Trần Quốc Việt dịch
Vào ngày 8 tháng Mười năm 2009, một phụ nữ người Hà Nội tên Trần Khải Thanh Thuỷ đi xuống Hải Phòng, thành phố biển ở Việt Nam, để dự phiên toà xử sáu nhà hoạt động đấu tranh dân chủ. Nhưng chị không đến được toà án. Ngược lại, chị bị công an chặn đường bắt phải quay về nhà chờ có thông báo mới. Tối hôm ấy, hai người đột nhập vào nhà dùng gạch đánh chị trước mặt chồng và con gái, trong khi đó các công an bên ngoài thản nhiên đứng nhìn. Rồi công an bắt chị và cáo buộc chị tội hành hung.
Phiên toà xử Trần Khải Thanh Thuỷ diễn ra vào tháng Hai năm nay và kéo dài một ngày. Chứng cớ buộc tội chính là tấm ảnh được xem là của nạn nhân, người bị băng bó ở đầu, về sau những người viết blog Việt Nam chứng minh rằng ảnh đó đã bị nguỵ tạo thô thiển. “Đây là sự thêu dệt và hoàn toàn vu cáo,” Trần Khải Thanh Thuỷ nói về những về những cáo trạng. “Tôi phản đối phiên toà này, và tôi không đến đây để chấp nhận điều này.” Toà án kết tội chị ba năm rưỡi tù, nhưng chị đã không nghe được bản án vì chánh án đã đuổi chị ra khỏi toà do tội tự tiện nói trước toà. Thông cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) tuyên bố là vụ xử “cố tình bóp méo sự thật.”
Đây không phải là sự bất đồng đầu tiên giữa Trần Khải Thanh Thuỷ với nhà cầm quyền. Chị đã bị ở tù vào năm 2007 vì viết những bài báo chỉ trích chính quyền và kêu gọi dân chủ đa đảng. Các tổ chức nhân quyền và chính phủ nước ngoài xem chị là tù nhân lương tâm và đang kêu gọi trả tự do cho chị. Chị ít nhất là nhà hoạt động đấu tranh dân chủ thứ mười sáu bị cầm tù ở Việt Nam kể từ tháng Mười năm 2009, nằm trong điều mà đại sứ Mỹ tại Việt Nam mô tả là sự “tăng vọt” các vi phạm nhân quyền.
Quả thực đã có sự tăng vọt, nhưng đấy chỉ là phần nào của câu chuyện lớn hơn rất nhiều, và có tính lịch sử hơn. Lần đầu tiên kể từ khi thống nhất vào năm 1975, Đảng Cộng sản cầm quyền đang đối mặt với sự thách thức bền bỉ hơn và có tổ chức hơn về tính chính danh của Đảng. Những người bất đồng chính kiến thuộc đủ mọi tầng lớp trong xã hội đã cùng nhau kêu gọi tổ chức các cuộc bầu cử và đa nguyên chính trị. Phong trào này tuy nhỏ, nhưng đang lớn dần, và, xét theo mức độ trấn áp khốc liệt, nhà cầm quyền xem đây là vấn đề nghiêm trọng.
Song thế giới bên ngoài hầu như chẳng lưu ý đến. Là nhà báo đã từng làm việc ở Đông Nam Á trong năm năm vừa qua và hay tiếp xúc với các nhà hoạt động đấu tranh dân chủ ở Việt Nam, tôi thường tự hỏi tại sao phong trào đã không thu hút đuợc sự quan tâm sâu rộng của thế giới như những phong trào tương tự ở Trung Quốc, Miến Điện, và Zimbabwe. Cho dù lý do thế nào chăng nữa, bạn có lẽ đang đọc ở đây lần đầu tiên một bài viết về phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt Nam.
