. .

Monday, February 2, 2009

SAU BỨC MÀN ĐỎ 4-Lược Sử CSVN- Hoàng Dung-

CHƯƠNG IV

SAU ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ VII(1991-1996)

Giữa năm 1991,1176 đại biểu CSVN họp đại hội lần thứ VII để tìm biện pháp đối phó với sự thay đổi nhanh chóng. Sự sụp đổ của chính phủ Nga Xô và khối Đông Âu đã đặt CSVN trước tình trạng khó xử. Họ nhận thấy những biện pháp kinh tế cởi mở thi hành từ 1986 đã phần nào giúp phục hồi nền kinh tế bị lạc hậu do hệ thống kinh tế tập thể hóa áp dụng mấy chục năm qua. Nhưng họ cũng nhận thấy nếu cứ tiếp tục chính sách đổi mới theo Nga Xô sẽ có nguy cơ quyền lực bị tan rã. Vì thế, những lãnh tụ CSVN thấy cần phải cầu hòa và nương tựa vào Trung Quốc.


Trước hết, vì Trung Quốc là quốc gia cộng sản hiếm hoi còn sót lại. Thứ hai, đó là một nước đàn áp tự do dân chủ nhưng vẫn đạt những thành quả kinh tế. Thứ ba, trong hoàn cảnh bị cô lập, sẽ không có ai giúp Việt Nam nếu xảy ra tranh chấp với Trung Quốc.

Bộ Chính Trị mới được bầu năm 1991 gồm có:

1. Đỗ Mười, tổng bí thư. Tên thật Nguyễn Cống, trong chiến tranh Đông Dương I hoạt động tại vùng Hải Phòng, sau đó lần lượt là chính ủy quân khu tả ngạn sông Hồng, trưởng ban cải tạo công thương nghiệp miền Bắc, bộ trưởng bộ xây dựng rồi trưởng ban cải tạo công thương nghiệp miền Nam.

2. Lê Đức Anh kiêm chủ tịch Hội Đồng Nhà Nước

3. Võ Văn Kiệt kiêm chủ tịch HĐ Bộ Trưởng.

4. Đoàn Khuê, kiêm bộ trưởng Quốc Phòng

5. Đào Duy Tùng, trưởng ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương Đảng, thường trực Ban Bí Thư.

6. Vũ Oanh, phụ trách địch vận trong chiến tranh Đông Dương II. Sau 1979, qua Campuchia phụ tá cho Lê Đức Thọ và Trần Xuân Bách trong đoàn B.68. Khi ở bộ Chính Trị, có lẽ được giao trách nhiệm về tôn giáo nên đã có nói chuyện và viết nhiều bài về chính sách đối với Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo.

7. Lê Phước Thọ, vào Ban Bí Thư năm 1986, sau thay Nguyễn Đức Tâm làm trưởng ban Tổ Chức Đảng.

8. Phan Văn Khải, sinh tại Củ Chi năm 1923, sau 1954 tập kết ra Bắc rồi du học Nga Xô. Trở về phục vụ tại ủy ban Kế Hoạch Nhà Nước. 1972 vào Nam tham dự chiến tranh Đông Dương II. Sau 1975, phục vụ tại Sài Gòn. Năm 1985 là phó bí thư thành ủy TP.HCM và được vào trung ương đảng. Năm 1989 bắt đầu làm chủ nhiệm ủy ban KHNN trước khi được vào bộ Chính Trị.

9. Bùi Thiện Ngộ, bộ trưởng Công An, từng là trưởng ty CA Vũng Tàu, giám đốc CA.TP.HCM.

10. Nông Đức Mạnh, từng là bí thư tỉnh Bắc Thái.

11.Phạm Thế Duyệt, cùng Vũ Oanh, Lê Phước Thọ được đề cử vào ban bí thư 1986. Phạm Thế Duyệt trước là giám đốc mỏ than Quảng Ninh, chủ tịch công đoàn, sau thăng bí thư thành ủy Hà Nội rồi ủy viên bộ Chính Trị, cuối cùng là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc.

12. Nguyễn Đức Bình, giám đốc trường đảng từ 1985, rất giáo điều. Sau khi Việt Nam liên lạc với Trung Quốc, được Lê Khả Phiêu cử qua Trung Quốc để cùng các lý thuyết gia Trung Quốc nghiên cứu cách diễn dịch chủ nghĩa Mác theo khía cạnh “kinh tế thị trường”

13. Võ Trần Chí, bí thư thành ủy TP.HCM thay Nguyễn Văn Linh từ 1986. Trước 1975 là bí thư tỉnh Long An.

Đa số thành phần bộ Chính Trị kể trên đều thuộc khuynh hướng bảo thủ, trong đó có hai khối bảo thủ nhất là quân đội và công an.

Sau khi Nga Xô và Đông Âu sụp đổ, không còn viện trợ, Việt Nam phải rút quân từ Campuchia về và nửa triệu quân nhân bị phục viên. Hầu hết những người này lâm cảnh thất nghiệp, đói kém vì những biến động chính trị ở Đông Âu và chiến tranh vùng Vịnh năm 1990, không còn được “xuất khẩu lao động” đi ra nước ngoài để làm việc kiếm tiền nữa. Đời sống quân nhân tại ngũ cũng không khá hơn. Khẩu phần ăn hàng ngày bị giảm bớt, ngân sách trang bị và huấn luyện cũng giảm thiểu. Tướng Đàm Văn Ngụy, tư lệnh quân khu I viết lại là có những tháng, tổng cục hậu cần của quân đội đã không phân phối được lương thực cho binh sĩ. Hơn nữa, trong bước đầu của đổi mới kinh tế, khi các đơn vị mua lương thực, họ phải trả theo giá thị trường nên phần ăn càng ít đi, gây nên sự bất mãn của quân đội với đổi mới.

Vì thế, khi vai trò của quân đội được tăng cường trong trung ương đảng và bộ Chính Trị, những phần tử này cùng đại diện của công an đã trở nên một khối bảo thủ vững chắc, chống lại các biện pháp cởi mở.

Tuy nhiên, nhờ có các biện pháp cải cách kinh tế, đời sống người dân tương đối khá hơn trước nên tất cả ủy viên, Ngay cả những người bảo thủ giáo điều nhất như Đào Duy Tùng, Đoàn Khuê, Phạm Thế Duyệt… người nào cũng tuyên bố ủng hộ “đổi mới”. Trong diễn văn tại đại hội đảng, Đỗ Mười gián tiếp công nhận sự thất bại của chính sách kinh tế chỉ huy trước đó khi kêu gọi thế giới giúp đỡ Việt Nam ra khỏi tình trạng “nghèo đói và lạc hậu”. Nguyễn Văn Linh tuy đã ngả về phe bảo thủ nhưng vẫn bị loại vì bị coi như đã phạm lỗi lầm khi đưa ra vài biện pháp chính trị cởi mở lúc ban đầu.

Trong dịp đại hội lần thứ VII này đã xảy ra tranh chấp giữa Lê Đức Anh và Võ Nguyên Giáp.

Vì uy tín của Võ Nguyên Giáp vẫn còn trong quân đội, gặp hoàn cảnh khủng hoảng ý thức hệ, Võ Nguyên Giáp được một số đại biểu quân đội dự định đưa ra để cứu vãn uy tín của đảng. Thời gian này, Lê Duẩn đã chết, Lê Đức Thọ đã hết thực quyền nên Võ Nguyên Giáp có rất nhiều hy vọng được quân đội ủng hộ.

Lê Đức Anh sợ mất địa vị nên đã sử dụng cục Quân Báo (cục 2) của bộ Quốc Phòng tạo ra một bản báo cáo nhan đề “Tình Hình Hoạt Động Bè Phái Trong Đảng”, dùng uy thế của mình cùng Nguyễn Đức Tâm để lấy danh nghĩa bộ Chính Trị phổ biến cho các đại biểu quân đội nhằm triệt hạ uy tín Võ Nguyên Giáp.

Bản báo cáo kể lại có hai đảng viên CS miền Nam (Hồ Văn Châu hay Năm Châu, một sĩ quan về hưu trong hội Cựu Chiến Sĩ, và Nguyễn Thị Sứ hay Sáu Sứ, trong hội Phụ Nữ Cứu Quốc) cùng một số đảng viên khác ra Hà Nội vận động cho Võ Nguyên Giáp làm tổng bí thư, từ đó Trần Văn Trà sẽ làm bộ trưởng Quốc Phòng, Trần Văn Danh (từng là tư lệnh phó quân khu VII cho Trần Văn Trà) sẽ làm bộ trưởng Công An. Cùng bị tố trong âm mưu này có Hà Kế Tấn (nguyên bộ trưởng bộ Thủy Lợi), Nguyễn Thanh Quảng (nguyên thư ký của Võ Nguyên Giáp sau làm phó bí thư thành ủy Hà Nội), Lê Hoàng (biệt danh Hoàng kè hay Hoàng mắt lửa vì mắt lúc nào cũng đỏ, bí thư tỉnh ủy Thái Nguyên). Những ủy viên trung ương đảng được nghe chứng cớ là các băng ghi âm ngụy tạo của cục 2. Võ Nguyên Giáp tuy mất chân trong bộ Chính Trị nhưng vẫn được tham dự đại hội, nên khi được lên tiếng, ông phủ nhận mọi lời tố cáo. Ông còn cho biết đã bị Lê Đức Thọ chèn ép trong đại hội VI năm 1986.

