài liệu đêm năm xưa. Con người nhiều khi giống như cỗ máy. Những cử chỉ máy móc chiếm một phần lớn thời gian. Cuộc sống thực sự cũng như phần nổi của đảo băng, luôn luôn nhỏ bé.»
Nhưng rồi một ý nghĩ khác ập đến tức khắc, như ngọn triều ném trả vào vách đá :
« Nhưng cái phần bé nhỏ ấy mới đích thực là cuộc sống. Nếu cái phần nhỏ bé ấy chẳng tồn tại, kiếp nhân sinh sẽ chẳng còn ý nghĩa mà chỉ là âm bản của tấm ảnh, nơi sự vật hiện lên dưới dạng các bóng ma. »
Sự so sánh ấy bỗng gợi cho ông nhớ lại căn buồng tối, nơi ông từng sống bằng nghề rửa ảnh, cái nghề buồn chán và bạc bẽo, suốt ngày bị giam cầm trong bóng tối, suốt ngày ngửi mùi muối bạc, vào buổi chiều bước ra khỏi chốn ngục tù bé nhỏ ấy thì mắt loá và lưng đau.
« Ồ, không, căn buồng tối xưa kia là nơi ta tự chọn để kiếm miếng bánh hẩm hiu cho qua ngày. Đây mới chính là tù ngục với cả một đội quân canh giữ. Tại sao ? Tại sao ta để chúng dồn ta đến nông nỗi này ?»
Cuối cùng, ông chẳng thể lãng quên, cũng không có khả năng lẩn trốn. Ông buộc phải quay lại với những giấc mộng hãi hùng vừa trải nghiệm trong giấc ngủ trưa. Ông không thể thoát khỏi nàng. Nàng đang đứng đâu đó, ngay sau lưng ông. Bóng nàng trùm lên ông, trong hình dáng yêu kiều và lạnh lẽo. Ông có cảm giác như nàng vừa bước lên từ vùng băng giá, từ một miền mênh mông tuyết trắng, nơi những dòng sông đóng băng trong suốt như thuỷ tinh; nơi những rừng cây khô trụi in lên bầu trời hoang đám cành đen sì, cong queo như lũ rắn; nơi từng bầy quạ vừa bay vừa thả tiếng kêu ai oán như gióng hồi chuông tập hợp những hồn ma...Lạ lùng thay, nàng chưa từng một lần bước chân qua cõi biên thuỳ, nàng bị cầm tù trong tay áo của ông, nàng dâng hiến cuộc đời cho một hạnh phúc phù dù để sau đó bị ném thẳng xuống địa ngục. Vậy mà trong những giấc mơ của ông, nàng trở thành kẻ đồng hành miên viễn. Bất kể nơi đâu ông từng sống, đều có hình bóng nàng. Ông thấy nàng trên con tầu vượt biển, ông thấy nàng trong con hẻm thành Paris, ông thấy nàng ngơ ngẩn trên những hè phố Hương cảng :
―...Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau...
Câu hát ấy vang lên giữa thinh không, va đập vào tim ông. Càng ngày, ông càng thấy tâm hồn mình giống như vách núi ven bờ đại dương ngày động bão, nơi những ý nghĩ qua lại, đối chọi không ngưng nghỉ tựa những cơn sóng đập liên hồi vào vách đá, trong một cuộc giao tranh trường kì không phân giải.
― Lẽ ra, ta đã có thể hạnh phúc với nàng. Lẽ ra ta không nên lùi bước trước bọn chúng. Những kẻ đã từng leo lẻo mồm gọi ta là bậc trưởng thượng, là anh cả, và ta đã từng coi chúng như những người đồng chí, những đàn em thân thiết, những kẻ cùng chia xẻ nắm cơm, theo đúng nghĩa của từ copain. Té ra, mọi sự ―đã từng chỉ là những lầm tưởng. Vào một thời khắc nào đấy, mọi giá trị đều lật ngược, tựa hồ ta đã tin tưởng vào những tấm phim âm bản của cuộc sống, cho tới thời khắc chúng hiện hình.
Vào ngày ông đề nghị Bộ chính trị công khai hoá quan hệ của ông với người vợ trẻ, những bộ mặt tươi cười của đám đàn em nhất loạt sa sầm xuống :
- Thưa chủ tịch, lẽ ra người không bao giờ nên đề cập tới vấn đề này. Đó là một tabou, nếu có thể nói một cách chính xác...
Kẻ cất tiếng trước tiên là Thuận, anh ta khá thạo tiếng Pháp, và danh từ tabou anh ta sử dụng chỉ có nửa số người ngồi họp hiểu được thôi. Nhưng những kẻ không hiểu danh từ ấy thì diễn đạt thẳng thừng những ý tưởng của họ một cách thô baọ và xuồng xã.
Tiếp theo Thuận là Sáu. Y giương mắt nhìn ông như tỏ vẻ ngạc nhiên, trong điệu bộ của một vai tuồng , rồi bỗng nhiên nhếch mép :
- Chuyện đàn bà ...Tôi nghĩ rằng chủ tịch nêu vần đề này lên chỉ để làm hài lòng cô Xuân, và đấy là mục tiêu duy nhất. Chắc chắn yêu cầu này do cô Xuân đề xuất...Hoặc có khả năng do gia đình cô ta xúi bẩy. Còn chủ tịch của chúng ta thừa đủ thông minh để hiểu rằng đó là điều không thể chấp nhận.
- Đương nhiên đó là điều bất khả. C’est sur.
Thuận nhấn mạnh, buột miệng buông ra một câu tiếng Pháp, theo thói quen.
Chờ cho cảm giác khó chịu của số người không quen nghe ―ngôn ngữ của kẻ thù trôi qua, Ba Danh lên tiếng:
- Cho dù là cô Xuân, chúng ta cũng không thể khoan nhượng. Người đàn bà chỉ nghĩ tới mái nhà của họ, quyền lợi của bản thân họ, còn chủ tịch phải coi trọng quyền lợi của dân tộc trên mọi thứ quyền lợi khác. Cuộc cách mạng của chúng ta thắng lợi là do toàn dân nhất tề tin tưởng dưới sự lãnh đạo của người. Hình ảnh của người mang lại sức mạnh cho dân tộc. Chúng ta không thể để hình ảnh ấy bị bôi nhọ.
- Thế nào là bôi nhọ ?...Chúng ta không nên dùng những danh từ nặng nề hoặc thái quá.
Tô lên tiếng phản kháng.
Ngay tức khắc, Sáu quay sang áp đảo anh ta :
- Không cần phải kiêng dè, không cần so đo chữ nghĩa. Chúng ta đang đứng trước vấn đề sinh tồn của cách mạng . Lợi ích cách mạng đang bị đe doạ, chúng ta phải tìm mọi cách bảo vệ lợi ích đó. Vì thế, giờ đây chẳng phải lúc chơi chữ hay chọn từ.
- Các đồng chí không nên gay gắt. Đâu sẽ có đó, mọi chuyện sẽ được giải quyết một cách êm thấm với sự đồng thuận của tất thảy mọi người.
Thuận can giải, và anh ta giơ cánh tay lên phác một cử chỉ trịnh trọng như muốn thay lời kết thúc của diễn từ:
- Tôi cho rằng tất thảy chúng ta đều nhất trí : Việc công nhận cô Xuân là điều không thể có, thậm chí không thể nghĩ đến. Tôi hy vọng rằng với tinh thần trách nhiệm cao cả trước toàn thể dân tộc, chủ tịch cần chấp nhận quyết định này. Chúng ta không có con đường thứ hai.
- Chủ tịch là vị cha già của dân tộc.
Sáu tiếp lời, và hai mép y nhếch lên trong một nụ cười thâm thuý:
- Vị cha già dân tộc, là mái nhà che chở cho nhân dân. Từ bao năm nay dân chúng đã quen với hình ảnh này. Chủ tịch cần nhắc cho cô Xuân nhớ lại điều ấy, nếu cô ấy còn tiếp tục đòi hỏi được công khai chấp nhận.
Vào lúc đó, ông thấy lưỡi ông dính bết vào hàm. Mồ hôi ông chảy dọc sống lưng và đôi chân ông lạnh toát như bị chườm nước đá. Những gương mặt quen thuộc bỗng nhiên hoá thành một đám mặt nạ cao-su phập phồng, méo mó, lồi lõm. Lẽ nào ông tìm được sự cảm thông và niềm tin cậy nơi những hình nhân dị dạng kia ?... Những gì ông vẫn tin tưởng đinh ninh chỉ là nhầm tưởng. Cả một bức tường thành sụt lở trong tim. Tâm hồn ông rỗng không, óc não ông tê bại. Ông thấy mình bỗng nhiên trở thành kẻ cấm khẩu. Ông không thể mấp máy đôi môi. Nhưng một khoảnh khắc trôi qua và bản năng thức tỉnh. Một cảnh báo mơ hồ lướt tới khiến ông rùng mình. Ông phải tự trấn tĩnh một hồi trước khi có thể cất tiếng:
- Nếu bộ chính trị đã nhất trí, đương nhiên tôi phải chấp hành. Nhưng các đồng chí đừng quên rằng cô Xuân là người thân thiết của tôi, chúng tôi đã có hai mặt con, và những đứa trẻ ấy là máu huyết của chính tôi.
- Chủ tịch cứ yên tâm. Những người thân của chủ tịch sẽ được cư xử đàng hoàng. Miễn là họ yên tâm sống trong hậu trường của cách mạng.
Người nói lời cuối chính là Thuận, kẻ nổi tiếng chín chắn và nho nhã trong bộ chính trị. Kẻ cũng được tiếng là người đàn ông đạo đức, có nghĩa rằng so với các đồng chí khác anh ta chẳng phải là kẻ đa thê. Thuận chỉ có một người vợ. Với người đàn bà này, anh ta có năm đứa con.
....Ông không còn nhớ đoạn kết của cuộc họp ấy ra sao. Phần cuối của bản án tử hình. Trái tim ông bị đem lên đoạn đầu đài và ở đó lưỡi gươm đao phủ hạ xuống. Dấu ấn sau chót ghi khắc vào tâm hồn ông là cảm thức về sự bất lực của chính mình. Lần đầu tiên, ông chợt nhận ra ông chỉ là một pho tượng gỗ khổng lồ nhưng mọt ruỗng. Những đồng chí thân thiết ẩn núp sau lưng ông để kiếm chác quyền năng. Họ mới thực chất là những ông chủ, những kẻ trục lợi tàn bạo, vô lương. Tất thảy bọn họ đều được sống mãn nguyện cái phần người ở dưới rốn. Hơn phân nửa bọn họ đều có hai vợ và cả mớ nhân tình. Người có vẻ cảm thông nhất với ông chính là Tô, bởi anh ta đã từng hiểu cuộc sống bị thiến hoạn. Vợ Tô vốn mắc chứng hoang tưởng trầm uất từ thời thiếu nữ. Sau khi sinh nở, chị ta trở thành tâm thần phân liệt, phải điều trị tại bệnh viện và nhà an dưỡng dành riêng cho gia đình các uỷ viên bộ chính trị. Ít nhất, Tô cũng đã chịu thiếu thốn gối chăn một thời gian, trước khi anh ta có quan hệ lén lút với một cô đào hát trong đoàn tuồng Liên khu năm và có với cô này một đứa con trai. Nhưng Tô là thiểu số tuyệt đối, thêm nữa bản tính anh ta nhu nhược và cả nể. Suốt đời, Tô là kẻ sắm vai. Anh ta đã thành con rối gỗ từ rất lâu, thành con rối gần như tự nguyện.
Người được tiếng đứng đắn nhất, cao giọng đạo đức nhất, thái độ quyết liệt nhất trong cuộc họp hôm ấy chính là Thuận, kẻ đã từng là cánh tay đắc lực của ông một thời gian dài:
― Nhưng anh ta chưa bao giờ thiếu thốn chuyện gối chăn. Anh ta chỉ có một người vợ, nhưng với người đàn bà này anh ta có năm đứa con, và dù trong chiến tranh hay trong cuộc sống thời bình, đời sống tình dục của người đàn ông này là liên tục.
Ông nhớ lại bữa liên hoan trên chiến khu Việt bắc. Hôm ấy, nhà bếp được lệnh mổ bò. Rượu cần ê hề vì dân bản cung cấp. Sau bữa cơm, mọi người đều chếnh choáng, vui vẻ. Chợt có tiếng la hét, chửi rủa, khóc lóc của một người đàn bà từ khu gia đình vọng tới. Cùng với thứ tiếng động bất nhã và náo loạn của chị ta là tiếng xôn xao, giọng đàn ông xen lẫn giọng đàn bà. Hoảng hốt, chánh văn phòng chạy sang hỏi han. Lát sau, anh ta quay lại báo cáo rằng vợ thủ kho đau đẻ. Người đàn bà này xấu nết nên càng đau, chị ta càng hò tên anh chồng ra mà chửi. Những người xung quanh xúm lại khuyên can. Giờ cơn đau tạm lắng, hội phụ nữ đã cử người dìu chị ta xuống trạm y tế.
Câu chuyện làm bùng nổ những trận cười ròn rã xen lẫn các giai thoại tiếu lâm vừa cổ vừa kim.
Lúc ấy, ông cất tiếng hỏi:
- Ở đây có cô nào chửi chồng khi đau đẻ không đấy ?
- Không có đâu ạ.
Các phu nhân nhất loạt đáp lời. Một người bạo dạn hơn nói tiếp:
- Mà nếu có muốn chửi thì cũng phải nghiến răng chửi thầm cho đỡ tức thôi ạ.

- Cô có lẽ là người thành thực nhất.
Ông mỉm cười tán thưởng, đoạn tiếp tục chọc ghẹo:
- Nhưng tại sao lại bực tức với người chung chăn chung gối ?
- Là vì....vì...
Người đàn bà ấp úng, nửa muốn trả lời, nửa còn dùng dắng. Lúc ấy, ông nghe tiếng Thuận cười phá lên, rồi chính anh ta đáp thay thiếu phụ kia :
- Là vì lúc sướng thì có cả đôi, lúc khổ lại mỗi một thân một mình phải chịu. Đó là cảm thức trước sự bất công của đất trời. Đó là cơn phẫn nộ đòi lợi quyền trước Tạo Hoá.
- Chú quả là người có tài diễn giảng.
Ông lên tiếng ngợi khen, đoạn quay sang vợ Thuận :
- Chú ấy biết nói như thế, hẳn phải biết cư xử như một ông chồng lý tưởng. Tôi nghĩ có đúng không ?
- Dạ ...
Vợ Thuận cũng lại ấp úng như người đàn bà kia, chị ta đưa mắt nhìn chồng và lúc ấy anh ta lại cất tiếng cười ha hả, lần này, với một nỗi khoái trá không che đậy :
- Thưa chủ tịch, trên lĩnh vực này thì người khá ngây thơ. Lý thuyết và thực tiễn luôn luôn luôn luôn là hai đường thẳng song song không bao giờ giao cắt. Nhà tôi vừa mới day dả tôi cả đêm qua vì chuyện phạm luật.
- Phạm luật ? Luật nào ?
Ông cất tiếng hỏi một cách thành thực vì không rõ trong cuộc sống đôi lứa, người ta đề ra những thứ luật gì. Suốt cuộc đời ông, những người đàn bà lướt qua như cơn mưa bóng mây, tạm bợ như quán trọ, mơ hồ như giai nhân trong chuyện Liễu trai, nên thực tình, cuộc sống gia đình đối với ông còn là một lục địa chưa khai phá. Trong khi ông đưa mắt nhìn Thuận thì mặt vợ anh ta đã đỏ gắt như quả gấc chín, còn Thuận đang cười nụ cười mở rộng nhất mà anh ta có thể. Sau đó, anh ta thủng thẳng cắt nghĩa :
- Rất nhiều luật lệ, nhưng chẳng luật lệ nào đứng vững nổi trước tuổi trẻ và những thôi thúc của thân xác. Ví dụ, thời xưa các cụ dạy vợ đẻ xong phải kiêng đủ một trăm ngày, đó là lý thuyết chính thức. Nhưng tôi không tin có ông chồng nào nhịn qua ba tuần lễ. Sau lưng các bà vợ, tôi hỏi vụng mười ông chồng, cả mười ông đều thú nhận là phạm luật. Rồi các bác sĩ đề ra luật : Khi vợ chửa tới tháng thứ chín tuyệt đối cấm đến gần giường, tôi, tôi hành động jusqu’ au bout. Hôm sau cô ấy đi đẻ, đêm trước tôi còn gỡ.
- Anh có thôi đi không, đồ yêu quái.
Vợ Thuận thét lên, có vẻ như sắp khóc vì hổ thẹn. Cả đám người cười lăn cười lộn, vẻ đồng tình ra mặt. Ông vội vã can :
- Thôi, thôi... Khi phụ nữ đã lên tiếng, ấy là mệnh lệnh. Tôi đề nghị các chú chuyển sang đề tài khác.
« Một thời để nhớ, một thời để thương, một thời để thù hận ... »
Một câu văn cũ rích bỗng nhiên quay lại. Ông chợt thấy trong đó những lo-gic thường hằng. Đúng là đã có một thời. Một thời để nhớ.
Một thời đã qua, thời của những kẻ sống trong rừng, hát cùng một khúc quân ca, bước trong cùng một đội hình, chia nhau một bát cơm và cùng có chung niềm tin tưởng. Thời khốn khổ và mộng mơ, khi người ta có thể nói với nhau tất thảy mọi chuyện một cách dễ dàng. Thời mà người ta tưởng chừng tình thân ái là những sợi dây liên kết chặt chẽ, bất chấp mọi ngáng trở, bất chấp thời gian.
« Nhưng từ đâu nảy sinh ra thứ thù nghịch này ? Lòng ghen tị được che giấu hay quyền lực bị tổn thương ?»
Hai giả thuyết ấy đặt ra trước ông như hai ngả đường, ngả nào cũng đầy rắn rết. Bao nhiêu năm đã qua, ông vẫn không hiểu một cách tận tường nguyên nhân sự phản trắc tập thể này. Phải chăng nhan sắc nàng gợi lên trong lòng những người đồng chí của ông mối ghen tuông, hay việc ông yêu nàng khiến cho quyền lực tập thể bị thương tổn. ?
Trước khi gặp Xuân, tổ chức kháng chiến đã quyết định tìm cho ông một người đàn bà, tương lai sẽ là « mẹ già dân tộc ». Việc ông từ chối quyết định của họ , tiếp theo đó mối tình giông bão với người con gái miền núi kia chính là cây búa đập tan cái hình mẫu tượng đài mà những người đồng chí đã dựng sẵn cho ông.
« Nhưng vì sao họ tự phong cho họ thứ quyền hành của ông mai bà mối ? Tất thảy mọi chuyện diễn ra vừa có vẻ như trò chơi ngớ ngẩn lại vừa giống một thứ ma trận bày ra để dẫn ta tới cửa mồ ?»
Ông không còn nhớ chính xác, nhưng vào khoảng mùa đông năm bốn mươi bảy hoặc mùa xuân năm bốn mươi tám, văn phòng lên báo cáo :
- Bộ chính trị đã họp bàn vắng chủ tịch, để quyết định một nữ đồng chí bên hội phụ nữ sang phục vụ người.
- Tại sao không cho tôi biết nội dung cuộc họp đó ?
- Dạ, vì chủ tịch đảm đương trách nhiệm tối cao lãnh đạo cuộc kháng chiến, Trăm công ngàn việc đợi chờ người. Vì thế, chủ tịch chẳng còn thời gian lo chuyện riêng tư. Bộ chính trị phải đứng lên sắp xếp.
- Ồ, nhưng vấn đề tình cảm giữa hai con người không thể giải quyết một cách đơn giản và máy móc như thế. Các chú phân công, nhưng người nữ kia chẳng có chút luyến ái nào thì sự sắp xếp này chính là cực hình đối với cô ta.
- Xin chủ tịch đừng lo, được phục vụ người là vinh dự.
- Nhưng tôi, tôi cũng là một con người, tôi phải xúc động thật sự mọi chuyện mới có thể tốt đẹp.
- Dạ, các uỷ viên bộ chính trị đều nói thực hiện nghị quyết này là để bảo đảm sức khoẻ cho chủ tịch. Theo sách Hải thượng lãn ông nếu âm dương không giao hoà thì mọi chứng bệnh sẽ kéo đến. Sức khoẻ của người chính là vận mệnh dân tộc, tương lai của non sông. Tập thể tổ chức văn phòng có nhiệm vụ chăm lo cho sức khoẻ của người.
- Tôi hiểu, nhưng không thể vì lý do ấy mà giải quyết mọi sự một cách tuỳ tiện.
- Thưa chủ tịch, bên hội phụ nữ đã làm công tác tư tưởng với đồng chí Thu. Đồng chí ấy thuận tình coi việc phục vụ người là phục vụ cách mạng.
- Ồ...
- Thưa chủ tịch, văn phòng được thông báo là bắt đầu từ thứ bảy tuần này.
- Không cần vội vàng đến thế. Mấy năm nay tôi sống chay tịnh có sao đâu ?
Ông đáp, nỗi bực bội xâm chiếm tâm can. Nhưng chánh văn phòng đã vội vã đi ra. Tiếng bước chân anh ta hấp tấp nghiến trên cây cầu thang đầu hồi. Ngay lúc đó, cần vụ bước vào mời ông sang hầm tướng Long đàm đạo. Cuộc gặp này đã vào lịch từ hai tuần trước nên ông lên đường tức khắc, nhưng cảm giác bực dọc vẫn đeo đuổi. Sự khó chịu này gần giống cảm giác bất mãn năm xưa, ông từng có với người goá phụ trong ngõ cụt phố Saint John, khi chị ta săn đuổi và vây hãm ông một cách lộ liễu trước tất thảy láng giềng.
Vừa bước chân vào hầm tướng Long, ông đã hỏi luôn chuyện đó. Anh chàng này giả tảng như không nghe thấy gì, lúi húi pha trà. Rồi lát sau, thủng thẳng đáp :
- C’ est provisoire.
Ông hiểu rằng người ta tìm cho ông một giải pháp tạm thời, nhưng dẫu sao đó vẫn là một sự áp đặt. Ông thấy quyền tự do của mình bị thương tổn.
Cuối tuần đó, vào chiều thứ bẩy, ông chợt thấy bóng đàn bà xuất hiện. Theo thường lệ, cứ thứ bẩy là mọi người rút về khu gia đình trừ đội cận vệ. Lán của họ dựng cách ngôi nhà sàn của ông vài chục bước chân, đứng bên này gọi to bên kia nghe thấy. Ông hầu như đã quên câu chuyện « nữ đồng chí phục vụ cách mạng » nên vô cùng ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà đang trên đường tiến đến khu lán. Lúc ấy, bữa cơm chiều đã xong, bầu trời phía tây chỉ còn lại những ráng mây vàng rực toả thứ ánh sáng không mầu sắc xuống các vòm lá đen thẫm của cây rừng. Trong thứ ánh sáng ấy, và trong không gian hiu quạnh ấy, dáng người đàn bà càng có vẻ yếu ớt, lẻ loi. Ông tự hỏi :
« Ai nhỉ ? Ai có thể đến đây vào lúc này ? »
Về nguyên tắc, đội cận vệ không được quyền tiếp đón người thân trong khu vực cấm. Nếu gia đình lên thăm, họ sẽ được phép nghỉ và gặp gỡ người thân ở khu vực « Trạm trung chuyển » hoặc gọi một cách văn chương hơn : « Nhà hạnh phúc ». Ngôi nhà ấy cách đây ít nhất cũng một dòng suối với hai ngọn đồi. Tò mò, ông tiếp tục nhìn qua khung cửa sổ, theo rõi cái bóng người đang chúi đầu bước. Hình như chị ta còn mang xách vật gì đó khiến dáng đi vừa lật đật vừa nghiêng vẹo. Một dáng đi lao đao, vất vả. Dáng đi ấy gợi nên một thứ tình cảm không chút đáng tôn vinh là lòng thương hại. Lòng thương hại đối với một người đàn ông đã tồi tệ, nhưng với một người đàn bà, sự tồi tệ ấy được nhân hai.
- Ồ, chuyện tầm phào.
Ông tự nhủ một cách khó chịu, vẻ như khó chịu với chính mình. Rồi ông cúi đầu xuống mớ tài liệu. Nhưng một linh cảm mơ hồ mách bảo rằng người đàn bà có dáng đi liêu xiêu kia liên quan tới chính ông chứ không phải với những chàng cận vệ. Lúc ấy, ông mới sực nhớ ra « giải pháp tạm thời » mà tướng Long đã nói, và tức khắc một tiếng kêu thốt lên trong trái tim ông :
- Khốn khổ, đó chính là người đàn bà mà họ đã dành cho ta.
Buông mớ tài liệu xuống, ông ngồi đờ đẫn.
Chắc chắn Hội phụ nữ không còn người nào trông ra hồn mà sống độc thân. Tất cả đều « thuyền có lái, gái có chồng ». Hoa khôi phải kể đến cô Vân, vợ Vũ. Tiếp đến là cô vợ hai của Sáu và cô Tường Vi, chuyển từ đoàn văn công trung ương về. Hai người này được đặt biệt danh là « Nhị vị thục nữ ». Sau đó kể đến « Tam nương thục nữ » cô Lan, cô Huệ, cô Nhi ; ba người đàn bà nổi tiếng khắp chiến khu vì dáng vẻ yểu điệu và tài nội trợ. Những cuộc đón tiếp khách quốc tế, những cuộc liên hoan trọng thể đều phải nhờ đến họ : Họ trưng bầy hoa lá, họ làm bánh trái và các món ăn thị thành, họ dạy các thiếu nữ khác cách trang sức và chính họ cũng là những mỹ nhân trong những bộ áo dài lộng lẫy mà mặc dù cuộc kháng chiến gian nan nhưng họ vẫn cố đem theo. Sau ba mỹ nhân này có thể kể đến vợ Thuận và các phu nhân của chính phủ. Tuy còn đang ở trên rừng nhưng đám nữ nhân này cũng khá đỏm dáng. Người ta cũng chiều chuộng họ mà chuyển một lượng khá dồi dào vải vóc, lụa là, gương lược từ vùng tạm chiếm lên đây , cùng với thứ xa xỉ phẩm dành riêng cho ông :thuốc Ca-ra-ven và thuốc Gaulois.
Về việc này, ông tuyên bố :
« Đấy là thói quen. Ở tuổi tôi, thói quen mạnh hơn người ta tưởng. »
Những người đàn bà dựa vào đấy mà vòi vĩnh :
« Dù ở trên rừng, chúng tôi cũng vẫn là phụ nữ . »
Chính ông ủng hộ bọn họ. Dăm kẻ bực mình nói sau lưng ông :
« Ông ấy đã sống với Tây hai mươi năm, thích uống rượu Tây nên cũng nịnh đầm ...như Tây vậy. »
Vào những buổi liên hoan, ông thấy những người đàn bà kín đáo xịt nước hoa lên cổ áo hay lên những chiếc nơ sa-tanh gài trên tóc. Mùi thơm cũng như nụ cười của họ khiến rừng núi bớt âm u.
Bấy giờ, ông cố điểm lại những người đàn bà từng nhìn thấy, không ai có dáng đi xiêu vẹo kia, cũng chẳng ai tên là Thu...Rõ ràng là tất thẩy đám đàn bà nhan sắc đều đã thuộc phần người khác. Còn lại « nữ đồng chí phục vụ cách mạng » này ắt hẳn là phần xương xẩu nhất còn sót lại trong Hội phụ nữ, là cá thể mà những người đàn ông tuy có thiếu thốn cũng đành quay mặt đi. Điều ấy chẳng còn ngờ vực.
« Dẫu sao cô ta cũng đã đến đây. »
Ông buông tiếng thở dài rồi đứng lên, sửa sang lại quần áo cho chỉnh tề. Lúc ấy, cần vụ bước vào báo cáo :
- Thưa chủ tịch, nữ đồng chí bên hội phụ nữ đã đến.
- Cảm ơn. Chú có thể nghỉ được.
Ông đáp.
Và cậu ta lỉnh đi nhanh như biến.
Đứng nhìn theo chàng trai một cách ngẩn ngơ, ông thầm hỏi :
« Ta sẽ phải nói với cô ta những gì đây, cho đúng phép ? Bởi người đàn bà này không do ta chọn. Nếu là cuộc gặp gỡ bắt buộc của định mệnh thì nó còn tồi tệ hơn nhưng gì đã trải qua với cô thợ khâu Paris. Bởi nó kèm theo một điều kiện tiên quyết khiến cho cả hai bên bắt buộc ngại ngùng : một cuộc làm tình chẳng có tình, cũng không phải sự đồng thuận giải phóng các nhu cầu thân xác mà chỉ đơn thuần là hành động cách mạng. Điều này vừa giả dối, vừa phi nhân. »
Ý nghĩ ấy khiến ông ngán ngẩm. Nhưng ông vẫn nhớ ông là chủ nhà và có một vị khách đang tới. Ông đứng dậy, bước ra đầu hồi, đón cô ta. Người đàn bà, như ông dự đoán, vừa đặt chân lên bậc thang thứ nhất cây cầu thang. Từ trên cao, ông nhìn thấy đỉnh đầu của cô ta trước hết. Một cái đầu nhỏ bé, tóc thưa thớt rẽ sang hai bên, rồi túm lại phía sau bằng chiếc cặp ba lá nhôm sáng loáng.
« Tóc cô ta thưa như tóc một bà già tám mươi tuổi. Thật khốn khổ. Ta chưa từng thấy người phụ nữ nào tóc thưa đến nỗi nhìn rõ cả mảng da đầu. Mà da đầu cô ta không trắng, nó có mầu nâu.»
Ý nghĩ ấy lướt nhanh. Ông nhớ lại thời ở Paris, ông thường gặp những bà lão rụng gần như hết tóc, phơi cái sọ đỏ hồng. Những bà già đã qua từ lâu cái tuổi còn xúc động hay ham muốn ; cũng không đủ khả năng để làm bất cứ việc gì hữu ích nên suốt ngày họ chậm rãi dạo bước trên hè phố hoặc thơ thẩn quanh công viên, quanh các bồn phun nước để ngắm cây cối hoặc cho chim ăn. Họ luôn luôn đội mũ vải hoặc mũ len, chỉ những ngày quá đỗi nóng nực, họ mới lột những tấm lá nguỵ trang xuống, và thiên hạ mới nhìn thấy cái đầu trơ trụi thảm thương của họ : Dấu vết tuổi già, bản án bất khả kháng của thời gian !
« Người đàn bà này còn trẻ, cớ sao cô ta lại rụng tóc nhanh như vậy ? Có thể do khí hậu rừng, do ăn nước suối, do cuộc sống gian lao. Nhưng những điều kiện tồi tệ ấy được phân phát chung cho tất cả. Tại sao những người đàn bà khác vẫn có quyền « phơi mớ tớc dài óng ả », nói theo giọng văn vẻ của một thi sĩ loại ba ?»
Nhưng lúc ấy vị khách đã vượt qua nấc thang cuối cùng, ngẩng đầu lên. Bắt gặp ánh mắt của ông, toàn thân cô ta đột nhiên co rúm. Từ đôi vai hẹp cho đến cặp đầu gối củ lạc đều khép lại trong cơn ngượng ngùng. Không hiểu sao, chính ông cũng ngượng ngùng khi chứng kiến sự sợ hãi không thể che giấu của người đàn bà, và cảm thấy cuộc gặp gỡ này gần như một hành vi tàn nhẫn.
- Thưa chủ tịch...
Môi cô ta lật bật mãi mới buông ra mấy lời ấp úng.
Ông vội đáp :
- Mời cô vào nhà chơi.
- Dạ...
Người đàn bà đáp trong hơi thở hổn hển. Vừa vào nhà, cô ta vội vàng gỡ chiếc túi dết trên vai mắc vào tay ghế, rồi đặt mớ chiếu và chăn vẫn cắp dưới nách xuống sàn. Ông liếc nhìn, thấy ngay một chiếc gối trắng, kẹp giữa một chiếc chăn bông đơn trấn thủ, cả hai được bó gọn trong chiếc chiếu cá nhân, quấn nhiều vòng dây dù :
« Sợi dây kia sẽ được dùng để treo màn cho chủ nhân sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Ắt hẳn tổ chức đã dặn dò cô ta một cách kĩ lưỡng rằng phải mắc chiếc màn ở chái nhà phía trước, nơi được che chắn bởi những tấm mành tre rộng, thả từ áp mái xuống tận sàn. Ở đây, không có chiếc gối thứ hai, không có chiếc chăn thứ hai, không có chỗ dành cho người thứ hai. Thế nên cô ta phải ôm theo đủ thứ. Sự chuẩn bị chu đáo, gọn gàng như tiểu đội đột phá khẩu chuẩn bị bộc phá trước lúc công đồn. Tội nghiệp. »
Ông thầm nghĩ, hình dung cảnh người đàn bà ôm mớ chăn chiếu kia lội qua con suối, vượt qua hai quả đồi :
- Cô mới đi đường, hãy ngồi nghỉ đã.
Ông nói, đoạn đi pha ấm trà mới. Nước đun từ ba giờ chiều không còn đủ độ nóng nên những lá chè nổi lềnh phềnh. Ông phải lắc hồi lâu, nước mới ngả sang màu vàng nhạt :
- Mời cô uống nước. Tôi vừa nhận được đường phèn dân gửi cho.
Ông lấy chiếc bình thuỷ tinh đựng đường phèn Quảng Ngãi, đặt lên bàn :
- Cô ...cô...
- Thưa chủ tịch, em tên là Thu, Minh Thu, bởi bên hội còn có chị Bích Thu nữa.
- A... Hoá ra bên ấy còn cô Bích Thu nữa.
Ông nhắc lại một cách máy móc trong khi cố lục tìm trí nhớ xem đã từng gặp những nữ đồng chí tên Thu lần nào chưa nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy dấu vết. Trong lúc ấy, người đàn bà uống trà. Cô ta có vẻ khát thật sự sau một đoạn đường tuy không phải là quá dài song so với sức vóc cô ta hẳn đã là một cố gắng. Cổ tay cô ta vừa nhỏ vừa gầy giống cổ tay đứa bé, cần cổ cũng phơi những sợi gân dài một cách bối rối vì không thể giấu giếm dưới chiếc cổ sơ-mi cánh nhạn màu xanh lơ. Khi cô ta ngồi trước mặt ông, ông càng thấy rõ lớp tóc mỏng dán vào da đầu, để lộ ra những vệt nâu nhạt. Da cô cũng có mầu nâu, nhưng không phải thứ da bánh mật mà dân gian ca tụng « Da bánh mật, quật chết trâu ». Da cô vừa nâu vừa tái, thứ da thiếu hồng cầu.
Ông không dám nhìn cô lâu, biết cô đang run như giẽ, còn ông, con tim ông tràn ngập nỗi ngao ngán lẫn lòng trắc ẩn. Trắc ẩn cho ai ? Có lẽ sự thương hại này dành cho cả hai phía, người phụ nữ tội nghiệp kia và cho chính ông. Cuộc sống quả là trò đùa tàn nhẫn. Một lớp tuồng bất khả dò đoán. Hoặc là một tai nạn giao thông ?
Quay mặt ra phía cửa sổ, ông nhìn ánh tà dương đang chuyển sang màu tím nhạt , cất tiếng bâng quơ :
- Bên hội phụ nữ có trồng được nhiều rau không ?
- Báo cáo chủ tịch, vườn của chúng em có đủ loại : Rau cải xanh, cải cúc, bắp cải , su hào. Cà tím lẫn cà chua năm nay tốt lắm.
Người đàn bà tội nghiệp túm được câu hỏi vơ vẩn ấy như kẻ đang lạc đường tìm thấy lối ra. Cô ta đáp một cách hào hứng, lưu loát.
- Thế a ? Các cô khá thật.
- Dạ. Các chị lãnh đạo giỏi xoay sở lắm. Chúng em phải cử người xuống tận vùng ráp ranh mua hạt giống rau.
- Thế cô có xuống vùng giáp ranh lần nào không ?
- Thưa chủ tịch...
Cô ta ngước mắt nhìn ông với nỗi hoảng loạn, và tức khắc ông nhận ra sai sót không thể tha thứ của mình. Người được cử xuống vùng giáp ranh, hoặc luồn vào vùng tạm chiếm phải là những người đầy năng lực, ngoài sức khoẻ, sự tháo vát, trí thông minh còn cần đến một ngoại diện hấp dẫn. Đấy là những tiêu chuẩn bất khả đối với người đàn bà đang ngồi co ro trên chiếc ghế mộc trước mắt ông :
- A, tôi hỏi thế thôi. Tổ chức có phân công mới đi được.
- Vâng.
- Tất thảy chúng ta đều phải phục tùng mệnh lệnh của cách mạng, và sự phân công của tổ chức.
- Vâng ạ.
- Cô Thu...
Chỉ chút xíu nữa là ông buông ra một câu hỏi ngu ngốc :― Cô Thu bao nhiêu tuổi nhỉ ?..
Ấy là bởi trong đầu ông đang còn dội lên những câu hỏi thường trực đối với đám nhi đồng: ― Cháu Hồng mấy tuổi nhỉ ? Lại đây nhận kẹo rồi chia cho các bạn; hoặc là :― Cháu Thanh lên mấy nhỉ ? Nhận quà rồi có để dành cho bố mẹ hay không ?Hoặc là :― Cháu Quý năm nay lớn vọt lên đấy, lại đây múa bài con Công cho các chú các bác xem nào.
Những câu hỏi ấy đang còn đóng đinh vào óc não ông bởi chủ nhật trước, ông vừa sang phát kẹo cho lũ trẻ. Chủ tịch hắng giọng giả như một cơn ho làm tắc nghẽn câu nói :

