CHƯƠNG V
SAU ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ VIII (1996-2001)
Năm năm trước, năm 1991, đại hội lần thứ VII của đảng CSVN đã diễn ra trong hoàn cảnh đổ vỡ tan nát của đế quốc cộng sản Nga Xô. Do bị mất phương hướng và khủng hoảng ý thức hệ, đại hội đó đã bầu ra một ban lãnh đạo tam đầu chế gồm Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt để dò dẫm đi tìm một “định hướng xã hội chủ nghĩa” mới.
Vì mục tiêu của những đảng viên, nhất là những cấp ủy trở lên là muốn giữ đặc quyền đặc lợi của họ, trong khi nhờ đổi mới, đời sống người dân và kinh tế quốc gia có tiến bộ rõ rệt nên một mặt, chính quyền cộng sản gần như bỏ rơi giáo điều phát triển kinh tế của Mác mà theo đuổi kinh tế thị trường, mặt khác, họ vẫn giữ những chính sách căn bản của Lênin và Stalin để nắm vững nền độc tài chuyên chế. Tuy nhiên, trong nội bộ đảng đã có những khuynh hướng khác nhau. Khuynh hướng bảo thủ muốn tăng cường sự lãnh đạo của đảng trên mọi lãnh vực, và về kinh tế, muốn dồn nỗ lực để phát triển trở lại nền kinh tế quốc doanh, cho nên luôn luôn tìm cách kềm hãm những biện pháp đổi mới. Trong khi đó, phe đổi mới muốn tăng cường quyền lực cho chính phủ và quốc hội, phát triển thêm mặt kinh tế tư doanh để không phải tài trợ mãi cho những xí nghiệp nhà nước luôn luôn kinh doanh lỗ lã.
Bốn năm sau đại hội VII, gần đến ngày đại hội VIII là thời gian mà đảng cộng sản sửa soạn bầu ra một số nhân sự lãnh đạo và phác họa một đường hướng mới cho năm năm kế tiếp thì sự phân hóa và tranh chấp quyền lực trong bộ Chính Trị càng trở nên trầm trọng.
Các phần tử bảo thủ trong bộ Chính Trị, gồm Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan… lúc đó đang nắm hầu hết những ngành quan trọng trong đảng và chính phủ như quốc phòng, công an, thông tin, báo chí đã cố gắng ngăn chặn, kềm hãm những đường lối và hoạt động có hại cho ưu quyền của họ.
Về thông tin, họ giới hạn hơn nữa quyền tự do báo chí và bắt đầu một đợt bắt giam những người chống đối. Càng đến ngày đại hội đảng để bầu bộ Chính Trị mới (lần thứ VIII vào cuối tháng 6-1996), phe bảo thủ càng ra sức đàn áp để lấy lòng các đảng viên cao cấp hiện đang nắm trong tay những cơ quan, đơn vị… có nhiều quyền lực hay tiền bạc.
Tháng giêng 1995, công an lại bắt giữ hoà thượng Quảng Độ và xử 5 năm tù về tội “phá hoại chính sách nhà nước”. Hòa thượng Huyền Quang cũng bị quản thúc tại gia. Những hòa thượng chùa Viên Giác, Hội An (Thích Trí Lục), chùa Thiên Mụ (Thích Không Tánh), chùa Liên Trì cũng bị bắt. Năm 1996, lấy cớ chùa Thiên Mụ là địa điểm lịch sử, chính quyền đuổi hai tu sĩ Thích Hải Thịnh và Thích Hải Chánh ra khỏi chùa. Trước sự đàn áp trắng trợn này, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng phải lên tiếng can thiệp vào tháng 1-1996. Sau đó, ông Hoàng Minh Chính, một người đã ở tù nhiều năm về tội “xét lại” cũng bị bắt và bị xử mười hai tháng tù. Ông Đỗ Trung Hiếu, một đồng chí của Nguyễn Hộ trong Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ bị mười lăm tháng tù. Tháng sau, sau khi theo dõi, công an bắt thêm các ông Hà Sĩ Phu, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang về tội có được bản sao dự thảo báo cáo “Tối Mật” của Võ Văn Kiệt gửi cho trung ương đảng. Ba tháng sau, ông Hà Sĩ Phu bị kết án một năm tù, ông Lê Hồng Hà 4 năm tù, và ông Nguyễn Kiến Giang 15 tháng tù, dù trước tòa án, chánh án Nguyễn Sơn và công tố viên Phùng Tiến Lập không cho phép tiết lộ nội dung bức thư và không trả lời được tại sao một lá thư riêng của Võ Văn Kiệt lại là “tối mật quốc gia”.
Bản dự thảo báo cáo chính trị “Tối Mật” nêu trên được Võ Văn Kiệt viết vào tháng 8-1995 gửi cho những ủy viên bộ Chính Trị nhằm tranh thủ sự ủng hộ của họ trước khi đại hội đảng khai diễn. Bản dự thảo vẫn công nhận sự độc tôn của đảng cộng sản nhưng có những nhận xét và đề nghị tương đối tiến bộ và táo bạo, đại cương gồm những điểm như sau:
- Yếu tố quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia không còn là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc nữa mà đa diện, đa cực. Quyền lợi mỗi quốc gia, mỗi vùng, trở nên quan trọng hơn trước. Để đối phó với hoàn cảnh mới, Việt Nam phải cải tổ lại mối bang giao quốc tế.
- Bốn quốc gia cộng sản còn lại (Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba) phải đặt quan hệ trên nền tảng quyền lợi quốc gia chứ không trên nền tảng xã hội chủ nghĩa và mỗi nước phải theo con đường phát triển riêng. Triển vọng về sự vùng dậy của phong trào cộng sản và giai cấp công nhân rất thấp, không còn cơ hội phục hồi.
- Quan niệm kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo là một tiêu chí cho định hướng xã hội chủ nghĩa là không đúng. Kinh tế quốc doanh chỉ là một trong những yếu tố quan trọng, không nên đặt vấn đề ưu tiên cho kinh tế quốc doanh. Một minh chứng là trong những năm trước khi có đổi mới, kinh tế quốc doanh đã không thể động viên hết tài nguyên hay tạo ra công việc một cách hữu hiệu và hiện nay, năng suất lao động và mức độ hữu hiệu của kinh tế quốc doanh rất thấp so với các thành phần kinh tế khác.
- Không thể đổ lỗi cho kinh tế thị trường về các hiện tượng tiêu cực như tham nhũng, phí phạm, ăn cắp của công…vì những đơn vị quốc doanh cũng có hành vi làm ăn trái luật pháp. Những phương tiện giao thông vận tải của quốc doanh, trong đó có cả những cơ sở kinh doanh của quân đội, cũng tham gia buôn lậu.
- Phải tạo một môi trường kinh tế xã hội thông suốt, minh bạch để người dân có thể yên tâm làm ăn. Đầu tư và kinh doanh ngoại quốc đã đánh giá cao tiềm năng và sự ổn định chính trị của Việt Nam, nhưng e ngại về môi trường làm ăn.
- Việt Nam phải không ngần ngại học hỏi cách quản lý của các nước tư bản, đặc biệt là cách kiểm soát ngân quĩ, hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán.
Về phương diện chính trị, Võ Văn Kiệt vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng CSVN, nhưng muốn tăng cường quyền lực của chính phủ:
- Chức năng giữa đảng và nhà nước cần phân định rõ ràng hơn. Phải bỏ cơ chế chính ủy, quyền lực quyết định tại chỗ, sắp xếp theo yêu cầu chính trị, bộ máy đảng song trùng và nhiều khi đứng trên hoặc làm thay bộ máy chính quyền. Đảng phải ngưng việc đưa chỉ thị qua các bí thư đảng ủy mà phải đưa qua hệ thống chính phủ để cho viên chức chánh phủ lãnh nhiệm vụ thi hành.
- Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường quyền lực và khả năng hoạt động của các cơ quan dân cử như quốc hội, hội đồng nhân dân. Cả nước chỉ có một cơ quan duy nhất có tính năng và quyền lực lập pháp là quốc hội.
Cuối cùng, Võ Văn Kiệt kết luận là trong thời gian hiện tại, đảng nên chú tâm vào việc phát triển quốc gia và tạm thời quên đi việc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo báo cáo của Võ Văn Kiệt chỉ được những chuyên viên, những viên chức hành chánh và một số đảng viên cấp tiến hoan nghênh, nhưng đa số đảng viên đều theo về phe bảo thủ đã chống lại, nhất là những đảng viên trong quân đội, công an và thông tin văn hóa, đứng đầu là Đỗ Mười và Lê Đức Anh.
Trong khi Lê Đức Anh luôn qui lỗi gây ra tệ đoan xã hội cho những biện pháp đổi mới và cảnh cáo về âm mưu “diễn biến hòa bình” thì Đỗ Mười đi khắp nơi, gián tiếp chỉ trích những đề nghị của Võ Văn Kiệt.
Ngày 7-5-1996, trong cuộc họp đảng tại Hà Nội, Đỗ Mười kêu gọi khu vực quốc doanh nên tiếp tục phát triển để nắm vai trò lãnh đạo trong việc sản xuất, phát huy kỹ thuật và mở rộng thị trường… Hôm sau, tại Sài Gòn ông ca ngợi sự phát triển kinh tế nhanh chóng của thành phố nhờ những xí nghiệp tư nhưng cũng bày tỏ lo ngại là cạnh tranh nước ngoài có thể khiến kinh tế quốc gia thành “một thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ngoài và thành một nguồn cung cấp nguyên liệu thô”. Ngoài ra, ông còn nói khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa có thể kiểm soát, khiến gây ra tệ trạng tham nhũng, buôn lậu…, tạo điều kiện thuận lợi cho những âm mưu diễn biến hòa bình gồm có âm mưu gây bất ổn chính trị, phá hoại kinh tế, làm ô nhiễm văn hóa ngõ hầu sẽ lật đổ chính quyền cách mạng. Đỗ Mười không quên chỉ thị công an TP.HCM phải sẵn sàng đập tan mầm mống phản động kể cả việc đàn áp những đồng chí cũ như Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn.
Nguyễn Văn Trấn từng ở trong ban bí thư trung ương đảng trước 1975. Sau khi viết cuốn Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội, ông thường xuyên bị theo dõi, khiêu khích và đe dọa. Còn Nguyễn Hộ, gần đến ngày đại hội đảng, đã viết thư cho các đại biểu khắp nơi kêu gọi ủng hộ những đề nghị cải cách trong bản dự thảo của Võ Văn Kiệt. Sợ bắt giữ ông trong thời gian đại hội có thể gây náo loạn, công an chỉ bắt đầu cô lập ông sau ngày đại hội. Đường dây điện thoại bị cắt, những người đến thăm bị tra hỏi hay bắt giữ (trong số những người đến thăm ông có nhà thơ Phùng Quán, khi về, ông bị bắt về tội phê bình đảng nhưng sau đó được thả ra. Phùng Quán đã viết thư đòi phải đưa ông ra tòa).
Để tăng thêm uy thế, cuối tháng 5, Đỗ Mười áp lực để học viện chính trị Hồ Chí Minh trao tặng huy chương Sao Vàng cho ông ta. Đồng thời để giảm uy tín của Võ Văn Kiệt, hai cán bộ lãnh đạo công an là Lê Minh Hương và Nguyễn Đình Hướng bắt giữ những ông Hà Sĩ Phu, Nguyễn Trung Thành, Lê Hồng Hà…tố cáo họ hoạt động cho âm mưu “diễn biến hòa bình”
Nhìn chung, tình hình trước ngày đại hội đảng có vẻ bất lợi cho Võ Văn Kiệt và phe cấp tiến. Trong hội nghị trung ương đảng năm 1994, số đảng viên được đề cử để trở nên ủy viên trung ương đảng phần lớn được tuyển lựa từ các địa hạt thuần túy chính trị hay từ các xí nghiệp quốc doanh nhiều hơn. Hội nghị này còn bầu thêm bốn người vào bộ Chính Trị, gồm Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Hà Phan và Đỗ Quang Thắng (đang là bí thư tỉnh ủy tỉnh Quảng Ngãi). Trong số những ủy viên bộ Chính Trị, số ủy viên cấp tiến chiếm thiểu số vì khối quân đội và công an (gồm 6 người) luôn luôn đứng về phe bảo thủ. Số còn lại thường e dè và cũng hay nghiêng về phe bảo thủ, chẳng hạn như Lê Xuân Tùng, một phụ tá của Nguyễn Văn Linh trước kia, sau là bí thư thành ủy Hà Nội, đã gián tiếp chỉ trích Võ Văn Kiệt đi sai đường lối xã hội chủ nghĩa. Ngay cả Nguyễn Văn Linh cũng tỏ ý hối tiếc về một số biện pháp đổi mới mà ông ta đã đưa ra.(1)
Thấy xu hướng bảo thủ trên đà thắng thế và bộ ba Đỗ Mười (79 tuổi), Lê Đức Anh (76 tuổi), Võ Văn Kiệt (74 tuổi) chắc sẽ phải về hưu, Đào Duy Tùng mưu toan cùng Nguyễn Hà Phan (năm 1994 vào bộ Chính Trị, được cử làm trưởng ban kinh tế của đảng) tranh chức tổng bí thư và thủ tướng trong đại hội đảng sắp tổ chức vào tháng 6-1996. Nguyễn Hà Phan cũng là người từng chỉ trích và xách động loại trừ Trần Xuân Bách khỏi trung ương đảng mấy năm trước. Để lấy lòng phe bảo thủ, ngày 1-4-1996, Đào Duy Tùng, ra một chỉ thị cho các cấp nhằm đàn áp báo chí. Chỉ thị này cảnh báo có “những thế lực thù nghịch” đang cấu kết để phá hoại chế độ nên các cấp chính quyền phải tăng cường kiểm soát báo chí và nghiêm trị mọi lỗi lầm sai phạm. Đối với báo chí nước ngoài, Đào Duy Tùng chỉ thị cho bộ ngoại giao, bộ thông tin văn hóa phải theo dõi nghiêm nhặt và “pháp luật cần áp dụng chặt chẽ đối với những nhà báo nước ngoài loan tin tức xuyên tạc đường lối và chính sách của Đảng”. Chỉ thị cũng ra lệnh cho bộ ngoại giao, bộ thông tin văn hóa, bộ khoa học kỹ thuật, nha bưu điện, bộ công an — trong đó có cục A25 phụ trách kiểm soát báo chí, cục A42 bảo vệ chính trị — theo dõi kiểm soát điện thoại, điện thư … Đồng thời, trước ngày đại hội, bộ trưởng thông tin văn hóa Trần Hoàn thông báo bắt buộc các phóng viên phải học tập về chính sách của đảng. Tất cả cơ quan truyền thông phải học tập để thông suốt hết về “định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ký giả Adam Schwarz, báo Viễn Đông Kinh Tế — Far Eastern Economic Review bị trục xuất. Là người làm việc lâu năm ở Việt Nam, Schwarz nhận xét là trong chính sách của CSVN, có tương quan nghịch giữa cởi mở kinh tế và cởi mở chính trị. Ông ta viết: “Những nhà phân tích nhận thấy mỗi khi có một biện pháp cởi mở quan trọng về kinh tế, thế nào cũng kèm theo một biện pháp thắt chặt sự kiểm soát về an ninh”.
Ngoài ra, để làm nản lòng những nhà đầu tư ngoại quốc và làm mất mặt phe đổi mới, công an (thuộc phe Đào Duy Tùng) trước ngày đại hội đảng đã cho đóng cửa các quán karaoke và gỡ bỏ các bảng quảng cáo thương mại có chữ ngoại quốc như Coca Cola, Daewoo, Sony.... Đảng ra lệnh chính phủ ngưng cấp tất cả visa nhập cảnh vào Việt Nam trong thời gian đại hội đảng nhằm gây khó khăn cho những công ty nước ngoài có chi nhánh ở Việt Nam. Người ngoại quốc di chuyển trong quốc nội bị gây rắc rối ở phi trường. Việt kiều về nước làm ăn bị làm khó dễ — điển hình là Nguyễn Trung Trực hãng Peregrine. Một qui định kiểm soát chặt chẽ những điện thư được ban hành. Hai nhật báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân mỗi tuần đăng ít nhất ba bài bình luận kêu gọi cảnh giác với người nước ngoài.
Đồng thời, Đào Duy Tùng phổ biến bản dự thảo báo cáo của Võ Văn Kiệt gửi bộ Chính Trị cho các ủy viên trung ương đảng. Do nỗi lo ngại bị mất quyền lợi và địa vị, đa số ủy viên trung ương đã đồng ý đề cử Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan (trưởng ban kinh tế đảng) và Phan Văn Tiệm (trưởng ban vận động đổi mới xí nghiệp quốc doanh) được viết bản báo cáo chính trị cho đại hội — tài liệu quan trọng mà đại hội đảng sẽ dựa theo để quyết định hướng cai trị suốt năm năm sau đó.
Bản dự thảo này nghiêng nhiều về định hướng xã hội chủ nghĩa, dành ưu tiên cho việc phát triển xí nghiệp quốc doanh, đặt chỉ tiêu cho xí nghiệp quốc doanh phải chiếm 60% kinh tế cả nước. Không có một điều gì trong dự thảo cải cách của Võ Văn Kiệt được nhắc đến.
Bản dự thảo báo cáo chính trị được sửa đi sửa lại 3 lần. Trong bản thảo hai lần đầu, về kinh tế cũng như ngoại giao, tuyệt đối không đề cập đến việc gia nhập khối ASEAN, một biến cố quan trọng đã giúp cho Việt Nam phát triển kinh tế mau chóng và thoát khỏi tình trạng bế tắc ngoại giao. Chuyện này chỉ được nhắc đến một cách sơ lược sau khi các đại sứ của ASEAN đọc được bản thảo thứ hai và đã phản đối.
Về nhân sự, Đào Duy Tùng đã cùng Lê Đức Anh loại tướng Đào Đình Luyện ra khỏi chức tham mưu trưởng quân đội cùng với một số tư lệnh quân khu. Đào Đình Luyện được coi là người ủng hộ Võ Văn Kiệt và là một trở ngại cho Lê Đức Anh khi Lê Đức Anh muốn thao túng hết những ủy viên trung ương trong quân đội. Phạm Văn Trà, tư lệnh quân khu III, từng phục vụ dưới quyền Lê Đức Anh, được cử lên thay Đào Đình Luyện.
Đào Duy Tùng cũng nhân dịp này tìm cách nâng đỡ cho con là Đào Duy Quát đang làm phó viện trưởng Viện Nghiên Cứu chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh vào trung ương đảng. Vì chỉ viện trưởng mới có thể được cử vào trung ương nên năm 1996, Đào Duy Quát đã mưu toan dựa vào thế lực của cha để lật đổ viện trưởng là Đặng Xuân Kỳ (con Trường Chinh), bằng cách dùng Trần Đình Nghiêm tố cáo là trong một buổi hội thảo tại viện, có hai diễn giả nói chuyện không đúng đường lối và chống lại chủ trương của Đỗ Mười. Dù có sự tiếp tay của Đỗ Mười, mưu toan này bị thất bại.
Gần đến ngày đại hội, Võ Văn Kiệt càng yếu thế hơn khi một cộng sự viên là thứ trưởng bộ Ngoại giao Lê Mai, người có công trong việc thiết lập bang giao với Hoa Kỳ và ASEAN, qua đời vì bệnh tim. Trước đại hội, đã có dàn xếp cho Lê Mai vào bộ Chính Trị để thay Nguyễn Mạnh Cầm trong chức vụ ngoại trưởng và Nguyễn Mạnh Cầm sẽ lên làm chủ tịch nhà nước thay Lê Đức Anh. Tuy Lê Mai được tiếng là cấp tiến nhưng trong buổi họp báo về việc sắp thiết lập ngoại giao với Hoa Kỳ, một ký giả trong nước hỏi “từ nay những tin về Hoa Kỳ có cần phải đệ trình để xét duyệt nữa không”, ký giả này đã bị khiển trách vì gián tiếp cho ký giả nước ngoài thấy tình trạng báo chí bị kiểm duyệt ở Việt Nam.
Tuy nhiên, nhờ tình trạng kinh tế Việt Nam trong thời gian từ 1991 đến 1996 cải thiện rõ rệt (tổng sản lượng quốc gia tăng trên dưới 8% mỗi năm) và sau khi thiết lập ngoại giao với Hoa kỳ và ASEAN, địa vị Việt Nam trên thế giới được củng cố cho nên phe đổi mới trước sự tấn công của phe Đào Duy Tùng vẫn không yếu thế lắm. Võ Văn Kiệt phản ứng lại bằng cách ra lệnh phá bỏ những nhà cửa, biệt thự mà các tướng lãnh quân đội và cán bộ cao cấp xây dựng trái phép trên đất công dọc theo đê Yên Phụ tại Hà Nội. Vào dịp ngày đầu năm, không sợ bị chỉ trích, ông ta ngang nhiên đến nhà tù thăm Vũ Ngọc Hải, một cựu bộ trưởng của ông đang ở tù vì tham nhũng trong công tác xây đường dây điện cao thế Bắc Nam.
Nhưng ngón đòn lợi hại nhất của phe Võ Văn Kiệt là cách đối phó với Nguyễn Hà Phan. Lúc đó, gần đến ngày đại hội, Đào Duy Tùng và Nguyễn Hà Phan chủ quan tin rằng sắp nắm chắc được chức tổng bí thư và ghế thủ tướng nên tỏ ra rất tự kiêu, gây bất mãn cho nhiều ủy viên trung ương đảng. Ngoài ra, việc loại bỏ tướng Đào Đình Luyện cũng gây phản ứng trái ngược trong quân đội.
Phe Võ Văn Kiệt, đa số là đại biểu miền Nam, đưa bằng chứng Nguyễn Hà Phan đã bán đứng đồng chí khi bị cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa bắt trong những năm 1960. Nguyễn Hà Phan sau đó bị loại khỏi trung ương đảng và bị quản thúc.(2) Còn Đào Duy Tùng khi ra tranh chức tổng bí thư chỉ được 10% số phiếu. Ít ngày sau, ông ta bị xuất huyết mạch máu não và qua đời. Con trai của ông là Đào Duy Quát đang làm viện phó viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê sau khi không lật được viện trưởng phải đổi sang làm phó ban tư tưởng văn hóa của đảng. Mấy năm sau, tại đại hội IX, Đào Duy Quát nhờ Lê Đức Anh và Lê Khả Phiêu giới thiệu ứng cử để làm ủy viên trung ương đảng nhưng vẫn không được.
Đại hội đảng lần thứ VIII của CSVN sau nhiều ngày chuẩn bị đã khai diễn từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996 tại Hà Nội. Đại hội gồm có 1198 đại biểu, trong đó số đại biểu quân đội tăng lên 13% (kỳ đại hội trước chỉ có 8%).
Trong số quan khách ngoại quốc có Lý Bằng, thủ tướng của Trung Quốc. Lý Bằng, từng là bí thư thành ủy Thuợng Hải là một người tương đối bảo thủ của đảng cộng sản Trung Quốc. Sự hiện diện của Lý Bằng, người coi như chủ chốt trong vụ đàn áp sinh viên ở Thiên An Môn như để nhắc nhở cho những đại biểu của đảng CSVN về sự quan trọng của ý thức hệ và hậu thuẫn cần thiết của Trung Quốc để có thể tiếp tục chế độ độc tài độc đảng. Trong ngày đại hội, tất cả lãnh tụ CSVN đều đã đến chào và công khai “ôm hôn thắm thiết” Lý Bằng. Tuy nhiên, trong đại hội, bản báo cáo chính trị của đại hội thiên về bảo thủ (như tăng cường hệ thống kinh tế quốc doanh lên 60% kinh tế cả nước) do phe Đào Duy Tùng soạn thảo đã được sửa lại, cắt xén và dung hòa để mục tiêu của chính quyền vẫn là phát triển kinh tế (qua kinh tế thị trường) song song với sự tăng cường an ninh và quốc phòng (bằng cách đàn áp chống đối, siết chặt những quyền tự do căn bản). Sau đó đại hội bỏ phiếu chấp thuận 170 ủy viên trung ương và 19 ủy viên Bộ Chính Trị gồm có:
1- Đỗ Mười, tiếp tục làm Tổng Bí Thư.
2- Lê Đức Anh, chủ tịch Nhà Nước.
3- Võ Văn Kiệt, thủ tướng.
4- Nông Đức Mạnh, chủ tịch Quốc Hội.
5- Lê Khả Phiêu, kiêm ban thường vụ bộ Chính Trị.
6- Đoàn Khuê, bộ trưởng Quốc Phòng, một năm sau bị mất chức.
7- Phan Văn Khải, Phó Thủ Tướng.
8- Nguyễn Mạnh Cầm, kiêm Ngoại Trưởng.
9- Nguyễn Đức Bình, giám đốc Học Viện Chính Trị Hồ Chí Minh.
10- Nguyễn Văn An, trưởng ban Tổ Chức Trung Ương Đảng.
11- Phạm Văn Trà, tham mưu trưởng quân đội .
12- Lê Minh Hương, bộ trưởng Nội vụ.
13- Nguyễn Thị Xuân Mỹ, ban kiểm soát Trung Ương Đảng.
14- Trương Tấn Sang, bí thư thành ủy TP.HCM.
15- Nguyễn Xuân Tùng, bí thư thành ủy Hà Nội (từng làm chánh văn phòng cho Nguyễn Văn Linh).
16- Trần Đức Lương, phó thủ tướng.
17- Nguyễn Đình Tứ, (đã chết).
18- Phạm Thế Duyệt, ban tuyên vận đảng.
19- Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng.
Vì sự tranh chấp trong nội bộ đảng vẫn không thể được giải quyết nên đại hội đảng lần thứ VIII đã phải giữ nguyên ban lãnh đạo của Mười, Anh, Kiệt để chờ cho những hội nghị trung ương đảng về sau giải quyết.
Tại đại hội đảng lần này, đặc biệt trong danh sách 19 ủy viên bộ Chính Trị được bầu có Nguyễn Đình Tứ, một nhà khoa học, nhưng người này sau khi được lựa chọn trong hội nghị trung ương đảng mấy ngày trước đại hội thì ngã bệnh chết. Đại hội đảng vì chỉ có quyền thi hành lệnh của trung ương đảng để biểu quyết nên đã không dám gạt bỏ tên ông ra khỏi danh sách và vẫn giơ tay nhất trí bầu một người không còn sống. Ngoài việc bầu cử bộ Chính Trị, đại hội đảng lần thứ VIII cũng giải tán ban bí thư trung ương đảng, một cơ quan chuyên về vấn đề điều hành nội bộ đảng. Thay vào đó là một ban thường vụ bộ Chính Trị gồm có năm ủy viên là Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng.
Nếu đại hội đảng năm 1982 học theo Nga Xô để tổ chức Hội Đồng Nhà Nước và Hội Đồng Bộ Trưởng thì lần này, ban thường vụ bộ Chính Trị là một khuôn mẫu học theo cộng sản Trung Quốc. Năm người trong ban thường vụ gồm bộ ba đầu não của bộ Chính Trị và hai người do họ lựa chọn. Lê Khả Phiêu được chọn là do sự nâng đỡ của Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Để quân bình, Võ Văn Kiệt đòi hỏi phải để Nguyễn Tấn Dũng, một ủy viên đứng thứ 19 trong 19 người (kể cả Nguyễn Đình Tứ) được vào ban thường vụ.
Sự thành lập ban thường vụ rập khuôn theo cách tổ chức đảng của Trung Quốc là do ý kiến của Đỗ Mười và Lê Đức Anh, lấy cớ sẽ làm việc “hữu hiệu” hơn nhưng thực tế chỉ nhắm gom quyền lực của bộ Chính Trị vào 5 người.
Người đứng lên phản đối cách tổ chức này là Trần Trọng Tân, trưởng ban tư tưởng và văn hóa của đảng. Là một đảng viên bảo thủ quan trọng, sau khi không được đề cử vào bộ Chính Trị, Trần Trọng Tân lại mất luôn hy vọng được bầu vào một cơ quan quyền lực khác là ban bí thư. Các đại diện vỗ tay hưởng ứng lời phản đối của Trần Trọng Tân, nhưng Lê Đức Anh, với tư cách chủ tịch đại hội, tìm cách hoãn binh bằng hứa hẹn sẽ cứu xét lại sự phản đối của Trần Trọng Tân, sau đó để cho lời hứa này chìm vào quên lãng. Nhóm cầm quyền vẫn tiếp tục giữ ban thường vụ và Lê Khả Phiêu củng cố thêm quyền hành bằng cách gạt Nguyễn Tấn Dũng ra ngoài nhưng trung ương đảng sau đó đã phản ứng bằng cách chỉ cho ban thường vụ quyền cố vấn cho bộ Chính Trị.
So với bộ Chính Trị năm 1991, những ủy viên bị loại ra gồm Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Đỗ Quang Thắng, Lê Phước Thọ, Vũ Oanh, Bùi Thiện Ngộ và Võ Trần Chí. Do sự phân chia quyền lực chưa ngã ngũ, bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt không ai muốn từ chức trước, sợ rằng người thay thế mình sẽ bị phe đối thủ chèn ép. Vì không có sự nhất trí trong trung ương đảng, cả ba đều được tạm thời giữ lại.
Theo Đoàn Duy Thành, cựu bí thư tỉnh ủy Hải Phòng, trước ngày đại hội đảng đã có hội nghị trung ương đảng thứ 11 (khóa VII), các ủy viên trung ương đã ra nghị quyết để đại hội đảng sẽ thay đổi hầu hết ủy viên bộ Chính Trị, nhưng sau đó Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh cùng Đỗ Mười cấp tốc triệu tập hội nghị trung ương thứ 11-B, vận động để hội nghị này đưa ra một nghị quyết khác, giữ lại tất cả ủy viên bộ Chính Trị, nhưng có ba ủy viên từ chối không ở lại là Vũ Oanh, Lê Phước Thọ và Bùi Thiện Ngộ. Trong số ủy viên mới, Phạm Văn Trà được lên chức tham mưu trưởng quân đội rồi thăng ủy viên bộ Chính Trị nhờ hậu thuẫn của Lê Đức Anh. Phạm Văn Trà từng là trung đoàn trưởng dưới quyền Lê Đức Anh trước 1975.
Số ủy viên trung ương đảng được bầu trong đại hội 8 là 170 người (nhiều hơn đại hội trước 36 người), gồm 68 viên chức chính phủ (bộ trưởng, thứ trưởng, tổng giám đốc các công ty quốc doanh), 7 viện trưởng đại học, 48 đảng ủy cao cấp, 31 người vừa là đảng ủy vừa là cán bộ hành chánh (như tỉnh ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân), 16 sĩ quan cao cấp (chủ nhiệm tổng cục, tư lệnh hay chính ủy quân khu, binh chủng)…
Tình trạng dằng dai của bộ ba cầm quyền Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt có thể còn kéo dài, nếu Lê Đức Anh không bị xuất huyết mạch máu não tháng 11-1996.
Khi Lê Đức Anh phải vào bệnh viện, Võ Văn Kiệt ở bên ngoài chẳng những đã không nói lời chúc chóng lành bệnh mà còn tuyên bố nếu Lê Đức Anh phải nằm bệnh viện lâu, trung ương đảng sẽ cần bầu một chủ tịch mới vì “một nước không thể nào không có chủ tịch”.
Cùng lúc đó, phe Võ Văn Kiệt ngầm tố cáo những hành động sai trái của Lê Đức Anh khi ở Campuchia và thái độ hành hạ công nhân khi làm cai phu đồn điền cao su trong những năm 1940. Vì thế, dù đã lớn tuổi và sau khi ngã bệnh bị yếu đi nửa người, Lê Đức Anh không chịu về hưu mà chờ tới tháng 9-1997 mới dàn xếp để cùng đối thủ là Võ Văn Kiệt từ chức cùng một lúc, nhường chỗ cho Trần Đức Lương và Phan Văn Khải.