Câu chuyện ấy mở đầu vào ngày 8 tháng Tư năm 2006, khi một nhóm các nhà hoạt động dân chủ công bố trên mạng bản tuyên bố tên “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ Năm 2006″. Hơn hai ngàn người bao gồm các luật sư, cựu đảng viên Đảng Cộng sản, nhà sư Phật giáo, linh mục Công giáo, nhà văn, trí thức từ mọi miền đất nước, liều bị bắt để ký tên vào văn kiện này. Họ được biết đến qua tên Khối 8406, được đặt tên theo ngày công bố bản tuyên ngôn. Tuyên ngôn kêu gọi tổ chức các cuộc bầu cử và kêu gọi xác lập một thể chế chính trị tôn trọng các quyền cơ bản, lời lẽ trong bản tuyên ngôn đánh thẳng vào phần cốt lõi nhất trong tính chính danh của Đảng. Các cuộc chiến tranh giành độc lập chống người Pháp và người Mỹ của Việt Nam, theo lời các tác giả của bản tuyên ngôn, về cơ bản thực chất là mang tính dân tộc. Song qua bạo lực và khủng bố trấn áp, những người theo đuổi ý thức hệ cộng sản đã cướp và tiếm đoạt công lao đấu tranh ấy để phục vụ cho các mục đích riêng của mình. Điều này đúng hay sai nói chung không quan trọng. Điều quan trọng là qua việc truy đuổi chính quyền ngay chính trên lãnh địa mà chính quyền xem là thiêng liêng, tức vai trò lãnh đạo của Đảng trong các cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất của Việt Nam, các nhà bất đồng chính kiến đang phát đi một thông điệp rằng họ không nói suông.
Nhà cầm quyền trả đũa bằng nhiều vụ bắt giam. Những ai thoát khỏi cảnh tù tội thì đối mặt với cảnh bị đánh đập, sách nhiễu, và hăm dọa. Báo chí nhà nước đăng những bài báo lên án những thành viên Khối 8406 là “lạm dụng tự do dân chủ” và mưu toan lật đổ chính quyền. Cuộc trấn áp này đã gây ra hậu quả đáng sợ. Đa số các nhà bất đồng chính kiến ngừng phát biểu công khai, nhưng một thiểu số rút lui vào hoạt động bí mật, họ vẫn âm thầm tiếp tục tổ chức và cho ra những nội san và tuyên bố.
Tôi có dịp thăm vài thành viên Khối 8406 ở Việt Nam vào mùa đông năm 2007, và tâm trạng của họ là bi quan. Mặc dù họ tin là, theo thời gian cùng với lòng kiên nhẫn, toàn thể nhân dân sẽ tìm thấy đủ can đảm để chung sức với họ, nhưng phong trào luôn luôn bị trấn áp và các thành viên đang bị mất hút dần vào chốn lao tù. Các nhà bất đồng chính kiến bị cô lập nên cần một vấn đề để kích hoạt sự ủng hộ. Người thì hy vọng các quyền lao động sẽ là câu trả lời – các cuộc đình công là hiện tượng ngày càng gia tăng tại các xí nghiềp trong nước – ngược lại kẻ thì hy vọng các quyền về đất đai và tự do tôn giáo sẽ tạo ra sự ủng hộ hợp lòng dân. Các nhà bất đồng chính kiến cũng hy vọng các nhà báo sẽ bắt đầu đổ xô vào trong nước để tường thuật câu chuyện của họ, và các nhà hoạt động dân chủ người nước ngoài sẽ quan tâm đến phong trào của họ. Trừ một vài ngoại lệ, bao niềm hy vọng này đã không thành. Tại sao?
Phải chăng Việt Nam thiếu một nhà lãnh đạo có tầm thu hút lớn để lay động luơng tâm thế giới, như Aung San Suu Kyi của Miến Điện hay Morgan Tsvangirai của Zimbabwe? Các nhà lãnh đạo phong trào Việt Nam không có nhân vật nổi tiếng tương tự, nhưng họ cũng đã chứng tỏ rất can đảm và từng trải qua nhiều gian khổ không kém. Chẳng hạn, bác sĩ Nguyễn Đan Quế ở thành phố Hồ Chí Minh, trong ba mươi năm vừa qua đã ở tù đến hai mươi năm, tuy nhiên không ai biết đến ông ngoại trừ các độc giả chăm chỉ nhất của trang mạng của tổ chức Human Rights Watch. Ông tranh đấu không ngừng nghỉ với tư cách tác giả, nhà tư tưởng, và nhà chiến lược của phong trào. Ông hiện thực sự sống trong cảnh bị quản chế tại gia, nơi ông bị công an theo dõi và sách nhiễu thường xuyên. Dù bản thân và gia đình đã phải trả một giá quá lớn, ông vẫn từ chối những lời mời sang sống lưu vong ở Hoa Kỳ. Không có tiếng nói nào tốt hơn cho phong trào bất đồng chính kiến Việt Nam bằng tiếng nói của Nguyễn Đan Quế. Nhưng thế giới chẳng đáp lại lời họ.