Trong thư gửi trung ương đảng để phân trần, Võ Nguyên Giáp vẫn nuôi tham vọng trở lại chính trường nên ngoài việc phủ nhận vụ Sáu Sứ, ông tự thấy mình “còn khả năng, nhất là về lý luận và chiến lược” và “tự xác định là không nên tự mình xin rút” (về hưu). Để lấy lòng phe bảo thủ, Võ Nguyên Giáp khoe mình đã nhiều lần “nghiên cứu với Đỗ Mười”, “trao đổi với Đào Duy Tùng”, “khuyên Trần Văn Trà nên hòa thuận với Lê Đức Anh”, cũng như “không tiết lộ bất hòa giữa Hồ Chí Minh và Trần Phú” vì có thể làm xấu mặt đảng (1) Võ Nguyên Giáp còn cẩn thận không bao giờ lên tiếng bào chữa hay bênh vực cho các cộng sự thân tín từng bị ở tù oan ức trong vụ án xét lại hơn ba chục năm trước, sợ làm mất uy tín đảng và mất cơ hội tiến thân.

Tuy nhiên, lúc đó Lê Đức Anh đã củng cố được địa vị, nên trong đại hội đảng lần thứ VII, Võ Nguyên Giáp không được cử giữ một chức vụ gì và sau đó còn bị Lê Đức Anh cùng phe cánh loại trừ luôn ra khỏi trung ương đảng. Vì bị chèn ép như thế, kể từ đại hội VII cho đến hơn mười năm sau, hầu như lần đại hội đảng nào Võ Nguyên Giáp cũng gửi thư khiếu nại cho trung ương đảng. Phần vì uy thế Lê Đức Anh vẫn còn, phần khác vì các đầu não của đảng không muốn phanh phui những xấu xa nội bộ nên đại hội nào cũng tìm cách trì hoãn, nói là đại hội sau sẽ giải quyết, và cuối cùng đến đại hội X thì bị cho đó là “những vấn đề lịch sử, quá cũ”.
Để thẳng tay triệt hạ uy tín Võ Nguyên Giáp, mấy năm sau, Lê Đức Anh còn cho một người thân tín là Đặng Đình Loan (2) viết cuốn Đường Thời Đại, dày hơn một ngàn trang, mục tiêu chính là kể xấu Võ Nguyên Giáp và đề cao Lê Đức Anh. Cuốn sách được vây cánh của Lê Đức Anh là Trần Hoàn, bộ trưởng Thông Tin cùng Lê Khả Phiêu, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị tài trợ và tướng Đoàn Chương, em ruột Đoàn Khuê, đang là giám đốc nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân in, phát hành, quảng cáo và phổ biến rộng rãi trong quân đội.(3)

Lê Đức Anh còn cho thực hiện một phim tài liệu về đời của mình để chiếu trên truyền hình, trong đó đưa ra một nhân chứng xác nhận Lê Đức Anh đã đỗ tú tài và vào đảng năm 1938. Nhân chứng này là anh ruột ông ta.

Đồng thời, cuốn Những Kỷ Niệm Về Lê Duẩn của Trần Quỳnh cũng được tung ra. Trần Quỳnh là cựu trợ lý của Lê Duẩn và từng được Lê Duẩn cất nhắc làm phó thủ tướng. Trần Quỳnh kể lại trong buổi họp bộ Chính Trị về vụ án xét lại, Võ Nguyên Giáp đúng ra đã bị loại nhưng được Lê Duẩn can thiệp giữ lại vì thời gian đó Việt Nam đang cần viện trợ của Nga Xô. Vì thế mà Võ Nguyên Giáp rất sợ Lê Duẩn. Trong cuốn sách, Trần Quỳnh đã ca ngợi “bộ Chính Trị là những người con ưu tú nhất và đáng kính nhất của dân tộc”, nhưng nội dung cuốn sách lại chê bai hầu hết những “người con ưu tú nhất” này, chẳng hạn Võ Nguyên Giáp hèn, Lê Đức Thọ nham hiểm, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh đón gió, Hoàng Văn Hoan bội phản…Thái độ đón gió của Trường Chinh được kể lại là trong buổi họp bộ Chính Trị để kết tội Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh mượn gió bẻ măng, tố cáo là có một lần đến nhà Võ Nguyên Giáp chơi, thấy Giáp vẫn còn để lá thư của Marty trên bàn và Trường Chinh đọc lén được mấy chữ “Các con Giáp và Mai thân yêu” — Mes chers fils Giap et Mai. Mai là Đặng Thái Mai, sau này là bố vợ Võ Nguyên Giáp và là người đã lấy vợ của triết gia Trần Đức Thảo.

Ngoài ra, một lá thư nặc danh khác cũng được phổ biến, lá thư nhan đề “Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, Anh Văn Của Chúng Ta”, gán cho Võ Nguyên Giáp 7 tội, trong đó có tội quan hệ tình ái lăng nhăng với vợ của nhà văn Đào Vũ khi bà này đến dạy nhạc tại nhà cho con của Võ Nguyên Giáp cũng được gửi đi khắp nơi.

Phe ủng hộ Võ Nguyên Giáp phản công, tung một lá thư tố cáo Lê Duẩn hai, ba vợ lạm dụng quyền thế, Lê Đức Thọ hiểm độc, Lê Đức Anh ngoài sự khai man lý lịch còn hành hạ công nhân khi làm cai phu, Phạm Hùng là tình nhân của Trần Thị Trung Chiến, Võ Chí Công là bố vợ của Thân Trọng Hiếu, người đã biển thủ hơn 40 triệu.

Do sự “cởi trói” phần nào cho báo chí từ mấy năm trước, những bất mãn của nhân dân được phơi bày, một số lạm dụng của đảng viên cao cấp bị tố cáo, ưu quyền của giai cấp cầm quyền mới bị đe dọa, đồng thời cuộc sống kinh tế của quân đội cũng như bộ đội phục viên bị khó khăn, khối đảng viên bảo thủ đã qui trách nhiệm cho Nguyễn Văn Linh và loại ông này khỏi chức tổng bí thư, dù hai năm cuối của nhiệm kỳ, Nguyễn Văn Linh đã cố gắng xoa dịu họ bằng cách đưa ra những biện pháp kiểm soát cứng rắn, chẳng hạn như loại bỏ tướng Trần Độ, bắt giữ những người đòi hỏi tự do dân chủ như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, bác sĩ Nguyễn Đan Quế…

Nguyễn Cơ Thạch cũng bị loại khỏi bộ Chính Trị và chính phủ do áp lực của Trung Quốc. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Lê Đức Thọ suy yếu dần, chính Nguyễn Đức Tâm cũng bị mất chức. Cũng do áp lực Trung Quốc, Mai Chí Thọ không được đề cử làm ủy viên trung ương đảng vì Mai Chí Thọ khi phụ trách công an thành phố HCM đã dính dáng đến vụ đàn áp, tịch thu tài sản và trục xuất người Hoa trong những năm của phong trào thuyền nhân vượt biên. Võ Chí Công từ chức vì lý do tuổi tác. Trong đại hội đảng lần thứ VII, người bị chỉ trích nhiều nhất là Trần Xuân Bách. Ông ta không những mất chức ở bộ Chính Trị mà còn mất luôn địa vị ủy viên trung ương đảng.

Trong bộ Chính Trị mới bầu, ngoài tổng bí thư Đỗ Mười, người quyền lực nhất là Lê Đức Anh. Chức chủ tịch nhà nước trước kia chỉ là hư vị, nhưng thời gian này, chủ tịch nhà nước Lê Đức Anh lại được giao nhiệm vụ giám sát cả ba ngành quốc phòng, ngoại giao và an ninh. Đảng cộng sản sợ tập trung quyền hành vào một người sẽ xảy ra trường hợp Gorbachev bên Nga nên tăng cường quyền lực cho Lê Đức Anh.

Do sự cần thiết của đổi mới kinh tế, Võ Văn Kiệt được đứng hàng thứ ba trong bộ Chính Trị. Với yếu tố là người miền Nam (Đỗ Mười miền Bắc, Lê Đức Anh miền Trung) cho nên dù nhiều khi phải đối chọi với khuynh hướng bảo thủ của Đỗ Mười và Lê Đức Anh, địa vị của Võ Văn Kiệt vẫn vững vàng trong nhiều năm.

Khi còn làm bí thư thành ủy thành phố HCM, trước thất bại của chính sách kinh tế nhà nước, Võ Văn Kiệt đã lập ra một ban cố vấn kinh tế, đứng đầu là cựu phó thủ tướng VNCH Nguyễn Xuân Oánh và nhiều kinh tế gia cũ của miền Nam, nhờ đó, sớm thi hành những đường lối cải cách kinh tế. Trong một bộ Chính Trị bảo thủ, Võ Văn Kiệt cùng với Phan Văn Khải, cũng là người miền Nam, là hai người tương đối cởi mở nhất. Nhờ hai người này nắm kinh tế cho nên nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Cửu Long và những xí nghiệp tư nhân của thành phố HCM đã trở nên nguồn phát triển tài lực chính của kinh tế cả nước Việt Nam.