Dù được tiếng là người của phe đổi mới, chính Võ Văn Kiệt đã ký “Chỉ thị về quản chế hành chánh” (sắc luật 31/CP) ngày 14-4-1997 “áp dụng cho những phần tử vi phạm luật lệ, phá hoại an ninh quốc gia, nhưng không trầm trọng lắm để có thể đưa ra tòa xử như một trọng tội”. Chỉ thị này nhằm hợp pháp hóa việc bắt giữ những tiếng nói đối lập, gán họ vào thành phần của “những thế lực thù nghịch phát động diễn biến hòa bình”, cho phép các cơ quan hành chánh hay công an địa phương có quyền bắt và giam giữ bất cứ người nào trong vòng từ sáu tháng đến hai năm mà không cần phải đưa ra xét xử, không cho bị cáo cơ hội biện hộ.
Ngoài ra, do đề nghị của Lê Đức Anh và Đoàn Khuê, Võ Văn Kiệt đã ký sắc luật 96/CP nâng cục quân báo C2 lên thành cấp tổng cục, khiến quyền hành của tổng cục 2 này lớn hơn quyền hạn của công an, tăng cường hơn nữa sự kiểm soát nhân dân.
Điều 1, chương 1 sắc luật 96/CP cho phép tổng cục 2 có quyền hạn hoạt động trong đủ mọi ngành như chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, kỹ nghệ và môi trường, văn hóa xã hội.
Điều 11, chương 2 của sắc luật này ghi rõ “Mục tiêu của những lực lượng tình báo quốc phòng là thu thập tin tức và tài liệu liên quan đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Phải đặc biệt chú trọng đến những quốc gia, những tổ chức hay cá nhân trong nước cũng như ngoài nước đang âm mưu hay tham gia vào những hoạt động nhằm chống lại đảng cộng sản hay nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”.
Tổng cục C2 chỉ chịu trách nhiệm với bộ trưởng quốc phòng, bộ Chính Trị và chủ tịch nước. Vì quyền hạn quá rộng lớn, bao gồm đủ mọi phạm vi, lại được quyền cho người đến nằm vùng tại các cơ quan, tổng cục này sau đó đã gây ra rất nhiều lạm dụng. Chủ nhiệm tổng cục 2 lúc đó là Đặng Vũ Chính, một người thân cận của Lê Đức Anh khi còn ở quân khu IX và Campuchia. Vũ Chính lên thay Như Văn từ năm 1995.
Sau khi nhậm chức, Đặng Vũ Chính thay hết cán bộ cũ bằng người thân tín. Con trai là Đặng Vũ Dũng đi lao động từ Đông Đức về được cho làm giám đốc công ty xây dựng Hồng Bàng của tổng cục, hai con gái là Đặng Thị Mai, Đặng Thị Ngọc được mang quân hàm đại úy với công tác “cán bộ mật”, vợ là Đặng Thị Nhẫn bắt ép vợ của Như Văn nhường lại chức giám đốc khách sạn Hoàng Đế, và vợ của Trần Tiến Cung (tổng cục phó) cũng phải nhường lại chức giám đốc chi nhánh miền Trung của công ty du lịch Deti Tour.
Năm 2000, Vũ Chính về hưu, nhường chức cho con rể là Nguyễn Chí Vịnh, con trai của Nguyễn Chí Thanh, đồng thời, con trai của Vũ Chính là Đặng Vũ Dũng cũng trở về tổng cục 2 và được cử làm cục phó cục 12, hoạt động tình báo trong khu vực miền Nam.
Ba tháng sau ngày Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh từ chức, đến lượt Đỗ Mười phải nhường chức tổng bí thư cho Lê Khả Phiêu, người đang nắm chức chủ nhiệm tổng cục chính trị của quân đội.
Có tin là dịp hội nghị trung ương đảng họp cuối tháng 12-1997, Lê Đức Anh vẫn mưu toan đưa Lê Khả Phiêu lên chủ tịch Nhà Nước để tự mình nắm chức tổng bí thư nhưng thất bại vì chính Đỗ Mười không muốn từ chức. Nhờ được Đỗ Mười đỡ đầu, Lê Khả Phiêu thắng được một đối thủ mạnh mẽ là Nguyễn Văn An, đang giữ chức trưởng ban tổ chức đảng.
Thay chỗ cho Lê Khả Phiêu trong chức chủ nhiệm tổng cục chính trị là tướng Phạm Thanh Ngân, trước đó là tư lệnh Không Quân, ít lâu sau cũng được Lê Khả Phiêu đưa vào bộ Chính Trị.
Một năm sau, khi Đoàn Khuê bị bệnh chết. Phạm Văn Trà đang là tham mưu trưởng quân đội được cử lên nắm bộ quốc phòng. Tướng Đào Trọng Lịch, tư lệnh quân khu II được cử lên làm tham mưu trưởng quân đội.
Riêng ban thường vụ bộ Chính Trị, sau khi bộ ba Mười, Anh, Kiệt từ chức, Lê Khả Phiêu với tư cách tổng bí thư, đã áp lực đẩy Nguyễn Tấn Dũng ra ngoài, thay vào đó là Phạm Thế Duyệt, và ban thường vụ mới này gồm 5 người: Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nông Đức Mạnh, Phạm Thế Duyệt.
Còn ở bộ Chính Trị, bốn người thay thế Mười, Anh, Kiệt, Nguyễn Đình Tứ là Phan Diễn, bí thư thành ủy Đà Nẵng, Nguyễn Phú Trọng, bí thư thành ủy Hà Nội, Nguyễn Minh Triết, bí thư thành ủy TP.HCM cùng với Phạm Thanh Ngân, một người thân tín của Lê Khả Phiêu vừa được cử làm chủ nhiệm tổng cục chính trị thay Lê Khả Phiêu.
Tuy bộ ba Mười, Anh, Kiệt đã chính thức về hưu, trở nên “cố vấn”, nhưng Đỗ Mười và Lê Đức Anh vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong bộ Chính Trị và cả trong ban thường vụ suốt nhiệm kỳ của đại hội VIII và IX.
Chỉ riêng Võ Văn Kiệt sau khi từ chức dần dần bị thất thế. Mấy năm sau, nhân viết một bài nhận xét về cuốn sách của Lý Quí Chung và bị Nguyễn Khoa Điềm chỉ trích trên báo chí, Võ Văn Kiệt viết thư trả lời nhưng Nguyễn Khoa Điềm không cho báo chí đăng lại.
Do đó, Võ Văn Kiệt đã viết một thư khác phổ biến ra hải ngoại trong đó có câu “…Đối với người như tôi mà đồng chí còn không cho in bài thì người dân có quyền gì nói lên sự thật..”.
Trong thư này, dù là một người tương đối cấp tiến và viết thư chính thức để phổ biến công khai, lời lẽ đối với những người cam tâm đầu hàng vẫn có vẻ khinh miệt, chẳng hạn: “…trừ những đoạn mà đám Nhuận, Đức, Hạnh không chịu vì có liên quan…” (“đám” Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức và Nguyễn Hữu Hạnh đòi Lý Quí Chung bỏ đi những đoạn này có lẽ vì đã kể lại các hành động không đáng hãnh diện của họ).(3)
Tân tổng bí thư Lê Khả Phiêu sinh năm 1931 tại Đông Khê, Thanh Hóa, gia nhập đảng cộng sản từ năm 1949. Suốt mấy chục năm trong quân ngũ và trong đảng, Lê Khả Phiêu chỉ giữ những chức chính ủy trong quân đội. Trong Chiến Tranh Đông Dương I trước 1954, Lê Khả Phiêu là chính ủy đại đội, trong chiến tranh Đông Dương II, là chính ủy trung đoàn 9 sư đoàn 304. Sau đó lên chính ủy sư đoàn rồi chính ủy quân khu Trị Thiên. Trong chiến tranh Campuchia, Lê Khả Phiêu làm chính ủy quân đoàn 2 rồi phó chính ủy quân khu 9. Trong thời gian chiếm đóng Campuchia, Lê Khả Phiêu được thăng thiếu tướng. Sau thời gian này, nhờ thân cận với Lê Đức Thọ và Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu được thăng trung tướng, làm chủ nhiệm tổng cục chính trị và sau đó vào bộ Chính Trị rồi lên tổng bí thư. Vì chỉ giữ những chức vụ thuần túy chính trị trong quân đội, Lê Khả Phiêu không có hậu thuẫn vững mạnh trong đảng (như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười là những người từng giữ nhiều chức vụ và công tác ở nhiều nơi), hay trong quân đội (như Lê Đức Anh, từng có nhiều quan hệ với các tư lệnh quân khu khi làm bộ trưởng bộ quốc phòng). Do đó, Lê Khả Phiêu thường phải dựa vào phe bảo thủ và sau đó là dựa vào Trung Quốc.
Sự đề cử Trần Đức Lương lên thay Lê Đức Anh làm chủ tịch Nhà Nước tương đối là một bất ngờ vì trong bộ Chính Trị, ông ta chỉ đứng hàng thứ 16. Trần Đức Lương sinh năm 1937 tại Quảng Ngãi, tốt nghiệp đại học về địa chất và được làm giám đốc Nha Địa Chất năm 1979. Ông gia nhập đảng cộng sản năm 1959 và được cử làm ủy viên trung ương đảng năm 1991 rồi vào bộ Chính Trị năm 1996. Từ 1987 đến 1997 từng là phó thủ tướng cho Võ Văn Kiệt. Việc Trần Đức Lương được lên làm chủ tịch nhà nước cũng là một thất bại cho Đoàn Khuê vì ông này vẫn mong muốn được thay thế Lê Đức Anh.
Đoàn Khuê, sinh năm 1923, cựu tư lệnh quân khu V, từng giữ chức tham mưu trưởng quân đội năm 1987 và bộ trưởng quốc phòng năm 1991, là một người nhiều tham vọng. Trong thời gian trước đại hội VIII, phe bảo thủ, trong đó có quân đội và công an (gồm Đoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, Phạm Văn Trà, Lê Minh Hương) tương đối chiếm ưu thế tại bộ Chính Trị. Vì Đào Duy Tùng và Nguyễn Hà Phan không giấu tham vọng tranh chức tổng bí thư và thủ tướng nên Đoàn Khuê nghĩ rằng ông ta có thể nhờ hậu thuẫn công an và quân đội để kế nhiệm địa vị chủ tịch nhà nước của Lê Đức Anh. Khi viếng thăm nước Pháp với tư cách bộ trưởng quốc phòng và lúc được tổng thống Chirac tiếp, Đoàn Khuê đã huyênh hoang nói là sẽ tới thăm nước Pháp lần nữa với tư cách ngang hàng (chủ tịch nhà nước) với Chirac. Do tác phong quan liêu, Đoàn Khuê không được lòng thuộc cấp. Ngoài ra, tuy cùng thuộc phe quân đội và bảo thủ, Đoàn Khuê lại rất bất mãn với Lê Khả Phiêu bởi lý do Lê Khả Phiêu từng là thuộc cấp của Đoàn Khuê khi Đoàn Khuê là bộ trưởng quốc phòng. Vì thế, khi Đoàn Khuê ra tranh chức chủ tịch nhà nước, phe của Lê Khả Phiêu trong quân đội đã nhập vào phe Võ Văn Kiệt mà ủng hộ Trần Đức Lương.
Người thay thế Võ Văn Kiệt là Phan Văn Khải, một người đã được Võ Văn Kiệt nâng đỡ để sửa soạn vào chức thủ tướng. Sự đề cử Phan Văn Khải vào chức thủ tướng đã làm yên lòng các nhà đầu tư ngoại quốc, cho thấy đảng CSVN vẫn muốn tiếp tục đường lối kinh tế cởi mở cũ. Phụ tá của Phan Văn Khải có những phó thủ tướng:
- Nguyễn Tấn Dũng, đặc trách kinh tế và nội an. Sinh ở Cà Mâu, xuất thân là lính quân y (trong lý lịch khai đã được huấn luyện thành bác sĩ giải phẫu). Sau thời gian làm chính ủy đại đội quân y, Dũng chuyển sang làm chính ủy tiểu đoàn rồi trung đoàn, từng phục vụ ở Campuchia. Năm 1994 làm bí thư tỉnh Kiên Giang, năm sau thăng thứ trưởng bộ Nội vụ.
- Nguyễn Mạnh Cầm, phụ trách đối ngoại
- Nguyễn Công Tấn, quê ở Thái Bình, đặc trách phát triển nông thôn. Nguyễn Công Tấn tốt nghiệp kỹ sư canh nông tại đại học Hoa Nam năm 1958.
- Ngô Xuân Lộc, đặc trách kỹ nghệ và phát triển thành thị (sau đó mất chức vì bị phe Lê Đức Anh tố cáo tham nhũng trong việc xây cất công viên tại Hà Nội)
- Phạm Gia Khiêm, đặc trách giáo dục, khoa học. Phạm Gia Khiêm sinh năm 1944 ở Hà Nội, du học ở Nga Xô và Tiệp Khắc. Vào đảng năm 1969, từng dạy đại học Bắc Thái, trưởng khoa giáo dục khoa học trong UB kế hoạch nhà nước, sau đó lên phó chủ nhiệm UB.
Các bộ trưởng chính gồm có:
- Thương Mại: Trương Đình Tuyển, từng là bí thư tỉnh uỷ Nghệ An.
- Nông Nghiệp: Lê Huy Ngọ.
- Giao Thông: Lê Ngọc Hoan.
- Xây Dựng: Nguyễn Mạnh Kiểm.
- Văn Hóa Thông Tin: Nguyễn Khoa Điềm, sinh quán tại Huế, tốt nghiệp sư phạm. Sau 1975, là chủ tịch hội văn hóa Bình Trị Thiên. Với tư cách này, Nguyễn Khoa Điềm cùng Trần Hoàn kết án Trịnh Công Sơn về tội đã gọi cuộc chiến Việt Nam là nội chiến và tội làm bài hát thương tiếc cựu đại tá Không Quân VNCH Lưu Kim Cương rồi đẩy đi cải tạo.
- Quốc Phòng: Đoàn Khuê, sau đó là Phạm Văn Trà (trước là tư lệnh quân khu III quanh Hà Nội, thay Đào Đình Luyện làm tham mưu trưởng quân đội từ tháng giêng năm 1996).
- Giáo Dục: Nguyễn Minh Hiền.
- Tài Chánh: Nguyễn Sinh Hùng, sinh tại Nghệ An, từng du học Bulgary, họ hàng với Hồ Chí Minh.
- Nội Vụ: Lê Minh Hương, sinh quán Hà Tĩnh, xuất thân từ ngành tình báo. Theo học trường an ninh, cán bộ an ninh ở liên khu 4, rồi làm công tác gián điệp ở các tòa đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ, Nhật. Sau đó thăng giám đốc sở tình báo rồi thứ trưởng nội vụ.
- Tư Pháp: Nguyễn Đình Lộc.
- Hải Sản: Tạ Quang Ngọc: sinh quán Nghệ An.
- Kế Hoạch và Đầu Tư: Trần Xuân Giá, sinh tại Huế, từng là phó chủ tịch ủy ban vật giá, phó chủ nhiệm ủy ban kế hoạch nhà nước rồi thứ trưởng bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư.
- Khoa Học Kỹ Thuật và Môi Sinh:Chu Tuấn Nhã.
- Y Tế: Đỗ nguyên Phương.
- Lao Động, Thương Binh, Xã Hội: Trần Đình Hoan, sau đó là Nguyễn Thị Hằng.
- Văn phòng chính phủ: Lại Văn Cừ.
- Chủ nhiệm UB Bảo Vệ Và Săn Sóc Trẻ Em: Trần Thị Thanh Thanh
- Chủ nhiệm UB Kế Hoạch Gia Đình: Trần Thị Trung Chiến.
- Chủ nhiệm UB Chống Lụt Lội Và Phát Triển Sông Cửu Long: Nguyễn Cảnh Đinh
- Chủ nhiệm UB Thể Thao: Hà Quang Dự.
- Chủ nhiệm UB Sắc Tộc: Hoàng Đức Nghi.
Tất cả bộ trưởng, thứ trưởng hay chủ nhiệm ủy ban do Phan Văn Khải đề nghị đều được quốc hội chấp thuận, trừ thống đốc ngân hàng Cao Sĩ Kiêm, bị quốc hội loại vì sau 8 năm làm thống đốc, hệ thống ngân hàng vẫn quá yếu kém. Vị trí này bỏ trống cho tới 6 tháng sau, Phan Văn Khải mới đề cử Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng đặc trách kinh tế kiêm chức vụ thống đốc. Nguyễn Tấn Dũng không có kinh nghiệm về ngân hàng, nhưng được đề cử nhằm nâng cao uy thế chính trị của ngành này. Công việc điều hành hàng ngày được giao cho Lê Đức Thúy, một chuyên viên từng du học ở Harvard trong hai năm 1991 và 1992. Hơn một năm sau, Lê Đức Thúy mới được chính thức làm thống đốc.
Sau đại hội VIII, năm 1997 là một năm xảy ra nhiều biến cố đối với Việt Nam. Dù cơn khủng hoảng kinh tế tại các nước Á Châu như Thái Lan, Tân Gia Ba, Đại Hàn, Nhật Bản… phải nửa năm sau mới ảnh hưởng tới Việt Nam, nhưng kinh tế Việt Nam năm 1997 cũng đã có những dấu hiệu suy thoái. Ngoài cơn bão Linda gây cảnh bão lụt tại miền Nam và miền Trung khiến mức sản xuất lúa gạo bị giảm sút, một lý do khác là hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa vững mạnh khiến những công ty ngoại quốc ngần ngại khi đầu tư và cuối cùng, lý do quan trọng nhất là sự lãng phí và kém hiệu quả của những công ty quốc doanh.
Từ năm 1997, số tiền ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam mỗi ngày một giảm. Một số công ty ngoại quốc đã phải đóng cửa hoặc vì lỗ lã, hoặc do những trở ngại hành chánh hay tham nhũng. Tuy thế, những phần tử bảo thủ vẫn muốn duy trì và phát triển những công ty này vì “định hướng xã hội chủ nghĩa” là niềm hy vọng duy nhất của họ để sẽ có một ngày, tất cả đều trở lại là kinh tế nhà nước chỉ tồn tại những công ty quốc doanh.
Cơn khủng hoảng kinh tế của các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Đại Hàn, Nhật Bản… năm 1997 cũng khiến họ nghĩ đường lối kinh tế chỉ huy là đúng đắn và càng làm cho họ cứng rắn hơn nữa để kềm hãm đà đổi mới, dù những biện pháp đổi mới mấy năm trước đã giúp đời sống người dân tương đối thoải mái hơn trước, nhưng so với những nước lân bang, người dân Việt Nam vẫn còn rất nghèo.
Theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới, lợi tức bình quân hàng năm mỗi người dân Việt vào năm 1997 là 350 mỹ kim, chỉ ngang với Bangladesh. Trong khi đó, lợi tức hàng năm của người dân Phi Luật Tân cao hơn gấp ba lần (1000 mỹ kim), Thái Lan cao hơn gấp 7 lần (hơn 2000 mỹ kim)…
Dù có những biện pháp cởi mở về nông nghiệp, lợi tức của nông dân vẫn thua xa người dân thành thị. Thống kê của bộ nông nghiệp cho biết sau khi trừ hết chi phí, lợi tức trung bình của nông dân chỉ ở mức dưới 100 mỹ kim, trong khi lợi tức trung bình của thị dân Hà Nội là 800 mỹ kim, Sài Gòn 1000 mỹ kim.
Trước hoàn cảnh khốn khó và bị chèn ép, tháng 5 năm 1997, nông dân tỉnh Thái Bình đã biểu tình phản đối các cán bộ địa phương tham nhũng, đặt ra những thuế khóa vô lý (thuế đất, thuế thày giáo…), trả tiền lúa gạo mà nông dân bán ra thật rẻ so với giá thị trường, chiếm hữu đất đai cho gia đình, bạn bè, ép nông dân phải xung phong lao động xã hội chủ nghĩa không công ít nhất 10 ngày trong năm… Việc đánh thuế vô lý đến nỗi tiền thuế thu được trong 3 năm từ 1994 đến 1997 của tỉnh Thái Bình bội thu hơn con số dự trù của trung ương đến 176 tỷ đồng (khoảng 16 triệu mỹ kim).
Khởi xướng và đứng đầu những cuộc biểu tình phản đối ở Thái Bình đều là những cán bộ hoặc bộ đội về hưu. Họ tổ chức biểu tình qui mô, cho người già và trẻ em đi trước, kế tiếp là cựu cán bộ, sau đó mới là thanh niên.
Suốt từ tháng 5 đến tháng 12, ký giả hoặc nhân viên những tổ chức thiện nguyện ngoại quốc đều bị cấm không được đến tỉnh Thái Bình.
Mới đầu, những cuộc biểu tình còn ôn hòa, nông dân chỉ mong muốn được giảm thuế, nhưng chính quyền địa phương không chịu giải quyết nên đã biến thành bạo động. Một số nông dân và viên chức bị tử thương, nhất là ở huyện Quỳnh Phú. Công an và ủy ban hành chánh nhiều xã đã phải bỏ nhiệm sở chạy trốn. Những cuộc biểu tình đã diễn ra trong nhiều tháng. Chính quyền trung ương ở Hà Nội phải đem 1200 công an đặc biệt từ những nơi khác đến để ngăn chận phong trào chống đối lan tràn. Đồng thời, đảng cử Phạm Thế Duyệt, một ủy viên bộ Chính Trị người tỉnh Thái Bình đến dàn xếp. Chính quyền địa phương đã phải công nhận lầm lỗi, giải nhiệm một số viên chức, đưa ra vài biện pháp xoa dịu. Nhưng mặt khác, họ cũng đã bắt một số người biểu tình đưa lên đài truyền hình ép phải thú nhận tội lỗi là đã có hành động “chống đối” đảng và nhà nước. Trong một bài báo đăng ở báo đảng, bí thư tỉnh ủy Thái Bình Nguyễn Xuân Lai tiếp tục coi những người theo đạo Công Giáo trong tỉnh là những phần tử khả nghi và kêu gọi đảng phải tăng cường cảnh giác. (4)
Tháng 11-1997, sau nhân dân Thái Bình, đến lượt nhân dân tỉnh Đồng Nai (Biên Hòa cũ). Tại vùng đất của dân Công Giáo, giáo dân biểu tình phản đối những cán bộ địa phương đã ngang nhiên truất hữu đất đai nhà thờ. Tuy nhân dân Đồng Nai không được xếp hạng là thành phần tốt đối với chính quyền, nhưng họ đã biểu tình ngay trên quốc lộ 1, ngăn chặn con đường lưu thông huyết mạch Bắc Nam và chọn thời gian biểu tình vào lúc có một hội nghị quốc tế gồm những nước biết nói tiếng Pháp tổ chức ở Hà Nội để gây tiếng vang.
Như thường lệ, chính quyền phong tỏa tỉnh Đồng Nai, cấm người ngoại quốc lai vãng và trên báo chí quốc nội, không một báo nào được phép đăng tin. Phạm Thế Duyệt lại đóng vai trò dàn xếp và chính quyền lại hứa hẹn sửa sai. Một thời gian sau, bộ trưởng phát triển nông thôn là Nguyễn Công Tấn bị mất chức.
Hiển nhiên là những phản kháng của nông dân đã gây chấn động trong hàng ngũ lãnh đạo.
Vào tháng 8, bộ nông nghiệp loan báo ban hành “mười chính sách lớn” cho nông thôn, gồm có tu sửa, cải thiện hệ thống đường xá, giảm thế khóa cho nông dân và thiết lập một qui chế sở hữu đất đai rõ ràng, không cho cán bộ lạm dụng. Ngày 21-11-1997, thủ tướng Phan Văn Khải trong diễn văn đọc trước quốc hội cũng nhấn mạnh đến chương trình cải tạo nông thôn, còn tổng bí thư Đỗ Mười trước khi từ chức, cũng kêu gọi phải diệt trừ tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên.
Tuy nhiên, vấn đề diệt trừ tham nhũng trong nội bộ đảng kể trên chỉ được thi hành theo những ý hướng và mục tiêu chính trị. Dù báo chí đã được Hữu Thọ, trưởng ban tư tưởng văn hóa của đảng cho là “tiếng nói của đảng, của nhà nước, của những tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân” (ngày 25-8-1997), nhưng chỉ hai tháng sau, ký giả Nguyễn Hoàng Linh, tổng biên tập báo Doanh Nghiệp bị bắt vì đăng bài phanh phui những gian lận liên quan đến việc mua 4 tầu tuần cho cục thuế quan. Tòa soạn những báo Hà Nội Mới, Tiền Phong, Thương Mại, Pháp Luật cũng bị tra xét vì bị nghi ngờ với cùng một tội là “tiết lộ bí mật quốc gia”.
Cùng trong tháng đó, một phóng viên hãng Reuter bị hành hung và bị bắt về bộ nội vụ tra hỏi khi anh ta chụp hình một toán phụ nữ biểu tình ở công viên Ba Đình.
Tháng 12-1997, nhà văn Phạm Văn Viêm bị công an Việt Nam bắt cóc ở Bulgary mang về Hà Nội sau khi anh dịch cuốn Chế Độ Phát Xít — The Fascist Regime của tổng thống Zhelev, vị tổng thống không cộng sản đầu tiên của Bulgary. Anh bị giam và cho tới nay vẫn không có tin tức gì.
Những học giả, nhà thơ, nhà văn như Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu cũng bị làm khó dễ và theo dõi. Thời kỳ tiền hội nghị của những quốc gia nói tiếng Pháp tại Hà Nội tháng 11-1997, Liên Đoàn Phóng Viên Và Ký Giả thảo một thông tư trong đó có đoạn lên án sự đàn áp báo chí tại 16 trong số 49 quốc gia tham dự hội nghị. Thông tư này không chỉ đích danh nước nào, nhưng Phan Bằng, chủ tịch hội Phóng Viên Việt Nam của nhà nước đã cực lực phản đối vì Việt Nam coi đó là chuyện “can thiệp vào nội bộ quốc gia”.
Cuối năm 1997, do quyết định từ đại hội đảng hơn một năm trước, Đỗ Mười bị buộc phải từ chức và Lê Khả Phiêu được đề cử làm tổng bí thư.
Trong tình trạng tranh chấp giữa bộ ba cầm quyền năm trước, Lê Khả Phiêu dần dần đã được lợi thế. Đối thủ sáng giá duy nhất trong bộ Chính Trị của Lê Khả Phiêu là Nguyễn Văn An, trưởng ban tổ chức đảng, nhưng Lê Khả Phiêu có nhiều điều kiện thuận lợi hơn vì ở trong ban thường vụ bộ Chính Trị, lại là trưởng ban bảo vệ chính trị của đảng. Cả đời là chính ủy, không có cơ hội làm giàu, đời tư Lê Khả Phiêu trong sạch hơn Nguyễn Văn An. Ngoài ra, vụ rối loạn ở Thái Bình khiến trung ương đảng muốn có một người lãnh đạo cứng rắn.
Tuy nhiên, Lê Khả Phiêu không có một hậu thuẫn chính trị vững mạnh nên phải đu dây giữa hai phe bảo thủ và cấp tiến, khi lên làm tổng bí thư. Lê Khả Phiêu đã dựa nhiều hơn vào phe bảo thủ, nhưng ngay trong đảng và trong phe bảo thủ, Đỗ Mười vẫn có nhiều uy tín và ảnh hưởng hơn Lê Khả Phiêu. Dù đã về hưu và chỉ là một trong ba “cố vấn”, Đỗ Mười vẫn có quyền tham dự những buổi họp bộ Chính Trị và Lê Khả Phiêu sở dĩ được lựa chọn cũng nhờ ảnh hưởng của Đỗ Mười.
Vì thế, trong bộ ba cố vấn, Đỗ Mười rất coi thường Lê Khả Phiêu. Trong những buổi họp bộ Chính Trị, ông ta hay xen vào những cuộc thảo luận, nhiều khi lấn át cả Lê Khả Phiêu khiến mọi người đều nhận thấy Lê Khả Phiêu là một tổng bí thư yếu thế.
Quân đội cũng không hết lòng ủng hộ Lê Khả Phiêu. Bản chất là một chính ủy, Lê Khả Phiêu tìm hậu thuẫn với phe bảo thủ bằng cách đề cao khẩu hiệu chống đế quốc và phát huy xã hội chủ nghĩa, thể hiện qua biện pháp lấy lòng Trung Quốc, dù cho phải chịu khuất phục và nhượng bộ đất đai.
Sau khi lên nhận chức tổng bí thư, theo thông lệ, tháng 2 năm 1999, Lê Khả Phiêu sang Trung Quốc và gặp đủ mặt giới lãnh đạo Trung Quốc. Từ đó, mối quan hệ Việt Hoa trở nên ngày càng thân thiết.
Trong năm 1999, nhiều phái đoàn của hai nước lần lượt qua lại, kể cả Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Tấn Dũng cho đến những cấp thấp hơn như Hoàng Kỳ, tư lệnh quân khu III, Thường Văn Thái (Chang Wentai), chính ủy quân khu Tây An … Ngày 26-9-1999, nhân lễ kỷ niệm 50 năm thành lập đảng cộng sản Trung Quốc, 2500 cán bộ từng sống hay du học ở Trung Quốc tập họp ở sân vận động để chúc mừng, trong đó có Hoàng Minh Thảo.
Đầu tháng 12-1999, thủ tướng Chu Đông Cơ của Trung Quốc sang thăm Việt Nam, dự định sẽ tham dự buổi lễ ký kết thỏa hiệp về biên giới trên bộ, nhưng dự thảo thỏa ước có một số chi tiết chưa được thỏa thuận nên phải chờ đến cuối tháng, ngày 30-12-1999, thỏa ước mới được ngoại trưởng hai nước là Nguyễn Mạnh Cầm và Đường Gia Truyền ký kết. Thỏa ước này được hoàn tất là nhờ những nhượng bộ của Lê Khả Phiêu, từng hứa hẹn với Giang Trạch Dân là sẽ giải quyết vấn đề biên giới trên bộ xong trước năm 2000 và trên biển trước năm 2001.
Ngoài ra, để thúc đẩy Trung Quốc chịu đứng ra lãnh đạo phục hồi lại phong trào cộng sản, thắt chặt thêm tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa, Lê Khả Phiêu đề nghị hai nước hợp tác tổ chức mỗi năm, một buổi hội thảo về ý thức hệ giữa những lý thuyết gia để nghiên cứu lại chủ nghĩa Mác nhằm biện luận cho kinh tế thị trường. Nguyễn Đức Bình, ủy viên bộ Chính Trị kiêm giám đốc trường đảng cầm đầu phái đoàn sang Bắc Kinh dự cuộc hội thảo đầu tiên vào tháng 6 năm 2000.
Mấy tháng sau, một cuộc hội thảo về lý thuyết khác lại được tổ chức tại Hà Nội. Cầm đầu phái đoàn Trung Quốc là Lý Tiểu Anh, ủy viên bộ Chính Trị Trung Quốc kiêm giám đốc học viện Khoa học Xã hội.
Sau Nguyễn Đức Bình là Nguyễn Minh Triết, Lê Minh Hương cũng lần lượt sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm. Để trấn an Trung Quốc trước khi bộ trưởng quốc phòng Cohen, ngoại trưởng Albright, và tổng thống Clinton sang thăm Việt Nam, trong năm 2000, ngoài Lê Khả Phiêu, Nguyễn Đức Bình, còn có Nông Đức Mạnh, Phan Văn Khải, Trần Đức Lương, Nguyễn Dy Niên, Phạm Văn Trà lần lượt qua thăm Bắc Kinh. Từ đó, hầu như mọi cấp từ trung ương đến tỉnh, ngành nào, thuộc đảng hay nhà nước, cũng đều có gắn bó trực tiếp với mọi cấp, mọi ngành của Trung Quốc.
Vì quyền lợi quốc gia của họ, Trung Quốc tuy không tha thiết về một liên minh ý thức hệ với Việt Nam, nhưng đã rất bằng lòng trước thái độ của Lê Khả Phiêu. Do đó mà quan hệ Việt-Hoa thân thiết hơn trước.