- Cô Thu.....Cô Thu có thường xuyên nhận được tin nhà hay không ?
- Dạ. Nhà em chẳng còn ai ngoài người chị ruột. Nhưng chị ấy đã theo chồng sang đất Thái làm ăn lúc bố mẹ em chết nên không liên lạc được. Đối với em, cách mạng là gia đình.
- Tốt. Cách mạng là gia đình lớn , là mái nhà chung của tất thảy chúng ta.
Ông đáp. Tự thấy mình nhạt nhẽo. Những lời lẽ sáo mòn nhất mà đã từ lâu ông không còn dùng nữa, ngay trong những cuộc họp với đám cán bộ tuyên huấn. Chúng giống bã rau, bã đậu được nấu lại, thứ thức ăn dành riêng cho bò hay lợn. Nhưng người đàn bà lại tỏ vẻ hài lòng. Cô ta ngước nhìn ông, chớp chớp đôi mắt, chẳng rõ để làm duyên hay để biểu thị sự hoan hỉ :
― Cô ta chẳng những xấu mà còn có bộ điệu của một kẻ ngu ngốc. Chắc chắn trong đầu cô ta không có mảy may một ý tưởng nào, ngoài những gì được người khác nhồi nhét cho..
Chân tay ông bỗng rã rời :
― Ta sẽ phải ôm người đàn bà kia hay sao ? Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ phải thực hiện những hành vi tình ái với cô ta ? Điều ấy sẽ không tránh khỏi. Ta cần giải phóng cơ thể khỏi những dồn nén. Ta cần phải giữ trí óc minh mẫn vì cuộc kháng chiến còn lâu dài. Như thế, không có cách gì hơn là phải tiêu diệt những ước vọng của một người đàn ông bình thường. Phải chôn vùi thế giới cảm giác vì ta là hiện thân của tinh thần trách nhiệm. Việc của ta là cáng đáng gánh nặng giang sơn. Nếu thời xưa, đã có kẻ vì trách nhiệm với non sông phải kết hôn với Chung Vô Diệm thì giờ đây, ta cũng phải noi gương cổ nhân mà hành sự.
Nhưng khi mớ lý giáo ấy chấm dứt, tinh thần ông vẫn không mảy may suy xuyển. Ngay cả thứ mà người thường gọi là dồn nén, bình thường vẫn hiển hiện, nhưng lúc này lại biến mất tăm.
― Thật lạ lùng. Bỗng nhiên ta chẳng còn một chút xung năng tình dục. Hoàn toàn rỗng không. Hoàn toàn vô cảm.
Ông biết gã đàn ông nơi bản thể của ông vô cùng cường tráng, và nhu cầu tình dục của gã lớn hơn mức bình thường. Nhiều lần, ông nói thẳng với đám đàn em :
― Tôi chỉ là Cha già từ đỉnh đầu xuống rốn. Còn dưới rốn, tôi vẫn là Anh.
Câu nói ấy được truyền đi như một giai thoại.
Tuy nhiên....Tuy nhiên...
Đứng trước người phụ nữ này, bỗng nhiên cái phần dưới rốn của ông cũng hoá thành Cha già nốt.
Ông sửng sốt :
― Tồi tệ thật. Kim đồng hồ chỉ số sáu. Đó là điều mà chẳng ai ngờ đến. Khi ta sống một mình, nó vẫn hung hăng lồng lộn như con ngựa chiến, vậy mà giờ đây nó lại chụm bốn vó đầu hàng. Kì quái. Chẳng lẽ người đàn bà kia có khả năng tiêu diệt tình dục của bất cứ đối tượng nào trước mặt cô ta ?
Ông thầm hỏi.
Lời giải đáp đến ngay tức khắc :
―Điều ấy chẳng cần hồ nghi. Nếu không, ắt hẳn cô ta đã có chồng. Trên chiến khu, đàn ông đông gấp mười lần đàn bà. Người phụ nữ có quyền chọn bạn tình chứ chẳng phải đàn ông có quyền kén vợ. Rõ ràng là khả năng huỷ diệt ái tình của người đàn bà này rất lớn. Phải chăng đó là cái cớ mà họ chọn cô ấy cho ta ?
Bỗng nhiên, ông giận dữ. Những ý nghĩ rời rạc nện từng nhát búa lên sọ ông:
― Lũ người này tồi tệ thật,
Lý do nào cho phép chúng hành xử với ta như thế ?
Quyền năng nào khiến chúng áp đặt với ta một sự đã rồi.?
Máu dồn lên mặt khiến ông có cảm giác nóng bức. Ông vội rót một chén trà, uống từng ngụm nhỏ, để ghìm cơn giận, thói quen đã có từ lâu. Trong lúc ấy, cô Minh Thu đã uống cạn mấy chén liền, đang ngồi chờ đợi với vẻ nhẫn nhịn của một con chó chầu ngoài sân nhà chủ. Cơn giận dữ khiến ông quên phắt sự hiện diện của người đàn bà bé nhỏ, dúm dó dưới tấm sơ-mi xanh lơ. Cơn giận dữ khiến ông sải những bước dài quanh phòng, tách trà trên tay, mắt nhìn thẳng vào khoảng không gian thù nghịch. Rồi khi ông chợt nhận ra sự bất nhã của mình, ông vội vã quay lại :
- Xin lỗi cô Thu nhé. Tôi đang có nhiều việc phải nghĩ.
- Dạ....Thưa chủ tịch....
Cô ta đáp lí nhí, mặt cúi gằm.
Ông đặt chén trà xuống bàn, kéo ghế ngồi sát người đàn bà :
- Tôi xin lỗi ...Thu nhé....
Ông cố tình xưng hô một cách thân mật. Nhưng chính lúc ấy, con tim ông lại sôi lên vì một cơn cuồng nộ bất thần:
― Tại sao ta phải diễn màn tuồng thảm hại này ? Tại sao ta không nói thẳng cho cô ta biết rằng bộ máy sinh dục của ta giờ đây trở thành vô năng vì nó bị uy hiếp ? Rằng chính cô ta đã tiêu diệt mọi ham muốn nơi người đàn ông. Rằng bất cứ gã đàn ông nào cũng sẽ trở thành kẻ liệt dương hoặc tâm thần khi phải lên giường với cô ta ...
Nhưng trong lúc óc não ông sôi sục những lời rủa xả thì vẻ mặt ông lại nhu thuần như mặt kẻ ngồi thiền, và ông hạ giọng ngọt ngào :
- Tôi thật lòng xin lỗi Minh Thu. Hôm nay, người tôi khó ở. Có lẽ tôi bị sốt từ chiều qua mà chưa kịp uống thuốc.
- Dạ ...thưa....
Người đàn bà lúng búng đáp, mặt càng cúi gằm xuống. Bất chợt, những giọt nước mắt lã chã theo nhau chảy trên sống mũi cô ta. Cô Minh Thu giơ tay áo quệt. Ông vội vã đứng lên, định bụng tìm một tấm khăn tay sạch cho cô. Nhưng rủi thay, chiếc khăn tay duy nhất còn khô ông đang dùng. Những chiếc khác ngâm xà-phòng trong chậu. Ông đành đứng im lặng nhìn người đàn bà tội nghiệp mỗi lúc mỗi nức nở một cách hờn tủi. Vì chẳng mang theo khăn tay, cô cúi xuống, lôi trong túi dết ra một chiếc áo lót, chắc hẳn là áo ngủ, để lau mũi.
― Ta chưa từng gặp người đàn bà nào vô duyên đến thế.
Ông thầm nghĩ, khi nhìn những giọt nước mắt lăn dọc theo sống mũi cô Thu. Một cái mũi nhỏ, đã hớt lại vẹo đầu. Sự lệch lạc của số phận. Đối với người phương Đông tin vào nhân tướng học, cái mũi vừa tượng trưng cho sự nghiệp vừa tượng trưng cho kẻ hôn thú. Người đàn ông nào có cái mũi lệch vẹo ắt hẳn phải lấy thứ đàn bà đần độn, xấu xí hoặc nếu có vài phần nhan sắc thì chỉ là cô đầu, con hát hay gái chuộc từ lầu xanh. Người đàn bà nào có cái mũi lệch vẹo sẽ chẳng thể kiếm được tấm chồng, hoặc nếu có, ắt chẳng phải đấng lang quân tử tế :
― Chắc chắn ta không thể là đấng lang quân tử tế của cô Minh Thu được. Chẳng có đức ông chồng tử tế nào có thể nhìn vợ như nhìn một chiếc bắp cải bầy trong gian hàng thực phẩm như ta lúc này. Những bức tranh tĩnh vật còn khiến ta muôn phần cảm động hơn.
Thời trước, mỗi khi bước chân vào bảo tàng Louvre, ông cảm thấy một mối xúc động lạ lùng khi đứng trước những bức tranh, cho dù ông chẳng được học hội hoạ.
― Nhưng người đàn bà này....quả tình là nỗi bất hạnh, cho chính cô ta và cho ai sẽ phải lên giường với cô ta. Những người khác, có thể lỗ mãng, hung bạo. Có thể ngang ngược, cương cường. Có thể nhu thuận, hiền dịu. Nhưng họ đều toát ra mùi của đàn bà, họ gợi cho người đàn ông niềm hứng khởi. Nếu chẳng phải những đam mê cháy bỏng thì cũng là mối cảm tình nồng ấm. Lỗ mãng như cô thợ khâu mũ, cũng có những dáng nét để người ta xếp cô ta vào phái nữ.
Ông ngẫm nghĩ.
Cô thợ khâu mũ có mớ tóc dầy như bờm ngựa, màu vàng rơm. Khi cô ta thả tóc, tấm lưng được che kín bởi một thác vàng óng ánh. Ông đã từng vuốt ve mớ tóc ấy, tò mò ngắm những sợi tóc loăn xoăn mảnh hơn cả tơ tằm. Một lần, sau cuộc làm tình ông trở về gian gác xép, bất ngờ tìm thấy trong vạt áo mấy sợi tóc của cô. Táy máy, ông thử lấy một sợi buộc vào chiếc đồng hồ quả quýt, rồi đung đưa như đung đưa con lắc, hoàn toàn không ngờ rằng sợi tóc mảnh mai ấy lại có thể treo được một vật nặng hơn nó cả ngàn lần.
Rồi một gương mặt khác, một gương mặt kiêu ngạo với đôi mày xếch quay về. Con tim ông bật lên tiếng chào thầm kín:
― A, chào em...cố nhân.
― A...đó là nàng, người đồng chí!
Người đàn bà đưa mắt nhìn ông đầy hăm doạ, rồi đột ngột cô ta phá lên cười.
Ông mỉm cười theo, vì những cử chỉ ấy đích thực là của cô, người đã từng khiến con tim ông điên đảo, dẫu sự điên rồ ấy cũng chỉ là một cơn sốt chóng qua :
― Chào em, người thân mến, đồng chí thân mến.
Bởi cô đích thị là đồng chí, theo đúng ý nghĩa danh từ chỉ những ai cùng bước chung trên một con đường, theo đuổi chung một mục đích. Gương mặt vuông, tia nhìn vừa quyết liệt vừa thách thức, lời lẽ nảy lửa, thói quyết đoán gần như bạo chúa, tất thảy những nét nổi bật trong tính cách cô, mẫu người tiêu biểu của cách mạng. Cách mạng gầm thét trên hành tinh này bởi có những con người như cô. Những cá thể vừa sáng suốt vừa mù loà, bởi tất thảy sự hăng hái, cuồng nhiệt của họ bị dẫn dắt bởi cảm hứng chiến thắng, cảm hứng chủ đạo của các kiếm sĩ thời xưa khi dấn thân nơi trận mạc. Cảm hứng chiến thắng này là thứ ma lực đưa dẫn họ suốt cuộc hành trình, và họ dấn thân trên mọi nẻo đường tranh đấu, đinh ninh rằng cuộc dấn thân của họ là vì một mục đích chung, nhưng thực chất họ chỉ đi tìm cơ hội làm dịu bầu máu sôi sục của tuổi trẻ, để thoả mãn cơn khát quyền lực, cho dù họ vẫn mượn những mục đích chung để biện minh cho hành động của mình.
― Thôi, không bàn cãi nữa, tôi cho rằng đã đến lúc quyết định.
― Thôi, không lý lẽ dài dòng. Cách mạng đang chờ chúng ta. Giờ là lúc lên đường!
Ông nhớ cách nói nhát gừng của cô, thường là lời cuối cùng của cuộc họp vì những người đàn ông không muốn tranh cãi khi hai má cô đã đỏ rực lên và đôi mắt long lanh giận dữ.
Trong cuộc sống chung ngắn ngủi của họ, cô cũng thường cắt ngang lời ông khi bực tức, với thái độ độc đoán hệt như vậy. Ông nhớ cách cô vung tay lên để biểu thị quyền uy tối thượng của mình, cách cô chồm đến hôn ông thay một lời xin lỗi khi nhận ra mình sai. Và cách cô làm tình. Bao giờ cô cũng là người đi trước, và cô thường cưỡi lên ông với vẻ khoan khoái của một kị sĩ lành nghề trên lưng con tuấn mã trung thành .
― Ồ, ngay cả với cô ấy nữa, ta cũng tìm thấy những nét đáng yêu. Khi cô ấy bực tức mím môi lại, nốt má lúm đồng tiền hiện lên khiến cho những lời lẽ áp đặt kia hoá thành trẻ thơ và ta không thể phản kháng. Sau khi tuyên bố những lời lẽ quá khích hay bày đặt ra những chương trình bạo động, cô ấy biết cách rút lại các ý kiến sống sượng của mình bằng cách phá lên cười. Nụ cười thành thực ấy vừa như tự riễu cợt mình vừa như để xin lỗi người khác và sau rốt, xí xoá đi mọi chuyện.
Trong lúc ông chìm đắm với những hồi ức, cô Minh Thu đã nén được cơn nức nở. Cô ngồi thẳng lưng lên, môi mím chặt. Gương mặt cô không còn thảng thốt hay sợ hãi mà trở nên lầm lì. Bàn tay cô vẫn giữ khư khư chiếc áo lót, đã bị vo viên thành một nắm và chắc chắn ướt đầm nước mắt. Không nhìn ông, cô nhìn thẳng vào bức tường đối diện được dựng thuần bằng gỗ.
Lúc đó, bóng tối bắt đầu tràn ngập. Chủ tịch chợt sực tỉnh, lên tiếng:
- Cô Minh Thu đã bình tâm chưa ?
- Thưa chủ tịch, tôi đã bình tâm.
- Tốt lắm. Chờ tôi thắp đèn. Như thế, chúng ta sẽ thoải mái hơn.
- Vâng.
Ông hơi ngạc nhiên vì giọng nói của cô thay đổi. Nó có vẻ rắn rỏi, dứt khoát thậm chí bất cần đời. Ông thắp một lúc hai ngọn đèn, đặt lên bàn :
- Cô Minh Thu đã muốn đi ngủ chưa ?..
- Thưa chủ tịch, giờ ngủ của tôi là tám rưỡi.
- Tốt lắm. Tôi có thể tìm ra thứ gì đó để đãi khách bây giờ. Ít ra, tối nay cũng là tối thứ bẩy.
Ông đi tìm thứ gì đó khả dĩ đãi khách, nhưng trong tủ của ông chẳng có gì hơn ngoài thuốc lá, và hộp sữa Con chim.
Trong khi ông đi đục hộp sữa, cô Minh Thu đã ra đầu hồi lấy thêm củi chất vào bếp lửa. Lúc nhìn thấy người đàn bà ôm mớ củi quay vào, lòng ông chợt nhen lên một mối động tâm. Một thứ tình cảm phức tạp và mơ hồ tràn ngập tâm hồn ông. Có lẽ đó là sự thương cảm, nỗi buồn, niềm hoài nhớ những hạt mầm hạnh phúc vừa nẩy nở đã nhanh chóng chết thiêu chết rụi trong một cuộc sống lênh đênh , đầy biến động và gian khổ. Cũng có thể đó là sự thấu hiểu cõi người, sự thông cảm trước tha nhân, kẻ cũng bị kết án chung thân bất hạnh như ông, dẫu rằng nguyên cớ khác nhau.
Hoặc có lẽ ....bởi sương đêm bắt đầu toả vào không gian hơi lạnh. Cảm thức về nỗi mịt mù của trời đất đã khơi dậy những mù mịt trong cõi tâm linh ? Có lẽ, và có lẽ...
Ông không còn biết nữa, nhưng khi người đàn bà khom lưng xuống chất củi vào bếp, đoạn vươn cần cổ gầy gò ra thổi lửa khiến những đốm than hồng bay tứ tung, ông bỗng thấy thương cô ta như thương một kiếp đoạ đầy. Ông đưa cốc sữa cho cô Minh Thu và nói :
- Cô uống sữa đi. Rồi tôi đưa đèn cho mắc màn. Hy vọng rằng lần sau, tôi hết sốt, tình hình sẽ khá hơn.
Lần sau, ấy là thứ bẩy tuần sau.
Ông trở về sau một quãng đường dài khảo sát địa hình chiến dịch. Quần áo ông lấm lem bụi đường. Mồ hôi đọng khiến da râm ran ngứa ngáy. Lần ấy nữa, ông cũng quên rằng đây là ngày thứ bẩy, cái mốc thời gian quy định để có một người đàn bà đến phục vụ ông dưới danh nghĩa phục vụ cách mạng. Thành ra, khi đặt chân lên cầu thang bập bùng ánh lửa, ông thốt lên tiếng hỏi :
- Cậu nào trên ấy đấy ?..Sao đốt lửa sớm làm vậy ?
Không ai trả lời.
Cậu cần vụ ghé tai ông, thì thầm :
- Có lẽ đó là người bên hội phụ nữ.
- A...
Ông sực nhớ . Cậu cần vụ hỏi luôn :
- Con có cần ở lại chuẩn bị nước tắm không ạ ?
- Có chứ.
Ông đáp thẳng thừng vì cậu ta vẫn chuẩn bị nước nóng cho ông tắm từ lâu nay. Chiếc nồi đun nước khá to, bằng đồng nặng chịch, và thùng gỗ chứa nước cũng rất lớn, tay trai tráng mới có thể vần đi vần lại. Sau hai ngày đi đường, được tắm sạch sẽ, được thay đồ mới đối với ông là hạnh phúc. Một hạnh phúc bé nhỏ, song le vẫn là hạnh phúc.
Khi họ vào nhà, cô Minh Thu đã ngồi bên bếp, hí hoáy đan. Cái tư thế tuyệt đối cổ điển của một người vợ chờ chồng. Ông cảm thấy vừa hẫng hụt, vừa khó chịu nhưng vẫn phải tươi cười đáp lại lời chào của người đàn bà. Cậu cần vụ săm sắm bước vào gian nhà tắm, đoạn quay ra :
- Thưa chủ tịch, đã có nước nóng trong đó. Bây giờ, con chỉ lo chuẩn bị quần áo cho người là xong.
- Cảm ơn.
Ông quay lại hỏi người đàn bà :
- Chiếc thùng cao thế, làm sao cô vần nổi ?
- Dạ, em làm được.
- Cảm ơn...Nhưng lần sau cứ để cho cần vụ làm. Cậu ấy còn đang tuổi bẻ gẫy sừng trâu.
- Thưa vâng.
Ông bước vào phòng tắm, trút bộ quần áo đầy bụi lẫn mồ hôi, bất giác buông tiếng thở dài. Ngoài kia, cậu lính trẻ đã rút lui, tiếng chân bước trên cầu thang vọng lại. Khi cậu ta đã đi xa, chỉ còn lại là tiếng lửa reo, tiếng nhựa gỗ sôi bọt xèo xèo và tiếng than nổ lép bép. Trong cái không gian quen thuộc của ông, lâu nay chỉ mình ông ngự trị giờ có một người đàn bà xa lạ đang ngồi gẩy từng mũi len. Điệu bộ lóng ngóng kia chứng tỏ cô ta chưa bao giờ cầm kim đan, và đây là bài học vỡ lòng nữ công của mấy chị lãnh đạo. Họ dàn cảnh. Đạo diễn nghiệp dư và diễn viên đặc biệt tồi. Ông thấy tội nghiệp cho họ, cho cô Minh Thu, cho chính ông.
― C’ est la vie. Toujour meme comédie !
Gáo nước đầu tiên bất cẩn dội vào mắt khiến mắt ông cay xè. Ông vội lau mắt bằng chiếc khăn khô, tự nguyền rủa mình lơ đễnh. Rồi chờ cho cơn đau dịu đi, ông mới tiếp tục tắm, vừa tắm vừa nhớ lại lời hứa với người đàn bà. Có vẻ như tình hình không sáng sủa hơn. Nhất là sau một chặng đường dài mệt nhọc :
« Gay go thật. Số phận không mỉm cười với cô ta. Người đàn bà này sinh ra vào giờ nào mà xúi quẩy đến như vậy ? »
Ông thầm nghĩ. Và một nỗi sợ hãi thực sự khiến ông hốt hoảng :
« Nhưng ta không thể đẩy cô ta vào sự tủi nhục đến hai lần. Dẫu sao cô ta cũng là một con người, một người đàn bà. Sự nhục nhã có thể buộc con người tìm đến cái chết ... »
Thời trẻ, ông đọc không ít những chuyện hậu cung. Ông thuộc không ít những cái chết bởi chén vàng đựng thuốc độc, bởi đoản đao cắt họng, hay lụa trắng treo thây lơ lửng trên lầu. Từ hoàng hậu, phi tần , tới cung phi, nữ bộc...biết bao người đàn bà đã tìm cái chết để rửa mối nhục thất tình ...Mà đa phần họ đều là những mỹ nhân. Cô Minh Thu chẳng phải là mỹ nhân, đã đành, nhưng lại nhận sứ mạng « phục vụ cách mạng ». Mặc cảm ắt sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Chẳng cần giầu trí tưởng tượng cũng biết rằng sau buổi tối thứ bẩy tuần trước, cô đã phải thú nhận với cấp lãnh đạo : « Báo cáo, tôi chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. ». Các bậc liền chị đã họp bàn, tìm biện pháp giúp đỡ đàn em suốt một tuần lễ. May mắn cho họ là ông đi khảo sát địa hình chuẩn bị chiến dịch nên họ có cơ dàn cảnh : « Nàng chuẩn bị nước thơm cho chàng tắm và ngồi đan bên bếp lửa... ».
Thật tội nghiệp cho kiếp người !
Nhưng cho dù than thở cho ông hay cho cô ta, ông vẫn không quên rằng lát nữa, ông sẽ phải « động phòng », theo lối nói cổ. Mà cái phần dưới rốn của ông vẫn chưa chịu ngẩng đầu lên. Nỗi lo thất bại chen lẫn nỗi lo sợ trước những phản ứng có thể xảy ra đối với kẻ bị làm nhục khiến ông mất bình tĩnh. Nhưng chính lúc ấy, những thao tác của sự kì cọ đem lại cho ông giải pháp xưa cũ nhưng luôn luôn hiệu nghiệm. Ông tự ve vuốt mình. Trong bóng tối, chỉ có ông với ông thôi. Những động tác quen thuộc giúp cho ông trở nên cân bằng và bình tĩnh. Ông mường tượng lại người đàn bà dâm dục nhất ông từng gặp trong đời, cô nàng mắt xếch. Ông mường tượng cảnh cô cưỡi trên bụng ông, da thịt cô, hơi thở của cô , mái tóc đen óng như than xoã trên vầng trán, lấp lánh dưới ánh đèn..
Và tuổi trẻ của ông quay trở lại...
*
Tiếng chuông điện thoại réo inh ỏi khiến ông giật mình, bừng tỉnh cơn suy tưởng. Ông định đứng lên nhưng cậu cần vụ đã chạy vụt vào phòng, nhấc máy :
- Thưa chủ tịch, thủ trưởng Vũ.
- Cảm ơn, cậu để đó cho tôi.
Ông cầm ống nói áp lên tai, nghe hơi thở khúc khắc ở bên kia đầu dây :
- Chú làm sao vậy ? Viêm phế quản à ?
- Không, em vừa bị cảm chiều qua.
- Cẩn thận. Dẫu chú trẻ hơn tôi nhiều, nhưng cũng đã qua tuổi tráng niên. Chớ đùa với Tạo hoá.
- Em biết. Anh Cả có khoẻ không ?

- Bình thường. Sau khi chú về, tôi cho người mang thêm ít tiền phúng gia đình tiều phu. Họ chuẩn bị phong bì quá sơ sài.
Ông nghe tiếng cười của Vũ bên kia đầu dây, rồi tiếng đáp :
- Chúng ta luôn luôn quên những tiểu tiết. Chúng ta luôn luôn lơ đãng trước những con tính cụ thể. Nhưng chính các thứ tiểu tiết, và những bài tính tầm thường kiến tạo nên đời sống.
- Nhất trí. Dạo này chú có khuynh hướng trở thành triết gia của chủ nghĩa thực nghiệm. Liệu chú có tính chuyển sang ban tuyên huấn hay không ?
- Ấy chớ.
Ông nghe Vũ cười phá lên với vẻ riễu cợt quen thuộc :
- Ấy chớ, xin anh Cả tha cho em.
Ông cũng cười, và tức khắc chuyển đề tài :
- Hà nội thế nào ?
- Ngày mai sẽ có gió mùa đông bắc. Anh đừng quên trời sẽ còn rét khá lâu.
- Tôi không quên : Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba là rét nàng Bân.
- Vâng. Chính thế nên em phải gọi điện cho anh. Gió bấc về, trên ấy sẽ rét trước. Anh chớ đi dạo trong rừng, bất thần mưa ập xuống dễ bị cảm hàn.
- Tôi sẽ nhớ.
- Em phải đi ngay bây giờ. Họ vừa báo có cuộc họp đột xuất trong văn phòng trung ương, kèm theo bữa ăn tối...Chắc ăn xong sẽ họp luôn...
Anh Cả nhớ giữ gìn.
- Chú cũng vậy. Cho tôi gửi lời thăm cô Vân. Chú thật may mắn có được cô ấy, vừa đẹp người vừa đẹp nết.
- Ô....cảm ơn anh.
Vũ đáp với giọng chế riễu ông chưa từng biết đến và nhắc lại bên kia đầu dây nói :
« Anh Cả gửi lời khen ngợi em, bậc kì nữ đẹp cả người lẫn nết. »
Rồi tức khắc, người đàn em quay lại nói với ông :
- Em đi đây.
Ông nghe tiếng dập máy khá lạ lùng bên kia đầu dây. Một mối ngờ vực lướt qua. Nhưng ông không thể giải đoán.

KÝ ỨC (2)


Hà nội trở rét. Gió mùa đông bắc lại về.
Những hàng cây thẫm lại trong giá buốt và mặt hồ Tây xao xác muôn triệu lằn sóng. Rặng bằng lăng ven hồ tím màu tím cô liêu. Người đi đường hối hả bước thật nhanh qua đường Cổ Ngư, vì ngại những cơn gió mênh mông tung hoành trên mặt nước. Nhưng ngay lúc đó, những cặp tình nhân vẫn ngồi tình tự ven hồ, mặt quay về hướng gió.
Vũ đưa mắt liếc nhìn họ và thầm nghĩ :
« Nào ai biết những kẻ đắm say kia sẽ sống được bao lâu cơn mơ tình ái ? Nào ai biết năm nào, tháng nào, ngày nào họ sẽ phải khóc hối tiếc vì cơn say đắm hôm nay ? »
Những cặp trai gái co ro ôm nhau trong những tấm áo mưa trong suốt, một thứ thành trì quá mong manh để chống lại gió lạnh tháng hai. Đi hết đường Cổ Ngư, ông tìm một quán nước chè chén, loại quán nước bình dân « một thứ tư thương » cỏn con thảm hại được phép hành nghề trong nền kinh tế triệt để nhà nước hoá. Quán chè này được che chắn bởi những tấm pan-nô cũ nát, dán chằng chịt nhật báo cũ. Nồi hãm chè xanh được ủ trong chiếc dành lớn, lót rơm. Chén sành sứt mẻ, cáu đen cắn chè, đặt lộn xộn trên một chiếc khay lớn, cũng bẩn thỉu không kém. Nhưng dường như hình dạng cùng khốn và bần tiện lại thích ứng với cái xã hội ông đang sống. Bởi nó không gợi nên sự ghen tuông. Bởi nó chỉ có thể gợi nên sự thương hại hoặc ghê tởm. Những thứ được coi là bệnh hoạn hay đáng sỉ nhục trong một xã hội phồn vinh lại tương thích với xã hội này. Đã từ lâu, những ngờ vực đó day dứt ông.
- Dựa xe vào cột đèn và khoá lại. Cẩn trọng là mẹ thành công.
Một giọng sỗ sàng, đầy trịch thượng vang lên. Hoá ra ông lão bán chè chén đã nhìn thấy vị khách lạ nên cất tiếng chỉ dẫn :
- Bác không nhìn thấy chiếc cột đèn kia hay sao ? Để xe ở đấy tôi mới trông được.
Vũ ngẩng lên nhìn quanh quất một hồi mới nhận ra cây cột đèn đứng bên kia đường, nhưng bị che chắn bởi một chiếc xe bò, chất đầy rau muống, bó nào bó nấy dài thượt. Ông dắt xe sang bên kia hè, dựa sát vào xe rau muống, rồi cẩn thận khoá lại.
Ông lão bán hàng chăm chú theo rõi mọi cử chỉ của ông, với vẻ tò mò không đậy điệm. Rồi chờ khi ông bước vào quán, ngồi yên vị trên chiếc ghế dài , tựa vào tấm pan-nô tránh gió, ông lão mới cất tiếng hỏi :
- Bác uống gì, chè xanh hay chè mạn. Hoặc muốn làm ly rượu trắng, tôi cũng có.
Vũ ngạc nhiên :
- Quán nước chè cũng bán rượu ?
- Sao không ?
Ông lão hỏi lại với vẻ thách thức chen riễu cợt :
- Ông tưởng người ta chỉ cần chè mà không cần rượu ? Ông tưởng hễ nhà nước cấm cái gì là người ta phải triệt tiêu thứ ấy hay sao ?
- Tôi không nghĩ đơn giản thế. Nhưng ...
Ông lão cất tiếng cười khà khà :
- Nhưng tôi thấy bác có vẻ tử tế nên mới nói vậy. Nếu là kẻ khác, ắt tôi sẽ uốn lưỡi theo chiều khác.
Vũ cũng bật cười theo :
- Cảm ơn. Bác thấy tôi có vẻ tử tế thật sao ? Nhưng như thế nào gọi là tử tế ?
- Người tử tế có nghĩa là họ không thuộc phường đểu cáng, họ không thể làm những hành vi phản trắc hèn hạ...Ví như những kẻ đến đây lạy lục, xin xỏ tôi bán rượu cho uống. Uống xong rồi, chưa kịp đái chúng đã đi báo công an.
- Rồi sao ?
- Rồi sao ?
Ông lão lặp lại với nụ cười khẩy, đầy vẻ khinh miệt:
- Nhưng công an cũng thế thôi. Khối thằng quen uống rượu. Giá rét thế này tợp một ngụm rượu còn ấm bụng hơn húp bát cháo mậu dịch loãng như nước ốc. Thế nên có vờ vĩnh tịch thu bình rượu của tôi thì ba ngày sau cũng phải trả lại. Có điều khi họ trả thì chỉ còn lại vỏ bình. Tôi tiếp tục gọi người dưới quê đem rượu lên. Mọi sự lại như thường.
Nói tới đó, ông lão cúi xuống lôi từ dưới gầm chõng ra một chiếc thúng phủ kín bao tải. Lật chiếc bao tải lên, ông chỉ cho Vũ chiếc bình đựng rượu cổ lớn, men xanh ngọc :
- Ông đã nhìn thấy chưa ? Nếp cái hoa vàng loại thượng đẳng nhé.
- Cái bình đẹp thật.
Vũ trầm trồ :
- Bình đẹp thế này chắc rượu ngon. Tôi phải xin một chén cho ấm dạ.
- A ha....
Ông lão cất tiếng cười hào sảng khiến chòm râu rung lên bần bật :
- Bình đẹp chưa chắc rượu đã ngon, cũng giống như tốt nước sơn chưa hẳn là gỗ tốt. Nhưng rượu nhà tôi thì chắc chắn phải ngon.
Nói đoạn, ông cúi xuống, mở chiếc hộp gỗ lớn quai đồng, lấy ra chiếc chén sứ sạch bóng, và rót một chén rượu đầy đưa cho Vũ :
- Nếm đi. Rồi sẽ biết thế nào là rượu !
Vũ cầm chén rượu, bâng khuâng. Chiếc chén sứ men lam vẽ phượng, miệng bịt đồng này chính là loại chén xưa kia cha ông thường uống rượu. Chiều chiều, sau khi chăm sóc vườn cây, cha ông đặt chiếc khay đồng nhỏ lên sập. Trên khay, một bộ độc tửu, gồm một chén, một bình rượu nhỏ xíu và một đĩa đồ nhắm. Cụ ngồi ngắm trời đất, nhâm nhi trong lúc chờ bữa cơm tối với gia đình.
- Nào, nhắp thử xem tôi nói thật hay nói bỡn!
Ông già chủ quán giục. Vũ đưa chén rượu lên môi. Mùi thơm của nếp cái thấm đượm vào khứu giác trước khi ông đụng lưỡi vào chất nước của thần Lưu Linh. Mùi thơm ấy gọi đến hương thơm ngày mùa, thứ hương thôn dã nồng nàn của cánh đồng thơ ấu, nơi những lượn sóng vàng tràn phủ lên mặt đất, vây quanh những khuôn làng xanh thẫm luỹ tre, nuốt chửng những dòng mương lăn tăn ánh bạc và ca hát rì rào trong gió. Những cơn gió ngày mùa, ngay chúng cũng tẩm đượm hương thơm. Ông uống một ngụm rượu và cất lời khen:
- Tuyệt vời, tôi chưa từng uống loại rượu nào ngon như thế.
Ông lão hỉ hả :

- Tôi biết ngay mà, chưa một ai dám chê thứ rượu này. Chính người làng tôi nấu đấy. Nhưng cả làng cũng chỉ riêng gia đình cụ cử Khái là đạt đến mức sành điệu thôi.
- Ngon thật.
- Bao nhiêu đợt càn đi, quét lại. Hết du kích đến công an bủa vây tịch thu đồ nghề ném xuống sông. Một nửa làng sạt nghiệp. Nhưng số còn lại vẫn sống, sống chui sống lủi nhưng vẫn sống. Thiên hạ còn kẻ muốn uống rượu, người nấu rượu ắt còn.
- Cụ nói thế mà không sợ hay sao ?
- Tôi đã bảo tôi thấy bác là người tử tế tôi mới nói thật. Còn kẻ khác ắt tôi đổi chiều lưỡi. Cũng như thứ rượu này.
Nói tới đấy, ông cụ lại lôi ra một chiếc thúng khác chỉ cho Vũ xem : Bên trong đó là một thùng nhựa cũ được rửa sạch và đựng rượu.
Vũ sửng sốt kêu :
- Chết nỗi, sao cụ lại đựng rượu bằng thứ thùng nhựa này, như thế độc lắm ?
- Người nào của nấy. Với bác tôi mời rượu thượng hạng, uống bằng chén phượng xanh. Với kẻ khác tôi chỉ bán thứ rượu này và uống trong chén mẻ. Cổ nhân dạy ― Người ba đấng, của ba loài.
- Nhưng ...
- Xưa kia khác, thời nay phải khác. Bác không nhận ra rằng cuộc thế đã lật nhào hay sao ? Tôi trưng bày bình đẹp, chén đẹp ra để lũ khốn nạn tố cáo rằng tôi là thành phần nghi vấn, là phần tử chống đối cách mạng à ?
- Vâng, giờ thì tôi hiểu...
Vũ chậm rãi đáp, và một nỗi đau từ từ ngấm vào tâm hồn ông cùng chất rượu :
― Nếu uống chén phượng xanh mà trở thành kẻ bị nghi vấn thì chính cha ta cũng thuộc về những phần tử nghi vấn hay chống đối. May mà ông cụ đã mất trước ngày bị cùm trói bởi cái cuộc cách mạng mà chính đứa con yêu đã dấn thân vào.
Ông uống ngụm rượu cuối cùng, đưa trả chiếc chén cho ông lão. Ông cụ tức khắc cất nó vào chiếc hộp gỗ, bởi lúc đó một người khách mới bước vào.
- Rét quá, bố già ...cho chén rượu.
Người khách xoa tay, nói. Anh ta đứng chứ không ngồi, chiếc mũ đại cán vẫn chụp trên đầu, bộ dạng như kẻ chạy thợ thuê cho công trường hay nhà máy. Chẳng những anh ta xoa hai tay vào nhau lia lịa mà đôi cẳng chân anh ta cũng rung rung liên hồi khiến tấm thân lắc lư một cách kì cục.
Không ngẩng đầu lên, chủ quán đáp :
- Ờ, rét thật.
Vẻ như nhắc lại một điệp khúc. Đoạn ông cụ rút thùng nhựa, rót rượu vào chiếc chén cũ trong đám chén sứt mẻ, đen xì cắn chè.
Khách tợp một hơi cạn, đoạn chìa chiếc chén ra :
- Chưa mùi mẽ gì, cho tôi chén nữa.
- Ồ, rét tháng hai mà rét gớm rét ghê...
Ông lão đế theo và rót chén rượu thứ hai.
Vũ lẳng lặng nhìn họ, và lẳng lặng theo đuổi những suy tư của ông :
― Chúng ta làm cách mạng để giải phóng con người, nhưng rút cuộc cả xã hội chỉ còn là một tấn tuồng thảm hại, trong đó người lương thiện và trung thực chẳng còn đất sống...Kẻ tồn tại được ắt phải gian manh, phản trắc. Hoặc ít nhất, người dân thấp cổ bé họng như ông lão này, phải coi lối sống hai mặt như một thứ áo giáp tuỳ thân. Thời ta còn thiếu niên, con người không xấu xa dường này. Chính xã hội mới đẩy họ xuống dốc.
- Thôi, chào bố già nhé. Mai con ghé qua trả tiền.
Người khách nói to, đoạn đặt chiếc chén rỗng xuống chõng, đi ra.
Vũ chờ cho anh ta đi xa, lên tiếng :
- Khách của cụ toàn uống rượu chịu như thế hay sao ?
- Không phải chịu, mà là quỵt. Nó nói vậy nhưng chẳng bao giờ trả một xu.
- Tại sao vậy ?
- Ồ, rõ ra bác chẳng phải người hay lê la ở quán xá. Vừa thoạt nhìn thấy bác tôi đã đoán rồi. Thằng ấy thời Tây gọi là anh-đi-ca-tơ. Mình không thí cho nó vài chén, nó lại kiếm chuyện bẩm báo với mấy lão ở đồn công an, rách việc.
- Ồ... Vũ buột tiếng kêu. Ông lão đắc ý gặng hỏi :
- Tôi đã bảo bác chẳng phải người quen lê la quán xá. Điều ấy đúng hay không ?

- Cụ đoán chính xác. Tôi vốn chẳng nhiều thời giờ để rong chơi. Hôm nay đau đầu quá nên mới tìm lối đi giải khuây.
- Thế đấy! Đời mà. Ai chẳng có những chuyện đau đầu, đứt ruột.
Ông lão hạ giọng an ủi, và một vài giây sau,chừng như muốn bộc lộ sự cảm thông một cách hiệu nghiệm hơn, ông nói tiếp :
- Bác có nhắp thêm một chén nữa không ? Lần này, tôi đãi.
- Cảm ơn cụ, tôi vốn không phải người mạnh rượu, dù rượu ở đây là tuyệt hảo.
Vũ đáp.
Ngay lúc ấy, ông thấy vợ dắt xe lên hè. Từ xa, ông đã thấy bà xanh xao, và vì trời rét, bà choàng một chiếc khăn len lớn màu lam khiến gương mặt bà càng thêm rầu rĩ. Vũ đứng lên:
- Trời rét thế này, em ra đường làm gì ?
Bà ngước nhìn ông lặng lẽ và trách móc.
Ông lão chủ quán, dường như đoán trước tình cảnh của họ, liền nói :
- Bác gái đưa xe cho bác trai dắt sang bên kia hè. Để ở đấy, tôi bảo đảm không trộm cắp nào dòm ngó nổi.
- Cảm ơn cụ.
Vân trả lời và đưa xe cho chồng. Rồi bà ngồi vào quán, rùng mình liên tục bởi gió lạnh. Chủ quán vồn vã mời :
- Bác dùng một chén vối hãm gừng cho ấm bụng.
- Cảm ơn cụ. Ở đây còn có cả nước vối hãm gừng ?
- Có đủ. Bởi tôi nhiều khách quen. Các bà ấy chỉ chuộng nước vối hãm gừng thôi.
Nói đoạn, ông cụ lại cúi xuống chõng, kéo ra một chiếc hộp khác, trong đó đựng những chiếc chén gốm nâu sậm, điểm hoa văn màu vàng ốc. Lúc ấy , Vũ đã quay trở lại, ngạc nhiên vì thấy cụ chủ này giống một nhà ảo thuật với đủ loại thùng, hộp giấu dưới gầm chiếc chõng tre. Ông cười :
- Cụ còn có bao nhiêu thứ hộp nữa để đựng các loại chén khác nhau ?
- Tôi đã nói với bác rồi : Quý nhân phải xứng với quý vật. Người đẹp thế kia ai nỡ bán nước trong chén sành ?
- Ồ, cụ quả thật là người lịch lãm.
- Ông quá lời khen. Tôi chỉ là kẻ chân đất, được đẻ vãi trên đê Yên phụ. Cha mẹ tôi không giầu, nhưng cũng đủ tiền cho tôi học qua xép-ti-phi-ca. Song le người ta đã bảo. Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng an.
Ông cụ cao giọng gần như ngâm nga, gương mặt đầy kiêu hãnh. Vân cất lời :
- Chắc thời trẻ bác phải là người đa tài lắm.
- Ồ, không dám. Bác quá khen. Nhưng quả tình là thời tráng niên tôi cũng chẳng đến nỗi nào....Pas mal.
Ông cụ lại nói tiếng Pháp khiến cho cả hai vợ chồng Vũ kinh ngạc. Vũ mỉm cười :
- Cụ vẫn nhớ được tiếng Pháp ? Thật kì lạ, những người cùng thời với cụ có bao nhiêu chữ nghĩa đều đã giả thầy.
- Già nửa thế kỉ rồi còn gì, óc đã cùn, lưỡi đã nhụt...Nhưng vẫn còn vài chữ lõm bõm sót trong đầu. Giống như mầm rau muống ruộng tháng giêng...Chả vì họ vẫn đe doạ tiếng Pháp là ngôn ngữ của kẻ thù, nên tôi chơi ngông, thi thoảng nói dăm ba tiếng, xem họ làm gì tôi ?
- Cụ không sợ người ta mách lẻo hay sao ?
- Mách lẻo mấy bình rượu thì tôi còn phiền chứ mách lẻo mấy cái tiếng Tây giả cầy này thì tôi chẳng coi ra gì. Tôi đâu phải quan chức nhà nước mà sợ liên luỵ. Đã là thằng đít đen ngồi bán nước ở vỉa hè, hạng lê dân xếp ở tận cùng đáy vực rồi, còn chỗ nào thấp hơn mà lo rơi xuống ?
Ngừng lời, ông cụ lại mỉm cười, nụ cười dân ven đô.
Rồi cả ba người bất đều im lặng, mỗi người theo đuổi ý nghĩ của riêng mình.
Lúc đó, một người đàn bà rất trẻ nhưng đã to béo, da đỏ au au bước vào. Chị ta đon đả cất tiếng chào mọi người rồi quay lại hỏi chủ quán :
- Ông lão dọn hàng đều như vắt chanh. Trời rét thế này sao không quấn chăn mà ngủ cho sướng ?
- Ngủ được như chúng mày hoạ có là trai tơ, chẳng còn là ông lão.
- Là ông lão nhưng còn khối bà lão dòm ngó đấy. Chỉ nội làng Yên phụ tính sơ sơ cũng đã có bẩy bà.
- Thui cái mồm mày đi, quen thói nói láo.
- Ông thui mồm cháu, lấy ai hót cho ông vui ? Lấy ai mang bánh dầy, xôi nén của mấy bà nạ dòng đang cố sức ve ông cho ông xơi hàng ngày ?
Nói xong, người đàn bà cười ré lên tinh quái khiến cả ông chủ quán lẫn vợ chồng Vũ cũng phải cười theo. Những múi thịt rung rinh trên tấm thân vạm vỡ, mặt đỏ tưng bừng trong một nỗi vui sướng mộc mạc, người đàn bà khiến cho ngôi quán nhỏ ấm lên. Dứt cơn cười, chị ta rút ra chiếc khăn tay lau mồ hôi lấm tấm trên trán và nói :
- Con đi đây. Chiều thằng bé ghé qua ông cho cháu ăn cơm với.
- Cứ yên tâm mà đi, không phải dặn.
Ông cụ mắng.
Người phụ nữ trẻ lại nhoẻn miệng cười :
- Dạo này ông lão hách ghê. Mới hai tuần vắng ― các nàng hỏi han đã đâm ra cấm cảu.
Nói xong, không chờ cho ông cụ phản ứng, chị ta quay lại chào:
- Hai bác ở chơi nhé. Em xin kiếu.
Rồi, cũng không chờ họ đáp lời chị ta te tái chạy sang hè bên kia ,nhấc càng chiếc xe bò rau muống đẩy xuống lòng đường. Sau khi đã quay xe ngược về phía Quảng bá, chị ta phăm phăm kéo xe đi.
Vũ nhìn theo :
- Người phụ nữ này khoẻ thật, và chắc hẳn là người rất tốt bụng.
Ông lão đáp :
- Trông mặt đã bắt hình dong. Tươi cười như thế nhưng goá chồng đúng năm hai mươi tuổi. Một mình nuôi ba đứa con. Chẳng việc gì từ nan. Làm quần quật như trâu từ lúc tinh mơ cho tới lúc tối đèn. Vậy mà chẳng bao giờ hé miệng thở than một tiếng.
- Vì sao chồng chị ta chết trẻ như vậy ?
- Cả hai đứa đều là người làng tôi, chơi với nhau từ thuở mặc quần thủng đít, lớn lên vừa đủ mười tám tuổi là kết hôn. Đẻ sòn sòn năm một. Đến khi con vợ mang thai đứa thứ ba thì thằng chồng nhập ngũ. Chưa kịp đặt chân vào chiến trường, vừa vượt qua biên giới Lào-Việt đã bị bom dập chết rồi.
Ông lão ngừng lời, cúi xuống tự rót cho mình một chén trà mạn và uống ừng ực như muốn nuốt trôi một nỗi niềm.
Vũ im lặng hồi nhớ tấm Pan-nô treo trên ngã ba đường Quảng bá :
― Anh Cả có lý khi cho rằng cuộc chiến tranh này rồi sẽ là sự hối tiếc lớn nhất của lịch sử. Rằng nỗi thất bại cay đắng nhất trong cuộc đời ông cụ là không thể ngăn cản nó. Đối với ông cụ, cuộc chiến tranh này hoàn toàn giống như cuộc trảm quyết dưới hình thức phanh thây. Nó chính là bốn cỗ xe ngựa oan nghiệt của định mệnh, và dân tộc này là kẻ bị phân thây.
Bỗng nhiên, tiếng còi xe vang lên dập dồn, inh ỏi ngoài phố. Vũ bước khỏi quán, đưa mắt nhìn. Hoá ra một đoàn xe quân sự đang bị cản lại vì đám xe thồ chở vôi sống dựng kềnh càng ngay trên lòng đường. Những người phu thồ hẳn đang dừng ở quán chè nào đó làm ngụm rượu cho ấm bụng, nghe tiếng còi ô-tô liền vội vã bước ra đẩy xe vôi lên vỉa hè. Giây lát sau, đoàn xe được giải phóng ầm ầm phóng qua, xe nào xe nấy trùm kín dù nguỵ trang trên lần mui bạt.
Ông lão chủ quán đưa mắt nhìn theo làn bụi tung bay trên đường phố, bảo vợ chồng Vũ :
- Hai bác chẳng thể ngồi đây lâu, nơi quán xá ồn ã ô hợp lắm. Chỉ lát nữa đám thợ xây, thợ mộc sẽ ghé vào. Tốt nhất là tôi dọn cho hai bác ấm chè nóng với cái hoả lò vào gian nhà sau. Tôi chẳng nhiều tiền nhưng nhà đất thì khá rộng.
- Cụ đúng là người vừa giầu tình vừa chu đáo. Chúng tôi chẳng biết nói sao cho đủ lời cảm ơn.
- Không cần khách khí. Tôi cũng chẳng mấy khi gặp được người đáng để nói những lời tự ruột gan mình.
Ông lão đứng phắt dậy với vẻ nhanh nhẹn ngoài lứa tuổi. Sau khi chuẩn bị khay chè mạn, ông cụ đưa cặp khách quý ra phía sau :
- Bố mẹ tôi để cho tôi cả mảnh vườn trên ngàn mét đất, tưởng tôi con đàn cháu đống, sau này sẽ dựng thêm nhà. Các cụ chẳng ngờ tôi có số độc thân, nội mấy gian nhà các cụ để lại đã mệt công chăm sóc.
Ông giải thích, khi đưa họ đi qua ba gian nhà trên , rồi qua một mảnh sân lát gạch lá nem tới ba gian nhà sau, quay thẳng ra hồ Tây. Đây chỉ là nơi uống trà hay ngắm cảnh. Gian chính giữa đặt bể thả cá vàng, bên trên có hòn non bộ lẫn cụm si cảnh.
- Ồ, sân rộng nhường kia sao cụ chẳng đặt bể cá bên ngoài ?
Vũ cất tiếng.
Ông cụ đáp :
- Tôi biết đặt bể cá ngoài sân là thuận mắt, nhưng hàng xóm có con mèo ma. Bất cứ bể cá vàng nhà ai đặt ngoài sân nó cũng lẻm sạch.
Vũ chưa từng nghe chuyện mèo bắt cá cảnh bao giờ, nhưng ông không dám hỏi thêm. Cụ chủ quán đặt khay trà lên chiếc bàn thấp, kê giữa hai chiếc ghế bành :
- Các bác ngồi đây, có thể vừa ngắm cảnh hồ, vừa trò chuyện. Ở đây kín gió, nhưng tôi sẽ mang cái hoả lò nhỏ vào vì trời rét. Ngoài quán, tôi còn chiếc lớn hơn để đun nước pha trà.
Ông cụ quay đi rồi lát sau mang chiếc hoả lò đỏ rực than đặt trước mặt họ :
- Chừng hai tiếng nữa, có đứa bán rong bánh dầy, xôi nén, các bác có cần tôi gọi nó vào đây.
- Dạ, cảm ơn cụ. Như thế này đã là quá đầy đủ. Lát nữa, nếu đói bụng chúng tôi sẽ cầu cứu.
Vũ đáp.
Ông cụ vừa mỉm cười một cách toại nguyện, vừa giơ tay gãi chòm râu dài tới ngực. Chờ cụ đi khuất, Vũ bảo vợ :
- Bây giờ, là chuyện của chúng ta. Một khung cảnh thơ mộng như thế này mà phải nói những chuyện buồn, kể cũng là đáng tiếc.
Vân im lặng xoay sở trong chiếc ghế bành quá rộng. Sau rốt, tìm được chiếc chăn nhỏ cuộn lại để lót lưng, bà dựng nó áp sát vào lưng ghế, rồi ngồi tựa lên đó. Vũ đưa mắt nhìn những vết thâm hiện lên dưới mắt vợ :
- Có chuyện gì khẩn cấp để em tìm anh vào lúc trời rét mướt thế này ?
- Em là vợ anh, thế chưa đủ hay sao ?..
Bà hỏi vặn lại, giọng thách thức.
Ông không trả lời, quay nhìn ra hồ. Từ cuộc nói chuyện ở bãi ngô ven sông Hồng trở lại, họ không còn nằm chung giường. Ông dọn xuống tầng dưới, làm việc trong phòng khách và ngủ trong phòng trẻ con vì chúng đã quay lại nơi sơ tán. Nhưng một lần, nhìn thấy ông nằm trên chiếc giường của Trung chứ không phải giường của con trai họ, bà đã hét lên :
― Em biết vì sao anh phải nằm trong chiếc giường ấy. Anh có cách giải thích nào khác khi một người cha không chọn hơi ấm của chính con mình ?
Ông đáp lạnh lùng:
― Vì nó chẳng có hơi ấm mà chỉ có mùi hôi.
Bà không thể cãi vì Vinh mắc bệnh hôi nách, thứ bệnh di truyền từ bà Tuyết Bông tới cậu Tùng rồi đến con trai họ. Không những hôi nách mà còn mồ hôi dầu. Cứ qua một ngày không tắm là các nếp áo đều khét, bết đen bụi bẩn. Tuy nhiên, để tránh những cơn ghen bệnh hoạn của bà, ông cho người đem về nhà một chiếc giường bạt gấp. Từ đó, đêm đêm ông ngủ trong góc phòng khách, với tấm màn xanh cũ quây lại hình thước thợ che chiếc giường tạm bợ. Như thế, chỗ ngủ của ông sơ sài như nơi qua đêm của một thứ khách từ quê ra, hoặc của một gã lính nghỉ phép đột xuất.
Còn lại một mình, bà đã treo tấm màn đăng-ten đẹp nhất với những hình thêu Uy-kơ-ren nổi tiếng thay cho tấm màn xanh. Bà cho thay chiếc đèn cũ bằng chùm đèn lộng lẫy nhất gửi mua ở Mạc-tư-khoa. Bà tậu một bộ sa-lông giống hệt sa-lông trong phòng khách sứ quán Liên-xô. Bà cũng cho người mang về chiếc Ra-đi-ô hiệu Ri-gông-đa, với những đĩa nhạc của giới sành điệu. Rồi bà sắm một chiếc tủ kính mới, để trưng bày các loại ly cốc pha-lê Bô-hêm-me, các loại tách chén sứ Tàu, men mỏng như giấy lụa, có thể nhìn thấu chất nước đựng bên trong. Đối diện với chiếc tủ ấy là một búp-phê đồ sộ, trong đó bày các loại bánh kẹo lẫn các loại rượu nước ngoài, những thứ hàng được xách tay từ Mạc-tư-khoa, Pra-ha hay Bou-đa-pet, nơi chốn đáng thèm muốn nhất của đám nhân viên bộ ngoại giao, và là đồ xa xỉ tuyệt đối bất khả hình dung với mấy chục triệu dân đen đang hàng ngày xếp hàng đong gạo mốc. Căn phòng ngủ của bà không đủ sức chứa quá nhiều thứ, bà lấn chiếm luôn căn buồng làm việc cũ của ông, bằng cách cho thợ đục rộng gấp đôi khuôn cửa, thay cánh cửa gỗ lim bằng tấm bình phong mặt đá. Sau cuộc cách mạng ấy, căn phòng ngủ của bà không còn là nơi ngủ mà đã thành phòng khách lộng lẫy, sáng trưng, đầy vẻ mời mọc. Đêm đêm, bà bật ngọn đèn chùm ba tầng, thứ đèn chỉ dành cho đại sảnh, để ngắm bóng mình phản chiếu trên những ô cửa kính. Hoặc bà mở hết cỡ những đĩa nhạc, rồi nằm lên giường bịt tai lại cho khỏi đứt màng nhĩ. Khi thấy những ô cửa sổ hàng xóm lần lượt mở ra, và những cái đầu thò ra khỏi các ô cửa đó nhìn về phía căn nhà của bà với nỗi căm ghét không che đậy, bà lại sợ hãi tắt vội đi. Tất thảy những gì bà làm để khiêu khích ông đều vô hiệu. Có lẽ tình yêu của ông dành cho bà đã chết. Nó chết đuối ở sông Hồng. Giờ đây nó chỉ còn là một thây ma thối rữa dưới đáy phù sa. Nhưng ngược lại, bà không thể không yêu ông, nói cho đúng hơn, bà không ngừng yêu ông bất chấp mọi sự ngang trái đã xảy ra giữa hai người. Có thể là những ngang trái ấy còn khiến bà yêu ông hơn nữa, cảm thấy thiếu ông nhiều hơn nữa. Sự hung bạo và khốc liệt của thứ ái tình này là nỗi bất hạnh. Bởi ở tuổi xế chiều lẽ ra người ta phải sống với nhau bằng một mối tình êm ả, xe kết từ những tháng năm quá vãng.
Nhiều lần, bà tự nhủ :
― Ta đã có tất thảy. Chỉ còn một việc ta chưa dám làm mà thôi. Hãy thử xem sao.
Nhưng mới chỉ nghĩ đến điều ấy, mặt bà đã nóng bừng vì hổ thẹn. Cái điều bà muốn thử, chính là cung cách mà bà thường cao giọng phỉ nhổ, ấy là lối sống của con mẹ Tư hàng cá, nổi danh không chỉ những trong đám quan lại mà còn khắp các phố phường.
Tuy nhiên, bà không ngờ rằng ông, thờ ơ với tất thảy những trò bà đã làm, lại chính là người đầu tiên nói thẳng ra sự thật. Một bữa cơm trưa, họ lẳng lặng ngồi ăn, mỗi người nhìn đi một hướng, như tất thảy những bữa cơm từ ngày họ ly thân, ông bất chợt quay lại bảo bà :
- Em đã làm đủ thứ...Còn khâu cuối cùng, sao không hoàn thành cho trọn bộ ?...
- Anh muốn nói gì ?
- Anh không phải kẻ tò mò, nhưng vì còn bỏ sót một cuốn sách trong ngăn kéo đầu giường nên sáng nay bắt buộc phải trèo lên lấy. Anh thấy em đã có một phòng khách giống hệt phòng khách của con mẹ Tư hàng cá. Vậy còn việc cuối cùng, sao không thử nốt ?
- Anh muốn sỉ nhục em hay sao ?
Bà hét lên.
Ông đáp thản nhiên :
- Trên đời này chẳng ai làm nhục nổi ai. Chỉ có con người tự bôi nhọ bản thân họ mà thôi.
Bà không thể nói thêm, nhưng con tim công phẫn :
« Ai cũng chỉ có một cuộc đời. Tội gì không hưởng. Chỉ có những kẻ ngu ngốc hoặc thui chột điều gì đó nơi bản thân mới không tìm cách sống. »
Rồi sau đó, bà tự nhủ :
« Ta sẽ làm ! Ta sẽ làm ! lúc ấy chớ có kêu than... »
Và bà hình dung căn phòng khách lộng lẫy của mình sẽ dập dìu lũ trai tơ, sẽ vang lừng tiếng nhạc, rượu đỏ và sâm-banh sẽ tuôn như suối. Cuộc hành lạc không chỉ còn trong phim ảnh mà sẽ xảy ra dưới ánh đèn chùm.
Những cuộc trả thù tưởng tượng như thế chỉ sống được đôi ba khoảnh khắc, bởi sau đó, bà tự nhìn thấy mình trong vai người đàn bà xấu xí sa đoạ kia, và hình ảnh ấy khiến bà buồn nôn. Bà quay trở lại địa ngục của bà, một tình yêu bất khả vãn hồi và bất khả quên lãng.
- Em uống trà đi cho ấm.
Thấy vợ lặng thinh, Vũ rót nước đưa cho Vân. Bà đón chén nước trên tay ông, chẳng nói lời cảm ơn cũng chẳng chối từ, đưa lên miệng uống từng ngụm lớn. Ông tự rót cho mình chén thứ hai, rồi cũng uống trong lặng lẽ. Trước mặt họ, hồ Tây trải một màu xám bạc. Không mảy may bóng du thuyền. Chỉ có đám thuyền chài đang bập bềnh trên làn nước, trong cuộc giành giật khắc nghiệt với mưu sinh. Gió dữ, những vàng lưới vừa tung lên gió đã thổi dạt vào lòng thuyền, khiến những con thuyền chao đảo, mũi chúi xuống như sắp bị nhấn chìm. Người ta lái thuyền lượn theo vòng tròn để gỡ lưới và tránh gió. Cứ như thế, cuộc sống tiếp tục. Vũ ngắm nhìn cảnh tượng ấy, thầm hỏi :
― Nếu như ta sống cuộc đời của người dân chài kia, liệu ta có sung sướng, hoặc ít ra có được thanh thản hơn không ?
Nhưng những câu hỏi như thế chẳng bao giờ tìm được lời giải, nên ông lại tiếp tục uống cạn chén trà và nhận thấy Vân đang nhìn mình:
- Nước trà đổ vào ống tay áo anh rồi kìa. Vải ấy không tẩy được đâu. Tẩy là rách.
- Xin lỗi...Anh không để ý.
Ông đáp, và nói thêm :
- Em quả là người chu tất...về phương diện vật chất.
- Còn về phương diện tinh thần, em là con số không, là kẻ tồi bại. Có phải đó là điều anh muốn nói hay không ?
Bà vặn lại, quắc mắt nhìn ông với tư thế của kẻ sẵn sàng lao vào cuộc đấu. Nhưng trong lúc ấy, mặt bà lại tái nhợt và tim đập liên hồi. Ông nhìn bà, với một chút bỡ ngỡ, một chút ngại ngần, và không tránh khỏi, một chút thương hại :
- Anh có cần nhắc lại câu nói chiều qua không ? Chiều qua, chính em cũng có mặt lúc anh đang nói chuyện trong phòng khách. Ông cụ chúc mừng anh vì có được người vợ như em, vừa đẹp người vừa đẹp nết. Em biết rằng từ hồi trên chiến khu cho tới tận lúc này, ông cụ vẫn là người ngưỡng mộ em một cách thành thực.
Bà đỏ mặt, không đáp.
Ông nhắc lại :
- Hay em nghĩ rằng ông cụ làm ngoại giao ?
Bà im lặng.
Ông tiếp :
- Em không dám trả lời vì em biết rằng điều ông cụ nói là hoàn toàn thật bụng. Danh hiệu ― Hoa khôi chiến khu― lẫn ― Mỹ nữ Hà thành― chính ông cụ đặt cho em chứ không phải ai khác. Điều ấy đúng hay sai ?
Bà không đáp.
Ông cười :
- Hôm qua, anh nhắc lại lời khen ngợi ấy vì chính ông cụ yêu cầu. Ông cụ gởi lời thăm em.
- Nhưng anh đã nhắc lại một cách mỉa mai. Anh biết rõ điều đó.
Bà vùng lên phản ứng sau một hồi lâu lặng lẽ. Và ông mỉm cười :
- Anh đã nói rồi, chẳng ai có thể làm nhục được con người trừ bản thân họ. Cũng chẳng ai mỉa mai được kẻ khác nếu bản thân sự thật không bao hàm một thứ mỉa mai.
Mặt bà trắng bệch. Rồi sau khoảnh khắc dùng dằng, bà cúi đầu nói lí nhí :