Cũng nhờ Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt nên năm 1987 Nguyễn Xuân Oánh được bầu làm đại biểu quốc hội cùng với bà Ngô Bá Thành. Đến kỳ bầu cử 1992, đà đổi mới bị ngưng trệ, Nguyễn Xuân Oánh không được Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra ứng cử, bà Ngô Bá Thành được đưa ra, nhưng dù được đảng cho ứng cử 10 người thì trúng cử hết 9, bà Thành lọt vào trong số người thất cử hiếm hoi đó. Trả lời câu hỏi của đài BBC, bà nói vì có “gian lận” (3).

Do sự ưu thắng của phe bảo thủ trong bộ Chính Trị, chiều hướng ngoại giao nghiêng về ý thức hệ và nhượng bộ Trung Quốc đã lấn áp chiều hướng “đa phương hóa một cách quân bình”. Sự coi trọng đặc tính “xã hội chủ nghĩa” và bỏ qua đặc tính “bành trướng” của Trung Quốc của phe bảo thủ xuất phát từ sự sống còn của đảng cộng sản và sự bất an của nhóm lãnh đạo.

Ngoài ra, khối quân đội, từng được ưu đãi trong thời chiến, bị quên lãng trong mấy năm đổi mới, bị mất uy tín khi phải rút khỏi Campuchia, bị quân Trung Quốc lấn áp cả trên bộ lẫn trên biển và nhất là những cấp chỉ huy đều là những đảng viên trung kiên nên đã cùng với khối công an hợp thành một khối bảo thủ vững chắc.

Do sự suy sụp của Nga Xô và khối Đông Âu, sợ rằng những “thế lực thù nghịch” sẽ lật đổ chế độ, vai trò quân đội được coi trọng hơn và Lê Đức Anh là chủ tịch nhà nước, đã có rất nhiều quyền hành để thao túng chính phủ. Hơn một năm sau, phe quân đội lại càng được tăng cường khi Lê Khả Phiêu được đề cử thêm vào bộ Chính Trị. Dù lúc nào cũng cảnh giác với tham vọng của Trung Quốc, nhưng trước nguy cơ tan rã, quân đội luôn luôn nghiêng về ý thức hệ và càng chủ trương thân thiện với Trung Quốc. Kẻ địch phải cảnh giác của báo Quân Đội Nhân Dân kể từ lúc đó không phải là những lực lượng quân sự nào mà luôn luôn là những “diễn biến hòa bình”.(4) Sau chuyến đi của Lê Đức Anh sang Trung Quốc năm 1991, lần lượt nhiều tướng lãnh Việt Nam cũng sang kết thân như Vũ Xuân Vinh (cục đối ngoại quân đội), Đoàn Khuê, Lê Khả Phiêu (khi còn là chủ nhiệm tổng cục chính trị), Đào Đình Luyện…

Với sự thắng thế của khuynh hướng bảo thủ và giáo điều trong bộ Chính Trị, Cộng đảng Việt Nam càng tỏ thái độ nhún nhường hơn với Trung Quốc.

Hai tuần lễ sau đại hội đảng, ngày 9-7-1991, tổng bí thư Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy, ngỏ ý muốn cử “đặc phái viên” sang Trung Quốc để thông báo diễn tiến và kết quả đại hội VII, một hành động gần như sai sứ cầu phong. Điều này khiến Trung Quốc rất hài lòng, và dù trước đó đã đồng ý hội đàm cấp thứ trưởng giữa hai chính phủ vào đầu tháng 8, Trung Quốc muốn gặp “đặc phái viên” của đảng CSVN trước. Biết được ban lãnh đạo cộng đảng Việt Nam dễ thuyết phục hơn bộ ngoại giao, Trung Quốc ngỏ ý muốn đổi danh xưng “đặc phái viên” thành “đoàn đại diện đặc biệt của ban chấp hành trung ương đảng CSVN”, gián tiếp loại ra ngoài các viên chức ngoại giao nhà nghề.

Đảng CSVN cũng hiểu ý, nên đã gạt đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc là Đặng Nghiêm Hoành không cho tham dự các buổi họp, tuy đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội là Trương Đức Duy lại có mặt trong phái đoàn Trung Quốc. “Đoàn đại diện đặc biệt” của Việt Nam sang Trung Quốc báo cáo gồm ba người là Lê Đức Anh, chủ tịch nước, Hồng Hà, bí thư trung ương đặc trách đối ngoại và Trịnh Ngọc Thái, phó ban đối ngoại của đảng.

Được nghe báo cáo chi tiết về đại hội Đảng lần thứ VII, kể cả những ý kiến khác nhau, những tranh luận, những biểu quyết và những thay đổi nhân sự, Giang Trạch Dân và Lý Bằng càng bằng lòng hơn khi nghe nói Nguyễn Cơ Thạch bị loại. Giang Trạch Dân nói: “Từ đáy lòng mình, tôi rất hoan nghênh kết quả đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.

Sau khi gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng, Lê Đức Anh đã xin gặp Từ Đôn Tín hai lần để xin lỗi về việc Nguyễn Cơ Thạch to tiếng với ông ta mấy tháng trước. Ngoài ra, phái đoàn của Lê Đức Anh còn tìm gặp Kiều Thạch, chủ tịch quốc hội, người từng phụ trách tình báo và an ninh của Trung Quốc.

Biết là các nhà cầm quyền Trung Quốc sẽ cho nối lại quan hệ ngoại giao nếu Việt Nam tiếp tục nhượng bộ ở Campuchia, Lê Đức Anh và Hồng Hà sau khi về nước đã ép bộ ngoại giao phải gửi đi một thứ trưởng “không tiền án” với Trung Quốc là Nguyễn Dy Niên sang Bắc Kinh dự cuộc hội đàm chính thức giữa hai chính phủ về vấn đề Campuchia. Sợ rằng những viên chức ngoại giao không chịu nhượng bộ sẽ làm hỏng mưu định cầu hòa, bộ Chính Trị cử thêm Trịnh Ngọc Thái đi theo phái đoàn để giám sát. Cuộc hội đàm một chiều theo ý của Trung Quốc dĩ nhiên đưa đến kết quả mỹ mãn, vấn đề Campuchia coi như đã được giải quyết. Sau cuộc hội đàm, ngoại trưởng Tiền Kỳ Sâm của Trung Quốc mời ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm sang thăm giao hữu và hai tháng sau, ngày 5-11-1991, đến lượt Đỗ Mười cùng Võ Văn Kiệt được mời sang Bắc Kinh (5), ký thông cáo chung chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Việt Nam rất muốn được có quan hệ “môi hở răng lạnh” như trước kia, nhưng Trung Quốc không muốn thế giới nghi kỵ một liên minh cộng sản mà trở ngại cho chương trình “bốn hiện đại” nên chỉ chấp nhận mối quan hệ “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu — thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, ganh đua nhau nhưng không đánh nhau” tức là “đồng chí chứ không đồng minh”.

Tuy thế, trong một nghị quyết về ngoại giao tháng 6 năm 1992, Việt Nam đã xếp hạng Trung Quốc vào loại bạn chí cốt số một cùng với Bắc Hàn, Cuba, Ai Lao và Campuchia (bạn xếp hàng thứ hai là những nước cộng sản cũ như Nga và Đông Âu, thứ ba là các nước lân bang Asean, thứ tư là những nước Phi Châu, Tây phương và Nhật Bản, đứng hàng chót là Hoa Kỳ, một nước mà theo Việt Nam, luôn mưu toan phát động “diễn biến hòa bình” để phá hoại xã hội chủ nghĩa.

Ngoài bộ máy đảng lãnh đạo, việc quản lý nhà nước của Việt Nam do Võ Văn Kiệt làm thủ tướng sau đại hội Đảng năm 1991. Chính phủ này gồm có:

- Ba phó thủ tướng là Nguyễn Khánh, Phan Văn Khải, Trần Đức Lương.

- Bộ Nông Nghiệp: Nguyễn Công Tấn.

- Bộ Xây Dựng: Ngô Xuân Lộc.

- Bộ Văn Hóa Thông Tin: Trần Hoàn.

- Bộ Quốc Phòng: Đoàn Khuê.

- Bộ Giáo Dục: Trần Hồng Quân.

- Bộ Tài Chánh: Hồ Tế (Hồ Tế sau khi về hưu, đã than là ngân sách nhà nước của Việt Nam phải nuôi ba miệng ăn: Chính Phủ, Đảng và Mặt Trận Tổ Quốc).

- Bộ Ngoại Giao: Nguyễn Mạnh Cầm, đại sứ tại Mạc Tư Khoa, được chọn thay Nguyễn Cơ Thạch vì không dính dấp đến những bất hòa của bộ ngoại giao với Trung Quốc năm 1990.

- Bộ Kỹ Nghệ: Đặng Vũ Chú.

- Bộ Nội Vụ: Bùi Thiện Ngộ, từng là trưởng ty công an Vũng Tàu rồi giám đốc công an TP.HCM.

- Bộ Tư Pháp: Nguyễn Đình Lộc.

- Bộ Lao Động và TBXH: Trần Đình Hoan.

- Bộ Hải Sản: Nguyễn Tấn Trình.

- Bộ Y tế Công Cộng: Đỗ Nguyên Phương.

- Bộ KHKT và Môi Trường: Đặng Hữu.

- Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư: Đỗ Quốc Sâm

- Bộ Thương Mại: Lê Văn Triết

- Bộ Giao Thông Vận Tải: Bùi Danh Lưu.

- Chủ tịch Hội Đồng Chống Tham Nhũng Và Buôn Lậu: Nguyễn Kỳ Cẩm.

- Chủ nhiệm UB Sắc tộc: Hoàng Đức Nghi

- Chủ nhiệm UB Chống Lụt và UB sông Cửu Long: Nguyễn Cảnh Định.

- Chủ tịch Quốc Hội là Nông Đức Mạnh, thay cho Lê Quang Đạo sang làm chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc.

- Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước: Cao Sĩ Kiếm.

- Tổng tham mưu trưởng quân đội: Đào đình Luyện, từng là tư lệnh Không Quân.

- Chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Đội: Lê Khả Phiêu.

Dưới sự hướng dẫn của Võ Văn Kiệt, Việt Nam tiếp tục chính sách đổi mới kinh tế. Từ khi còn là bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, trước sự tê liệt của hệ thống kinh tế quốc doanh trong những năm đầu của thập niên 1980, Võ Văn Kiệt đã dám làm những điều không đúng với đường lối của trung ương như dùng những người Hoa còn ở lại trong nước buôn bán với Hồng Kông, thành lập những công ty Imex lấy tiền của Việt kiều, dùng những chuyên viên chế độ cũ như Nguyễn Xuân Oánh, thậm chí còn mời cả cựu thủ tướng Lý Quang Diệu của Tân Gia Ba làm cố vấn. Trong thời gian đó, phương cách kinh tế trong Nam khác biệt với miền Bắc đến nỗi bộ trưởng ngoại thương Lê Khắc (thời Tố Hữu làm phó thủ tướng đặc tránh kinh tế) khi vừa xuống máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất đã phê bình là “ngửi thấy mùi Nam Tư”.(6)

Nhưng Võ Văn Kiệt thật ra chỉ cởi mở về kinh tế, còn về chính trị, vẫn xuôi theo đường lối chuyên chính của đảng CSVN. Hiến Pháp năm 1992 tái xác nhận Việt Nam tiếp tục theo đuổi chế độ độc đảng song song với chính sách “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều 4 của Hiến Pháp 1992 viết: “Đảng CSVN, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hổ chí Minh…” (7)

Năm 1982 đã bỏ câu “tư tưởng Mao Trạch Đông” trong Hiến Pháp và Điều Lệ Đảng. Giờ đây, trước sự khủng hoảng ý thức hệ, đảng CSVN thêm vào lời mở đầu hiến pháp “tư tưởng Hồ Chí Minh”, một loại “tư tưởng” mơ hồ, rời rạc, góp nhặt tùy tiện, nhưng được các cán bộ thông tin văn hóa tâng bốc. Chẳng hạn có lúc Hồ Chí Minh trích câu châm ngôn Trung Quốc “dĩ bất biến ứng vạn biến”, sau này có cả chục bài viết lấy câu trích dẫn đó ra tán tụng cách áp dụng của ông, rồi từ đó đề cao Hồ Chí Minh như một triết gia tài ba, siêu việt.

Do sự cần thiết phải đổi mới kinh tế, quyền hạn Võ Văn Kiệt được tăng đôi chút. Danh xưng “chủ tịch hội đồng bộ trưởng” nhằm nhấn mạnh đến chỉ huy tập thể được thay lại bằng danh xưng “thủ tướng”. Trước kia, bộ trưởng do quốc hội bầu và đều là đại biểu quốc hội. Sau 1992, thủ tướng có quyền chọn bộ trưởng, trong hay ngoài quốc hội, nhưng những bộ trưởng này vẫn phải được quốc hội chấp thuận. Trên nguyên tắc, thủ tướng cũng có quyền bãi nhiệm thứ trưởng trở xuống hay các viên chức hành chánh địa phương (cấp bộ trưởng trở lên thuộc diện “trung ương quản lý”, tức là do trung ương đảng trách nhiệm). Nhìn chung tuy là thủ tướng rộng quyền, nhưng Võ Văn Kiệt chỉ có thể tương đối tự do trong những phạm vi kinh tế, giáo dục.., còn những ngành quốc phòng, công an hay thông tin báo chí đều bị những phần tử bảo thủ như Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Đào Duy Tùng thao túng.

Không để lọt một kẽ hở nào, dù quốc hội chỉ là cơ quan hình thức, danh sách được đảng cho ra ứng cử dân biểu kỳ này cũng giảm tối đa thành phần ngoài đảng. Bà Ngô Bá Thành là một trong vài người hiếm hoi được đảng cho ra ứng cử nhưng không trúng cử.

Do sự sụp đổ của đế quốc Nga Xô, chế độ CSVN cảm thấy bị lung lay. Những lãnh tụ cộng đảng suy luận rằng các chính quyền cộng sản bị sụp đổ là vì đảng không kiểm soát và chỉ huy được quân đội. Tại Nga Xô và Đông Âu, quân đội đã không chịu nghe lệnh đảng để đàn áp nhân dân. Tại Trung Quốc, trong vụ Thiên An Môn, quân đoàn 38 tại quân khu Bắc Kinh đã từ chối không đàn áp sinh viên khiến chính phủ phải huy động các quân đoàn khác từ xa tới. Vì thế, một mặt đảng gia tăng ngân sách quốc phòng, củng cố lại hệ thống đảng ủy trong quân đội, mặt khác, tăng cường vị thế của quân đội trong trung ương đảng và bộ Chính Trị. Năm 1986, tỷ số ủy viên quân đội trong trung ương đảng chiếm 7%, tới năm 1991, tỷ số này tăng lên 10.2% (15 người trong 146 ủy viên được bầu). Ngoài ra, nếu nghị quyết năm 1986 chỉ đòi hỏi quân đội phải “tôn trọng và quan hệ mật thiết” với các đảng bộ địa phương thì điều 28 của nghị quyết 1991 nói rõ là những đơn vị quân đội phải được đặt dưới sự lãnh đạo của các đảng ủy địa phương.

Cũng từ đại hội đảng 1991, đảng viên quân đội bắt đầu được nắm các chức vụ cao cấp then chốt. Trong bộ Chính Trị gồm mười ba người, Lê Đức Anh đứng thứ hai và Đoàn Khuê, bộ trưởng Quốc Phòng đứng thứ năm. Tháng 9-1991, Lê Đức Anh được đề cử làm chủ tịch Nhà Nước. Nhờ đại diện cho quân đội, một cơ chế được coi là “xương sống” của đảng, chức vụ chủ tịch Nhà Nước do Lê Đức Anh nắm giữ được tăng cường quyền hành để thăng bằng với quyền hành của thủ tướng do Võ Văn Kiệt nắm giữ. Hơn nữa, Lê Đức Anh còn được kiêm nhiệm luôn chức vụ chủ tịch Hội Đồng Quốc Phòng và Tổng Tư Lệnh Quân Đội. Nhờ thế, kể từ 1969, sau khi Hồ Chí Minh chết, qua những đời Tôn Đức Thắng, Trường Chinh, Võ Chí Công… Lê Đức Anh là một chủ tịch Nhà Nước có quyền lực rất lớn.

Ngoài ra, trong bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt, mỗi khi có tranh chấp, Đỗ Mười thường ngả về phe Lê Đức Anh, nên trong đảng CSVN còn phân biệt ra hai khối: đảng và chính phủ (dù cầm đầu chính phủ phải là đảng viên). Tại quốc hội, quân đội giữ 38 ghế (9.6%), trong đó ngoài Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Đào Đình Luyện, Lê Khả Phiêu còn có Đặng Quân Thụy (tư lệnh quân khu II), Phạm Văn Trà (quân khu III), Nguyễn Trọng Xuyên (tổng cục tiếp vận), Phan Thứ (tổng cục kinh tế và kỹ nghệ quốc phòng)…

Đặc biệt kỳ bầu cử quốc hội 1992, ông Nguyễn Thanh Giang, tiến sĩ địa chất, tự ra ứng cử và đã được 96% số phiếu. Đảng cộng sản một mặt bịa ra một qui luật, bắt ông phải qua vòng tuyển chọn tại cơ sở nơi ông làm việc, mặt khác áp lực những người cùng cơ sở với ông phải bỏ phiếu loại ông ra. Sau khi viết và phổ biến bài Nhân Quyền-Khát Vọng Ngàn Năm, ông bị công an xách nhiễu nhiều lần và ngày 4-3-1999 bị bắt về tội “lạm dụng quyền tự do dân chủ”, nhưng không bị đưa ra tòa và được thả vào tháng sau.