Sự thân thiết trở nên dễ dàng hơn sau cái chết của Đặng Tiểu Bình năm 1997. Do “bài học” dành cho Việt Nam năm 1979 không được thành công như ý muốn nên Đặng Tiểu Bình vẫn cay đắng, không nhiệt tình ủng hộ việc kết thân với Việt Nam. Hơn nữa, do trận chiến Việt-Hoa 1979, CSVN còn chế giễu cả đến vóc dáng của Đặng Tiểu Bình bằng câu nói trong những buổi học tập chính trị: “chính trị Trung Quốc không cao hơn Đặng Tiểu Bình”.
Dù đã chính thức về hưu năm 1989, uy tín của Đặng Tiểu Bình vẫn còn rất lớn. Năm 1992, khi thấy đà đổi mới kinh tế của Trung Quốc bị kềm hãm bởi Giang Trạch Dân và Lý Bằng, ông đã đi một vòng vùng Hoa Nam dùng uy tín cá nhân phát động một đợt đổi mới thứ hai cho Trung Quốc. Chỉ sau khi Đặng Tiểu Bình chết, Giang Trạch Dân và Lý Bằng mới dám tỏ ra thân thiết hơn với Việt Nam và đã tặng cho Lê Khả Phiêu mười sáu chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng về tương lai” được CSVN gọi là “mười sáu chữ vàng”, làm căn bản cho quan hệ giữa hai nước.
Cái chết của Đặng Tiểu Bình vào ngày 19-2-1997 cũng là lúc mà Nguyễn Tấn Dũng với tư cách ủy viên ban thường vụ bộ Chính Trị đang thăm viếng Trung Quốc. Dũng được gặp Giang Trạch Dân và cả hai đều hứa sẽ phát triển thêm mối bang giao. Tuy nhiên, điện văn phân ưu của chính phủ Việt Nam về cái chết của Đặng Tiểu Bình không được nồng nhiệt lắm, khác hẳn với điện văn phân ưu gửi đảng cộng sản Ai Lao về cái chết của Phomvihane (năm 1992).(5)
Trước chủ trương nghiêng về Trung Quốc của Lê Khả Phiêu, về ngoại giao, phe đổi mới trong chính phủ đã cố gắng quân bình lại bằng cách trao đổi đại sứ với Hoa Kỳ và xúc tiến hoàn tất thỏa hiệp thương mại song phương (BTA – bilateral trade agreement).
Năm 1997 trở thành năm đầu tiên sau 1975 mà Hoa Kỳ có đại sứ ở Việt Nam và lần đầu tiên, ngoại trưởng Hoa Kỳ Madelein Albright thăm viếng Hà Nội. Trong dịp thăm viếng này, ngoại trưởng Albright ca ngợi thành quả đổi mới của Việt Nam từ năm 1986, nhưng khuyến cáo Việt Nam nên phát động một phong trào “đổi mới đợt 2”.
Có lẽ để cảnh cáo Việt Nam do có hành động làm thân với Hoa Kỳ, ngày 7-3-1997, Trung Quốc đem dàn khoan dầu Kantan III và hai tàu thăm dò 206, 208 đến vùng biển vịnh Bắc Việt mà Việt Nam đã xác nhận chủ quyền.
Sau khi đơn phương phản đối không kết quả, Việt Nam cầu cứu tới những nước ASEAN, gián tiếp cảnh cáo là nếu Trung Quốc có thể lấn áp Việt Nam, họ có thể làm như thế với các nước khác. Trong cùng thời gian này, ngày 22-3-1997, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương cũng viếng thăm Hà Nội. Nhờ thế, ngày 1-4-1997, Trung Quốc loan báo sẽ kéo dàn khoan về và ngỏ ý sẽ thương thuyết với Hà Nội. Hai tuần sau, trong buổi họp giữa khối ASEAN và Trung Quốc, các nước ASEAN đã mạnh mẽ phát biểu quan tâm của họ và Trung Quốc đồng ý là sau này sẽ thảo luận về những tranh chấp lãnh hải.
Dù đạt được thắng lợi ngoại giao, báo chí Việt Nam đã không đá động gì đến những tin này, sợ làm chạm tự ái của Trung Quốc. Hơn nữa, suốt thời gian xảy ra tranh chấp, khi bộ ngoại giao Việt Nam đang phản đối, nhiều viên chức cao cấp Việt Nam vẫn tấp nập sang thăm Trung Quốc như Chu Văn Ry, phó ban tổ chức đảng, Lê Minh Hương, bộ trưởng nội vụ, tướng Nguyễn Văn Độ, chủ nhiệm tổng cục tiếp vận, coi như không có việc gì xảy ra. Vì thế, vào tháng tư năm sau, Trung Quốc tiếp tục lấn tới bằng cách đặt kế hoạch thành lập một trung tâm du lịch tại đảo Đông Hưng, hòn đảo lớn nhất trên quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam lại phản đối bằng miệng nhưng vô hiệu.
Ngoài những suy thoái kinh tế, năm 1997 cũng là năm bắt đầu có những vụ án tham nhũng nổi tiếng lọt ra ngoài ánh sáng.
Đầu tiên là vụ án nhà máy dệt Nam Định, 14 cán bộ bị tù vì gian lận khoảng 14 triệu mỹ kim.
Sau đó là Nguyễn Trung Trực của hãng Peregrine (được Bùi Thiện Ngộ, và có thể cả Trần Đức Lương, đỡ đầu) bị phe Võ Văn Kiệt bắt về tội trốn thuế.
Tiếp theo đến lượt hãng Tamexco, một hãng xuất nhập cảng của chính phủ. Giám đốc hãng là Phạm Minh Phước đã biển thủ của hãng trên 50 triệu mỹ kim. Người này từng đánh bài ăn thua hàng trăm ngàn mỹ kim và tặng cho tình nhân những biệt thự đắt giá. Bản án ghi nhận là có lần Phước cùng 87 cán bộ và nhân viên chính phủ cùng bay ra nước ngoài ăn chơi. Ra tòa, Phạm Minh Phước bị tử hình cùng bốn đồng bọn.
Khoảng một năm sau nổ ra vụ công ty Minh Phụng.
Minh Phụng là một công ty tư nhân lớn, kinh doanh về nhiều mặt, từ dệt vải tơ lụa đến buôn bán địa ốc. Công ty này cùng công ty quốc doanh Epco thành lập 47 công ty ma và thông đồng với một ngân hàng nhà nước để vay tiền sau đó quịt nợ. Vụ án có 77 bị can, số tiền thất thoát lên tới 280 triệu mỹ kim. Tăng Minh Phụng giám đốc các công ty Minh Phụng, Liên khui Thìn giám đốc công ty Epco, Phạm Nhật Hồng phó giám đốc ngân hàng Kỹ Nghệ và Thương Mại của nhà nước, đều bị tử hình.
Những vụ buôn lậu dính líu đến các cơ quan nhà nước tràn lan đến nỗi cục trưởng cục thuế quan Phan Văn Đính cũng bị mất chức và nhiều bị cáo phải ra tòa. Phùng Long Thất, trưởng toán điều tra thuộc ty thuế quan TP.HCM cùng Trần Đoàn, chủ tịch công ty Tân Trường Sinh bị xử bắn về tội thông đồng buôn lậu 900 thùng đồ điện tử và phụ tùng xe hơi.
Ngoài tệ nạn tham nhũng kinh tế, cũng trong năm 1997, một số sĩ quan công an cao cấp như thượng tá công an Vũ Hữu Chính, đại úy công an Vũ Xuân Trường cùng 30 đồng bọn bị ở tù vì liên quan đến buôn bán thuốc phiện lậu từ Ai Lao. Năm 1998, đến lượt tổng giám đốc Việt Nam hàng không Lê Đức Từ bỏ trốn vì biển thủ trên 2 triệu mỹ kim.
Ngoài ra, tháng 9-1996, khi đến chữa cháy một căn nhà ở Sài Gòn, 5 nhân viên cứu hỏa đã mở một két sắt và lấy đi 47 lạng vàng. Công an điều tra sự việc và khi 47 lạng vàng được trả lại chủ nhân, lại lòi ra chủ nhân này là Nguyễn Kỳ Cẩm, chủ tịch ủy ban bài trừ tham nhũng cả nước. Vì không thể khai làm sao có được 47 lạng vàng này, Nguyễn Kỳ Cẩm bị mất chức. Tuy nhiên, nổi tiếng nhất là vụ án Trịnh Vĩnh Bình.
Trịnh Vĩnh Bình là một thương gia người Hòa Lan gốc Việt. Những năm đầu thập niên 1990, Trịnh Vĩnh Bình mang khoảng 4 triệu mỹ kim về nước làm ăn (mở công ty Tín Thành và Bình Châu bán đồ biển, xây khách sạn, đầu tư địa ốc…) ở Sài Gòn và Vũng Tàu. Do một người tên Trịnh Hiển Thanh tố cáo, Trịnh Vĩnh Bình bị bắt năm 1998 và bị tịch thu hết tài sản. Sau 18 tháng bị giam, Trịnh Vĩnh Bình ra tòa và bị kết án 11 năm tù (3 năm về tội vi phạm luật nhà đất, 8 năm về tội hối lộ), bị phạt 480 lạng vàng, 6.2 tỷ đồng, ngoài ra còn bị tịch thu toàn bộ gia sản.
Trịnh Vĩnh Bình là một người từng hoạt động chính trị tích cực ở Hòa Lan nên trong thời gian ông ta bị giam giữ, chính phủ Hòa Lan đã phản ứng mạnh mẽ. Dù Phan Văn Khải đã can thiệp, Trịnh Hiển Thanh nhận là đã tố cáo láo và đảng ủy Vũng Tàu cũng công nhận là xử án sai, nhưng khi bộ Chính Trị họp, Lê Khả Phiêu, Lê Minh Hương, Trần Đình Hoan và Phạm Thế Duyệt... nhất định tiếp tục đưa Trịnh Vĩnh Bình ra tòa và qui án.
Chuyện rủi ro cho đảng CSVN là trong khi giải Trịnh Vĩnh Bình từ Sài Gòn ra Hà Nội, không hiểu bằng cách nào (có thể do hối lộ hay do được một phe cánh nào đó thả ra), Trịnh Vĩnh Bình đã trốn thoát ở phi trường Tân Sơn Nhất và trở về Hòa Lan. Ông ta đưa đơn kiện chính phủ Việt Nam vi phạm điều 9 của thỏa hiệp song phương mà Việt Nam đã ký với Hòa Lan, đòi bồi thường 100 triệu mỹ kim. Tòa án quốc tế đã nhận đơn kiện và xét xử. Theo một người thạo tin đang sống trong nước, (người này dĩ nhiên phải lấy tên giả và ông ta đã lấy tên giả là Trần Quốc Hoàn, tên của một bộ trưởng công an nổi tiếng nhất nay đã chết), Trịnh Vĩnh Bình bị một trung tá công an Vũng Tàu là Ngô Chí Đan, một đàn em của Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng công an, kiếm chuyện để tịch thu tài sản. Chính Nguyễn Khánh Toàn đã thúc đẩy Trần Đình Hoan bắt và tiếp tục xử Trịnh Vĩnh Bình về tội gián điệp. Công an đưa ra chứng cớ là Trịnh Vĩnh Bình từng gặp Phan Văn Khải, Nguyễn Trọng Minh (chủ tịch ủy ban nhân dân Vũng Tàu) để lôi kéo, mua chuộc. Nguyễn Trọng Minh do đó bị mất chức, Phan Văn Khải thì nghe nói liên quan đến gián điệp nên không dám can thiệp tiếp. Ngô Chí Đan về sau cũng bị mất chức vì liên quan một vụ án khác, vụ án Phương Vicarrent năm 2003. (6)
Do vụ Trịnh Vĩnh Bình, những giới chức lãnh đạo Việt Nam từ Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Văn An, Nguyễn Dy Niên mỗi khi qua thăm Hòa Lan đều bị tiếp đón rất lạnh nhạt.
Vì tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên tràn lan, tất cả những lãnh tụ của đảng đều lên tiếng đòi bài trừ tham nhũng. Phan Văn Khải ra chỉ thị bắt viên chức chính phủ phải kê khai những tài sản trị giá trên 50 triệu đồng (khoảng hơn 4000 mỹ kim), nhưng lại không bắt phải khai nguồn lợi đó từ đâu tới. Đào Duy Quát, phó ban tư tưởng văn hóa đảng, đòi tăng thêm quyền hạn cho các cơ quan điều tra của đảng và chính phủ, còn tổng bí thư Lê Khả Phiêu phát động hai đợt bài trừ tham nhũng và cuối cùng, chính Phạm Thế Duyệt, ủy viên bộ Chính Trị, cũng nói là đảng chưa kiểm soát cán bộ một cách nghiêm nhặt. Phạm Thế Duyệt là người trong năm 1998 bị 11 cán bộ và bộ đội hồi hưu tố cáo lợi dụng quyền thế khi làm bí thư thành ủy Hà Nội để chiếm đoạt đất đai nhà cửa của nhân dân một cách trái phép. Bản tố cáo (được gọi là “tâm thư” gửi tới trung ương đảng vào tháng 8 năm 1998) chỉ đích danh Phạm Thế Duyệt chiếm nhà của công đoàn ở phường Trùng Tu, nhà số 64 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm (sát bên nhà mà bà Nông Thị Xuân trước kia đã ở), nhà số 26 Trại Gang, nhà hai tầng gần hồ Bảy Mẫu.
Cùng bị tố với Phạm Thế Duyệt là Đinh Hạnh, ủy viên ban thường vụ thành ủy Hà Nội, phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố. Lá thư không thể phổ biến công khai, nhưng đã được sao chép và bí mật phổ biến rộng rãi. Những người viết thư ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, chẳng hạn như ông Đoàn Nhân Đạo, cán bộ 48 tuổi đảng, nhà ở 37 Hàng Buồm, bà Đặng Thị Xuân Tiên, 51 tuổi đảng ở số 27 Nghĩa Đô, Cầu Giấy..
Tuy vậy, Phạm Thế Duyệt nhờ được hậu thuẫn mạnh mẽ của Đỗ Mười nên không bị biện pháp kỷ luật nào mà còn tiếp tục ngồi trong bộ Chính Trị rồi Mặt Trận Tổ Quốc nhiều năm sau. Ngoài ra, Phạm Thế Duyệt còn được bộ Chính Trị giao trách nhiệm đả kích và bôi nhọ tướng Trần Độ (kể cả thủ đoạn dùng công an gài bẫy, cho người rình sẵn, hẹn Trần Độ tới một nơi rồi cho một cô gái cới quần áo đến ôm chầm lấy ông cho công an chụp hình). Trần Độ cuối cùng bị đảng tuyên bố trục xuất khỏi đảng năm 1999.
Ngày 15-4-1998, vì bị cán bộ tỉnh Hà Tây hà hiếp không có chỗ kêu oan, ông Nguyễn Văn Kinh chế xăng tự thiêu tại công trường Ba Đình trước lăng Hồ Chí Minh. Ông được cứu sống và bộ ngoại giao ngày 21-4-1998 đổ tội là ông bị bệnh thần kinh.
Ít lâu sau, đến lượt phó thủ tướng đặc trách xây dựng Ngô Xuân Lộc mất chức vì bị nghi là thông đồng với Lê Tất Cương gian lận tiền mua xi măng và lem nhem trong công trình xây dựng công viên Thủy Cung Thăng Long. Sự cách chức và bắt giữ Ngô Xuân Lộc cũng có tin là do tranh chấp giữa phe của Lê Đức Anh và phe chính phủ của Phan Văn Khải, vì chính trợ lý của Lê Đức Anh là Nguyễn Bắc Sơn đã điều động báo chí tấn công Ngô Xuân Lộc. Mấy tháng sau, do Đỗ Mười can thiệp, Ngô Xuân Lộc được minh oan và lại được Phan Văn Khải chỉ định làm cố vấn đặc biệt về kỹ nghệ, xây dựng và giao thông.
Chính Đỗ Mười cũng phải lên tiếng cải chính là ông ta không hề nhận rượu vang của một tổ hợp công ty Đại Hàn (nhiều tin đồn nói Đỗ Mười nhận hối lộ của tổ hợp này một triệu mỹ kim).
Ngô Xuân Lộc bị bắt do tố cáo của tổng cục 2. Người cho tài liệu để tố cáo là Nguyễn Thái Nguyên, một viên chức trong văn phòng thủ tướng của Phan Văn Khải đã được tổng cục 2 chiêu dụ để nằm vùng.
Để trả đũa lại tổng cục 2, phe chính phủ cho bộ Nội vụ bắt và kết tội Nguyễn Thái Nguyên đã cùng tổng cục 2 vu cáo Võ Thị Thắng, tổng giám đốc tổng nha du lịch. Tổng cục 2 từng tố cáo là trong khi ở tù Côn Đảo, Võ Thị Thắng đã làm chỉ điểm cho công an VNCH. Trong vụ này, ngoài Nguyễn Thái Nguyên, tổng cục 2 còn dùng một nhân viên nằm vùng khác trong công ty du lịch là Nguyễn Thị Thanh Hiền.
Giữa năm 1998, cơn khủng hoảng kinh tế Á Châu trong năm 1997 mới ảnh hưởng tới Việt Nam vì phần lớn (60%) hàng xuất cảng của Việt Nam là để bán cho những nước lân bang và những nước đầu tư nhiều nhất ở Việt Nam như Đại Hàn, Tân Gia Ba, Thái Lan… đều gặp khó khăn. Hàng xuất cảng giảm đi một phần ba. Vốn ngoại quốc đầu tư giảm đi một phần tư so với năm trước. Nhân số thất nghiệp lên tới 20%.
Trong cuộc họp hàng năm của Ngân Hàng Thế Giới và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế, Nguyễn Tấn Dũng đã lên tiếng yêu cầu trợ giúp thêm cho Việt Nam. Tuy nhiên, vì thành phần bảo thủ chiếm đa số trong trung ương đảng và bộ Chính Trị, nên ngoài việc khuyến khích tìm cách sử dụng vốn trong nước để đầu tư thay thế vốn nước ngoài, những buổi họp của trung ương đảng năm 1998 chú trọng nhiều hơn vào những vấn đề văn hóa hay ý thức hệ nhằm củng cố quyền lực của đảng mà không đưa ra một biện pháp cải thiện kinh tế nào. Tiếp theo, hội nghị trung ương đảng lần thứ sáu đầu năm 1999 cũng chỉ chú trọng đến việc kiện toàn bộ máy đảng hay chính phủ, hoặc đề ra chiến dịch “phê và tự phê” trong ba năm để thanh lọc hàng ngũ.
Cuối năm 1998, phân bộ Kinh tế thuộc tổng Cục Kinh tế và Kỹ nghệ Quốc phòng được nâng cấp thành cục Kinh tế, đặt dưới sự kiểm soát của bộ Quốc phòng. Kể từ đó, hầu như không có một ngành kinh tế nào mà quân đội không nhúng tay vào đầu tư, và hầu như ngành nào của quân đội cũng có riêng một cơ quan làm ăn buôn bán, đáng kể nhất là cục quân báo, lúc sau này được nâng lên thành tổng cục 2, có quyền theo dõi, bắt bớ, điều tra những việc không chỉ liên quan đến quân sự mà còn về cả chính trị, kinh tế.
Ít lâu trước đó, giữa năm 1998, quân đội Việt Nam bị tổn thất khi một máy bay quân sự Yak-40 do Nga chế tạo bị rớt bên Lào khiến 26 người tử nạn, trong đó có các tướng Đào Trọng Lịch, tham mưu trưởng quân đội, Trần Tất Thành, tư lệnh quân khu II, Trần Minh Thiết, tư lệnh phó quân khu V cùng các tướng Phạm Minh Thành, Vũ Xuân Thủy và một số sĩ quan cao cấp Ai Lao. Bẩy năm sau, 2005, một máy bay trực thăng MI-8 cũng do Nga chế tạo đâm vào núi ở Nghệ An, gây thương vong cho tất cả những tướng lãnh chỉ huy quân khu IV, trong đó có trung tướng tư lệnh Trương Đình Thanh, tư lệnh phó Nguyễn Bá Tuấn, chủ nhiệm chính trị Lê Hữu Phúc và nhiều sĩ quan cao cấp khác.
Sau khi Đào Trọng Lịch chết, Lê Văn Dũng, người tỉnh Bến Tre, đang là thiếu tướng tư lệnh quân khu VII ở miền Nam được gọi về Hà Nội thay. Cũng như Phạm Văn Trà, sự lên chức nhanh chóng của Lê Văn Dũng là do sự đỡ đầu và cất nhắc của Lê Khả Phiêu và Lê Đức Anh. Những người này đã biết nhau trong thời gian phục vụ ở miền Nam và Campuchia. Do đó, cùng với Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng đã hết lòng phục vụ Lê Khả Phiêu và Lê Đức Anh.
Sự hiện diện của một phái đoàn tướng lãnh gồm tư lệnh những quân khu giáp ranh với Ai Lao trên chuyến máy bay bị tử nạn cho thấy Việt Nam vẫn còn những hoạt động quân sự ở Ai Lao. Dù bộ ngoại giao Việt Nam cực lực chối bỏ, nguồn tin ngoại giao ở Ai Lao cho biết vào tháng 5-2000, quân Việt Nam đã can thiệp để giúp đỡ quân Ai Lao đánh dẹp một số quân khởi loạn người Hmong trong tỉnh Xieng Khoang và trong tháng 6, báo chí Hà Nội đăng tin tướng Nguyễn Khắc Dương, tư lệnh quân khu IV đã cùng đại tá Sayphoubanh của Ai Lao đặt viên đá đầu tiên xây dựng một quân y viện tại tỉnh này.
Cũng tại Ai Lao, hai tháng sau, một trái bom nhỏ gài sát tường tòa đại sứ Việt Nam được gỡ ngòi nổ. Những nguồn tin ngoại giao tin rằng sự việc không do nhóm chống đối người Hmong mà do một nhóm thân Trung Quốc trong đảng cộng sản Ai Lao, vì dù đã có sự hòa hoãn với Việt Hoa, Trung Quốc vẫn luôn tìm cách lấn át ảnh hưởng của Việt Nam tại Ai Lao và Campuchia.
Đi trước Việt Nam, từ năm 1988, Ai Lao đã bắt đầu nối lại quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Để có thể thông thương với Thái Lan, Trung Quốc đã tích cực viện trợ cho Ai Lao, nhất là vịệc mở mang xa lộ theo hướng Bắc Nam từ Trung Quốc qua Vạn Tượng tới Thái Lan. Theo thống kê, từ 1988 đến 2001, Trung Quốc viện trợ cho Ai Lao khoảng 1.7 tỷ mỹ kim. Khác với các nước Nhật, Tây Âu, Úc, Ngân Hàng Thế Giới đòi Ai Lao phải thi hành nhiều điều kiện như cải tổ hành chánh, chống thất thoát, cải thiện nhân quyền, Trung Quốc khi viện trợ gần như không đòi hỏi một điều kiện nào. Nhưng xét về ảnh hưởng đối với đảng cộng sản Ai Lao, Việt Nam hiện vẫn chiếm uy thế so với Trung Quốc, dù điều này có thể bị xoay ngược trong tương lai.
Cuối năm 1999, nhằm nâng cao phẩm chất quân đội, quốc hội ra một đạo luật đòi hỏi các sĩ quan phải có trình độ đại học. Cấp trung đoàn trưởng trở lên phải có bằng cấp hậu đại học (không nhất thiết là văn hóa mà có thể là chính trị, lý luận…và có thể học “tại chức”). Các chức vụ được đề cử phải theo thứ bậc, chẳng hạn phải là tư lệnh quân đoàn (chỉ huy khoảng 3 sư đoàn) rồi tư lệnh phó quân khu (chỉ huy lãnh thổ) trước khi làm tư lệnh quân khu. Số tướng lãnh được giới hạn ở mức 150 người.
Do sự ưu thắng của phe quân đội và được Lê Khả Phiêu nâng đỡ, cục Kinh tế và Kỹ nghệ của quân đội tiếp tục bành trướng. Năm 1998, Phạm Văn Trà ra lệnh cho các quân khu và binh đoàn thiết lập nên những “khu kinh tế quốc phòng” và một năm sau, 13 khu đã được thành lập với số vốn khoảng trên 200 triệu mỹ kim. Phần lớn những khu kinh tế này nằm dọc theo biên giới Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia.
Tùy theo hoàn cảnh địa phương, mỗi khu kinh tế kinh doanh những ngành khác nhau. Chẳng hạn binh đoàn 15 đóng tại vùng Tây Nguyên đặt kế hoạch khai khẩn đất hoang, trồng trà, cà phê, nuôi gia súc…, công binh của binh đoàn lập đường xá, xây nhà cửa, trường học. Binh chủng Hải Quân lập xưởng sửa chữa tàu và để cho một số tàu tuần kiêm nhiệm thêm việc đánh cá. Khi Trung Quốc bị mất mùa, dù trái luật, tàu Hải Quân đã chở lúa gạo từ miền đồng bằng Việt Nam sang bán cho Trung Quốc kiếm lời..
Không Quân có tổ hợp công ty hàng không lo việc chuyên chở hành khách thương mại và huấn luyện phi công. Quân Y lập bệnh viện tư. Lực lượng biên phòng phá rừng, xây trường học và cung cấp giáo viên cho dân thiểu số. Học viện Kỹ Thuật Quân Đội cũng lập công ty điện toán Tecapro ký khế ước với hãng dầu Vietsovpetro cùng nhiều công ty ngoại quốc khác.
Những tổ hợp công ty của quân đội thành công nhất là công ty Trường Sơn (binh đoàn 12), công ty Thanh An (binh đoàn 11), công ty Tây Nguyên (binh đoàn 15)...
Ngay tổng cục 2 tình báo cũng có những công ty Vasuco, Toseco buôn bán vũ khí, khách sạn Hoàng Gia, công ty xây dựng Hồng Bàng. Cũng như những công ty quốc doanh, những công ty quân đội nếu bị lỗ lã, sẽ được ngân sách quốc gia tài trợ.
Năm 1999, kinh tế Việt Nam tiếp tục xuống dốc.
Đầu tư ngoại quốc xuống 4 tỷ mỹ kim năm 1998 tới 1999 tiếp tục xuống chỉ còn 1.48 tỷ. Phần lớn các công ty ngoại quốc ở Việt Nam đều bị lỗ nhưng lỗ nhiều nhất là các công ty quốc doanh. Hơn 2000 trong tổng số hơn 6000 công ty quốc doanh bị lỗ và dĩ nhiên chính phủ phải bù đắp. Ngân Hàng Thế Giới và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế tuyên bố ngưng cho vay, trừ khi Việt Nam áp dụng một phương cách đổi mới toàn diện hơn, nhắm vào 3 mục tiêu:
1.Tư nhân hóa hoặc cải tổ các công ty quốc doanh.
2.Cải tổ hệ thống ngân hàng, kể cả 4 ngân hàng chính của nhà nước.
3.Cải tổ ngành thương nghiệp, mở rộng thị trường.
Khi phe đổi mới đề nghị với trung ương đảng những biện pháp đáp ứng các đòi hỏi kể trên, nhóm bảo thủ lại thấy đó chỉ là âm mưu của tư bản nhằm bóc lột và thao túng kinh tế những nước nghèo. Theo họ, tư nhân hóa các công ty quốc doanh chỉ là phương cách giảm thiểu uy quyền của đảng và nhà nước, phá hoại định hướng xã hội chủ nghĩa, còn mở rộng thị trường chỉ nhắm giúp các công ty ngoại quốc cạnh tranh với giá thành rẻ hơn sẽ làm suy sụp những công ty quốc doanh, tạo ra nạn thất nghiệp và xáo trộn an ninh.
Vì thế, khi dự thảo thỏa hiệp thương mại song phương (BTA-bilateral trade agreement) Việt Nam-Hoa Kỳ được hoàn tất, dù Lê Khả Phiêu ủng hộ thỏa ước vì nó giúp thuế khóa hàng hóa Việt Nam vào Hoa Kỳ giảm từ 40% xuống còn 3%, và tính ra Việt Nam sẽ được lợi khoảng 800 triệu mỹ kim trong năm đầu tiên, nhưng việc ký kết đã bị phe bảo thủ trì hoãn lại.
Bản dự thảo hiệp ước được thương thuyết từ năm 1997 và với sự đồng ý của Lê Khả Phiêu, việc ký kết được dự trù khi Phan Văn Khải sang Tân Tây Lan họp hội nghị kinh tế các nước ven Thái Bình Dương (APEC) và gặp Clinton ở đó vào tháng 9-1999. Nhưng nếu ký thỏa hiệp BTA, những công ty quốc doanh làm ăn thua lỗ sẽ không còn được trợ cấp nên các đảng viên cao cấp có liên quan với những xí nghiệp quốc doanh đã vận động Đỗ Mười can thiệp để Lê Khả Phiêu trì hoãn lại. Thêm một lý do khác là lúc đó Trung Quốc đang nghiên cứu ký một thỏa hiệp tương tự với Hoa Kỳ. Cảm thấy không thể đi trước nước đàn anh, Lê Khả Phiêu đã chỉ thị bộ ngoại giao tuyên bố là Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng. Một tháng sau, khi hội nghị trung ương đảng lần thứ VIII họp để nghiên cứu lại, hội nghị đã kết luận là bản dự thảo này “không quân bình, cần nghiên cứu thêm”.(7) Tháng sau, từ ngày 8 đến 15-10-1999, do lệnh của Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu, Phạm Thế Duyệt, một ủy viên Bộ Chính Trị, lên đường sang Trung Quốc tham khảo ý kiến về việc ký kết thỏa ước. (8)
Dù Trung Quốc khuyến cáo Việt Nam nên thận trọng khi ký kết với Hoa Kỳ nhưng chỉ vài tuần lễ sau đó, các cấp lãnh đạo Việt Nam đã ngỡ ngàng khi Trung Quốc nhanh chóng ký kết một thỏa ước tương tự với Hoa Kỳ, mở đường cho Trung Quốc gia nhập cộng đồng thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2001, trong khi sự trì hoãn của Việt Nam một phần do khuyến cáo của Trung Quốc đã làm chậm đi việc gia nhập tổ chức này tới tháng 11-2006. Một số công ty ngoại quốc dự định đầu tư ở Việt Nam thấy Trung Quốc đã ký BTA với Hoa Kỳ nên quay sang Trung Quốc làm ăn. Tác giả Templer chuyên về Việt Nam nhận xét:“Không phải Trung Quốc bảo họ không ký. Họ chỉ không muốn qua mặt Trung Quốc. Họ nghĩ là tốt hơn nên để Trung Quốc được gia nhập WTO trước”.
Thời gian chờ đợi ký kết thỏa ước càng kéo dài càng bất lợi cho Việt Nam. Nhưng chỉ sau khi nước đàn anh và cộng sản gương mẫu Trung Quốc đã ký, những phần tử bảo thủ mới chịu nhìn nhận thực tế là cần nguồn vốn đầu tư ngoại quốc, cần phát triển xuất khẩu mới hy vọng đạt mục tiêu biến Việt Nam thành một nước công nghiệp và hiện đại vào năm 2020.
Tám tháng sau, hội nghị trung ương đảng lần thứ 10 công nhận Việt Nam không còn cách nào khác là hòa nhập vào kinh tế trong vùng và kinh tế thế giới, nhất là với Hoa Kỳ. Vũ Khoan được cử sang Hoa Thịnh Đốn để ký thỏa ước thương mại song phương BTA với Hoa Kỳ ngày 13-7-2000, nhưng việc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO của Việt Nam đã phải chờ đến cuối năm 2006 mới xong, sau Trung Quốc hơn năm năm.