- Em cũng biết vậy. Vì thế em mới lên đây tìm anh.
- A...a...ra thế...
Ông buông tiếng kêu, một tiếng kêu hững hờ, gần như vô nghĩa. Trong lúc ấy, mắt ông vẫn không ngừng chăm chú theo rõi đám thuyền chài, mỗi lúc mỗi lướt ra xa, trên mặt nước lô nhô sóng bạc.
― Anh ấy chẳng còn đoái hoài đến ta. Anh ấy không còn yêu ta nữa, dù đôi chút.
Bà thầm nghĩ, và trong cơn tuyệt vọng, bà bất thần hét lên :
- Anh là người chồng tồi tệ. Tại sao anh không quay lại nhìn em ? Ít nhất em vẫn đang ngồi trước mặt anh, đang nói chuyện với anh. Một thứ lịch sự cỏn con cũng chẳng còn.
- A...ra vậy...
Ông ngạc nhiên quay lại nhìn bà :
- Nào, bây giờ anh quay lại nhìn em, anh cố gắng lịch sự cho vừa ý em và cố bắt chước một người thanh nhã...Như vậy đã được chưa ?
Bà không trả lời. Và ông nói tiếp :
-Giờ anh đang chăm chú nghe em. Em bắt đầu chứ ?
- Anh không thể bỏ được kiểu nói như vậy hay sao ?
- Chính anh cũng không hiểu mình bắt đầu lối nói như vậy từ lúc nào. Nhưng có lẽ nó đã trở thành thói quen khó sửa.
- Anh Vũ, chúng ta đã từng sống với nhau vô cùng hạnh phúc. Anh không tiếc những ngày ấy hay sao ?
- Anh tiếc vô cùng, nếu em muốn biết sự thật. Anh tiếc và anh khổ tâm nhiều gấp bội phần những gì em có thể tưởng tượng. Nhưng anh không thuộc loại người có thể giả vờ quên, giả vờ mù và giả vờ điếc. Đấy có lẽ chính là đầu mối mọi sự bất hạnh dưới mái nhà mình.
- Em vẫn luôn luôn yêu anh. Nếu không, mọi sự đã khác.
- Anh biết. Cảm ơn em.
Ông bất giác cất tiếng cười :
- Nhưng giờ đây, em có thể làm tất thảy mọi điều, kể cả rập khuôn lối sống của con mẹ Tư bán cá. Anh không can thiệp. Em có quyền tự do hành động theo sở thích...
- Anh không chịu hiểu sự thật. Anh không thay đổi, dù đã gần nửa thế kỉ trôi qua.
- Sự thật nào ?
- Sự thật là anh luôn luôn nhìn cuộc sống theo lối của riêng anh, chỉ riêng anh thôi. Nhưng cuộc sống vận hành theo con đường của chính nó, và vì thế lúc nào anh cũng là người phải hứng mũi chịu sào, lúc nào anh cũng phải đứng nơi đầu sông, cửa bão.
- Anh rất tiếc, nhưng con người anh là do bố mẹ anh sinh thành, tu dưỡng. Khi gặp em, anh đã thành niên, anh không thể thay đổi cho vừa khẩu vị của em.
- Bộ máy nhà nước này có vài trăm người ngang cấp với anh. Chẳng ai phải gánh chịu những nhọc nhằn thua thiệt như anh.
- Em có thể tự giải phóng em khỏi những ràng trói với anh. Em đủ tài lập lại một cuộc sống mới.
- Nhưng mà em yêu anh.
Bà lại hét lên, nước mắt lưng tròng :
- Tại sao ? Tại sao anh không chịu hiểu cái điều đơn giản ấy ?
Vũ im lặng. Một câu hỏi len lỏi trong đầu ông :
― Khi người đàn bà yêu, họ tin rằng họ đủ quyền làm mọi sự, kể cả những trò rồ dại nhất, phi đạo lý nhất. Tất thảy đều nhân danh tình yêu. Liệu đấy có thật sự là tình yêu hay chỉ là cuộc tìm kiếm những thoả mãn quyền năng tinh thần và sự lấp đầy các khát khao thể xác bằng phương tiện được chọn lựa ? Tình yêu, có lẽ là danh từ hàm hồ nhất, bị lạm dụng nhiều nhất và dung chứa nhiều ẩn số nhất trong từ điển của nhân loại.
Vân khóc. Bà rút khăn tay xì mũi trong lúc ông kiên nhẫn xoay chiếc chén rỗng trong lòng tay. Chỉ còn tiếng gió hú trên mặt hồ. Mỗi cơn gió quạt, chiếc lò than lại hồng rực lên, nổ lép bép. Những viên than quả bàng cháy đỏ, gần như trong suốt. Hơi ấm lan toả, vây quanh họ. Vũ cúi nhìn chiếc hoả lò, chờ đợi. Nhưng vì vợ ông khóc khá lâu nên ông tự rót cho mình chén trà nữa.
- Em đã nguôi cơn chưa ?
- ...
- Chúng ta đã già, không cần la hét như vậy. Anh không muốn cụ chủ quán cho rằng chúng ta là những kẻ đầu óc bất thường.
- Em chỉ muốn một điều thôi. Điều duy nhất em muốn là chúng ta hãy thương yêu nhau như ngày xưa. Như thời xưa. Như chúng ta đã từng sống.
- Anh cũng muốn vậy. Nhưng thời gian không quay trở lại. Thời gian có quy luật riêng của nó, cũng như em vừa nói, cuộc đời chỉ đi trên con đường tự nó vạch lối mà thôi.
- Em có thể làm mọi điều anh muốn, miễn là anh yêu em như xưa.

- Cảm ơn...Nhưng anh tin chắc rằng em chỉ có thể làm mọi điều theo ý em, và vì em...
- Anh muốn nói tới căn phòng khách tầng trên.?..Em có thể cho thợ hốt hết mọi thứ đổ ra bãi rác ngay ngày mai...
- Điều ấy chỉ gây thêm tai tiếng. Em từng biết thiên hạ nhìn những người đàn bà kiểu đó ra sao .
- Vậy anh muốn em làm gì ?
- Anh không thể muốn, vì điều anh muốn với em là bất khả.
- Bất khả là vì anh luôn luôn nhìn sự vật ngược chiều với tất thảy mọi người. Hồi trên chiến khu cũng đã như vậy. Điều mà tất cả mọi người cho là đương nhiên, anh quyết liệt phản đối. Điều mà mọi người cho là bất khả, anh tìm cách làm cho bằng được.
- Anh chẳng hiểu em muốn nói gì ? Thực tình là chúng ta gần như không còn nói một ngôn ngữ chung. Kì quái! Em thử cắt nghĩa xem sao ?
- Anh đừng vờ vĩnh.
Bà lại bắt đầu to tiếng. Ông quay nhìn về phía sau để bà dè chừng cụ chủ quán có thể nghe rõ cuộc cãi vã của họ. Bà ngừng lời, uống nốt chén trà nguội để lấy lại bình tĩnh. Đoạn bà tiếp tục :
- Hồi trên chiến khu mọi người đều hài lòng với việc chọn cô Minh Thu cho chủ tịch. Một mình anh phản đối quyết liệt cho đến phút cuối cùng. Một mình anh bỏ phiếu bầu cô Thanh Tú. Anh còn nhớ cuộc đi tuyển quân dưới mấy tỉnh đồng bằng hay không ? Chính anh Sáu đã ra chỉ thị ấy để mọi sự trót lọt.
- Anh nhớ. Ngay hồi ấy anh đã hiểu rằng người ta cố tình đẩy anh đi vắng để làm mọi điều họ muốn.
- Nhưng đó là việc riêng của tổ chức, việc của ông cụ. Đâu phải phận sự của anh ?
Ông đưa mắt nhìn vợ, như nhìn một người đàn bà xa lạ đến từ xứ sở nào đó, từ sa mạc Sa-ha-ra hay quần đảo Ăng-ti-bê chẳng hạn. Và bà đỏ mặt lên trước cái nhìn của ông. Bà lặp lại, vẻ ít tự tin hơn :
- Đấy là việc của tổ chức. Em nói như vậy là sai hay sao ?
Ông chậm rãi hỏi :
- Này Vân, nếu anh chột mắt, anh vẩu răng, anh lùn một thước như những chú lùn hề xiếc. Liệu em có yêu anh, có lấy anh không ?
Bà im lặng.
Ông nhìn bà chăm chú và hỏi tiếp :
- Hoặc nếu anh mắc chứng bạch tạng, anh bị bệnh còi xương, anh có những bàn tay bàn chân sáu ngón, liệu em có lấy anh không ?
Bà không trả lời, quay mặt nhìn ra hồ Tây.
Ông tiếp tục cuộc dồn đuổi :
- Anh vẫn nhớ kỉ niệm ngày đầu. Khi anh gặp em, cô nữ sinh phố huyện đứng tựa lưng vào cửa, đôi mắt mơ màng, cuốn ―Thằng gù ở nhà thờ Đức bà trong tay. Có lẽ anh đã yêu em khởi từ hình ảnh đó. Giờ anh hỏi, nếu anh chính là thằng gù Qua-si-mô-đô, liệu người đẹp Tố Vân có bằng lòng làm vợ anh hay không ?
Bà tiếp tục nhìn ra hồ, không đáp.
Và ông hỏi tiếp :
- Những điều em không muốn, tại sao em bắt người khác phải chịu ? Tại sao em áp đặt sở thích độc ác của mình lên một người tử tế với em như ông cụ ? Phải chăng chính em đã gợi ý cho bà hội trưởng tiến dẫn cô Minh Thu ôm chăn chiếu đến nhà sàn ?
Vân quay lại, nhìn chồng, và trả lời, với vẻ hồn nhiên xen lẫn ngạc nhiên :
- Bởi anh Sáu mời em lên, hỏi ý kiến. Bởi mọi người đều đồng tình với gợi ý của em. Bởi ông cụ chẳng phải là người bình thường. Anh không nhận ra điều ấy hay sao ?
- Ông cụ là chủ tịch nước. Ông cụ là linh hồn của cuộc kháng chiến. Còn gì nữa ?...
- Ông cụ là cha già của dân tộc...Anh đã quên danh vị ấy.
- Thì sao ?
- Anh hỏi ngớ ngẩn. Đã là cha già dân tộc, ông cụ không thể sống như những người bình thường...Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt chứ ? Anh là người học hành thông minh như thế, sao cái điều cỏn con cũng không hiểu nổi ? Anh Sáu và bao nhiêu người khác nữa đã từng hỏi em như vậy ?
- A...a...a...
- A ...a...a...a...a...a...a...
Tiếng sấm nổ bùng trong đầu ông. Không chỉ một hồi mà là liên hồi. Những chuỗi sấm rền vang như những hồi sấm định mệnh nổ ngày tận thế. Vũ có cảm giác rằng hàng nghìn chuỗi mìn dây đã được gài đặt trong óc não ông, giờ đây, khi trái mìn đầu tiên bùng nổ, chính tiếng nổ của nó kích thích trái mìn thứ hai. Cứ như thế phản ứng dây chuyền tiếp tục.
Trong cơn giông, những tia sét bao giờ cũng bừng lên trước khi tiếng sấm xuất hiện. Phản ứng ấy xảy ra đối với ông, theo chiều ngược lại. Những tiếng sấm nổ ra trước, sau đó mới tới những chùm lửa điện sáng loà. Bầu trời quá vãng được rọi chiếu bởi những làn ánh sáng chói chang. Tất thảy sự vật hiện lên rõ ràng đến từng nét cắt, như núi non hiện lên nơi chân trời trong vắt mùa thu, như vườn tược hiện ra khi sương mù bị quét sạch dưới cái nắng chói chang tháng sáu.
― Giờ ta mới hiểu thứ lô-gic của người đời , đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt. Đã được phong thánh, đã là cha già dân tộc thì không được quyền hưởng hạnh phúc bình thường. Vì thế mà họ ấn cho ông cụ cô gái già quá lứa, người đã được kêu gọi gả chồng khắp lượt, như thể kêu gọi cuộc quyên góp làm từ thiện, từ thành đoàn đến các hội đoàn khác mà không ai chịu rước đi cho. Cô gái già, ba mươi tám cân, ba mươi tư tuổi.
Tại sao họ không nghĩ rằng ông cụ chính là một quân vương ? Một vị vua thời xưa có quyền được thoả mãn mọi nhu cầu thân xác, thậm chí đến mức tàn bạo và phi lý. Nếu ông cụ có một người vợ trẻ, đó cũng chỉ là một hưởng thụ quá đỗi khiêm nhường ?
Tại sao họ không nghĩ rằng nếu ông cụ được hưởng một chút hạnh phúc cỏn con thì thể chất lẫn tâm hồn ông cụ càng hoàn hảo và như thế, có thể đóng góp nhiều hơn cho dân tộc ?
Tại sao họ có thể tự cho mình quyền hành hạ một cách biển lận con người mà họ phải núp sau lưng để tìm được sự trợ giúp tinh thần cũng như sự thụ đắc quyền lực ?
― Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt...„
Chính trong cái lô-gic này biểu thị sở thích độc ác của nhân loại. Một sở thích ẩn chứa tính đố kị lẫn thói ghen tuông. „
Một nghi vấn chợt đến. Ông quay lại nhìn vào mắt bà :
- Giờ anh đã hiểu mọi sự. Ngày ấy anh đã tin một cách thành thực rằng em cũng xuống núi làm công tác địch vận trong lúc anh vắng mặt trên chiến khu. Giờ anh biết rằng em không đi đâu hết. Em đã ở lại để hoàn tất vai trò cố vấn, để dồn bằng được cô Minh Thu đến ngôi nhà sàn của chủ tịch. Bởi nếu em không chớp thời cơ để đặt mọi người vào thế đã rồi, ắt thành đoàn sẽ cử cô Thanh Tú sang ?
Bà không đáp, nhưng cái nhìn của bà thú nhận sự thật.
Ông hỏi tiếp :
- Em đã tập thói nói dối từ bao giờ ?
Bà quay mặt đi.
Ông hỏi tiếp :
- Tổng kết lại, cuộc đời em có bao nhiêu lần dối trá ? Bao nhiêu lần kể từ ngày em khôn lớn ? Bao nhiêu lần kể từ ngày chúng ta thành vợ thành chồng ?
- ....
- Bây giờ anh mới hiểu rằng anh chính là một thằng ngu ngốc. Nhưng chưa hết. Sau anh, còn một người khác nữa cũng thậm ngu. Chỉ thậm ngu mới có thể đem lòng tin yêu và ngưỡng mộ một kẻ nhẫn tâm với mình như vậy. Ngay tối nay, anh sẽ gọi điện cho ông cụ, nói trắng ra rằng : Anh Cả ơi, anh chớ tưởng anh là người khôn ngoan, chín chắn. Anh không biết rằng anh chính là một thằng ngu, đại đại ngu.
Vân cúi mặt xuống, hai gò má trắng xanh.
Rồi những giọt nước mắt lần lượt chảy dài trên gương mặt đẹp một cách tàn héo của bà. Những nếp nhăn hiện lên sau đuôi mắt. Những chuỗi nếp nhăn ngắn hơn nhưng đậm hơn xếp hàng quanh làn môi xưa kia hồng thắm nay tái nhợt dưới lớp son màu mận già.
Còn ông, ông khép chặt hai vạt áo vì rõ ràng một cơn xốc tinh thần kéo theo cả một cơn đau thể chất. Bỗng nhiên, cả vùng ngực lẫn thượng vị của ông đau quặn từng cơn. Ôm bụng, ông nhớ lại gương mặt bà mẹ , thời ông vừa phải lòng Vân. Dạo ấy, cha ông có vẻ thản nhiên hơn nhưng mẹ ông tỏ ra nhớn nhác thật sự. Ông thường bắt gặp hai người thì thào to nhỏ. Những cuộc trò chuyện ấy tắt ngấm khi ông xuất hiện. Rồi vài tháng sau, mẹ ông mới lựa lời thủ thỉ :
― Con ơi, người xưa dạy: Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống. Cô Tố Vân tuy dung nhan xinh đẹp, vẻ ngoài giống ông giáo Lương nhưng chưa biết được tâm tính sẽ ra sao? Việc dạy dỗ con cái trong nhà phần lớn do người làm mẹ. Bậc làm cha giống như cây cột lớn chỉ lo việc nâng nóc nhà cho vững mà thôi. Người như bà Tuyết Bông khó có thể đẻ ra một cô gái tử tế. Không chỉ mình mẹ mà các bà láng giềng cũng đều để ý rằng cô Tố Vân không giao du với ai xinh đẹp. Cô chị họ Hiền Trang vừa đẹp vừa giỏi giang hễ đến gần là cô ấy tỏ vẻ khó chịu lảng đi ngay. Cô Hiền Trang kể với người nhà rằng Tố Vân tuyên bố chỉ chơi với ai vừa xấu xí vừa ngu ngốc hơn cô ấy, giống như chọn cái nền để làm cho mình được nổi bật lên. Còn trẻ tuổi mà đã ích kỉ như vậy hẳn là người độc bụng.
Lúc ấy, ông đã tìm mọi lý do để thuyết phục gia đình. Lúc ấy, ông đang si mê. Tất cả những kẻ si mê đều mù. Giờ, ông hiểu rằng mẹ ông hoàn toàn có lý. Rằng vợ ông đã cố tình xúi bẩy mọi người chọn cô Minh Thu, và tìm mọi cách đẩy bật cô Thanh Tú cho bằng được. Vân hành động theo bản năng vị kỉ : Cô ấy muốn tôn tạo nhan sắc mình bằng hình ảnh nhem nhuốc của những người đàn bà xung quanh. Điều khốn nạn hơn cả là những kẻ khác cũng có cùng một sở thích độc ác như vậy :
―Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt. Người đàn bà này vừa mở mắt cho ta. Sau hơn ba mươi năm chung sống giờ ta mới nhìn rõ chân tướng con người mà ta vẫn coi là vợ.
Tim ông cuộn lên những ngọn sóng lừng. Ông cảm thấy đầu và cơ thể mình như đang tách làm đôi, cả hai phần đều dập dềnh như hai con thuyền bị dồi trên đỉnh sóng. Trong cơn chòng chành ấy, không hiểu vì sao gương mặt tươi cười của chủ tịch trở về. Đấy là hình ảnh trong đêm liên hoan mừng chiến dịch biên giới, ông cụ nâng chén chúc tụng mọi người, và nói lời sau rốt :
- Xin chúc mừng toàn bộ cơ quan, trước hết là những người đàn ông có vợ đẹp. Theo tiêu chuẩn ấy chú Vũ sẽ phải uống cạn ba chén rượu đầy.
― Thật cay đắng. Chính ông cụ là người đầu tiên phong vương cho nhan sắc của cô ta. Ông cụ không ngờ rằng vì những lời khen hào phóng ấy mà ông cụ bị hại. Người ta đầy đoạ ông cụ một cách ngấm ngầm và đầy mưu tính.
Ghìm giữ một cơn đau, ông ngẩng lên nhìn bà, cười :
- Lạ lùng thay số phận. Sao em không lấy Sáu. Em chính là kẻ tâm đầu ý hợp nhất với y ? Mai mỉa thật. Vì sao em lại chọn anh ?
- Vì em yêu anh. Vì em chỉ yêu anh thôi. Nếu không mọi sự đã...
- Nếu không giường chiếu đã sẵn sàng, và các cuộc làm tình sẽ đầy đủ tiện nghi nhất xứ sở, dù trong thời bình hay thời chiến. Anh nói có đúng không ?
- .....
- Nhưng sự trớ trêu của số phận là thường thường những kẻ có sở thích độc ác lại khó kết đôi. Bởi họ muốn bảo đảm tính độc quyền. Bởi họ muốn bảo đảm sinh mệnh cho chính họ. Với kẻ đồng mưu, họ chỉ có thể kết hợp tạm thời, còn nơi hậu trường, họ cần chọn những kẻ hiền lành ngu ngốc cho an toàn vì cuộc sống vốn lâu dài và nhiều biến động. Đó chính là lý do khiến em chọn anh, để mà yêu. Cũng tương tự như Sáu, y không chọn em mà chọn người đàn bà khác.
Bà im lặng.
Và ông chậm rãi nói tiếp, buông từng lời như muốn nghe chính những vọng âm tiếng nói của mình :
- Hơn ba mươi năm để hiểu một con người. Quả là trò chơi cay nghiệt của Tạo hoá. So với lịch sử, ba mươi năm chỉ là chớp mắt. Nhưng đối với cõi người, coi như đã cạn một kiếp nhân sinh.
Bà nhìn vào mắt ông, thấy nỗi tuyệt vọng thăm thẳm trong đôi mắt ấy...Đôi mắt người đàn ông của bà, người bà không ngừng yêu, không ngừng thèm muốn, không ngừng ước ao được sở hữu và ngự trị một cách tuyệt đối. Tháng năm không làm thay đổi những đường nét thanh tao trên gương mặt ông. Những lao lung chẳng hạ gục được con người này mà càng ngày càng đem lại cho ông vẻ đẹp. Có thể chính ông chẳng để ý đến vẻ đẹp ấy. Nhưng bà, bà đọc được nó một cách rõ ràng qua những ham muốn không ngưng cạn của chính bà và qua ánh mắt những người đàn bà xung quanh.
- Anh không còn yêu em nữa ?
Bà cất tiếng hỏi, dù biết nó lạc lõng. Nỗi lo sợ trước một sự tan vỡ hiển nhiên khiến bà mất trí khôn :
- Anh chẳng còn yêu em nữa ?
Bà lặp lại lần nữa, cao giọng hơn, với một nỗi nôn nao điên cuồng và một cơn khắc khoải bất khả che giấu.
Có vẻ như ông không nghe thấy những câu hỏi của bà...Có vẻ như ông đang sống ở một cõi nào khác. Hồi lâu, ông quay lại nhìn bà một cách mơ hồ như nhìn bức ảnh cũ hay thứ đồ vật nhỏ nhoi mốc thếch mà người ta lôi từ trong rương ra sau bao nhiêu năm quên lãng :
- Này Vân, có bao giờ em tự vấn lương tâm ?
- Anh muốn nói gì ?
- Anh muốn biết rằng em có tự hỏi em về những gì em đã làm là thiện hay là ác ? Có bao giờ em thấy lương tâm không yên ổn ? Hoặc em chẳng bao giờ có khái niệm về một thứ gọi là lương tâm ?
- Em không biết. Em sống như mọi người. Những người đàn bà khác hành động ra sao em hành động như thế.
- Dối trá. Những người đàn bà khác không thể ngồi trong phòng của Sáu trò chuyện, bầy mưu tính kế hết giờ nọ qua giờ kia. Những người đàn bà khác không biết mua chuộc và điều khiển bà Hội trưởng Hội phụ nữ bằng những mánh khoé vặt. Những người đàn bà khác cũng không được ông cụ phong danh ― "Hoa khôi chiến khu" hay ― "Mỹ nữ Hà thành".

Em không trả lời anh nữa. Anh không có quyền chất vấn em. Đây chẳng phải nhà giam Hoả Lò.
Bà cau có, nhưng hai cánh mũi đỏ hoe và những cơn nức nở đã rình rập sẵn. Bà hiểu rằng bà thua cuộc. Người đàn ông ngồi trước mặt bà chẳng còn đứng trong vòng phấn định mệnh đã được vạch ra từ cuộc hôn nhân. Ông ấy đã bước qua vòng phấn đó. Bước qua một cách rứt khoát. Bước qua vĩnh viễn. Không mảy may nuối tiếc. Cuộc truy đuổi của bà là uổng công... Nhưng lòng ham muốn của bà vì thế lại tăng lên ngùn ngụt. Giống loài sói rượt mồi, bà không bỏ dở cuộc săn. Bà cất tiếng ho, lấy khăn tay che miệng. Bà cần phải tìm một phương cách nào đấy, hiệu quả hơn. Ngoài kia, những con thuyền vẫn lướt bình lặng trên mặt hồ. Sóng lao xao. Gió lao xao. Nơi đây, gió không thể lọt vào vì lưng tường quay ra hướng bắc. Lò than vẫn đỏ rực trước mắt họ. Nhưng bà vẫn phải cất tiếng ho. Cơn ho bà rặn ra không che được mắt ông, cũng chẳng khiến ông động tâm, ít nhất là vào lúc này.
Chẳng thèm quay lại nhìn bà, ông cất tiếng :
- Bây giờ anh mới hiểu vì sao bao nhiêu năm chúng ta lận đận trong chuyện sinh con. Người đàn bà như em không thể làm mẹ. Bởi nếu em có con gái như những người đàn bà khác, chính em sẽ ghen với con em khi nó tới xuân thì, giống như mụ hoàng hậu dì ghẻ trong chuyện cổ tích ghen tuông và truy đuổi nàng Bạch Tuyết. Mẫu người đàn bà như em đã có tự ngàn xưa.
- Anh không cần nói thêm nữa. Đủ rồi.
Bà vặc lại. Nhưng ông không ngừng lời. Bà chẳng còn quyền lực đối với ông. Ngọn bùa yêu danh tiếng của bà đã hết quyền phép. Bà hoang mang cúi nhìn những ngón tay ngà ngọc của mình đeo lủng liểng các loại nhẫn, dáng nét còn thanh tao nhưng da đã nhăn mốc từng đám và nổi đầy vết đồi mồi. Trong lúc đó, ông tiếp tục trút nốt cơn uất hận :
- Có điều, những người đàn bà như em lại thiếu óc thực tiễn. Chẳng thứ nhan sắc nào tồn tại mãi với thời gian. Cái còn lại lâu bền nhất với con người, chính là tình yêu và tinh thần đạo đức.
- Đạo đức ?
Bà cất giọng cười khẩy, mặt bỗng nhiên bừng bừng như lửa :
- Người đạo đức nhất trên đời này là mẹ anh . Sao anh không ngủ với bà ấy đi ?
- A...a...a...
Ông há hốc mồm, một cử chỉ vô thức. Ông không điều khiển nổi mình. Hình như ông định cất tiếng kêu. Hình như ông định nói điều gì đấy. Nhưng một ngọn triều đen thẫm, cao lừng lững như bức tường thành , đột nhiên dựng đứng trước mặt ông, giống ngọn triều biển Quảng Ninh năm xưa, đêm bão lớn. Ngọn triều hung hãn đó bổ chụp xuống đầu ông, nhấn chìm ông dưới vực đá...

KÝ ỨC (3)


Khi Vũ tỉnh dậy, ông nằm trong bệnh viện Việt-Xô.
Ấy là giờ cơm trưa nên bệnh nhân ở tất cả các giường đều ngồi dậy chờ người nhà lấy xuất ăn về. Chiếc tủ của ông chất đầy những thứ hoa quả, bánh trái, tất thẩy đều bắt đầu héo úa bởi chưa ai đụng đến.Vũ thấy đầu nặng như đá đè. Ông cố gắng quay sang hai bên để cho các cơ bắp ở cổ mềm trở lại. Những động tác ấy khiến ông đau nhói :
― Ta già rồi...Cơn đau này quật ngã ta.
Ông thầm nghĩ nhưng vẫn tiếp tục cử động một cách kiên nhẫn. Người bệnh nằm đối diện nhìn ông :
- Bác đã tỉnh hẳn rồi chứ ? Chúc mừng nhé.
- Cảm ơn...Tôi nằm bất động mấy ngày rồi ?...
- Ba ngày rưỡi. A, phải...Bốn ngày chẵn cả thẩy. Bác nhập phòng trưa thứ bảy tuần trước. Hôm nay là thứ tư, mười một giờ rưỡi ngày thứ tư.
- Ở đây các bác đếm từng giờ ?
- Bệnh viện cũng tựa như nhà tù, một ngày dài hơn thế kỉ. Bác chưa từng nằm dài hạn bao giờ nên chưa biết.
- Thú thật. Đi thăm mọi người, tôi đã từng. Nhưng chính tôi, đây là lần thứ nhất.
- Tôi cũng nghe nói vậy.
Ông ta cất tiếng cười :

- Cứ ở đây vài tuần rồi sẽ rõ. Trước nghe thiên hạ doạ : ở trong ấy một ngày dài hơn thế kỉ, chẳng tin. Vào đến đây là chân lý sáng tỏ ngay.
- Ra thế...
Ông cũng bật cười. Ngay cái cười cũng khiến các cơ mặt vừa đau vừa co cứng. Nhưng dẫu sao, ông cũng đã tỉnh. Cơ thể ông chưa thể bị huỷ hoại trong giây phút. Đấy là phần thưởng bù trả cho một cuộc sống thanh sạch, điều độ và những bài tập khí công thường xuyên. Ông đưa hai bàn tay lạnh cứng lên xoa vào nhau, chờ cho chúng ấm nóng rồi bắt đầu đưa lên xoa cổ :
― Ta không thể chịu thua trước khi chống cự lại. Tuổi già, ta chấp nhận ngươi nhưng với tinh thần chủ động. Ta không thể là đầy tớ của ngươi.
Bác sĩ phụ trách bước vào phòng. Một người đàn ông trạc tứ tuần, trầm tĩnh và mệt mỏi. Anh ta bước tới gần giường ông, mỉm cười :
- Chúc mừng bác.
- Chúc mừng anh.
Ông vui vẻ đối đáp :
- Tôi sống được là nhờ anh nên phải chúc mừng anh. Như thế chính xác hơn.
- Không hẳn thế. Bác có một thể chất vững trãi nên bình phục nhanh. Nếu là người khác ắt ...
- Nếu là người khác ắt bỏ mạng ?
- Tôi không định nói thế. Nhưng nếu là người khác rất dễ có những tổn thất lâu dài.
- Ví như đứt mạch máu não, biến chứng tê liệt toàn thân hay bộ phận, ít nhất cũng nghoẹo cổ, méo mồm, v...v...Đúng không ?
- Bác thuộc các hội chứng như người trong nghề .
- Tôi có đọc sách y. Không nhiều nhưng cũng tạm đủ những kiến thức sơ giản. Tôi mở được mắt là biết mình gặp may. Như các cụ dậy : gặp thày gặp thuốc. Nói thêm lời nữa người ta dễ cho là khách sáo nhưng dẫu sao tôi vẫn phải nói : Cảm ơn anh. Cảm ơn anh vô cùng.
- Không có gì. Đó là phận sự của chúng tôi.
Bác sĩ có vẻ hơi bối rối. Anh ta vội chào ông rồi bước ra khỏi phòng. Lát sau, một cô y tá đi đến :
- Hôm nay bác uống sữa. Ngày mai cũng vậy. Từ thứ sáu trở đi chế độ ăn uống sẽ thay đổi tuỳ theo tình hình sức khoẻ. Bác sĩ nói rằng có thể bác muốn ăn cháo ngay trong ngày hôm nay nhưng như thế bất lợi.
- Cảm ơn. Tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh. Các anh các chị không phải băn khoăn.
- Giờ tôi pha sữa cho bác nhé ?
- Không cần. Tôi chưa thấy đói. Lát nữa, tôi sẽ tự phục vụ mình.
Cô y tá bước đi. Ông tiếp tục xoa và lắc cổ. Một nguyên tắc ông đã thực hành từ thuở trai trẻ và chưa bao giờ vi phạm : Không đói thì không ăn. Vả chăng, những ngày ông mê man, người ta đã liên tục tiếp các chất nước khoáng, đường và đạm nên ông không có cảm giác thiếu hụt. Chỉ một sự tê cứng ngự trị toàn thân. Điều ấy khiến ông khó chịu. Ông bắt đầu cuộc chiến đấu. Nhưng dầu ý chí của ông mạnh mẽ, cơ thể ông chưa thể kham nổi cuộc đọ sức quá sớm. Chỉ hai mươi phút sau, tay ông đã rã rời và ông chìm vào giấc ngủ mới. Lần này, ông ngủ một mạch tới chín giờ tối mới thức dậy, thấy cơn đói đang bào dạ dầy. Ông ngồi lên, tuy có một thoáng lao đao nhưng sau đấy mọi cử động trở lại chính xác và chắc chắn. Ông đứng dậy, pha sữa uống, vừa uống vừa lắng nghe cơ thể hồi dần, nghe hơi ấm lan toả từ lồng ngực cho đến chân tay, nghe máu luân chuyển trong huyết mạch, một cảm thức mới mẻ ông chưa từng biết bao giờ : sự hồi sinh !
- Tôi là láng giềng của bác. Bác có nhớ ra tôi không ?
Có tiếng ai đó cất lên bên tai ông. Ông quay lại, thấy một người đàn ông ăn bận chải chuốt, đứng tựa lưng vào tường, nhìn ông với đôi mắt ấm áp, tươi cười.
- Hình như...
Ông đáp với vẻ bối rối, cố lục tìm trong trí nhớ cái vẻ đỏm dáng kia, cái mốt của những năm bốn mươi, đầu dợn sóng và cổ áo sơ-mi sáng màu bên trong bẻ ra che chiếc áo khoác ngoài màu đặc biệt sẫm :
- Thú thực, vừa quên vừa nhớ...Tuổi già mà ...
Ông đáp, một lần nữa cố lục tìm trong dĩ vãng hình ảnh người đàn ông phương phi, tóc chải kiểu Yve Montand, đôi mắt chạy ngang, sống mũi đều và một cái miệng đỏ hồng, môi cong cong, chắc chắn là loại đàn ông lắm điều, bẻm mép.
- Tôi là Trần Phú, nhưng không phải Trần Phú tổng bí thư đảng hồi tiền khởi nghĩa mà là người khoèo chân sang võng của bác năm bốn mươi bẩy, trong cuộc chỉnh huấn tại bản Nậm Mài. Bác đã nhớ ra chưa ?