Phải chăng phong trào không có đủ sự ủng hộ ngay trong nước để được xem là một hiện tượng quần chúng thực sự? Mặc dù chính các nhà bất đồng chính kiến thừa nhận rằng phong trào còn nhỏ, có lẽ với chỉ độ vài ngàn thành viên tích cực, nhưng họ tuyên bố có nhiều người Việt Nam ủng hộ họ nhưng không thể bộc lộ do sợ nhà cầm quyền. Ta không có cách thật sự nào để kiểm chứng lời tuyên bố này, nhưng phong trào tranh đấu dân chủ tại Trung Quốc, vẫn số lượng nhỏ như vậy và vẫn sự ủng hộ không thể xác định được trong quần chúng như vậy, đã được truyền thông quốc tế bênh vực ủng hộ. Các nhà báo như Howard French trong suốt nhiều năm đã tích cực đưa những nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc lên trang nhất tờ New York Times, ngược lại tờ báo ấy quyết định nhắc đến các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam chỉ một vài lần. Còn các tờ báo khác hầu như hành xử cũng chẳng gì tốt hơn.
Phải chăng chính quyền Việt Nam thật ra chẳng tồi tệ đến như thế? Theo các tổ chức như Human Rights Watch, Freedom House, Phóng Viên Không Biên Giới, và nhiều tổ chức khác, Việt Nam là một trong những nước hà khắc nhất thế giới. Chính quyền Việt Nam không cho phép đối lập chính trị; chính quyền kiểm soát toàn bộ truyền thông trong nước; chính quyền không cho phép công nhân tập hợp tổ chức; chính quyền thường xuyên tịch thu đất đai của nông dân để làm giàu cho nhà cầm quyền và cho những kẻ có những mối quen biết về chính trị. Tuy nhiên không hiểu sao chính quyền đã tìm được cách giới hạn các cuộc thảo luận quốc tế về Việt Nam chỉ riêng vào lĩnh vực du lịch và kinh tế đang bùng nổ ở trong nước. Những người Phương Tây tái khám phá đất nước này sau nhiều năm cô lập đã kinh ngạc khi thấy Việt Nam không còn giống như vùng chiến sự ngày xưa và khi thấy Việt Nam mời gọi đầu tư nước ngoài. Các cuộc thảo luận hay trò chuyện đều không đi xa quá điều ấy.
Phải chăng thế giới đối xử Việt Nam khác vì Việt Nam chiếm một vị trí độc đáo trong tâm tưởng Tây Phương? Trước tiên, dĩ nhiên, “Việt Nam” gợi tưởng đến chiến tranh. Trong tâm tưởng Tây Phương, tất cả những ý nghĩa khác của từ này đều bắt nguồn từ sự gợi tưởng ấy. “Việt Nam” là ẩn dụ đầy bất trắc của niềm tự tin thái quá Tây Phương và, ngược lại, là sự cao quý của các phong trào cách mạng thế giới thứ ba. “Việt Nam” gắn liền với thập niên sáu mươi và với sự thay đổi căn bản trong các giá trị Mỹ cùng sự xuất hiện nền văn hoá đại chúng mới. Trong những năm gần đây, “Việt Nam” đã bắt đầu được dùng đến để biện minh cho nhiều lập trường trái ngược nhau về các cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq. Nếu ta ủng hộ sự tham chiến tiếp tục của Mỹ trong các cuộc chiến này, “Việt Nam” là câu chuyện cảnh báo về cái giá bỏ rơi đồng minh, là chuyện kể về các trại cải tạo và thuyền nhân. Còn nếu ta phản đối các cuộc chiến này, “Việt Nam” là câu chuyện cảnh báo không kém về những làng mạc bị ném bom tan tành và những người lãnh đạo không trung thực. Cho nên, ta không lấy làm ngạc nhiên rằng trong tâm tưởng Tây Phương, “Việt Nam” không còn giống nhiều Việt Nam ngày nay, một nước của tám mươi lăm triệu người dưới ách cai trị của một trong những chế độ độc tài cộng sản cuối cùng trên trái đất.
Dù vậy, có lẽ “Việt Nam” khắc sâu trong lòng nhất là Việt Nam của mặc cảm có tội. Chuyện Hoa Kỳ đã làm những điều kinh hoàng – từ chất độc da cam, ném bom rải thảm, đến những vùng oanh kích tự do – là hiển nhiên, và nhiều hậu quả từ những hành động này ngày nay ta vẫn còn nhìn thấy ở cảnh và người ở đấy.