Sự gia tăng thế lực của quân đội trong bộ Chính Trị (4 ủy viên) và trong trung ương đảng đã giúp quân đội trở nên một thế lực mạnh mẽ không những về chính trị mà còn về kinh tế. Nhờ đó mà từ 1990, tổng cục Kinh tế của quân đội đã ngày càng phát triển mạnh mẽ và tới 1993 đã có khoảng 70 ngàn quân nhân phục vụ trong các ngành kinh tế thuộc gần 300 công ty do quân đội kiểm soát. Những công ty này kinh doanh trong các ngành điện, dầu khí, xây dựng (xa lộ nối Hà Nội với phi trường Nội Bài là do quân đội thiết lập)…Công ty lớn nhất là Tổng Công Ty Xây Dựng Trường Sơn gồm 19 công ty lớn nhỏ về xây cất, đặt đường xe lửa, trồng cà phê…Các công ty khác như Tổ Hợp Hàng Không của Không Quân dùng trực thăng chở chuyên viên đến những mỏ dầu, cung cấp dịch vụ chuyên chở y tế cấp cứu, tìm người Mỹ mất tích. Công ty Tây Nguyên của quân đoàn 15 chuyên về canh nông, công ty Đông Bắc khai thác than, công ty Hóa Chất số 21… Ngoài ra cũng có cả Ngân Hàng Thương Mại Quân Đội, khách sạn Saigon Star Hotel. Năm 1994, Võ Văn Kiệt còn ký nghị định cho phép công ty viễn thông Vietel của quân đội được cạnh tranh với Tổng Cục Bưu Điện trong những dịch vụ viễn liên.(8)

Song song với việc gia tăng thế lực của quân đội, ngành công an cũng được củng cố nhưng đã không hoàn toàn đàn áp được những tiếng nói phản kháng.

Năm 1993, ông Hoàng Minh Chính được thả ra sau khi bị giam cầm nhiều năm, đã gửi thư cho đảng và chính phủ phản đối việc bắt giữ ông trái phép. Sau đó, vợ của tướng Đặng Kim Giang cũng công khai tố cáo đích danh Lê Đức Thọ đã mưu hại, bôi lọ chồng và cả gia đình của bà.(9) Do người bị oan ức gửi đơn khiếu nại, trung ương đảng cử hai đảng viên đã về hưu là Nguyễn Trung Thành, cựu vụ trưởng Vụ Bảo Vệ Đảng, người từng tích cực tuân lệnh Lê Đức Thọ và Lê Duẩn để kết tội nhóm xét lại, và Lê Hồng Hà (10), cựu ủy viên đảng đoàn bộ công an để coi lại hồ sơ vụ án. Nhưng khi hai người đưa báo cáo cho Đỗ Mười, chứng minh là người bị án đều bị oan ức, những chứng cớ chỉ là giả tạo, và xin trung ương đảng giải oan cho những người liên quan đến vụ án thì Đỗ Mười gạt đi, nói trung ương đảng đã kết tội thì chắc chắn là họ có tội.

Ông Nguyễn Trung Thành cảm thấy ân hận nên đã trực tiếp xin lỗi những người bị án oan và cùng ông Lê Hồng Hà công khai phổ biến sự ghép tội vô căn cứ của đảng. Vì việc này, hai ông bị trục xuất khỏi đảng và liên tục bị công an làm khó dễ. Ông Hà còn bị kết án tù hai năm. Những người bị án còn sống hay gia đình họ đều thông cảm và tha thứ ông Thành. Riêng ông Phùng Văn Mỹ, cựu giáo sư trường đảng từng bị tù từ 1967 đến 1976 thì nói là mặc dù ông rất cảm động trước hành động của ông Thành, nhưng ông không cần được giải oan hay phục hồi đảng tịch, vì ông đang được sống cho chính ông. Ông không còn phải làm nô lệ hay nhân viên của bất cứ địa hạt nào trong bộ máy chuyên chính. Ông viết: “Còn về mặt tâm hồn, thì chúng tôi đang sống một cuộc sống thanh thản, không còn bị trói buộc vào một cơ chế máy móc nào. Chúng tôi đang thực hiện lời dạy của người xưa “Phú qúi bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Và như thế thì cần gì phải có ai “cứu” nữa. “Cứu” để rồi được trở lại cách sống cũ ư? Quả là một điều hãi hùng!(11)

Khi ông Hoàng Minh Chính bị vào tù, Nguyễn Khắc Toàn đã giúp bà Chính viết kháng thư. Nguyễn Khắc Toàn là một bộ đội phục viên từng chiến đấu trong Nam. Sau 1975, ông thất vọng với chế độ, và đã giúp phổ biến những lá thư đòi tự do dân chủ của Nguyễn Thanh Giang, Trần Độ, Trần Dũng Tiến…

Do những kết quả có được nhờ từ bỏ đường lối kinh tế chỉ huy, nhiều đạo luật cởi mở hơn như luật về quyền tư hữu, luật lao động phân định quyền lợi giữa chủ và thợ, luật cho phép sang nhượng ruộng đất, luật nới rộng đầu tư… được ban hành.

Năm 1992, Việt Nam bắt đầu vận động để gia nhập khối ASEAN và thiết lập quan hệ ngoại giao với Đại Hàn. Nhật Bản cũng bỏ cấm vận và cho Việt Nam vay 370 triệu mỹ kim. Năm 1993, Việt Nam ký thỏa hiệp thương mại với khối kinh tế Tây Âu. Năm 1994, do Việt Nam sốt sắng cộng tác trong việc tìm kiếm người mất tích (MIA), tổng thống Clinton chấm dứt cấm vận vào tháng 7-1995 và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam. Cựu dân biểu Pete Peterson, một cựu tù nhân Mỹ từng bị giam ở Hỏa Lò sáu năm được cử làm đại sứ. Trong khi đó, đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ là Lê Văn Bàng, từng làm đại sứ ở Liên Hiệp Quốc. Cũng trong tháng đó, Việt Nam thành nước hội viên thứ bảy của tổ chức ASEAN.Việc gia nhập ASEAN không những giúp Việt Nam được hội nhập và học hỏi những kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước trong vùng mà còn giúp Việt Nam nhiều thuận lợi về chính trị và ngoại giao. Dưới danh nghĩa hội viên một tổ chức quan trọng gồm những nước có kinh tế năng động như Tân Gia Ba, Thái Lan, Mã Lai…, uy tín Việt Nam được nâng cao. Trong khi chưa thể cầu thân với Hoa Kỳ để thăng bằng áp lực của Trung Quốc, ít ra Việt Nam cũng có thể cùng những nước trong tổ chức trên dàn xếp các xích mích với Trung Quốc.

Ngoài ra, việc gia nhập ASEAN cũng là cơ hội tiến thêm một bước để thiết lập bang giao với Hoa Kỳ.

Nhờ trình độ dân trí tương đối cao và nhân công còn rẻ so với các nước ASEAN láng giềng, các công ty ngoại quốc chịu bỏ tiền vào đầu tư, kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển, nhất là về nông nghiệp và kỹ nghệ nhẹ chế tạo hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, để giữ vững “định hướng xã hội chủ nghĩa”, chính quyền vẫn duy trì những công ty do nhà nước quản lý dù cho những công ty này bị lỗ lã và chính phủ phải tài trợ mới đứng vững.

Khi Võ Văn Kiệt kêu gọi cần có sự đối xử đồng đều đối với cả công ty tư nhân lẫn quốc doanh, đề nghị này bị gán cho là “sai đường”. Trong những công ty hợp doanh lớn, Đỗ Mười đã đòi hỏi phải có đại diện của đảng nằm trong công ty. Ngoài ra, do yếu tố chính trị nhằm nâng đỡ những tỉnh miền Trung, xưởng lọc dầu được chấp thuận xây dựng tại Dung Quất, Quảng Ngãi, nhưng do địa điểm này không thuận lợi, không hợp lý về kinh tế, cách xa những giếng dầu ngoài biển hàng ngàn cây số, những công ty ngoại quốc rút ra khỏi công tác xây dựng. Trung ương đảng nhất định không đổi ý, dùng những công ty xây cất quốc doanh. Do đó mà xưởng lọc dầu này đến nay vẫn chưa xong.

Ngoài việc tìm cách kềm hãm sự đổi mới kinh tế, những thành phần bảo thủ trong bộ Chính Trị đã kiểm soát chặt chẽ hơn trên lĩnh vực thông tin văn hóa. Ngay sau khi nhận chức tổng bí thư, Đỗ Mười đã cảnh cáo là “ngành thông tin cần được hướng dẫn” và “báo chí vẫn là mũi tấn công chính của mặt trận văn hóa tư tưởng”. Đỗ Mười chê trách ngành truyền thông đã lợi dụng sự cởi trói báo chí để “có những bài báo, sách vở phủ nhận đảng, bóp méo lịch sử và sự thật”. Một ủy viên khác, Nguyễn Đức Bình, cũng gọi truyền thông đại chúng là “vũ khí hữu hiệu trên mặt trận văn hóa tư tưởng”, và kêu gọi báo chí phải “vạch trần những âm mưu của những lực lượng chống chủ nghĩa xã hội muốn phủ nhận quyền lãnh đạo của đảng”. Tuy không trực tiếp kiểm duyệt, nhưng những giám đốc đài phát thanh, những tổng biên tập nguyệt san và báo chí đều là đảng viên nên đảng tạo áp lực bằng những cuộc họp mỗi tháng với ban tư tưởng văn hóa trung ương đảng. Nhiều tổng biên tập không tuân hành đường lối của đảng đã bị mất chức. Thí dụ Vũ Kim Hạnh, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, đã dám đăng bài phê bình chế độ cha truyền con nối của cha con Kim Nhật Thành ở Bắc Triều Tiên, rồi sau đó đăng bài của ký giả Kiến Phước nói về chuyện Hồ Chí Minh có vợ. Bài báo đăng bài thơ Lý Thụy gửi bà vợ Tàu Tăng Tuyết Minh ngay trên trang nhất (Dữ muội tương biệt. Chuyển thuấn niên dư. Hoài niệm tình thâm. Bất ngôn tự hiểu. Từ nhân hồng tiện. Dao ký thốn tiên. Tỷ muội an tâm. Thị ngã da vọng. Tịnh thỉnh nhạc mẫu vạn phúc. (12) Theo Hoàng Tranh, phó viện trưởng Viện Khoa Học Xã Hội Quảng Tây, đám cưới của hai người cử hành vào tháng 10-1926. Kim Hạnh vì việc này mà mất chức tổng biên tập báo Tuổi Trẻ. Mấy năm sau, bà quay sang xin được làm tờ Sài Gòn Tiếp Thị, một tờ báo giúp ý kiến người đọc mua bán hàng hóa.