- A...a ....giờ thì tôi đã nhớ ra. Bởi anh tự xưng là láng giềng, tôi cứ lục tìm mãi danh sách người quen trong cái phố huyện xưa, nơi chôn rau cắt rốn.
- Nằm sát nhau suốt hai tháng như thế, võng sát võng, chân cọ vào chân, còn hơn là láng giềng chứ. May mà tôi lẫn bác đều không phải người đồng tính, nếu không ắt xảy ra chuyện.
- Đúng thế thật.
Ông xác nhận và bật cười.
Anh chàng Trần Phú hỏi :
- Bác còn mệt lắm không ?
- Đỡ rồi.
- Ngồi cho thẳng lưng rồi cố gắng xuống giường đi lại vài bước. Sau mấy bước đầu tiên, bác sẽ muốn đi một vòng quanh hành lang và tốc độ cứ thế mà thăng tiến. Đấy là cách tốt nhất để giúp máu lưu thông. Bác sẽ hồi sức rất nhanh, tôi tin như vậy.
- Cảm ơn. Tôi cũng hy vọng được như thế.
Ông đáp và đưa mắt tò mò ngắm nhìn anh ta :
- Còn anh, bí quyết nào khiến thời gian không chạm vào anh được ?... Từ đấy đến đây đã hơn hai mươi năm, sau giây phút bỡ ngỡ, tôi thấy anh gần như vẫn giữ được phong độ cũ.
- Tôi thay đổi khá nhiều. Hơn hai mươi năm đâu phải là chốc lát. Anh không nhìn thấy cái bụng tôi sao ?
Nói tới đây anh ta vạch áo Blu-dông lên cho ông xem. Ông thấy bụng anh ta rất đỗi bình thường. Rất đỗi bình thường ngay cả với một người đàn ông tuổi bốn mươi. Ông bảo :
- Tôi không thấy gì. Nhiều lắm là vòng bụng tám mươi. So với mọi người, nó vẫn là con số lý tưởng.
- Ồ, không ....Tôi không thể chấp nhận được. Bác nhớ ngày xưa tôi nổi danh khắp chiến khu là ― Trần Phú eo ếch, vòng bụng sáu mươi chẵn, không hơn một ly. Bụng tôi còn nhỏ và săn hơn cả bụng mỹ nữ.
- Anh điên sao? Hơn hai mươi năm rồi còn gì ?
- Vấn đề là chúng ta kém nên mới để mình tàn phế theo thời gian. Tôi biết có ông cụ ngoài tám mươi da vẫn không nhăn, vòng bụng vẫn sáu mươi tám, không suy suyển.
- Tám mươi mà da không nhăn ? Anh cường điệu. Xin lỗi, tôi không tin nổi.
- Anh phải tin. Rồi anh sẽ phải tin. Tôi lý giải cho ngay đây : Các mỹ nhân vẫn giữ nhan sắc bằng cách xoa mặt. Mát-xa là biện pháp giữ nhan sắc lẫn sức khoẻ cổ truyền. Ở Ba-Tư, người ta bán hàng trăm loại dầu thơm khác nhau cho các phòng tắm phục vụ khách, đương nhiên khách chỉ có thể là vương tôn, vọng tộc hoặc các thương nhân giàu có. Thế nhưng chính mát-xa cũng không thể chống được sự nhăn da bởi khi thao tác, người ta phải kéo da qua lại theo chiều ngang, nghĩa là buộc thớ da giãn nở. Khi đã giãn nở, ắt nó phải biến hình. Vì thế, biện pháp mát-xa tuy khiến cho máu lưu thông, da tươi khoẻ hồng hào nhưng vẫn tiếp tục làm hình thành các nếp nhăn. Để chống lại nhược điểm này, người ta phải tìm đến một phương pháp mới.
- Lý thuyết của anh xem ra chừng hấp dẫn. Tôi bắt đầu tò mò rồi đây.
Ông vừa nói vừa cười, một nụ cười vừa cởi mở vừa đầy tinh thần cảnh giác. Trần Phú cũng cười :
- Anh chưa tin đâu. Nhưng anh tin hay không tin đối với tôi cũng vậy. Tôi chẳng phải thằng Sơn Đông mãi võ bán thuốc ế giữa chợ để moi trong túi anh mấy đồng tiền ?Tôi chỉ hành động theo đúng phương châm :Thấy điều gì tốt đẹp mà chẳng nói cho mọi người cùng hay chính là kẻ biển thủ, cũng như thấy cái hố giữa đường không kêu to cho thiên hạ biết là kẻ có dã tâm.
- Ồ....Đừng đao to búa lớn như vậy...Nào, anh hãy nói về biện pháp của ông lão tám mươi mà da chưa hề nhăn kia.
- Ông lão ấy chính là trưởng môn phái Nhất nam. Nhà ông cụ ở sát gò Đống Đa. Nếu anh muốn, hôm nào tôi sẽ dẫn đến thăm, tiện thể xem đám đệ tử của cụ biểu diễn. Tôi tin là anh sẽ mê môn võ này tắp lự. Còn về phép giữ da cho khỏi nhăn, biện pháp của ông cụ vô cùng đơn giản : Tát !
- Tát ?...
Ông gần như không tin vào tai mình nữa:
- Anh nói gì ? Tát ?
- Tát !
Trần Phú khẳng định một cách lạnh lùng :
- Tát...Nghĩa là tát. Người ta chẳng thể tìm ra từ nào khác để diễn tả cái động tác : Tát...
- Tát ? Tôi không hiểu ?
- Tát, nhưng không phải tát quân thù, tát nảy đom đóm mắt, tát sặc máu mũi máu mồm, tát sái quai hàm rơi răng cửa. Không phải tát để cho người bị tát phải chịu thương tổn hoặc toi mạng. Cùng là tát, nhưng động tác vừa đủ cho máu huyết tuần hoàn, chống lại sự lão hoá, nhưng vẫn giữ được nguyên hình dạng cũ của làn da. Đây, tôi làm mẫu cho anh xem.
Dứt lời, anh ta giơ hai bàn tay cùng một lúc tát lên mặt, trước hết là hai hàm rồi những cái tát nhịp nhàng lan dần dần lên hai gò má, hai thái dương và sau rốt hai bàn tay cùng hội tụ trên trán :
- Bốp, bốp, bốp, bốp, bốp....
Ông không thể ngăn anh ta lại, vừa sửng sốt vừa bối rối trước cuộc thị phạm đầy hào hứng kia, một lát sau ông mới hạ giọng thì thầm :
- Thôi, thôi. Tôi hiểu rồi. Chúng ta không nên làm ảnh hưởng tới những người xung quanh.
Anh ta lập tức hạ giọng thì thầm theo:
- Bác để ý làm quái gì mấy cái xác chết di động ấy ? Muốn sống cho vui vẻ, coi như họ không tồn tại trước mắt mình.
Ông kinh hoàng vì lối nói ngang ngược của anh ta nên vội vàng đứng lên, dù động tác ấy khiến ông hơi choáng váng :
- Chúng ta ra hành lang. Tôi thử xem sao.
Ông vội nói.
- Tốt, để tôi dìu bác đi.
Trần Phú đáp đoạn đưa tay ôm vòng lưng ông. Tay anh ta ấm nóng, rắn chắc, báo hiệu một cơ thể còn vững vàng. Ông thấy dễ chịu khi đi bên cạnh con người này, một cảm giác an toàn và ấm áp. Họ đi dọc hành lang. Cùng với những bước chân, trí nhớ của ông dần le lói ánh hồi quang của những đêm rừng hơn hai mươi năm trước. Ngày ấy, anh chàng sĩ quan Trần Phú loẻo khoẻo, tuy đã nổi danh là bậc chỉ huy đầy triển vọng nhưng suốt ngày chỉ ham làm dáng khoe eo ếch trước đám lính. Hễ anh ta ngồi đâu là lính xúm đen xúm đỏ ở đấy, há hốc mồm nghe anh ta nói chuyện. Chẳng ai biết chính xác những câu chuyện ấy nhưng chắc chắn đó là thứ chuyện tếu táo, bởi sau một hồi yên lặng lại thấy cả đám rú lên cười, cười bò lăn bò toài, cười như mắc chứng động kinh tập thể, cười như lũ điên. Cấp trên, tuy vô cùng tín nhiệm anh ta về kinh nghiệm trận mạc song cũng đầy hồ nghi vì tính cách kì quái của gã trai Hà thành.
Hồi ấy, ban ngày họ phải tham dự các cuộc chỉnh huấn. Ban đêm, lên võng rồi nhưng Trần Phú vẫn không chịu ngủ, thò chân sang khoèo chân ông khiến ông buộc phải chui đầu khỏi màn để nghe anh ta thì thầm đủ loại chuyện tiếu lâm rồi cả hai lấy tay bụm miệng lại cười rinh rích...Ngày ấy, họ là những chàng trai...Giờ, tuổi xuân chỉ còn là hoài niệm ...Hẳn Trần Phú cũng đang nghĩ ngợi điều gì đó nên cái miệng muôn đời tép nhảy của anh ta cũng ngừng hoạt động. Cứ thế, họ im lặng đi mấy vòng quanh hành lang rồi ngồi xuống chiếc ghế dài :
- Bác đã mệt chưa ?
- Lúc đầu, hơi choáng váng. Nhưng sau khi đi hết vòng đầu lại thấy bình thường.
- Như thế là tốt. Cơ thể bác sẽ bình phục một cách hoàn hảo.
- Ai bảo anh thế ?
- Bác sĩ.
- Bác sĩ trưởng phòng ? Người buổi sáng vừa gặp tôi ?
- Đích xác. Bác đã gặp may. Đó là người có tay nghề cao nhất viện. Chính anh ta ra chỉ định kéo dài thời gian hôn mê của bác một cách nhân tạo. Như thế, tránh được khả năng chịu đựng các di chứng đồng thời cơ thể cũng hồi phục nhanh hơn. Tôi theo rõi nhịp thở của bác khi chúng ta đi , và tôi chịu anh chàng này là lão luyện.
- Tôi thấy anh cũng lão luyện không kém....Anh có học y hay sao ?...
- Không. Nhưng tôi đọc. Tôi là giám đốc nhà xuất bản văn hoá thông tin. Vì thế, tôi buộc phải đọc. Vả chăng, khi ta tiến đến tuổi già, sớm hay muộn, muốn hay không bệnh tật cũng sẽ kéo đến. Tốt nhất là phải hiểu chúng trước khi lũ khách không mời này đột nhập vào nhà.
- Anh chuyển ngành từ hồi nào vậy ?
- Tắp lự. Ngay sau ngày giải phóng thủ đô.
- Nhưng...
Ông định hỏi rồi bất chợt ngưng lại. Thời quen biết ông , Trần Phú đã là tiểu đoàn trưởng 5O7, tiểu đoàn quân khu thủ đô. Anh ta được đánh giá là một trong những sĩ quan nổi trội nhất, vì vốn kiến thức, óc sáng tạo và khả năng linh cảm khác thường. Với dáng điệu mảnh dẻ của gã trai Hà thành và cặp môi đỏ như son, vừa bẻm mép vừa đa tình, anh ta khiến biết bao cô nàng chết mê chết mệt đã đành, nhưng cũng thuộc loại chỉ huy được tín nhiệm, có thể bảo lính nhẩy vào lửa mà không sợ phản ứng. Tại sao anh ta lại giã từ quân đội một cách uổng phí khi sự nghiệp đầy hứa hẹn ? Vũ tự hỏi. Nhưng rồi, ông tự biết rằng có những sự thật nằm bên ngoài thứ lô-gic thông thường. Và thứ lô-gic thông thường mà số đông chấp nhận lại dung chứa những phi lý khi ta nhìn từ hướng khác.
Có lẽ, cũng phải trả giá khá đắt ông mới hiểu điều này.
Dường như đoán được những ý nghĩ thầm kín của ông, Trần Phú ngoạc mồm ra cười :
- Bác nuối tiếc cho sự nghiệp quân sự của tôi, đúng không ? Vì rằng đám lính dưới quyền tôi giờ này đã nhất loạt đeo lon tướng ? Trong khi tôi chỉ là anh cán sự văn hoá quèn, chẳng thứ bộ trưởng đã đành, cũng chẳng leo lên nổi chức cục,vụ ? Nhưng đấy chính là tự do của tôi, sự lựa chọn của tôi. Khi đất nước lâm nguy, vì phận sự của công dân tôi đành cầm kiếm. Nhưng trận mạc đã xong, tôi trả lại cho người khác giữ, sự nghiệp của võ quan chẳng phải thứ tôi ham. Giữa mũ mãng cân đai và sự thanh nhàn, tôi chọn vế sau.

- Trước đây, có thể tôi còn băn khoăn, nhưng giờ tôi hiểu là anh có lý.
- Cảm ơn, cái lý của tôi có thể là sự phi lý đối với kẻ khác. Cũng ví như những lời lẽ của tôi có thể làm chướng tai kẻ khác, đám người cùng phòng với anh chẳng hạn. Nhưng cuộc đời chẳng quá dài để khiến ta phải chiều lòng tất thảy chúng sinh.Ta cứ làm điều ta muốn miễn đó chẳng phải những hành vi phi đạo đức hay phi nhân. Nào, tôi tháp tùng anh về phòng. Giờ anh uống thêm cốc sữa nữa rồi đi ngủ. Tôi cam đoan rằng ngày mai anh sẽ ăn được cháo thịt.
Họ về phòng. Ông ngoan ngoãn uống đầy một cốc sữa nóng trước khi đi ngủ. Và quả thật, giấc ngủ của ông viên mãn. Sáng hôm sau, khi ông tỉnh dậy đã thấy Trần Phú đang đấu hót với bác sĩ trưởng phòng ngoài hành lang. Cả hai đều có vẻ hào hứng. Hẳn ông thầy thuốc vừa kinh ngạc vừa thú vị vì gặp được một con bệnh thuộc lòng như cháo chảy mọi ngón nghề của mình. Thấy ông tỉnh giấc, họ quay lại:
- Xin chúc buổi sáng tốt lành.
Trần Phú lên tiếng trước. Bác sĩ mỉm cười tiếp theo :
- Hôm nay bác sẽ ăn cháo thịt. Xin chúc mừng vì bác chuyển giai đoạn dinh dưỡng nhanh gấp bội những người bình thường.
Ông cũng cười, đáp :
- Hẳn là anh bạn tốt bụng của tôi đã đề nghị thầy thuốc cho tôi được leo thang ?
- Không. Chẳng ai có quyền đề nghị. Chỉ định chuyên môn bao giờ cũng độc đoán. Nó chỉ tuân theo những nguyên tắc nghề nghiệp thôi.
Bác sĩ trả lời đoạn giơ tay chào ông rồi vội vã ra đi vì người ta đang gọi anh ta dồn dập từ phía cuối hành lang. Trần Phú vào phòng, trước những ánh mắt hoặc gườm gườm hoặc ghẻ lạnh của đám người xung quanh. Nhưng anh ta tỏ vẻ phớt lờ. Bước tới đầu giường Vũ, anh ta lục soát đống cam, chuối và các loại bánh kẹo chất chồng trên chiếc tủ nhỏ :
- Bác không nên dùng những thứ này...Để tôi đem phân phát cho mấy phòng xung quanh. Tuy gọi là viện Việt-Xô, chuyên dành cho cán bộ cao cấp song cũng ối người chẳng đủ tiền mua hoa quả. Còn những gói bánh này nữa, đem làm từ thiện được rồi; tuổi bác không nên ăn loại bánh kẹo ―quốc doanh. Tôi có thể san sẻ cho bác phần bánh của tôi.
Nói xong, không chờ ông đáp lời anh ta quay quả bước khỏi phòng rồi lát sau trở lại với chiếc làn nhôm. Bỏ tất thảy đám hoa quả, bánh trái vào làn, anh ta mang đi không nói thêm nửa lời. Ông cũng không dám nói gì, lẳng lặng pha sữa uống, thầm ngượng ngùng vì ánh mắt theo rõi của đám người xung quanh. Nhưng cảm giác đói đã trở lại với tốc độ ngựa phi nước đại khiến ông bình tâm. Vừa uống sữa, ông vừa nhìn những vòm cây đung đưa ngoài trời, tưởng như mình đang ở một miền đất lạ, nơi ông chưa từng đặt chân tới và do đó, nó cắt rời với thế giới ông từng sống, nó là sự gián đoạn vĩnh viễn với những ngày sau lưng ông, nó là lục địa mới vừa được mở ra cùng một lần với cuộc trở về từ cõi chết.
Sau bữa cơm trưa, Trần Phú quay trở lại, với một làn đầy hoa quả mới. Anh ta xếp chúng một cách thứ tự lên chiếc tủ đầu giường :
- Anh bắt đầu ăn cháo mặn có nghĩa là anh có thể dùng tất thảy những thứ hoa quả này, chẳng cần kiêng cữ. Còn đây là bánh Phơ-lăng và Ma-đơ-len, chính tay cô em gái tôi làm. Anh có thể ăn kèm khi uống sữa hoặc trà nóng.
- Cảm ơn. Nhưng tôi thật khó nghĩ khi anh quá tốn kém.
- Ồ không. Không quá tốn kém như anh tưởng. Tất cả do em gái tôi chuẩn bị. Tôi vốn được chiều từ nhỏ, dù gia đình khá đông. Thôi, anh nghỉ trưa đi, mai sẽ gặp lại.
- Để tôi đưa chân anh, tiện thể vận động cho sảng khoái.
- Nhất trí.
Khi họ đã ra cầu thang, ông ghé tai anh ta nói nhỏ :
- Những người quanh giường tôi đều nhìn anh với con mắt lạ lùng. Vì sao vậy ?
- Vì sao ?
Trần Phú hỏi lại với giọng ngạc nhiên :
- Anh không hiểu được điều đơn giản ấy hay sao ?
- Thú thực. Tôi không hiểu. Tôi cũng không thể giả vờ làm ra hiểu khi lòng tôi còn đầy thắc mắc. Xin anh thứ lỗi.
Trần Phú quay sang nhìn ông chăm chú, dường như bối rối, dường như cảm động. Đoạn anh ta hạ giọng :
- Nếu người khác đặt câu hỏi này tôi sẽ cho rằng anh ta đóng kịch ― con nai già ngơ ngác. Nhưng với anh, tôi tin đấy là câu hỏi thực tình. Có thể vì sự thơ ngây này tạo nên phẩm chất của anh, và có thể vì thế mà chúng tôi yêu anh, coi anh là người anh hùng cuối cùng của thời đại...
- Ồ...
Giờ, lại đến lượt chính ông bối rối. Ông không quen nghe người ta bầy tỏ tình cảm trực tiếp như thế bao giờ. Trần Phú tiếp tục chăm chú nhìn ông như nhìn một bức tranh trong phòng triển lãm, rồi anh ta cất tiếng:

- Anh không biết rằng xã hội của chúng ta là xã hội phân cấp một cách quyết liệt và dã man cho dù nó vẫn thường xuyên được quảng cáo là bình đẳng, tự do và dân chủ.? Ngay ở đây, người ta cũng vẫn phân hạng, và nhòm ngó nhau theo tiêu chuẩn cấp bậc. Đám người cùng phòng với anh đều là chuyên viên bậc tám, bậc chín, nghĩa là bậc tót vời trong hạng ngạch chuyên viên. Trong khi đó, tôi chỉ là cán sự sáu, vừa đủ ngót nghét nhận sổ vào đây điều trị. Bởi vậy mà họ coi thường tôi. Nhưng trong khi họ vênh váo vì cấp bậc thì về mặt nhân dạng họ chỉ là một đám xác chết biết đi. Anh đã để ý cách họ khua thìa khoắng bát cháo hay họ xêu từng hạt cơm bỏ vào mồm hay chưa ?
- Chưa. Thú thực tôi chưa dám nhìn thẳng hoặc trò chuyện lâu với họ vì ngại.
- Vì sự có mặt của tôi. Và vì họ nhìn tôi với con mắt ác cảm nên anh cũng tự thấy họ không thể có thiện cảm với anh?
Ông mỉm cười thay cho lời thú nhận. Tức khắc Trần Phú cũng cười phá lên :
- Tôi biết ngay mà. Tính anh vốn cả nể. Bản chất anh nho nhã thanh lịch hơn tôi, cho dù tôi gốc trai Hà thành còn anh là dân tỉnh Bắc. Nhưng trong tôi luôn có một kẻ bất cần, một thằng khiêu khích. Đối với hạng người dở dói như vậy, tôi xem như đám nộm bằng giấy bồi. Tôi dìm thói hợm hĩnh của họ chết sặc trong vũng bùn ghen tuông. Anh xem đây...
Trần Vũ vén ống tay áo để cho ông nhìn thấy cánh tay anh ta còn nổi vồng bắp thịt, da đỏ au phủ đầy lông :
- Họ hơn tôi bao nhiêu cấp bậc nhưng cẳng chân họ không nhỉnh hơn cánh tay tôi. Cùng một năm sinh nhưng hai hàm răng họ là của giả trong khi tôi mới rụng một chiếc răng số tám. Buổi sáng, tôi xơi vèo bát phở với hai cái đùi gà trong khi họ khua thìa trong bát cháo loãng ngoét. Buổi trưa tôi chén hai bát cơm đầy với cá nhà kho trong khi họ nhai mãi không hết xuất cơm thịt bò xào dai nhoách của bệnh viện. Đó, chính là lý do mà họ nhìn tôi với những cặp mắt ghen tức nếu không muốn nói thẳng là căm thù. Con người luôn luôn như vậy, muôn kiếp như vậy, cho dù họ đã đứng sát cửa mồ. Anh chẳng cần phải bận tâm. Thôi, anh về phòng nghỉ trưa đi. Mai tôi sẽ đến.
Trần Phú giơ tay chào ông rồi xuống cầu thang. Đúng là anh ta mới chỉ đủ quyền nhận sổ vào viện này, nên phải ở khu nhà cuối cùng, nơi dành cho những bệnh nhân xoàng nhất, không được quyền ưu đãi về thuốc men cũng như chế độ phục vụ. Nhưng những bất lợi về địa vị xã hội lại khơi gợi cho con người này tính vui vẻ bất tận và sự hả hê mà anh ta tìm được trong trò chơi khiêu khích. Tinh thần lạc quan là vũ khí đích thực của anh ta. Ông nghe tiếng gót giầy của Phú nện trên cầu thang một cách nhẹ nhõm, và cùng nhịp chân bước, tiếng hát anh ta khe khẽ vọng lên:
― Rồi sóng sẽ xoá đi tất thảy trên bờ cát
Dấu chân xưa của các lứa đôi và những cặp tình nhân...
Bài hát của những năm bốn mươi. Những chàng sinh viên mơ mộng và những cô nàng thướt tha áo trắng. A! Tuổi trẻ của ông. Bóng ma của nó theo về cùng bài ca cũ. Nhưng ông lập tức xua đuổi chúng bởi một nỗi sợ hãi bóp nghẹt con tim :
― Không!...Không!...Không!...
Ông vội vã trở lại phòng, lên giường nằm hòng kiếm giấc ngủ nữa nhưng giấc ngủ không tới. Sau cùng, ông đành tung chăn ngồi dậy. Người bệnh nằm đối diện với ông mở mắt ra :
- Bác chịu thua, không ngủ được ?
- Vâng.
- Tôi cũng vậy. Không ai thắng được tuổi già.
- Vâng.
- Anh chàng bảnh trai bạn của bác tối nay có đến chơi không ?...
- Không. Anh ấy hẹn ngày mai.
- Anh ta không nhớ tôi nhưng tôi biết anh ta rất rõ.
- Thật vậy sao ?
- Trước đây tôi từng là đồng cấp khi anh ta cầm quân 507.
- Rồi bao lâu sau bác mới chuyển ngành ?
- Tôi không chuyển nhành. Tôi vẫn phục vụ trong quân ngũ cho tới tận giờ.
- Ô...Vậy sao ?
- Bác muốn hỏi vì sao tôi lại lạc vào đây mà chẳng điều trị ở viện IO8, đúng không ? Bởi tôi ở đây cũng giống như con ngựa lạc sang chuồng dê vậy ?
Ông ta nhắm mắt lại. Đôi môi khô thâm xì vừa co vừa giãn trong một nụ cười nhăn nhó và chua chát :
- Bởi giám đốc viện ấy là kẻ thù sinh tử của tôi. Tôi không thể đem thân vào đấy để nó thịt tôi như thịt một con gà.
Vũ lặng thinh, không biết nói gì hơn. Nụ cười nhăn nhó vẫn đọng trên môi người bệnh, khiến mặt ông ta giống chiếc mặt nạ bằng sáp.
Hơi thở ông ta dập dồn và có những tiếng khò khè rất mạnh kèm theo. Thi thoảng, những tiếng khò khè ấy kết thành chuỗi nhất loạt trút ra như gió rít, một thứ âm thanh ma quái.
― Tất thảy đều dẫn tới cái kết thúc. Mọi ngả đường đều dẫn tới một nơi cuối cùng. Nhưng ngay trong hành trình tiến về cõi chết, con người cũng vẫn sống với những ân oán của họ, những giằng trói không thể nào tháo cởi.
Ông nghĩ, khi nhìn con người tội nghiệp kia.
Rồi ông rón rén đứng dậy, đi ra ngoài. Chính lúc ấy, người bệnh lại cất tiếng dù đôi mắt vẫn nhắm nghiền. Sau một hồi khò khè, giọng anh ta xìu xuống như bánh mì gặp nước :
- Bác nói với Trần Phú rằng anh ta chính là kẻ khôn ngoan và may mắn. Anh ta biết sống đúng cuộc sống của anh ta.
- Vâng, tôi sẽ nói.
- Chớ kể gì về tôi...Cứ bảo rằng một sĩ quan đồng cấp nhắn như vậy.
- Vâng.
- Rằng tôi chúc anh ta càng về già càng vui vẻ.
- Vâng.
- Tôi ...cũng chúc bác được như vậy...
- Cảm ơn.Tôi không may mắn có được cuộc sống vô tư như anh bạn kia.
- Tôi biết....Tôi biết...bác là ai....
Ông ta ngừng lại để thở vì một chuỗi tiếng khò khè lại dồn đến và cái khí cụ ma quái trong lồng ngực ông ta rít lên từng hồi. Lát sau, ông ta nói tiếp:
- Nhưng dù sao....tôi cũng vẫn chúc bác....được hạnh phúc.
Một nụ cười nhăn nhó và chua chát lại xuất hiện trên đôi môi đen tím của ông ta khiến Vũ ái ngại. Ông hỏi :
- Bác có cần tôi đi gọi bác sỹ trực phòng không ?
- Cảm ơn. Tôi biết bệnh của tôi. Bác cứ ra ngoài mà dạo chơi cho thanh thản. Đi đi.
Ông không biết làm gì hơn là đi ra hành lang một cách vội vã. Một cách vội vã, ông xuống cầu thang rồi ra giữa sân bệnh viện, đứng như bức tượng, mắt dán vào những bóng cây như tìm nơi trú ẩn cho tâm hồn đang run rẩy của mình. Nỗi sợ đang dồn đuổi ông:
― Ồ, mấy ngày trước, không hiểu bộ dạng ta có thảm hại như họ hay không ? Ôi, nếu ta cũng có gương mặt vàng xám như sáp ong bẩn, nếu miệng ta cũng há hốc ra như mồm cá ngão chết trên mẹt hàng cá, nếu hai bên mép ta cũng chảy dãi dớt như những kẻ nằm cùng phòng ? Chao ôi, kinh khủng thay cho kiếp người !
Ý nghĩ ấy khiến ông rùng mình liên tục. Những cơn rùng mình làm sởn gai ốc, thật giống cơn rùng mình khi nhiễm lạnh hoặc khi nghe chuyện ma quái :
― Ta cần một cuộc sống lành mạnh và hữu ích. Nếu mai đây, khi ý trời không thuận, ta sẽ tìm đến cái chết một cách thanh thản. Như thế, là cuộc giải phóng tối ưu.
Trước mặt ông, hàng cây đứng la đà trong nắng. Thuần là cổ thụ. Những cây sấu già, những cây xà cừ và những cây bằng lăng hoa tím. Chúng mọc chen chúc nhau, chẳng ra hàng lối nhưng tạo thành hòn đảo giữa khoảnh sân mênh mông. Hẳn là khối diệp lục phì nhiêu này từng cứu vãn nhiều người bệnh trong những cơn khủng hoảng tâm lý, như nó cứu vãn ông vào chính lúc này.
Vũ ngồi xuống ghế, nhắm mắt lại để nghe tiếng lá xạc xào và tiếng chim chành choẹ nhau. Bất chợt, một vật gì đó ướt nhão rơi toẹt vào mặt ông, ngay chính mũi. Ông mở choàng mắt ra và hiểu rằng một con chim hỗn xược nào đó vừa ỉa đúng mặt mình. Ông lục túi, tìm khăn lau bãi cứt chim. Lúc ông đang cắm cúi lục soát, một bàn tay đã chìa ra trước mặt ông, với một chiếc khăn tay :
- Anh hên đấy. Chim ỉa đúng đầu đúng cổ là có lộc. Chẳng lộc to như tiền tệp vàng khối thì cũng lộc nhỏ như gói bánh, hòn xôi.
Không ngẩng đầu lên, ông vội túm ngay lấy chiếc khăn, vội vã lau mặt :
- Anh tìm ở đâu ra thứ lý thuyết ấy ?
- Thứ lý thuyết ấy có lâu rồi, đại huynh ạ.
Một giọng lạ hoắc cất lên khiến Vũ vội vã ngẩng đầu : Trần Phú không đến một mình mà với một người đàn ông khác. Chính vị khách này vừa cất lời đối đáp ông :
- Đại huynh không biết từ xưa dân chúng đã tin rằng nằm mê thấy phân là có lộc ?

- Cũng đôi lần tôi nghe nhưng không để ý.
Vũ đáp.
Người đàn ông kia ngoác miệng cười, miệng anh ta rộng mênh mông, kéo đến tận hai mang tai khoe ra hai hàm răng vàng khè khói thuốc, đôi mắt hấp háy sau cặp kính cận dày. Gương mặt đen đủi, chẳng có một đường nét khả dĩ vậy mà vẫn toát ra một vẻ hấp dẫn, một thứ hấp dẫn khó cắt nghĩa. Anh ta tiếp tục diễn giảng ý kiến của mình :
- Bởi chúng ta là dân trong xứ trồng lúa nước, nên buộc phải hiểu hàm ý biểu tượng của những giấc mơ phân.
Ông cười. Lúc ấy, Trần Phú mới giới thiệu :
- Đây là anh Trần Vũ, người anh hùng của thời đại...Còn đây là bạn tôi, nhà văn Lê Phương. Chúng tôi cùng bỏ nhà đi theo cách mạng năm bốn mươi lăm, lúc ấy vừa tròn hai mươi tuổi.
Họ bắt tay nhau rồi Trần Phú đề nghị đi đến căng-tin bệnh viện, nơi khả dĩ có đủ bàn ghế ngồi và có thứ để giải khát. Ba người đi hết khoảnh sân là đến căng-tin, một gian nhà rộng thênh thang, vài chục dẫy bàn ghế xếp hàng chờ khách nhưng thực khách lưa thưa chỉ dăm bẩy người, người nào cũng có vẻ đăm chiêu, hờ hững. Họ chọn chiếc bàn ít bụi nhất, phỏng chừng như thế, vì nó được kê gần quầy bán hàng, cũng sát khuôn cửa sổ. Khuôn cửa này mở ra mảnh vườn phía sau viện, tuy nhỏ nhưng cũng xanh rờn bóng cây me, cây dâu da lẫn cây hoa sữa. Quầy bán hàng vắng tanh. Trần Phú đứng giữa khuôn cửa, cất tiếng :
- Này !... Các em bán hàng ơi .
Chẳng thấy ai đáp. Anh ta lại cao giọng hò :
- Này, các nàng căng-tin ơi.
Cũng chẳng ai trả lời. Anh ta phải gần như hét lên :
- Này, căng-tin bệnh viện đâu rồi ? Ai ? Ai bán hàng ở đây ?
Lúc đó, một ông khách đang ngồi ăn bánh rán khuyên :
- Bác phải ra giữa sân mà gọi....Mấy con bán hàng đang đú đởn trong phòng bảo vệ kia kìa ...
- Cảm ơn.
Phú đáp, đoạn anh ta rảo bước qua sân, đến chính giữa cửa phòng bảo vệ mà hỏi :
- Ai bán căng-tin ở đây ? Chúng tôi chờ nửa tiếng rồi.
- Đây ! Chúng em đây ...
Hai ba cô tranh nhau đáp rồi cả đám chạy nhao về phía căng-tin, vừa chạy vừa cười rinh rích. Trần Phú quay lại, giọng không còn cợt nhả mà đầy vẻ khó chịu và đe doạ :
- Nhanh tay lên. Hai phin cà-phê và một ấm trà loại một. Tôi sẽ bỏ qua cho các cô chuyện này.
- Cảm ơn thủ trưởng ạ....Chúng em xin lỗi ạ ...
Mấy cô gái đáp, không còn cười mà bắt đầu sợ hãi. Một cô vội vã lấy giẻ ra lau chiếc bàn họ đang ngồi. Cô thứ hai pha trà và cô thứ ba đổ cà-phê vào phin.
Lúc ấy, Trần Phú ngồi vào bàn :
- Anh Vũ đã nhìn thấy chưa ?
- Tôi có thấy.
- Không hiểu cái ông Trần Phú bí thư đảng cộng sản kia nếu còn sống, ông ta sẽ nghĩ gì về cái tình cảnh này ?
- Thôi, chuyển đề tài.
Lê Phương gàn :
- Chui vào loại đề tài này là chui vào sừng trâu. Một đường hầm không ánh sáng. Bởi chẳng cứ Trần Phú mà biết bao nhiêu con người tài cán hơn ông ta cũng không thể hình dung nổi cái xã hội mà họ tạo ra sẽ mang gương mặt nào. Cách mạng bao giờ cũng là một cuộc hoài thai mà đứa bé ra đời nếu chẳng phải quái thai thì cũng hoàn toàn khác với giấc mơ hay trí tưởng tượng của những người tác tạo nên nó. Chúng ta trở lại với cuộc sống nhỏ bé của mình. Hôm nay là một ngày vui, bởi anh Vũ chính là người mà lâu nay tôi thầm muốn gặp mặt. Câu xưa là « danh kì thanh, tướng bất kì hình »
- Ồ ...Tôi không dám.
- Khi xưa tôi đọc « Một anh hùng thời đại » của Léc-mông-tốp, biết đây là thứ tiểu thuyết- tự truyện, và nhân vật chính rất đẹp trai. Giờ gặp anh, tôi thấy anh cũng đẹp trai như vậy.
- Ồ, các anh quá khen. Tôi đâu phải tài tử điện ảnh ?
Vũ đáp, cảm thấy hai mang tai nóng rần vì ngượng.
Trần Phú lẫn Lê Phương chăm chú nhìn ông như những gã buôn đồ gỗ ngắm một cái tủ khảm trai đủ long, ly, quy, phượng, rồi cả hai cùng ngoác miệng cười :
- Thật sung sướng thay cho ai được làm vợ anh. Một người đàn ông đẹp trai dường ấy mà còn thẹn đỏ tai vào tuổi ngũ tuần.
- Ồ...
Vũ chẳng biết nói năng ra sao. Hai gã đàn ông này lạc từ một miền xa lạ tới, ngôn ngữ của họ, cách biểu đạt của họ, và những ý tưởng của họ, tất thảy đều lạ lùng với ông, với thế giới của ông, thế giới của những con người nằm trong guồng máy quyền lực. Ông đành lái câu chuyện sang hướng khác :

- Đêm qua tôi cứ nghĩ mãi. Hà nội bé như thế vậy mà vì sao sau hơn hai mươi năm chúng ta mới gặp lại nhau, kể từ ngày ở bản Nậm Mài ?
- Vì chúng ta đã rẽ sang những ngả đường khác nhau, và những ngả rẽ ấy càng ngày càng cách xa theo năm tháng. Rồi chúng ta lại gặp nhau ở đây, vì đây là trạm trung chuyển giữa cuộc sống và cái chết. Tất cả những kẻ bước chân vào đây là những kẻ đã được thần chết điểm danh từ xa. Họ cố kéo dài được chút nào hay chút ấy trước cuộc đầu hàng vĩnh viễn.
Trần Phú đáp, bộ điệu hớn hở của anh ta khiến ông phì cười :
- Tôi trông anh giống một thương gia chuẩn bị cưới vợ bé hơn là người chuẩn bị đi đến nghĩa trang.
- Chính xác một nửa. Tôi vào đây vì u tiền liệt tuyến. Bác sĩ đòi mổ nhưng tôi không chịu. Tôi kết hợp uống thuốc với dùng các thực phẩm có dược tính, ví như cà rốt sống, mộc nhĩ, cà chua sống. Đặc biệt phải loại trừ thịt, dù thịt lợn hay thịt bò. Thi thoảng được phép ăn gà vịt, với điều kiện lọc bỏ da và mỡ. Thực phẩm chủ yếu của tôi là cá đồng, tôm sông. Đương nhiên những thứ này do gia đình cung cấp. Qua bốn tháng xét nghiệm lại, phần u đã teo hai trăm gờ-ram. Giờ tôi cố công tìm một em xinh tươi, có khả năng khiến tôi « hoạt động cách mạng » một cách phi thường. Nếu được như vậy, ắt mọi thứ u đều tan biến.
- Tôi nghĩ là anh nói cho vui ...
Ông đáp. Lúc ấy Lê Phương xen vào :
- Anh có lý của anh và Phú có lý của nó. Bởi quan niệm sống của chúng ta khác nhau, nghiệm sinh cũng khác nhau nên niềm tin cũng khác nhau...Nhưng nếu anh chẳng còn nhớ ca dao, tục ngữ, tôi xin biếu anh câu này :
« Thông đái, ngon cơm. »
- Tôi cũng đã từng nghe, nhưng quên sạch. Các anh tài tình thật, làm sao mà những câu tục ngữ cổ xưa ấy còn đọng lại trong não đến tận bây giờ ?
- Bởi chúng tôi sống với chân lý của đám dân đen. Chân lý của dân đen là món hàng tồn kho nhưng không bao giờ mốc. Khi cần thiết, người ta có thể móc chúng ra và đem xài tức khắc, chẳng cần nấu nướng hay thêm hành thêm tỏi. Theo chân lý ấy, nếu đời sống tình dục của người đàn ông được hưng phấn, chính nó sẽ mang lại khả năng tái thiết những bộ phận bắt đầu lão suy.
- Ồ, chân lý của anh nguy hiểm thật. Nó sẽ xui khiến những người đàn ông bỏ gia đình để lao vào những cuộc phiêu lưu tìm hưng phấn.
- Chính xác như vậy. Nhưng không chỉ đàn ông mà cả đàn bà, vì hai nửa âm dương luôn luôn bình đẳng trước quỷ thần về khả năng phạm tội. Vấn đề phải tính ở đây là những trường hợp cụ thể và những nhân cách cụ thể. Không có mẫu số chung cho toàn thể nhân loại trong cuộc truy tìm hạnh phúc. Cũng không có một hằng số cho các cuộc phiêu lưu. Điều cốt yếu là .....
Lê Phương ngừng lời, rút trong một túi áo ra chiếc tẩu to đùng, trong túi áo bên kia gói thuốc lá rời sợi sẫm, rồi từ từ nhồi thuốc vào nõ tẩu. Vũ nhận ra rằng anh chàng nhà văn này có lối nói chuyện theo kiểu chương hồi, nghĩa là anh ta luôn luôn bắt mọi người chờ đợi. Chắc hẳn gã đàn ông xấu xí này đã quyến rũ không ít đàn bà với lối nói duyên dáng bẩm sinh. Ông cười :
- Anh bắt đầu khiến tôi tò mò rồi đây.
- Tôi tiếp tục.
Lê Phương đáp, nhưng anh ta còn rề rà châm lửa, rề rà rít thuốc, rề rà nhả khói...và khoảng thời gian chùng chình ấy khiến ông nghe rõ tiếng ong bay ngoài vườn, rù rì trên đám me xanh.
« Không chỉ đàn ông mà cả đàn bà, vì hai nửa âm dương luôn luôn bình đẳng trước quỷ thần về khả năng phạm tội. Sao đến tuổi này ta mới biết ? Moị sự quá muộn màng. »
Ý nghĩ ấy đưa ông trở lại với hình ảnh người đàn bà của ông : Tố Vân ! Lần đầu tiên, kể từ lúc ông bừng mắt tỉnh cơn hôn mê, cái tên ấy quay trở lại.
« Không....Không ...Không .... »
Ông chối từ quyết liệt vì cảm thấy giông bão sắp nổi lên quanh mình, và ông có nguy cơ bị cuốn vào luồng gió dữ.
Quay đầu lại, ông buộc mình tập trung vào cuộc đối thoại với nhà văn :
- Rồi sao nhỉ ? Tôi đang chờ anh đây.
Lê Phương nhe răng cười :
- Nhưng người đứng đắn như đại ca, nghe làm gì những lý thuyết xằng bậy của lũ đàn em, lũ đực rựa ưa rong chơi trên cõi đời ?
- Vì sao lại phân biệt đối xử như thế ?
- Vì đại ca thuộc loại người lo những việc quốc gia đại sự, chúng em là bọn chỉ thích sống cuộc sống riêng của mình. Chúng em e rằng những lời lẽ buông tuồng của bọn em khiến đại huynh không chấp nhận nổi. Ồ, tôi đã nghe mãi những chuyện tiếu lâm của anh Phú trên rừng năm trước. Có cớ gì mà phải kiêng dè ?
- Vâng. Nhưng hơn hai mươi năm đã qua và thời gian phân cách.
- Quả vậy.
Bất giác, ông buông tiếng thở dài rồi chậm rãi nói tiếp :
- Thời gian phân cách con người, không riêng ai mà cho toàn nhân loại. Nhưng dẫu sao, chúng ta vẫn còn những giá trị chung ; lòng tốt chẳng hạn, hoặc tình bạn, hoặc tình quyến luyến trong gia tộc...Những thứ tình cảm ấy không thể tiêu tán theo thăng trầm của thời cuộc và thời gian...
- Vâng.
- Những lúc khó khăn nhất trong đời, tôi đều cầu cứu người anh trưởng. Ông ấy có thể hiểu tôi ngay trong im lặng. Ông ấy sẵn sàng ghé vai gánh gánh vác gia đình, để tôi được cất bước thênh thang.
- Vâng.
Vũ ngừng lại vì chợt nhận ra rằng ông đang ngỏ nỗi lòng trước hai gã đàn ông mà một người đã quên lãng hơn hai mươi năm và người kia vừa gặp mặt chưa đầy nửa tiếng. Đó là điều ông chưa từng làm. Nâng tách trà lên, ông uống liên tục từng ngụm nhỏ để che cơn bối rối. Và rồi, ông cất tiếng hỏi :
- Còn anh, anh vào đây chữa bệnh gì ?
- Tôi ?
Anh chàng nhà văn hỏi lại, rồi lắc đầu cười :
- Tôi chẳng có bệnh gì mà nếu có bệnh tôi cũng chưa đủ tiêu chuẩn vào đây.
- Anh nói gì ? Anh tham gia cách mạng từ năm bốn mươi nhăm, cùng lần với anh Trần Phú ?
- Vâng, nhưng tôi không đủ tiêu chuẩn để vào đảng. Đã không là đảng viên thì chắc chắn mãn kiếp cũng không được bổ nhiệm vào một chức vị ra hồn. Chẳng những thế, tôi lại can tội luôn luôn yêu các cô nàng xinh tươi. Đối với tôi, đảng cao quý trên lý thuyết, còn các em xinh tươi thì tuyệt vời trên phương diện thực tiễn. Tôi vốn không thích « Thả mồi bắt bóng ». Tôi chọn giá trị thực mà sống, còn đảng vĩ đại, tôi xin nhường cho người khác hưởng.
Nói tới đây, cả hai gã đều cười ha hả. Ông buộc lòng phải cười theo, lòng hồ nghi chẳng biết hai gã đàn ông chớt nhả này nói thật hay nói đùa. Chừng như hiểu được sự phân vân của ông, Trần Phú đỡ lời bạn :
- Lê Phương nói đúng đấy, nó chưa đủ tiêu chuẩn cán sự năm để vào đây chữa bệnh. Nhưng ngày nào cậu ta cũng đến thăm tôi. Nhiệm vụ duy nhất phải hoàn thành là « Nâng cao tinh thần cho đội bạn ». Chi bộ đảng của các anh ít nhất cũng có ba người. Chi bộ của chúng tôi chỉ có hai, thành lập từ năm bốn mươi nhăm đến nay nhưng đặc biệt vững bền, chưa ai đâm dao găm vào lưng ai cả.
- Chính xác như vậy...
Lê Phương khẳng định, tiếp lời anh bạn vàng với điệu bộ quen thuộc của một cặp bài trùng, kẻ tung người hứng :
- Tình đồng chí của chúng tôi không dựa trên lý thuyết vĩ đại « liên hiệp vô sản toàn thế giới ». Chi bộ của chúng tôi dựa trên nền tảng của những thứ tương liên tầm thường vụn vặt, những tình cảm cỏn con.Ví dụ, hồi còn ở trên rừng Việt bắc, nếu gia đình gửi tiếp tế ra thì dù nhiều dù ít phải chia đều làm hai nửa, từ tiền bạc cho tới quần áo,thuốc men. Gặp khi đau ốm thằng nọ phải cõng thằng kia, dù có chảy mồ hôi bẹn, có còng sống lưng cũng phải rán chịu. Còn trong hoà bình, dựa vào nhau mà « tác chiến »
- Tác chiến ?
Thấy vẻ thắc mắc của ông, cả hai đưa mắt nhìn nhau tủm tỉm cười. Rồi, Lê Phương quay lại bảo Trần Phú :
- Đại huynh không có chút khái niệm nào về ngôn ngữ của đám « rong chơi giữa cuộc đời ». Thôi, âu cũng là dịp giải trí cho bậc cao nhân trong lúc anh ấy buộc phải nghỉ ngơi, tôi sẽ bật mí những bí mật cỏn con trong cuộc đời cỏn con của chúng ta. Cậu bằng lòng chứ ?
- Được. Chi bộ thông qua nghị quyết .
Trần Phú đáp và bộ mặt hớn hở mãn kiếp của anh ta đỏ rực lên vì vui thú. Lê Phương rút tẩu thuốc khỏi miệng, đặt một cách cẩn trọng xuống chiếc gạt tàn bằng gốm rồi nói :
- Bọn chúng tôi không được may mắn như anh, hoặc những người đàn ông như anh, chiếm được một nàng tiên xinh đẹp và mãn nguyện cho đến phút chót cuộc đời. Vợ chúng tôi, hoặc nói cho đúng hơn là « những bà lão khả kính sinh ra đám con của chúng tôi » lại luôn luôn có niềm tin vững chắc rằng chúng tôi là những thằng tù chung thân, chung thân dưới quyền cai quản của họ, giống như cái tràng kỉ gụ hay chiếc tủ chè gia bảo đặt năm này qua tháng khác trong nhà. Vì coi chúng tôi là những thứ đồ vật như vậy, nên họ có thể tuỳ tiện phơi ra ngày này qua tháng khác những thứ của nả họ với sự bình tâm của Bao Công Đại nhân trước giờ phán quyết.
- Phải nói cho rõ ràng. Anh Vũ không hiểu « những thứ của nả » là cái gì đâu.
Trần Phú chêm vào.
Nhà văn gật đầu, đôi mắt hấp háy :