Sau hiệp ước song phương, sự cải thiện bang giao giữa hai nước Việt-Mỹ được thể hiện qua việc 3 chiếc phi cơ C130 của Hoa Kỳ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất tháng 10-2000 sau 25 năm vắng bóng để chở đồ cứu trợ cho nạn nhân của một cơn bão lớn vừa gây chết chóc và tàn phá tại các tỉnh duyên hải miền Trung và miền Nam.
Sự chần chừ thay đổi ý kiến của Lê Khả Phiêu đã làm nản lòng phe đổi mới, trong khi mấy tháng sau Lê Khả Phiêu lại chấp thuận cho ký kết thỏa ước cũng gây bất bình cho phe bảo thủ.
Sự lúng túng có vẻ tự mâu thuẫn của Lê Khả Phiêu là do thái độ đối với Trung Quốc. Mới đầu Lê Khả Phiêu thay đổi ý kiến không dám ký thỏa ước với Hoa Kỳ vì cùng với Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu sợ làm mất lòng Trung Quốc. Lúc sau, thấy Trung Quốc đã ký thì Lê Khả Phiêu mạnh dạn hùa theo phe đổi mới. Đây là một trong những lý do khiến Lê Khả Phiêu bị mất chức khi chỉ làm tổng bí thư mới hơn ba năm.
Dù xuất thân là một tướng lãnh, khả năng lãnh đạo của Lê Khả Phiêu được coi là yếu kém. Ưu điểm duy nhất của Phiêu là cuộc sống bình dị và gia đình không bị tai tiếng. Tiếng xấu duy nhất về đời tư Lê Khả Phiêu là có tin đồn Lê Khả Phiêu bị trúng mỹ nhân kế của cả tổng cục 2 lẫn Trung Quốc, khiến cho thời gian Lê Khả Phiêu cầm quyền là thời gian Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc nhiều nhất, kể cả phải nhượng bộ đất đai trong tranh chấp về biên giới. Tin đồn không thể kiểm chứng, nhưng thái độ qui phục Trung Quốc của Lê Khả Phiêu đã thể hiện rõ ràng.
Sau khi Lê Khả Phiêu, với tư cách tổng bí thư, sang thăm Trung Quốc tháng 2-1999, phái đoàn thương thuyết của Việt Nam đã bị áp lực để hoàn tất thỏa ước về biên giới Việt-Hoa trên đất liền trước năm 2000 và thỏa ước này được ký kết tại Hà Nội cuối năm 1999 giữa Nguyễn Mạnh Cầm và Đường Gia Truyền (Tang Jiaxuan). (9)
Đạt được thỏa hiệp với Việt Nam, Trung Quốc đã chứng tỏ là họ có thể giải quyết riêng với từng quốc gia theo cách “chia để trị” (tránh cảnh “quần lang đả hổ”, theo Trần Quang Cơ) của họ.
Cũng theo cách này, do chủ trương của Lê Khả Phiêu, Việt Nam sẽ đi lẻ với Trung Quốc để giải quyết ranh giới trên biển vào năm sau. Trong chuyến đi thăm Trung Quốc lần này, ngoài việc gặp Giang Trạch Dân, tổng bí thư, Lý Bằng, chủ tịch quốc hội, Hồ Cẩm Đào, phó chủ tịch nhà nước Trung Quốc, Lê Khả Phiêu còn ghé thăm Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, nơi Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng năm 1990 đã qua tạ lỗi, để tỏ ra coi trọng tình hữu nghị Hoa-Việt và biết ơn thiện ý của Trung Quốc đã chịu để cho Việt Nam được tái lập bang giao.
Vì thế cô về chính trị, không có kinh nghiệm lẫn kiến thức về kinh tế, và lên cầm quyền trong thời gian mà tệ nạn tham nhũng đang lan tràn trong mọi cấp của đảng viên, việc đầu tiên của Lê Khả Phiêu là mở hai đợt thanh lọc hàng ngũ đảng và bài trừ tham nhũng. Chỉ trong tháng 7-1999, đảng trục xuất 200 đảng viên, thi hành kỷ luật 1550 đảng viên khác, hàng ngàn viên chức khác bị sa thải.
Tháng 10-1999, tổng giám đốc thuế quan Phan Văn Đính bị mất chức vì quá nhiều cán bộ hải quan ăn hối lộ và buôn lậu. Người thay thế là Nguyễn Đức Kiên, tỉnh ủy tỉnh Hải Dương. Năm 2001, có hai tỉnh ủy viên bị loại, nhưng Việt Nam vẫn được thế giới xếp vào một trong những nước tham nhũng nhất.
Dù bản thân không tham nhũng, nhưng vì không có hậu thuẫn trong một bộ Chính Trị luôn luôn có phe phái, Lê Khả Phiêu phải ưu tiên nâng đỡ những đảng viên cùng quê hương là Thanh Hóa. Chẳng hạn khi Nguyễn Mạnh Cầm về hưu trong năm 2000, dù Vũ Khoan có khả năng và uy tín hơn, nhưng Lê Khả Phiêu lại áp lực để Nguyễn Dy Niên, người Thanh Hóa, lên thay. Vũ Khoan là người đầu óc cởi mở và chắc chắn sẽ không nhường nhịn Trung Quốc quá đáng như Lê Khả Phiêu. Ông ta đã từng viết trong một báo cáo về sử dụng ngân sách:“…nhiều thứ biết là chưa đúng, nhưng rất nhiều cán bộ lại biện lý lẽ rằng, Trung quốc đã làm qua. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng cái gì đúng ở Trung quốc không chắc đã đúng ở Việt Nam. Thành quả của Trung quốc là lớn, nhưng không thể mù quáng học tập theo, nếu cứ như vậy chúng ta sẽ lại mắc bệnh giáo điều, căn bệnh của những năm 80…”.
Tân bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên sinh năm 1935, tốt nghiệp cử nhân văn chương tại trường Banatas Hindu, Ấn Độ. Chuyến công du đầu tiên của Nguyễn Dy Niên khi mới lên nhận chức ngoại trưởng là sang thăm Trung Quốc ngay vào tháng 2-2000. Ngoài Nguyễn Dy Niên, Lê Khả Phiêu cũng vận động trao chức bộ trưởng bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chức thứ trưởng bộ Nội vụ cho những người cùng quê ở Thanh Hóa (người Thanh Hóa giữ nhiều chức vụ ở các bộ đến nỗi có lời bàn là Hà Nội đã bị “Thanh Hóa hóa”). Trong thời gian này, do áp lực của các bí thư tỉnh ủy miền Trung cùng sự hỗ trợ của Lê Khả Phiêu và Trần Đức Lương, chính phủ quyết định tiến hành xây dựng xưởng lọc dầu tại Dung Quất, Quảng Ngãi.
Xưởng lọc dầu Dung Quất là điển hình sự lãng phí của một nền kinh tế chỉ huy và duy ý chí. Địa điểm Dung Quất ở xa giếng dầu Bạch Hổ cả ngàn cây số, mọi chuyên gia đều nhận thấy về phương diện kinh tế không có lợi. Kể từ 1995 đến 2002, dù chính phủ đã dành cho nhiều điều kiện thuận lợi, các tổ hợp công ty ngoại quốc như Total (Pháp), Conoco (Hoa Kỳ), LG (Đại Hàn), và các công ty khác của Mã Lai, Đài Loan đều lần lượt bỏ dở. Sau cùng, công ty Zaroubejneft của Nga cũng phải chịu thua nửa chừng vào cuối năm 2002.
Vì công trình được dự trù một cách lạc quan là sẽ hoàn thành vào năm 2001, tỉnh Quảng Ngãi đã gửi hàng ngàn con em nông dân đi Vũng Tàu học căn bản về kỹ nghệ dầu khí và ký giao kèo với trường đại học Địa Chất để đào tạo cấp tốc hàng trăm kỹ sư dầu khí, dự trù về làm cho xưởng lọc dầu. Tất cả những trẻ em và sinh viên ra trường trở về đều thất nghiệp hoặc phải đi làm những công việc lao động khác.
Nhà máy nước được xây dựng theo dự trù cung ứng cho xưởng lọc dầu mỗi tháng 15 ngàn thước khối chỉ bán được 16 ngàn thước khối trọn năm 2001. Vì bộ Chính Trị không thể mất mặt bỏ ngang , tới tháng 2-2003, không còn ai chịu đầu tư, chính phủ Việt Nam phải đứng ra tự đảm nhận. Số vốn mới đầu dự trù 1.3 tỷ mỹ kim vào năm 1996 đã tăng lên 3 tỷ. Tất cả những phần kỹ thuật như thiết kế, trang bị, điện toán điều hành đều phải mướn các công ty ngoại quốc. Công trình dự trù hoàn tất năm 2002 phải triển hạn dần cho tới năm 2008 và hy vọng sau khi hoàn tất sẽ thỏa mãn 40% nhu cầu dầu hỏa trong nước.
Do tình trạng không thống nhất giữa đảng và chính phủ, từ năm 1997, Việt Nam đã không thể có biện pháp mạnh mẽ nào nhằm cải thiện kinh tế. Mấy tháng đầu năm 1998, có khoảng 10% công ty ngoại quốc ở Việt Nam đóng cửa, kể cả 4 ngân hàng Đại Hàn. Mặt khác, số lượng lúa gạo và cà phê xuất cảng cũng giảm sút. Tiền nước ngoài đem vào đầu tư không bằng một nửa năm trước. Tệ hơn, cuối tháng 11-1997, thủ tướng Nga Chernomyrdyn ghé thăm Việt Nam với mục đích chính là đòi nợ. Một điểm gai góc giữa hai nước là Việt Nam vay bằng tiền roubles của Nga, nhưng đồng tiền này đã xuống gíá quá nhanh nên khi Nga đòi 1.7 tỷ mỹ kim, Việt Nam cho là quá cao. Nhờ Nga được coi như một “người bạn truyền thống”, hai bên về sau cũng đạt được một thỏa ước, theo đó Việt Nam sẽ trả góp trong 23 năm (một phần nhỏ trả bằng tiền mặt, còn lại trả bằng hàng hóa hay dịch vụ).
Hội nghị trung ương đảng lần thứ 6 vào tháng 10-1998 tuy công nhận sự phát triển kinh tế đã chậm lại nhưng chỉ kêu gọi phát triển nông nghiệp để đối phó với tình thế, ngoài ra mục tiêu chính của hội nghị vẫn là làm sao kiện toàn bộ máy đảng, thanh lọc hàng ngũ đảng viên. Hội nghị cũng không bầu người nào thay thế Đoàn Khuê ủy viên bộ Chính Trị vừa mới chết. Dưới ảnh hưởng của phe bảo thủ, hiệp ước thương mại song phương với Hoa Kỳ cũng bị ngăn chận.
Bất mãn trước sự thụ động của trung ương, năm 2000, thành phố HCM đã đơn phương tìm biện pháp giữ chân giới đầu tư ngoại quốc. Họ tự động giản dị hóa thủ tục, cho phép các nhà đầu tư đã được thành phố chấp thuận có thể tiến hành công việc nếu sau hai tuần vẫn chưa được sự phê chuẩn từ Hà Nội. Những nhà đầu tư nhỏ có thể bắt đầu kinh doanh không cần sự chấp thuận của chính phủ trung ương, và các viên chức của thành phố HCM sẽ họp một tháng hai lần để giải quyết nhanh chóng khó khăn mà giới đầu tư ngoại quốc gặp phải.
Tuy sự phát triển kinh tế mỗi ngày một suy kém nhưng biện pháp đối phó chỉ được nghĩ tới sau khi Trung Quốc ký kết thỏa ước thương mại song phương với Hoa Kỳ. Hội nghị trung ương đảng lần thứ 10 (khóa VIII) họp vào tháng 7-2000 cuối cùng đã bỏ phiếu chấp thuận thỏa ước song phương với Hoa Kỳ và cho phép mở thị trường chứng khoán tại thành phố HCM.
Người được cử sang Hoa Kỳ ký thỏa ước thương mại song phương là Vũ Khoan — vừa chính thức trở thành bộ trưởng bộ thương mại thay Trương Đình Tuyển. Cũng vào dịp đầu năm 2000, bí thư thành ủy TP.HCM là Trương Tấn Sang được điều về Hà Nội làm trưởng ban kinh tế trung ương đảng. Người thay Trương Tấn Sang là Nguyễn Minh Triết. Cựu trưởng ban kinh tế của đảng là Phan Diễn đổi về làm bí thư thành ủy Đà Nẵng. Không hiểu vì lý do gì, hai ủy viên Lê Xuân Tùng, bí thư thành ủy Hà Nội và Nguyễn Phú Trọng, trưởng ban tư tưởng văn hóa cũng đổi vị trí cho nhau.
Việc ký kết thỏa ước thương mại song phương đã mở đường cho tổng thống Hoa Kỳ Clinton ghé thăm Việt Nam vào tháng 11-2000. Trong phái đoàn, ngoài bộ trưởng thương mại Minetta còn có nghị sĩ Kerry, dân biểu Loretta Sanchez (khu vực quận Cam — Orange County, California).
Không phải ai cũng hoan nghênh cuộc thăm viếng đó. Trước khi Clinton tới, ngày 27-10-2000, những phần tử bảo thủ trong bộ Chính Trị gửi một thông tư mật cho đảng viên, do Phạm Thế Duyệt ký tên, chỉ thị các cấp không được tỏ ra quá nồng nhiệt khi tiếp đón Clinton. Thông tư viết “Chúng ta phải luôn nhớ rằng bản chất của Mỹ là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Chúng vẫn chưa từ bỏ mưu toan diễn biến hòa bình…”
Chuyến đi của Clinton chỉ được thông báo trước 2 ngày với vài hàng ngắn ngủi “Tổng thống Hoa Kỳ W.J. Clinton và phu nhân sẽ chính thức viếng thăm Việt Nam từ 16 đến 19-11-2000. Chuyến viếng thăm là do lời mời của chủ tịch Trần Đức Lương”.
Chỉ có báo Thanh Niên là thêm một vài chi tiết. Báo chí được chỉ thị nếu đăng hình Clinton, hình đó phải nhỏ hơn hình của Giang Trạch Dân mới đi thăm Việt Nam trước đó. Nguyễn Dy Niên thấy thái độ của bộ Chính Trị cũng phải hủy bỏ cuộc họp báo trong ngày Clinton tới Hà Nội. Trần Đức Lương, Phan Văn Khải tiếp Clinton một cách ngoại giao và thân thiện, nhưng khi Lê Khả Phiêu gặp Clinton thì Phiêu đã lên tiếng thuyết giảng một bài học dài về lịch sử Việt Nam, đồng thời lên án chủ nghĩa đế quốc và khoe là chiến tranh Việt Nam đã có một tác dụng tốt cho phong trào xã hội chủ nghĩa.
Clinton dù là một người tránh nhập ngũ trong thời gian chiến tranh Việt Nam trước 1975 đã cứng cỏi đáp lại rằng việc Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam là để bênh vực quyền dân tộc tự quyết. Thái độ thiếu ngoại giao của Lê Khả Phiêu sau đó đã bị phê bình trong nội bộ đảng. Một điều đáng chú ý là trong dịp này, tại Mạc Tư Khoa, Nga cũng thông báo tổng thống Putin sẽ viếng thăm Đại Hàn và Việt Nam vào đầu năm tới.
Có lẽ trong thâm tâm Lê Khả Phiêu, mục đích chính của việc lên lớp Clinton không trực tiếp liên hệ tới vấn đề quan hệ ngoại giao hay kinh tế với Hoa Kỳ mà thực ra là để trấn an Trung Quốc và lấy lòng các thành phần bảo thủ. Bản báo cáo về cuộc nói chuyện riêng với Clinton được công bố trên đài truyền hình hai lần, sau đó được chính thức phân phát cho báo chí. Tân Hoa Xã của Trung Quốc cũng phổ biến ngay lập trường cứng rắn với Hoa Kỳ của Lê Khả Phiêu. Ngoài ra, có dịp lên lớp tổng thống một nước đang đứng đầu các nước tư bản cũng là để giải tỏa những dồn nén. Sáu tháng trước, trong chuyến công du Pháp quốc, theo nghi lễ, tổng thống và thủ tướng Pháp đã không ra phi trường tiếp đón Lê Khả Phiêu, vì trên danh nghĩa chính thức, Lê Khả Phiêu chỉ là tổng bí thư một đảng chính trị. Người thay mặt chính phủ Pháp ra phi trường đón tiếp là bộ trưởng giao thông, lý do ông này là đảng viên cộng sản. Khi rời nước Pháp, chính phủ Pháp cũng không tổ chức tiệc tùng đưa tiễn theo nghi lễ quốc khách (10). Được cử lên làm người có quyền lực cao nhất một nước, nhưng khi ra nước ngoài bị coi thường khiến Lê Khả Phiêu sau khi về nước, chẳng những đã mưu định giữ ghế tổng bí thư thêm một nhiệm kỳ mà còn tìm cách kiêm nhiệm luôn chức chủ tịch nhà nước giống như Giang Trạch Dân bên Trung Quốc. Quốc gia duy nhất đón tiếp Lê Khả Phiêu một cách trọng thể là Cuba, khi Phiêu sang viếng thăm vào ngày 7-9-1999. Đền bù lại, Cuba đã được Lê Khả Phiêu tặng cho 3000 tấn gạo.
Cùng đi với Clinton sang thăm Việt Nam, ngoài vợ con ông cùng các phụ tá còn có trên 30 đại diện của những công ty lớn như Boeing, Nike, Genetral Motors, Lucent, Motorola… đến để tham quan khả năng kinh tế.
Clinton được mời nói chuyện tại trường đại học Hà Nội và buổi nói chuyện được trực tiếp truyền hình. Trái với ý muốn của Lê Khả Phiêu, buổi nói chuyện cũng như sự tiếp đón của dân chúng đối với Clinton diễn ra rất nồng nhiệt. Đối với nhà cầm quyền Việt Nam, chuyến đi đó gây khá nhiều phiền phức. Họ đã bắt giữ ông Hà Hải, tổng thư ký Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo ngày 19-11-2000 khi ông này đang định từ Long Xuyên lên Sài Gòn gặp Clinton và khi Clinton đang ở Hà Nội thì phi công Lý Tống dùng một máy bay từ Thái Lan bay về Sài Gòn rải truyền đơn rồi an toàn trở lại Thái Lan.
Lý Tống sau 1975 từng vượt ngục tù cộng sản đi bộ sang Tân Gia Ba (11). Năm 1992, ông trở về Việt Nam ép một phi công hàng không Việt Nam bay quanh vùng Sài Gòn để thả truyền đơn. Lần đó ông bị bắt sau khi nhảy dù xuống đất nhưng do chính phủ Hoa Kỳ can thiệp nên được thả 6 năm sau. Trở về Mỹ, năm 2000, ông lái một phi cơ nhỏ sang Cuba rải truyền đơn chống Castro ở Havana rồi an toàn trở về Mỹ.
Do sơ hở này, phòng không của Việt Nam đã trở nên “quá cảnh giác” nên ngay ngày hôm sau, đã bắn lầm một phi cơ dân sự. Sau vụ trở lại Việt Nam lần thứ hai của Lý Tống, Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng và các cấp chỉ huy không quân, phòng không đều bị khiển trách vì không chu toàn nhiệm vụ.
Khi Lý Tống bay trở về Thái Lan, ông đã bị nhà cầm quyền Thái Lan bắt và bỏ tù đến năm 2007 mới được thả về Hoa Kỳ.
Sau chuyến đi của Clinton, Việt Nam lại đón tiếp tổng thống Putin của Nga. Bang giao với Nga được cải thiện rất nhiều từ khi Putin lên cầm quyền và nhất là sau khi Phan Văn Khải sang Nga ký thỏa ước trả món nợ 1.7 tỷ mỹ kim. Putin đến thăm Việt Nam từ Đại Hàn và khi gặp Trần Đức Lương, hai bên tuyên bố sẽ phát triển một “hợp tác chiến lược”, theo đó, ngoài việc Nga hợp tác với Việt Nam thăm dò và khai thác dầu hỏa, còn giúp xây dựng cho Việt Nam nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trị giá khoảng 3.5 tỷ mỹ kim và một nhà máy thủy điện tại Sơn La, tổn phí khoảng 2.6 tỷ.
Việc xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La đã gây ra một số chỉ trích, vì Sơn La là vùng có thể có động đất và vì bắt buộc phải di cư 100 ngàn người đi nơi khác. Tin đồn về việc di cư này mấy năm trước đã là một nguyên nhân gây ra biến loạn ở vùng Tây Nguyên. Ngoài ra, Việt Nam cũng nhờ Nga phóng giúp một vệ tinh truyền tin.
Vấn đề chính trong chuyến viếng thăm của Putin là Việt Nam sẽ tiếp tục mua võ khí của Nga. Từ 1990, việc sản xuất và bán võ khí vẫn là một nguồn xuất cảng lớn của Nga (báo chí Ấn Độ gọi tên Putin là chữ viết tắt của Planes–Uranium–Tanks–Infrastructures–Nuclears).
Putin đã khuyến khích Việt Nam mua thêm các chiến đấu cơ Sukhoi 27 (tầm hoạt động 3680 cây số), oanh tạc cơ Su-30 MK và có thể cả Mig-29. Hải quân Việt Nam cũng được tân trang. Việt Nam đã mua những tàu phóng hỏa tiễn và hệ thống phóng phi đạn chống chiến hạm Mosquito, với những phi đạn có thể bay thấp và bắn trúng mục tiêu trong vòng 120 cây số. Sau chuyến đi của Putin, Nga bán được cho Việt Nam hai dàn hỏa tiễn phòng không tối tân S.300 PMU1, có thể bắn trúng phi cơ cách xa 150 cây số. Nga đã bán cho Trung Quốc loại võ khí này và còn dự định bán cho Trung Quốc loại S.300 PMU2, tối tân hơn. Do ám ảnh áp lực của Trung Quốc, nhiều khi Việt Nam đã lén lút mua võ khí một cách ngoài qui ước. Chẳng hạn, tháng 10-2002, khi nhân viên hải quan St. Petersburg khám xét một thùng hàng lớn đưa về Việt Nam, ngoài thùng ghi là phụ tùng xe hơi, nhưng bên trong lại thấy một số hỏa tiễn phòng không tối tân nhất của Nga.
Để tiết kiệm ngân sách, trong chuyến đi Việt Nam, Putin cũng cho biết sẽ trả lại hải cảng Cam Ranh vào năm 2002, trước thời hạn giao kèo 2 năm. Tuy rất muốn hải cảng được Hoa Kỳ thuê lại, nhưng vì sợ mất lòng Trung Quốc, Việt Nam mời Trung Quốc là nước đầu tiên cho chiến hạm ghé thăm Cam Ranh. Hiểu thâm ý của Việt Nam, Trung Quốc cương quyết từ chối. Việt Nam sau đó tuyên bố sẽ biến Cam Ranh thành một thương cảng.
Sau khi Putin về nước, Nông Đức Mạnh và Trần Đức Lương cũng đã lần lượt sang Nga đáp lễ.
Cùng thời gian chuyến viếng thăm của Clinton và Putin là những cuộc viếng thăm của bộ trưởng quốc phòng Fernandes, ngoại trưởng Singh và thủ tướng Vajpayee của Ấn Độ. Đối với Việt Nam, Ấn Độ là một nước quan trọng vì đông dân, có thể chế tạo võ khí khá tối tân và nhất là thật tâm muốn bang giao chặt chẽ với Việt Nam.
Tuy nhiên, sau chuyến đi của Clinton, càng gần đến ngày đại hội đảng lần thứ IX, cuộc đấu tranh nội bộ đảng CSVN càng trở nên gay gắt nên tiến trình cải thiện bang giao với Hoa Kỳ bị ngưng trệ. Do áp lực của phe bảo thủ, chuyến viếng thăm của đô đốc Blair, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, dự trù vào ngày 15-1-2001 bất thình lình bị Việt Nam hủy bỏ và không cho biết lý do. Phải chờ một năm sau (sau khi Việt Nam đã để cho chiến hạm Yulin của Trung Quốc ghé cảng Sài Gòn ngày 22-11-2001), ngày 2-2-2002, đô đốc Blair mới chính thức đến thăm Việt Nam và đã gặp Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Văn Trà, Nguyễn Dy Niên. Trong các cuộc tiếp xúc, đô đốc Blair ngỏ ý Hoa Kỳ không muốn thuê lại hải cảng này nhưng mong là tàu bè của tất cả các nước có thể ghé lại khi cần thiết, nhưng sợ làm phật lòng Trung Quốc, Việt Nam đã từ chối.
Cũng trong hội nghị trung ương đảng lần thứ 10 (khóa VIII) vào tháng 7-2000, những điểm căn bản cho bản báo cáo chính trị của đại hội đảng lần thứ IX sẽ được tổ chức vào tháng tư năm 2001 được Nguyễn Phú Trọng đưa ra bàn thảo. Nội dung dự thảo báo cáo nói chung vẫn kêu gọi “phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Phương châm này chỉ giản dị là sẽ cố gắng để ưu tiên phát triển cho kinh tế quốc doanh vượt trội hơn kinh tế tư nhân.
Hội nghị trung ương cũng đánh giá vai trò của ban thường vụ bộ Chính Trị để tìm cách thay đổi. Tuy công khai tuyên bố theo đuổi đường lối ngoại giao “đa phương”, bản báo cáo chính trị chỉ nhấn mạnh đến cải thiện quan hệ với “những nước láng giềng, xã hội chủ nghĩa và bạn bè truyền thống” là Ai Lao, Campuchia, Trung Quốc và Nga mà không nhắc nhở gì đến Hoa Kỳ, Tây Âu hay các nước ASEAN. Với tư cách một thành viên của khối ASEAN, Việt Nam đặc biệt chỉ quan hệ thân thiết với Ai Lao và Miến Điện. Ai Lao là do bản chất thụ động cố hữu vẫn phụ thuộc vào Việt Nam trên nhiều lãnh vực, còn Miến Điện, do nền độc tài quân phiệt khiến bị cô lập đối với quốc tế nên rất thân cận và được cảm tình của những lãnh tụ CSVN. Riêng đối với Campuchia, do mối hận thù lịch sử và thái độ của cán bộ Việt Nam trong thời gian chiếm đóng sau 1979, nên dù chính quyền Hun Sen đã được Việt Nam thiết lập và hỗ trợ, đã không còn có quan hệ thực sự thân thiết như trước. Trong lúc đó, Trung Quốc tiếp tục phát triển ảnh hưởng ở Campuchia bằng cách giúp xây một xưởng đóng tàu lớn ở Kompong Som với phí tổn trên 500 triệu mỹ kim.
Thực ra chủ trương nhường nhịn Trung Quốc không hoàn toàn dành được sự đồng nhất trong đảng. Đầu năm 2001, địa vị của Lê Khả Phiêu có những dấu hiệu lung lay khi hội nghị trung ương đảng thảo luận về vấn đề tuổi tác, đã biểu quyết không cho những ủy viên trên 65 tuổi được tái cử. Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đều gần 70 nhưng điều này nhắm vào Lê Khả Phiêu nhiều hơn. Hai tuần sau, đúng ngày mà bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Trì Hạo Điền sang thăm Hà Nội, tại miền Nam, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bài tiết lộ chi tiết về hơn 300 vụ vi phạm của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam. Tờ báo cũng đăng thêm về kế hoạch bảo vệ và quản lý hành chánh của Việt Nam trên những hòn đảo. Điều này đã gây phản kháng từ phía bộ ngoại giao của Trung Quốc. Có lẽ đó là sự thách thức của phe đổi mới trong miền Nam đối với phe bảo thủ trong đảng ngoài Hà Nội trước khi có đại hội đảng. Ngoài ra, đó cũng là một cách trả đũa Trung Quốc của phe đổi mới đối với sự việc tháng 12-2000, trong ngày mà Trần Đức Lương sang Trung Quốc để đúc kết thỏa hiệp lãnh hải và thỏa hiệp đánh cá trong vịnh Bắc Việt, phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc đã lên tiếng xác nhận chủ quyền Trung Quốc trên địa phận tranh chấp Trường Sa. Trước sự phản kháng của bộ ngoại giao Trung Quốc, phát ngôn viên bộ ngoại giao Việt Nam trả lời bài trên Sài Gòn Giải Phóng là ý kiến của một “tờ báo địa phương”. Tuy nhiên, mấy ngày sau, báo Lao Động cũng đăng một bài trong đó ghi lại lời của Hà Văn Tấn, viện trưởng Viện Khảo Cổ nói đã đào được những di chỉ đồ sứ của Việt Nam từ thế kỷ 13 ở các đảo Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn Lớn, Phan Vinh, An Bang... chứng minh chủ quyền lâu đời của Việt Nam trong vùng Trường Sa.
Cũng trong tháng 2-2001, báo Tiền Phong đăng tin đã bắt giữ Phạm Văn Dũng, phó chủ tịch ủy ban nhân dân phường Hoàng Văn Thụ, Hà Nội về tội làm gián điệp (với ám chỉ là cho Trung Quốc).
Ngày 6 tháng 2 năm 2001, tại Đắc Lắc (Ban Mê Thuột) và Gia Lai (Pleiku), một biến động lớn xảy ra.(12) Khoảng năm ngàn người thuộc nhiều sắc dân thiểu số như Êđê, Jarai…nổi lên biểu tình phản đối chính quyền dung dưỡng, hợp tác với người Kinh liên tiếp chiếm đoạt đất đai của họ để lập đồn điền trồng cà phê, đồng thời ngăn cản họ không cho theo đạo Tin Lành. Họ cũng đòi được tự trị về chính trị.
Vì cà phê là một nguồn xuất cảng quan trọng (mấy năm gần đây mức xuất cảng cà phê của Việt Nam chỉ thua Colombia), dân người Kinh và ngay cả những “khu kinh tế quốc doanh” của quân đội đã lấn chiếm và khai phá đất đai của dân thiểu số địa phương.
Theo báo Quân Đội Nhân Dân ngày 27-2-2001, một “khu kinh tế quốc phòng” do binh đoàn 16 thành lập tại tỉnh Dak Lak từ 1999 đã chiếm tất cả 584.032 mẫu rừng, khai hoang để trồng cao su, bông vải, hạt tiêu, cà phê. Việc khai hoang và định cư dân từ các vùng khác cùng với sự tham nhũng của các viên chức hành chánh bắt ép dân địa phương đã gây ra những bất mãn dẫn tới bùng nổ thành biểu tình bạo động, nhất là khi có tin chính phủ trung ương dự định xây đập thủy điện ở Sơn La và sẽ dời khoảng 100 ngàn người (gốc người Thái) đi nơi khác mà nơi khác đó chắc chắn là vùng Tây Nguyên.
Để đối phó với những cuộc biểu tình, chính quyền địa phương phong tỏa toàn tỉnh, cấm phóng viên ngoại quốc đến lấy tin, kiểm soát đường dây điện thoại, sau đó, huy động công an, quân đội, xe xịt nước để đàn áp. Nhưng các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục nhiều ngày tại những địa điểm khác nhau. Khác với những cuộc biểu tình của nhân dân Thái Bình mấy năm trước chỉ phản đối về thuế khóa và những viên chức tham nhũng, cuộc biểu tình này liên quan đến những vấn đề lớn lao hơn như luật lệ về sở hữu đất đai, về tình trạng các sắc dân thiểu số, về tự do tôn giáo và tự trị chính trị.
Từ nhiều năm, do văn hóa và nếp sống khác nhau, những sắc dân thiểu số tại vùng Tây Nguyên đã khó hòa đồng vào nếp sống của người Việt. Sau 1955, những chính quyền liên tiếp ở miền Nam Việt Nam tương đối để cho họ tự trị và đưa ra nhiều biện pháp nâng đỡ. Dù vậy, năm 1964 đã xuất hiện một lực lượng chống đối là phong trào FULRO (Front Unifié de Lutte des Races Opprimées – Mặt trận Đoàn kết những Chủng tộc bị áp bức) nổi loạn trong vùng Tây Nguyên. Cuộc nổi loạn này bị dập tắt nhanh chóng và những người cầm đầu chạy qua Campuchia. Sau 1975, do kinh tế Việt Nam tồi tệ, đời sống của người dân thiểu số càng khốn khó hơn. Ngoài những túng quẫn về vật chất, họ còn bị chính quyền tìm cách trói buộc về nhiều phương diện sinh hoạt, nhất là bóp nghẹt quyền tự do tín ngưỡng của họ, đặc biệt với những người theo Công Giáo hay Tin Lành. Vì thế, sau nhiều năm bị chèn ép, họ đã nổi lên biểu tình phản đối.