Tôi sống ở Phnom Penh, Cambodia, một đất nước chỉ mới vừa đây thoát ra được cơn chấn thương từ cuộc chiến tranh Việt Nam mà họ đã bị lôi kéo vào. Trong những di sản thấy rõ nhất của thời chiến này là hình ảnh vô số người tàn phế ở trong nước, nhiều người trong số họ bị mất tay chân do hàng ngàn quả bom chưa nổ do máy bay Mỹ thả xuống trong những phi vụ bí mật ở miền đông Cambodia đã san bằng toàn bộ những ngôi làng và sát hại hàng chục ngàn người. Những vùng rộng lớn ở miền đông Cambodia hiện vẫn còn đầy rẫy những quả bom còn sót lại chưa nổ này, để rồi từ đấy tiếp tục giết và gây tàn phế cho nhiều người Cambodia nghèo ở nông thôn. Việt Nam cũng có những tàn tích riêng của cuộc chiến, trong đó có đạn pháo chưa nổ còn sót lại và những trẻ em bị khuyết tật bẩm sinh do chất độc da cam gây ra. Tôi sống và làm việc ở Việt Nam từ năm 2004 đến 2005, và bản thân thường cảm thấy it nhiều ray rứt hay xấu hổ. Nhưng tôi ngạc nhiên rằng tôi không bao giờ gặp phải sự thù hận từ phía những người Việt Nam. Thay vào đấy, tôi chủ yếu cảm nhận sự cởi mở và quan tâm. Có nhiều dịp khi chủ đề chiến tranh được nhắc đến, phản ứng thường phụ thuộc tuổi tác người đối diện. Người trẻ nói chung thờ ơ về cuộc xung đột đã diễn ra trước khi họ chào đời và chẳng ảnh hưởng gì mấy đến cuộc đời họ. Còn những người Việt Nam đủ lớn tuổi để trải qua chiến tranh nói chung là rất lịch sự, tôi nghĩ điều này có lẽ do người Việt Nam phân biệt rạch ròi giữa nhân dân Mỹ và các hành động của chính quyền Hoa Kỳ. Tôi thậm chí thỉnh thoảng đã gặp phải điều mà tôi hiểu là sự thương hại, mà tôi tin là có liên quan đến kết quả của cuộc chiến: họ thắng ta thua. Tuy thế tôi vẫn không bao giờ cảm thấy vơi hết sự ray rứt và xấu hổ trong lòng.
Khi ở Việt Nam phần lớn thời gian tôi làm việc cho các báo nhà nước ở Hà Nội. Vào đầu đợt làm việc ở một trong những tờ báo này, tôi có lần biên tập một bài báo về các phi công Mỹ trong thời gian chiến tranh bị giam tại “Khách sạn Hilton”, một nhà tù miền Bắc khét tiếng về việc đối xử tàn tệ và tra tấn các người tù. Bài báo khẳng định rằng miền Bắc Việt Nam đã đối xử tốt với các người tù. Để chứng minh điều ấy, báo đưa ra một loạt các tấm hình trắng đen đã bị nổi hột chụp cảnh người Mỹ đang chơi bóng chuyền và đánh cờ và ngồi thành vòng tròn trò chuyện với nhau ở trong sân nhà tù. Qua các dáng bộ cứng ngắc và những nụ cười gượng gạo, những tấm hình này rõ ràng đã được dàn dựng trước. Tôi nghĩ đến chuyện nên than phiền với người biên tập về điều này. Không phải vì lời góp ý sẽ thay đổi số báo ra ngày hôm sau – những người phụ trách kiểm duyệt của báo đều có quyết định cuối cùng về tất cả nội dung của báo sẽ được in ra – mà vì, ít ra, cũng phải có người lên tiếng phản đối. Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ lại, tôi đã từ bỏ ý định ấy. Là người Mỹ, tôi lập luận, tôi không có quyền phàn nàn, khi xét đến tất cả những chuyện ghê sợ mà nước tôi đã gây ra ở Việt Nam trong thời chiến tranh. Chẳng quan trọng là những chuyện này xảy ra trước khi tôi sinh ra, và tôi sẽ lên án những chuyện này ngay nếu có bất kỳ ai hỏi đến. Tôi sẵn sàng chấp nhận phiên bản lịch sử mà tôi biết là giả dối để tránh đối diện với cảm giác xấu hổ mà tôi đã không tìm được những lời giải hợp lý.