- Những thứ của nả này là những thứ phụ tùng đã bị cũ nát. Chắc rằng đại huynh đã từng thấy những ngôi nhà bị trốc vôi tường, dột mái, sụt lở hay gãy kèo gãy cột. Hãy hình dung con người cũng như những ngôi nhà bị bom dội, bão đánh hay thời gian huỷ hoại. Xin đại huynh bỏ qua cho những ngôn từ dung tục này. Nhưng khó có thể tìm những danh từ xác thực hơn để thay thế. Những thứ của nả của các bà là những cặp vú sệ, những cặp mông nhão chảy xuống tận đũng quần, những cặp mắt chẳng còn chút long lanh nào mà chỉ thấy ghèn với nhử. Tóm lại, tất thảy những thứ mà nàng thơ nhìn thấy sẽ bỏ chạy mất dép còn hoạ sĩ tiếp kiến sẽ phải cúi xuống giả bộ mắt loà. Ấy là chưa kể các bà còn xài những thứ áo quần lố lăng hay dơ dáy.
Tới đây, anh ta e hèm hắng giọng như điệu ca sĩ sắp lên sân khấu rồi cạn chén cà-phê. Ông bật cười vì biết rằng anh ta chuẩn bị cho phần chính của câu chuyện, cái phần được mệnh danh một cách điệu đàng là « những bí mật cỏn con của những cuộc đời cỏn con ». Nhưng nhà văn lại đặt chiếc chén rỗng xuống bàn, quay sang bảo bạn :
- Bảo chúng nó pha phin khác đi mày. Cà-phê này còn thua nước giặt tất. Nền ẩm thực cổ truyền của chúng ta đã bị phá huỷ vì thứ mậu dịch quốc doanh này.
- Ờ... Tởm thật.
Trần Phú đáp đoạn anh ta quay lại bảo mấy cô gái bán hàng :
- Pha cho tôi phin cà-phê đúp rồi tính hai lần tiền. Giống như sáng hôm qua.
- Thưa thủ trưởng, có ngay ạ ...
Một cô bẻo lẻo đáp. Hai cô kia hí hoáy chuẩn bị nước sôi và cà-phê. Lê Phương quay lại nhìn Vũ với cặp mắt tươi cười :
- Chắc chắn những điều tôi sắp nói sẽ là thứ bị cấm kị trong môi trường của đại huynh, và cũng chắc chắn là sau những lời tự thú này, chúng tôi sẽ trở thành lũ vô đạo đức trước mắt bậc chính nhân quân tử.
- Ồ ....Chớ nên rào đón như vậy. Mỗi người có một cuộc sống riêng, chẳng nên ví ai với ai.
- Cái bất tiện nhất cho chúng ta là con người khác nhau, hoàn cảnh sống khác nhau nhưng hệ thống giá trị quy chiếu lại chỉ có một. Mà hệ thống giá trị này lại được áp đặt bằng luật pháp và quyền lực, buộc mọi người phải tuân theo. Như thế cũng giống như đặt một cái giường chuẩn rồi bắt mọi người phải nằm vào đó, phải cố vừa vặn với cái giường ấy bằng mọi giá...Có lẽ anh không nhớ rằng thời trung cổ, người ta dùng chiếc giường bằng sắt để tra tấn và hành hạ tù nhân, hễ người nào dài quá khổ thì bị chặt chân, còn kẻ nào lùn nằm không kín giường sẽ bị căng tay chân về hai phía...Nhưng thôi, dẫu sao chúng ta cũng đang ngồi trong căn phòng này, được hưởng sự yên tĩnh này, trong cuộc hội ngộ được chờ đón từ lâu. Dù có bị sụt giá hay lên giá trước mắt anh, đối với tôi cũng chẳng có gì quan trọng.
Dứt lời, anh ta lại nhoẻn miệng cười đoạn giơ tay vẫy đám nhân viên bán hàng. Các cô hối hả bưng cà-phê ra. Lần này, khói bốc lên đã có chút hương vị. Hai anh bạn vàng xì xụp uống cà-phê nóng trong khi ông nhâm nhi tiếp cốc trà. Không hiểu vì sao, ông thấy lòng nhẹ nhõm khi ngồi trước hai gã đàn ông bẻm mép này, một cảm giác đã từ lâu biến mất. Có chút gì đó gợi cho ông những cuộc chuyện gẫu thời trai trẻ, một chút hàm hồ, một chút hồ hởi, một chút hóm hỉnh. Và không mảy may ngụ ý hay mưu tính nào ẩn náu phía sau.
- Chà....Thế này mới tạm gọi là cà-phê. Nhưng nếu so với cà-phê của Hà-nội xưa thì chỉ đáng gọi là nước rửa chén.
- Nếu nói tới thời xưa thì suốt ngày chỉ có ngồi than thở : Bao giờ cho đến ngày xưa ? Bánh cốm ngày xưa, mứt sen ngày xưa, chè tàu ngày xưa. Nhưng thôi, đừng nói nữa anh Vũ đau lòng. Anh ấy là một trong những tác giả hăm hở nhất đã tạo nên cái xã hội này.
- Đúng, tôi cũng đau lòng thật. Nhưng tôi đang chờ câu chuyện « đi tác chiến » của hai anh.
- Đây, tôi xin hầu anh tức khắc. Chúng tôi vốn là những kẻ tầm thường, ham sống cuộc sống bình thường, nên luôn luôn nghe theo tiếng gọi của cái thứ mà anh vừa nói là nguồn hưng phấn mới. Tâm hồn chúng tôi chia làm hai nửa, một nửa dành cho những nghĩa vụ, và nửa kia chúng tôi dành riêng cho bản thân. Phải làm sao cho lương tâm không bị cắn rứt nhưng cũng không thể để cho tâm hồn ủ dột mốc meo. Vì thế, cuộc sống của chúng tôi là một chuỗi những mưu mẹo để cân bằng hai vế của phương trình. Tiền lương hàng tháng, các phúc lợi xã hội, chúng tôi đem nộp đều đặn cho vợ, bởi đó chính là người chăn dắt đàn con và cai quản mái nhà. Nhưng các khoản thu nhập khác, chúng tôi gọi là « quỹ đen » để giành cho các cuộc rong chơi. Để chuẩn bị cho các cuộc rong chơi này, buộc phải làm quen với toàn bộ hệ thống các nhà nghỉ, nói đúng hơn là phải tìm mọi cách kết thân với đám cán bộ quản lý các nhà nghỉ, từ núi xuống biển, từ đồng bằng ngược lên thượng du...Việc này, chúng tôi gọi là « cài đặt hệ số an toàn », điều kiện cần nhưng chưa đủ. Muốn đủ, còn phải có trong tay một mớ lệnh điều hành khống chỉ. Khi vào việc, chỉ cần điền lên đó ngày, tháng và một chữ kí bí ẩn như rồng bay phượng múa là xong. Điều may mắn là cả hai bà vợ chúng tôi đều thiếu chỉ số thông minh, đọc thông quốc ngữ nhưng không đủ trình độ để phân biệt các nét chữ thật giả hoặc các loại lệnh công tác khẩn thật hay khẩn vờ. Cả hai điều kiện tiên quyết này do Trần Phú đảm nhiệm vì cậu ta là đảng viên, và dẫu sao cũng có quyền chức hơn tôi.
- Trong trường hợp này thì đảng là hữu dụng.
Trần Phú đế thêm vào một cách khoan khoái :
- Và mỗi lần hành sự tôi lại buộc Lê Phương ca bài « Nhớ ơn Đảng đời đời » Đảng ở đây chẳng phải một khái niệm mơ hồ mà là chính tôi. Tôi phải mất bao nhiêu công sức ngồi họp chi bộ, chịu đựng sự buồn thiu buồn thối hoặc những mưu toan đấu đá, giành giật bẩn thỉu trong những cuộc tụ tập đó.
- Đúng rồi, ăn quả phải biết ơn kẻ trồng cây. Tôi đã ca cái điệp khúc này hơn hai mươi năm ròng, và hy vọng sẽ còn được ca tiếp. Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh nghe những thú vui cỏn con của những gã đàn ông coi cuộc đời này là cuộc rong chơi, một hành trình không ngưng nghỉ từ tuổi thành niên cho đến chiếc quan tài. Ngoài phần nghĩa vụ với vợ con, công việc, đôi khi một ngọn gió mới thổi tới, một bóng hồng bỗng nhiên lạc vào cuộc đời chúng tôi, một em xinh tươi nào đó đang phòng không ôm gối, hoặc đang sùi sụt khóc vì thất tình, hoặc đang nổi máu giang hồ muốn bứt khỏi cái lồng thép của gia đình vì chán một anh chồng yếu gân cốt hoặc vì không chịu nổi sự đàn áp của một bà mẹ chồng phù thuỷ. Tóm lại, trong tất thảy những trường hợp ấy, các quân tử như chúng tôi đây sẵn sàng giúp đỡ. Nếu cánh én xinh tươi bay tới đậu trên vai Trần Phú thì tôi sẽ là người viết và kí lệnh :
« Điều hành đột xuất đến nghiên cứu chương trình N, A, Z.. ; » . Hoặc là :
« Làm báo cáo tường trình chi tiết về các lễ hội dân tộc, trong sự hợp đồng với viện dân tộc học.»
Và ngược lại. Bao giờ cuộc thám hiểm cũng phải có hai người. Tôi vác ba-lô đến nhà Trần-Phú cho vợ con anh ta thấy rõ ràng là hai bậc gia trưởng đang lên đường làm nhiệm vụ. Chúng tôi ngồi ăn bữa cơm cuối cùng trước lúc ra đi với vẻ trịnh trọng như lính cảm tử Nhật uống chén rượu « quyết tử » trước khi xích chân vào máy bay lao thẳng xuống phi hạm Mỹ...
Tới đó, Trần Phú đột ngột cất tiếng cười sằng sặc. Rồi lát sau, vừa lau nước mắt anh ta vừa hỏi bạn :
- Mày có nhớ hồi đi Tam Đảo không ?
- Nhớ. Nhớ như ngày hôm qua.
Lê Phương đáp, đoạn quay sang Vũ giải thích :
- Đấy là một kỉ niệm thuộc loại « không thể nào quên » Bận ấy, có một em nữ diễn viên tập sự bị đuổi khỏi đoàn vì tội không chồng mà chửa. Chẳng hiểu duyên cớ nào hoặc do ai mách bảo mà em tìm đến nhà tôi, khóc lóc. Tôi hoảng hồn vì lúc ấy đã hơn mười giờ. Chỉ một tiếng sau vợ tôi và hai đứa con sẽ về nhà ăn bữa cơm trưa, nếu họ thấy nàng khóc trên vai tôi ắt hẳn là mâm cơm sẽ bay ra sân, và sau đó là những ồn ào náo loạn khác. Nhưng tôi cũng không thể buộc nữ nhân xinh đẹp như thế ra khỏi nhà một cách thô lỗ. Nghĩ mãi không ra giải pháp mà kim đồng hồ cứ phóng như bay, sau cùng hoảng quá tôi đành chở em đến vườn hoa, mua kem cho em giải khát, rồi phóng đến nhà Trần Phú. Đứng dưới cổng, tôi gọi với lên gác hai:
« Phú, mặc quần áo đi ngay.Thằng Đoàn chết rồi. » .
Nhưng chẳng phải Trần Phú mà là vợ nó thò cổ ra :
« Chết sao nhanh thế ? Chiều qua lão ấy còn ngồi đây uống rượu đến sẩm tối mới chịu về ? »
« Tôi không biết, vừa nghe báo tin nó chết tôi liền chạy đến đây. »
Nói xong, tôi tắc cả họng, chẳng hiểu sao lại bịa ra một chuyện rồ dại như vậy. Nhưng lúc đó, tôi nghe trên nhà tiếng vợ Phú thúc chồng mặc quần áo và rồi tiếng chân nó chạy huỳnh huỵch xuống cầu thang. Hai thằng vừa nhìn vào mặt nhau đã phá lên cười, chẳng ngờ vợ Phú cũng le te chạy xuống. Tôi chỉ kịp kêu :
« Vợ mày kìa ! »
Rồi còng lưng cúi gập đầu xuống bụng, tôi rặn ra một tràng ho như nổ cổ nổ họng. Từ cười đổi sang ho, lại trong tư thế cúi gần như gập đôi người, ho giả bỗng hoá thành ho thật. Tràng ho nọ tiếp tràng ho kia, cứ thế tuôn ra không thể kìm chế. Nước mắt tôi chảy ràn rụa, và khi tôi đứng thẳng lên, hẳn là tôi có bộ mặt của một kẻ đích thị mắc chứng ho gà. Tôi phải rút khăn tay lau nước mắt. Đứng trước tôi, vợ Phú cũng khóc sùi khóc sụt :
« Bao giờ đưa đám bảo em nhá. Lão ấy khoẻ như voi mà chết nhanh đến như vậy. Chẳng ai biết được mệnh trời.»
« Được rồi, cô cứ lên nhà, cơ quan định đưa ma ngày nào tôi sẽ rủ cô đi. »
Tôi nói, đoạn bảo Phú ngồi lên xe rồi phóng đến vườn hoa. Dọc đường, Phú chửi :
« Tiên sư thằng điên , sao lại bịa ra một lý do quái gở đến thế ? »
Lúc đó tôi cũng ân hận vì Đoàn là bạn chung thuỷ từ thời thơ ấu của Trần Phú nhưng gặp lúc bối rối nên chẳng thể sáng tác ra màn kịch nào thích hợp hơn. Bởi muốn kéo ai đó tức khắc ra khỏi nhà, chỉ viện đến tai nạn hoặc cái chết của người quen thân mới có thể bảo đảm trăm phần trăm thành công. Vì vậy, tôi bảo Phú rằng, trước hết hãy cứu nguy cho tôi đã, rồi sẽ giải quyết việc khác sau. Đưa anh bạn vàng đến vườn hoa, tôi giới thiệu với người đẹp rằng đây mới chính là bậc quân tử có thể dang tay che chở cho nàng. Đoạn bỏ mặc hai người ngồi tìm hiểu lẫn nhau, tôi phóng về nhà vừa đúng lúc bữa cơm, bà lão khả kính thân sinh ra các con tôi đã gườm gườm nhìn lên cây kim chỉ giờ của chiếc đồng hồ. Nếu tôi chậm chân mươi phút nữa ắt là nước tương nước mắm phải đổ ra mâm và tiếp theo là phần trình diễn những khúc ca dai như chão.
Vũ bật cười, ông bị cuốn vào câu chuyện một cách bất ngờ, và có thể do bản tính thật thà, ông đâm ra lo thay hai gã đàn ông đàng điếm :
- Thế rồi anh giải quyết ra sao về cái chết bịa tạc kia ?

- Ồ, non cao phải có đường trèo chứ. Sau bữa cơm, chờ cho vợ đi làm, con đi học, tôi liền ngồi vào bàn viết bức thư ngắn cho vợ Phú, trong đó nói rằng có một sự nhầm lẫn đã xảy ra. Người anh họ dưới quê tên là Toàn vừa chết nhưng khi nhận điện tín tôi hoảng hốt trông gà hoá cuốc nên đọc nhầm thành Đoàn. Tóm lại, mọi sự đều yên lành, chỉ có riêng tôi phải về quê đưa đám. Viết xong, tôi phái cậu đàn em trong xưởng phim tôi đang công tác mang thư tức khắc đến nhà Phú.
- Chịu các anh thật.
- Tôi đã nói trước rằng những người mũ cao áo dài như các anh lo việc đại sự. Còn chúng tôi chỉ có mấy thứ mẹo vặt để rong chơi mà chẳng làm tổn hại đến ai.
- Thế cô diễn viên bất hạnh kia sẽ được giải quyết ra sao ?
- Nàng kết Phú. Vậy nàng sẽ trở thành người tình của cậu ta trong thời gian họ còn duyên còn nợ. Việc nàng tìm tôi là nhầm lẫn, ví như con cừu lạc vào chuồng vịt, bởi nàng mê những gã đàn ông cao, to, bóng mượt. Người tình cũ của nàng, tác giả cái thai trong bụng nàng cũng là một gã đẹp mã và bạc tình như Sở Khanh. Tuy nhiên, con người không thay đổi. Nếu tiêu chuẩn cái đẹp đã được định vị một lần thì nó sẽ vĩnh viễn ngự trị như một thứ hình mẫu kêu gọi và dung chứa tình yêu. Theo quy tắc ấy, nàng sẽ chọn Phú. Bởi Phú đẹp trai hơn tôi nhiều nên chẳng những lần ấy mà trong những cuộc phiêu lưu sau này của chúng tôi, em nào thích kẻng trai sẽ thuộc về quyền cai quản của nó. Còn tôi, vừa nhỏ con vừa xấu xí nhưng giỏi hót, em nào thích bùi tai sẽ ngả vào vai tôi. Ấy là sự phân phối theo định luật « lực hấp dẫn tự nhiên ». Chín năm trường kì kháng chiến đã dậy chúng tôi tinh thần yểm trợ tác chiến và khả năng nhường nhịn lẫn nhau. Giữa hai chúng tôi truyền thống ghen tuông, đố kị nổi tiếng của dân Việt nam không tồn tại. Cái thứ « dân tộc tính » đó nằm ngoài khuôn khổ tình bạn của chúng tôi. Chính vì thế, hơn hai mươi năm qua chi bộ này tuyệt đối vững chắc...Sự vững chắc của tình bạn tựa trên nguyên tắc dung chứa và bổ sung lẫn nhau. Phú đẹp trai, tôi xấu xí đen đủi. Nó hào phóng vì xuất thân là cậu ấm Hà nội, tôi keo kiệt « Ăn tép ỉa ra tóc, có chín xu đổi lấy một hào » vì bố mẹ chết sớm, thân tự lo thân từ thuở lên mười. Nó sạch sẽ hơn cả lũ đàn bà đỏm dáng, ngày nào cũng tắm như vịt bất kể mùa đông hay mùa hè ; đi đâu thì chải chuốt trước gương, rồi dí mũi vào cổ áo nách áo hít đi hít lại xem có thơm tho hay không bởi lỡ may giữa đường gặp em nào ngả đầu vào tựa vai đấng anh hùng thì không phải ngất xỉu vì hôi hám. Tôi ngược lại, không thích tắm. Mùa đông một hai tháng không mò vào buồng tắm lương tâm cũng không bị cắn rứt mà linh hồn cũng không đau khổ. Mụ vợ tôi thi thoảng không chịu nổi lại đổ canh riêu cua hay canh thịt lên người tôi để tôi buộc phải tắm.
Vũ không nén nổi bật lên cười và hỏi :
- Thế nếu bà ấy đổ nước rau muống luộc hay canh xuông lên người ông thì ông không chịu bước vào buồng tắm hay sao ?
- Không ! Nước rau muống luộc cũng như nước lã, tôi thay áo là xong. Các vị lãnh đạo thường tự tuyên truyền rằng trong nhà tù đế quốc, họ cương quyết không khai các cơ sở cách mạng. Tôi nghĩ rằng mười ông nói chưa chắc tin được một ông. Còn tôi, tôi cương quyết hơn nhiều : nếu không thực sự bẩn và nhu cầu tắm chưa trở thành cấp bách, tôi không tắm. Bây giờ, để thoả mãn cơn tò mò của anh, người chẳng có mảy may khái niệm nào về những cuộc đời nhỏ bé tầm thường của lũ rong chơi, tôi xin kể nốt hồi cuối. Chúng tôi dẫn em diễn viên xinh đẹp bụng to kia đến nhà nghỉ Tam Đảo. Ở đó, em đóng vai hiền thê của Phú, còn tôi rủ tay giám đốc nhà nghỉ đi săn gà gô ở các vùng rừng lân cận. Qua ba tuần, tay giám đốc này chết mê chết mệt vì đủ loại tiếu lâm. Đêm nào gã cũng dính vào tôi như sơn, ăn tối xong còn pha đến hai ấm chè để ngồi hóng chuyện. Sang tuần thứ tư, đã đến lúc sắp hết hạn « công tác », tôi mới ngỏ lời nhờ gã giúp cho cô em xinh đẹp vào viện huyện nạo thai. Anh ta hăng hái nhận lời tức khắc. Sáng hôm sau, ô-tô nhà nghỉ chở Trần Phú và phu nhân rởm đến bệnh viện huyện giải quyết nỗi buồn, với lý do « nhỡ kế hoạch ». Tóm lại, mọi sự được thu xếp hoàn hảo. Khi chúng tôi quay về Hà-nội, em gái xinh tươi đã cất tiếng cười khanh khách, chẳng còn vẻ tuyệt vọng và hoảng loạn như ngày leo lên căn gác nhà tôi. Rồi sau đó ba năm.
- Cậu nhầm rồi, hơn bốn năm chứ. Nói chính xác là bốn năm hai tháng.
- Ờ, lâu quá nên tôi chẳng còn nhớ chính xác. Bốn năm sau, chúng tôi giúp cho em được tuyển vào đoàn kịch nói tổng cục chính trị. Trong môi trường mới, em gặp được ý trung nhân, một diễn viên xoàng nhưng là người chồng lý tưởng. Trước ngày em lên xe hoa, chúng tôi tổ chức bữa cơm tiễn biệt. Một bữa ăn thịnh soạn nhất có thể có được trong điều kiện sống thời đó. Bữa cơm ly biệt nhằm liệt kê lại những kỉ niệm lần chót như người ta kiểm nghiệm lại mớ quần áo của thây ma lần chót trước lúc đóng hòm. Đôi giọt lệ ngậm ngùi nhỏ xuống và vài lời cảm ơn nồng thắm. Sau đó, đường đời lắm nẻo, nàng ra đi, bóng hồng biền biệt. Còn chúng tôi, quay về với những lão bà khả kính thân sinh ra đám con mình.
Nhà văn ngừng lời, đưa tay sửa cặp kính trên sống mũi rồi hỏi Vũ :
- Sao, anh đã bao giờ nghe những câu chuyện nhảm nhí như thế này chưa ?
- Ồ...thú thực là chưa.
Vũ lúng túng đáp, rồi thú nhận :

- Trong cơ quan của chúng tôi, những sự việc như thế buộc phải đưa ra chi bộ kiểm điểm và cán bộ buộc phải nhận kỉ luật.
- A...ha ...ha...
Cả hai gã đều cất tiếng cười như đập pháo. Rồi Lê Phương lau nước mắt và hỏi ông :
- Vậy những người chịu thi hành kỉ luật có bao giờ dám há mồm ra đề nghị chi bộ kiểm điểm các cấp lãnh đạo cao hơn không ? Bởi ai cũng biết rằng quá nửa số uỷ viên bộ chính trị có hai vợ. Còn bí thư Ba Danh chẳng những hai vợ mà còn một bầy cung phi dưới danh nghĩa y tá. Liệu khi kiểm điểm các đồng chí của mình, anh có nghĩ đến những người cùng phạm một thứ khuyết điểm, cứ coi là như thế, thậm chí còn trầm trọng hơn, sự tái phạm còn nặng nề hơn nhưng vì họ đứng ở vị thế cao hơn, quyền lực mạnh hơn nên họ nghiễm nhiên được tha bổng hay không ?
- Có chứ ! Tôi có nghĩ. Nhưng tôi là kẻ đơn thương độc mã và lực bất tòng tâm.
Ông đáp, không khỏi buông tiếng thởi dài. Và Lê Phương tiếp lời :
- Còn cái guồng máy khổng lồ kia, cái guồng máy quyền lực cứ tiếp tục quay, tiếp tục nghiền nát biết bao con người, với tất cả thói đạo đức giả và sự bất công của nó ?
Ông không biết trả lời ra sao nên đành im lặng. Nỗi ngao ngán tràn ngập tâm hồn. Những điều gã đàn ông đen đủi xấu xí này vừa nói đâu có mới lạ đối với ông ? Ông đã từng nghĩ thầm nghĩ vụng. Nhưng ông chỉ nghĩ một cách lén lút vì không dám và không muốn tin đó là sự thật.
Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của ông và của bao người khác dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao? Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy ? Sự đê tiện và phi nhân đó, ông từng biết nhưng ông vẫn muốn tin rằng nó chỉ dành riêng cho một số người trong guồng máy quyền lực. Bởi cuộc cạnh tranh quyền lực từ cổ chí kim và cho đến vĩnh viễn muôn đời vẫn là cuộc đấu tàn khốc nhất trong kiếp nhân sinh, nó tước bỏ mọi phẩm chất tốt đẹp chỉ còn để lại cho con người sự tham lam ô nhục, sự mưu toan đểu cáng và những cuộc trình diễn thói độc ác. Nhưng dẫu sao, ông vẫn không muốn chấp nhận rằng toàn thể cái xã hội mà ông đã đặt biết bao kì vọng lại là xã hội vô đạo đức, lưu manh. Dẫu sao, nó vẫn là canh bạc mà ông cũng như bao nhiêu người cùng thời đã đặt cược toàn bộ cuộc đời. Dẫu sao, nó vẫn là tạo phẩm chung, một cuộc hoài thai tập thể. Không người mẹ nào muốn công nhận rằng mình đẻ ra một quái thai...
Giờ đây nghe chính những hồ nghi ấy thốt ra từ cửa miệng một người xa lạ, kẻ vừa gặp mặt vài giờ, ông hiểu rằng những gì ông còn ngờ vực một cách sợ hãi trong những đêm mất ngủ đã được công chúng coi như sự thực hiển nhiên. Và ông, giống như kẻ trú ngụ trong cung cấm, chỉ có thể nhìn thấy loạn quân khi thành đã vỡ và lửa cháy bốn bề.
Cúi xuống nhìn những ngón tay mình một cách vô thức, Vũ nhận thấy những chiếc móng đã dài mà chưa được cắt, ông giơ lên gẩy móng nọ vào móng kia. Nhà văn nhìn cử chỉ đó, tủm tỉm cười đoạn tiếp lời :
- Giờ anh hiểu vì sao chúng tôi chọn kiếp sống của những kẻ rong chơi, hài lòng cuộc đời cỏn con với những vui thú cỏn con. Đấy là cũng là một cách mà cổ nhân gọi là ở ẩn. Bởi ngay sau ngày giải phóng thủ đô, chúng tôi biết rằng đại sự hỏng rồi, rằng thuyền tình đã vỡ, rằng ước mộng đã tan. Ngày lên đường kháng chiến, tất cả mọi người đều có chung một giấc mơ. Cách mạng, đối với một xã hội trì trệ, hoặc một dân tộc nô lệ là cơ hội thanh lọc vĩ đại, là cơn bão quét sạch rác rưởi và đem lại sức sống mới mẻ, mạnh mẽ. Vì thế, người ta mới chấp nhận chết vì nó. Người ta chết vì non sông, nói đúng hơn, vì một tương lai tươi sáng. Những cuộc cách mạng thật sự bao giờ cũng giải phóng sức sản xuất và nới rộng vùng đất cho tự do. Nhưng cuộc cách mạng này, ngoài cái phần đã làm được là giải phóng dân tộc, nó chẳng những không đem lại tự do, cũng không mở rộng được sức sản xuất mà ngược lại nó thiêu huỷ toàn bộ những giá trị văn hoá đã vĩnh định của dân tộc, nó phá huỷ luôn sức sản xuất. Cải cách ruộng đất chính là cuộc tàn sát có hệ thống và quy mô tầng lớp nông dân có năng lực. Như thế, về phương diện xã hội, cuộc cách mạng này chỉ làm một việc ghê tởm là lật nhào lớp bùn dưới đáy ao lên mặt nước. Và cùng với thứ bùn đó là xác cóc nhái chết cùng mọi thứ rác rưởi lẫn rong bèo.
Anh ta ngừng lời. Ông cảm thấy như vừa bị ai tát một cú nổ đom đóm mắt. Một cái tát không kiêng dè. Một cái tát tàn bạo. Nhưng người đàn ông kia đâu có định nhằm vào cá nhân ông ? Anh ta tuyên bố một sự thật. Sự thật đó cũng chính là giá treo cổ đối với tuổi trẻ của anh ta, và của bao nhiêu chàng trai khác đã chết oan cho ảo vọng. Bởi khi nói lên điều đó mắt anh ta buồn đến thế. Bởi những nếp nhăn hằn trên gương mặt anh ta một cách sầu thảm khi anh ta không cười. Phải chăng những câu chuyện bông lơn nhảm nhí kia cũng chính là một cách để lãng quên đi mối thất vọng lớn lao ? Mối thất vọng của toàn dân tộc !
Cả ba người đều im lặng. Những người khác đã rút đi từ lâu. Chỉ còn lại ba cô bán hàng đứng hí hoáy nhổ lông mày, cô nọ vành mặt cô kia ra mà thực thi cuộc làm đẹp. Họ hồn nhiên coi như trên cõi đất này không có ai. Trần Phú ngứa mồm bảo :
- Ba con bé kia chắc mới từ quê lên. Bọn mình ngồi đây chút nữa chắc chúng nó vén áo lên nhổ lông nách.
- Ồ, không loại trừ khả năng đó. Vì họ chẳng có nhu cầu làm duyên làm dáng hay chơi trò thẹn thùng trước mặt ba lão già.
- Không lẽ bọn mình đã thật sự biến thành giẻ rách hay sao ?...
- Cũng chưa đến nỗi, nếu nhận định một cách khách quan. Hàng hoá hãy còn xài được nếu gặp các mợ nạ dòng ba, bốn chục. Nhưng đây toàn lũ trẻ nõn ra ; mười sáu mười bẩy là cùng. Tuổi đó là tuổi con cháu chúng ta.
- Ôi, tuổi già ! Tuổi già xồng xộc đến sau lưng. Này anh Vũ, anh có cảm thức ra sao đối với tuổi già ?
- Tôi chấp nhận và chung sống hoà bình với nó, trong chừng mực còn có thể.
- Đấy là cách ứng xử khôn ngoan.
Trần Phú nói đoạn đứng lên trước :
- Sắp tới giờ cơm chiều, bệnh nhân phải trở về phòng thôi. Lê Phương tháp tùng anh quay lại khu điều trị. Tôi thanh toán xong sẽ đuổi theo hai người.
Khi ông cùng anh chàng nhà văn bước ra sân, nghe tiếng Trần Phú oang oang bảo mấy cô bé :
- Này, làm đỏm làm dáng thì phải tìm nơi tìm chốn. Đây có phải phòng triển lãm đồ nghề phụ nữ đâu ?
Chẳng nghe thấy tiếng ai trả lời. Hẳn là mấy cô gái kia sợ đến tắc họng. Lát sau, Trần Phú đã đuổi kịp hai người. Họ thong thả quay trở lại khu nhà dành cho cán bộ cao cấp rồi chia tay ở chân cầu thang :
- Chúc đại huynh mau lành bệnh. Hôm nay, thấy mặt người anh hùng, tôi hoàn toàn thoả mãn.
Nhà văn nói lời cuối.
Khi Vũ quay lại phòng, gặp đám y tá xúm quanh bác sĩ trực, một phụ nữ đãy đà trạc ngũ tuần. Họ mang máy hô hấp nhân tạo đến cho người bệnh nằm giường đối diện với ông. Mặt anh ta xám ngoét, mắt nhắm nghiền. Cặp môi mím lại chỉ còn là một vệt thâm. Vũ bước vào vừa đúng lúc y tá chụp mũ thở ô-xy lên mặt người bệnh. Ông lẳng lặng lách sau lưng họ về giường mình.

KÝ ỨC (4)


Trời lại mưa, cơn mưa thẹn thùng của mùa xuân.

Những làn mưa thưa hạt, rắc lổ đổ xuống mặt đất một cách e dè rồi sau đó tắt ngấm. Gió từ phía biển Đông cuốn lên đuổi những làn mây lang thang qua khung trời hoang vắng. Mây tím màu hoa cà khiến ông nhớ tới vườn cà quê hương, một quê hương quá đỗi mờ nhạt xa xôi chỉ còn lại vài hoài niệm mún manh và huyền hoặc. Rồi màu mây tím ấy lại gợi cho ông những cánh đồng miền Provence, nơi người ta trồng cỏ thơm lavande để làm nước hoa và xà-phòng. Lần đầu tiên đứng trước cánh đồng mênh mông màu lơ tím, tâm hồn ông tê dại đi vì vẻ đẹp của xứ người. Và ông thầm khóc trong tim :
― Ôi, bao giờ những cánh đồng xứ sở, những miệt đồi mênh mông nắng cháy miền Trung có thể khoác được tấm áo choàng mỹ miều kia ? Ôi, bao giờ những người dân cày quê ta có được vẻ mặt thanh thản như những người nông dân xứ này khi bước trên đất đai của họ ? Ôi, bao giờ những đứa bé chăn bò quê ta có thể ăn mặc chĩnh chện như đứa bé chăn bò đang rong ruổi dưới bóng những hàng bạch dương kia ? Bao giờ và bao giờ ?
Bao nhiêu tháng năm, tim óc ông sôi sục vì câu hỏi ấy. Bao nhiêu tháng năm, ông bị ám ảnh bởi một biểu tượng song trùng, một sự so sánh đau đớn bất khả nguôi dịu, bất khả quên lãng: những đôi chân mang giầy da tất ấm của những người nông dân Pháp đặt bên cạnh những đôi chân nứt nẻ, móng đen xì bùn phèn, với những ngón chân choẽ toác ra vì ngàn năm phải bấm xuống ruộng bùn của dân cày Việt nam. Cặp hình ảnh này theo đuổi ông như hình với bóng, trong những cơn mơ chính ngọ, trong những cơn thổn thức nửa đêm, khi ông ngồi trong nhà tù cũng như khi ông ngồi trên khán đài danh dự. Dân tộc đau khổ của ông. Số phận cay nghiệt mà tạo hoá đã dành cho họ. Bao nhiêu giọt nước mắt ông đã nhỏ vì cái số phận cay nghiệt ấy. Tất cả những gì ông đã cố sức làm, trong hy vọng can trường là cải tạo nó.
― Ta yêu dân tộc của ta như vậy, tại sao họ chẳng yêu ta ? Tại sao họ không thể thí cho ta chút hạnh phúc cỏn con, tầm thường như mọi kiếp nhân sinh khác ?
― Ồ, dân tộc, đó là một khái niệm trừu tượng, một đám đông vô nhân dạng, tiếng ồn ào của một biển hơi thở, sự va đập trong phút chốc của con sóng thời gian. Kẻ ngăn cấm ngươi sống cuộc sống đích thực của con người chính là các đồng chí thân thiết của ngươi, và trước hết là chính ngươi, bởi ngươi đã trót đóng vai ông thánh.
― Nhưng dân tộc của tôi nhỏ yếu, để khích lệ niềm tin và sự can đảm nơi họ, liệu tôi có thể làm gì khác ?
― Ngươi đã chọn lối đi dễ nhất, tương hợp nhất với tầm vóc trí tuệ dân tộc của ngươi, và vì thế ngươi phải trả giá. Trò chơi làm thánh không mới lạ gì trong lịch sử con người. Bệ thờ nào chẳng trang trí bằng những đoá hoa giả, dù bằng bạc, bằng đồng trong thời quá vãng hay bằng các loại nhựa dẻo và kim cương nhân tạo ngày nay. Nhưng mọi trò chơi đều phải trả giá. Trên cõi đời, chẳng thứ gì được cho không.
Người đối thoại với ông hạ lời cuối, với nụ cười riễu cợt trên môi. Đoạn ông ta biến đi theo làn gió. Một cơn gió xuân ẩm ướt mang theo hơi lạnh khiến ông rùng mình. Ông đưa mắt nhìn theo kẻ khinh bạc kia, dường như ông ta đến từ lối rẽ bên trái ngôi chùa, bước qua mảnh sân với vườn mai. Rồi ông ta biến đi cũng theo ngả ấy. Cái gã đàn ông giống ông như tạc, nhưng với làn da xanh màu lá chuối non và cái nhìn đầy vẻ khinh khi.
- Thưa chủ tịch, mời người vào nhà kẻo lạnh.
Cậu lính to béo đã tiến sát lưng ông, cất tiếng đột ngột khiến ông giật nẩy mình.
- Được, tôi vào đây.
Ông đáp, có chút tức giận mà không dám bộc lộ. Dù muốn hay không, ông cũng bị kiểm soát từ mọi phía. Không một phút được tự do. Cuộc đời ông là của dân tộc. Sức khoẻ của ông là của dân tộc. Thời gian của ông cũng là của dân tộc. Không còn gì riêng cho ông nữa sao ? Cuộc chơi này thật cay nghiệt !
- Boong...boong boong...
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Chuông chùa bỗng đổ hồi dồn dập, ròn rã.
- Boong...boong...boong...
Ông quay lại hỏi cậu cần vụ :
- Sao hôm nay nhà chùa gióng chuông nhiều như vậy ?...
- Con quên không thưa với người rằng hôm nay đích thân sư cụ chủ trì lễ giải oan, tẩy trần cho ông Quảng. Nhà chùa sẽ kéo chuông và tụng kinh nhiều hơn thường lệ. Xin chủ tịch thông cảm.
- Chúng ta trú ngụ ở đây là đất nhà chùa. Họ có quyền làm những gì họ muốn.
- Dạ...Nhưng dẫu sao ...
- Hôm nay làm lễ gì, tôi chưa nghe rõ ?
- Dạ, lễ rửa oan, tẩy trần cho người đã khuất....Ông tiều phu dưới xóm đã chết được bốn mươi chín ngày rồi ạ.
- Đã bốn mươi chín ngày rồi ? Nhanh đến thế ?
- Dạ. Hôm qua chủ tịch xã lên tận văn phòng đề nghị anh Lễ cho phép gia đình ông Quảng được lên đây cúng. Khi nào họ lên, đại đội sẽ tăng cường bảo vệ.
- Ra thế...
Ông buông một tiếng hững hờ :
― Đấy chính là việc của họ. Tăng cường bảo vệ để làm gì ? Chắc hẳn để ta khỏi ngã trước nàng vợ goá của ông tiều phu. Còn những người dân quê kia liệu có nhu cầu gì để ám hại một ông chủ tịch ?
Ý nghĩ thầm kín ấy chạy qua óc não ông, vừa như sự riễu cợt lại vừa như lục vấn.
- Mời người dùng trà cho nóng.
- Cảm ơn.
- Chú kê cái ghế xích-đu ra gần cửa cho tôi...Ở đó, tôi có thể đọc báo bằng ánh sáng tự nhiên.
- Dạ, đúng vậy. Hôm nay không có mặt trời.
Cậu lính thật thà đáp rồi loay hoay mang chiếc xích-đu ra kê sát cửa. Ông vừa uống trà vừa nghĩ rằng lát nữa, ông có thể nhìn rõ bầu đoàn thê tử của người tiều phu, trước hết là đứa con trưởng. Câu chuyện này đã trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên kể từ khi ông biết. Nỗi tò mò khôn cưỡng khiến ông nảy ra nhu cầu ngắm những nhân vật đích thực xoay quanh tình sử của cặp vợ chồng chênh lệch, trớ trêu này. Một nụ cười riễu cợt khác lại nảy sinh :
― A, ngươi thèm khát được thấy mặt đám người này vì họ là tấm gương phản chiếu lại cuộc đời của chính ngươi. Một sự phản chiếu gần như tuyệt đối nhưng theo chiều ngược lại. Bởi gã tiều phu chẳng đóng vai ông thánh, gã sống đúng thân phận con người. Gã là kẻ chiến thắng trên mọi nỗi bất hạnh đã trải nếm, còn ngươi, ngươi là kẻ chiến bại dưới bóng quyền lực và vinh quang. Một kẻ chiến bại câm lặng và thảm hại.
- Thưa chủ tịch, như thế này đã được chưa ạ ?...
- Lui về phía sau một chút nữa là được. Không nên để họ thấy mặt tôi, như vậy phiền cho cả đôi bên.
- Dạ.
- Hình như có tiếng cậu Lễ ?
- Thưa chủ tịch, chính xác như vậy. Anh Lễ đưa quân lên tăng cường đấy ạ. Sau đội tăng cường mới đến gia đình người tiều phu.
- Bảo cậu Lễ là tôi đang đọc tài liệu, cứ việc bố trí người bên ngoài, không cần vào đây bẩm báo với tôi.
- Dạ.
Chàng lính béo liếc lần cuối xem chiếc ghế kê đã thuận hay chưa rồi đi ra đón đội tăng cường. Ông cầm tập tài liệu ra xích-đu ngồi, trong tư thế tiện lợi nhất để có thể quan sát đám người sẽ đi qua mặt ông trước khi vào chùa chính.
Không gian ngào ngạt mùi nhang. Tiếng gõ mõ vang rền khi hồi chuông ngưng lắng. Ông nghe tiếng bước chân đám lính, rồi họ xuất hiện ngay trước hành lang xếp thành một hàng rào. Tất cả nghiêm trang như những pho tượng gỗ, mặt hướng ra ngoài, lưng quay lại phía căn phòng của ông, nơi cánh cửa nửa khép nửa mở để che khuất người ngồi trong. Chừng như Lễ biết ý ông nên đã đứng ở một góc khuất nào đó. Sự vắng mặt anh ta khiến ông dễ chịu hơn.
- Boong...boong...boong....
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Tiếng chuông lại gióng lên để làm hiệu cho đoàn người bước tiến vào chùa. Sư nữ bước ra sân, hai tay chắp hình búp sen đón khách. Người đầu tiên ông nhìn thấy chẳng phải là một thành viên trong gia đình kẻ tiều phu xấu số mà là một sư bác, chắc chắn ngoại ngũ tuần. Theo sau ông ta còn hai sư nữa rồi mới tới người con trai trưởng của ông Quảng. Chủ tịch nhận ra anh ta tức khắc ngay từ cái nhìn đầu tiên và có đôi phần thất vọng. Trên phương diện hình thức, anh ta chẳng gây được chút ấn tượng nào. Một gã đàn ông nhỏ thó, vai lệch, gương mặt nhọn hoắt, không gợi lại chút xíu hình ảnh người cha cũng chẳng có một hạt cỏn con sự quyến rũ nam tính. Anh ta bận quân phục thu-đông cũ, thứ y phục thông dụng của đám cán bộ xã. Anh ta chẳng có râu hùm, cũng không có hàm én, nhưng ngay cả dáng đi cũng lạ kì, dáng đi của anh ta giống hệt dáng đi của những người đàn bà mà đa phần trong số họ phải chấp nhận kiếp cô đầu hay kĩ nữ. Vừa vặn vẹo như rắn trườn vừa nhón gót như loài chim sẻ. Tuy nhiên, với bộ dạng sầu khổ và èo ọt, con người anh ta vẫn toát ra một sức mạnh âm hiểm rất khó miêu tả hay cắt nghĩa. Chủ tịch bất giác buông ra một tiếng : A!...
― Đây chính là con người kiểu mẫu của thứ xảo võ, lối đánh trông tưởng chừng như múa lượn nhưng toàn nhằm vào hiểm huyệt của đối phương. Khi xuống đòn, họ có thể kết thúc đối phương một cách bất ngờ. Nói cách khác, đây là thứ đô vật không bao giờ bước lên võ đài, là kiếm sĩ không xuất hiện lúc thanh thiên bạch nhật mà chỉ quật đổ đối phương bằng cách đứng rình trong bóng tối để đâm họ từ phía sau lưng. Kiểu người này chẳng bao giờ lùi bước trước bất cứ trở ngại nào để đạt được tham vọng của mình, bất chấp lương tri cũng như bất chấp sự khinh bỉ của tha nhân. Nhưng thần hộ mệnh của Quý không đủ quyền năng để giúp anh ta thành công, nên cuộc chiến đấu của kẻ thất phu chỉ tạo ra một đàn những đứa trẻ thiếu dinh dưỡng lẫn sự chăm sóc.
Ông thầm nghĩ vì đã thấy đội quân ấy đi sau vị gia trưởng, tất cả đều chít khăn tang trắng thay cho khăn sô, sắp hàng theo thứ bậc. Tiếp theo gia đình này là một đám ông bà già; chắc họ là bà con gần gụi của kẻ đã khuất. Cuối cùng là mẹ con cô vợ trẻ với một thanh niên bảnh bao mà ông đoan chắc là chàng sinh viên tên Quỳnh. Đám người không gây ấn tượng nào đặc biệt.
Chủ tịch bất giác nhắm mắt. Nỗi ám ảnh khiến ông quay lại với hình ảnh người con trưởng, lúc này đã vào hẳn trong chùa :
― Một đứa con èo ọt thảm thương như thế mà quyết liệt chống lại cha, hòng dùng vị thế của mình bắt ông ta làm nô lệ ? Phi lý thay cõi đời. Một kẻ sống trong vòng bảo hộ của bậc gia trưởng nhưng lại muốn thực thi quyền năng của y trên chính ông ta, phải chăng đó là sự điên rồ có tính cá biệt hay là nguyên lý chung của muôn loài, tất cả những đứa con cần phải giết cha và những con thú lớn khôn cần phải cắn chết đám thú già để tìm thực phẩm ? Nếu vậy thì khoảng cách giữa con người với muông thú đâu có xa ?
Ngoài sân, chuông gióng giả vang lên, hồi nọ ngưng lắng hồi kia lại tiếp diễn khiến những vọng âm reo như sóng trên khắp các giải núi và không gian chùa Lan Vu ngập tràn một sắc thái thần diệu. Sân chùa vắng tanh vì đoàn người đã vào hết bên trong, chỉ còn lại mớ lá vàng rải rác. Chủ tịch nhìn lên khoảng trời lơ vừa ló rạng sau cơn mưa xuân, tìm lời giải đáp. Nhưng lời giải không tới. Bởi ông không có kinh nghiệm trực tiếp. Bởi ông yêu cha ông, và ông không có nhu cầu cạnh tranh quyền lực hay tiêu diệt kẻ đã sinh thành mình. Ông cũng không tin nhu cầu ấy là phổ biến cho toàn nhân loại :
― Phải chăng vì ta đã giã từ gia đình quá sớm, và ta luôn thiếu vắng người cha, nên trong tim ta ông chỉ là mong mỏi và buồn nhớ ? Nhưng còn hàng triệu người khác vẫn sống với cha mẹ họ một cách an lành? Bi kịch kiểu gia đình kẻ tiều phu kia lần đầu ta mới nghe và mới thấy. Có những đứa con hiếu đễ và những đứa con ngỗ ngược, vô ơn. Nhưng vì dục vọng mà biến thành kẻ cừu thù huyết chiến với bậc sinh thành hẳn chỉ là những cá nhân đặc biệt. Nếu phụ tử tình thâm mà còn những kẻ như vậy thì kể làm chi lũ khác máu tanh lòng ?
Sau cùng, ông nhận thấy ông đã quay lại với cái ngục luyện tội quen thuộc, cái pháp đình mà nơi ấy, ông vừa là quan toà vừa là người biện hộ.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh tập thể đã vang lên. Hôm nay, ba vị sư dưới núi được phép lên đây để hỗ trợ sư cụ và sư nữ. Tiếng mõ vọng nhịp nhàng điểm xuyết tiếng ngân nga vang rền của chuông bát, hoà lẫn tiếng đọc kinh. Đám người bên kia chùa đang sống cuộc sống của họ, niềm tin của họ. Họ tin chắc rằng trời phật, các đáng thần linh tối cao hiểu được những ước nguyện chân thành ấy, rằng những gì họ đang làm giờ đây là để giải đi những oan khuất cho người đã chết, để xoá đi những lỗi lầm của ông ta, để hoàn lại danh dự bị vấy bùn và những thua thiệt phải cam chịu trong câm nín. Và sau rốt, để con đường dẫn tới cõi cực lạc đón nhận kẻ đã từ bỏ cõi trần. Còn ông, ông sống với niềm tin nào bây giờ ?
Một cơn đau chạy dọc sống lưng, khiến hai đùi ông tê lạnh. Chủ tịch khép chặt cánh cửa, quay vào buồng trong. Ông đi nằm. Chưa bao giờ ông đi nằm vào giờ này trừ những trận ốm. Hôm nay, ông không ốm nhưng ông muốn đi nằm. Ông thấy bại hoại. Một sự bại hoại cả phần xác lẫn phần hồn. Ông không thể và cũng không còn muốn giữ đúng những chuẩn mực sinh hoạt của một bậc quân vương. Ông chẳng còn muốn đóng vai một người lãnh đạo có sức khoẻ vô biên, làm việc như cỗ máy không han rỉ
― Suốt đời ta đã phải chèo chống, phải cố gắng hành xử cho thật giống máy inoc. Nhưng con người không thể là cỗ máy. Con người phải han rỉ với tháng năm.
Ông thầm nghĩ, nhưng trước khi nằm xuống vẫn liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường và trải qua một thoáng chùng chình vì đồng hồ mới chỉ chín giờ rưỡi sáng :
― Có ích gì vào lúc này, tinh thần gương mẫu của ông vua già bị giam hãm ? Thôi, hãy chấp nhận thực tế là cõi người hữu hạn và sức người chẳng phải là dòng sông không cạn kiệt với thời gian. Ta đã ngoại thất tuần, ở tuổi này chớ nên bám vào ảo vọng. Suốt đời ta đã hy sinh vì những giấc mơ lớn, những giấc mơ người ta thường gọi là lý tưởng, là mục đích cao thượng. Suốt đời ta quay mặt về phía thánh đường nơi con người dâng hiến tuổi trẻ cũng như sinh mệnh một cách vô tư. Nhưng sau rốt, ta mới nhận ra rằng lý tưởng ấy cũng chỉ là ảo vọng. Nó giống như lâu đài huyền bí đứng trong sương mù bên kia bờ sông quyến rũ những kẻ đứng bên này. Người ta xuống thuyền để bơi sang. Nhưng khi cập bến, thuyền nát ván rơi mà chẳng thấy lâu đài cũng không gặp châu báu. Chỉ đơn thuần là một bãi đất hoang trên đó, ngoài những đống đổ nát là trăm nghìn mảnh thuỷ tinh vỡ phản chiếu ánh cầu vồng.
Ý nghĩ ấy khiến tay chân ông bủn rủn còn tâm hồn ông vật vờ như đám xác phù du bập bềnh sóng đánh. Ngay tức khắc, một cơn giận bùng lên, ông lại cao giọng tự xỉ vả mình :
― Ồ, chớ nên bị lung lạc bởi những ý tưởng bi quan như vậy. Chớ nên dẫm lên vết chân của đám hư vô chủ nghĩa. Ngươi có muốn quay lại thứ chủ nghĩa đó hay không ? Hay ngươi muốn theo dòng tu loã thể, sống cuộc sống của cỏ cây và muông thú ? Với ngần ấy thời gian, cách mạng đã tiến trên một đoạn đường dài. Chấp nhận hay không chấp nhận, sự thật cũng bày tỏ trước mắt ngươi như năm ngón tay trên một bàn tay đang xoè ra trước mắt. Đích sở thị, chúng ta đã có một đất nước độc lập, chúng ta có quốc kì, có chính phủ, có quân đội, hiện thực của những giấc mơ dài dặc được nuôi dưỡng trên chiến khu.
Gã đàn ông có nước da nhợt nhạt màu xanh nõn chuối chợt quay lại, đứng tựa lưng vào tường và nhếch mép mỉm cười :
― Nhưng chính phủ để làm gì, quốc kì để làm gì khi những người dân còn sống lầm than hơn thuở trước ? Guồng máy quyền lực này có ích gì nếu nó chỉ dùng để bảo đảm lợi ích cho một số ít ỏi trong khi nó đè nén toàn thể dân chúng và đẩy họ vào những cuộc tàn sát tập thể mà cuộc tàn sát tự nguyện lớn nhất chính là cuộc chiến tranh này ? Những đồng chí của ngươi mơ ước một khải hoàn môn lớn hơn nữa để làm vinh danh chúng. Chúng mơ ước một cuộc chiến tranh vĩ đại hơn. Danh từ vĩ đại là con điếm vĩnh hằng tồn tại, vĩnh hằng lừa mị chúng sinh. Cả ngươi nữa, ngươi cũng đã từng bị nó huyễn hoặc. Vì muốn là bó đuốc dẫn đường cho dân chúng, vì muốn là con người vĩ đại, bậc quốc trưởng vĩ đại, ngươi đã tự nguyện đóng vai ông thánh. Và ngươi đã hại nàng, một người đàn bà ngây thơ, hoàn toàn tin cậy nơi ngươi, điều này ta nói đúng hay sai ?
Ông không dám trả lời. Ông không đủ can đảm để trả lời. Kẻ khiêu khích chẳng còn cười mỉm mà nhún vai một cách khinh bỉ. Sau khi ném cho ông cái nhìn hạ cố gã bước qua đầu ông đi ra ngoài qua lối cửa sổ.
Chủ tịch chợt thấy sống mũi cay xè :
― Trời đất ơi, cớ sao ta dễ chảy nước mắt thế này ? Bệnh già chăng, hay vì cơn cớ nào khác nữa ? Một người đàn ông không nên khóc dễ dàng như vậy. Ta đã đổi thay, ta đã đổ đốn ra tự lúc nào ?
Ông tự rủa xả một cách dữ dội, nhưng nước mắt cứ chảy, từ từ lăn xuống hai thái dương rồi chui vào đám tóc. Và bên tai ông, câu hát quen thuộc của chàng bác sĩ vang lên :
― Người yêu dấu ơi...
- A ha ha ha ...
- A ha...ha...ha...ha...ha...ha...ha...
Những tràng cười khành khạch cất lên một cách hỗn xược và ngay tức khắc ông nhìn thấy gương mặt to tròn, má xệ, cằm xệ của chủ tịch Mãn. Ông ta hiện lên trong quầng sáng màu tro tím, nước da xanh vằn vện như da tắc kè. Vởi vẻ vui thú đặc biệt, ông ta ngắm nhìn ông như tuồng đứa bé quan sát con dế mèn. Chủ tịch nổi giận lên tiếng :
- Tại sao ông đến đây, thưa chủ tịch ?
- Ý ngươi nói ta là vị khách không mời mà đến, đúng hay chăng ?
Ông ta vặn lại.
Chủ tịch lặng im.
Chủ tịch Mãn tủm tỉm cười :
- Sao không trả lời thẳng thắn ? Đây đâu còn là cuộc cờ thế sự, là võ đài ngoại giao mà phải diễn trò ? Ta với ngươi âm dương cách biệt, dù muốn hay không cũng chẳng có ảnh hưởng đến nền chính trị của hai lân bang. Vả chăng, ngươi giờ đây khác nào Na-pô-lê-ông trên đảo, còn lý do chi để giữ gìn ?
- Tôi không quen, thưa chủ tịch.
- Ồ, ngươi lịch sự lắm, thứ lịch sự của bọn da trắng. Nhưng ta và ngươi vốn xuất thân là kẻ quê mùa, ta ở Hồ nam và ngươi ở Nghệ An, cái tỉnh nghèo mạt rệp, nơi dân cày nhai khoai khô trừ cơm, còn khốn khổ hơn cả đám dân Hơ-mông làm bánh ngô hay nấu cháo ngô. Đã là dân quê thì cứ ứng xử theo gốc rễ của mình, phô trương làm chi thứ lịch sự học mót ở xứ người ?
- Xin ngài chuyển đề tài cho, thưa chủ tịch.
- Ta không chuyển đề tài thì ngươi làm gì được ta ?
- Thưa ngài, chớ quên rằng ngài là khách.
- Ô , ta đã quên từ lâu sự phân ngôi chủ khách, dù ta vẫn diễn trò ngoại giao. Đối với ta, tất thảy ngoại nhân hiện diện trước mặt ta đều là những con mồi trong cuộc đối đầu với chúa sơn lâm.
- Tôi biết ngài vẫn tự coi mình là chúa sơn lâm thực sự còn Mỹ cũng như các nước phương Tây chỉ là đám hổ giấy. Vậy nếu tin ở sức mạnh của bản thân, tại sao ngài không trực tiếp đảm nhiệm cuộc chiến tranh này ?
- Ngươi nhầm, nếu quả thực Mỹ và bọn quỷ da trắng phương Tây đều là hổ giấy thì can cớ chi ta lại để cho lũ chư hầu phương Nam khởi sự cuộc chơi ? Ta chưa nuốt được bọn da trắng vì trong thâm tâm , ta hiểu chúng chính là những con mồi quá to đối với họng của ta. Ngươi đã đọc chuyện Trăn nuốt gỗ chưa ?
- Nước tôi nhỏ, dân tôi nghèo, tôi chưa hề có ý định trở thành trăn nên tôi không quan tâm đến chuyện nuốt kẻ khác.
- Đó chính là điều ngu xuẩn thứ nhất của ngươi. Đã làm vương mà chỉ bó gọn ý tưởng trong một giấc mơ thì không xứng đáng đặt đít ngồi lên ngai báu. Giấc mộng vương giả phải khác giấc mộng lương dân. Không có con đường trung dung giữa kẻ cầm quyền với đám người bị trị. Vì cốt cách như vậy nên ngươi bại trận. Cũng vì cốt cách như vậy nên ngươi bị điều khiển bởi đám lâu la của mình. Cổ nhân nói ― Quần hồ đánh bại mãnh hổ là như thế.
- Đám quần hồ đó hành động dưới sự chỉ dẫn của ông. Vì lòng khát khao vinh quang làm mờ lương tri và chọc mù mắt họ. Vì u mê tăm tối họ đã bị phỉnh nịnh bởi mớ danh từ hào nhoáng của các bậc đàn anh nên nhất quyết lao vào cuộc chiến tranh này bằng mọi giá. Họ tin vào lời khích lệ của ông ― Đánh Mỹ đi, đó chỉ là một con hổ giấy....
- A...ha...ha...ha...Ngươi khá lắm! Xưa nay ta vẫn cho ngươi là tên tiểu tốt đáng gờm nhất ở phương nam. Ức đoán của ta không lầm. Linh cảm chưa bao giờ lừa bịp mà trái lại, luôn luôn là kẻ tôi đòi cần mẫn. Ngươi khá lắm! Ta xác nhận rằng ngươi đáng mặt quân tử. Chỉ tiếc thay, ngươi thiếu chữ thời. Xưa nay, đàm luận về các bậc anh hùng thế nhân thường thiên về chiến tích. Ta thực tế hơn, ta tin ở mệnh trời. Trời không phù trợ ngươi. Hoặc nói cho đúng hơn, mệnh ngươi yếu hơn mệnh của ta nên ngươi không thắng nổi ván bài này. Đấy là thứ xưa nay cổ nhân vẫn quy cho định mệnh. Mệnh trời xui khiến nên ngươi có mắt như mù, trông gà hoá cuốc, ngươi giao quyền bính vào tay những kẻ phản trắc. Vì mệnh trời xui khiến nên lũ lâu la của ngươi tin vào những lời ta nói như tin vào bậc thánh nhân. Nhưng đá tảng dẫu có sơn trắng cũng không biến thành bông, hộp các-tông dù có hình vuông cũng không biến thành gạch. Ta, muôn đời chỉ là vua bắc triều, và bờ cõi của ngươi muôn đời chỉ là cửa thềm để dân con những tỉnh phía nam Trung hoa mượn tạm tiêu dùng những khi cần thiết. Giải đất cỏn con mà các ngươi gọi là giang sơn gấm vóc chỉ là một quận huyện lơ láo, mà chúng ta sớm hay muộn cũng phải thâu về. Bây giờ, ngươi đã hiểu rằng cuộc chiến tranh này là một trong những cuộc chơi hay nhất đời ta, một cuộc chơi nhẹ nhàng, không tốn kém. Trong cuộc chơi đó, thậm chí ta cũng chẳng cần đào mưu tính kế mà chỉ lặp lại một trong ba mươi sáu phương sách cổ xưa :