Tuy nhiên, dù cho những lãnh tụ CSVN, nhất là phe quân đội, tỏ thái độ tùng phục và dù cho đã có quan hệ ngoại giao chính thức, Trung Quốc vẫn lợi dụng tình trạng cô thế của Việt Nam để lấn át. Ngày 15-2-1992, Trung Quốc công bố luật lãnh hải của họ, bao gồm gần hết biển Đông, và nói sẽ dùng võ lực để ngăn ngừa những vi phạm chủ quyền của họ. Cùng với lời công bố, Trung Quốc cho quân đến chiếm đảo Ba Đầu trong quần đảo Trường Sa. Chiếm đảo này xong, Trung Quốc mạnh mẽ cảnh cáo Việt Nam là “không nên làm điều gì gây phương hại cho tình hữu nghị mới tái lập”.

Một số đại biểu quốc hội phản kháng nhưng bị ban đối ngoại trung ương đảng dẹp bỏ. Ba tháng sau, ngày 8-5-1992, khi cố vấn của bộ Chính Trị là Nguyễn Văn Linh sang gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng tại Bắc Kinh, có lẽ để dằn mặt CSVN, cùng ngày hôm đó và ở cùng một phòng trong Nhân Dân Đại Sảnh, Trung Quốc ký kết với hãng thầu Crestone của Hoa Kỳ để khai thác dầu hỏa trên vùng đảo Tu Chính, nơi mà Việt Nam và Trung Quốc đang tranh chấp. Tổng giám đốc công ty Crestone là Randall Thompson sau đó xác nhận là những giới chức Trung Quốc đã cam kết với ông là hải quân Trung Quốc sẽ dùng toàn lực bảo vệ nếu có chuyện gì xảy ra trong vùng biển mà công ty khai thác. Nguyễn Văn Linh không dám có phản ứng nào về việc này, trái lại vẫn ngỏ lời cám ơn Trung Quốc về “những giúp đỡ qúi báu” trước kia.

Ngày 27-5-1992, quân Trung Quốc cũng dời cột mốc biên giới ở ải Nam Quan sâu vào lãnh thổ Việt Nam từ 400 đến 500 thước và đầu tháng 7, Trung Quốc cắm mốc nhận chủ quyền trên đảo Đa Lạc thuộc Trường Sa. Việt Nam cũng chính thức phản đối Trung Quốc đã dời 142 trong tổng số 314 cột mốc lấn sâu vào lãnh thổ Việt Nam và dựng cột đèn báo hiệu xe lửa lấn sang Việt Nam cách Hữu Nghị Quan 500 thước.(13)

Hành động lấn át của Trung Quốc gây tranh luận gắt gao tại hội nghị trung ương đảng từ ngày 18 đến 29-6-1992. Phe bảo thủ cho là “vì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải liên kết với Trung Quốc và bỏ qua những xích mích nhỏ nhặt”, trong khi đó, phe thực dụng tố cáo Trung Quốc hai mặt và “lợi dụng chủ nghĩa xã hội để trói tay Việt Nam”.

Đỗ Mười rất bảo thủ nhưng lúc nào cũng hô hào đổi mới, ngoài mặt nói Trung Quốc là “bành trướng” nhưng lại không có phản ứng nào ngoài việc mời Lý Bằng sang thăm Việt Nam. Trước khi Lý Bằng sang thăm Việt Nam, trong tháng 8, Trung Quốc dựng một dàn khoan trên vùng biển mà hai bên trước kia đã thỏa thuận để trống chờ sau này sẽ thương thuyết giải quyết, đồng thời cũng tịch thu hai tàu buôn của Việt Nam tại Hồng Kông, tố cáo là họ buôn lậu.

Sự quá đáng của Trung Quốc gây bất an không chi cho Việt Nam mà còn cho các nước ASEAN. Tháng 11-1992, đô đốc Larson, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ trên vùng biển Thái Bình Dương tuyên bố là Hoa Kỳ không muốn thấy một quốc gia nào thống trị vùng Đông Nam Á mà chỉ muốn có một sự thăng bằng lực lượng. Có lẽ nhờ vậy mà trước khi Lý Bằng sang Việt Nam, Trung Quốc rút bỏ dàn khoan dầu và trả lại hai tàu buôn.

Tháng 12-1992, thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng sang thăm Việt Nam. Chuyến viếng thăm chỉ chú trọng nhiều đến hợp tác kinh tế nhưng vấn đề biên giới và lãnh hải vẫn có nhiều rắc rối. Trong cuộc họp báo, Lý Bằng tuyên bố một cách lạc quan rằng “dù hai bên còn có những bất đồng, nhưng chúng tôi đã thu hẹp những bất đồng lại chứ không làm lớn ra” nhưng Nguyễn Mạnh Cầm không chắc chắn lắm qua lời tuyên bố:“Thủ tướng Lý Bằng đã cho biết nhận xét của ông về kết quả những cuộc thảo luận. Chúng tôi ghi nhận nhận xét của ông và hy vọng chúng sẽ được thực hiện trên thực tế”

Dù bộ ngoại giao không được hài lòng, nhưng phe quân đội càng muốn liên kết chặt chẽ với Trung Quốc, nhất là sau khi thấy khả năng tấn công của Hoa Kỳ trong chiến tranh vùng Vịnh và trong cuộc chiến Bosnia. Ngay sau khi Lý Bằng về nước, đến lượt bộ trưởng quốc phòng Đoàn Khuê sang Trung Quốc gặp bộ trưởng quốc phòng Trì Hạo Điền và sau đó được gặp Giang Trạch Dân. Trong cuộc tiếp xúc, Đoàn Khuê cẩn thận không nhắc nhở đến vấn đề biên giới. Ba tháng sau, đến lượt Trì Hạo Điền sang thăm Việt Nam đáp lễ. Do sự khác biệt về quan niệm ngoại giao giữa hai bộ quốc phòng và ngoại giao, những viên chức bộ ngoại giao đã không được thông báo gì về những cuộc tiếp xúc kể trên của hai quân đội Việt Hoa.

Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc được mô tả trong báo cáo mật của bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm tại quốc hội vào tháng 9-1992 như sau: “Chúng ta phải nỗ lực duy trì quan hệ của chúng ta với Trung Quốc nhưng đồng thời cũng phải bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, đây là một tiến trình lâu dài và rắc rối”. Sau các cuộc họp cấp thứ trưởng, một thỏa ước về những nguyên tắc căn bản để giải quyết vấn đề biên giới được hai bên ký kết ngày 19-10-1993. Tuy nhiên, ở thế mạnh, kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu cần dầu hỏa của Trung Quốc ngày càng cao, vùng biển Đông ngày càng trở nên một vùng biển quan trọng không những vì tài nguyên dầu hỏa ở đó mà còn là một thủy lộ chiến lược quan trọng để các tàu dầu ngoại quốc chở dầu từ Trung Đông qua eo biển Malacca, vòng theo duyên hải biển Đông của Việt Nam đến bán cho Trung Quốc cho nên hải quân Trung Quốc luôn luôn tạo ra một áp lực trên vùng biển này.

Kể từ 1985, Trung Quốc đã từ từ tiến hành một kế họach phòng thủ lâu dài được gọi là “viễn dương phòng vệ” (jinyang fungwu — offshore defense). Kế họach này do tư lệnh hải quân Trung Quốc năm 1985 là Lưu Hòa Thanh (Liu Huaquin) thiết lập, theo đó, trong giai đọan đầu, tuyến đầu phòng thủ của Trung Quốc không còn từ vùng duyên hải đất liền mà từ các hải đảo. Mặt nam của tuyến phòng thủ này bao gồm tòan thể vùng biển và những hải đảo Ngoài biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Một thời gian sau, khi hải quân Trung Quốc đã đủ mạnh, tuyến phòng thủ sẽ nới rộng ra, bao gồm cả vùng biển quanh Đài Loan, Nhật Bản và Phi Luật Tân.(14) Việc tiến chiếm thêm những đảo Fiery Cross của Việt Nam hay Mischiefs của Phi đều nằm trong kế hoạch bành trướng này.