Từ nơi ấy tôi nhảy ngay qua nơi khác với những công việc mới còn đáng lo hơn nhiều. Những tù binh cuối cùng đã trở về Hoa Kỳ cách đây hơn ba mươi năm; thế còn ở đây ngay bây giờ thì sao? Ngoài các nhà bất đồng chính kiến, trong dân chúng nói chung ở Việt Nam có sự bất mãn thật sự về chế độ chính trị hiện nay. Sau nhiều tháng gầy dựng lòng tin, một số người Việt Nam tôi quen biết đã thổ lộ tâm tư của mình. Một người bạn làm báo đã chợt vỡ lẽ ra khi đọc cuốn Mộ Lenin của tác giả David Remnick tại một đại học ở nước ngoài. “Cũng giống như ở đây thôi,” chị thì thầm với tôi vào một buổi tối khá khuya ở một nhà hàng, “Tôi chẳng biết làm gì về hơn về chuyện này. Tôi còn phải lo cho gia đình.” Một tay ghi-ta chơi cho một trong vài ban nhạc rock trong nước phàn nàn rằng các nghệ sĩ trình diễn phải cẩn thận những gì họ nói trên sân khấu vì sợ rắc rối với công an. Một nha sĩ thất nghiệp cho biết ông không mở phòng mạch được vì thiếu tiền lo lót.
Là ngoại kiều, tôi sống thoải mái và chẳng phải lo sợ gì nhà cầm quyền. Nhưng hễ lúc nào tôi bắt đầu quên đi hiện thực trước mặt, thì một sự việc đã xảy ra thoáng qua trên đường phố lại hiện về nhắc nhở tôi đến thực tại thực sự như thế nào. Tôi sẽ không bao giờ quên cái cảnh tượng một người phụ nữ bán trứng rong bị một tốp công an đánh đập vào một buổi sáng trên đường tôi lái xe đi làm. Chị là phụ nữ nghèo ở nông thôn dạt lên thành phố kiếm sống, và tôi chẳng biết chị bị tội gì, hay có lẽ tội vặt vãnh không đáng. Khi lòng đỏ trứng ứa ra từ những vỏ trứng bị bể chảy xuống lòng đường, những người đang trên đường đi làm thấy vậy khiếp sợ giả vờ không chú ý đến, còn người phụ nữ bán hàng rong ấy nhẫn nhục chịu đòn mà không một lời cầu cứu. Tôi cố gắng không chú ý đến cảnh tượng đau lòng đang xảy ra ấy, nhưng khác với những người đi đường khác, tôi không sợ công an. Các lý do của tôi thì khác, và đến thời điểm ấy đã trở thành một phản xạ: tôi lấy quyền gì mà lên án vụ đánh người ấy, xét đến những gì nước của tôi đã gây ra tại Việt Nam trong thời chiến?
Niềm ray rứt và nỗi xấu hổ đằng sau quyết định của tôi đã không phản đối vụ đánh đập chị bán trứng rong ấy, tôi tin, cũng chính là các thôi thúc giải thích quyết định của cộng đồng quốc tế làm ngơ trước phong trào đấu tranh dân chủ tại Việt Nam. Một người Tây Phương ủng hộ dân chủ ở Việt Nam đương thời có thể gượng gạo nêu ra nhiều lý lẽ tương tự như những lý lẽ biện minh cho chiến tranh của người Mỹ – phải chăng chúng ta đã không rút ra được bài học gì? Hãy quên đi rằng đưa ra sự ủng hộ công khai, và, nếu cần thiết, cả về vật chất cho phong trào bất đồng chính kiến sở tại là tuyệt đối khác hẳn với sự ủng hộ can thiệp bằng quân sự. Theo nếp nghĩ này, những người Tây Phương đã từ lâu mất đi “thẩm quyền đạo đức” của mình để can dự vào Việt Nam đương thời ngoại trừ với tư cách du khách hay nhà đầu tư.
Một vấn đề gắn liền với sự giả định này là thực ra nó chỉ là sự ích kỷ vì nó cho phép những người Tây Phương tránh đưọc những cảm xúc phức tạp và khó chịu. Vấn đề khác là chẳng ai bận tâm nói chuyện với những người Việt ấy. Ta có thể hỏi những nhà bất đồng chính kiến ấy sự ủng hộ nào họ muốn, dù rằng các câu trả lời của họ cho câu hỏi này sẽ gây ra những nguy hiểm rất lớn cho bản thân họ.