- Vâng, điều ấy tôi biết từ khởi thuỷ. ― Toạ sơn quan hổ đấu chẳng phải là phát minh của chính ông nhưng ông mượn của cổ nhân cũng đã nhiều lần. Thời chiến tranh Nhật - Trung, các ông gõ mõ khua chiêng mồm kêu― Kháng Nhật, cứu nước nhưng quân đội của ông nép ở đường biên để bảo toàn lực lượng, bỏ mặc cho quân Quốc dân đảng đối đầu với phát xít. Thực chất, ông mượn tay Nhật để tiêu diệt địch thủ chính trị của mình. Chờ khi đại chiến kết thúc, quân đội được bảo toàn của ông dồn sức tiêu diệt quốc dân đảng. Giờ đây, không những dân tộc Trung hoa mà hơn một nửa thế giới tưởng rằng công diệt phát xít là của các ông. Nhưng lịch sử không viết một lần như những dòng chữ khắc trên bia mộ. Mọi trò lừa đảo sớm hay muộn rồi cũng bị phơi bầy. Hậu thế có quyền viết lại lịch sử, và quyền lực này nằm ngoài tầm tay với của ông.

- Hậu thế ? Ta chưa nhìn ra gương mặt hậu thế. Ít nhất là vào lúc này. Cái bóng của ta sẽ trùm lên đất nước Trung hoa một cách lâu dài.

- Ông cần thiết vinh quang như một kẻ đốt đền ? Ông tạo dựng vinh quang bằng mọi phương thức giả mạo ?

- Chỉ có những kẻ ngu mới chơi một cách thật thà trong canh bạc chính trị. Tại sao ngươi tỏ tường mọi sự mà ngươi không bắt chước nổi ta ?

- Bởi vì tôi là tôi và ông là ông, thưa chủ tịch, không ai đổi được chỗ cho ai, cũng không ai dạy khôn được cho ai vì thế nhân là khác biệt. Tuy nhiên, tôi biết rằng cuộc chiến tranh này là trò chơi độc ác nhất của số phận, và nếu nó là hình phạt phân thây thì trong bốn cỗ xe ngựa, cỗ xe hung hăng nhất đã được điều khiển bằng bàn tay của chính ông.
- Ngươi biết. Ta xác nhận điều ấy. Nhưng ngươi chỉ biết khi đã bị trói chặt chân tay. Ngươi biết khi ngươi chỉ là thây ma sống, kẻ làm vua mà không còn quân tướng là hình nộm được trang điểm mà thôi.
- Cuộc đời tranh đấu của tôi chưa dạy tôi đủ kinh nghiệm để phán đoán và xử trí mọi tình thế.
- Ta cho rằng ngươi cũng khá đủ kinh nghiệm, nhưng điều yếu kém nhất của ngươi chính là vị thế dùng dằng giữa phương đông với phương tây. Cái thế lưỡng phân này đã gieo trong ngươi thứ mầm của sự tự huỷ diệt. Trước hết là ảo thức về dân chủ , thứ bánh mì của bọn quỷ trắng. Nguyên nhân cội rễ sự thất bại của ngươi chính là ở đó. Ngươi là gã học trò ngoan của phương tây trong khi lũ bộ hạ tay chân ngươi lại là dân bản xứ. Vì thế cùng một lần chúng ngờ vực ngươi thân Pháp và lợi dụng nguyên lý biểu quyết đa số của phương tây để cột trói ngươi như lái lợn trói con lợn trước khi chọc tiết. Dòng máu phương đông chảy trong huyết mạch lại kêu gọi ngươi quay về ngôi miếu cũ, trong đó mấy ngàn năm các nho sinh hương khói xì xụp trước môn bài Đức trị. Ngươi quên rằng chưa ai từng thấy mặt Nghiêu Thuấn trên cõi đời này. Hai hình nộm đó chính do người cầm quyền tạo ra để răn dạy lũ sai nha và thuần hoá chúng sinh. Ngươi áp dụng tinh thần xả thân vì nghĩa, hy sinh vì ích lợi tập thể nên ngươi phải tuân phục lũ đàn em như một thằng ngốc. Ngươi quên rằng người phương đông ăn cơm bằng đũa và phân ngôi vua tôi một cách rạch ròi. Giữa vua tôi không thể có bình đẳng cũng không có tin cậy. Chỉ có sử dụng và không sử dụng mà thôi. Danh từ ―đồng chí ta mượn ở phương tây để điều khiển lũ quần thần và dân đen theo đúng cách bọn phù thuỷ điều khiển âm binh bằng phép thuật. Nó là vỏ trái cây, là bóng ma nhưng ngươi tin nó là ruột quả, là người thật. Cái chết đến với ngươi chính do sự nhầm lẫn này.
Ô...đồng chí ! Danh từ mỹ miều của mấy thằng rậm râu bày đặt.
Ngươi đã thấy ta hành xử ra sao với cái lũ ta gọi là đồng chí hay chưa ?
Ta rút máu trong huyết mạch chúng ra như nông phu tháo nước ruộng. Ta lấy máu chúng để rửa những bậc thềm dẫn lên ngôi báu bởi màu đỏ là màu của quyền lực và vinh quang. Không có gì tượng trưng cho màu đỏ đẹp hơn là máu người. Những kẻ đứng bên tả hay bên hữu một vị vua luôn luôn là đao phủ dự phòng của chính ông ta. Phải biết cách giết chúng trước khi chúng kịp rút dao khỏi ống tay áo. Nói cho chính xác hơn, phải biết giết chúng ngay khi chúng chưa kịp nghĩ tới việc giấu dao vào trong tay áo. Đó là nghệ thuật cai trị đã được chứng nghiệm mấy ngàn năm. Là một vị vua phương đông mà ngươi không hiểu điều luật ấy. Ngươi muốn xây dựng đất nước theo hình mẫu phương tây, nên giao việc cắt đặt nhân sự vào tay kẻ khác. Ấy là tự giao gươm cho lũ cừu thù. Trong cuộc chơi quyền lực tình máu mủ còn chẳng thể tin cậy, huống chi người dưng ?
- Về điều này có thể là ông đúng...
- Không phải có thể mà là đúng. Đúng, với nghĩa khẳng định. Ngươi chớ dùng dằng trong cõi đỏng đảnh của ngôn từ. Thế nhân thường phải trả giá rất đắt cho sự hiểu lầm chữ nghĩa. Còn ta, ta sẽ phải hiểu ra sao sự nhầm tưởng của ngươi ?
- Hoặc tôi thiếu kinh nghiệm hoặc tôi thiếu thông minh. Hoặc trong tình thế riêng biệt của đất nước tôi, khó tìm được giải pháp khác.
- Ngươi khá thông minh nếu nhìn một cách đại thể. Nhưng ngươi ngu đần khi lẫn lộn giữa thật và giả, giữa sự đóng trò và sự nhập vai. Làm vua chính là cuộc sắm vai lớn nhất giữa sân khấu cuộc đời. Nhưng phải có ý thức là mình đang diễn. Và cái ý thức đó phải được duy trì, bảo dưỡng thường xuyên như con người phải thường xuyên chăm sóc bản thân phần hồn cũng như phần xác. Cái khốn nạn của ngươi chính ở chỗ ngươi có máu kép hát, đôi khi ngươi khóc ngươi cười thật sự, có nghĩa là ngươi nhập thân thật sự vào nhân vật. Bởi thế, ngươi chẳng thể chơi đến cùng vai diễn của đấng quân vương. Bây giờ, ta sẽ giải thích cho ngươi nghe sự khác biệt giữa một ông vua với một thằng kép hát. Vua diễn trò nhưng luôn luôn ý thức đó là vai diễn, bất kì lúc nào ông ta nhấc chiếc mặt nạ lên, ném nó vào tủ là ông ta có thể làm mọi điều theo ý thích, thậm chí trái ngược hoàn toàn với vai diễn, nhưng bắt quần thần và dân chúng phải coi đó là sự đương nhiên. Càn Long là ví dụ sáng tỏ nhất trên phương diện này. Ông ta cực thông minh, văn võ kiêm toàn, chữ viết đẹp như có tinh hoa tiên cốt, thơ cao sang như ngọc bích trân châu. Ông ta dạy dỗ quần thần và dân chúng đủ tứ thư ngũ kinh lẫn các cẩm nang đạo đức khác. Nhưng đó là lúc sắm vai làm vua. Trong khoảnh khắc, ông ta có thể gỡ cái mặt nạ quân vương xuống, ném vào bất cứ xó xỉnh nào, và sống đích thực con người của ông ta. Ngươi còn nhớ tích ông ta đá hoàng hậu đến xảy thai ngay trên thuyền rồng, trước mắt triều thần văn võ ?
- Tôi nhớ.
- Ngươi còn nhớ cuộc tình của ông ta với Hoà Khôn ?
- Đương nhiên, tôi nhớ.
- Tốt lắm, vậy ngươi có nhớ Hoà thân đã từng bày mưu sát hại thái tử Phúc Khánh mấy lần hay không ?
- Hai lần, nếu tôi không nhầm.
- Đúng, hai lần và nếu không có sự trì độ dai dẳng của tể tướng Lưu gù thì vị đông cung thái tử này đã hoá thành cát bụi. Vậy mà Hoà Khôn vẫn được trọng dụng, tài sản riêng của ông ta lớn hơn cả kho báu quốc gia. Điều đó chứng minh rằng lòng sủng ái của Càn long với Hoà Khôn còn lớn hơn sinh mạng đông cung thái tử và lợi ích của non sông. Mà Càn Long chắc chắn chẳng phải kẻ nhu nhược hay hão huyền mơ mộng. Vậy lý do nào khiến cho ông ta hành động như vậy, nếu không vì thoả mãn lòng dục ? Nếu không vì muốn ve vuốt no nê cái thân xác chứa đựng linh hồn của đấng quân vương? Là kẻ lưỡng dục, Càn Long ham mê một lần cả trai lẫn gái nhưng ta cho rằng trong thực tiễn khuynh hướng đồng tính mạnh hơn, cốt yếu hơn. Bởi thời ấy, kẻ đồng dục thường bị riễu cợt khinh bỉ nên ông ta mới dựng một loạt cung điện cho phi tần quanh khu thượng uyển để che mắt thiên hạ. Giá như triều đình hạ lệnh thả đám phi tần cung nữ này cho về quê lấy chồng ắt hẳn hai phần ba bọn họ vẫn còn trinh. Thế đấy, ngươi hãy mở to mắt mà nhìn trò chơi của bậc quân vương. Chẳng riêng Càn Long, vua chúa thời nào cũng vậy.
- Tôi biết. Và ông chắc chắn là kẻ kế thừa xuất sắc truyền thống này.
- Ngươi đánh giá ta quá thấp, nói cho đúng hơn ngươi nhìn ta với con mắt hỗn xược. Tính hỗn xược của bọn chư hầu Bách Việt vốn có từ xưa. Ngươi cần hiểu rằng ta không phải kẻ kế thừa mà là người sáng tạo. Ta cười khẩy trên lối xài mỹ nhân tốn kém mà ít hiệu quả của đám vua chúa xưa. Ta chẳng cần xây lầu son, gác tía. Ta không cần trình duyệt các phí tổn cho lũ yếm thắm quần hồng. Dồn tụ chúng vào một xó, lũ mèo cái sẽ cào cấu lẫn nhau và phá hoại giấc ngủ an lành của ta. Dinh thự của ta di động. Một con tầu khiêm cung trên đất liền thuận tiện ngàn lần hơn chiếc thuyền buồm xa xỉ trên mặt đại dương vì nó xuyên lục địa. Đất nước rộng dài, giang sơn mênh mông, đi đến đâu ta tuyển phi tần ở đó. Không phải thứ gái đã hai mươi như sơn nữ của ngươi mà thuần loại đào tơ từ mười hai tới mười sáu. Càng trẻ tuổi, nguyên khí càng tươi tốt. Ta lấy lại tuổi trẻ và bồi dưỡng nguyên khí của ta nhờ những đứa trẻ dạy thì này.
- Vâng...
Chủ tịch nhếch mép cười :

- Tôi biết câu nói nổi tiếng của ông : ― Ta rửa bộ phận sinh dục của ta trong bụng họ.
- Cái gì là bộ phận sinh dục ? Ngươi quả là kẻ sính danh từ của bọn mũi lõ mắt xanh ? Ta vốn là dân Hồ Nam, ta thích nói theo giọng của nông phu bản địa :―Ta rửa con cặc của ta trong những cái hẽm của bọn gái non cho nó được dồi dào nhuận khí.Thế đấy ,ngươi đã nghe rõ chưa ?
Dứt lời, ông ta cất tiếng cười bỡn cợt và thách thức, đôi mắt nhỏ hấp háy bắn lên những tia lửa tinh quái. Chủ tịch nhìn rõ hai hàm răng đều tăm tắp vàng khè. Ông lặng im không đáp. Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch Mãn hắng giọng nói tiếp :
-Bẻ nhuỵ xong, ta trao lại các― nữ đồng chí này cho đám quan sở tại giải quyết. Họ buộc phải cho chúng tăng lương, kết nạp đoàn hay đảng, nếu chưa có việc thì thâu nhận vào công trường nhà máy, nếu muốn đi học các giảng đường sẽ mở sẵn cánh cửa đón chào. Nếu đứa nào yểu mệnh chết, đó là sự rơi rụng của một trái đào trong rừng đào Vân nam. Đứa nào may mắn hứng tình và hân hạnh mang hạt giống của ta, nó sẽ được trọng dụng và đứa trẻ sẽ được bí mật nuôi dưỡng rồi gửi vào vườn trẻ Trung Nam hải. Sao, ngươi đã thấy tư chất kẻ sáng tạo trong ta hay chưa ? Ngươi đã thấy trò chơi của ta hay hơn lối chơi của Càn Long chưa ?
Dứt lời, ông ta lại cất tiếng cười ròn rã.
Chủ tịch lặng im nhìn người đối diện. Những lăm thịt tràn đầy trên chiếc cổ áo kiểu Tôn trung Sơn của ông ta cũng vằn vện như da tắc kè khiến người ta liên tưởng tới một đống bột nhão mốc. Khuôn ngực ông ta căng đầy dưới áo. Nhưng từ phần bụng trở xuống, chỉ còn là đám sương. Hồi nhỏ, ông nghe người làng nói rằng ma không bao giờ có chân. Chúng đi lướt trên cỏ và chỉ hiện hình từ phía gối trở lên. Giờ, ông thấy điều đó là chính xác. Điều lạ lùng là trong thực tế ông vua phương bắc đang còn sống, đang điều khiển cuộc hành quyết các quần thần ; vậy mà ông ta luôn hiển hiện trước mắt ông dưới ảo dạng của hồn ma, dù trong giấc mộng canh ba hay giấc mơ chính ngọ. Tiếng cười của ông ta vang lên những âm thanh vừa chói vừa xỉn, nếu người ta thể hiện bằng màu sắc thì nó sẽ là màu sắt đen trộn rỉ đồng. Không hiểu vì đâu, tiếng cười của chủ tịch Mãn khiến ông buồn. Vẻ kiêu mạn của ông ta cũng không còn làm ông tức giận. Lần đầu, ông cảm thấy một nỗi buồn vô căn cứ, một nỗi bâng khuâng kì dị như khi đọc truyện Liễu Trai. Chủ tịch Mãn chừng như cũng ngạc nhiên khi thấy ông im lặng. Ông ta hạ giọng :
- Sao ? Ngươi tiếc thời đã qua hay ngươi hối tiếc những việc đáng lẽ phải làm ?
- Không. Mọi sự hối tiếc đều vô dụng.
- Vậy ngươi nghĩ gì ?
- Tôi nghĩ rằng âm dương cách trở, ông đã cất công đến thăm dù là cừu thù giờ cũng thành khách quý. Nhưng mọi lời khuyên trên đời đều vô giá trị. Bởi con người khác biệt nhau.
- Đúng, con cừu gặm cỏ còn chim ưng xé mồi. Nhưng đã là bậc cai trị thì dù thống lĩnh một vương quốc lớn hay coi sóc một hòn đảo nhỏ cũng đều phải quan tâm tới nghệ thuật cai trị. Ngay lũ mọi châu Phi cũng còn biết cách nắm vương quyền. Ngươi, thông minh hơn chúng ngàn lần, cớ sao để bọn lâu la dồn đến nông nỗi này, đó là điều khiến ta muốn biết ?
- Ông chẳng còn việc gì làm dưới U tỳ quốc hay sao ? Vả chăng, thân nhân những kẻ bị ông sát hại trên đất Trung Hoa giờ này đâu đã mất hết trí khôn hoặc mắc chứng mất trí nhớ. Ông tin rằng họ sẽ mãi mãi im lặng trước mấy chục triệu thây ma oan uổng kia sao?
- Tin hay không tin, điều đó có gì quan trọng ? Cuộc chơi đã xong, các quân cờ đã xếp vào hòm. Giờ, ta đi tìm miền đất khác. Ngươi chính là một trong những đối tượng khiến ta thú vị. Mọi sự thú vị đều kèm theo nỗi tò mò. Vả chăng, Trung hoa và Việt nam từ ngàn xưa đã là những anh em cừu thù, ta và ngươi cũng vậy.
- Tôi thấy ông cũng khá thành thật.
- Âm dương đôi ngả, ván bài ngoại giao không còn hữu ích.
- Nếu đã xác nhận quan hệ anh em - cừu thù, cớ sao ông còn đến đây ?
- Ngươi đặt một câu hỏi ngu ngốc, chính vì là anh em- cừu thù nên ta mới đến đây.
- Để đặt dấu nhấn trên quyền lực của ông, để chứng minh rằng vai diễn quân vương của ông là xuất sắc, để nói rằng suốt đời ông ông đã thoả thuê no nê trên đủ mọi phương diện và thân xác ông bao giờ cũng được đặt trên bệ thờ cao hơn lợi ích của giang sơn. Và chính vì thế, ông không dừng tay trước bất cứ cuộc huỷ diệt nào. Cũng chính vì thế, ông trở thành kẻ cầm lái vĩ đại. Bởi dân tộc ông quen chiêm ngưỡng những vĩ nhân đứng trên các khải hoàn môn xây cất bằng xương người. Rằng người ta cần phải đứng trên các bệ cao, nên xương người chất càng cao càng hoàn mỹ. Và sau cùng, đó chính là cách thức tốt nhất để giáo huấn cho những kẻ muốn làm vua ?
- Đích thực là như vậy. Lần này, ngươi thông minh xuất sắc. Ta đến đây để khuyên giải ngươi hay làm nhục ngươi, hiểu theo cách nào cũng được ! Bởi muôn đời ngôn từ vẫn chỉ là gái hồng lâu, quân tử Nam kinh hay quân tử Bắc kinh đều nhảy được vào giường. Ta đến đây để dạy ngươi rằng vai diễn quân vương khác biệt một trời một vực với sự nhập thân của thằng kép hát. Lẽ ra ngươi nên học nghề sân khấu, hoặc nên lui về cuộc sống êm ả của chúng sinh với giấc mơ « Một túp lều tranh hai trái tim vàng ». Làm vua, nghề này đòi hỏi cách xử thế khác. Hai điều cốt tuỷ mà những kẻ cầm vương trượng không bao giờ được quên. Điều thứ nhất là phải biết trút tinh dịch của mình ra một cách hoàn hảo. Ấy là phép vệ sinh thân xác không thể thiếu để giữ óc não sáng suốt, máu huyết lưu thông. Điều thứ hai là phải biết rút máu kẻ khác để tưới những bậc thềm cung điện vì máu người là thứ nước duy nhất có thể dùng tưới mảnh đất trồng loài cây đơm trái quyền lực và vinh quang. Ngươi có thấy loài cây nào không được tưới tắm mà đơm cành kết trái được không ?...Hai nguyên tắc vàng để bảo dưỡng thân tâm và bảo trì ngôi báu. Hai nguyên tắc ấy vua chúa từ thượng cổ tới nay đều biết ứng dụng. Vậy mà ngươi không làm nổi. Tồi tệ hơn, ngươi làm ngược lại. Đấy là sự nhầm lẫn lớn nhất trong đời ngươi. Sự nhầm lẫn này không chỉ tiêu diệt sự nghiệp của ngươi mà còn đẩy ngươi vào cảnh tù đầy. Tù đầy trên cả hai phương diện, thân xác ngươi bí bức khí huyết ứ trệ, tinh thần ngươi u ám khắc khoải vì ở trong thế bị dùng. Bọn lâu la của ngươi đã từng mượn nhà an dưỡng Quảng Châu để trói cẳng ngươi ở đó. Nếu ta chưa nhầm, ngươi đã yên vị chừng sáu bảy tháng, đã bắt đầu quen lại thông thổ, đã bắt đầu thích món ăn sở tại, thích nhìn gái đẹp sở tại. Cớ sao chúng lại rời chuyển ngươi về đây ?
Ông im lặng.
Một luồng khí trắng đục phả từ phía bóng ma bay về phía ông khiến mặt ông tê lạnh, nhất là hai gò má. Chủ tịch Mãn thấy ông không đáp lời thì cười và nói tiếp :
- Ồ, mà ta hỏi đùa đấy thôi. Ngươi làm sao biết nổi ?Tấm thân cá chậu chim lồng.
Rồi lắc đầu như tỏ vẻ thương xót, ông ta giơ tay vẫy chào và biến mất.

KÝ ỨC (5)


- Cốc cốc cốc...
Tiếng gõ mạnh vào cánh cửa khiến ông giật mình. Hai cây kim trên mặt đồng hồ treo tường đã chập lại trên con số mười hai :
― Đã đến giờ cơm trưa „
Ông nghĩ, và lên tiếng :
- Tôi đang nhức đầu. Các chú cứ để cơm ngoài bàn rồi về đại đội.
- Dạ...
Có tiếng đáp khẽ khàng. Sau đó, tiếng cánh cửa sập lại. Chủ tịch tiếp tục nằm nhưng cảm thấy bồn chồn. Mươi phút sau, ông vùng đứng lên, lau mặt và bước ra ngoài. Mấy chiếc phích điện ủ cơm và thức ăn để trên bàn, nhưng nhóm cấp dưỡng lẫn bác sĩ vẫn đứng ngoài hành lang. Họ chưa dám xuống núi mà tụ tập phía sau đội lính gác, ngắm cảnh chùa. Bên kia sân, tiếng mõ, tiếng chuông bát lẫn tiếng đọc kinh vẫn vang lên không mệt mỏi.
Chủ tịch bước ra ngoài :
- Sao các chú không quay xuống núi ? Lát nữa cận vệ sắp cơm cho tôi cũng được...
- Thưa chủ tịch, chúng con phải hoàn tất nhiệm vụ của mình.
- Thôi được, nếu thế vào sắp cơm cho tôi rồi dọn đi cho tiện. Hôm nay, quả tình tôi không thấy đói.
- Thưa người, hôm nay nhà bếp nấu món cà bung và hoa bí xào mà người vẫn thích. Chủ tịch cố gắng ăn cho hết phần cơm.
- Được rồi...Tôi sẽ cố.
Ông đáp, đoạn đứng nhìn người lính sắp bày thức ăn trên chiếc khay lớn hình chữ nhật. Khi đã xong xuôi, anh ta chúc ông ăn ngon miệng và lui ra. Ngồi xuống trước khay thức ăn, ông nhớ lại lời chủ tịch Mãn :
― Ngươi quên rằng người phương đông cầm đũa và phân biệt ngôi thứ vui tôi một cách rạch ròi.
Cầm đôi đũa mun lên, ông ngắm nghía như lần đầu nhìn thấy chúng :
― Có nghĩa gì, sự khác nhau giữa những con người cầm đũa , cầm nĩa và ăn bốc ? Có nghĩa gì sự phân biệt giữa các thói quen ?
Ý nghĩa ấy lướt qua ông hờ hững, vô cảm như một gương mặt xa lạ và tẻ nhạt. Ông bắt đầu gảy những sợi rau tía tô rắc trên bát cà bung.
Trước kia, ông đặc biệt thích ăn món này. Hồi dạy học ở Phan Thiết, ông có một người hàng xóm lấy vợ Bắc kì, chính người đàn bà này đã cho ông nếm món cà bung. Đấy là người nội trợ theo đúng nghĩa, sống với khát vọng duy nhất là chăm sóc chồng con và vun vén ngôi nhà của mình. Ông chồng là thương gia sành sỏi trên đường sắt Bắc-Nam, quanh năm ăn cao lâu, tiệm khách với bạn buôn cũng như chủ đại lý nhưng vẫn một niềm thán phục tài nấu nướng của vợ. Chính chị ta vạch cho ông cái chân lý cay đắng này :
― Muốn nói rồng nói phượng thì cứ việc nói, nhưng đã nghèo mạt rệp thì làm sao có được món ăn ngon?
Rồi, chị lại cất cao giọng :
― Nhưng giàu cũng chưa hẳn đã biết đường ăn uống. Vàng bạc đầy rương cũng có khi ăn thùng uống vại, hoặc phí phạm đồng tiền mà chỉ chuốc về những thứ tạp nham.
Những lời lẽ thẳng thắn ấy vô tình làm ông tủi hổ khi nghĩ rằng thứ cà lẫn nhút mà dân quê ông lấy làm hãnh diện chẳng qua chỉ là cảm thức tự ti nguỵ trang của cảnh đói nghèo. Vợ người thương gia cũng mở mắt cho ông thấy khẩu vị con người là khác nhau do tập tục và văn hoá. Chị ta dạy ông cách nhận biết một món ăn ngon. Một con cá xẻ đôi đưa cho hai người đầu bếp khác nhau, chế biến khác nhau, gia vị khác nhau có thể đưa tới hai hiệu quả khác biệt. Kỉ niệm về món cà bung là một trong những kỉ niệm vĩnh định thời trai tráng, gắn liền với mảnh đất Phan thiết, với những sườn đồi rậm rì cây cỏ và những tháp Chàm cô liêu trên cồn cát đỏ rực ánh dương.
Một chiều, hết giờ dạy ông trở về nhà cùng lượt với vị thương gia khả kính. Chưa kịp tới xóm trời bất thần đổ mưa. Cả hai buộc phải tạt vào hành lang một ngôi nhà nguyện. Họ vốn là những người láng giềng nhưng chưa bao giờ cùng ngồi một nơi, cùng nói một chuyện. Quan hệ chỉ khuôn định trong những lời chào hỏi lịch sự bên ngoài hàng rào. Cơn mưa ấy chính là cơ hội để họ trò chuyện với nhau. Vị thương gia kia tỏ ý quyến luyến. Khi mưa tạnh, trời đã xẩm tối, ông ta cất tiếng:
- Có thể là tôi quá sỗ sàng, nhưng nếu được xin mời anh sang dùng cơm tối....Một thân trai loay hoay nấu nướng xem ra bất tiện.
- Cảm ơn ông.Tôi vốn đã quen cuộc sống độc thân.
- Ồ không!
Ông ta nằn nì :
- Tôi cũng đã từng sống như anh trước khi lấy vợ. Nhưng chúng ta là láng giềng. Anh một nghề, tôi một nghề, không có gì liên luỵ đến nhau, anh không tranh mối hàng của tôi, tôi cũng không nhằm cướp việc của anh. Nếu chúng ta trở thành thân tình thì hay lắm.
Ông cười thầm vì chưa từng thấy ai đi buôn mà nói năng một cách "thẳng như gậy tre" theo kiểu đó. Nhưng cũng chính vì thế mà ông có cảm tình với người láng giềng và nhận lời. Trở về nhà, ông cất dọn đồ đạc, thay quần áo rồi sang bên nhà vị thương gia. Ông ta đã đứng chực ở cổng, người ở gái đang cho đứa con nhỏ nhất của ông ta ăn cơm trong sân. Chủ nhân mời ông vào nhà và họ ngồi vào bàn tức khắc :
- Đây chỉ là bữa cơm thường. Vì tin rằng ông dễ tính nên chúng tôi mới dám mạo muội mời ông sang. Có gì sơ xuất, xin ông thứ lỗi.
Ông láng giềng nói. Đoạn gọi vợ ra :
- Mợ nó không cần phải lo lắng quá. Hôm nay là bữa cơm nhạt kết giao. Vài bữa nữa ta sẽ làm tiệc thết khách cũng chưa muộn.
Ông lặng thinh nhưng nghĩ thầm :
― Cơm nhạt mà như thế này cũng đã hơn hẳn mâm cỗ ngày tết quê ta.
Chiếc bàn mặt đá của vị thương gia hình rất rộng, nhưng chỉ có ba thực khách. Trên chiếc ghế trống còn lại, chủ nhân đặt một bình hoa xum xuê cắm cúc đại đoá trắng kèm cây lưu ly. Bình hoa vĩ đại đó cao non một thước và có vẻ trang trọng hơn là sự hiện diện của một quan khách. Nó khiến cho gian phòng sang trọng và đem lại cảm giác thoải mái cho mọi người. Trên mặt bàn, bà chủ đặt liễn cơm sứ trắng ủ trong dành vào một góc, góc đối diện là bình rượu thập toàn đại bổ của đức lang quân. Những món ăn bày chính giữa bàn. Vừa nhìn chúng ngay tức khắc nước bọt ông trào ra liên tục. Ông xấu hổ nuốt nước bọt một cách thầm lén nhưng không có cách nào cưỡng chế thứ dịch vị phản thùng này. Nó không ngừng tuôn tràn, bởi hương vị và màu sắc những món ăn không ngừng kích thích. Thoạt tiên, là một con gà giò hầm quỳ trong thẫu, thứ gà ri nhỏ nhưng da mỏng tang, vàng ươm mỡ và bốc mùi thơm của nấm hương tươi. Nấm hương, để nguyên cái, xếp xung quanh con gà như những cánh hoa cúc, tầng tầng lớp lớp chen chúc nhau. Rồi tiếp đấy là món cá cam, đặt trong chiếc đĩa mênh mông, sâu lòng. Cá để nguyên con, nhìn vào chúng như thấy cả biển khơi lẫn các vàng lưới vì cá tươi nguyên, mắt còn đen nhánh, da óng ánh sắc cam. Lũ cá như đang bơi giữa nước sốt trong suốt, lấm tấm điểm ớt đỏ lẫn rau mùi thái vụn. Ông chưa thấy ai làm được món cá cam như vậy, bởi khi ăn, hương vị cam thấm vào khứu giác lẫn vị giác. Vừa nhận thấy chất thịt ngọt lừ của loài cá biển, vừa nhận thấy vị vỏ cam và nước vắt của trái cam. Mọi thứ mùi vị đều rõ rệt, rạch ròi, nhưng hoà quyện vào nhau mà ớt đỏ với rau mùi là những chất gia cố khiến các hương vị kia thêm nổi trội. Ông nhớ rằng tối hôm đó, tuy đã hết sức cố gắng tự kìm giữ, nhưng ông đã ăn món cá cam nhanh như húp cháo. Tuy trong lòng có đôi phần hổ thẹn nhưng sau rốt ông đã tự an ủi mình :
― Nữ thực như miu, nam thực như hổ. Ta đang tuổi tráng niên.
Món thứ hai ông cũng ăn một cách vội vàng hào hển là món cà bung tỏi. Ở quê ông, người ta chỉ quen ăn cà muối xổi hoặc muối chườm. Cà muối xổi thay rau bởi vùng đất ấy rau rất hiếm. Nếu không muối xổi thì họ sẽ luộc dở sống dở chín để chấm nước mắm ớt xanh hay mắm ruốc, thứ nước chấm mặn se lưỡi và cay trào nước mắt. Cà muối chườm là thứ gia bảo của tất cả những loại dân cầy nghèo khổ, không chỉ ở miền Trung mà còn ở cả xứ Bắc. Có câu ca dao riễu cợt đám phú ông tiện tằn bóc lột những chàng rể tương lai:
― Năm năm làm rể chưa qua
Mẹ em đã tốn hết ba vại cà
Giếng đâu thì dắt anh ra
Kẻo anh chết khát vì cà nhà em
Bữa cơm hôm đó dạy ông rằng người ta có thể chế biến thứ rau này một cách hoàn toàn khác, không còn một chút vị hắc đậm của những món cà nơi quê ông. Món cà bung hôm ấy là thứ hỗn hợp tuyệt vời gồm những miếng đậu mềm nõn rán vàng, thịt rọi rán cháy cạnh rồi thái khẩu, cà chua bột chín đỏ như son cho nước sốt sóng sánh nổi đầy sao mỡ, còn cà chắc chắn đã được ngâm kĩ theo công thức nào đó khiến cho những miếng cà trở nên trắng và thấm đầy mùi vị của các loại rau thơm khác nhau : tía tô, lá lốt, hành tăm. Thêm vào đấy, ê hề tỏi, cả tỏi chiên lẫn tỏi sống. Tỏi chiên chắc chắn để xào cà từ khởi thuỷ, còn tỏi sống dành nêm vào phút chót trước khi múc món ăn đặt lên bàn.
Sau này, trên những con đường của số phận, ông đã từng dự nhiều đại tiệc với những món ăn của các dân tộc từ đông đến tây nhưng chưa ở đâu ông tìm thấy loại thức ăn đứng giữa món canh với món xào, chẳng thể liệt kê được vào loại nào nhưng cho hương vị ngon lành như món cà bung tỏi của người đàn bà ở tỉnh Phan thiết.
- Thưa chủ tịch, mời người dùng cơm kẻo nguội.
- A...
Ông giật mình. Nhóm lính làm bếp đứng ngoài cửa sổ vẫn theo rõi ông :
- Tôi ăn đây.
Ông đáp rồi gắp một đũa cà bung như cái máy. Ông ngửi thấy mùi tỏi, mùi lá lốt lẫn tía tô. Ông cũng ngửi thấy mùi đậu rán, mùi thịt cháy cạnh, mùi cà tím xào mỡ. Nhưng tất thảy những mùi vị ấy không còn giống như những mùi vị ông từng biết thuở xưa. Chúng chỉ còn là những cái bóng mờ nhạt của mùi vị. Nước bọt không tiết ra, và miếng ăn trở nên nhạt nhẽo. Hương vị thơm tho quyến rũ không còn nữa. Không còn nữa tuổi trai tráng. Không còn nữa những chân trời mời mọc. Không còn nữa niềm tin. Và như thế món cà bung cũng không còn tồn tại. Chỉ còn lại trước mặt ông, trong chiếc đĩa viền chỉ vàng sang trọng này bóng ma của nó. Bóng ma của bữa ăn tối Phan thiết năm xưa.
- Thưa chủ tịch, món cà con nấu có vừa hay nhạt ạ ?
- Vừa, vừa lắm. Cả độ mỡ xào cũng vừa vặn, không nhiều không ít.
Ông vội vã đáp lời, vội vã nuốt, vội vã gắp tiếp gắp cà thứ hai, cố tình chọn mấy nhân tỏi trắng và rau thơm để người đầu bếp yên lòng. Thức ăn mắc trong họng nên ông phải dùng nước canh chiêu cho nó trôi xuống. Người đầu bếp vẫn theo rõi ông qua khuôn cửa sổ một cách chăm chú và thành kính. Ông cố gắng kết thúc bát cơm, chọc đũa sang đĩa thứ hai, lượm mấy nụ hoa bí đỏ xào nhấm nháp như để hoàn tất những thủ tục của một cuộc trình diễn rồi buông đũa :
- Các chú dọn đi cho tôi. Cơm hôm nay rất ngon nhưng tôi không được khoẻ. Có lẽ do nhức đầu. Nhiệm vụ của các chú đã hoàn thành xuất sắc. Chỉ có phần tôi là kém thôi. Nhưng tuổi già là thứ không ai tránh khỏi.
- Thưa chủ tịch, người chưa dùng hết một phần ba xuất cơm.
- Khi nào đến tuổi tôi, các chú sẽ hiểu.
Ông nói, phác một cử chỉ vừa để trấn an nhóm cấp dưỡng , vừa để kết thúc câu chuyện. Bác sĩ biết ý, bước vào chuẩn bị thuốc uống cho ông. Anh ta mở va-ly đồ nghề ra đong đếm, thêm vài ba viên thứ này, bớt vài ba viên thứ kia. Sau rốt, anh ta nhìn nắm thuốc trong lòng tay một cách cẩn trọng trước khi rót nước cho ông chiêu. Xong xuôi, cả bọn rút lui để cần vụ mang cho ông khay trà. Đám lính tăng cường buổi sáng đã được xuống doanh trại ăn cơm, tốp khác vừa lên thay thế.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh vẫn vang lên không ngưng nghỉ. Họ không dừng lại ăn bữa trưa. Nghe nói trước đây, Phật và các đệ tử của ông chỉ ăn ngày một bữa, sau giờ ngọ :
― Tại sao họ có thể chịu đựng suốt đời một chế độ dinh dưỡng khắc nghiệt như vậy mà vẫn mạnh khoẻ ? Nếu ta không nhầm người sáng chế ra tôn giáo này thọ đến tám mươi. Nguồn năng lượng nào bồi bổ cho họ ngoài sức mạnh của niềm tin ?
Ông tự hỏi nhưng tức khắc xoá đi câu hỏi đó vì biết nó nằm ngoài vùng tri thức của mình. Tiếng chuông bát ngân nga điểm nhịp cho những giọng đọc kinh khiến ông quay về với thực tại. Dàn hợp xướng kia là bản kinh cầu hồn cho một kẻ làm cha bị tấn công bởi chính đứa con mình. Nó được tấu lên một cách thực sự bởi những ăn năn hối lỗi của đứa con phản trắc hay chỉ là thứ trò diễn cho hợp với phong tục và thói quen ? Và nếu người cha kia không chết đột ngột bởi tai nạn, nếu ông ta vẫn sống với đầy đủ sự cường tráng của thân xác cũng như sự minh mẫn của trí não, liệu đứa con có bày tỏ lòng sám hối hay không ?
― Dường như câu trả lời sẽ là: "Không"
Ông nghĩ tiếp :
― Than ôi, câu trả lời đã sắp sẵn trong óc não, bởi thế sự đặt bày.
Rồi đột ngột, một nỗi tò mò ập đến :
― Liệu khi ta chết, lũ đồng chí phản nghịch kia có khóc không nhỉ ?
Ông hình dung đám người ấy đứng trên khán đài của quảng trường Ba đình, ắt hẳn là mọi sự phải diễn ra như thế. Trên đầu họ nào cờ rủ, nào chân dung ông viền khăn tang đen, nào những khẩu hiệu thống thiết và hoành tráng, đại loại như :
― Đời đời thương tiếc chủ tịch, người cha già vĩ đại của non sông.
― Chủ tịch sẽ sống mãi trong lòng chúng ta.
Hoặc là :
― Đất nước còn, dân tộc còn, tư tưởng của chủ tịch còn là kim chỉ nam soi đường cho tất cả.
Có thể là tất thảy những mỹ từ hào nhoáng nhất sẽ được sử dụng để ca ngợi công đức của ông. Mỹ từ là thứ ít tốn kém nhất, chúng đề nghị rất nhiều nước bọt nhưng rất ít đức độ lẫn trí thông minh. Thêm vào các mỹ từ, hẳn họ sẽ sử dụng âm nhạc, vì âm nhạc xưa nay vẫn là thứ bùa mê hiệu nghiệm. Đã sẵn bản : "Hồn tử sĩ" Liệu họ sẽ tìm thêm những bản nhạc cổ kim nào để làm mùi mẫn đám quốc tang ? Làn thảm chẳng ? Hay Sa lệch chênh ? Khúc Nam bình hay khúc Nam ai ? Lý chiều chiều hay hát dặm xứ Nghệ ? Ô, xứ sở của ta quá sẵn những khúc hát bi thương để tiễn biệt những kẻ chầu trời.
Bỗng nhiên ông thấy hiển hiện trước mắt ông tấn tuồng hài hước của thế sự, và hình dung đám người đứng trên khán đài trong tang lễ ông sẽ nhất loạt đưa khăn tay lên để lau những giọt nước mắt dù thật hay vờ :
― Chúng sẽ buộc phải làm như khóc và trong thâm tâm chúng vang lên tiếng nghiến răng trèo trẹo : Sao bây giờ mày mới chịu chết, lão khọm già kia ? Bọn ta đã mất bao nhiêu công dàn dựng để tống tiến ngươi sang cõi khác mà cái mạng sống dai nhoách của ngươi vẫn kéo cho đến tận phút này. Quả là một cuộc chịu đựng quá sức.
Nhưng cũng có thể chúng sẽ khóc thật.
Những giọt nước có hoà muối sẽ tuôn ra một cách thật sự từ mắt chúng, bởi chúng khóc trước cho thân phận của mình. Bởi chúng biết rằng chắc chắn sẽ có ngày chúng xuống tuyền đài, nơi hội ngộ cuối cùng của kiếp nhân sinh. Điểm hẹn chung cuộc mà chẳng kẻ nào có thể trốn thoát. Ở nơi đó, chúng sẽ phải đối mặt với ta.
Ý nghĩ ấy khiến ông ngao ngán lắc đầu. Nhưng ông vội vàng chiêu một ngụm nước trà vì sợ đám lính canh bên ngoài nhìn thấy. Họ sẽ cho rằng ông đã đánh mất tự chủ, trở thành con bệnh già. Thuở trước, nhiều lần ông gặp trên đường phố Paris những người già vừa đi vừa lẩm bẩm hoặc cười một mình, ông thầm nghĩ :
― Tội nghiệp thay cho tuổi già.
Giờ đây, sự thương hại đó có thể dành cho chính ông?
Một tiếng cười câm nín vang lên trong tâm tưởng :
― Giá như ta có thể cười một mình, lẩm bẩm một mình như họ?...Nhưng điều tệ hại là ngay thứ tự do ấy ta cũng chẳng có. Điều tệ hại hơn nữa là trí nhớ của ta không hành trình cùng với tháng năm, nó không chịu chìm đắm trong sương mù, nó không chịu nhạt phai cùng tuổi tác. Hình phạt lớn nhất đối với con người là cái thân xác già nua của họ lại chứa đựng một trí nhớ quá sắc bén.Trí nhớ buộc ta phải sống trong một địa ngục thường hằng. Trí nhớ là kẻ dựng nên một pháp đình miên viễn. Trí nhớ là kẻ đồng hành không thể lẩn tránh cũng chẳng dám khước từ. Nếu ta không còn trí nhớ, có thể cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn chăng?
Ông cúi xuống uống tiếp ngụm trà thứ hai, nhìn chất nước màu vàng ốc sóng sánh lưng chén, giống hệt màu món cà-ri đã ăn trước khi rời Quảng Châu. Nhà an dưỡng Quảng châu, cuộc nghỉ ngơi được bố trí lớp lang như một vở chèo hiện đại. Suốt thời gian ông ở đó, nhà bếp chỉ làm những món ăn Việt nam và Trung quốc. Nhưng bữa cuối cùng, bỗng nhiên người đầu bếp Tầu nổi hứng nấu một món ăn Ấn độ đãi ông khi ông ta biết ông sắp ra đi. Đó là sự bí ẩn của ngẫu nhiên. Bữa ăn rất ngon. Khi bước lên máy bay ông vẫn nhớ mùi vị đặc biệt của thứ bột ca-ri lẫn thứ dầu gia chế vào gạo. Chúng khiến cho màu sắc của món ăn thật đẹp. Một màu vàng nhuyễn mịn và óng ánh. Màu sắc ấy gợi sự ấm áp hoặc niềm vui.
Máy bay chở ông trở về Hà nội buổi tối hôm ấy là máy bay trực thăng quân sự. Họ nói với ông rằng cần phải dùng trực thăng, bay thật thấp để tránh lưới cao xạ phòng không. Chiến tranh thường tạo ra trò đùa của sự nhầm lẫn. Muốn bảo đảm tính mạng cho ông, người ta buộc dùng thứ máy bay cổ lỗ, xộc xệch như cỗ máy khâu Xanh-de được lưu giữ trong những gia đình thợ may từ thế kỉ mười chín nhằm tránh cho ông một cái chết không mong muốn bởi chính những người lính của mình. Ông mỉm cười :
- Sống chết của nhân gian, sổ thiên tào đã ghi sẵn. Tổ chức quyết định ra sao, tôi chấp thuận như vậy.
- Thưa chủ tịch...
Người phi công lộ vẻ áy náy, anh ta định nói điều gì đó nhưng lại thôi. Ông nhìn người lính, ngay tức khắc cảm thấy tin cậy :
- Tôi đã từng ngồi xe trâu kéo. Cưỡi máy bay của chú giờ đây cũng đã là sang. Chẳng cần băn khoăn nhiều.
- Thưa vâng.
Anh ta đáp rồi ngồi vào ghế lái.
Bốn người cần vụ tháp tùng ông ngồi bốn góc theo quy định. Cuộc bay bắt đầu. Khi máy bay vừa lên đủ độ cao cần thiết trên vùng trời Quảng châu, nó đã lúc lắc chồm nẩy như cỗ xe trâu lăn trên đường núi sụt lở. Không khí chao động xung quanh tựa hồ muôn đợt sóng liên tục bổ xuống, nhào trộn với những đám mây. Đêm đen như mực. Ông không thấy gì ngoài một không gian đen mù mịt, không trăng không sao. Cứ như thế họ lặng lẽ bay qua vùng tiếp cận. Nhưng bắt đầu từ lúc máy bay vượt qua biên giới, những làn đạn phòng không túa lên, cày chi chít những rạch lửa đỏ. Mỗi lúc, những đường lửa đạn mỗi thêm chằng chịt. Ông biết rằng họ đã lọt vào vùng trời khống chế bởi cao xạ pháo miền đông bắc, kéo dài từ Lao cai cho đến Quảng Ninh. Người phi công đưa máy bay luồn dưới đám lửa đỏ. Vẻ mặt căng thẳng khiến đôi mắt anh ta như lồi hẳn lên. Mồ hôi anh ta chảy thành dòng lũ lượt sau gáy, thấm ướt đẫm cổ áo quân phục. Mồ hôi cũng nhỏ xuống từ đôi bàn tay. Ông vẫn nhớ hình ảnh đôi bàn tay đó, chúng to dày vững chãi, với đám lông trên mu và trên đốt cuối cùng của các ngón. Ông nhớ rằng ông đã nhìn vào đôi bàn tay ấy, gần như không rời mắt. Những người lính cũng vậy. Họ cũng không thể làm gì hơn là thở một cách hồi hộp và dán mắt vào đôi tay cầm lái của phi công. Sinh mạng cả sáu người phụ thuộc hoàn toàn vào chúng. Đấy là chuyến bay dài nhất trong đời ông. Mỗi phút trôi qua, là một phút hồi hộp lắng nghe tiếng động cơ già nua xọc xạch trong cuộc vận hành khốn khổ và khắc khoải chờ xem điều gì có thể xảy đến ngay phút sau. Mỗi phút trôi qua, người ta biết rằng mạng sống của mình còn thêm một phút và phập phồng vì không hiểu nó còn tiếp tục đứng vững hay không. Ông đã già, cuộc đời đối với ông chẳng bao lăm ý nghĩa. Nhưng người phi công và bốn cậu lính trẻ măng, trong số ấy có những đứa râu chưa kịp mọc. Họ không dám nói gì nhưng ông biết cơn sợ hãi kiến tất cả dường như hoá đá.
Sau cùng, người phi công thở một hơi dài và chỉ cho ông thấy cầu Long biên. Ông nghiêng đầu nhìn qua ô kính, thấy cây cầu quen thuộc hiện ra trong vùng sáng mờ nhạt của thành phố thời chiến tranh. Không ngoảnh lại phía sau, người phi công lên tiếng :
- Báo cáo chủ tịch, vài phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh.
Lưỡng lự đôi chút, anh ta nói thêm :
- Nếu không có gì đặc biệt.
Ông đáp :
- Có hay không có sự cố đặc biệt cũng chỉ một người giải quyết được. Trên chiếc máy bay này chú là người cầm lái chứ không phải tôi.
- Vâng.
Người lính đáp, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước. Ông nhìn rõ những đường gân phập phồng một bên cổ anh ta, trong gờ sáng rọi lại từ phía trước. Cũng lúc ấy, máy bay bắt đầu lượn vòng tròn. Những người lính ngồi quanh ông vừa thở phào một hơi giờ lại bắt đầu sợ hãi. Cơn khắc khoải của họ nhiễm đầy không gian chứa trong khoang máy bay hẹp. Họ dán mắt vào đốm lửa phản chiếu trên đôi mắt người cầm lái. Và hơi thở của họ phả từng làn hơi nóng sực quanh ông.
Máy bay lượn tiếp vòng thứ hai, rồi vòng thứ ba.
Im lặng đè nặng lên không gian. Nhưng thật lạ lùng là cùng lúc đó, một sự thanh thản bất chợt đến với ông kèm theo nụ cười dí dỏm :
― Sau cùng, mọi cuộc chơi đều đi đến kết thúc. Ít nhất, người ta cũng thấy được màn chót của tấn tuồng. Phải chăng đó cũng là điều hữu ích?
Người phi công đột ngột quay lại nhìn thẳng vào ông, sau khi đã đưa máy bay lượn ba vòng liền trên bầu trời thành phố :
- Thưa chủ tịch, đèn ba-li đặt sai vị trí.
- Chú chắc chắn là như vậy ?
- Thưa chủ tịch, trăm phần trăm.
- Điều đó có nghĩa gì ?