Trước những cuộc biểu tình của dân chúng Tây Nguyên, bộ Chính Trị đảng phải họp phiên họp bất thường ngày 10-02-2001 để tìm cách đối phó. Trước hết, chính quyền trung ương ra lệnh buộc một số viên chức hành chánh tỉnh Đắc Lắc phải xuống ở luôn trong các buôn ấp sinh hoạt với dân chúng và giải quyết nhanh chóng những tranh chấp khiếu nại. Các phái đoàn đảng và chính phủ lần lượt đến tận nơi tra xét. Đầu tiên là Nguyễn Tấn Dũng đến cao nguyên tháng 2-2002, tiếp theo là Phạm Thế Duyệt, Phan Văn Khải đến vào tháng 3, rồi Lê Minh Hương (bộ trưởng công an) đến vào tháng 7 và cuối cùng, Nông Đức Mạnh đến vào tháng 9.
Những biện pháp lấy lòng dân được hứa hẹn, chẳng hạn như lập nhà máy điện, mở bệnh viện, trường học, lấy đất công cấp phát cho dân nghèo…Công tác tuyên truyền cũng được đẩy mạnh, chương trình phát thanh và truyền hình của các sắc tộc khác nhau (Êđê, Jarai, Koho, Mnong, Sedang…) tăng thêm thời gian. Học sinh, sinh viên sắc tộc được tăng trợ cấp và quần áo. Sách báo tuyên truyền ca tụng chính sách về sắc tộc của đảng được in và phân phát, hình Hồ Chí Minh được phát không… Sau đó, một số đất đai bị chiếm lãnh được trao trả bớt lại. Tại Dak Lak, trả lại 165 ngàn mẫu, tại Lâm Đồng 66 ngàn mẫu.
Song song với các biện pháp xoa dịu, chính quyền đổ thừa những vụ biểu tình là nằm trong âm mưu diễn biến hòa bình của những thế lực thù nghịch và bắt giữ những người bị nghi là chủ mưu. Chính quyền tuyên bố đã bắt giữ khoảng 20 người, gán những người này là thuộc về lực lượng FULRO từng làm loạn đòi tự trị tại Miền Nam bốn mươi năm trước. Họ tố cáo người cầm đầu là Ksor Kok, hiện định cư tại Hoa Kỳ, mưu định thành lập quốc gia Degar trên vùng Tây Nguyên. Dù đã có các biện pháp xoa dịu song song với đàn áp, sự bất mãn của những sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên vẫn âm ỉ. Hàng ngàn người, phần lớn là đàn bà và trẻ em bỏ trốn sang Campuchia. Trong số người này chỉ có một số nhỏ được đi định cư tại những quốc gia khác. Số còn lại bị chính phủ Campuchia đẩy trở về Việt Nam.
Tuy đã có những biện pháp xoa dịu và đàn áp, những bất mãn của những sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên vẫn còn âm ỉ. Bị áp lực dư luận của Mỹ, đại sứ Peterson đã lên vùng Tây Nguyên quan sát vào tháng 7-2001, nhưng khi trở về, ông than phiền là không được trực tiếp tiếp xúc với dân chúng. Chính quyền Hà Nội cũng mời Hội Đồng Đặc Trách Về Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ cử một phái đoàn đến Việt Nam quan sát vào tháng 2-2002. Tuy nhiên, phái đoàn đã không được gặp những hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ, linh mục Nguyễn Văn Lý hay ông Lê Quang Liêm của Phật Giáo Hòa Hảo…
Hà Nội phản ứng dữ dội khi hai tháng sau, Human Rights Watch đưa ra một bản báo cáo dày 200 trang nhan đề Đàn Áp Những Người Miền Núi lên án chính quyền CSVN. Trước đó, ngày 6-9-2001, Hạ Viện Hoa Kỳ biểu quyết đạo luật HR 2833 xác nhận không có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng đạo luật này bị thượng nghị sĩ Kerry kềm lại không cho đưa ra Thượng Viện biểu quyết.
Ba năm sau, chính quyền Việt Nam vẫn còn loan báo những xáo động lẻ tẻ vào các ngày lễ Phục Sinh hay Giáng Sinh năm 2004.
Lợi dụng biến cố Tây Nguyên, trước kỳ họp chót của hội nghị trung ương đảng lần thứ 12 để quyết định cải tổ nhân sự vào dịp đại hội đảng, Lê Khả Phiêu đã thuyết phục đa số ủy viên bộ Chính Trị là trong lúc tình hình đang biến động, không nên thay đổi lãnh đạo. Dù vậy, khi hội nghị trung ương đảng họp, ý kiến này bị bác bỏ.
Ngoài ra, vì bị Đỗ Mười và Lê Đức Anh kềm chế, Lê Khả Phiêu đã dùng tổng cục 2 đặt máy nghe lén điện thoại của các ủy viên bộ Chính Trị để theo dõi hành động và mưu định của họ, đồng thời cũng điều tra những ủy viên có trương mục tại những ngân hàng ngọai quốc. Công tác nghe và điều tra lén này mang ám số A10 bị Lê Văn Dũng và Phạm Văn Trà báo cáo cho Lê Đức Anh vào tháng 6-2000. Lê Đức Anh, dù đã được báo cáo sớm, đã giấu đi tin này để chờ mấy tháng sau, khi trung ương đảng họp về nhân sự lãnh đạo cho đại hội đảng lần thứ IX mới đưa ra, nhằm mục đích hạ Lê Khả Phiêu.
Phạm Văn Trà và Lê Văn Dũng đã được che chở, chỉ bị khiển trách trong hội nghị. Phạm Văn Trà sau đại hội IX vẫn được giữ làm bộ trưởng quốc phòng và ở lại bộ Chính Trị tuy bị sụt thấp 2 hạng, còn Lê Văn Dũng tuy cũng bị khiển trách vì vụ Lý Tống và bị mất chức tham mưu trưởng quân đội, nhưng vẫn được chuyển qua làm chủ nhiệm tổng cục chính trị và được vào ban bí thư. Thay thế Lê Văn Dũng trong chức tham mưu trưởng quân đội là tư lệnh quân khu I Phùng Quang Thanh
Ngoài Phạm Văn Trà và Lê Văn Dũng, ba đảng viên cao cấp khác bị khiển trách và sau đó mất chức là Đoàn Văn Kiên, Hoàng Đức Nghi và Hà Quang Dự.
Đoàn Văn Kiên là tổng giám đốc tổng công ty than đá Vinacoal, vì quản lý sai lầm, than sản xuất ra không ai mua ứ đọng 4 triệu tấn phải bán phá giá và khiến một số lớn nhân công phải nghỉ việc. Hoàng Đức Nghi, chủ tịch ủy ban sắc tộc vì đã để xảy ra biến cố Tây Nguyên, và nhất là đã xảy ra thất thoát vì ăn cắp, hối lộ khỏang 70% ngân sách phát triển cho đồng bào sắc tộc. Chẳng hạn khi mua những máy truyền thanh cho dân thiểu số nghe đài tại Cao Bằng thì những máy này lại chỉ nghe được đài Trung Quốc mà không nghe được đài Cao Bằng cách đó có 8 cây số. Trong khi đó, Hà Quang Dự, chủ tịch ủy ban thể dục thể thao, vì có quá nhiều gian lận trong những cuộc tranh giải thể thao. Riêng Lê Khả Phiêu bị khiển trách, phê bình về việc nghe lén điện thoại và mất chức tổng bí thư.
Đại hội đảng lần thứ VIII của đảng CSVN họp vào giữa năm 1996 là lúc mà sự tranh chấp quyền lực giữa bộ ba Mười, Anh, Kiệt cầm quyền trở nên gay gắt. Sự tranh chấp này chỉ giải quyết được vào hơn một năm sau, nhưng vì những người thay thế như Phiêu, Lương, Khải đều yếu thế nên vai trò chính trị cũng như ảnh hưởng của bộ ba kể trên vẫn tồn tại cho tới hết nhiệm kỳ năm năm của đại hội. Trong thời gian đó, Lê Khả Phiêu đã được đưa lên cầm quyền như một biện pháp hòa giải.
Vì kém khả năng, không có hậu thuẫn vững mạnh trong đảng và lại phải cầm quyền trong một thời gian mà tình hình quốc tế và quốc nội gặp nhiều khó khăn, Lê Khả Phiêu đã không có được một biện pháp lãnh đạo mạnh mẽ nào để cải thiện tình hình trong mọi phương diện như kinh tế, nội an hay bài trừ tham nhũng…
Tệ hại hơn nữa, căn bản là một chính trị viên, trong sự chọn lựa giữa ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và quyền lợi quốc gia, Lê Khả Phiêu đã nghiêng nhiều về ý thức hệ và nhượng bộ Trung Quốc quá nhiều, nhất là về lãnh thổ, lãnh hải, với hy vọng lấy lòng những phần tử bảo thủ (phần lớn do Đỗ Mười và Lê Đức Anh chi phối) hầu giữ nguyên được quyền vị.
Nhìn chung, do tình trạng kinh tế sa sút, tệ nạn tham nhũng trong đảng và chính quyền gia tăng, sự bộc phát bất mãn của nhân dân ở Thái Bình, Đồng Nai, Tây Nguyên cùng với sự thao túng của Đỗ Mười và Lê Đức Anh.., Lê Khả Phiêu đã bị loại khỏi phạm vi quyền lực sau khi mới làm tổng bí thư được hơn nửa nhiệm kỳ.
CHÚ THÍCH CHƯƠNG V
___________________________________________
(1)— Nguyễn Văn Linh vẫn được coi như người bắt đầu phong trào Đổi Mới ở Việt Nam, nhưng về sau, ông ta rất sợ bị gọi là Gorbachev Việt Nam. Ông ta gọi Gorbachev là kẻ “cơ hội”. Các cán bộ cốt cán khác cũng thù Gorbachev và Yeltsin, hai người đã phá sập cái thiên đường của họ. Nhà xuất bản Công An Nhân Dân đã ấn hành cuốn sách Sự Phản Bội của Gooc Ba Trốp qui lỗi cho Gorbachev về sự sụp đổ của khối cộng.
(2)— Việc mất chức của Nguyễn Hà Phan, tài liệu mật của đảng CSVN ghi:“trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, khi đồng chí Nguyễn Hà Phan bị bắt và giam cầm, đã không giữ được danh dự của người cộng sản, tiết lộ cho địch những cơ sở nằm vùng. Sau khi được tha năm 1964, đồng chí không báo cáo những sai lầm với đảng. Lỗi lầm của đồng chí Nguyễn Hà Phan rất nghiêm trọng. Trung ương đảng quyết định xử lý kỷ luật với đồng chí Nguyễn Hà Phan và trục xuất khỏi đảng” (Trích Shadows and Wind - Robert Templer). Lỗi lầm của Nguyễn Hà Phan cũng như quyết định mật đó của trung ương đảng chắc do phe Võ Văn Kiệt tiết lộ.
(3)— Lý Quí Chung trước khi chết đã viết cuốn Hồi Ký Không Tên. Người viết không biết nhiều về cá nhân ông, nhưng qua hành động, ông điển hình là một người “cách mạng 30”. Trước 30-4-1975, ông từng đối lập với chính phủ VNCH, nhưng chính phủ đó vẫn nương nhẹ, để cho ông viết báo chỉ trích chánh phủ, kiếm tiền, làm dân biểu, đi ngoại quốc. Bạn bè ông, người thân của ông đi tù, trong nhật ký của ông, ông không viết một lời thông cảm. Nhật Ký Không Tên chỉ ghi lại những hậm hực vì không được trọng dụng. Trong khi Lý Chánh Trung còn được cho làm dân biểu bù nhìn một nhiệm kỳ, Lý Qúi Chung bị kéo ra Hà Nội làm một phóng viên quèn cho báo Lao Động một thời gian. Một chuyện khác, trong khi cả những cán bộ cộng sản cao cấp cũng công nhận lỗi lầm về việc cải tạo công thương nghiệp sau 1975 thì trong Nhật Ký Không Tên của Lý Qúi Chung, điều duy nhất mà ông ấm ức là chính quyền đã tịch thu nhà của cha ông, khi “tại tòa báo vào thời điểm đó, tôi tuyên truyền cho các cuộc cải tạo tư sản mại bản, công thương nghiệp, tư sản tư doanh “. Bỏ rơi những người quốc gia, nhưng những người cộng sản chính thống cũng không coi ông ra gì, ông là điển hình của giai cấp lưng chừng, “phi cầm phi thú”.
(4)— Vụ đàn áp dân Thái Bình
(5)— Kaysone Phomvihane sinh năm 1920, nói được tiếng Việt, cha là người Việt (tên Nguyễn Trí Loan?), là người thực sự chỉ huy đảng cộng sản Ai Lao đằng sau Souphanouvong. Làm tổng bí thư kiêm thủ tướng từ 1975 đến 1991 thì từ chức, lên làm chủ tịch nước. Chết năm 1992, được Việt Nam bỏ tiền ra làm một viện bảo tàng kỷ niệm Phomvihane rất lớn. Mấy năm gần đây, vì Trung Quốc muốn tranh giành ảnh hưởng với Việt Nam tại Lào, cho nên năm 2006, họ làm một cái tượng của Phomvihane cao 8.5m để đặt trước nhà bảo tàng này.
Xin đọc: Ai Lao: đất và người của Hàn Lệ Nhân, website Vietnamexodus.
(6)— Vụ án Trịnh Vĩnh Bình và Phương Vicarrent, xin đọc bài của Trần Quốc Hoàn (bút hiệu) và bài của ký giả Trọng Kim (báo Ngày Nay) trên website Đàn Chim Việt. Người viết Trần Quốc Hoàn, có lẽ là một viên chức trong bộ công an nên đã rất rõ về Nguyễn Khánh Toàn. Nguyễn Khánh Toàn là nhân vật số 2 trong bộ công an, vào năm 2007 còn bị tai tiếng về gian lận nhà đất. Ông Hoàn cho biết vợ Nguyễn Khánh Toàn là Phạm Gia Liên có hùn hạp làm ăn với Ngô Chí Đan.
(7)— Theo Sheri Prasso, người ra lệnh cho Phan Văn Khải không ký BTA là Đỗ Mười dù lúc đó Đỗ Mười không còn là tổng bí thư, cũng không là ủy viên bộ Chính Trị mà chỉ là “cố vấn”. Mấy năm sau, trong một hội nghị trung ương đảng, nhiều ủy viên đã chỉ trích gay gắt Đỗ Mười làm trái nguyên tắc. Lúc này Đỗ Mười đã hết là cố vấn. Xin coi ở đây
(8)—- Chuyến đi của Phạm Thế Duyệt sang Trung Quốc năm 1999, ngoài việc tham khảo ý kiến về thỏa ước BTA, còn để học hỏi thêm về việc phát triển Mác xít khi thực hành kinh tế tư bản. Để biện luận điều này, ủy viên bộ Chính Trị Trung Quốc Li Ruihuan nói rằng “chủ nghĩa Mác không gạt bỏ mà còn hấp thụ tất cả những thành tựu của văn minh loài người”.
(9)— Trong lễ ký kết thỏa ước, Phan Văn Khải đến tham dự, nhưng Chu Đông Cơ không đến, mà chỉ cử Wang Yi, trưởng phái đoàn thương thuyết của Trung Quốc, tương đương với cấp thứ trưởng thay mặt mà thôi.
(10)— Theo Bùi Tín, khi Lê Khả Phiêu sang Pháp ,dẫn một phái đoàn hùng hậu hơn một trăm người, nhưng T.T Chirac không muốn tiếp nên gửi thông tư cho chính phủ để thủ tướng Jospin tiếp. Thủ tướng lấy cớ chính phủ không mời nên làm lơ. Bộ trưởng Ngoại Giao lấy cớ bận việc bỏ đi nơi khác. Báo chí Pháp cũng không có báo nào đăng tin về cuộc viếng thăm.
(11)— Cuộc đời Lý Tống là một cuộc đời bất khuất nhưng cũng ly kỳ không kém những nhân vật của Jack London và đã được kể lại trong báo Reader’s Digest. Ông mãn hạn tù (lần thứ ba) ở Thái Lan năm 2007, CSVN đòi dẫn độ ông về Việt Nam. Mới đầu, tòa sơ thẩm đồng ý nhưng ngày 3-4-2007, tòa phúc thẩm bác bỏ vì hành động của Lý Tống đối với Việt Nam có tính cách chính trị và luật Thái Lan không cho phép dẫn độ tù chính trị. Ông trở về Hoa Kỳ tháng 4-2007. Tổng cộng ông đã ở tù 21 năm. Trong lần đầu vượt ngục từ Việt Nam tới Singapore, ông được chuyển qua trại Galant để cứu xét định cư, một hội đoàn gửi tặng 500 mỹ kim, ông đã không dùng và bỏ vào quĩ giáo dục trẻ em tị nạn trên đảo.
(12)— Vụ xáo trộn Tây Nguyên: Thunder from the Highlands của Margot Cohen trong tập san Far Eastern Economic Review số tháng 3-2001.
SAU ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ VIII (1996-2001)
Năm năm trước, năm 1991, đại hội lần thứ VII của đảng CSVN đã diễn ra trong hoàn cảnh đổ vỡ tan nát của đế quốc cộng sản Nga Xô. Do bị mất phương hướng và khủng hoảng ý thức hệ, đại hội đó đã bầu ra một ban lãnh đạo tam đầu chế gồm Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt để dò dẫm đi tìm một “định hướng xã hội chủ nghĩa” mới.
Vì mục tiêu của những đảng viên, nhất là những cấp ủy trở lên là muốn giữ đặc quyền đặc lợi của họ, trong khi nhờ đổi mới, đời sống người dân và kinh tế quốc gia có tiến bộ rõ rệt nên một mặt, chính quyền cộng sản gần như bỏ rơi giáo điều phát triển kinh tế của Mác mà theo đuổi kinh tế thị trường, mặt khác, họ vẫn giữ những chính sách căn bản của Lênin và Stalin để nắm vững nền độc tài chuyên chế. Tuy nhiên, trong nội bộ đảng đã có những khuynh hướng khác nhau. Khuynh hướng bảo thủ muốn tăng cường sự lãnh đạo của đảng trên mọi lãnh vực, và về kinh tế, muốn dồn nỗ lực để phát triển trở lại nền kinh tế quốc doanh, cho nên luôn luôn tìm cách kềm hãm những biện pháp đổi mới. Trong khi đó, phe đổi mới muốn tăng cường quyền lực cho chính phủ và quốc hội, phát triển thêm mặt kinh tế tư doanh để không phải tài trợ mãi cho những xí nghiệp nhà nước luôn luôn kinh doanh lỗ lã.
Bốn năm sau đại hội VII, gần đến ngày đại hội VIII là thời gian mà đảng cộng sản sửa soạn bầu ra một số nhân sự lãnh đạo và phác họa một đường hướng mới cho năm năm kế tiếp thì sự phân hóa và tranh chấp quyền lực trong bộ Chính Trị càng trở nên trầm trọng.
Các phần tử bảo thủ trong bộ Chính Trị, gồm Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan… lúc đó đang nắm hầu hết những ngành quan trọng trong đảng và chính phủ như quốc phòng, công an, thông tin, báo chí đã cố gắng ngăn chặn, kềm hãm những đường lối và hoạt động có hại cho ưu quyền của họ.
Về thông tin, họ giới hạn hơn nữa quyền tự do báo chí và bắt đầu một đợt bắt giam những người chống đối. Càng đến ngày đại hội đảng để bầu bộ Chính Trị mới (lần thứ VIII vào cuối tháng 6-1996), phe bảo thủ càng ra sức đàn áp để lấy lòng các đảng viên cao cấp hiện đang nắm trong tay những cơ quan, đơn vị… có nhiều quyền lực hay tiền bạc.
Tháng giêng 1995, công an lại bắt giữ hoà thượng Quảng Độ và xử 5 năm tù về tội “phá hoại chính sách nhà nước”. Hòa thượng Huyền Quang cũng bị quản thúc tại gia. Những hòa thượng chùa Viên Giác, Hội An (Thích Trí Lục), chùa Thiên Mụ (Thích Không Tánh), chùa Liên Trì cũng bị bắt. Năm 1996, lấy cớ chùa Thiên Mụ là địa điểm lịch sử, chính quyền đuổi hai tu sĩ Thích Hải Thịnh và Thích Hải Chánh ra khỏi chùa. Trước sự đàn áp trắng trợn này, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng phải lên tiếng can thiệp vào tháng 1-1996. Sau đó, ông Hoàng Minh Chính, một người đã ở tù nhiều năm về tội “xét lại” cũng bị bắt và bị xử mười hai tháng tù. Ông Đỗ Trung Hiếu, một đồng chí của Nguyễn Hộ trong Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ bị mười lăm tháng tù. Tháng sau, sau khi theo dõi, công an bắt thêm các ông Hà Sĩ Phu, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang về tội có được bản sao dự thảo báo cáo “Tối Mật” của Võ Văn Kiệt gửi cho trung ương đảng. Ba tháng sau, ông Hà Sĩ Phu bị kết án một năm tù, ông Lê Hồng Hà 4 năm tù, và ông Nguyễn Kiến Giang 15 tháng tù, dù trước tòa án, chánh án Nguyễn Sơn và công tố viên Phùng Tiến Lập không cho phép tiết lộ nội dung bức thư và không trả lời được tại sao một lá thư riêng của Võ Văn Kiệt lại là “tối mật quốc gia”.
Bản dự thảo báo cáo chính trị “Tối Mật” nêu trên được Võ Văn Kiệt viết vào tháng 8-1995 gửi cho những ủy viên bộ Chính Trị nhằm tranh thủ sự ủng hộ của họ trước khi đại hội đảng khai diễn. Bản dự thảo vẫn công nhận sự độc tôn của đảng cộng sản nhưng có những nhận xét và đề nghị tương đối tiến bộ và táo bạo, đại cương gồm những điểm như sau:
- Yếu tố quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia không còn là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc nữa mà đa diện, đa cực. Quyền lợi mỗi quốc gia, mỗi vùng, trở nên quan trọng hơn trước. Để đối phó với hoàn cảnh mới, Việt Nam phải cải tổ lại mối bang giao quốc tế.
- Bốn quốc gia cộng sản còn lại (Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba) phải đặt quan hệ trên nền tảng quyền lợi quốc gia chứ không trên nền tảng xã hội chủ nghĩa và mỗi nước phải theo con đường phát triển riêng. Triển vọng về sự vùng dậy của phong trào cộng sản và giai cấp công nhân rất thấp, không còn cơ hội phục hồi.
- Quan niệm kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo là một tiêu chí cho định hướng xã hội chủ nghĩa là không đúng. Kinh tế quốc doanh chỉ là một trong những yếu tố quan trọng, không nên đặt vấn đề ưu tiên cho kinh tế quốc doanh. Một minh chứng là trong những năm trước khi có đổi mới, kinh tế quốc doanh đã không thể động viên hết tài nguyên hay tạo ra công việc một cách hữu hiệu và hiện nay, năng suất lao động và mức độ hữu hiệu của kinh tế quốc doanh rất thấp so với các thành phần kinh tế khác.
- Không thể đổ lỗi cho kinh tế thị trường về các hiện tượng tiêu cực như tham nhũng, phí phạm, ăn cắp của công…vì những đơn vị quốc doanh cũng có hành vi làm ăn trái luật pháp. Những phương tiện giao thông vận tải của quốc doanh, trong đó có cả những cơ sở kinh doanh của quân đội, cũng tham gia buôn lậu.
- Phải tạo một môi trường kinh tế xã hội thông suốt, minh bạch để người dân có thể yên tâm làm ăn. Đầu tư và kinh doanh ngoại quốc đã đánh giá cao tiềm năng và sự ổn định chính trị của Việt Nam, nhưng e ngại về môi trường làm ăn.
- Việt Nam phải không ngần ngại học hỏi cách quản lý của các nước tư bản, đặc biệt là cách kiểm soát ngân quĩ, hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán.
Về phương diện chính trị, Võ Văn Kiệt vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng CSVN, nhưng muốn tăng cường quyền lực của chính phủ:
- Chức năng giữa đảng và nhà nước cần phân định rõ ràng hơn. Phải bỏ cơ chế chính ủy, quyền lực quyết định tại chỗ, sắp xếp theo yêu cầu chính trị, bộ máy đảng song trùng và nhiều khi đứng trên hoặc làm thay bộ máy chính quyền. Đảng phải ngưng việc đưa chỉ thị qua các bí thư đảng ủy mà phải đưa qua hệ thống chính phủ để cho viên chức chánh phủ lãnh nhiệm vụ thi hành.
- Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường quyền lực và khả năng hoạt động của các cơ quan dân cử như quốc hội, hội đồng nhân dân. Cả nước chỉ có một cơ quan duy nhất có tính năng và quyền lực lập pháp là quốc hội.
Cuối cùng, Võ Văn Kiệt kết luận là trong thời gian hiện tại, đảng nên chú tâm vào việc phát triển quốc gia và tạm thời quên đi việc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo báo cáo của Võ Văn Kiệt chỉ được những chuyên viên, những viên chức hành chánh và một số đảng viên cấp tiến hoan nghênh, nhưng đa số đảng viên đều theo về phe bảo thủ đã chống lại, nhất là những đảng viên trong quân đội, công an và thông tin văn hóa, đứng đầu là Đỗ Mười và Lê Đức Anh.
Trong khi Lê Đức Anh luôn qui lỗi gây ra tệ đoan xã hội cho những biện pháp đổi mới và cảnh cáo về âm mưu “diễn biến hòa bình” thì Đỗ Mười đi khắp nơi, gián tiếp chỉ trích những đề nghị của Võ Văn Kiệt.
Ngày 7-5-1996, trong cuộc họp đảng tại Hà Nội, Đỗ Mười kêu gọi khu vực quốc doanh nên tiếp tục phát triển để nắm vai trò lãnh đạo trong việc sản xuất, phát huy kỹ thuật và mở rộng thị trường… Hôm sau, tại Sài Gòn ông ca ngợi sự phát triển kinh tế nhanh chóng của thành phố nhờ những xí nghiệp tư nhưng cũng bày tỏ lo ngại là cạnh tranh nước ngoài có thể khiến kinh tế quốc gia thành “một thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ngoài và thành một nguồn cung cấp nguyên liệu thô”. Ngoài ra, ông còn nói khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa có thể kiểm soát, khiến gây ra tệ trạng tham nhũng, buôn lậu…, tạo điều kiện thuận lợi cho những âm mưu diễn biến hòa bình gồm có âm mưu gây bất ổn chính trị, phá hoại kinh tế, làm ô nhiễm văn hóa ngõ hầu sẽ lật đổ chính quyền cách mạng. Đỗ Mười không quên chỉ thị công an TP.HCM phải sẵn sàng đập tan mầm mống phản động kể cả việc đàn áp những đồng chí cũ như Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn.
Nguyễn Văn Trấn từng ở trong ban bí thư trung ương đảng trước 1975. Sau khi viết cuốn Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội, ông thường xuyên bị theo dõi, khiêu khích và đe dọa. Còn Nguyễn Hộ, gần đến ngày đại hội đảng, đã viết thư cho các đại biểu khắp nơi kêu gọi ủng hộ những đề nghị cải cách trong bản dự thảo của Võ Văn Kiệt. Sợ bắt giữ ông trong thời gian đại hội có thể gây náo loạn, công an chỉ bắt đầu cô lập ông sau ngày đại hội. Đường dây điện thoại bị cắt, những người đến thăm bị tra hỏi hay bắt giữ (trong số những người đến thăm ông có nhà thơ Phùng Quán, khi về, ông bị bắt về tội phê bình đảng nhưng sau đó được thả ra. Phùng Quán đã viết thư đòi phải đưa ông ra tòa).
Để tăng thêm uy thế, cuối tháng 5, Đỗ Mười áp lực để học viện chính trị Hồ Chí Minh trao tặng huy chương Sao Vàng cho ông ta. Đồng thời để giảm uy tín của Võ Văn Kiệt, hai cán bộ lãnh đạo công an là Lê Minh Hương và Nguyễn Đình Hướng bắt giữ những ông Hà Sĩ Phu, Nguyễn Trung Thành, Lê Hồng Hà…tố cáo họ hoạt động cho âm mưu “diễn biến hòa bình”
Nhìn chung, tình hình trước ngày đại hội đảng có vẻ bất lợi cho Võ Văn Kiệt và phe cấp tiến. Trong hội nghị trung ương đảng năm 1994, số đảng viên được đề cử để trở nên ủy viên trung ương đảng phần lớn được tuyển lựa từ các địa hạt thuần túy chính trị hay từ các xí nghiệp quốc doanh nhiều hơn. Hội nghị này còn bầu thêm bốn người vào bộ Chính Trị, gồm Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Hà Phan và Đỗ Quang Thắng (đang là bí thư tỉnh ủy tỉnh Quảng Ngãi). Trong số những ủy viên bộ Chính Trị, số ủy viên cấp tiến chiếm thiểu số vì khối quân đội và công an (gồm 6 người) luôn luôn đứng về phe bảo thủ. Số còn lại thường e dè và cũng hay nghiêng về phe bảo thủ, chẳng hạn như Lê Xuân Tùng, một phụ tá của Nguyễn Văn Linh trước kia, sau là bí thư thành ủy Hà Nội, đã gián tiếp chỉ trích Võ Văn Kiệt đi sai đường lối xã hội chủ nghĩa. Ngay cả Nguyễn Văn Linh cũng tỏ ý hối tiếc về một số biện pháp đổi mới mà ông ta đã đưa ra.(1)
Thấy xu hướng bảo thủ trên đà thắng thế và bộ ba Đỗ Mười (79 tuổi), Lê Đức Anh (76 tuổi), Võ Văn Kiệt (74 tuổi) chắc sẽ phải về hưu, Đào Duy Tùng mưu toan cùng Nguyễn Hà Phan (năm 1994 vào bộ Chính Trị, được cử làm trưởng ban kinh tế của đảng) tranh chức tổng bí thư và thủ tướng trong đại hội đảng sắp tổ chức vào tháng 6-1996. Nguyễn Hà Phan cũng là người từng chỉ trích và xách động loại trừ Trần Xuân Bách khỏi trung ương đảng mấy năm trước. Để lấy lòng phe bảo thủ, ngày 1-4-1996, Đào Duy Tùng, ra một chỉ thị cho các cấp nhằm đàn áp báo chí. Chỉ thị này cảnh báo có “những thế lực thù nghịch” đang cấu kết để phá hoại chế độ nên các cấp chính quyền phải tăng cường kiểm soát báo chí và nghiêm trị mọi lỗi lầm sai phạm. Đối với báo chí nước ngoài, Đào Duy Tùng chỉ thị cho bộ ngoại giao, bộ thông tin văn hóa phải theo dõi nghiêm nhặt và “pháp luật cần áp dụng chặt chẽ đối với những nhà báo nước ngoài loan tin tức xuyên tạc đường lối và chính sách của Đảng”. Chỉ thị cũng ra lệnh cho bộ ngoại giao, bộ thông tin văn hóa, bộ khoa học kỹ thuật, nha bưu điện, bộ công an — trong đó có cục A25 phụ trách kiểm soát báo chí, cục A42 bảo vệ chính trị — theo dõi kiểm soát điện thoại, điện thư … Đồng thời, trước ngày đại hội, bộ trưởng thông tin văn hóa Trần Hoàn thông báo bắt buộc các phóng viên phải học tập về chính sách của đảng. Tất cả cơ quan truyền thông phải học tập để thông suốt hết về “định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ký giả Adam Schwarz, báo Viễn Đông Kinh Tế — Far Eastern Economic Review bị trục xuất. Là người làm việc lâu năm ở Việt Nam, Schwarz nhận xét là trong chính sách của CSVN, có tương quan nghịch giữa cởi mở kinh tế và cởi mở chính trị. Ông ta viết: “Những nhà phân tích nhận thấy mỗi khi có một biện pháp cởi mở quan trọng về kinh tế, thế nào cũng kèm theo một biện pháp thắt chặt sự kiểm soát về an ninh”.