Các nhà bất đồng chính kiến mà tôi biết hy vọng sự tham gia nước ngoài vào sự nghiệp đấu tranh của họ. Họ cần đến sự ủng hộ của các nhà báo và các nhà hoạt động dân chủ để thuật lại câu chuyện của họ và qua đó áp lực Đảng Cộng sản phải thay đổi. Thêm vào đấy, họ nói, cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ buộc Việt Nam phải tôn trọng những tiêu chuẩn nhân quyền thông qua những tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập hay hy vọng gia nhập. Cuối cùng nhiều người chọn ra Hoa Kỳ: người Mỹ phải tác động hơn nữa, vừa với tư cách cá nhân và vừa thông qua chính phủ, để đòi hỏi có sự thay đổi ở Việt Nam.
Điểm cuối cùng này dễ dẫn đến tranh cãi, nhưng nó không dựa vào niềm tin hơi ngây thơ về các ý định của Mỹ; mà đấy là sự thừa nhận hiện thực có tính địa-chính trị. Hoa Kỳ là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam; Hoa Kỳ cũng là nơi có cộng đồng người Việt lưu vong đông nhất thế giới; người Mỹ là một trong những nhóm khách du lịch lớn nhất đến Việt Nam hàng năm; và, tuy Trung Quốc mới trỗi lên gần đây, nhưng Hoa Kỳ vẫn là người dự phần có ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á. Những hoang tưởng do tội lỗi gây ra về những người Mỹ đang sám hối tội lỗi của họ trong quá khứ bằng cách đứng bên lề vẫn chỉ đơn thuần là những hoang tưởng. Chúng không giải thích sự ảnh hưởng ngày càng tăng của Mỹ ở tại nước này. Khi mối ảnh hưởng này còn duy trì, thì người Mỹ phải bảo đảm rằng nó có yếu tố nhân quyền mà không nhất thiết phải hợp với quyền lợi Mỹ về thương mại hay về chiến lược.
Trong các nhà bất đồng chính kiến tôi có dịp nói chuyện, Nguyễn Thanh Giang, nhà địa vật lý bảy mươi bốn tuổi ở miền Bắc, có những quan điểm khá tiêu biểu về những chủ đề này. Tuy ông chưa bao giờ là đảng viên Đảng Cộng sản, nhưng ông vẫn được giữ chức vụ lãnh đạo ở Cục Địa chất Hà Nội trong một thời gian dài. Chính quyền cho phép ông sang Hoa Kỳ để dự một số hội nghị vào những năm tám mươi và chín mươi – ông là một trong những nhà khoa học đầu tiên được phép đến Mỹ – nhờ vậy ông đã mở mắt thấy được những vấn đề ở Việt Nam. Từ đấy ông bắt đầu viết những bài góp ý và thư ngỏ gởi tới Đảng nhằm kêu gọi cải cách. Năm 1999 ông bị bắt giam về tội bất đồng chính kiến và bị biệt giam hơn một tháng, nhưng ông được thả ra do áp lực từ chính phủ Hoa Kỳ và từ các tổ chức nhân quyền và khoa học. Hiện giờ ông về hưu và sống trong cảnh bị quản chế tại gia ở Hà Nội.
Tuy Nguyễn Thanh Giang kêu gọi Mỹ ủng hộ sự nghiệp đấu tranh dân chủ, nhưng ông không phải là kẻ biện minh cho những hành vi của Mỹ trong thời chiến. Người Mỹ đúng khi cảm thấy đau buồn và xấu hổ, ông viết trong một điện thư gởi cho tôi. “Nhưng nhà cầm quyền Việt Nam cũng phải nên bày tỏ sự đau buồn và xấu hổ tương tự,” ông viết. Chế độ ở Việt Nam đã làm những chuyện “trái với đạo lý và xuẩn ngốc không kém” trong và sau chiến tranh, bao gồm chiến dịch Cải cách Ruộng đất giữa thập niên 1950 đã khiến hàng trăm ngàn người chết, và vụ trấn áp tàn bạo phong trào Nhân Văn, một nhóm cải cách của Đảng Cộng sản. Ông nêu những chuyện này ra không phải để xí xoá cho hành vi của Mỹ, mà để chứng minh điều ông tin là bản chất thật sự của chiến tranh, tức một “trò chơi bẩn thỉu” mà khi tàn cuộc không ai lại không vấy bùn. Nhưng tội lỗi không có nghĩa là sự ân hận nên khiến cho người Mỹ bị tê liệt; trái lại, họ nên coi đó là một trách nhiệm đặc biệt để “đền bù sự tàn phá do bom Mỹ gây ra ở Việt Nam ” bằng cách ủng hộ phong trào đấu tranh dân chủ.