- Điều đó có nghĩa là nếu chúng ta hạ cánh theo ánh sáng của đèn ba-li đặt sẵn, máy bay sẽ rơi chính giữa hồ Định Công.
Ông lặng im, gần như nghe rõ nhịp đập rối loạn trong lồng ngực bốn người cần vụ trẻ. Ngừng lại vài giây, ông cất tiếng hỏi :
- Chú vào nghề đã lâu ?
- Thưa chủ tịch, chưa hẳn là lâu nhất nhưng mọi sân bay trên đất nước con đều thuộc như lòng bàn tay.
Anh ta đáp với vẻ quả quyết của một người có bản tính thận trọng và ý thức trách nhiệm. Ông hài lòng vì ngay lúc đầu đã đặt niềm tin vào con người này, một người lính trong trăm vạn người lính mà ông mới gặp lần đầu. Ông mỉm cười, đáp :
- Thời xưa những người thợ dệt giỏi dệt gấm trong bóng tối. Họ chỉ cần nghe tiếng thoi đưa và tiếng đập nhịp của guồng sợi mà biết mọi điều xảy ra. Triều đình tuyển chọn thợ dệt đặc biệt tinh xảo cho hoàng cung cũng nhờ phương pháp này. Thứ đó người ta gọi là thủ thuật thử thách bản lĩnh nghề nhiệp. Tôi thấy chú là người lái giỏi. Vậy chú cứ hành xử theo bản lĩnh nghề nghiệp của chú.
- Thưa vâng.
Người phi công đáp. Anh ta hoàn tất nốt vòng lượn thứ tư rồi bắt đầu cho máy bay hạ xuống chính tâm một khoảng không đen kịt. Đôi mắt anh ta phản chiếu lửa đèn, hắt lên những đốm sáng li ti. Cặp hàm vuông, gần như bạnh thêm ra trong sự tập trung cao độ. Đột nhiên, bàn tay người cần vụ ngồi bên trái ông túm lấy cánh tay ông, xiết chặt lại trong một cử chỉ vô thức nửa như muốn tìm nơi ông sự trợ giúp lại nửa như muốn che chắn bảo vệ ông trước hiểm nguy. Những ngón tay cậu ta rắn như đinh khiến ông đau điếng nhưng ông nín thinh chịu đựng. Rồi cuộc hạ cánh hoàn tất. Họ nghe rõ tiếng càng máy bay chạm đất, cảm nhận sự va đập cuối cùng. Tất cả xảy ra trong đêm đen.
Người phi công quay lại hỏi :
- Thưa chủ tịch, chúng ta cứ để đèn hay tắt đèn ?
- Cứ để đèn cho sáng.
Ông đáp.
Liền lúc ấy, giống như phép thuật của quỷ hoặc thần, cả một toà nhà sáng trưng hiện lên trước mắt họ. Toà nhà trung tâm khu sân bay quân sự. Tất cả các khung cửa kính đều sáng loá nhưng không thấy bóng ai. Do linh giác xui khiến, ông quay đầu nhìn về hướng dãy đèn ba-li của sân bay, bắt gặp ánh mắt người phi công cùng lúc. Dãy đèn ấy đặt dọc hồ. Một máng sắt sơn đen dài ngăn ánh sáng tiếp cận với mặt nước. Thời khắc mà họ nhìn rõ cảnh tượng đó cũng chính là thời khắc cả dãy đèn phụt tắt như những ngọn lửa ma trơi. Đồng thời, khuôn cửa lớn của toà nhà trung tâm sân bay mở rộng. Từ trong đại sảnh bước ra một nhóm người. Tất cả có tám nhân mạng. Ba Danh, Sáu, bốn cận vệ và hai người nữa, chắc chắn là cán bộ lãnh đạo phi trường :
― Họ sẽ chết nay mai, những kẻ xấu số này. Bốn cận vệ sẽ bị tiêu diệt tức khắc. Còn hai sĩ quan của trường bay? Cuộc sống của họ sẽ kéo dài một ngày hay hai ngày, ba ngày hoặc đủ một tuần lễ ?„
Ông thầm nghĩ và bất giác rùng mình. Lúc ấy, đèn trên sân cỏ cũng theo nhau bật sáng. Người phi công hỏi :
- Thưa chủ tịch, con có thể tắt động cơ được chưa ?
- Được. Đã tới lúc làm điều đó.
- Vâng.
Anh ta đáp và thi hành mệnh lệnh.
Thang máy bay được chuẩn bị do chính các sĩ quan phi trường. Ông bước xuống, lần lượt bắt tay hai người đàn em thân thiết :
- Chúc mừng anh Cả trở về .
- Xin chào chủ tịch, phong cảnh lẫn con người đất Quảng châu hữu nghị có làm người hài lòng chăng ?
Ông cười :
- Ồ, tôi rất hài lòng, tôi vô cùng hài lòng. Xin cảm ơn các chú.
Và cuộc sống lại tiếp diễn bình thường.
Nhiều ngày sau đó, tâm trí ông quẩn quanh bởi hình ảnh người phi công lái trực thăng. Chắc chắn anh ta đã bỏ mạng cùng với bốn cậu cận vệ trẻ măng kia. Không bao giờ ông gặp lại bốn chàng trai ấy nữa. Đội cận vệ của ông thường xuyên thay đổi nhân sự, nhanh hơn gió thay mùa. Còn người phi công tài năng kia ? Anh ta là ân nhân cứu mạng đối với ông. Một trong số những gương mặt ám ảnh ông gần như thường trực. Gương mặt ấy là tấm gương phản chiếu một sự thật chua chát: Ông là kẻ vô năng đối với tất cả những người đã gia ơn cho mình.
― Ta là kẻ vô năng nhất trong tất cả những kẻ vô năng. Ta là kẻ chịu ơn bội bạc nhất trong những kẻ bội bạc. Đó là một sự thật mà thế gian không tin nổi. Đó cũng là nỗi nhục nhã mà ta chẳng dám thú nhận với ai.
***
Vũ khoác áo, bước ra hành lang.
Ở đó, ông ngồi trên chiếc ghế gỗ dài, lắng nghe một cách ơ hờ những tiếng động vẳng lại. Khoảng năm giờ sáng, người bệnh nằm đối diện với ông tắt thở, sau một tuần sống cuộc sống nhân tạo. Ông ta tắt thở ngay khi máy hô hấp vẫn vận hành. Bác sĩ trực phòng gọi nhân viên dưới nhà xác cùng với cán bộ quản lý nhân sự lên làm thủ tục để chuyển tử thi đi. Những người bệnh khác ngọ nguậy cổ như những con sâu để quan sát mọi sự. Cặp mắt họ lơ láo, thất thần. Nỗi kinh hoàng khiến những gương mặt vốn đã bợt bạt trở nên vô khí sắc. Một người kéo chăn che kín đầu và lát sau tấm vải lót chăn thấm ướt. Ông ta khóc vụng bên trong. Bầu không khí đó làm Vũ ngột thở nên ông khoác áo, lẳng lặng đi ra.
Hành lang vắng ngắt, chỉ những ngọn đèn dọc tường hắt xuống dãy ghế sơn xanh. Sự vắng vẻ lẫn yên tĩnh tạm thời làm nhẹ lòng người. Tựa lưng vào ghế, Vũ đưa mắt nhìn bức tường đối diện và cứ ngồi như thế hồi lâu, không nghĩ ngợi gì. Lát sau, khuôn cửa rộng trổ ra khu vườn chính của bệnh viện dội lại tiếng chim. Vậy là bình minh đã tới. Chim chóc bắt đầu cuộc sống thường hằng của loài chim. Sau khúc dạo đầu của vài ba con chim cần mẫn nhất là bản hoà tấu của tất thảy các giống chim hội tụ trên vòm cổ thụ. Bản hoà tấu bất tận của đất và trời.
« Duyên cớ gì khiến ta chú tâm đến tiếng chim hót ban mai ? »
Vũ tự hỏi, bởi những năm ở rừng Việt bắc, tiếng chim hót chẳng khiến ông quan tâm đến thế, dù nơi đó chim chóc là một phần cuộc sống chiến khu. Không tìm thấy câu trả lời nên ông nhắm mắt lại, tiếp tục nghe tiếng ríu ran, tiếng líu lo, tiếng thánh thót, tiếng sửng sốt thất thần, tiếng trầm tĩnh rời rạc hay tiếng hối hả tươi vui mà bất khả phân biệt tên gọi của các loài. Ông không thể phân biệt đâu là tiếng hoạ mi, tiếng sơn ca, tiếng vàng anh, tiếng chích choè, tiếng sáo sậu, tiếng sẻ di hay sẻ đồng. Không, ông sẽ hoàn toàn tuyệt vọng nếu muốn trở thành người nuôi chim hay dạy chim chuyên nghiệp. Nhưng ông say mê hoà điệu của tất thảy các giọng hót, bởi chúng đem cho ông niềm vui sống lạ lùng mà mọi thứ giải trí khác đều bất khả.
Đúng lúc ấy, chiếc xe lăn chở tử thi trùm kín vải trắng từ từ tiến đến. Người đẩy xe là nhân viên nhà xác, một người đàn ông to lớn, gương mặt sưng vù như mắc chứng phù thũng bởi tiếp xúc quá nhiều với các thây ma. Đôi mắt anh ta đờ đẫn, nửa như đang nhìn, nửa như đã bất động. Da mặt anh ta cũng vậy, nó có màu vàng ệnh của xác chết. Theo sau anh ta là vài nhân viên hành chính và y tá. Cô bác sĩ trực đứng lại một mình cuối hành lang, nhoài qua khuôn cửa nhìn xuống vườn cây. Hoặc cô ta tìm hơi lạnh của sương mai, hoặc cũng như ông, nghe chim hót. Giờ, Vũ đã hiểu, cơn cớ nào dẫn đến sự chú tâm quá mức của ông tới tiếng chim lúc rạng đông. Lần đầu tiên chính là buổi sáng nghe tin Xuân bị giết. Dưới bóng các vòm lá sấu và mít, ông bất thần đứng như tượng để nghe chim hót, mặc dù người lái xe đã nổ máy dưới lòng đường. Chỉ là một khoảnh khắc, nhưng khoảnh khắc định mệnh. Những con vật nhỏ bé kia không biết rằng chính chúng đã đem cho ông sức mạnh; chính chúng là chiếc phao cứu nạn vào giây phút ông cảm thấy sắp chìm.
Giờ này là lần thứ hai.
Lần này là cái chết của một kẻ xa lạ, nhưng nó đến vào chính lúc ông đang bị uy hiếp. Bởi ông đang ở trong cơn chấn động cả tâm thần lẫn thể xác. Bởi môi trường gợi nên cảnh chìm tầu trong khi ông đang là con thuyền bị sóng đánh tròng trành. Ông buộc phải truy tìm cứu cánh. Nhưng lần này, ông ý thức rõ ràng một sự tìm đến chứ không phải là sự bắt gặp ngẫu nhiên.
« Ta tìm đến khúc nhạc này như kẻ chết đuối nắm lấy mảnh bè mà thần hộ mạng ném xuống. Tiếng chim hót, vẻ đẹp bất tử của thiên nhiên. Phải chăng ngươi là kẻ đồng hành không bao giờ phản trắc, là nơi tựa đỡ không bao giờ sụt lở đối với con người ? »
Cô bác sĩ trực tiến lại phía ông, sau khi đã nhoài người khỏi khuôn cửa sổ khá lâu để hít thở. Đêm lao động căng thẳng còn lưu lại những nếp nhăn trên trán . Lần đầu ông chú ý đến cô ta : một nhan sắc bình thường, dấu vết của cuộc sống thôn dã còn in khá đậm. Cô ta có dáng đi tất bật, thân lao về phía trước, hai đuôi tóc tết sam đánh lúc lắc theo bước chân. Đến trước mặt ông, người đàn bà dừng lại, tươi cười cất tiếng :
- Chào bác, công việc của chúng tôi khiến bác mất ngủ ?
- Tôi còn rất nhiều thời gian để ngủ bù. Bác sĩ không cần lo.

- Hôm nay cơ quan và gia đình có vào thăm bác hay không ?...
- Có chứ. Như thường lệ. Cảm ơn bác sĩ.
Cô ta mỉm cười, nhưng sau đó giơ tay che miệng ngáp rồi đi.
Người đàn bà này vừa được chuyển từ một quân y viện sang nên chưa đủ thời gian nắm vững hoàn cảnh các con bệnh. Cô ta không biết rằng ngay lúc ông nhập viện, bác sĩ trưởng khoa đã yêu cầu vợ ông không được vào thăm ông như thân quyến những người bệnh bình thường khác. Bởi cuộc đối thoại với bà chính là nguyên nhân gây nên cơn chấn động tâm thần dữ dội, kèm theo sự tăng huyết áp và co giãn vành mạch đột ngột, vượt qua mọi lô-gíc bình thường của bệnh học, dẫn đến cơn ngất xỉu của ông. Người ta buộc phải coi bà như tác nhân gây bệnh. Do đó, cuộc tiếp xúc giữa họ cũng phải chờ chỉ định của thầy thuốc. Vũ cảm thấy dễ chịu. Ông tự do. Thời gian đầu, dường như ông không còn mảy may lưu luyến đến gia đình. Ngay tên bà ông cũng quên. Hình ảnh của bà mất tăm tích. Nhan sắc mặn mà thuở xưa trở thành vô hình vô dạng trong lỗ hổng đen ngòm của trí nhớ. Có lẽ cơ thể ông phải sản sinh ra những phản ứng tích cực để tự bảo toàn.
Nhưng hôm nay, khi chiếc xe tang đưa kẻ xấu số khuất rồi, chợt một nỗi âu lo ập tới :
― Nếu ta ra đi đột ngột, liệu Vân và những đứa trẻ sẽ ra sao ?
Ý nghĩ ấy vừa tới, ông đã tự cười mình :
― Ta lại nhớ đến cô ấy. Đó phải chăng còn là tình yêu hay chỉ đơn giản là tinh thần trách nhiệm ? Hoặc chính xác hơn là một sự lạc hướng tâm lý : ta nhớ cô ấy như nô lệ nhớ chủ nô, như kẻ mắc chứng khổ dâm nhớ kẻ bạo dâm, như kẻ bị hành quyết nhớ đến gương mặt tên đao phủ. Một sự tưởng nhớ bệnh hoạn. Nó chứng thực con người vốn dĩ là con vật bị điều khiển bởi thói quen.

KÝ ỨC (6)


Ông vùng đứng lên, đi dọc theo hành lang vì cảm thấy nếu còn ngồi lại, ông sẽ bị đè bẹp bởi sự khinh bỉ của chính mình. Vừa đi, ông vừa đưa mắt nhìn xuống sân viện. Chiếc xe chở người chết đang vượt qua sân chính để tiến về phía nhà xác, một khối bê-tông trắng cao ngất, vuông vắn như hộp đựng bích-quy nằm khuất sau khu nhà mổ. Trên những chiếc ghế đá dài xếp quanh các bồn hoa, đã lác đác có người ngồi. Hoặc là những con bệnh sắp bình phục ra ngắm cảnh để tránh không khí ngột ngạt trong các phòng điều trị. Hoặc là đám người nhà bệnh nhân ra nhấm nháp bữa ăn sáng của họ, thường là chiếc bánh mì rắc muối hoặc gói xôi. Thấm thoắt ông đã vào đây đã trọn hai tuần, bắt đầu quen với nhịp điệu cuộc sống mới, hiểu rằng khả năng thích ứng của con người lớn hơn họ vẫn tưởng. Mấy ngày đầu, sau khi được giải phóng khỏi cơn hôn mê nhân tạo, ông hồi phục rất nhanh, cũng căm ghét rất nhanh cuộc sống của con bệnh. Các loại mùi khác nhau của thuốc tiêm cũng như thuốc uống, mùi hôi hám của những cơ thể đau ốm, bạc nhược; mùi thuốc tẩy trùng trong phòng tắm và phòng vệ sinh. Gương mặt của những người bệnh, đa phần gợi đến những chiếc mặt nạ bằng sáp ong hay vải liệm hồ bột. Những ánh mắt khi lờ đờ như mất hết sinh khí, khi bày tỏ sự cầu khẩn quỵ luỵ, khi ánh lên vẻ tò mò hay nỗi tuyệt vọng, khi bộc lộ sự thèm muốn hay ganh ghen... Một thế giới tâm lý gớm nghiếc khiến ông ghê tởm. Nhưng dần dà, vì bắt buộc phải chịu đựng nó, ông tìm được những kẽ hở mà ở đó, ông có thể thở hít, có thể tự cứu vãn và gạt đi những ý nghĩ u sầu. Ông tự so sánh mình một cách hài hước với những kẻ sống dưới hầm sâu hay địa đạo, dán mũi vào lỗ thông hơi để tìm ô-xy và hương vị của bầu trời. Cái phao cứu hộ lớn nhất của ông chính là vườn cây trung tâm viện. Vũ có thói quen lượn quanh khu vườn bất kể giờ nào rảnh rỗi. Ngay cả lúc trời lất phất mưa, ông cũng lững thững đi quanh các bồn hoa, ngửa mặt nhìn vòm cây xum xuê, tìm bóng chim và nghe tiếng kêu chành choẹ của chúng. Trong túi ông lúc nào cũng dự phòng vài chiếc khăn tay vì ông là nạn nhân thường trực phải hứng chịu các bãi cứt chim. Ông hài lòng vì đã biến thành một cái đích thuận tiện để lũ chim thải bã, chẳng phải vì ông tin vào lý thuyết ― "thấy phân là có lộc" như những người dân quê, nhưng vì ông muốn gần gũi một thế giới sống động đầy cảm hứng. Thế giới ấy tồn tại ngay giữa các khu nhà ảm đạm trong đó đầy ních kẻ sống dở chết dở hoặc các thây ma. Thế giới chim chóc ấy là trạm trung chuyển giữa một bầu trời cao rộng với ông, con người đang quay cuồng trong cơn bão tâm tưởng. Tiếng hót của loài vật bé nhỏ này là tiếng nói của thiên sứ, quà tặng của vị thần bảo mệnh, chiếc bè được chúa Trời ném xuống một cách bí ẩn trong cơn hồng thuỷ vô hình này.
Những cuộc lượn chơi ấy khiến ông quen với một số bệnh nhân có tâm trạng gần như ông, họ cũng bám lấy khu vườn như bám lấy mảnh thiên đường còn rớt lại. Mọi người chạm trán nhau, cúi chào nhau một cách thân thiện và lặng lẽ, rồi đường ai người nấy đi. Khi mỏi gối chân chồn, Vũ lại tìm đến căng-tin, ngồi vào góc bàn sát cửa sổ trông ra mảnh vườn sau của bệnh viện. Ở đó, ông nhấm nháp một ấm trà với một chiếc bánh trong vài ba giờ liền, lắng nghe tiếng ong rù rì sau lưng, nghe mấy cô gái bán hàng chuyện gẫu hoặc tán tỉnh các chàng trai trong đội bảo vệ bệnh viện. Đấy là thời khắc yên tĩnh nhất cho phép ông đối thoại với chính mình.

Cuộc sống, lý tưởng, công việc, gia đình, những con đường đã đi qua, những đoạn đời đang đợi chờ phía trước.
― Phải chăng đại cuộc đã hỏng rồi ?...

Câu hỏi ấy quay vòng như bánh xe luân hồi trong óc não. Câu nói nhẹ nhàng như rỡn cợt của gã đàn ông đeo đôi kính cận dày như trôn chén kia chính là bản án tử hình: Thuyền tình đã vỡ, ước mộng đã tan ? Cuộc cách mạng mà cả dân tộc dấn thân sau rốt chỉ là sự khuấy đáy bùn để làm nổi lên xác thuỷ tộc lẫn rong rêu thối rữa ? Làm sao có thể chấp nhận nỗi đắng cay này ? Biết bao sinh linh đã nằm xuống ? Biết bao đời trai bị đốn như những thân cỏ tháng giêng bị cắt ngang bởi lưỡi hái của tử thần? Biết bao và biết bao?
Nỗi ngờ vực càng ngày càng có nguy cơ trở thành lời khẳng định.
Ông tự thán âm thầm :
― Chẳng phải vì ta xiêu lòng bởi hai gã đàn ông bẻm mép mà vì sự thật đã hiển lộ từ lâu nhưng không ai đủ can đảm đương đầu. Những kẻ đứng ngoài ngoài guồng máy quyền lực chắc chắn phải có cái nhìn khách quan. Có lẽ do thân phận của họ, hoặc nói chính xác hơn do lựa chọn rong chơi mà họ nhìn thời cuộc một cách tỉnh táo. Ta không thể chối cãi rằng đa số những kẻ đứng quanh ta chính là đám cóc nhái chốn sình lầy.
Cùng với ý nghĩ cay đắng ấy, lướt qua một chuỗi dài những gương mặt của đám người chen chúc đứng cùng ông trên khán đài quyền lực. Cái guồng máy nhà nước này đầy rẫy những quân vô lại, những bọn chôm chỉa cướp giật, những con điếm hạ cấp....Tất thảy loại người được gom chung vào một danh từ : bọn vô sản lưu manh. Vì vừa vô sản vừa lưu manh nên chúng hoàn toàn bị điều khiển bởi một niềm say mê bạo liệt, niềm say mê này cho phép dung chứa tất thảy mọi hành động tàn bạo, mọi biện pháp phi nhân tính. Sức mạnh nội tại tiềm tàng trong chúng: Khát vọng quyền lực. Sự tham lam buông thả vô cùng vô tận nảy sinh trên gốc rễ đói nghèo. Nhu cầu không nguôi dịu của một cuộc trả thù vô thức do những khổ đau, thua thiệt, căm giận, thù oán tích tụ trường kì qua năm tháng.

Kỷ niệm về hội nghị 9 chưa phai. Bởi nó đánh dấu bước ngoặt định mệnh của dân tộc cũng như sự ngã ngựa của con người khoác tấm áo bào đẹp nhất.

Buổi sáng ấy oi nồng, oi nồng như bầu không khí bao trùm hội nghị. Mặc dù những chiếc quạt trần xoay tít và những cây quạt đứng xung quanh cũng không ngừng tạt gió nhưng mọi người vẫn cảm thấy ngột ngạt. Đây là phút trọng đại nhất: Người ta lấy biểu quyết cho đường lối chính trị quốc gia. Trên ba trăm năm mươi đại biểu, phe chủ chiến chiếm tuyệt đại đa số, phe chủ hoà là thiểu số bị nghiền nát: Họ đếm chưa đủ mười đầu ngón tay. Thế nhưng họ vẫn can đảm đến giây phút cuối cùng vì trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc. Người đứng lên trước hết là Lê Liêm, thứ trưởng bộ văn hoá. Vì ngồi ngay hàng ghế phía sau nên ông nhìn rõ đám mồ hôi thấm trên lưng áo ông ta. Đám mồ hôi đó thoạt tiên chỉ lớn bằng hai quả quýt, chấm đúng nơi nhô lên của cặp xương bả vai. Chỉ vài phút sau, nó đã loang ra bằng hai bàn tay, rồi rất nhanh thấm ướt toàn bộ tấm lưng và dán chặt vào chiếc may-ô bên trong. Đường gờ hai bên nách may-ô nổi hằn lên rõ mồn một qua lớp vải ướt sũng khiến vị thứ trưởng có vẻ như vừa bước lên từ bể bơi Trúc bạch. Tuy nhiên, ông ta vẫn nói, không bớt một lời, không dè xẻn một ý :
- Tôi nghĩ rằng chúng ta là đại biểu của một dân tộc độc lập. Chúng ta có quyền lựa chọn cho mình một đường lối tối ưu phù hợp với lợi ích quốc gia. Cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc ngày hôm qua, còn biết bao nhiêu vấn đề cần giải quyết. Mìn trên các cánh đồng Mường Cúm, Him-lam chưa đảm bảo đã gỡ hết. Lúa chưa mọc kín những chiến địa cũ. Thương phế binh trong các trại còn đang cần tiếp tục điều trị và giúp đỡ. Nhân dân đang còn thiếu những nhu cầu thiết yếu như thực phẩm, quần áo, thuốc men. Ấy là chưa kể đến các loại sách vở và học cụ của trẻ nhỏ. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta không có lý do gì để dấn thân vào cuộc chiến tranh mới chỉ nhằm chứng minh tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai phe đối nghịch vẫn có thể tồn tại song song trên cùng một hành tinh bởi hành tinh này đủ rộng để dung chứa các quốc gia khác nhau và các hệ thống chính trị khác nhau. Chúng ta có thể chiến thắng Mỹ không phải trên chiến trường mà trong cuộc cạnh tranh khoa học, chiến thuật công nghiệp và hiệu năng kinh tế.

Ông không còn nhớ chính xác những gì Lê Liêm đã nói sau đó, nhưng mắt ông dán vào tấm lưng áo ướt sũng mồ hôi khiến ngay cả những đốt xương sống của vị thứ trưởng cũng hiện lên rõ mồn một. Trong lúc ấy, một màu đỏ loang từ từ trên gương mặt ông ta, thoạt tiên từ thái dương và quầng mắt. Sau đó màu đỏ tràn qua hai gò má rồi lan qua cằm, xuống vùng cổ và gáy. Ông cũng nhớ rõ những nét rùng mình thoáng gợn qua khuôn mặt ấy và cơn tự chế khiến cặp môi của Lê Liêm gần như tái nhợt đi. Ông cũng nhớ một cách chi tiết những ánh mắt thù nghịch của đám người xung quanh chiếu vào vị thứ trưởng. Những kẻ ngồi hàng trên quay hẳn lại, nhìn chõ vào mặt người đang phát biểu bằng cái nhìn của kẻ côn đồ, hứa hẹn một cách thẳng thắn đá ném vào đầu hay dao đâm vào cổ. Những kẻ ngồi hàng ghế sau không thể bộc lộ được tinh thần phản đối bằng ánh mắt đe doạ và khinh bỉ đối với "tên xét lại" thì xì xào gây ồn ĩ...Một khoảnh khắc trôi qua, bất thần một đại biểu vọt đứng lên, tách hẳn hàng ghế bước đến trước Lê Liêm, xỉa tay vào mặt ông và hét :
- Nếu mày không câm họng lại. Nếu mày còn tiếp tục phun ra giọng điệu của bọn xét lại, tao sẽ treo cổ mày lên.

Lê Liêm ngừng lời, dường như bị một cú đòn phang vào gáy. Ông trân trân nhìn kẻ vừa sỉ nhục mình, thứ trưởng bộ nội vụ Lê chí Thân, lâu la ruột của Quốc Tuỳ. Đưa tay lên gỡ kính, thứ trưởng bộ văn hoá chớp mắt một cách bối rối. Ông không thể tìm được lời đối thoại, dầu ông là người nổi tiếng có tài ăn nói. Hội nghị cũng im lặng theo. Đây là lần đầu, họ chứng kiến cảnh tượng các đồng chí xử sự với nhau theo đúng cung cách của bọn đầu đường xó chợ. Dầu gốc tích ra sao, nhưng khi đã trở nên những kẻ mũ cao áo dài, những đại diện cho dân chúng, bọn họ đều cố gắng giữ một sự nhã nhặn tối thiểu. Đây là lần thứ nhất, sự cặn bã được tự do lên ngôi. Hơn ba trăm con người cúi mặt xuống.
Trên khán đài, Ba Danh và Sáu lặng im.
Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch đứng lên, quay về phía Lê chí Thân, cất giọng thản nhiên, ôn tồn :
- Nếu chú muốn treo cổ chú Lê Liêm, hãy treo cổ tôi trước đã.
Lê chí Thân mím môi, cúi gằm mặt rồi quay về chỗ của y. Hội nghị chết lặng đi trong khoảnh khắc.
Rồi Sáu rung chuông :
- Giờ giải lao đã đến. Mời các đồng chí tạm nghỉ.
Sau hội nghị, Lê Liêm đã viết một bức thư gửi bộ chính trị, trong đó ông yêu cầu những người lãnh đạo cao nhất của đảng giải quyết vụ việc này, bởi ông không tin rằng đảng có thể dung túng cho những hành vi và ngôn từ có tính côn đồ lưu manh được phép tồn tại giữa những uỷ viên trung ương, những đại biểu của dân tộc.
Thứ trưởng bộ văn hoá quá thơ ngây. Ông là con người duy mỹ. Sự duy mỹ không tồn tại được trong xứ sở này. Bộ chính trị mà ông kì vọng sẽ làm trọng tài phân xử giữa ông với kẻ hạ nhục mình lại chính là đám người một đồng một cốt với y. Để xây dựng một khải hoàn môn hùng vĩ, đảng ắt cần đến loại người có khả năng tàn phá và huỷ diệt. Chiến tranh cần các tội phạm, những kẻ sát nhân chuyên nghiệp và nghiệp dư trong số đó đám đâm thuê chém mướn nghiễm nhiên trở thành lớp người đặc biệt có năng lực, được mau chóng nhận diện như lớp tinh hoa. Sự thật ấy đã liệt kê, sơ đồ hoá. Huống chi một số lớn kẻ cầm quyền cũng có gốc rễ là quân lừa đảo, trộm cướp, các phiên bản của tầng lớp lưu manh ?...Tiếng hú của chó sói khiến mọi loài run sợ nhưng lại là tiếng gọi ấm áp thân quen đối với bầy đàn của chúng. Con người như Lê Liêm chính là kẻ lạc loài. Trong khi chờ đợi lá thư trả lời của các « đồng chí lãnh đạo », ông đã bị khai trừ khỏi đảng, thải hồi và quản thúc tại gia, tất thảy mọi hình thức kỉ luật được thi hành gần như một lúc. Vài ngày sau đó, tướng Đặng kim Giang, viện trưởng viện triết học Hoàng minh Chính, nhà văn hoá Nguyễn kiến Giang và non một trăm nhân sĩ khác, những người được định danh là bị đầu độc bởi tư tưởng của tên trùm xét lại Khơ-rút-xốp bị bắt giam. Cùng một tuần lễ, hơn hai mươi tướng lĩnh bị tống vào nhà ngục bởi họ đã từng được đào tạo lâu dài trong trường quân sự Cu-tu-dốp hoặc có quan hệ gần gũi tướng Long. Tuần sau, trên năm trăm sĩ quan quân đội từ cấp đại tá trở xuống, những người từng cộng tác hoặc được nhiệm chức trực tiếp dưới quyền của tướng Long cũng lần lượt bị bắt theo. Họ bị dẫn độ trong các đoàn xe của tổng cục 2, sau đó bị giam tại nhà tù Thanh Liệt ở ngoại ô Hà nội, và hai nhà tù trung ương khác đặt tại Hà Tĩnh và Thái nguyên.

Cuộc chiến tranh mới bắt đầu.

Hành trình của dân tộc đổi hướng.

Cùng với nó là tất thảy những bi kịch của con người thân thiết nhất với ông.
* * *
Bừng mắt dậy, chủ tịch thấy hoa mai nở trắng xóa khuôn cửa sổ. Phải chăng đây là đợt hoa cuối cùng của mùa xuân ? Ông đứng lên, dán mắt qua tấm kính nhìn những cành mai phủ kín hoa giống hệt những chuỗi bông tuyết đọng trên cành thông mùa Noel. Những cánh hoa trắng tinh như tạc bằng sương băng và vườn mai trắng bơi giữa biển sương trắng mênh mông khiến ông hồi tưởng khung trời mùa đông Paris những ngày tuyết đổ.

Paris, chân trời xa xôi không ngừng thiếu vắng nơi ông.

Paris, thành phố của những đam mê mặn nồng và cay đắng.

Ông đã trải qua biết bao mùa đông trong thành phố ấy? Biết bao lần ông đứng nhìn tuyết rơi trên những mái nhà nhấp nhô với cảm thức phức tạp trong đó sự xa cách chen cùng gần gũi, nỗi buồn xen lẫn những ngất ngây. Bởi không có tiền, ông luôn luôn phải thuê những căn buồng áp mái, thứ quán trọ dành cho đám sinh viên nghèo, đám thợ thuyền tỉnh lẻ tới kiếm bánh mì đô thị và đám người lưu vong khốn khổ. Ở những gian phòng áp mái ấy, ông phải chịu đựng cái rét thấu xương nhưng bù lại, có cảm giác gần bầu trời hơn, có thể nhìn những bông tuyết quay cuồng múa lượn một cách ngoạn mục hơn trước khi chúng rơi xuống mặt đất. Đôi khi, vào những rạng đông, thành phố vắng người và ngổn ngang tuyết rơi trở nên hoang vắng lạ lùng, xa cách lạ lùng như chẳng còn là Paris mà chỉ là một bình nguyên tuyết phủ. Đôi khi, vào những hoàng hôn rét cóng, ông nhìn các bông tuyết bay xiên giữa không trung, làm nhập nhoà thêm ánh sáng yếu ớt của những ngọn đèn đường, khiến bầu trời ám mây trở nên âm u huyền bí như bức hoạ đồ được vẽ bằng bàn tay phù thuỷ. Đôi khi, vào những trưa hiu quạnh, ông bước trên hè phố đầy ngập các đống tuyết, ngơ ngẩn nhìn làn tuyết trắng in những vết giày đen bẩn của khách bộ hành. Mùa đông Paris, hơi thở ấm áp ngon lành của những lò bánh mì là thứ hương thơm nồng ấm nhất với chàng trai châu Á. Rất nhiều khi, ông bắt gặp mình đi đi lại lại hàng chục lượt trước ô cửa không cánh trổ sát hè, được chắn bởi những dóng sắt thô đen sì như cửa sổ nhà ngục. Từ những ô cửa chẳng chút gợi cảm đó, hơi nóng của các loại bánh mới ra lò bay lên không ngừng. Và không ngừng, những làn hơi ngào ngạt quyến rũ khách qua đường bởi thứ mùi thơm vô cùng trần thế.

Paris !

Sao đột nhiên nỗi nhớ hoá cồn cào ?

Những cành mai trắng bồng bềnh trong sương trắng đỉnh Lan Vu bỗng gọi về đây một khung trời tràn đầy kỉ niệm. Khung trời xa xôi và gần gũi. Quãng đời tươi thắm nhất. Tuổi trẻ của ông. Đã quá lâu ông không còn thấy thành phố đó. Liệu nó đổi thay nhiều hay vẫn như xưa? Những quán rượu cũ kĩ hẳn sẽ được đổi thay bàn ghế, thay kiểu trang trí và thêm các món nhắm. Các cô hầu bàn sẽ thay trang phục. Những ngôi nhà sẽ thay chủ và thay nước sơn. Những ngọn đèn đường kiểu cổ hẳn sẽ được thay bằng các loại đèn mới. Nhưng tựu trung, nước sông Seine đâu có đổi giòng ? Và những hàng cây vây quanh đảo Saint Louis vẫn trút lá ào ào khi mùa đông tới. Hẳn là thành phố ấy vẫn sống cuộc sống bình thường của nó, ở ngoài ông, không có mặt ông. Ông chỉ là khách trọ một mùa nếu Paris là quán trọ. Ông chỉ là kẻ qua sông một lần nếu nó là con thuyền vĩnh cửu qua lại giữa hai bờ quên nhớ của một dòng sông. Ông chỉ là một khách hàng nghèo khổ, trong túi không đủ tiền để mua một vật ra hồn, đi qua chợ mà đau đáu buồn tủi, nếu Paris là thứ siêu thị miên viễn của phương Tây, nơi sự choáng lộn của xa hoa làm chóng mặt những kẻ nhát gan và làm rơi lệ những kẻ có quá nhiều thèm muốn nhưng túi tiền lại rỗng.

Ồ, nhưng ông đâu có ham muốn tiền tài ? Suốt đời, ông chưa bao giờ dành dụm nổi một món tiền, để tiêu cho riêng ông hoặc trợ giúp một người nào ông muốn giúp. Ngay giờ đây, làm chủ tịch nước mà tiền phúng viếng kẻ tiều phu ông cũng không biết rõ ít nhiều, và không thể tự tay định liệu. Điều đó phải chăng do số phận đặt bày ? Bởi chính ông cũng dửng dưng trước một sự thật lạ lùng như vậy. Nhưng quả tình, ông chưa bao giờ thèm khát sự xa hoa của Paris. Ông nhớ về nó như nhớ một mối tình bất thành và bất khả quên lãng.