Từ 1992, nhờ kinh tế khá hơn và có tiếng nói mạnh mẽ trong chính phủ, ngân sách quân đội Việt Nam sau một thời gian bị cắt giảm bắt đầu được gia tăng, khoảng hơn 1 tỷ mỹ kim một năm. Ngân sách này dần dần được tăng lên gấp đôi trong năm 1997. Vì vùng biển Đông là một vùng có triển vọng sẽ có tranh chấp, Việt Nam chú trọng nhiều hơn vào việc hiện đại hóa hải quân và không quân. Đồng thời, năm 1994, Đoàn Khuê kêu gọi chính phủ tăng thêm ngân sách cho Tổng Cục Kinh Tế Quốc Phòng nhằm mục tiêu quân đội có ngày có thể tự túc. Trong tiến trình thay thế và canh tân vũ khí, Việt Nam đã mua võ khí từ nhiều nước khác nhau (Algeria, Anh, Úc, Bulgaria, Pháp, Ấn, Nam Dương, Do Thái, Ý, Nhật, Bắc Hàn, Đại Hàn, Ukraine, Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Mã Lai…).

Lực lượng hải quân của Việt Nam ở miền Bắc mới đầu gồm có những tàu tuần của Nga Xô. Những tàu này cũng như những tàu của hải quân VNCH cũ đã trở nên lỗi thời và không có cơ phận thay thế. Dù được Nga Xô viện trợ, những nhà quan sát nhận định là vào năm 1992, hải quân của Việt Nam không thể ngang tay với đa số các nước trong vùng Đông Nam Á và không cách nào so sánh được với Trung Quốc.

Sau nhiều thăm dò tại Úc, Nam Dương, Mã Lai, cuối cùng, năm 1994, Việt Nam mua được của Nga (sau 1989, Nga Xô, USSR, bị tách ra làm nhiều nước, nước chính là nước Nga, Russia) bốn tuần dương hạm Tarantus loại I và loại II trang bị hỏa tiễn Styx với tầm bắn xa 83 cây số. Sau đó Việt Nam hỏi mua 3 tàu tuần duyên của Đại Hàn. Nga cũng hợp tác với Việt Nam để chế tạo tàu phóng ngư lôi và hộ tống hạm nhỏ ở bến cảng Sài Gòn, sau đó, bán cho Việt Nam vài tàu ngầm Kilo. Việt Nam cũng mua được hai tàu ngầm cũ của Bắc Hàn và đã trả bằng gạo.

Năm 1999, Việt Nam mua thêm của Bắc Hàn một số hỏa tiễn SS1-Scud-B và hỏa tiễn phòng không Igla (SA-16 Gimlet) trị giá khoảng 100 triệu mỹ kim. Năm 2000, hải quân Việt Nam đã đạt một bước dài sau khi ký hiệp ước với Ukraine để Ukraine giúp đỡ canh tân và huấn luyện chuyên viên tại xưởng đóng tàu Ba Son.

Không quân Việt Nam ngoài các máy bay chuyên chở và trực thăng mà tình trạng hoạt động không được biết rõ, lực lượng chiến đấu chính là những máy bay Mig-21 và Su-22. Số máy bay Mig-21 năm 1987 bị hư hỏng dần, đến năm 1999 chỉ còn có 124 chiếc.

Do thói quen, Việt Nam lại dựa vào Nga để mua vũ khí mới. Năm 1994, Việt Nam mua 6 máy bay chiến đấu và oanh tạc Sukhoi Su-27, hai năm sau lại mua thêm 6 chiếc nữa. Những máy bay này có tầm hoạt động là 4000 cây số và có thể bay trên trời 5 giờ liên tiếp.

Năm 2005, Việt Nam có thêm 5 chiếc Su-30 và mua thêm 40 chiếc Su-22 cũ của Ba Lan. Số máy bay Mig-21 còn lại được Ấn Độ và Do Thái canh tân. Có lẽ Việt Nam sợ không dám mua Su-27 của Nga vì một chiếc bị rớt khi tham dự đại hội Air Show ở Tân Gia Ba, một chiếc khác rớt gần Cam Ranh. Riêng Phần Lan, khi canh tân quân đội, những xe tăng T54 và T55 không dùng đến nữa đã bán tống bán tháo cho Việt Nam. (15)

Do sự bất lực trước những hành động lấn áp của Trung Quốc, ngoài việc gia tăng ngân sách quốc phòng, Việt Nam tiếp tục đa phương hóa ngoại giao bằng cách cải thiện mối quan hệ với Hoa Kỳ và các nước ASEAN.

Riêng với Hoa Kỳ, tổng thống Clinton vừa lên cầm quyền nên triển vọng thiết lập quan hệ ngoại giao tốt đẹp hơn. Năm 1992, Clinton đã cho phép ngân hàng thế giới trợ giúp Việt Nam. Nhưng công cuộc thiết lập quan hệ có lẽ bị trở ngại đôi chút khi một thương gia Việt Nam ở Florida, ông Lý Thanh Bình, tố cáo người hùn hạp của ông là Nguyễn Văn Hảo, một viên chức cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa trước kia, đã làm trung gian cho chính quyền cộng sản mưu hối lộ ông Harold Brown, chủ tịch đảng Dân Chủ, sau này làm bộ trưởng bộ thương mại, để ông này nói giúp Clinton bỏ cấm vận. Theo ông Bình, Nguyễn Văn Hảo đã yêu cầu Việt Nam gửi qua ngân hàng Indosuez ở Tân Gia Ba mà một phó chủ tịch là Lê Quang Uyển, bạn ông Hảo, một số tiền 700 ngàn mỹ kim cho ông Brown.(16) Dù lời khai của ông Bình được kiểm chứng qua máy phát hiện nói dối (lie detector), và báo New York Time xác nhận có sự chuyển giao tiền cho ngân hàng Indosuez, ông Brown đã không bị truy tố. Nhưng chuyện này đã khiến tổng thống Clinton phải hoãn lại tiến trình thiết lập bang giao cho tới ngày 3-2-1994, Hoa Kỳ mới tuyên bố bãi bỏ cấm vận, chuẩn bị tái lập quan hệ ngoại giao.

Vì đảng CSVN đã bỏ cơ chế thời Brezhnev cũ là các chức chủ tịch hội đồng nhà nước và chủ tịch hội đồng bộ trưởng mà thay bằng các chức chủ tịch nhà nước và thủ tướng với quyền hạn rộng lớn hơn, ban lãnh đạo Việt Nam được coi như một tam đầu chế của Mười, Anh, Kiệt. Mỗi người có những hậu thuẫn khác nhau, những trách vụ khác nhau. Đỗ Mười với tư cách tổng bí thư được coi là có nhiều quyền lực nhất. Người thứ hai là Lê Đức Anh, tương đối có khuynh hướng bảo thủ nhất, nắm được hậu thuẫn của công an và quân đội. Nhờ kiêm nhiệm luôn chức chủ tịch hội đồng quốc phòng, Lê Đức Anh có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với quốc phòng, nội trị và đối ngoại, nhất là đối với Trung Quốc. Do tư thế đó, giữa năm 1994, Lê Đức Anh đưa được Lê Khả Phiêu, chủ nhiệm tổng cục chính trị quân đội vào bộ Chính Trị trong khi thượng cấp của Lê Khả Phiêu là Đào Đình Luyện, tham mưu trưởng quân đội lại không được vào. Đào đình Luyện là một người nghiêng về đổi mới, sau đó cũng bị Lê Đức Anh cùng Đào Duy Tùng loại khỏi chức vụ. Cùng bị loại với Đào Đình Luyện là một số tư lệnh quân khu. Kể từ đó, Lê Đức Anh trở nên một chủ tịch nhà nước có thế lực mạnh nhất sau khi Hồ Chí Minh chết và thế lực này đã kéo dài nhiều năm sau.

Tuy chỉ đứng hàng thứ ba và đứng đầu phe đổi mới, phe chiếm thiểu số trong bộ Chính Trị, nhưng Võ Văn Kiệt cũng có tư thế mạnh mẽ vì nhờ những biện pháp kinh tế của ông, kinh tế Việt Nam đã bắt đầu tăng trưởng. Ngoài ra ông lại là người miền Nam trong khi Đỗ Mười người miền Bắc và Lê Đức Anh miền Trung.

Ngoài hậu thuẫn của các tỉnh ủy viên miền Nam và các viên chức cao cấp của chính phủ, Võ Văn Kiệt còn được uy tín với những nhà đầu tư ngoại quốc. Vì thế, ông ta được tương đối tự do khi thi hành những biện pháp kinh tế cởi mở. Trong khi đó, Đỗ Mười có nhiều ảnh hưởng trong nội bộ đảng, tuy là người bảo thủ, nhưng vì quyền lợi riêng và để giữ tư thế tổng bí thư, đã không hẳn luôn luôn ủng hộ Lê Đức Anh.

Ba phe này trong suốt những năm từ 1991 đến 1994 bề ngoài đã không có những dấu hiệu chia rẽ hay chỉ trích nhau. Phe bảo thủ không thể không biết đến những thành quả kinh tế phát triển và đó là một yếu tố quan trọng giúp cho chế độ độc đảng của họ có thể tiếp tục tồn tại. Hơn nữa, ngay cả phe quân đội cũng hưởng lợi khi họ cũng có những tổ hợp rất lớn như những công ty xây dựng, cơ khí, hóa chất, hàng không, thông tin, điện tử…để kinh tài nên đã không mạnh mẽ phản đối cởi mở kinh tế.

Nhờ tình hình kinh tế trong vùng đang thịnh vượng và Việt Nam là một vùng thị trường tương đối chưa được khai thác, trong mấy năm đầu của thập niên 1990, kinh tế Việt Nam mỗi năm tăng khoảng 8%.