Một số người Mỹ đã lên án tình cảnh tại Việt Nam. Song rất ít người trong số họ thuộc về cánh Tả. Một số nhỏ các tờ báo Mỹ đăng những bài ủng hộ phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam thường có khuynh hướng bảo thủ: các tờ Wall Street Journal, New York Post, New York Sun. George W. Bush đã mời bốn nhà hoạt động dân chủ người Mỹ gốc Việt, trong đó có một người từng bị ở tù, đến toà Bạch Ốc vào năm 2007 và giúp đạt được sự phóng thích cho nhà bất đồng chính kiến trên mạng Nguyễn Vũ Bình trước khi Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết thăm toà Bạch Ốc trong cùng năm. Barack Obama, ngược lại, đã không biểu lộ sự quan tâm như thế về chủ đề này, mà ta có lẽ chẳng lấy làm ngạc nhiên vì ông cũng chẳng mở miệng nói gì về nhân quyền ở Châu Á. Như vậy chỉ còn lại hai nhóm cử tri chính người Mỹ hoạt động tại Việt Nam, và cả hai đều bảo thủ: mạng lưới những người quan tâm đến tự do tôn giáo và các nhà đầu tư quan tâm đến tự do kinh tế.
Tự do tôn giáo và tự do kinh tế thật sự là những vấn đề quan trọng đối với phong trào đấu tranh dân chủ, nhưng chương trình hành động của phong trào bao quát hơn nhiều và bao gồm những vấn đề tha thiết đối với những ai cấp tiến, chẳng hạn các vấn đề người thiểu số và các quyền lao động. Những nhà bất đồng chính kiến xem mình là đồng minh tự nhiên của hàng triệu công nhân Việt Nam đang làm việc tại các nhà máy sản xuất hàng hoá cho Phương Tây. Các cuộc đình công, tuy bất hợp pháp, nhưng đã gia tăng trong những năm vừa qua, nên các nhà bất đồng chính kiến đang cố gắng đi sâu vào công nhân, bất chấp chính quyền ra sức ngăn chặn họ. Chừng nào chính quyền Việt Nam và giới chủ Tây Phương là những tiếng nói duy nhất ở các nhà máy, các công nhân nhất định còn chịu bao điều kiện khắc nghiệt, tiền công thấp, và sự cô lập về chính trị.
Tuy nhiên, vẫn có con đường tiến đến tương lai cho những người Mỹ nào quan tâm đến dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Khi hồi tưởng lại quá khứ của mình ở Việt Nam, Hoa Kỳ hầu như chẳng có gì để cảm thấy tốt, nhưng nước Anh cũng đâu có vui gì khi hồi tưởng lại lịch sử của họ ở Zimbabwe hay ở Miến Điện. Thế mà người Anh và chính quyền họ đã và đang là những người chỉ trích chính cả hai chế độ, cho dù biết làm thế là chịu đựng những lời tố cáo có thể đoán trước được như thói xưa đánh chết cũng không chừa. Người Mỹ cất tiếng phản đối chế độ hiện nay tại Việt Nam có thể lường trước lời tố cáo như vậy từ chính quyền Việt Nam và cũng từ bên ngoài nước này. Điều ấy sẽ gợi lên những ký ức không vui, nhất là đang có chiến tranh diễn ra tại Iraq và Afghanistan.
Nhưng cái giá đứng bên lề lại quá cao, đặc biệt khi xét đến những biến chuyển gần đây ở Việt Nam mà gợi ý rằng phong trào đang ở vào một giai đoạn rất quan trọng. Vào mùa hè năm 2008, các nhà bất đồng chính kiến nhận một món quà không ngờ từ nhà cầm quyền. Chính quyền Việt Nam đã âm thầm nhượng đất trị giá hàng tỷ đô la cho một công ty Trung Quốc ở cao nguyên trung phần Việt Nam. Theo điều khoản của việc mua bán này, công ty Trung Quốc đã đưa vào hàng ngàn công nhân nước ngoài, vào lúc thất nghiệp lên cao tại Việt Nam, và họ đồng thời xây dựng những khu nhà ở và những nhà hàng mang bảng hiệu tiếng Trung Quốc.