Ngoài kia, một cơn gió vừa tới, xô dạt những cành mai. Từng đám cánh hoa rơi lả tả. Chao ôi, sao mà giống những nụ tuyết ở phương trời bên kia ? Lần đầu, nhìn những bông tuyết nhỏ vừa đúng bằng hạt ngô rang nở, ông thốt kêu thành tiếng : « Ồ, xinh xắn làm sao thứ nụ tuyết tí hon này ! ». Nhiều năm sau, ông vẫn tự cười mình vì sự ngô nghê ấy. Với ông, kỉ niệm về tuyết đã trở thành nỗi sầu thương vĩnh cửu, điệp vào nỗi sầu thương một tuổi trẻ bị chôn vùi. Khi đã trở thành một người đàn ông từng trải, vào những ngày tuyết bay mù mịt, con tim ông vẫn thổn thức vì bài hát cũ : Tuyết rơi ! Phải chăng màu trắng của tuyết bay đã làm thành một phần đời ông, một phần không thể thiếu ? Phải chăng những câu ca xưa cũ, một khi đã găm chặt vào tâm khảm, trở thành thứ điệp khúc bất tử vượt qua mọi thăng trầm của số kiếp và mọi sụt lở của thời gian ?
« ....... Tombe la neige
Tu ne viendras pas ce soir
Tombe la neige
Mon coeur s’ habille de noir .... »

Suốt đời ông, đeo đuổi nỗi nhớ tình yêu. Suốt đời ông, bài hát ấy vang lên như một điệp khúc vô chung và vô thuỷ. Khốn khổ thay cho ông , không thể lấp đầy nỗi trống vắng này. Khốn khổ thay cho kẻ nào tóc đã trắng như sương mà còn nhớ bài « Tuyết rơi » và con tim còn se sắt vì những mối tình bất cập.
- Thưa chủ tịch, xin mời người dùng cháo cho nóng.
- Ồ, nhà bếp đã mang lên ?
- Vâng, bác sĩ yêu cầu người ăn thêm bữa sáng còn bữa trưa rút đi nửa xuất cũng được. Như thế có lợi cho sức khoẻ hơn.
- Tôi đã nghe chú ấy giải thích. Nhưng tôi đã quen ăn hai bữa từ khá lâu.
- Vâng....Nhưng bác sĩ...
- Thôi được, tôi ra đây.
Ông bước ra phòng ngoài. Một mùi thơm lạ lùng từ sân tràn vào khiến ông dừng lại. Ông vừa hồi tưởng mùi thơm của những lò bánh mì Paris mùa đông, phải chăng mùi hương này là mùi hương mộng ảo của ký ức ?
Hồ nghi, ông giương mũi lên hít thở . Cậu lính thấy vậy nói luôn :
- Thưa chủ tịch, đó là mùi chả đậu xanh của nhà chùa. Sáng nay, sư nữ trổ tài rán chả đậu.
- À ra thế. Quả là khác.
- Thưa chủ tịch, khác cái gì ạ ?
- Ồ, tôi muốn nói là mùi thơm này chẳng giống mùi thơm của các món ăn khác.
- Vâng.
Cậu lính lập tức khẳng định :
- Mùi món ăn chay phải khác mùi các món ăn trần ạ.
Ông cười :
- Đúng rồi. Nếu không ai còn dám gọi là chay ?
Cậu lính nhìn ông thăm dò rồi hỏi :
- Thưa chủ tịch, người có muốn nếm thử món ăn nhà chùa không ạ ?
Ông lắc đầu :
- Đừng làm phiền họ như vậy. Chúng ta ở đây đã là xâm phạm vào bờ cõi cũng như tự do của các nhà sư rồi.
- Ồ không.
Chàng trai đáp một cách hăng hái :
- Chính sư nữ đem cho con một đĩa tú hụ. Chả hãy còn nóng nguyên. Con lấy lên một chút để người nếm thử .
Ông chưa kịp trả lời cậu ta đã chạy vụt ra và mất hút trong đám mây trắng khổng lồ đang lướt qua sân. Một phút sau, anh chàng trở lại với đĩa chả đậu bọc trong tấm vải bông dày :
- Mời chủ tịch dùng cho nóng.
- Cảm ơn.
Mùi chả đậu quả là hấp dẫn. Hoặc nó ngon lành thực hoặc vì nó là món ăn lạ nên vị giác của con người bị kích thích và ở trong trạng thái chờ đón. Ông gắp miếng chả lên ăn thử trước cặp mắt hồi hộp của chàng lính trẻ.
- Ngon lắm. Lần đầu tôi mới ăn món này.
Cậu lính toét miệng cười :
- Chả đậu là một trong những món chay ngon nhất đấy ạ. Những dịp đặc biệt nhà chùa mới làm vì mất công.
- Người ta làm theo cách nào ?
- Dạ, trước hết phải đồ đậu xanh lên như đồ xôi. Sau đó cho vào cối giã nhuyễn thành bột. Thứ bột này nhào với một chút bột mì hoặc bột gạo nếp cho đủ độ dính kết, rồi thêm muối và gia vị cho vừa vặn. Sau đó đem nặn thành bánh thả vào chảo dầu rán. Hôm nay, sư nữ rán bằng dầu lạc. Nhưng muốn ngon hơn, phải rán bằng dầu vừng hay dầu hướng dương.
- Giỏi lắm. Cậu có thể chuyển thành đầu bếp được rồi đấy.
- Sáng nay con ngồi phụ sư nữ giã đậu, được nghe giảng về mọi loại ăn chay.
- Đời sống của nhà chùa xem ra cũng khá phong phú, phải không ?
- Dạ. Thưa chủ tịch...
Cậu ta lúng búng. Người lính trẻ không biết trả lời ra sao vì câu hỏi của ông quả là nan giải. Ông cười :
- Tôi hỏi đùa thôi. Đời sống của những người tu hành thật sự vô cùng đơn giản. Nhưng sự khó khăn chính là ở chỗ duy trì và bảo dưỡng sự đơn giản ấy.
- Thưa vâng.
Biết rằng chàng trai không thể hiểu những điều mình vừa nói, ông vỗ vai cậu ta :
- Thôi, không phải căng óc đánh vật với chữ nghĩa làm gì cho khổ. Cứ tin rằng đời sống của họ hoàn toàn khác biệt với cuộc sống của chúng ta.
- Thưa vâng.
Chàng trai nói với vẻ sung sướng như vừa trút được gánh nặng, đoạn cậu ta dọn khay đồ ăn đi với nỗi hân hoan như vị tướng trở về thành dẫn theo đoàn xe chất đầy chiến lợi phẩm. Ông đã ăn hết đĩa chả đậu mà bỏ lại bát cháo thịt của nhà bếp.
Chỉ vài tích tắc sau, tiếng cười của chàng trai vang đã lên bên kia sân chùa. Ông không nhìn thấy cậu ta vì những đám mây trắng lướt bay không ngừng, giống đàn bò của Thượng đế bị mục đồng rượt đuổi trên cánh đồng tiên giới. Những đàn bò trắng liên tục diễu hành trước mắt ông. Bỗng nhiên, nỗi cô đơn hiệp đồng với mây trắng bên ngoài làm buốt lạnh con tim. Chủ tịch sững sờ. Ông chưa bao giờ trải nghiệm một thứ cô đơn kinh hoàng như hôm nay. Cô đơn lạ lùng. Cô đơn đến đau buốt ruột gan, tê dại chân tay. Cô đơn như có một thứ lưới sắt vô hình quây chụp lấy ông, trói thít ông trong những mắt lưới tàn nhẫn. Ông hụt hơi. Ông thấy ông không đủ sức chịu đựng thêm dẫu là một khoảnh khắc nỗi cô đơn này cho dù suốt đời ông, cô đơn vẫn là kẻ đồng hành chung thuỷ. Ông bỗng thấy sợ khi phải ngồi lại đây, mình đối mặt với mình :
« Tại sao ta lại yếu đuối đến mức này ? Chẳng lẽ chỉ vì tuổi già mà ta trở nên một kẻ xa lạ và thảm hại ngay với cả bản thân ? »
Ông tự đe nẹt. Trong khi uống từng ngụm trà nhỏ, ông cúi nhìn vào lòng chén, cố tìm trong chất nước sóng sánh vàng kia một liên tưởng, một kỉ niệm về sông suối, một kí ức xa xôi dính líu tới những cuộc tiệc trà, làn khói mềm mại phất phơ bay trên những món ăn nóng hổi. Bất kể thứ chi có thể giúp ông quên đi nỗi cô đơn. Nhưng điều đó trở thành bất khả. Bởi nỗi cô đơn này chính là kẻ song sinh với nỗi quên lãng kia. Khi quên lãng quay đầu chạy đi, nỗi cô đơn này vòng trở lại. Hai thứ thòng lọng thít chặt cổ ông trên giá tử hình.
Chủ tịch đứng lên vì nếu còn ngồi lại ông sẽ ngạt thở. Khoác chiếc áo bông dài lên vai, ông bước ra. Vừa mở cửa, mây trắng đã phả vào mặt ông ướt lạnh. Những viên gạch dưới chân sũng nước như láng mưa. Từ bên chái nhà bên kia khu chùa, cậu lính kêu to :
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào. Trời lạnh lắm.
Rồi cậu ta chạy bổ qua sân nhanh như chim cắt và túm lấy ngang lưng ông khi ông vừa định bước xuống tam cấp :
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào nhà.
Ông đáp lại một cách ngang bướng :
- Ồ không. Ngồi trong nhà mãi nhức đầu. Vả chăng, tôi phải sang cảm ơn nhà chùa vì món chả đậu.
- Thưa chủ tịch, người đụng đũa đến món ăn chay tịnh của chúng tôi đã là vinh dự cho nhà chùa. Người bất tất phải sang đây.
Ông nghe sư nữ nói rất to, vọng từ bên kia đám mây. Vì đám mây quá lớn, ông sợ bị cảm lạnh nên chờ nó lướt qua sân rồi mới bước tiếp. Chỉ vài chục bước chân mà không nhìn rõ hình người. Đúng là cảnh tượng nơi tận sơn cùng cốc. Đặt chân lên bậc thềm của gian chùa ngang, ông mới nhìn thấy sư nữ đang ngồi giã trầu cho sư cụ. Ông chưa kịp nói thêm lời nào, bà cụ đã từ trong nhà bước ra :
- Xin mời chủ tịch vào nhà ngay vì trời rất lạnh. Nếu chẳng may người vàng mình sốt mẩy, nhà chùa chúng tôi không biết lấy gì để chuộc lỗi trước nhân dân.
- Bạch sư cụ, người còn nhiều tuổi hơn chúng tôi.
Ông nói vậy nhưng cũng bước vội vào nhà vì sau lưng ông, những đám mây vĩ đại khác đang lù lù tiến đến. Chúng không chỉ bay ngang sân mà sẽ tràn vào tất thảy những khuôn cửa mở khiến các gian nhà ướt lạnh. Sư nữ bỏ cối trầu bước liền theo ông rồi khép luôn cánh cửa. Tiếng cánh cửa quay cót két trên trục gỗ khiến chủ tịch giật mình. Chợt nhớ rằng tiếng cót két này vô cùng quen thuộc với ông thời niên thiếu. Những ngôi nhà gỗ cổ xưa của xứ sở đều xây dựng theo cùng một mẫu, và tiếng cánh cửa nghiến trên trục gỗ vọng lên nỗi buồn nhớ thời đã qua...
- Xin mời chủ tịch ngồi.
Sư cụ mời ông ngồi đối diện với bà, trên chiếc ghế lim cũ nhưng vững trãi mà thời gian khiến nước gỗ bóng như gương. Cậu lính ngồi phía sau lưng ông, trên chiếc ghế đẩu bằng mây đan do sư nữ đem lại. Giữa căn phòng, một lò than hoa tí tách cháy. Thi thoảng, sư nữ lại lấy que khơi cho những viên than cháy đỏ và tiếp thêm than mới. Căn phòng toát lên vẻ ấm cúng mộc mạc và cũ kĩ. Giống như mùi thơm của trầu cau, hơi ấm của cánh tay bà ngoại, nỗi phấp phỏng thần tiên của những câu chuyện cổ tích được nghe kể đêm xuân. Sư nữ rót nước vào bộ chén Bát tràng mời khách. Nhà chùa uống nụ vối hãm gừng. Thứ nước ấy cũng gọi về một mùi hương cổ xưa khiến ông lập tức nhớ đến mẹ ông :
- Bạch sư cụ, nước vối hãm gừng thơm lắm. Vậy mùa hè nhà chùa cũng dùng thứ giải khát này ?
- Thưa chủ tịch, mùa hè chúng tôi uống chè tươi hay cánh cúc khô.
Nói đoạn, bà cụ quay sang bảo sư nữ :
- Con có thứ chè lam mềm để ăn sau bữa cơm. Sao không đem ra mời chủ tịch ?
- Bạch thầy, con xin sám hối. Con vô tình nên quên.
Sư nữ đi sang gian bên, hẳn là nơi cất thứ chè lam đãi khách. Ông im lặng nhìn theo người đàn bà trong tấm áo nâu dài, lơ mơ nghĩ :
« Tại sao cô ta không tìm một mái ấm như nhiều người đàn bà khác ? Liệu nơi này thực sự là miếu đường hay chỉ là nơi tránh nạn tạm thời hoặc là chốn ẩn náu để lãng quên một quá khứ khổ đau, chất chồng tì vết ? Một thứ quy phục số phận, giống như ta vị vua già trong oubliette đỉnh Lan Vu?»
Sư nữ quay ra cung kính đặt lên bàn một đĩa chè lam trắng xoá bột nếp áo. Thứ chè lam được thái sẵn hình quân cờ, đặc biệt mềm dành cho người cao tuổi hoặc trẻ nhỏ :
- Xin mời chủ tịch nếm thứ quà của các bần tăng.
- Xin cảm ơn nhà chùa. Vừa rồi tôi đã được nếm món chả đậu rất ngon. Chắc chè lam cũng sẽ ngon như vậy.
Ông đáp đoạn cầm miếng chè lam lên cắn. Sau đó ông chiêu một ngụm vối hãm gừng. Quả là ngon. Nhưng điều quan trọng hơn là cuộc đối ẩm này cứu ông khỏi những giây phút trầm cảm. Ông đưa mắt nhìn gian nhà gỗ cổ lỗ một lần nữa, tự hỏi vì sao cho đến tận buổi sáng này ông mới đặt chân vào đây, vượt qua mảnh sân gạch như vượt qua bức tường thành phân định giữa tồn sinh thế tục với cuộc sống của kẻ tu hành, như vượt qua cõi biên thuỳ giữa các vương quốc nếu không đối nghịch thì cũng bất khả tương thích. Ồ, tại sao?
Chủ tịch uống một ngụm lớn như để nuốt trôi những ý nghĩ nặng nề và ông trầm trồ :
- Chè lam ngon thật. Thứ quà này tương hợp một cách tuyệt vời với nước vối.
Đoạn ông cười và nói thêm :
- Tôi ở đây đã hơn một năm mà hôm nay mới dám đặt chân vào nhà chùa. Quả là thiệt thòi. Giá tôi mạo muội phá rối nhà chùa sớm hơn hẳn đã được nếm món chè lam này từ lâu.
- Thưa chủ tịch, nơi ăn chốn ở của bần tăng làm sao đủ thanh lịch để mời người. Vì thế chúng tôi chẳng dám mạo muội.
Sư cụ đáp rồi nở nụ cười. Hai hàm răng bà cụ còn nguyên vẹn, vững trãi và đen nhánh. Chủ tịch cũng cười :
- Chúng ta là láng giềng, lẽ ra phải thăm hỏi kết thân từ lâu mới phải. Lỗi chính là tôi bận quá.
Uống cạn chén nước, ông tiếp :
- Bạch sư cụ, hình như hôm trước nhà chùa làm lễ cầu siêu cho người dưới xóm Tiều Phu ?
- Thưa vâng. Chủ tịch bận trăm công ngàn việc mà vẫn quan tâm đến số phận nhỏ mọn của lê dân, vậy là tâm người lớn lắm. Tôi nghe sư nữ kể lại việc người xuống tận dưới xóm dự lễ tang.
- Bạch sư cụ, tôi chỉ rẽ vào viếng người xấu số.
- Thưa chủ tịch, thế đã là đại hồng phúc cho gia chủ.
- Bạch sư cụ, tiện thể xin người giảng cho tôi rõ thế nào là lễ cầu siêu? Phải chăng mọi người chết đều cần đến lễ cầu siêu hay chỉ riêng những kẻ có số phận oái oăm, trắc trở ?
- Thưa chủ tịch, đạo Phật không bị ràng trói bởi nghi thức. Cũng không quy định rõ người nào cần được cầu siêu và người nào không. Tất thẩy đều tuỳ thuộc sự động tâm của chúng sinh. Chỉ có động tâm chúng sinh mới khai minh, sáng trí ; khi sáng trí họ mới đủ cơ duyên để nhìn ra nghiệp quả của mình. Nhà chùa chỉ làm theo thỉnh nguyện của chúng sinh. Thế nhân thường nói: « Tâm động, quỷ thần tri ». Kẻ tu hành biết là phật tính được khơi như ngọn đèn, vừa rọi sáng cả tinh thần lẫn sinh thể chúng sinh, vừa chiếu qua bẩy vùng trời để làm nở đoá sen phước hạnh.
- Bạch sư cụ, chúng tôi là kẻ ngoại đạo, dù có cố sức cũng không thể hiểu được ngay những kinh điển trong tôn giáo của ngài, nhưng ở góc độ kẻ phàm trần, chúng tôi vô cùng quan tâm đến câu chuyện giữa cha con người tiều phu dưới xóm. Không hiểu nhà chùa cắt nghĩa việc này ra sao ?
- Thưa chủ tịch, Đức Thế Tôn chỉ ra rằng trong mọi kiếp nạn của con người, chữ Tham đặt lên trước hết. Lòng dục che mờ lương tâm như đám mây đen che khuất mặt trời, mặt trăng. Tình cha con, tình thày trò, tình huynh đệ đều bị lòng dục phỉ báng và phá huỷ. Ngay Đức Thế Tôn cũng bị sát hại bởi chính người em họ thân thiết của mình, đại đức Devadatta. Lịch sử các triều đại, từ cổ chí kim, chuyện thái tử giết vua cha đâu có thiếu. Chắc chắn ngài còn đọc nhiều hơn bần tăng.
Dứt lời, sư cụ từ tốn mỉm cười. Và ông lại nhìn thấy hai hàm răng hạt na đen nhánh :
« Ồ, rõ ra đây là một bà già Việt cổ xưa, răng đen váy lĩnh. Trước đây bẩy mươi năm hẳn là một thôn nữ tươi ròn, tràn đầy sức sống. Nhưng nàng không chấp nhận cuộc sống bình thường với những thú vui bình thường nơi thôn xóm mà dùi mài đèn sách để trở thành đệ tử của Như Lai.»
Ông thầm nghĩ, không ngăn được mối thiện cảm với người đối thoại :
- Bạch sư cụ, ngài dẫn giảng thật hay. Quả là ngài đã dày công đèn sách.
- Thưa chủ tịch, bần tăng không dám nhận lời khen. Bất cứ ai ăn mày cửa Phật, đọc kĩ lời dạy của Đức Thế Tôn đều có thể dẫn giảng hay hơn bần tăng gấp bội.
Không chờ ông lên tiếng đáp, bà cụ quay về phía sau hỏi sư nữ :
- Con không thấy là đĩa chè lam sắp hết rồi sao ? Nhà chùa thanh bần nhưng không bao giờ hẹp lòng đãi khách.
- Con xin sám hối. Con mải nghe chuyện của thầy.
Ông mỉm cười vì thấy sư cụ đầy mẫn tiệp ; lối lảng tránh những chủ đề không mong muốn của bà cụ chứng tỏ khả năng phản ứng của cụ nhanh không kém người đang độ thanh xuân. Ông ăn miếng chè lam cuối cùng còn lại trên đĩa, giống như một người hàng xóm quen thuộc đã nửa thế kỉ nay :
- Chè lam quả là ngon. Bạch sư cụ, xin cảm ơn ngài lẫn sư nữ vì sự đón tiếp thịnh tình này. Nếu ngài cho phép, chúng tôi sẽ còn được dịp quấy quả.
- Thưa chủ tịch, ngài đặt chân đến đây là vinh dự cho các bần tăng.
Ông đứng lên.
Và sư cụ cũng đứng lên, chắp tay hình búp sen đáp lễ.
Khi ông trở lại phòng, đồng hồ chỉ chín giờ hai mươi lăm phút. Vậy là cuộc trò chuyện với nhà chùa kéo dài một tiếng rưỡi. Một tiếng rưỡi, mùi nước vối hãm gừng lẫn nụ cười với hai hàm răng đen nhánh của nhà sư cứu ông thoát khỏi vực sâu tuyệt vọng. Bây giờ, ông còn lại với chính ông. Chủ tịch ngồi xuống ghế, bắt đầu sợ hãi khoảng thời gian phía trước. Nỗi cô đơn sẽ quay trở lại. Giá treo cổ sắp hiện hình. Ông biết trốn đi đâu ?
Vào rừng chăng ? Bất khả. Xuống núi chăng ? Không có lý do. Vả chăng, ông không thể tự biến mình thành con bệnh tâm thần trước mắt đám người canh giữ cái nhà ngục mỹ miều này. Lòng tự tôn không cho phép ông hành động buông thả. Đưa mắt nhìn lên giá sách, ông bắt gặp vài chục cuốn đang đọc dở, găm đầy những tấm thẻ tre đánh dấu. Rút một lần ba cuốn, ông bắt đầu lật giở từng trang. Các dòng chữ lướt đi như dãy chấm đen vô hồn, không mảy may ý nghĩa. Khi thì chúng giống như những dãy hoa văn đơn điệu và thô mộc, khi thì chúng trở nên xám xịt như nắm cát và ông không thể phân biệt nổi con chữ. Chủ tịch thở dài, gấp lại cuốn sách, đặt chiếc thẻ tre vào đúng trang cũ. Trên sân chùa, những đám mây trắng khổng lồ vẫn lũ lượt lăn qua. Và những cành mai phủ đầy hoa trắng vẫn nhè nhẹ rung bên ngoài khung cửa khiến con tim ông lại cồn cào nhớ màu tuyết trắng.
« Ta không thể tiếp tục chịu đựng những dày vò khủng khiếp này. Điều đó tồi tệ hơn cả cái chết. »
Ông lại đứng dậy, cầm chiếc áo bông , định bước ra cửa. Nhưng chiếc áo ướt lạnh buộc ông hiểu rằng ông không thể đi đâu vào lúc này. Ông không có cách nào hơn là ngồi lại giữa bốn bức tường tù ngục, đối mặt với chính pháp đình của chính ông.
Mắc lại chiếc áo lên giá treo, ông buông mình xuống ghế, đưa mắt nhìn đám mây cuồn cuộn như đống bông lăn qua sân chùa và nhớ lời sư cụ :
« Đến đức Thế Tôn cũng còn bị sát hại bởi đàn em. Đã khoác áo cà-sa, đã tu luyện đến bậc đại đức mà còn bị lòng dục xui khiến thì huống chi đám người trần tục ? Ta chẳng nên oán trách bọn đồng chí thù nghịch ấy. Kẻ đáng oán trách trước hết là ta. Chính bản thân ta. Hoặc yếu hèn hoặc ngu ngốc, hoặc cả hai. »
Lần này, ông không còn muốn tự bào chữa. Gã luật sư biện hộ cho ông chết rồi chăng ? Ý nghĩ đó lướt qua ông một cách ơ hờ trong khi ông đăm chiêu nhìn một đám mây rách nát đang kéo lê qua sân chùa mớ áo tả tơi của nó. Đột nhiên, hình ảnh ấy xui khiến ông thương cảm chính mình :
Đường đời ngoắt ngoéo quanh co, nào ai biết được nẻo nào mà dấn bước ? Ta đi tìm cho dân tộc ta một thành Paris, nhưng số phận lại dẫn ta đến Mạc-tư-khoa băng giá. Ta đi theo ngọn gió phương tây, nhưng định mệnh lại xua đuổi ta quay về bờ biển phương đông. Suốt đời ta, những ngẫu nhiên tác tạo và xô đẩy. Kiếp người phải chăng cũng chỉ là bèo dạt mây trôi ?...
Một nước Pháp của Đi-đơ-rô và Voltaire mở cánh cửa gọi ta bước vào. Một nước Pháp khác của các quan chức đội mũ cao ống, mặc áo nhấn hai hàng khuy vàng đóng sập cánh cửa đó trước mũi ta như gia nhân một lâu đài đóng sập cánh cửa trước tên hành khất. Những dân tộc nhược tiểu và nô lệ bị xua đuổi khắp các nẻo đường kiếm tìm hạnh phúc, và con dốc lát đá duy nhất mời đón những bước chân của họ lại chính là con dốc dẫn thẳng xuống địa ngục. Khi ta hiểu ra điều đó thì mọi sự đã muộn mằn.
Cái địa ngục đó giờ đây chẳng còn hồ nghi nữa. Nhưng không kẻ nào đủ lòng ăn năn và sự can đảm để mở mắt nhìn vào. Ông nhớ cảm giác choáng váng khi lần đầu thấy dân chúng xếp hàng lũ lượt như rồng rắn chờ mua thực phẩm. Xe ông gắn kính đen, không ai biết được sự hiện diện của ông. Xe lướt rất nhanh nhưng cũng đủ thời gian để ông nhìn rõ đám dân đen. Và cảnh tượng khổ não ấy đập vào cân não ông như nhát búa. Năm đó, con tim ông đang còn tưng bừng khúc hát « Tiến về thủ đô ». Hai năm chưa đủ làm phai nhạt những vàng son của vinh quang và chưa làm nguội những cơn sôi sục trong huyết mạch. Bận rộn, ông không có thời giờ vi hành. Quãng thời gian tằn tiện bòn mót được ông dành dụm cho nàng nhưng các cuộc gặp gỡ của họ bao giờ cũng vào lúc quá nửa đêm, thông thường sau mười hai rưỡi hoặc một giờ, khi xe ông lướt qua phố xá, mọi sinh hoạt của dân chúng dường như đã kết thúc. Sớm hôm đó, ông hẹn làm việc với một giáo sư lịch sử ngoại quốc. Vì đề tài liên quan đến viện bảo tàng quốc gia nên ông đề nghị điểm hẹn ở ngay nhà bảo tàng. Rồi ông yêu cầu lái xe chọn một lộ trình mới để ông có dịp nhìn phố xá. Đó chính là cơ hội đầu tiên kể từ ngày rời chiến khu về thành phố ông chứng kiến cảnh sinh hoạt của dân. Cảnh tượng không mỹ miều hay lạc quan như ông từng mường tượng. Đám đông hiện lên trước ông, bằng xương bằng thịt, chen chúc, bấn loạn, như đàn cừu trên lối dồn trở lại chuồng. Những gương mặt đập vào thị giác ông là những gương mặt võ vàng đói khát; những gương mặt lầm lụi tối tăm, những gương mặt u uất vì nhẫn nhịn, nhục nhã; những gương mặt kinh hoảng vì bị dồn ép dưới những cảm xúc của sợ hãi, chờ đợi, đau khổ, căm thù. Đấy chính là gương mặt của những kẻ đang đứng mấp mé trên ngưỡng cửa bước vào các bệnh viện thần kinh.
Cố gìm giữ cơn thảng thốt, ông lấy giọng thản nhiên hỏi lái xe :
- Gia đình chú có phải xếp hàng mua gạo như thế kia không ?
Anh ta trả lời tức thì, với nỗi hân hoan không che giấu :
- Thưa chủ tịch, rất may mắn là gia đình chúng con thuộc diện ưu tiên. Nhà nước đem gạo và thực phẩm tới tận cơ quan phục vụ.
- Những ai thuộc diện được ưu đãi như vậy ?
- Thưa chủ tịch, tất thảy những ai trực thuộc bộ máy văn phòng chính phủ hoặc ban quản trị trung ương đảng. Ngoài ra là các bộ phận đặc biệt thuộc các bộ đặc biệt như bộ nội vụ, bộ quốc phòng...và trước
hết là bộ thương mại và thực phẩm vì đó chính là đất sở tại của họ. Nhân viên thuộc các bộ ấy được coi như con vua cháu chúa thời xưa.
- Thế nào là con vua cháu chúa ?
- Thưa người, câu nói đó hàm ý là họ có quyền hưởng thụ ở mức cao nhất. Cùng một thứ sổ gạo nhưng họ được ăn gạo mùa mới, còn thơm phức mùi cám ; trong khi dân chúng phải ăn gạo mục vì nhà nước chỉ bán cho dân những thứ gạo đã qua năm sáu mùa lưu cữu trong kho. Cùng là thịt, nhưng những phần ngon họ lấy trước, còn thịt bụng, thịt mỡ, đầu lợn, họ đem bán cho dân. Nếu không thuộc diện ưu tiên có kiếm được miếng thịt cũng nhục nhã như tù khổ sai đi đập đá vậy. Anh cả của con làm việc trong thư viện quốc gia, cán bộ cấp lãnh đạo nên mỗi tháng được mua năm lạng thịt. Tháng một lần, vợ anh ấy phải dậy từ ba giờ sáng ra chợ Hôm xếp hàng mua. Nhưng lần nào cũng đến non trưa mới trở về nhà, mà lần nào cũng toàn xỏ lợn với thịt bụng vì đám mậu dich viên tuồn thịt bên trong quầy cho người nhà và các cơ quan có mặt hàng đổi chác, ví như các cửa hàng bán gạo, bán vải, đường sữa hoặc nhu yếu phẩm khác. Khi đã thoả mãn tất cả những cuộc trao đổi lợi quyền như vậy, họ mới nhìn ngó đến dân.
- Tại sao các cán bộ lãnh đạo nhà nước không hay biết chuyện này ?
- Dạ.
Người lái xe ấp úng. Anh ta đưa mắt liếc ông rất nhanh, vừa như thăm dò vừa như ngờ vực. Và ông biết rằng ông đã buông ra một câu hỏi vô cùng xuẩn ngốc.
- Có thể là các đồng chí ấy đã biết nhưng chưa đủ thời gian báo cáo lên trên.
Ông tự trả lời. Và anh chàng lái xe vội đáp theo :
- Thưa chủ tịch, đúng là như thế.
Đêm hôm đó, ông ngồi nhìn trăng. Nỗi phân vân khiến ông không ngủ được. Trước mắt ông là vành trăng lưỡi liềm điêu bạc như lá lúa. Dường như nó không toả ra một chút ánh sáng nào. Lũ đom đóm lập loè trên bãi cỏ còn rực rỡ muôn phần hơn nó. Ông nhìn vầng trăng ấy, liên tưởng đến sự suy tàn của mọi sự vật :
« Cuộc đời vốn là cuộc vận hành bất tận, từ nương dâu biến thành bãi biển, con người từ hư vô đến rồi lại quay về với hư vô. Nhưng cớ sao ta bỗng buồn thảm nhường này ? Phải chăng vành trăng chết lụi kia có liên quan ngầm ẩn nào đó với số phận của quốc gia ? Và nó chính là điềm báo triệu cho một sự sụp đổ không chóng thì chày, một kết thúc buộc phải đến ? »
Ý nghĩ đó như lưỡi dao bén của đao phủ gại trên cổ ông, kẻ sẽ bị hành quyết không chầy thì chóng. Ông bỗng thấy buốt lạnh sống lưng. Trước mắt ông lại hiện lên đám đông đói khát, nhục nhằn và bấn loạn chen chúc nhau trước quầy bán gạo. Ông nhìn thấy những cánh tay vươn lên, giằng giật huých đẩy nhau; những cặp mắt trợn ngược tròng, những cần cổ vươn dài về phía khuôn cửa chắn dóng sắt với tất thảy sự chú tâm điên cuồng của loài thú dữ lao về phía con mồi trong nỗi thúc bách của cơn đói. Chao ôi, đó là những đồng bào của ông, những công dân trong cái xã hội mà ông là người khai sinh, những con người mà vì họ ông đã nuôi giấc mộng giải phóng. Đó là ảo ảnh hay sự thật ? Phải chăng mọi cố gắng của ông chỉ là sự lầm tưởng và cái hiện thực này chính là bóng lâu đài soi trên mặt nước dòng sông ma ? Ông tự hỏi rồi không dám tự trả lời. Nỗi hãi hùng quây chụp trí não. Những gương mặt ông nhìn thấy buổi sáng chỉ còn là những tấm gương phản chiếu cuộc sống của một bầy súc vật bị ngược đãi hoặc trạng thái tinh thần của những kẻ nhiễu tâm. Nếu không là những con bệnh tâm thần ắt phải là đám cừu chen chúc bên máng cỏ. Con người bị đầy ải vì miếng ăn. Con người không còn cảm thấy nhục nhã nữa sẽ chỉ còn là con vật trong chuồng chờ đến giờ vục đầu xuống máng. Còn nếu con người biết phẫn nộ, hẳn họ sẽ nuôi lòng thù hận, chờ phút thuận tiện để cắt cổ những tên chúa ngục. Những kẻ giam cầm họ trong kiếp súc sinh.
Ôi, cái chế độ mà ông ra công gây dựng cuối cùng chỉ là một chuồng cừu vĩ đại hay sao ? Hay nó chính là một trại giam khổng lồ, nơi giam hãm con người trong những nhu cầu vật chất hạ cấp nhất, nơi thực thi một cuộc hành xác tập thể, nơi ngự trị một sự tự sỉ nhục có tính triệt để và đại chúng, nơi đào luyện ra nếu không phải những con bò cúi đầu trước bó cỏ thì sẽ là những tên trộm cướp, những kẻ bị rối loạn nhân cách hoặc nhiễu tâm ? Không có cách phân tích nào khác. Và nếu không có cách giải thích nào khác, cái xã hội hiện hành chính là sự thụt lùi bất khả hình dung so với cái xã hội đau khổ thời xưa.
Chao ơi, bao nhiêu con người đã hy sinh, bao nhiêu tài sản đã hao tán, thiêu huỷ, bao nhiêu nỗi gian truân dân tộc của ông đã phải trải nghiệm để sau cùng nó lãnh nhận một cuộc sống dã man như vậy hay sao ? Nếu vậy thì cuộc cách mạng này là cuộc phiêu lưu rủi ro nhất trong các cuộc phiêu lưu của kiếp người. Và nếu vậy, cuộc đời ông là một sự thảm bại không gì có thể so sánh.
Da ông nổi gai ốc. Những cơn buốt lạnh chạy dọc sống lưng khiến ông không kìm được tiếng kêu. Nhưng ngay lúc đó, cần vụ lẫn bác sĩ đã chạy vào. Ông buộc phải bịa ra một cơn đau thể chất để đánh lừa họ.
Vào cuộc họp của bộ chính trị ngay sau đó, ông yêu cầu lật lại chính sách kinh tế để tìm phương sách cứu vãn tình thế. Ông nhấn mạnh ý nghĩa của hai từ : Hạnh phúc. Mọi cuộc giải phóng không có ý nghĩa nếu nó không làm cho con người hạnh phúc hơn. Mọi cuộc cách mạng cũng chỉ là trò tiêu khiển rồ dại và tàn ác nếu nó không đem cho con người tự do và cuộc sống xứng đáng. Độc lập cũng thế thôi. Độc lập không có mảy may giá trị nếu những dân cư của một nước độc lập lại không thể độc lập với những nhu cầu thiết yếu nhất của sinh tồn, giống những con bò không thể độc lập với mớ cỏ.
Không ai phản đối ông.
Nhưng cũng không ai nghe ông nói cho dù họ vẫn ngồi quanh chiếc bàn đồ sộ, và với ông làm đủ con số mười ba. Ông hiểu điều đó khi nhìn những cặp mắt lơ đãng của họ, những ngón tay gẩy tàn thuốc không mệt mỏi hay xoay tròn chiếc bật lửa một cách nhẹ nhàng và kiên nhẫn. Hôm qua, họ còn là những chiến sĩ tranh đấu cho một lý tưởng. Giờ đây, họ đang ngồi tính những con tính khác. Cuộc chiến tranh hôm qua đã kết thúc. Hôm nay là lúc các tướng lãnh chia phần xôi thịt trong dinh. Hôm qua ở trên rừng tất cả đều nhận một xuất cơm và một góc suối, không có gì để so đo, chẳng có chi để tính toán. Hôm nay, sự vật xoay vần bởi nếu biệt thự của anh lớn hơn biệt thự của tôi cả ích lợi vật chất lẫn danh tiếng của tôi trước mắt tha nhân sẽ bị thuyên giảm. Ngôi thứ của mỗi kẻ ngồi đây sẽ kèm theo muôn vạn quyền lợi đo đếm được và không đo đếm được ảnh hưởng đến cả một tập đoàn những kẻ dưới trướng trong phủ và những người cùng huyết tộc. Họ không còn quan tâm đến những điều ông quan tâm vì lợi ích của cá nhân bao giờ cũng là thứ gần gũi nhất và là cám dỗ lớn nhất với con người. Những dằn vặt của ông giờ đây, với họ trở nên nhạt nhẽo hoặc bất khả tri. Cả một bộ máy phục vụ bản thân họ cũng như gia đình họ bất kể thời gian và vô giới hạn. Họ sống hoàn toàn theo nguyên tắc vàng của chủ nghĩa cộng sản. Nguyên tắc đó chỉ dành riêng cho một nhóm người và loại trừ cả một dân tộc, một dân tộc cừu bò đang chen chúc nhau chờ những bó cỏ ngoài kia.
Ông nhắc lại lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Không ai phản đối. Không ai đáp lời. Không ai có nhu cầu tranh luận. Rồi sau đó là giờ giải lao. Sau đó một vấn đề khác được đề cập tới, thiết thực hơn, cụ thể hơn nỗi nhục nhằn đau khổ của nhân dân. Nỗi đau khổ của kẻ khác bao giờ cũng mơ hồ và khó cảm nhận. Nỗi đau khổ của nhân dân lại càng mơ hồ và khó cảm nhận hơn. Bởi nhân dân là thứ vô hình vô dạng, không có chân để chạy, không có cánh để bay, không có mỏ để hót. Độc lập không còn là một khát vọng lớn lao của một dân tộc nô lệ và đau khổ mà chỉ còn là một chiến lợi phẩm cụ thể, giống như một con lợn rừng bị hạ dưới ngọn lao của thợ săn. Chừng ấy thịt da chỉ đủ chia cho những kẻ biết cầm lao, cầm mác còn đám đông đứng ngoài hội phường săn là đám chúng sinh ăn chực chầu rìa. Ông hiểu rằng khi cần thiết, con người trở nên câm và điếc một cách dễ dàng. Cũng dễ dàng trở nên tàn nhẫn. Họ, những kẻ quây quần quanh ông, chia chác phần thịt của con lợn rừng vừa bị hạ...Họ trở thành xa lạ với ông. Ông trở thành khó hiểu với họ. Lục địa đã nứt đôi, họ đứng một bờ còn ông bờ khác. Đó là lần đầu tiên ông hiểu sự rạn vỡ của những mối quan hệ thường gọi là đồng chí hay huynh đệ. Những sợi dây gắn bó có thể dệt hàng chục năm hay lâu hơn nữa. Sự phân ly xảy ra chỉ trong khoảnh khắc, khi nhát kiếm hạ xuống. Nhát kiếm của quyền lực. Trước nó, mọi sợi dây tương thân tương ái chỉ là mớ tơ nhện mong manh.
― Lẽ ra, ta phải hiểu sự tình từ ngày ấy. Phải xoay nước cờ từ ngày ấy. Nhưng ta là kẻ chậm chân nên bị dòng lũ cuốn đi.
― Ồ, nhưng bọn họ quá đông còn ta đơn chiếc. Và thảm hại thay ta phải thuận tình theo họ bởi tin rằng sự thoả hiệp đó cứu vãn được đại sự . Rằng nếu ta vì họ mà hy sinh thì chắc chắn họ phải vì đại nghĩa mà quên đi những tham vọng riêng tư. Sự ngu xuẩn là ở đó. Nước cờ vào thế bí. Họ lợi dụng sự thoả hiệp này để nhấn ta vào hậu cung.
« Nhưng gốc rễ sự thất bại này nằm ở nơi đâu ? Sự ngu xuẩn của chính ta hay con đường ngoắt ngoéo của định mệnh ? Ta đi cùng họ trên một con tàu để rồi khi đến bờ bên kia đại dương thì một mình ta ở lại trên cô đảo ? Hoặc bản chất ta là con sói lẻ bầy nên bất cứ cuộc tụ hợp nào cũng chẳng bền lâu ?»
Phải chăng và phải chăng ....
Những câu hỏi không ngừng quần đảo ông.
Con tim già mệt mỏi của ông thổn thức.
Mây trắng vẫn trôi không ngừng trên đỉnh Lan Vu. Trôi không ngừng mùa tuyết Paris và những hồi quang của một tuổi xuân xa ngái. Óc não ông khoan xoáy bởi những nghi vấn. Rồi lát sau, con tim buồn nhớ của ông chợt quay về thành phố phương tây, nơi vĩnh định một liên kết thầm kín, nơi ghi khắc mãi mãi những khát vọng yêu đương và những cuộc tình chết yểu. Nơi tâm hồn ông ở lại như ngôi nhà côi cút trên bãi biển hoang sau những ngày hè náo nhiệt khách vãng lai. Paris ! thật lạ lùng là khi rời xa nó, ông đã ngoái nhìn lại như nhìn một quán trọ ; vậy mà giờ đây thành phố ấy hiển hiện lên trong trái tim ông như hải cảng cuối cùng mời mọc kẻ lữ hành. Ông nhớ những giảng đường, nơi ông thường đi qua với một nỗi ước ao tuyệt vọng. Ông nhớ những con chim câu dạo quanh căn gác xép nơi ông trú ngụ và tiếng gù của chúng vào lúc xuân sang. Ông nhớ một đứa con thiếu vắng bởi sau khi ông rời xa căn ngõ hẻm sát phố Saint John sáu tháng, một đứa bé đã ra đời. Một đứa con gái, được đặt một cái tên vô cùng thông dụng trên đất Pháp, Louise. Ông không ngờ rằng những đêm chăn gối với cô thợ mũ đã để lại trái cấm. Một sự sao nhãng ngu xuẩn. Phải chờ bẩy năm sau, nhờ một cuộc gặp ngẫu nhiên trên đường ông mới biết được sự thật. Ông hiểu rằng đó chỉ là trái cây không chờ đợi của những cơn điên cuồng thân xác. Nhưng dẫu sao, đứa bé ấy vẫn mang dòng máu của ông, của chính ông. Ông dùng dắng nhiều lần, định quay lại nơi ngõ cũ, tìm gặp cô thợ mũ và Louise. Nhưng trong túi ông không đủ tiền để mua cho con gái một món quà xứng đáng. Và rồi, cơn lốc phiêu dạt của cách mạng cuốn ông đi. Sau rốt, ông chưa từng mua cho con ông một chiếc váy, một đôi giầy. Ông chưa từng bồng con bé lên tay và nhìn vào đôi mắt nó.
« Giờ này nó đã trở thành một người đàn bà, chắc chắn. Hẳn nó đã có chồng con. Có bao giờ nó lục tìm hình ảnh một người cha vắng bóng? Có bao giờ nó nuôi ý định tìm về Việt nam, miền nhiệt đới xa xôi, để nhìn ngó một thứ người xa lạ nhưng ràng buộc với nó bởi sợi dây huyết mạch? Hoặc nó đã quên ta hoàn toàn trước khi biết ta, một sự quên lãng cố tình?
Ý nghĩ đó khiến ông tê tái. Ông rờ ấm trà, muốn uống một ngụm nhưng nước đã nguội. Gương mặt ông hiện lên trên mặt bàn gỗ bóng láng như gương. Ông cúi nhìn cái bóng của mình. Nhìn lặng lẽ. Một tiếng nói thầm thì cất lên trong tâm tư :
"Gã đàn ông này là kẻ làm cha tồi bại nhất trên trái đất. Rồi mai đây, ngươi sẽ phải đối mặt với những người ruột thịt trước pháp đình tối cao của con tim. Cuộc cách mạng mùa thu rồi sẽ chìm mất tăm trong dòng chảy triền miên của lịch sử như tất thảy những cuộc cách mạng khác. Giống như những trận động đất, những cơn sóng thần và những trận lôi đình khạc lửa của các hoả diệm sơn. Thời gian sẽ xoá đi mọi dấu vết. Mọi vương miện đều sẽ rách nát cùng với tháng năm. Mọi ảo tưởng về vinh quang rồi sẽ tan vỡ như vầng trăng trên dòng sông u tịch của các nhà thơ thời trung cổ. Nhưng pháp đình của con tim sẽ mãi mãi dựng lên trên cõi đất của cuộc đời thế tục và pháp đình ấy cũng sẽ mãi mãi dựng lên bên kia bờ con sông Mê, nơi linh hồn những kẻ ra đi chen chúc trên những con thuyền kết bằng tro bụi, với cặp mắt rỗng và ba đồng xu đặt trên chiếc lưỡi lặng câm."
Một tấm lưới vô hình thít chặt lấy chủ tịch khiến ông như ngạt thở.
Đầu ông buốt lạnh trong khi gan ruột bỏng rát như bị lửa rang. Ông nghĩ rằng đây là cơn đau đớn của riêng ông, một mình ông. Bởi là người duy vật, ông không tin vào chuyện thần giao cách cảm. Từ trước tới nay, ông chỉ biết một thế giới hữu hình, chỉ coi là sự thực những gì tác động vào các giác quan, cũng như số đông người.
Tuy nhiên, cơn đau đớn của chủ tịch lại chính là kết quả của sự cộng hưởng với một nỗi đau đớn khác. Bởi trên mảnh đất này còn có một kiếp đoạ đầy khác. Một kẻ vô danh. Một người mà ông không còn nhớ tên và cũng chưa bao giờ biết mặt. Một cái bóng của hư vô. Nhưng cái bóng đó vẫn luôn luôn là một sinh thể bằng xương bằng thịt. Sinh thể ấy không ngừng nghĩ về ông. Kẻ bất hạnh ấy liên kết với ông bởi một số phận oái oăm, một nỗi đau khổ trường kỳ và một cuộc săn đuổi tàn khốc. Nhưng sự đỏng đảnh của số phận lại muốn rằng tất thảy những gì xảy ra với anh ta phải nằm trong bóng tối, bên ngoài vùng hiểu biết cũng như trí tưởng tượng của ông.

(còn tiếp)





No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...