Ngoài ra, để làm nản lòng những nhà đầu tư ngoại quốc và làm mất mặt phe đổi mới, công an (thuộc phe Đào Duy Tùng) trước ngày đại hội đảng đã cho đóng cửa các quán karaoke và gỡ bỏ các bảng quảng cáo thương mại có chữ ngoại quốc như Coca Cola, Daewoo, Sony.... Đảng ra lệnh chính phủ ngưng cấp tất cả visa nhập cảnh vào Việt Nam trong thời gian đại hội đảng nhằm gây khó khăn cho những công ty nước ngoài có chi nhánh ở Việt Nam. Người ngoại quốc di chuyển trong quốc nội bị gây rắc rối ở phi trường. Việt kiều về nước làm ăn bị làm khó dễ — điển hình là Nguyễn Trung Trực hãng Peregrine. Một qui định kiểm soát chặt chẽ những điện thư được ban hành. Hai nhật báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân mỗi tuần đăng ít nhất ba bài bình luận kêu gọi cảnh giác với người nước ngoài.
Đồng thời, Đào Duy Tùng phổ biến bản dự thảo báo cáo của Võ Văn Kiệt gửi bộ Chính Trị cho các ủy viên trung ương đảng. Do nỗi lo ngại bị mất quyền lợi và địa vị, đa số ủy viên trung ương đã đồng ý đề cử Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan (trưởng ban kinh tế đảng) và Phan Văn Tiệm (trưởng ban vận động đổi mới xí nghiệp quốc doanh) được viết bản báo cáo chính trị cho đại hội — tài liệu quan trọng mà đại hội đảng sẽ dựa theo để quyết định hướng cai trị suốt năm năm sau đó.
Bản dự thảo này nghiêng nhiều về định hướng xã hội chủ nghĩa, dành ưu tiên cho việc phát triển xí nghiệp quốc doanh, đặt chỉ tiêu cho xí nghiệp quốc doanh phải chiếm 60% kinh tế cả nước. Không có một điều gì trong dự thảo cải cách của Võ Văn Kiệt được nhắc đến.
Bản dự thảo báo cáo chính trị được sửa đi sửa lại 3 lần. Trong bản thảo hai lần đầu, về kinh tế cũng như ngoại giao, tuyệt đối không đề cập đến việc gia nhập khối ASEAN, một biến cố quan trọng đã giúp cho Việt Nam phát triển kinh tế mau chóng và thoát khỏi tình trạng bế tắc ngoại giao. Chuyện này chỉ được nhắc đến một cách sơ lược sau khi các đại sứ của ASEAN đọc được bản thảo thứ hai và đã phản đối.
Về nhân sự, Đào Duy Tùng đã cùng Lê Đức Anh loại tướng Đào Đình Luyện ra khỏi chức tham mưu trưởng quân đội cùng với một số tư lệnh quân khu. Đào Đình Luyện được coi là người ủng hộ Võ Văn Kiệt và là một trở ngại cho Lê Đức Anh khi Lê Đức Anh muốn thao túng hết những ủy viên trung ương trong quân đội. Phạm Văn Trà, tư lệnh quân khu III, từng phục vụ dưới quyền Lê Đức Anh, được cử lên thay Đào Đình Luyện.
Đào Duy Tùng cũng nhân dịp này tìm cách nâng đỡ cho con là Đào Duy Quát đang làm phó viện trưởng Viện Nghiên Cứu chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh vào trung ương đảng. Vì chỉ viện trưởng mới có thể được cử vào trung ương nên năm 1996, Đào Duy Quát đã mưu toan dựa vào thế lực của cha để lật đổ viện trưởng là Đặng Xuân Kỳ (con Trường Chinh), bằng cách dùng Trần Đình Nghiêm tố cáo là trong một buổi hội thảo tại viện, có hai diễn giả nói chuyện không đúng đường lối và chống lại chủ trương của Đỗ Mười. Dù có sự tiếp tay của Đỗ Mười, mưu toan này bị thất bại.
Gần đến ngày đại hội, Võ Văn Kiệt càng yếu thế hơn khi một cộng sự viên là thứ trưởng bộ Ngoại giao Lê Mai, người có công trong việc thiết lập bang giao với Hoa Kỳ và ASEAN, qua đời vì bệnh tim. Trước đại hội, đã có dàn xếp cho Lê Mai vào bộ Chính Trị để thay Nguyễn Mạnh Cầm trong chức vụ ngoại trưởng và Nguyễn Mạnh Cầm sẽ lên làm chủ tịch nhà nước thay Lê Đức Anh. Tuy Lê Mai được tiếng là cấp tiến nhưng trong buổi họp báo về việc sắp thiết lập ngoại giao với Hoa Kỳ, một ký giả trong nước hỏi “từ nay những tin về Hoa Kỳ có cần phải đệ trình để xét duyệt nữa không”, ký giả này đã bị khiển trách vì gián tiếp cho ký giả nước ngoài thấy tình trạng báo chí bị kiểm duyệt ở Việt Nam.
Tuy nhiên, nhờ tình trạng kinh tế Việt Nam trong thời gian từ 1991 đến 1996 cải thiện rõ rệt (tổng sản lượng quốc gia tăng trên dưới 8% mỗi năm) và sau khi thiết lập ngoại giao với Hoa kỳ và ASEAN, địa vị Việt Nam trên thế giới được củng cố cho nên phe đổi mới trước sự tấn công của phe Đào Duy Tùng vẫn không yếu thế lắm. Võ Văn Kiệt phản ứng lại bằng cách ra lệnh phá bỏ những nhà cửa, biệt thự mà các tướng lãnh quân đội và cán bộ cao cấp xây dựng trái phép trên đất công dọc theo đê Yên Phụ tại Hà Nội. Vào dịp ngày đầu năm, không sợ bị chỉ trích, ông ta ngang nhiên đến nhà tù thăm Vũ Ngọc Hải, một cựu bộ trưởng của ông đang ở tù vì tham nhũng trong công tác xây đường dây điện cao thế Bắc Nam.
Nhưng ngón đòn lợi hại nhất của phe Võ Văn Kiệt là cách đối phó với Nguyễn Hà Phan. Lúc đó, gần đến ngày đại hội, Đào Duy Tùng và Nguyễn Hà Phan chủ quan tin rằng sắp nắm chắc được chức tổng bí thư và ghế thủ tướng nên tỏ ra rất tự kiêu, gây bất mãn cho nhiều ủy viên trung ương đảng. Ngoài ra, việc loại bỏ tướng Đào Đình Luyện cũng gây phản ứng trái ngược trong quân đội.
Phe Võ Văn Kiệt, đa số là đại biểu miền Nam, đưa bằng chứng Nguyễn Hà Phan đã bán đứng đồng chí khi bị cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa bắt trong những năm 1960. Nguyễn Hà Phan sau đó bị loại khỏi trung ương đảng và bị quản thúc.(2) Còn Đào Duy Tùng khi ra tranh chức tổng bí thư chỉ được 10% số phiếu. Ít ngày sau, ông ta bị xuất huyết mạch máu não và qua đời. Con trai của ông là Đào Duy Quát đang làm viện phó viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê sau khi không lật được viện trưởng phải đổi sang làm phó ban tư tưởng văn hóa của đảng. Mấy năm sau, tại đại hội IX, Đào Duy Quát nhờ Lê Đức Anh và Lê Khả Phiêu giới thiệu ứng cử để làm ủy viên trung ương đảng nhưng vẫn không được.
Đại hội đảng lần thứ VIII của CSVN sau nhiều ngày chuẩn bị đã khai diễn từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996 tại Hà Nội. Đại hội gồm có 1198 đại biểu, trong đó số đại biểu quân đội tăng lên 13% (kỳ đại hội trước chỉ có 8%).
Trong số quan khách ngoại quốc có Lý Bằng, thủ tướng của Trung Quốc. Lý Bằng, từng là bí thư thành ủy Thuợng Hải là một người tương đối bảo thủ của đảng cộng sản Trung Quốc. Sự hiện diện của Lý Bằng, người coi như chủ chốt trong vụ đàn áp sinh viên ở Thiên An Môn như để nhắc nhở cho những đại biểu của đảng CSVN về sự quan trọng của ý thức hệ và hậu thuẫn cần thiết của Trung Quốc để có thể tiếp tục chế độ độc tài độc đảng. Trong ngày đại hội, tất cả lãnh tụ CSVN đều đã đến chào và công khai “ôm hôn thắm thiết” Lý Bằng. Tuy nhiên, trong đại hội, bản báo cáo chính trị của đại hội thiên về bảo thủ (như tăng cường hệ thống kinh tế quốc doanh lên 60% kinh tế cả nước) do phe Đào Duy Tùng soạn thảo đã được sửa lại, cắt xén và dung hòa để mục tiêu của chính quyền vẫn là phát triển kinh tế (qua kinh tế thị trường) song song với sự tăng cường an ninh và quốc phòng (bằng cách đàn áp chống đối, siết chặt những quyền tự do căn bản). Sau đó đại hội bỏ phiếu chấp thuận 170 ủy viên trung ương và 19 ủy viên Bộ Chính Trị gồm có:
1- Đỗ Mười, tiếp tục làm Tổng Bí Thư.
2- Lê Đức Anh, chủ tịch Nhà Nước.
3- Võ Văn Kiệt, thủ tướng.
4- Nông Đức Mạnh, chủ tịch Quốc Hội.
5- Lê Khả Phiêu, kiêm ban thường vụ bộ Chính Trị.
6- Đoàn Khuê, bộ trưởng Quốc Phòng, một năm sau bị mất chức.
7- Phan Văn Khải, Phó Thủ Tướng.
8- Nguyễn Mạnh Cầm, kiêm Ngoại Trưởng.
9- Nguyễn Đức Bình, giám đốc Học Viện Chính Trị Hồ Chí Minh.
10- Nguyễn Văn An, trưởng ban Tổ Chức Trung Ương Đảng.
11- Phạm Văn Trà, tham mưu trưởng quân đội .
12- Lê Minh Hương, bộ trưởng Nội vụ.
13- Nguyễn Thị Xuân Mỹ, ban kiểm soát Trung Ương Đảng.
14- Trương Tấn Sang, bí thư thành ủy TP.HCM.
15- Nguyễn Xuân Tùng, bí thư thành ủy Hà Nội (từng làm chánh văn phòng cho Nguyễn Văn Linh).
16- Trần Đức Lương, phó thủ tướng.
17- Nguyễn Đình Tứ, (đã chết).
18- Phạm Thế Duyệt, ban tuyên vận đảng.
19- Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng.
Vì sự tranh chấp trong nội bộ đảng vẫn không thể được giải quyết nên đại hội đảng lần thứ VIII đã phải giữ nguyên ban lãnh đạo của Mười, Anh, Kiệt để chờ cho những hội nghị trung ương đảng về sau giải quyết.
Tại đại hội đảng lần này, đặc biệt trong danh sách 19 ủy viên bộ Chính Trị được bầu có Nguyễn Đình Tứ, một nhà khoa học, nhưng người này sau khi được lựa chọn trong hội nghị trung ương đảng mấy ngày trước đại hội thì ngã bệnh chết. Đại hội đảng vì chỉ có quyền thi hành lệnh của trung ương đảng để biểu quyết nên đã không dám gạt bỏ tên ông ra khỏi danh sách và vẫn giơ tay nhất trí bầu một người không còn sống. Ngoài việc bầu cử bộ Chính Trị, đại hội đảng lần thứ VIII cũng giải tán ban bí thư trung ương đảng, một cơ quan chuyên về vấn đề điều hành nội bộ đảng. Thay vào đó là một ban thường vụ bộ Chính Trị gồm có năm ủy viên là Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng.
Nếu đại hội đảng năm 1982 học theo Nga Xô để tổ chức Hội Đồng Nhà Nước và Hội Đồng Bộ Trưởng thì lần này, ban thường vụ bộ Chính Trị là một khuôn mẫu học theo cộng sản Trung Quốc. Năm người trong ban thường vụ gồm bộ ba đầu não của bộ Chính Trị và hai người do họ lựa chọn. Lê Khả Phiêu được chọn là do sự nâng đỡ của Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Để quân bình, Võ Văn Kiệt đòi hỏi phải để Nguyễn Tấn Dũng, một ủy viên đứng thứ 19 trong 19 người (kể cả Nguyễn Đình Tứ) được vào ban thường vụ.
Sự thành lập ban thường vụ rập khuôn theo cách tổ chức đảng của Trung Quốc là do ý kiến của Đỗ Mười và Lê Đức Anh, lấy cớ sẽ làm việc “hữu hiệu” hơn nhưng thực tế chỉ nhắm gom quyền lực của bộ Chính Trị vào 5 người.
Người đứng lên phản đối cách tổ chức này là Trần Trọng Tân, trưởng ban tư tưởng và văn hóa của đảng. Là một đảng viên bảo thủ quan trọng, sau khi không được đề cử vào bộ Chính Trị, Trần Trọng Tân lại mất luôn hy vọng được bầu vào một cơ quan quyền lực khác là ban bí thư. Các đại diện vỗ tay hưởng ứng lời phản đối của Trần Trọng Tân, nhưng Lê Đức Anh, với tư cách chủ tịch đại hội, tìm cách hoãn binh bằng hứa hẹn sẽ cứu xét lại sự phản đối của Trần Trọng Tân, sau đó để cho lời hứa này chìm vào quên lãng. Nhóm cầm quyền vẫn tiếp tục giữ ban thường vụ và Lê Khả Phiêu củng cố thêm quyền hành bằng cách gạt Nguyễn Tấn Dũng ra ngoài nhưng trung ương đảng sau đó đã phản ứng bằng cách chỉ cho ban thường vụ quyền cố vấn cho bộ Chính Trị.
So với bộ Chính Trị năm 1991, những ủy viên bị loại ra gồm Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Đỗ Quang Thắng, Lê Phước Thọ, Vũ Oanh, Bùi Thiện Ngộ và Võ Trần Chí. Do sự phân chia quyền lực chưa ngã ngũ, bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt không ai muốn từ chức trước, sợ rằng người thay thế mình sẽ bị phe đối thủ chèn ép. Vì không có sự nhất trí trong trung ương đảng, cả ba đều được tạm thời giữ lại.
Theo Đoàn Duy Thành, cựu bí thư tỉnh ủy Hải Phòng, trước ngày đại hội đảng đã có hội nghị trung ương đảng thứ 11 (khóa VII), các ủy viên trung ương đã ra nghị quyết để đại hội đảng sẽ thay đổi hầu hết ủy viên bộ Chính Trị, nhưng sau đó Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh cùng Đỗ Mười cấp tốc triệu tập hội nghị trung ương thứ 11-B, vận động để hội nghị này đưa ra một nghị quyết khác, giữ lại tất cả ủy viên bộ Chính Trị, nhưng có ba ủy viên từ chối không ở lại là Vũ Oanh, Lê Phước Thọ và Bùi Thiện Ngộ. Trong số ủy viên mới, Phạm Văn Trà được lên chức tham mưu trưởng quân đội rồi thăng ủy viên bộ Chính Trị nhờ hậu thuẫn của Lê Đức Anh. Phạm Văn Trà từng là trung đoàn trưởng dưới quyền Lê Đức Anh trước 1975.
Số ủy viên trung ương đảng được bầu trong đại hội 8 là 170 người (nhiều hơn đại hội trước 36 người), gồm 68 viên chức chính phủ (bộ trưởng, thứ trưởng, tổng giám đốc các công ty quốc doanh), 7 viện trưởng đại học, 48 đảng ủy cao cấp, 31 người vừa là đảng ủy vừa là cán bộ hành chánh (như tỉnh ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân), 16 sĩ quan cao cấp (chủ nhiệm tổng cục, tư lệnh hay chính ủy quân khu, binh chủng)…
Tình trạng dằng dai của bộ ba cầm quyền Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt có thể còn kéo dài, nếu Lê Đức Anh không bị xuất huyết mạch máu não tháng 11-1996.
Khi Lê Đức Anh phải vào bệnh viện, Võ Văn Kiệt ở bên ngoài chẳng những đã không nói lời chúc chóng lành bệnh mà còn tuyên bố nếu Lê Đức Anh phải nằm bệnh viện lâu, trung ương đảng sẽ cần bầu một chủ tịch mới vì “một nước không thể nào không có chủ tịch”.
Cùng lúc đó, phe Võ Văn Kiệt ngầm tố cáo những hành động sai trái của Lê Đức Anh khi ở Campuchia và thái độ hành hạ công nhân khi làm cai phu đồn điền cao su trong những năm 1940. Vì thế, dù đã lớn tuổi và sau khi ngã bệnh bị yếu đi nửa người, Lê Đức Anh không chịu về hưu mà chờ tới tháng 9-1997 mới dàn xếp để cùng đối thủ là Võ Văn Kiệt từ chức cùng một lúc, nhường chỗ cho Trần Đức Lương và Phan Văn Khải.
Dù được tiếng là người của phe đổi mới, chính Võ Văn Kiệt đã ký “Chỉ thị về quản chế hành chánh” (sắc luật 31/CP) ngày 14-4-1997 “áp dụng cho những phần tử vi phạm luật lệ, phá hoại an ninh quốc gia, nhưng không trầm trọng lắm để có thể đưa ra tòa xử như một trọng tội”. Chỉ thị này nhằm hợp pháp hóa việc bắt giữ những tiếng nói đối lập, gán họ vào thành phần của “những thế lực thù nghịch phát động diễn biến hòa bình”, cho phép các cơ quan hành chánh hay công an địa phương có quyền bắt và giam giữ bất cứ người nào trong vòng từ sáu tháng đến hai năm mà không cần phải đưa ra xét xử, không cho bị cáo cơ hội biện hộ.
Ngoài ra, do đề nghị của Lê Đức Anh và Đoàn Khuê, Võ Văn Kiệt đã ký sắc luật 96/CP nâng cục quân báo C2 lên thành cấp tổng cục, khiến quyền hành của tổng cục 2 này lớn hơn quyền hạn của công an, tăng cường hơn nữa sự kiểm soát nhân dân.
Điều 1, chương 1 sắc luật 96/CP cho phép tổng cục 2 có quyền hạn hoạt động trong đủ mọi ngành như chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, kỹ nghệ và môi trường, văn hóa xã hội.
Điều 11, chương 2 của sắc luật này ghi rõ “Mục tiêu của những lực lượng tình báo quốc phòng là thu thập tin tức và tài liệu liên quan đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Phải đặc biệt chú trọng đến những quốc gia, những tổ chức hay cá nhân trong nước cũng như ngoài nước đang âm mưu hay tham gia vào những hoạt động nhằm chống lại đảng cộng sản hay nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”.
Tổng cục C2 chỉ chịu trách nhiệm với bộ trưởng quốc phòng, bộ Chính Trị và chủ tịch nước. Vì quyền hạn quá rộng lớn, bao gồm đủ mọi phạm vi, lại được quyền cho người đến nằm vùng tại các cơ quan, tổng cục này sau đó đã gây ra rất nhiều lạm dụng. Chủ nhiệm tổng cục 2 lúc đó là Đặng Vũ Chính, một người thân cận của Lê Đức Anh khi còn ở quân khu IX và Campuchia. Vũ Chính lên thay Như Văn từ năm 1995.
Sau khi nhậm chức, Đặng Vũ Chính thay hết cán bộ cũ bằng người thân tín. Con trai là Đặng Vũ Dũng đi lao động từ Đông Đức về được cho làm giám đốc công ty xây dựng Hồng Bàng của tổng cục, hai con gái là Đặng Thị Mai, Đặng Thị Ngọc được mang quân hàm đại úy với công tác “cán bộ mật”, vợ là Đặng Thị Nhẫn bắt ép vợ của Như Văn nhường lại chức giám đốc khách sạn Hoàng Đế, và vợ của Trần Tiến Cung (tổng cục phó) cũng phải nhường lại chức giám đốc chi nhánh miền Trung của công ty du lịch Deti Tour.
Năm 2000, Vũ Chính về hưu, nhường chức cho con rể là Nguyễn Chí Vịnh, con trai của Nguyễn Chí Thanh, đồng thời, con trai của Vũ Chính là Đặng Vũ Dũng cũng trở về tổng cục 2 và được cử làm cục phó cục 12, hoạt động tình báo trong khu vực miền Nam.
Ba tháng sau ngày Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh từ chức, đến lượt Đỗ Mười phải nhường chức tổng bí thư cho Lê Khả Phiêu, người đang nắm chức chủ nhiệm tổng cục chính trị của quân đội.
Có tin là dịp hội nghị trung ương đảng họp cuối tháng 12-1997, Lê Đức Anh vẫn mưu toan đưa Lê Khả Phiêu lên chủ tịch Nhà Nước để tự mình nắm chức tổng bí thư nhưng thất bại vì chính Đỗ Mười không muốn từ chức. Nhờ được Đỗ Mười đỡ đầu, Lê Khả Phiêu thắng được một đối thủ mạnh mẽ là Nguyễn Văn An, đang giữ chức trưởng ban tổ chức đảng.
Thay chỗ cho Lê Khả Phiêu trong chức chủ nhiệm tổng cục chính trị là tướng Phạm Thanh Ngân, trước đó là tư lệnh Không Quân, ít lâu sau cũng được Lê Khả Phiêu đưa vào bộ Chính Trị.
Một năm sau, khi Đoàn Khuê bị bệnh chết. Phạm Văn Trà đang là tham mưu trưởng quân đội được cử lên nắm bộ quốc phòng. Tướng Đào Trọng Lịch, tư lệnh quân khu II được cử lên làm tham mưu trưởng quân đội.
Riêng ban thường vụ bộ Chính Trị, sau khi bộ ba Mười, Anh, Kiệt từ chức, Lê Khả Phiêu với tư cách tổng bí thư, đã áp lực đẩy Nguyễn Tấn Dũng ra ngoài, thay vào đó là Phạm Thế Duyệt, và ban thường vụ mới này gồm 5 người: Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nông Đức Mạnh, Phạm Thế Duyệt.
Còn ở bộ Chính Trị, bốn người thay thế Mười, Anh, Kiệt, Nguyễn Đình Tứ là Phan Diễn, bí thư thành ủy Đà Nẵng, Nguyễn Phú Trọng, bí thư thành ủy Hà Nội, Nguyễn Minh Triết, bí thư thành ủy TP.HCM cùng với Phạm Thanh Ngân, một người thân tín của Lê Khả Phiêu vừa được cử làm chủ nhiệm tổng cục chính trị thay Lê Khả Phiêu.
Tuy bộ ba Mười, Anh, Kiệt đã chính thức về hưu, trở nên “cố vấn”, nhưng Đỗ Mười và Lê Đức Anh vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong bộ Chính Trị và cả trong ban thường vụ suốt nhiệm kỳ của đại hội VIII và IX.
Chỉ riêng Võ Văn Kiệt sau khi từ chức dần dần bị thất thế. Mấy năm sau, nhân viết một bài nhận xét về cuốn sách của Lý Quí Chung và bị Nguyễn Khoa Điềm chỉ trích trên báo chí, Võ Văn Kiệt viết thư trả lời nhưng Nguyễn Khoa Điềm không cho báo chí đăng lại.
Do đó, Võ Văn Kiệt đã viết một thư khác phổ biến ra hải ngoại trong đó có câu “…Đối với người như tôi mà đồng chí còn không cho in bài thì người dân có quyền gì nói lên sự thật..”.
Trong thư này, dù là một người tương đối cấp tiến và viết thư chính thức để phổ biến công khai, lời lẽ đối với những người cam tâm đầu hàng vẫn có vẻ khinh miệt, chẳng hạn: “…trừ những đoạn mà đám Nhuận, Đức, Hạnh không chịu vì có liên quan…” (“đám” Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức và Nguyễn Hữu Hạnh đòi Lý Quí Chung bỏ đi những đoạn này có lẽ vì đã kể lại các hành động không đáng hãnh diện của họ).(3)
Tân tổng bí thư Lê Khả Phiêu sinh năm 1931 tại Đông Khê, Thanh Hóa, gia nhập đảng cộng sản từ năm 1949. Suốt mấy chục năm trong quân ngũ và trong đảng, Lê Khả Phiêu chỉ giữ những chức chính ủy trong quân đội. Trong Chiến Tranh Đông Dương I trước 1954, Lê Khả Phiêu là chính ủy đại đội, trong chiến tranh Đông Dương II, là chính ủy trung đoàn 9 sư đoàn 304. Sau đó lên chính ủy sư đoàn rồi chính ủy quân khu Trị Thiên. Trong chiến tranh Campuchia, Lê Khả Phiêu làm chính ủy quân đoàn 2 rồi phó chính ủy quân khu 9. Trong thời gian chiếm đóng Campuchia, Lê Khả Phiêu được thăng thiếu tướng. Sau thời gian này, nhờ thân cận với Lê Đức Thọ và Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu được thăng trung tướng, làm chủ nhiệm tổng cục chính trị và sau đó vào bộ Chính Trị rồi lên tổng bí thư. Vì chỉ giữ những chức vụ thuần túy chính trị trong quân đội, Lê Khả Phiêu không có hậu thuẫn vững mạnh trong đảng (như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười là những người từng giữ nhiều chức vụ và công tác ở nhiều nơi), hay trong quân đội (như Lê Đức Anh, từng có nhiều quan hệ với các tư lệnh quân khu khi làm bộ trưởng bộ quốc phòng). Do đó, Lê Khả Phiêu thường phải dựa vào phe bảo thủ và sau đó là dựa vào Trung Quốc.
Sự đề cử Trần Đức Lương lên thay Lê Đức Anh làm chủ tịch Nhà Nước tương đối là một bất ngờ vì trong bộ Chính Trị, ông ta chỉ đứng hàng thứ 16. Trần Đức Lương sinh năm 1937 tại Quảng Ngãi, tốt nghiệp đại học về địa chất và được làm giám đốc Nha Địa Chất năm 1979. Ông gia nhập đảng cộng sản năm 1959 và được cử làm ủy viên trung ương đảng năm 1991 rồi vào bộ Chính Trị năm 1996. Từ 1987 đến 1997 từng là phó thủ tướng cho Võ Văn Kiệt. Việc Trần Đức Lương được lên làm chủ tịch nhà nước cũng là một thất bại cho Đoàn Khuê vì ông này vẫn mong muốn được thay thế Lê Đức Anh.
Đoàn Khuê, sinh năm 1923, cựu tư lệnh quân khu V, từng giữ chức tham mưu trưởng quân đội năm 1987 và bộ trưởng quốc phòng năm 1991, là một người nhiều tham vọng. Trong thời gian trước đại hội VIII, phe bảo thủ, trong đó có quân đội và công an (gồm Đoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, Phạm Văn Trà, Lê Minh Hương) tương đối chiếm ưu thế tại bộ Chính Trị. Vì Đào Duy Tùng và Nguyễn Hà Phan không giấu tham vọng tranh chức tổng bí thư và thủ tướng nên Đoàn Khuê nghĩ rằng ông ta có thể nhờ hậu thuẫn công an và quân đội để kế nhiệm địa vị chủ tịch nhà nước của Lê Đức Anh. Khi viếng thăm nước Pháp với tư cách bộ trưởng quốc phòng và lúc được tổng thống Chirac tiếp, Đoàn Khuê đã huyênh hoang nói là sẽ tới thăm nước Pháp lần nữa với tư cách ngang hàng (chủ tịch nhà nước) với Chirac. Do tác phong quan liêu, Đoàn Khuê không được lòng thuộc cấp. Ngoài ra, tuy cùng thuộc phe quân đội và bảo thủ, Đoàn Khuê lại rất bất mãn với Lê Khả Phiêu bởi lý do Lê Khả Phiêu từng là thuộc cấp của Đoàn Khuê khi Đoàn Khuê là bộ trưởng quốc phòng. Vì thế, khi Đoàn Khuê ra tranh chức chủ tịch nhà nước, phe của Lê Khả Phiêu trong quân đội đã nhập vào phe Võ Văn Kiệt mà ủng hộ Trần Đức Lương.
Người thay thế Võ Văn Kiệt là Phan Văn Khải, một người đã được Võ Văn Kiệt nâng đỡ để sửa soạn vào chức thủ tướng. Sự đề cử Phan Văn Khải vào chức thủ tướng đã làm yên lòng các nhà đầu tư ngoại quốc, cho thấy đảng CSVN vẫn muốn tiếp tục đường lối kinh tế cởi mở cũ. Phụ tá của Phan Văn Khải có những phó thủ tướng:
- Nguyễn Tấn Dũng, đặc trách kinh tế và nội an. Sinh ở Cà Mâu, xuất thân là lính quân y (trong lý lịch khai đã được huấn luyện thành bác sĩ giải phẫu). Sau thời gian làm chính ủy đại đội quân y, Dũng chuyển sang làm chính ủy tiểu đoàn rồi trung đoàn, từng phục vụ ở Campuchia. Năm 1994 làm bí thư tỉnh Kiên Giang, năm sau thăng thứ trưởng bộ Nội vụ.
- Nguyễn Mạnh Cầm, phụ trách đối ngoại
- Nguyễn Công Tấn, quê ở Thái Bình, đặc trách phát triển nông thôn. Nguyễn Công Tấn tốt nghiệp kỹ sư canh nông tại đại học Hoa Nam năm 1958.
- Ngô Xuân Lộc, đặc trách kỹ nghệ và phát triển thành thị (sau đó mất chức vì bị phe Lê Đức Anh tố cáo tham nhũng trong việc xây cất công viên tại Hà Nội)
- Phạm Gia Khiêm, đặc trách giáo dục, khoa học. Phạm Gia Khiêm sinh năm 1944 ở Hà Nội, du học ở Nga Xô và Tiệp Khắc. Vào đảng năm 1969, từng dạy đại học Bắc Thái, trưởng khoa giáo dục khoa học trong UB kế hoạch nhà nước, sau đó lên phó chủ nhiệm UB.
Các bộ trưởng chính gồm có:
- Thương Mại: Trương Đình Tuyển, từng là bí thư tỉnh uỷ Nghệ An.
- Nông Nghiệp: Lê Huy Ngọ.
- Giao Thông: Lê Ngọc Hoan.
- Xây Dựng: Nguyễn Mạnh Kiểm.
- Văn Hóa Thông Tin: Nguyễn Khoa Điềm, sinh quán tại Huế, tốt nghiệp sư phạm. Sau 1975, là chủ tịch hội văn hóa Bình Trị Thiên. Với tư cách này, Nguyễn Khoa Điềm cùng Trần Hoàn kết án Trịnh Công Sơn về tội đã gọi cuộc chiến Việt Nam là nội chiến và tội làm bài hát thương tiếc cựu đại tá Không Quân VNCH Lưu Kim Cương rồi đẩy đi cải tạo.
- Quốc Phòng: Đoàn Khuê, sau đó là Phạm Văn Trà (trước là tư lệnh quân khu III quanh Hà Nội, thay Đào Đình Luyện làm tham mưu trưởng quân đội từ tháng giêng năm 1996).
- Giáo Dục: Nguyễn Minh Hiền.
- Tài Chánh: Nguyễn Sinh Hùng, sinh tại Nghệ An, từng du học Bulgary, họ hàng với Hồ Chí Minh.
- Nội Vụ: Lê Minh Hương, sinh quán Hà Tĩnh, xuất thân từ ngành tình báo. Theo học trường an ninh, cán bộ an ninh ở liên khu 4, rồi làm công tác gián điệp ở các tòa đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ, Nhật. Sau đó thăng giám đốc sở tình báo rồi thứ trưởng nội vụ.