Kinh tế càng khá hơn, phe đổi mới càng cảm thấy tự tin, càng được rảnh tay nên họ cũng không muốn đụng chạm gì với phe thủ cựu. Tình trạng chịu đựng nhau để hợp tác này của hai phe kéo dài khoảng 3 năm, cho tới năm 1995, khi đảng cộng sản dự trù họp đại hội đảng lần thứ VIII vào cuối tháng 6, 1996, thì cả hai phe bắt đầu huy động lực lượng để tranh giành quyền lực một cách quyết liệt hơn.


CHÚ THÍCH CHƯƠNG IV

______________________________________

(1)— Trích thư Võ Nguyên Giáp gửi trung ương đảng năm 1991.
(2)— Về Đặng Đình Loan, theo cựu đại tá nhà báo Nguyễn Trần Thiết, Loan đã bỏ đảng 20 năm. Nhờ thế lực của Lê Đức Anh, được phục hồi đảng tịch và khuyến dụ được thành ủy Huế mời nói chuyện ngày 20-11-1996 tại khách sạn Thắng Lợi. Trong dịp này, Loan nói người chỉ huy Điện Biên Phủ là Nguyễn Chí Thanh chứ không phải Võ Nguyên Giáp. Ngoài ra Loan còn tố Giáp thân Nga Xô, và là nguyên nhân của những thiệt hại trong trận Mậu Thân. Người cho phép Loan nói chuyện là tỉnh ủy Thừa Thiên tên Vũ Thắng, sau đó mất chức.
(3)— Bà Ngô Bá Thành, tên thật Phạm Thanh Vân, con của thú y sĩ Phạm Văn Huyến, được Tạ Bá Tòng móc nối. Sau khi bị tổng thống Diệm đẩy ra Bắc, ông Huyến sống chật vật trong bóng tối. Ngay sau 1975, ông mới được kêu ra và cho biết bà Thành, con ông sẽ được cho làm chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố HCM. Ông mừng được vài ngày, nhưng chẳng may cho bà Thành (và ông Huyến), chuyện này đã không xảy ra.
(4)— Về kẻ địch “diễn biến hòa bình” của báo Quân Đội Nhân Dân: Có lần, báo QĐND đã lên tiếng cảnh giác những “tây ba lô” (du khách Pháp nghèo nhiều khi sống lưu lạc trên đường phố) có thể là kẻ địch. Lần khác, báo tố cáo những nhà đầu tư đến họp hội nghị hay hội thảo có thể là những nhân viên đế quốc đến điều tra, do thám để phục vụ trong những âm mưu diễn biến hòa bình. (Robert Templer trong Shadows and Wind). Kể từ 1991, dù Trung Quốc vẫn hiển nhiên là mối đe dọa chính cho an ninh lãnh thổ, và dù bộ ngoại giao đã nhiều lần phản kháng những vi phạm lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc, hai tờ báo chính thức là Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân tuyệt không có bài vở hay tin tức nào có thể làm mất lòng Trung Quốc. Những tin về tàu Trung Quốc bắn chết ngư dân Việt Nam chỉ thỉnh thỏang mới được đăng trên những báo ngoại vi.
(5)— Theo tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, đài truyền hình có chiếu lại cảnh Đỗ Mười sang gặp Giang Trạch Dân ở Bắc Kinh. Lúc đó, Đỗ Mười muốn chứng tỏ sự kính ái của mình với những lãnh tụ cộng sản Trung Quốc nên đã xồng xộc chạy lên lễ đài ôm chầm lấy Giang Trạch Dân “ôm hôn thắm thiết”, khiến ông này ngạc nhiên đến sững sờ
(6)— Nhận xét của Lê Khắc: bài Đêm Trước Đổi Mới - (thanhnien online). Nam Tư là nước cộng sản đi theo đường lối độc lập nên bị Nga Xô và Việt Nam trước đó tẩy chay.
(7)— Câu “Tư tưởng Hồ Chí Minh” đặt trong lời mở đầu của hiến pháp Việt Nam 1992 cũng bắt chước như Trung Quốc là “dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc lấy chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Mao Trạch Đông làm chủ đạo...” Mấy năm sau này, cộng sản Trung Quốc thêm vào câu. “...lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng ba đại diện làm chủ đạo”. Tư tưởng ba đại diện là của Giang Trạch Dân, đưa ra trong đại hội đảng năm 2002, theo đó đảng cộng sản là đại diện các lực lượng sản xuất tiến bộ, của nền văn hóa tiến bộ, cho lợi ích của đa số nhân dân Trung Quốc. Vì thế, đảng không những chỉ đại diện cho giai cấp công nhân mà còn đại diện thêm giai cấp trí thức và tư sản yêu nước. Chỉ có điều khác nhau là CSVN chưa viết thêm “… lý luận Đỗ Mười, tư tưởng quan trọng Lê Khả Phiêu” vào mở đầu điều lệ đảng.
(8)— Kinh tế quân đội trích L’armée Vietnamienne, acteur du development economique của Carlyle Thayer và Gerard Hervonet.
(9)— Bị gán tội “xét lại” năm 1963 gồm Hoàng Minh Chính, từng là viện trưởng viện triết học, tướng Đặng Kim Giang, phó chủ nhiệm tổng cục hậu cần, Vũ Đình Huỳnh, vụ trưởng vụ lễ tân, Trần Minh Việt, phó bí thư thành ủy Hà Nội, các đại tá Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng quân báo, Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng bộ quốc phòng, Đỗ Đức Kiên, cục trưởng cục tác chiến, Hoàng Thế Dũng, phó tổng biên tập báo QĐND…, các nhà văn, nhà báo như Vũ Thư Hiên, phó tổng biên tập tạp chí Học Tập Phạm Kỳ Vân, Nguyễn Kiến Giang, Trần Thư, Phạm Viết, Phùng Văn Mỹ, Nguyễn Cận, Mai Lâm, Mai Hiến, Minh Tranh, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan (giáo sư Anh ngữ, vợ nhà báo Phạm Viết), trung tá công an Bùi Hồng Sĩ (được nhắc đến trong Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn)….Tất cả đều bị tù nhiều năm. Một số khác như Lê Liêm (cựu thứ trưởng), Ung Văn Khiêm (cựu bộ trưởng ngoại giao), Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Vịnh…không bị bắt nhưng bị khai trừ khỏi đảng. Nguyễn Minh Cần, phó chủ tịch ủy ban nhân dân Hà Nội cùng đại tá Lê Vinh Quốc, phó chính ủy quân khu III, thượng tá Đỗ Văn Doãn, tổng biên tập báo QĐND phải ở lại Nga.
(10)— Lê Hồng Hà là con rể học giả Dương Quảng Hàm.
(11)— Thư của Phùng Văn Mỹ gửi Nguyễn Trung Thành (trong Tử Tù Tự Xử Lý của Trần Thư). Cuối thư ông còn viết: “Trong cái mất, chúng tôi thấy cái được và cái được lớn nhất, vô giá, đó là sự giải thoát. Vì thế quả là bất công nếu có ai đó thương hại chúng tôi. Tự do ở thời nào cũng quí, nhưng thứ tự do có được bằng sự đổi chác hay áp đặt thì không đáng giá một xu. Chỉ có sự tự tại mới là thứ tự do mang tính tuyệt đối”.
(12)— Lược dịch lá thư:
Cùng em xa cách
Thấm thoắt hơn năm
Nhớ mãi tình thâm
Chẳng nói đã rõ
Nhờ người nối cánh
Giấy vắn ghi nhanh
Chị em an tâm
Anh hằng mong ước
Nguyện cầu nhạc mẫu vạn phúc.

Bài viết của ký giả Kiến Phước, chồng Kim Hạnh, đại diện báo Nhân Dân tại TP.HCM..Tuy nhiên, không ai biết Hồ Chí Minh cầu Phật hay cầu chúa.

Không thua kém lãnh tụ, Lê Duẩn cũng làm thơ nhớ bà vợ thứ ba Thụy Nga, trong đó có những câu:
Hôm nay trời tạnh mây quang.
Gió xuân đầm ấm mùi hương đậm đà.
Tự tình ta lại với ta.
Say sưa bao xiết là ta với mình.

(Báo Tiền Phong ngày 25-6-2006).

Xem ra Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ướt át và mùi mẫn hơn Trường Chinh (thi sĩ Sóng Hồng) với những câu thơ sắt máu như: “Sắt chạm sắt, tóe lửa. Tiếng chạm tiếng, đinh tai”. Bài thơ này được Chế Lan Viên khen nức nở.
(13)— Những phản đối về việc lấn đất này không được đề cập tới trong bài phỏng vấn “tự hỏi tự đáp” (vừa đá bóng vừa thổi còi) của Lê Công Phụng khi trả lời những chỉ trích nhượng bộ đất đai.
(14)— Xin xem phần phụ lục Ảnh Hưởng Trung Quốc và Chính Sách Đối Ngọai Của Việt Nam.
(15)— Canh tân quân đội Việt Nam: Vietnamese Perceptions of China Threat của Carlyle Thayer.
(16)— Tài liệu về Nguyễn Văn Hảo và Brown: National Review của David Butler ngày 23-3-2004 và Jack Cashill trong Worldnet Daily posted ngày 30-4-2004.

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...