Ít có vấn đề nào đoàn kết người Việt Nam cho bằng sự nghi ngờ về người hàng xóm to lớn của họ ở phương Bắc. Hai nước có chung lịch sử đầy sóng gió được đánh dấu qua những thời kỳ dài Bắc thuộc và chiến tranh, gần đây nhất là cuộc chiến tranh tuy ngắn nhưng đẫm máu vào năm 1979. Phản ứng mạnh mẽ chống lại vụ khai thác mỏ đã bùng lên. Tướng Võ Nguyên Giáp chín mươi tám tuổi, vị anh hùng quân đội của Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, đã công khai chỉ trích sự nhượng bộ đất đai này. Những người viết blog ở Việt Nam viết về hiểm hoạ thâm nhập từ các nhân viên tình báo và quân đội bí mật Trung Quốc. Phong trào đấu tranh dân chủ đã chụp lấy vấn đề này này để phát ra những lời hiệu triệu cháy bỏng kêu gọi lòng yêu nước của người Việt được lồng trong những nguyên tắc dân chủ: tầng lớp cai trị cao nhất trong chính quyền tham lam, vô trách nhiệm, đang bán đứng linh hồn Việt Nam cho Trung Quốc, và chỉ có thể chế chính trị thật sự dân chủ mới có thể ngăn chặn họ lại.
Một người chỉ trích đã kết nối vấn đề Trung Quốc với dân chủ là Lê Công Định, luật sư bốn mươi mốt tuổi từng theo học tại Đại học Tulane nhờ học bổng Fulbright. Lê Công Định nổi tiếng ở Việt Nam sau khi đại diện cho chính phủ trong một số vụ kiện nổi bật, trong đó có việc tranh chấp thương mại với Hoa Kỳ về vụ bán phá giá cá ba sa, mà Việt Nam đã thắng. Anh cũng đảm nhận công việc đầy bất trắc là biện hộ cho các nhà bất đồng chính kiến tại toà, nhưng danh tiếng cùng với địa vị cao trong chính quyền đã bảo vệ anh khỏi bị trả thù. Cuối cùng anh bị rắc rối với nhà cầm quyền khi anh bắt đầu viết các bài về vụ khai thác bauxite và cũng về vụ tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc liên quan đến các đảo có tiềm năng chứa nhiều dầu lửa trên biển Đông. Vào ngày 20 tháng Giêng năm nay, anh bị kết án năm năm tù vể tội tuyên truyền chống nhà nước. Án tù áp đặt lên Lê Công Định phát đi một tín hiệu rõ ràng: phát biểu công khai về Trung Quốc và dân chủ sẽ không dược dung thứ, dù với những ai có mối quan hệ với chính quyền hay xuất thân trong các gia đình tốt về chính trị.
Khi qua vấn đề Trung Quốc, ngày càng có nhiều người Việt trở nên ý thức về phong trào đấu tranh dân chủ, và khi sự trấn áp các nhà bất đồng chính kiến càng tiếp tục khốc liệt như hiện nay, sự ủng hộ quốc tế dành cho sự nghiệp đấu tranh dân chủ ở Việt Nam càng cực kỳ quan trọng hơn bao giờ hết. Trường hợp Lê Công Định nhắc nhở rằng trong các xã hội chuyên chế, bất đồng chính kiến là một chuyện đầy nguy hiểm mà chẳng đảm bảo thắng lợi. Dù vậy, ta hãy tưởng tượng nếu những lời kể của Solzhenitsyn về các quần đảo ngục tù bị bỏ rơi ngoài tai. Hay nếu Hiến chương 77 không bao giờ được ai ngoài biên giới Tiệp Khắc đọc đến. Ngay giờ đây có những Solzhenitsyn và những Havel ở Việt Nam. Liệu có ai sẽ lắng nghe họ?
Dustin Roasa là nhà báo tự do tại Cambodia viết về các vấn đề nhân quyền và phát triển ở Đông Nam Á. Ông đã sống ở Việt Nam từ năm 2004 đến 2005 và thường quay trở lại Việt Nam.
Nguồn: “Vietnamese Dissidents: Absent from the Western Mind”, Tạp chí Dissent, số mùa Hè năm 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...