- Tư Pháp: Nguyễn Đình Lộc.
- Hải Sản: Tạ Quang Ngọc: sinh quán Nghệ An.
- Kế Hoạch và Đầu Tư: Trần Xuân Giá, sinh tại Huế, từng là phó chủ tịch ủy ban vật giá, phó chủ nhiệm ủy ban kế hoạch nhà nước rồi thứ trưởng bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư.
- Khoa Học Kỹ Thuật và Môi Sinh:Chu Tuấn Nhã.
- Y Tế: Đỗ nguyên Phương.
- Lao Động, Thương Binh, Xã Hội: Trần Đình Hoan, sau đó là Nguyễn Thị Hằng.
- Văn phòng chính phủ: Lại Văn Cừ.
- Chủ nhiệm UB Bảo Vệ Và Săn Sóc Trẻ Em: Trần Thị Thanh Thanh
- Chủ nhiệm UB Kế Hoạch Gia Đình: Trần Thị Trung Chiến.
- Chủ nhiệm UB Chống Lụt Lội Và Phát Triển Sông Cửu Long: Nguyễn Cảnh Đinh
- Chủ nhiệm UB Thể Thao: Hà Quang Dự.
- Chủ nhiệm UB Sắc Tộc: Hoàng Đức Nghi.
Tất cả bộ trưởng, thứ trưởng hay chủ nhiệm ủy ban do Phan Văn Khải đề nghị đều được quốc hội chấp thuận, trừ thống đốc ngân hàng Cao Sĩ Kiêm, bị quốc hội loại vì sau 8 năm làm thống đốc, hệ thống ngân hàng vẫn quá yếu kém. Vị trí này bỏ trống cho tới 6 tháng sau, Phan Văn Khải mới đề cử Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng đặc trách kinh tế kiêm chức vụ thống đốc. Nguyễn Tấn Dũng không có kinh nghiệm về ngân hàng, nhưng được đề cử nhằm nâng cao uy thế chính trị của ngành này. Công việc điều hành hàng ngày được giao cho Lê Đức Thúy, một chuyên viên từng du học ở Harvard trong hai năm 1991 và 1992. Hơn một năm sau, Lê Đức Thúy mới được chính thức làm thống đốc.
Sau đại hội VIII, năm 1997 là một năm xảy ra nhiều biến cố đối với Việt Nam. Dù cơn khủng hoảng kinh tế tại các nước Á Châu như Thái Lan, Tân Gia Ba, Đại Hàn, Nhật Bản… phải nửa năm sau mới ảnh hưởng tới Việt Nam, nhưng kinh tế Việt Nam năm 1997 cũng đã có những dấu hiệu suy thoái. Ngoài cơn bão Linda gây cảnh bão lụt tại miền Nam và miền Trung khiến mức sản xuất lúa gạo bị giảm sút, một lý do khác là hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa vững mạnh khiến những công ty ngoại quốc ngần ngại khi đầu tư và cuối cùng, lý do quan trọng nhất là sự lãng phí và kém hiệu quả của những công ty quốc doanh.
Từ năm 1997, số tiền ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam mỗi ngày một giảm. Một số công ty ngoại quốc đã phải đóng cửa hoặc vì lỗ lã, hoặc do những trở ngại hành chánh hay tham nhũng. Tuy thế, những phần tử bảo thủ vẫn muốn duy trì và phát triển những công ty này vì “định hướng xã hội chủ nghĩa” là niềm hy vọng duy nhất của họ để sẽ có một ngày, tất cả đều trở lại là kinh tế nhà nước chỉ tồn tại những công ty quốc doanh.
Cơn khủng hoảng kinh tế của các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Đại Hàn, Nhật Bản… năm 1997 cũng khiến họ nghĩ đường lối kinh tế chỉ huy là đúng đắn và càng làm cho họ cứng rắn hơn nữa để kềm hãm đà đổi mới, dù những biện pháp đổi mới mấy năm trước đã giúp đời sống người dân tương đối thoải mái hơn trước, nhưng so với những nước lân bang, người dân Việt Nam vẫn còn rất nghèo.
Theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới, lợi tức bình quân hàng năm mỗi người dân Việt vào năm 1997 là 350 mỹ kim, chỉ ngang với Bangladesh. Trong khi đó, lợi tức hàng năm của người dân Phi Luật Tân cao hơn gấp ba lần (1000 mỹ kim), Thái Lan cao hơn gấp 7 lần (hơn 2000 mỹ kim)…
Dù có những biện pháp cởi mở về nông nghiệp, lợi tức của nông dân vẫn thua xa người dân thành thị. Thống kê của bộ nông nghiệp cho biết sau khi trừ hết chi phí, lợi tức trung bình của nông dân chỉ ở mức dưới 100 mỹ kim, trong khi lợi tức trung bình của thị dân Hà Nội là 800 mỹ kim, Sài Gòn 1000 mỹ kim.
Trước hoàn cảnh khốn khó và bị chèn ép, tháng 5 năm 1997, nông dân tỉnh Thái Bình đã biểu tình phản đối các cán bộ địa phương tham nhũng, đặt ra những thuế khóa vô lý (thuế đất, thuế thày giáo…), trả tiền lúa gạo mà nông dân bán ra thật rẻ so với giá thị trường, chiếm hữu đất đai cho gia đình, bạn bè, ép nông dân phải xung phong lao động xã hội chủ nghĩa không công ít nhất 10 ngày trong năm… Việc đánh thuế vô lý đến nỗi tiền thuế thu được trong 3 năm từ 1994 đến 1997 của tỉnh Thái Bình bội thu hơn con số dự trù của trung ương đến 176 tỷ đồng (khoảng 16 triệu mỹ kim).
Khởi xướng và đứng đầu những cuộc biểu tình phản đối ở Thái Bình đều là những cán bộ hoặc bộ đội về hưu. Họ tổ chức biểu tình qui mô, cho người già và trẻ em đi trước, kế tiếp là cựu cán bộ, sau đó mới là thanh niên.
Suốt từ tháng 5 đến tháng 12, ký giả hoặc nhân viên những tổ chức thiện nguyện ngoại quốc đều bị cấm không được đến tỉnh Thái Bình.
Mới đầu, những cuộc biểu tình còn ôn hòa, nông dân chỉ mong muốn được giảm thuế, nhưng chính quyền địa phương không chịu giải quyết nên đã biến thành bạo động. Một số nông dân và viên chức bị tử thương, nhất là ở huyện Quỳnh Phú. Công an và ủy ban hành chánh nhiều xã đã phải bỏ nhiệm sở chạy trốn. Những cuộc biểu tình đã diễn ra trong nhiều tháng. Chính quyền trung ương ở Hà Nội phải đem 1200 công an đặc biệt từ những nơi khác đến để ngăn chận phong trào chống đối lan tràn. Đồng thời, đảng cử Phạm Thế Duyệt, một ủy viên bộ Chính Trị người tỉnh Thái Bình đến dàn xếp. Chính quyền địa phương đã phải công nhận lầm lỗi, giải nhiệm một số viên chức, đưa ra vài biện pháp xoa dịu. Nhưng mặt khác, họ cũng đã bắt một số người biểu tình đưa lên đài truyền hình ép phải thú nhận tội lỗi là đã có hành động “chống đối” đảng và nhà nước. Trong một bài báo đăng ở báo đảng, bí thư tỉnh ủy Thái Bình Nguyễn Xuân Lai tiếp tục coi những người theo đạo Công Giáo trong tỉnh là những phần tử khả nghi và kêu gọi đảng phải tăng cường cảnh giác. (4)
Tháng 11-1997, sau nhân dân Thái Bình, đến lượt nhân dân tỉnh Đồng Nai (Biên Hòa cũ). Tại vùng đất của dân Công Giáo, giáo dân biểu tình phản đối những cán bộ địa phương đã ngang nhiên truất hữu đất đai nhà thờ. Tuy nhân dân Đồng Nai không được xếp hạng là thành phần tốt đối với chính quyền, nhưng họ đã biểu tình ngay trên quốc lộ 1, ngăn chặn con đường lưu thông huyết mạch Bắc Nam và chọn thời gian biểu tình vào lúc có một hội nghị quốc tế gồm những nước biết nói tiếng Pháp tổ chức ở Hà Nội để gây tiếng vang.
Như thường lệ, chính quyền phong tỏa tỉnh Đồng Nai, cấm người ngoại quốc lai vãng và trên báo chí quốc nội, không một báo nào được phép đăng tin. Phạm Thế Duyệt lại đóng vai trò dàn xếp và chính quyền lại hứa hẹn sửa sai. Một thời gian sau, bộ trưởng phát triển nông thôn là Nguyễn Công Tấn bị mất chức.
Hiển nhiên là những phản kháng của nông dân đã gây chấn động trong hàng ngũ lãnh đạo.
Vào tháng 8, bộ nông nghiệp loan báo ban hành “mười chính sách lớn” cho nông thôn, gồm có tu sửa, cải thiện hệ thống đường xá, giảm thế khóa cho nông dân và thiết lập một qui chế sở hữu đất đai rõ ràng, không cho cán bộ lạm dụng. Ngày 21-11-1997, thủ tướng Phan Văn Khải trong diễn văn đọc trước quốc hội cũng nhấn mạnh đến chương trình cải tạo nông thôn, còn tổng bí thư Đỗ Mười trước khi từ chức, cũng kêu gọi phải diệt trừ tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên.
Tuy nhiên, vấn đề diệt trừ tham nhũng trong nội bộ đảng kể trên chỉ được thi hành theo những ý hướng và mục tiêu chính trị. Dù báo chí đã được Hữu Thọ, trưởng ban tư tưởng văn hóa của đảng cho là “tiếng nói của đảng, của nhà nước, của những tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân” (ngày 25-8-1997), nhưng chỉ hai tháng sau, ký giả Nguyễn Hoàng Linh, tổng biên tập báo Doanh Nghiệp bị bắt vì đăng bài phanh phui những gian lận liên quan đến việc mua 4 tầu tuần cho cục thuế quan. Tòa soạn những báo Hà Nội Mới, Tiền Phong, Thương Mại, Pháp Luật cũng bị tra xét vì bị nghi ngờ với cùng một tội là “tiết lộ bí mật quốc gia”.
Cùng trong tháng đó, một phóng viên hãng Reuter bị hành hung và bị bắt về bộ nội vụ tra hỏi khi anh ta chụp hình một toán phụ nữ biểu tình ở công viên Ba Đình.
Tháng 12-1997, nhà văn Phạm Văn Viêm bị công an Việt Nam bắt cóc ở Bulgary mang về Hà Nội sau khi anh dịch cuốn Chế Độ Phát Xít — The Fascist Regime của tổng thống Zhelev, vị tổng thống không cộng sản đầu tiên của Bulgary. Anh bị giam và cho tới nay vẫn không có tin tức gì.
Những học giả, nhà thơ, nhà văn như Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu cũng bị làm khó dễ và theo dõi. Thời kỳ tiền hội nghị của những quốc gia nói tiếng Pháp tại Hà Nội tháng 11-1997, Liên Đoàn Phóng Viên Và Ký Giả thảo một thông tư trong đó có đoạn lên án sự đàn áp báo chí tại 16 trong số 49 quốc gia tham dự hội nghị. Thông tư này không chỉ đích danh nước nào, nhưng Phan Bằng, chủ tịch hội Phóng Viên Việt Nam của nhà nước đã cực lực phản đối vì Việt Nam coi đó là chuyện “can thiệp vào nội bộ quốc gia”.
Cuối năm 1997, do quyết định từ đại hội đảng hơn một năm trước, Đỗ Mười bị buộc phải từ chức và Lê Khả Phiêu được đề cử làm tổng bí thư.
Trong tình trạng tranh chấp giữa bộ ba cầm quyền năm trước, Lê Khả Phiêu dần dần đã được lợi thế. Đối thủ sáng giá duy nhất trong bộ Chính Trị của Lê Khả Phiêu là Nguyễn Văn An, trưởng ban tổ chức đảng, nhưng Lê Khả Phiêu có nhiều điều kiện thuận lợi hơn vì ở trong ban thường vụ bộ Chính Trị, lại là trưởng ban bảo vệ chính trị của đảng. Cả đời là chính ủy, không có cơ hội làm giàu, đời tư Lê Khả Phiêu trong sạch hơn Nguyễn Văn An. Ngoài ra, vụ rối loạn ở Thái Bình khiến trung ương đảng muốn có một người lãnh đạo cứng rắn.
Tuy nhiên, Lê Khả Phiêu không có một hậu thuẫn chính trị vững mạnh nên phải đu dây giữa hai phe bảo thủ và cấp tiến, khi lên làm tổng bí thư. Lê Khả Phiêu đã dựa nhiều hơn vào phe bảo thủ, nhưng ngay trong đảng và trong phe bảo thủ, Đỗ Mười vẫn có nhiều uy tín và ảnh hưởng hơn Lê Khả Phiêu. Dù đã về hưu và chỉ là một trong ba “cố vấn”, Đỗ Mười vẫn có quyền tham dự những buổi họp bộ Chính Trị và Lê Khả Phiêu sở dĩ được lựa chọn cũng nhờ ảnh hưởng của Đỗ Mười.
Vì thế, trong bộ ba cố vấn, Đỗ Mười rất coi thường Lê Khả Phiêu. Trong những buổi họp bộ Chính Trị, ông ta hay xen vào những cuộc thảo luận, nhiều khi lấn át cả Lê Khả Phiêu khiến mọi người đều nhận thấy Lê Khả Phiêu là một tổng bí thư yếu thế.
Quân đội cũng không hết lòng ủng hộ Lê Khả Phiêu. Bản chất là một chính ủy, Lê Khả Phiêu tìm hậu thuẫn với phe bảo thủ bằng cách đề cao khẩu hiệu chống đế quốc và phát huy xã hội chủ nghĩa, thể hiện qua biện pháp lấy lòng Trung Quốc, dù cho phải chịu khuất phục và nhượng bộ đất đai.
Sau khi lên nhận chức tổng bí thư, theo thông lệ, tháng 2 năm 1999, Lê Khả Phiêu sang Trung Quốc và gặp đủ mặt giới lãnh đạo Trung Quốc. Từ đó, mối quan hệ Việt Hoa trở nên ngày càng thân thiết.
Trong năm 1999, nhiều phái đoàn của hai nước lần lượt qua lại, kể cả Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Tấn Dũng cho đến những cấp thấp hơn như Hoàng Kỳ, tư lệnh quân khu III, Thường Văn Thái (Chang Wentai), chính ủy quân khu Tây An … Ngày 26-9-1999, nhân lễ kỷ niệm 50 năm thành lập đảng cộng sản Trung Quốc, 2500 cán bộ từng sống hay du học ở Trung Quốc tập họp ở sân vận động để chúc mừng, trong đó có Hoàng Minh Thảo.
Đầu tháng 12-1999, thủ tướng Chu Đông Cơ của Trung Quốc sang thăm Việt Nam, dự định sẽ tham dự buổi lễ ký kết thỏa hiệp về biên giới trên bộ, nhưng dự thảo thỏa ước có một số chi tiết chưa được thỏa thuận nên phải chờ đến cuối tháng, ngày 30-12-1999, thỏa ước mới được ngoại trưởng hai nước là Nguyễn Mạnh Cầm và Đường Gia Truyền ký kết. Thỏa ước này được hoàn tất là nhờ những nhượng bộ của Lê Khả Phiêu, từng hứa hẹn với Giang Trạch Dân là sẽ giải quyết vấn đề biên giới trên bộ xong trước năm 2000 và trên biển trước năm 2001.
Ngoài ra, để thúc đẩy Trung Quốc chịu đứng ra lãnh đạo phục hồi lại phong trào cộng sản, thắt chặt thêm tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa, Lê Khả Phiêu đề nghị hai nước hợp tác tổ chức mỗi năm, một buổi hội thảo về ý thức hệ giữa những lý thuyết gia để nghiên cứu lại chủ nghĩa Mác nhằm biện luận cho kinh tế thị trường. Nguyễn Đức Bình, ủy viên bộ Chính Trị kiêm giám đốc trường đảng cầm đầu phái đoàn sang Bắc Kinh dự cuộc hội thảo đầu tiên vào tháng 6 năm 2000.
Mấy tháng sau, một cuộc hội thảo về lý thuyết khác lại được tổ chức tại Hà Nội. Cầm đầu phái đoàn Trung Quốc là Lý Tiểu Anh, ủy viên bộ Chính Trị Trung Quốc kiêm giám đốc học viện Khoa học Xã hội.
Sau Nguyễn Đức Bình là Nguyễn Minh Triết, Lê Minh Hương cũng lần lượt sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm. Để trấn an Trung Quốc trước khi bộ trưởng quốc phòng Cohen, ngoại trưởng Albright, và tổng thống Clinton sang thăm Việt Nam, trong năm 2000, ngoài Lê Khả Phiêu, Nguyễn Đức Bình, còn có Nông Đức Mạnh, Phan Văn Khải, Trần Đức Lương, Nguyễn Dy Niên, Phạm Văn Trà lần lượt qua thăm Bắc Kinh. Từ đó, hầu như mọi cấp từ trung ương đến tỉnh, ngành nào, thuộc đảng hay nhà nước, cũng đều có gắn bó trực tiếp với mọi cấp, mọi ngành của Trung Quốc.
Vì quyền lợi quốc gia của họ, Trung Quốc tuy không tha thiết về một liên minh ý thức hệ với Việt Nam, nhưng đã rất bằng lòng trước thái độ của Lê Khả Phiêu. Do đó mà quan hệ Việt-Hoa thân thiết hơn trước.
Sự thân thiết trở nên dễ dàng hơn sau cái chết của Đặng Tiểu Bình năm 1997. Do “bài học” dành cho Việt Nam năm 1979 không được thành công như ý muốn nên Đặng Tiểu Bình vẫn cay đắng, không nhiệt tình ủng hộ việc kết thân với Việt Nam. Hơn nữa, do trận chiến Việt-Hoa 1979, CSVN còn chế giễu cả đến vóc dáng của Đặng Tiểu Bình bằng câu nói trong những buổi học tập chính trị: “chính trị Trung Quốc không cao hơn Đặng Tiểu Bình”.
Dù đã chính thức về hưu năm 1989, uy tín của Đặng Tiểu Bình vẫn còn rất lớn. Năm 1992, khi thấy đà đổi mới kinh tế của Trung Quốc bị kềm hãm bởi Giang Trạch Dân và Lý Bằng, ông đã đi một vòng vùng Hoa Nam dùng uy tín cá nhân phát động một đợt đổi mới thứ hai cho Trung Quốc. Chỉ sau khi Đặng Tiểu Bình chết, Giang Trạch Dân và Lý Bằng mới dám tỏ ra thân thiết hơn với Việt Nam và đã tặng cho Lê Khả Phiêu mười sáu chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng về tương lai” được CSVN gọi là “mười sáu chữ vàng”, làm căn bản cho quan hệ giữa hai nước.
Cái chết của Đặng Tiểu Bình vào ngày 19-2-1997 cũng là lúc mà Nguyễn Tấn Dũng với tư cách ủy viên ban thường vụ bộ Chính Trị đang thăm viếng Trung Quốc. Dũng được gặp Giang Trạch Dân và cả hai đều hứa sẽ phát triển thêm mối bang giao. Tuy nhiên, điện văn phân ưu của chính phủ Việt Nam về cái chết của Đặng Tiểu Bình không được nồng nhiệt lắm, khác hẳn với điện văn phân ưu gửi đảng cộng sản Ai Lao về cái chết của Phomvihane (năm 1992).(5)
Trước chủ trương nghiêng về Trung Quốc của Lê Khả Phiêu, về ngoại giao, phe đổi mới trong chính phủ đã cố gắng quân bình lại bằng cách trao đổi đại sứ với Hoa Kỳ và xúc tiến hoàn tất thỏa hiệp thương mại song phương (BTA – bilateral trade agreement).
Năm 1997 trở thành năm đầu tiên sau 1975 mà Hoa Kỳ có đại sứ ở Việt Nam và lần đầu tiên, ngoại trưởng Hoa Kỳ Madelein Albright thăm viếng Hà Nội. Trong dịp thăm viếng này, ngoại trưởng Albright ca ngợi thành quả đổi mới của Việt Nam từ năm 1986, nhưng khuyến cáo Việt Nam nên phát động một phong trào “đổi mới đợt 2”.
Có lẽ để cảnh cáo Việt Nam do có hành động làm thân với Hoa Kỳ, ngày 7-3-1997, Trung Quốc đem dàn khoan dầu Kantan III và hai tàu thăm dò 206, 208 đến vùng biển vịnh Bắc Việt mà Việt Nam đã xác nhận chủ quyền.
Sau khi đơn phương phản đối không kết quả, Việt Nam cầu cứu tới những nước ASEAN, gián tiếp cảnh cáo là nếu Trung Quốc có thể lấn áp Việt Nam, họ có thể làm như thế với các nước khác. Trong cùng thời gian này, ngày 22-3-1997, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương cũng viếng thăm Hà Nội. Nhờ thế, ngày 1-4-1997, Trung Quốc loan báo sẽ kéo dàn khoan về và ngỏ ý sẽ thương thuyết với Hà Nội. Hai tuần sau, trong buổi họp giữa khối ASEAN và Trung Quốc, các nước ASEAN đã mạnh mẽ phát biểu quan tâm của họ và Trung Quốc đồng ý là sau này sẽ thảo luận về những tranh chấp lãnh hải.
Dù đạt được thắng lợi ngoại giao, báo chí Việt Nam đã không đá động gì đến những tin này, sợ làm chạm tự ái của Trung Quốc. Hơn nữa, suốt thời gian xảy ra tranh chấp, khi bộ ngoại giao Việt Nam đang phản đối, nhiều viên chức cao cấp Việt Nam vẫn tấp nập sang thăm Trung Quốc như Chu Văn Ry, phó ban tổ chức đảng, Lê Minh Hương, bộ trưởng nội vụ, tướng Nguyễn Văn Độ, chủ nhiệm tổng cục tiếp vận, coi như không có việc gì xảy ra. Vì thế, vào tháng tư năm sau, Trung Quốc tiếp tục lấn tới bằng cách đặt kế hoạch thành lập một trung tâm du lịch tại đảo Đông Hưng, hòn đảo lớn nhất trên quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam lại phản đối bằng miệng nhưng vô hiệu.
Ngoài những suy thoái kinh tế, năm 1997 cũng là năm bắt đầu có những vụ án tham nhũng nổi tiếng lọt ra ngoài ánh sáng.
Đầu tiên là vụ án nhà máy dệt Nam Định, 14 cán bộ bị tù vì gian lận khoảng 14 triệu mỹ kim.
Sau đó là Nguyễn Trung Trực của hãng Peregrine (được Bùi Thiện Ngộ, và có thể cả Trần Đức Lương, đỡ đầu) bị phe Võ Văn Kiệt bắt về tội trốn thuế.
Tiếp theo đến lượt hãng Tamexco, một hãng xuất nhập cảng của chính phủ. Giám đốc hãng là Phạm Minh Phước đã biển thủ của hãng trên 50 triệu mỹ kim. Người này từng đánh bài ăn thua hàng trăm ngàn mỹ kim và tặng cho tình nhân những biệt thự đắt giá. Bản án ghi nhận là có lần Phước cùng 87 cán bộ và nhân viên chính phủ cùng bay ra nước ngoài ăn chơi. Ra tòa, Phạm Minh Phước bị tử hình cùng bốn đồng bọn.
Khoảng một năm sau nổ ra vụ công ty Minh Phụng.
Minh Phụng là một công ty tư nhân lớn, kinh doanh về nhiều mặt, từ dệt vải tơ lụa đến buôn bán địa ốc. Công ty này cùng công ty quốc doanh Epco thành lập 47 công ty ma và thông đồng với một ngân hàng nhà nước để vay tiền sau đó quịt nợ. Vụ án có 77 bị can, số tiền thất thoát lên tới 280 triệu mỹ kim. Tăng Minh Phụng giám đốc các công ty Minh Phụng, Liên khui Thìn giám đốc công ty Epco, Phạm Nhật Hồng phó giám đốc ngân hàng Kỹ Nghệ và Thương Mại của nhà nước, đều bị tử hình.
Những vụ buôn lậu dính líu đến các cơ quan nhà nước tràn lan đến nỗi cục trưởng cục thuế quan Phan Văn Đính cũng bị mất chức và nhiều bị cáo phải ra tòa. Phùng Long Thất, trưởng toán điều tra thuộc ty thuế quan TP.HCM cùng Trần Đoàn, chủ tịch công ty Tân Trường Sinh bị xử bắn về tội thông đồng buôn lậu 900 thùng đồ điện tử và phụ tùng xe hơi.
Ngoài tệ nạn tham nhũng kinh tế, cũng trong năm 1997, một số sĩ quan công an cao cấp như thượng tá công an Vũ Hữu Chính, đại úy công an Vũ Xuân Trường cùng 30 đồng bọn bị ở tù vì liên quan đến buôn bán thuốc phiện lậu từ Ai Lao. Năm 1998, đến lượt tổng giám đốc Việt Nam hàng không Lê Đức Từ bỏ trốn vì biển thủ trên 2 triệu mỹ kim.
Ngoài ra, tháng 9-1996, khi đến chữa cháy một căn nhà ở Sài Gòn, 5 nhân viên cứu hỏa đã mở một két sắt và lấy đi 47 lạng vàng. Công an điều tra sự việc và khi 47 lạng vàng được trả lại chủ nhân, lại lòi ra chủ nhân này là Nguyễn Kỳ Cẩm, chủ tịch ủy ban bài trừ tham nhũng cả nước. Vì không thể khai làm sao có được 47 lạng vàng này, Nguyễn Kỳ Cẩm bị mất chức. Tuy nhiên, nổi tiếng nhất là vụ án Trịnh Vĩnh Bình.
Trịnh Vĩnh Bình là một thương gia người Hòa Lan gốc Việt. Những năm đầu thập niên 1990, Trịnh Vĩnh Bình mang khoảng 4 triệu mỹ kim về nước làm ăn (mở công ty Tín Thành và Bình Châu bán đồ biển, xây khách sạn, đầu tư địa ốc…) ở Sài Gòn và Vũng Tàu. Do một người tên Trịnh Hiển Thanh tố cáo, Trịnh Vĩnh Bình bị bắt năm 1998 và bị tịch thu hết tài sản. Sau 18 tháng bị giam, Trịnh Vĩnh Bình ra tòa và bị kết án 11 năm tù (3 năm về tội vi phạm luật nhà đất, 8 năm về tội hối lộ), bị phạt 480 lạng vàng, 6.2 tỷ đồng, ngoài ra còn bị tịch thu toàn bộ gia sản.
Trịnh Vĩnh Bình là một người từng hoạt động chính trị tích cực ở Hòa Lan nên trong thời gian ông ta bị giam giữ, chính phủ Hòa Lan đã phản ứng mạnh mẽ. Dù Phan Văn Khải đã can thiệp, Trịnh Hiển Thanh nhận là đã tố cáo láo và đảng ủy Vũng Tàu cũng công nhận là xử án sai, nhưng khi bộ Chính Trị họp, Lê Khả Phiêu, Lê Minh Hương, Trần Đình Hoan và Phạm Thế Duyệt... nhất định tiếp tục đưa Trịnh Vĩnh Bình ra tòa và qui án.
Chuyện rủi ro cho đảng CSVN là trong khi giải Trịnh Vĩnh Bình từ Sài Gòn ra Hà Nội, không hiểu bằng cách nào (có thể do hối lộ hay do được một phe cánh nào đó thả ra), Trịnh Vĩnh Bình đã trốn thoát ở phi trường Tân Sơn Nhất và trở về Hòa Lan. Ông ta đưa đơn kiện chính phủ Việt Nam vi phạm điều 9 của thỏa hiệp song phương mà Việt Nam đã ký với Hòa Lan, đòi bồi thường 100 triệu mỹ kim. Tòa án quốc tế đã nhận đơn kiện và xét xử. Theo một người thạo tin đang sống trong nước, (người này dĩ nhiên phải lấy tên giả và ông ta đã lấy tên giả là Trần Quốc Hoàn, tên của một bộ trưởng công an nổi tiếng nhất nay đã chết), Trịnh Vĩnh Bình bị một trung tá công an Vũng Tàu là Ngô Chí Đan, một đàn em của Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng công an, kiếm chuyện để tịch thu tài sản. Chính Nguyễn Khánh Toàn đã thúc đẩy Trần Đình Hoan bắt và tiếp tục xử Trịnh Vĩnh Bình về tội gián điệp. Công an đưa ra chứng cớ là Trịnh Vĩnh Bình từng gặp Phan Văn Khải, Nguyễn Trọng Minh (chủ tịch ủy ban nhân dân Vũng Tàu) để lôi kéo, mua chuộc. Nguyễn Trọng Minh do đó bị mất chức, Phan Văn Khải thì nghe nói liên quan đến gián điệp nên không dám can thiệp tiếp. Ngô Chí Đan về sau cũng bị mất chức vì liên quan một vụ án khác, vụ án Phương Vicarrent năm 2003. (6)
Do vụ Trịnh Vĩnh Bình, những giới chức lãnh đạo Việt Nam từ Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Văn An, Nguyễn Dy Niên mỗi khi qua thăm Hòa Lan đều bị tiếp đón rất lạnh nhạt.
Vì tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên tràn lan, tất cả những lãnh tụ của đảng đều lên tiếng đòi bài trừ tham nhũng. Phan Văn Khải ra chỉ thị bắt viên chức chính phủ phải kê khai những tài sản trị giá trên 50 triệu đồng (khoảng hơn 4000 mỹ kim), nhưng lại không bắt phải khai nguồn lợi đó từ đâu tới. Đào Duy Quát, phó ban tư tưởng văn hóa đảng, đòi tăng thêm quyền hạn cho các cơ quan điều tra của đảng và chính phủ, còn tổng bí thư Lê Khả Phiêu phát động hai đợt bài trừ tham nhũng và cuối cùng, chính Phạm Thế Duyệt, ủy viên bộ Chính Trị, cũng nói là đảng chưa kiểm soát cán bộ một cách nghiêm nhặt. Phạm Thế Duyệt là người trong năm 1998 bị 11 cán bộ và bộ đội hồi hưu tố cáo lợi dụng quyền thế khi làm bí thư thành ủy Hà Nội để chiếm đoạt đất đai nhà cửa của nhân dân một cách trái phép. Bản tố cáo (được gọi là “tâm thư” gửi tới trung ương đảng vào tháng 8 năm 1998) chỉ đích danh Phạm Thế Duyệt chiếm nhà của công đoàn ở phường Trùng Tu, nhà số 64 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm (sát bên nhà mà bà Nông Thị Xuân trước kia đã ở), nhà số 26 Trại Gang, nhà hai tầng gần hồ Bảy Mẫu.
Cùng bị tố với Phạm Thế Duyệt là Đinh Hạnh, ủy viên ban thường vụ thành ủy Hà Nội, phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố. Lá thư không thể phổ biến công khai, nhưng đã được sao chép và bí mật phổ biến rộng rãi. Những người viết thư ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, chẳng hạn như ông Đoàn Nhân Đạo, cán bộ 48 tuổi đảng, nhà ở 37 Hàng Buồm, bà Đặng Thị Xuân Tiên, 51 tuổi đảng ở số 27 Nghĩa Đô, Cầu Giấy..
Tuy vậy, Phạm Thế Duyệt nhờ được hậu thuẫn mạnh mẽ của Đỗ Mười nên không bị biện pháp kỷ luật nào mà còn tiếp tục ngồi trong bộ Chính Trị rồi Mặt Trận Tổ Quốc nhiều năm sau. Ngoài ra, Phạm Thế Duyệt còn được bộ Chính Trị giao trách nhiệm đả kích và bôi nhọ tướng Trần Độ (kể cả thủ đoạn dùng công an gài bẫy, cho người rình sẵn, hẹn Trần Độ tới một nơi rồi cho một cô gái cới quần áo đến ôm chầm lấy ông cho công an chụp hình). Trần Độ cuối cùng bị đảng tuyên bố trục xuất khỏi đảng năm 1999.
Ngày 15-4-1998, vì bị cán bộ tỉnh Hà Tây hà hiếp không có chỗ kêu oan, ông Nguyễn Văn Kinh chế xăng tự thiêu tại công trường Ba Đình trước lăng Hồ Chí Minh. Ông được cứu sống và bộ ngoại giao ngày 21-4-1998 đổ tội là ông bị bệnh thần kinh.
Ít lâu sau, đến lượt phó thủ tướng đặc trách xây dựng Ngô Xuân Lộc mất chức vì bị nghi là thông đồng với Lê Tất Cương gian lận tiền mua xi măng và lem nhem trong công trình xây dựng công viên Thủy Cung Thăng Long. Sự cách chức và bắt giữ Ngô Xuân Lộc cũng có tin là do tranh chấp giữa phe của Lê Đức Anh và phe chính phủ của Phan Văn Khải, vì chính trợ lý của Lê Đức Anh là Nguyễn Bắc Sơn đã điều động báo chí tấn công Ngô Xuân Lộc. Mấy tháng sau, do Đỗ Mười can thiệp, Ngô Xuân Lộc được minh oan và lại được Phan Văn Khải chỉ định làm cố vấn đặc biệt về kỹ nghệ, xây dựng và giao thông.
Chính Đỗ Mười cũng phải lên tiếng cải chính là ông ta không hề nhận rượu vang của một tổ hợp công ty Đại Hàn (nhiều tin đồn nói Đỗ Mười nhận hối lộ của tổ hợp này một triệu mỹ kim).
Ngô Xuân Lộc bị bắt do tố cáo của tổng cục 2. Người cho tài liệu để tố cáo là Nguyễn Thái Nguyên, một viên chức trong văn phòng thủ tướng của Phan Văn Khải đã được tổng cục 2 chiêu dụ để nằm vùng.
Để trả đũa lại tổng cục 2, phe chính phủ cho bộ Nội vụ bắt và kết tội Nguyễn Thái Nguyên đã cùng tổng cục 2 vu cáo Võ Thị Thắng, tổng giám đốc tổng nha du lịch. Tổng cục 2 từng tố cáo là trong khi ở tù Côn Đảo, Võ Thị Thắng đã làm chỉ điểm cho công an VNCH. Trong vụ này, ngoài Nguyễn Thái Nguyên, tổng cục 2 còn dùng một nhân viên nằm vùng khác trong công ty du lịch là Nguyễn Thị Thanh Hiền.
Giữa năm 1998, cơn khủng hoảng kinh tế Á Châu trong năm 1997 mới ảnh hưởng tới Việt Nam vì phần lớn (60%) hàng xuất cảng của Việt Nam là để bán cho những nước lân bang và những nước đầu tư nhiều nhất ở Việt Nam như Đại Hàn, Tân Gia Ba, Thái Lan… đều gặp khó khăn. Hàng xuất cảng giảm đi một phần ba. Vốn ngoại quốc đầu tư giảm đi một phần tư so với năm trước. Nhân số thất nghiệp lên tới 20%.
Trong cuộc họp hàng năm của Ngân Hàng Thế Giới và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế, Nguyễn Tấn Dũng đã lên tiếng yêu cầu trợ giúp thêm cho Việt Nam. Tuy nhiên, vì thành phần bảo thủ chiếm đa số trong trung ương đảng và bộ Chính Trị, nên ngoài việc khuyến khích tìm cách sử dụng vốn trong nước để đầu tư thay thế vốn nước ngoài, những buổi họp của trung ương đảng năm 1998 chú trọng nhiều hơn vào những vấn đề văn hóa hay ý thức hệ nhằm củng cố quyền lực của đảng mà không đưa ra một biện pháp cải thiện kinh tế nào. Tiếp theo, hội nghị trung ương đảng lần thứ sáu đầu năm 1999 cũng chỉ chú trọng đến việc kiện toàn bộ máy đảng hay chính phủ, hoặc đề ra chiến dịch “phê và tự phê” trong ba năm để thanh lọc hàng ngũ.
Cuối năm 1998, phân bộ Kinh tế thuộc tổng Cục Kinh tế và Kỹ nghệ Quốc phòng được nâng cấp thành cục Kinh tế, đặt dưới sự kiểm soát của bộ Quốc phòng. Kể từ đó, hầu như không có một ngành kinh tế nào mà quân đội không nhúng tay vào đầu tư, và hầu như ngành nào của quân đội cũng có riêng một cơ quan làm ăn buôn bán, đáng kể nhất là cục quân báo, lúc sau này được nâng lên thành tổng cục 2, có quyền theo dõi, bắt bớ, điều tra những việc không chỉ liên quan đến quân sự mà còn về cả chính trị, kinh tế.
Ít lâu trước đó, giữa năm 1998, quân đội Việt Nam bị tổn thất khi một máy bay quân sự Yak-40 do Nga chế tạo bị rớt bên Lào khiến 26 người tử nạn, trong đó có các tướng Đào Trọng Lịch, tham mưu trưởng quân đội, Trần Tất Thành, tư lệnh quân khu II, Trần Minh Thiết, tư lệnh phó quân khu V cùng các tướng Phạm Minh Thành, Vũ Xuân Thủy và một số sĩ quan cao cấp Ai Lao. Bẩy năm sau, 2005, một máy bay trực thăng MI-8 cũng do Nga chế tạo đâm vào núi ở Nghệ An, gây thương vong cho tất cả những tướng lãnh chỉ huy quân khu IV, trong đó có trung tướng tư lệnh Trương Đình Thanh, tư lệnh phó Nguyễn Bá Tuấn, chủ nhiệm chính trị Lê Hữu Phúc và nhiều sĩ quan cao cấp khác.
Sau khi Đào Trọng Lịch chết, Lê Văn Dũng, người tỉnh Bến Tre, đang là thiếu tướng tư lệnh quân khu VII ở miền Nam được gọi về Hà Nội thay. Cũng như Phạm Văn Trà, sự lên chức nhanh chóng của Lê Văn Dũng là do sự đỡ đầu và cất nhắc của Lê Khả Phiêu và Lê Đức Anh. Những người này đã biết nhau trong thời gian phục vụ ở miền Nam và Campuchia. Do đó, cùng với Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng đã hết lòng phục vụ Lê Khả Phiêu và Lê Đức Anh.
Sự hiện diện của một phái đoàn tướng lãnh gồm tư lệnh những quân khu giáp ranh với Ai Lao trên chuyến máy bay bị tử nạn cho thấy Việt Nam vẫn còn những hoạt động quân sự ở Ai Lao. Dù bộ ngoại giao Việt Nam cực lực chối bỏ, nguồn tin ngoại giao ở Ai Lao cho biết vào tháng 5-2000, quân Việt Nam đã can thiệp để giúp đỡ quân Ai Lao đánh dẹp một số quân khởi loạn người Hmong trong tỉnh Xieng Khoang và trong tháng 6, báo chí Hà Nội đăng tin tướng Nguyễn Khắc Dương, tư lệnh quân khu IV đã cùng đại tá Sayphoubanh của Ai Lao đặt viên đá đầu tiên xây dựng một quân y viện tại tỉnh này.
Cũng tại Ai Lao, hai tháng sau, một trái bom nhỏ gài sát tường tòa đại sứ Việt Nam được gỡ ngòi nổ. Những nguồn tin ngoại giao tin rằng sự việc không do nhóm chống đối người Hmong mà do một nhóm thân Trung Quốc trong đảng cộng sản Ai Lao, vì dù đã có sự hòa hoãn với Việt Hoa, Trung Quốc vẫn luôn tìm cách lấn át ảnh hưởng của Việt Nam tại Ai Lao và Campuchia.
Đi trước Việt Nam, từ năm 1988, Ai Lao đã bắt đầu nối lại quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Để có thể thông thương với Thái Lan, Trung Quốc đã tích cực viện trợ cho Ai Lao, nhất là vịệc mở mang xa lộ theo hướng Bắc Nam từ Trung Quốc qua Vạn Tượng tới Thái Lan. Theo thống kê, từ 1988 đến 2001, Trung Quốc viện trợ cho Ai Lao khoảng 1.7 tỷ mỹ kim. Khác với các nước Nhật, Tây Âu, Úc, Ngân Hàng Thế Giới đòi Ai Lao phải thi hành nhiều điều kiện như cải tổ hành chánh, chống thất thoát, cải thiện nhân quyền, Trung Quốc khi viện trợ gần như không đòi hỏi một điều kiện nào. Nhưng xét về ảnh hưởng đối với đảng cộng sản Ai Lao, Việt Nam hiện vẫn chiếm uy thế so với Trung Quốc, dù điều này có thể bị xoay ngược trong tương lai.
Cuối năm 1999, nhằm nâng cao phẩm chất quân đội, quốc hội ra một đạo luật đòi hỏi các sĩ quan phải có trình độ đại học. Cấp trung đoàn trưởng trở lên phải có bằng cấp hậu đại học (không nhất thiết là văn hóa mà có thể là chính trị, lý luận…và có thể học “tại chức”). Các chức vụ được đề cử phải theo thứ bậc, chẳng hạn phải là tư lệnh quân đoàn (chỉ huy khoảng 3 sư đoàn) rồi tư lệnh phó quân khu (chỉ huy lãnh thổ) trước khi làm tư lệnh quân khu. Số tướng lãnh được giới hạn ở mức 150 người.
Do sự ưu thắng của phe quân đội và được Lê Khả Phiêu nâng đỡ, cục Kinh tế và Kỹ nghệ của quân đội tiếp tục bành trướng. Năm 1998, Phạm Văn Trà ra lệnh cho các quân khu và binh đoàn thiết lập nên những “khu kinh tế quốc phòng” và một năm sau, 13 khu đã được thành lập với số vốn khoảng trên 200 triệu mỹ kim. Phần lớn những khu kinh tế này nằm dọc theo biên giới Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia.
Tùy theo hoàn cảnh địa phương, mỗi khu kinh tế kinh doanh những ngành khác nhau. Chẳng hạn binh đoàn 15 đóng tại vùng Tây Nguyên đặt kế hoạch khai khẩn đất hoang, trồng trà, cà phê, nuôi gia súc…, công binh của binh đoàn lập đường xá, xây nhà cửa, trường học. Binh chủng Hải Quân lập xưởng sửa chữa tàu và để cho một số tàu tuần kiêm nhiệm thêm việc đánh cá. Khi Trung Quốc bị mất mùa, dù trái luật, tàu Hải Quân đã chở lúa gạo từ miền đồng bằng Việt Nam sang bán cho Trung Quốc kiếm lời..
Không Quân có tổ hợp công ty hàng không lo việc chuyên chở hành khách thương mại và huấn luyện phi công. Quân Y lập bệnh viện tư. Lực lượng biên phòng phá rừng, xây trường học và cung cấp giáo viên cho dân thiểu số. Học viện Kỹ Thuật Quân Đội cũng lập công ty điện toán Tecapro ký khế ước với hãng dầu Vietsovpetro cùng nhiều công ty ngoại quốc khác.
Những tổ hợp công ty của quân đội thành công nhất là công ty Trường Sơn (binh đoàn 12), công ty Thanh An (binh đoàn 11), công ty Tây Nguyên (binh đoàn 15)...
Ngay tổng cục 2 tình báo cũng có những công ty Vasuco, Toseco buôn bán vũ khí, khách sạn Hoàng Gia, công ty xây dựng Hồng Bàng. Cũng như những công ty quốc doanh, những công ty quân đội nếu bị lỗ lã, sẽ được ngân sách quốc gia tài trợ.
Năm 1999, kinh tế Việt Nam tiếp tục xuống dốc.
Đầu tư ngoại quốc xuống 4 tỷ mỹ kim năm 1998 tới 1999 tiếp tục xuống chỉ còn 1.48 tỷ. Phần lớn các công ty ngoại quốc ở Việt Nam đều bị lỗ nhưng lỗ nhiều nhất là các công ty quốc doanh. Hơn 2000 trong tổng số hơn 6000 công ty quốc doanh bị lỗ và dĩ nhiên chính phủ phải bù đắp. Ngân Hàng Thế Giới và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế tuyên bố ngưng cho vay, trừ khi Việt Nam áp dụng một phương cách đổi mới toàn diện hơn, nhắm vào 3 mục tiêu:
1.Tư nhân hóa hoặc cải tổ các công ty quốc doanh.
2.Cải tổ hệ thống ngân hàng, kể cả 4 ngân hàng chính của nhà nước.
3.Cải tổ ngành thương nghiệp, mở rộng thị trường.
Khi phe đổi mới đề nghị với trung ương đảng những biện pháp đáp ứng các đòi hỏi kể trên, nhóm bảo thủ lại thấy đó chỉ là âm mưu của tư bản nhằm bóc lột và thao túng kinh tế những nước nghèo. Theo họ, tư nhân hóa các công ty quốc doanh chỉ là phương cách giảm thiểu uy quyền của đảng và nhà nước, phá hoại định hướng xã hội chủ nghĩa, còn mở rộng thị trường chỉ nhắm giúp các công ty ngoại quốc cạnh tranh với giá thành rẻ hơn sẽ làm suy sụp những công ty quốc doanh, tạo ra nạn thất nghiệp và xáo trộn an ninh.
Vì thế, khi dự thảo thỏa hiệp thương mại song phương (BTA-bilateral trade agreement) Việt Nam-Hoa Kỳ được hoàn tất, dù Lê Khả Phiêu ủng hộ thỏa ước vì nó giúp thuế khóa hàng hóa Việt Nam vào Hoa Kỳ giảm từ 40% xuống còn 3%, và tính ra Việt Nam sẽ được lợi khoảng 800 triệu mỹ kim trong năm đầu tiên, nhưng việc ký kết đã bị phe bảo thủ trì hoãn lại.
Bản dự thảo hiệp ước được thương thuyết từ năm 1997 và với sự đồng ý của Lê Khả Phiêu, việc ký kết được dự trù khi Phan Văn Khải sang Tân Tây Lan họp hội nghị kinh tế các nước ven Thái Bình Dương (APEC) và gặp Clinton ở đó vào tháng 9-1999. Nhưng nếu ký thỏa hiệp BTA, những công ty quốc doanh làm ăn thua lỗ sẽ không còn được trợ cấp nên các đảng viên cao cấp có liên quan với những xí nghiệp quốc doanh đã vận động Đỗ Mười can thiệp để Lê Khả Phiêu trì hoãn lại. Thêm một lý do khác là lúc đó Trung Quốc đang nghiên cứu ký một thỏa hiệp tương tự với Hoa Kỳ. Cảm thấy không thể đi trước nước đàn anh, Lê Khả Phiêu đã chỉ thị bộ ngoại giao tuyên bố là Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng. Một tháng sau, khi hội nghị trung ương đảng lần thứ VIII họp để nghiên cứu lại, hội nghị đã kết luận là bản dự thảo này “không quân bình, cần nghiên cứu thêm”.(7) Tháng sau, từ ngày 8 đến 15-10-1999, do lệnh của Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu, Phạm Thế Duyệt, một ủy viên Bộ Chính Trị, lên đường sang Trung Quốc tham khảo ý kiến về việc ký kết thỏa ước. (8)
Dù Trung Quốc khuyến cáo Việt Nam nên thận trọng khi ký kết với Hoa Kỳ nhưng chỉ vài tuần lễ sau đó, các cấp lãnh đạo Việt Nam đã ngỡ ngàng khi Trung Quốc nhanh chóng ký kết một thỏa ước tương tự với Hoa Kỳ, mở đường cho Trung Quốc gia nhập cộng đồng thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2001, trong khi sự trì hoãn của Việt Nam một phần do khuyến cáo của Trung Quốc đã làm chậm đi việc gia nhập tổ chức này tới tháng 11-2006. Một số công ty ngoại quốc dự định đầu tư ở Việt Nam thấy Trung Quốc đã ký BTA với Hoa Kỳ nên quay sang Trung Quốc làm ăn. Tác giả Templer chuyên về Việt Nam nhận xét:“Không phải Trung Quốc bảo họ không ký. Họ chỉ không muốn qua mặt Trung Quốc. Họ nghĩ là tốt hơn nên để Trung Quốc được gia nhập WTO trước”.
Thời gian chờ đợi ký kết thỏa ước càng kéo dài càng bất lợi cho Việt Nam. Nhưng chỉ sau khi nước đàn anh và cộng sản gương mẫu Trung Quốc đã ký, những phần tử bảo thủ mới chịu nhìn nhận thực tế là cần nguồn vốn đầu tư ngoại quốc, cần phát triển xuất khẩu mới hy vọng đạt mục tiêu biến Việt Nam thành một nước công nghiệp và hiện đại vào năm 2020.
Tám tháng sau, hội nghị trung ương đảng lần thứ 10 công nhận Việt Nam không còn cách nào khác là hòa nhập vào kinh tế trong vùng và kinh tế thế giới, nhất là với Hoa Kỳ. Vũ Khoan được cử sang Hoa Thịnh Đốn để ký thỏa ước thương mại song phương BTA với Hoa Kỳ ngày 13-7-2000, nhưng việc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO của Việt Nam đã phải chờ đến cuối năm 2006 mới xong, sau Trung Quốc hơn năm năm.
Sau hiệp ước song phương, sự cải thiện bang giao giữa hai nước Việt-Mỹ được thể hiện qua việc 3 chiếc phi cơ C130 của Hoa Kỳ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất tháng 10-2000 sau 25 năm vắng bóng để chở đồ cứu trợ cho nạn nhân của một cơn bão lớn vừa gây chết chóc và tàn phá tại các tỉnh duyên hải miền Trung và miền Nam.
Sự chần chừ thay đổi ý kiến của Lê Khả Phiêu đã làm nản lòng phe đổi mới, trong khi mấy tháng sau Lê Khả Phiêu lại chấp thuận cho ký kết thỏa ước cũng gây bất bình cho phe bảo thủ.
Sự lúng túng có vẻ tự mâu thuẫn của Lê Khả Phiêu là do thái độ đối với Trung Quốc. Mới đầu Lê Khả Phiêu thay đổi ý kiến không dám ký thỏa ước với Hoa Kỳ vì cùng với Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu sợ làm mất lòng Trung Quốc. Lúc sau, thấy Trung Quốc đã ký thì Lê Khả Phiêu mạnh dạn hùa theo phe đổi mới. Đây là một trong những lý do khiến Lê Khả Phiêu bị mất chức khi chỉ làm tổng bí thư mới hơn ba năm.
Dù xuất thân là một tướng lãnh, khả năng lãnh đạo của Lê Khả Phiêu được coi là yếu kém. Ưu điểm duy nhất của Phiêu là cuộc sống bình dị và gia đình không bị tai tiếng. Tiếng xấu duy nhất về đời tư Lê Khả Phiêu là có tin đồn Lê Khả Phiêu bị trúng mỹ nhân kế của cả tổng cục 2 lẫn Trung Quốc, khiến cho thời gian Lê Khả Phiêu cầm quyền là thời gian Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc nhiều nhất, kể cả phải nhượng bộ đất đai trong tranh chấp về biên giới. Tin đồn không thể kiểm chứng, nhưng thái độ qui phục Trung Quốc của Lê Khả Phiêu đã thể hiện rõ ràng.
Sau khi Lê Khả Phiêu, với tư cách tổng bí thư, sang thăm Trung Quốc tháng 2-1999, phái đoàn thương thuyết của Việt Nam đã bị áp lực để hoàn tất thỏa ước về biên giới Việt-Hoa trên đất liền trước năm 2000 và thỏa ước này được ký kết tại Hà Nội cuối năm 1999 giữa Nguyễn Mạnh Cầm và Đường Gia Truyền (Tang Jiaxuan). (9)
Đạt được thỏa hiệp với Việt Nam, Trung Quốc đã chứng tỏ là họ có thể giải quyết riêng với từng quốc gia theo cách “chia để trị” (tránh cảnh “quần lang đả hổ”, theo Trần Quang Cơ) của họ.
Cũng theo cách này, do chủ trương của Lê Khả Phiêu, Việt Nam sẽ đi lẻ với Trung Quốc để giải quyết ranh giới trên biển vào năm sau. Trong chuyến đi thăm Trung Quốc lần này, ngoài việc gặp Giang Trạch Dân, tổng bí thư, Lý Bằng, chủ tịch quốc hội, Hồ Cẩm Đào, phó chủ tịch nhà nước Trung Quốc, Lê Khả Phiêu còn ghé thăm Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, nơi Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng năm 1990 đã qua tạ lỗi, để tỏ ra coi trọng tình hữu nghị Hoa-Việt và biết ơn thiện ý của Trung Quốc đã chịu để cho Việt Nam được tái lập bang giao.
Vì thế cô về chính trị, không có kinh nghiệm lẫn kiến thức về kinh tế, và lên cầm quyền trong thời gian mà tệ nạn tham nhũng đang lan tràn trong mọi cấp của đảng viên, việc đầu tiên của Lê Khả Phiêu là mở hai đợt thanh lọc hàng ngũ đảng và bài trừ tham nhũng. Chỉ trong tháng 7-1999, đảng trục xuất 200 đảng viên, thi hành kỷ luật 1550 đảng viên khác, hàng ngàn viên chức khác bị sa thải.
Tháng 10-1999, tổng giám đốc thuế quan Phan Văn Đính bị mất chức vì quá nhiều cán bộ hải quan ăn hối lộ và buôn lậu. Người thay thế là Nguyễn Đức Kiên, tỉnh ủy tỉnh Hải Dương. Năm 2001, có hai tỉnh ủy viên bị loại, nhưng Việt Nam vẫn được thế giới xếp vào một trong những nước tham nhũng nhất.
Dù bản thân không tham nhũng, nhưng vì không có hậu thuẫn trong một bộ Chính Trị luôn luôn có phe phái, Lê Khả Phiêu phải ưu tiên nâng đỡ những đảng viên cùng quê hương là Thanh Hóa. Chẳng hạn khi Nguyễn Mạnh Cầm về hưu trong năm 2000, dù Vũ Khoan có khả năng và uy tín hơn, nhưng Lê Khả Phiêu lại áp lực để Nguyễn Dy Niên, người Thanh Hóa, lên thay. Vũ Khoan là người đầu óc cởi mở và chắc chắn sẽ không nhường nhịn Trung Quốc quá đáng như Lê Khả Phiêu. Ông ta đã từng viết trong một báo cáo về sử dụng ngân sách:“…nhiều thứ biết là chưa đúng, nhưng rất nhiều cán bộ lại biện lý lẽ rằng, Trung quốc đã làm qua. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng cái gì đúng ở Trung quốc không chắc đã đúng ở Việt Nam. Thành quả của Trung quốc là lớn, nhưng không thể mù quáng học tập theo, nếu cứ như vậy chúng ta sẽ lại mắc bệnh giáo điều, căn bệnh của những năm 80…”.
Tân bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên sinh năm 1935, tốt nghiệp cử nhân văn chương tại trường Banatas Hindu, Ấn Độ. Chuyến công du đầu tiên của Nguyễn Dy Niên khi mới lên nhận chức ngoại trưởng là sang thăm Trung Quốc ngay vào tháng 2-2000. Ngoài Nguyễn Dy Niên, Lê Khả Phiêu cũng vận động trao chức bộ trưởng bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chức thứ trưởng bộ Nội vụ cho những người cùng quê ở Thanh Hóa (người Thanh Hóa giữ nhiều chức vụ ở các bộ đến nỗi có lời bàn là Hà Nội đã bị “Thanh Hóa hóa”). Trong thời gian này, do áp lực của các bí thư tỉnh ủy miền Trung cùng sự hỗ trợ của Lê Khả Phiêu và Trần Đức Lương, chính phủ quyết định tiến hành xây dựng xưởng lọc dầu tại Dung Quất, Quảng Ngãi.
Xưởng lọc dầu Dung Quất là điển hình sự lãng phí của một nền kinh tế chỉ huy và duy ý chí. Địa điểm Dung Quất ở xa giếng dầu Bạch Hổ cả ngàn cây số, mọi chuyên gia đều nhận thấy về phương diện kinh tế không có lợi. Kể từ 1995 đến 2002, dù chính phủ đã dành cho nhiều điều kiện thuận lợi, các tổ hợp công ty ngoại quốc như Total (Pháp), Conoco (Hoa Kỳ), LG (Đại Hàn), và các công ty khác của Mã Lai, Đài Loan đều lần lượt bỏ dở. Sau cùng, công ty Zaroubejneft của Nga cũng phải chịu thua nửa chừng vào cuối năm 2002.
Vì công trình được dự trù một cách lạc quan là sẽ hoàn thành vào năm 2001, tỉnh Quảng Ngãi đã gửi hàng ngàn con em nông dân đi Vũng Tàu học căn bản về kỹ nghệ dầu khí và ký giao kèo với trường đại học Địa Chất để đào tạo cấp tốc hàng trăm kỹ sư dầu khí, dự trù về làm cho xưởng lọc dầu. Tất cả những trẻ em và sinh viên ra trường trở về đều thất nghiệp hoặc phải đi làm những công việc lao động khác.
Nhà máy nước được xây dựng theo dự trù cung ứng cho xưởng lọc dầu mỗi tháng 15 ngàn thước khối chỉ bán được 16 ngàn thước khối trọn năm 2001. Vì bộ Chính Trị không thể mất mặt bỏ ngang , tới tháng 2-2003, không còn ai chịu đầu tư, chính phủ Việt Nam phải đứng ra tự đảm nhận. Số vốn mới đầu dự trù 1.3 tỷ mỹ kim vào năm 1996 đã tăng lên 3 tỷ. Tất cả những phần kỹ thuật như thiết kế, trang bị, điện toán điều hành đều phải mướn các công ty ngoại quốc. Công trình dự trù hoàn tất năm 2002 phải triển hạn dần cho tới năm 2008 và hy vọng sau khi hoàn tất sẽ thỏa mãn 40% nhu cầu dầu hỏa trong nước.
Do tình trạng không thống nhất giữa đảng và chính phủ, từ năm 1997, Việt Nam đã không thể có biện pháp mạnh mẽ nào nhằm cải thiện kinh tế. Mấy tháng đầu năm 1998, có khoảng 10% công ty ngoại quốc ở Việt Nam đóng cửa, kể cả 4 ngân hàng Đại Hàn. Mặt khác, số lượng lúa gạo và cà phê xuất cảng cũng giảm sút. Tiền nước ngoài đem vào đầu tư không bằng một nửa năm trước. Tệ hơn, cuối tháng 11-1997, thủ tướng Nga Chernomyrdyn ghé thăm Việt Nam với mục đích chính là đòi nợ. Một điểm gai góc giữa hai nước là Việt Nam vay bằng tiền roubles của Nga, nhưng đồng tiền này đã xuống gíá quá nhanh nên khi Nga đòi 1.7 tỷ mỹ kim, Việt Nam cho là quá cao. Nhờ Nga được coi như một “người bạn truyền thống”, hai bên về sau cũng đạt được một thỏa ước, theo đó Việt Nam sẽ trả góp trong 23 năm (một phần nhỏ trả bằng tiền mặt, còn lại trả bằng hàng hóa hay dịch vụ).
Hội nghị trung ương đảng lần thứ 6 vào tháng 10-1998 tuy công nhận sự phát triển kinh tế đã chậm lại nhưng chỉ kêu gọi phát triển nông nghiệp để đối phó với tình thế, ngoài ra mục tiêu chính của hội nghị vẫn là làm sao kiện toàn bộ máy đảng, thanh lọc hàng ngũ đảng viên. Hội nghị cũng không bầu người nào thay thế Đoàn Khuê ủy viên bộ Chính Trị vừa mới chết. Dưới ảnh hưởng của phe bảo thủ, hiệp ước thương mại song phương với Hoa Kỳ cũng bị ngăn chận.
Bất mãn trước sự thụ động của trung ương, năm 2000, thành phố HCM đã đơn phương tìm biện pháp giữ chân giới đầu tư ngoại quốc. Họ tự động giản dị hóa thủ tục, cho phép các nhà đầu tư đã được thành phố chấp thuận có thể tiến hành công việc nếu sau hai tuần vẫn chưa được sự phê chuẩn từ Hà Nội. Những nhà đầu tư nhỏ có thể bắt đầu kinh doanh không cần sự chấp thuận của chính phủ trung ương, và các viên chức của thành phố HCM sẽ họp một tháng hai lần để giải quyết nhanh chóng khó khăn mà giới đầu tư ngoại quốc gặp phải.
Tuy sự phát triển kinh tế mỗi ngày một suy kém nhưng biện pháp đối phó chỉ được nghĩ tới sau khi Trung Quốc ký kết thỏa ước thương mại song phương với Hoa Kỳ. Hội nghị trung ương đảng lần thứ 10 (khóa VIII) họp vào tháng 7-2000 cuối cùng đã bỏ phiếu chấp thuận thỏa ước song phương với Hoa Kỳ và cho phép mở thị trường chứng khoán tại thành phố HCM.
Người được cử sang Hoa Kỳ ký thỏa ước thương mại song phương là Vũ Khoan — vừa chính thức trở thành bộ trưởng bộ thương mại thay Trương Đình Tuyển. Cũng vào dịp đầu năm 2000, bí thư thành ủy TP.HCM là Trương Tấn Sang được điều về Hà Nội làm trưởng ban kinh tế trung ương đảng. Người thay Trương Tấn Sang là Nguyễn Minh Triết. Cựu trưởng ban kinh tế của đảng là Phan Diễn đổi về làm bí thư thành ủy Đà Nẵng. Không hiểu vì lý do gì, hai ủy viên Lê Xuân Tùng, bí thư thành ủy Hà Nội và Nguyễn Phú Trọng, trưởng ban tư tưởng văn hóa cũng đổi vị trí cho nhau.
Việc ký kết thỏa ước thương mại song phương đã mở đường cho tổng thống Hoa Kỳ Clinton ghé thăm Việt Nam vào tháng 11-2000. Trong phái đoàn, ngoài bộ trưởng thương mại Minetta còn có nghị sĩ Kerry, dân biểu Loretta Sanchez (khu vực quận Cam — Orange County, California).
Không phải ai cũng hoan nghênh cuộc thăm viếng đó. Trước khi Clinton tới, ngày 27-10-2000, những phần tử bảo thủ trong bộ Chính Trị gửi một thông tư mật cho đảng viên, do Phạm Thế Duyệt ký tên, chỉ thị các cấp không được tỏ ra quá nồng nhiệt khi tiếp đón Clinton. Thông tư viết “Chúng ta phải luôn nhớ rằng bản chất của Mỹ là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Chúng vẫn chưa từ bỏ mưu toan diễn biến hòa bình…”
Chuyến đi của Clinton chỉ được thông báo trước 2 ngày với vài hàng ngắn ngủi “Tổng thống Hoa Kỳ W.J. Clinton và phu nhân sẽ chính thức viếng thăm Việt Nam từ 16 đến 19-11-2000. Chuyến viếng thăm là do lời mời của chủ tịch Trần Đức Lương”.
Chỉ có báo Thanh Niên là thêm một vài chi tiết. Báo chí được chỉ thị nếu đăng hình Clinton, hình đó phải nhỏ hơn hình của Giang Trạch Dân mới đi thăm Việt Nam trước đó. Nguyễn Dy Niên thấy thái độ của bộ Chính Trị cũng phải hủy bỏ cuộc họp báo trong ngày Clinton tới Hà Nội. Trần Đức Lương, Phan Văn Khải tiếp Clinton một cách ngoại giao và thân thiện, nhưng khi Lê Khả Phiêu gặp Clinton thì Phiêu đã lên tiếng thuyết giảng một bài học dài về lịch sử Việt Nam, đồng thời lên án chủ nghĩa đế quốc và khoe là chiến tranh Việt Nam đã có một tác dụng tốt cho phong trào xã hội chủ nghĩa.
Clinton dù là một người tránh nhập ngũ trong thời gian chiến tranh Việt Nam trước 1975 đã cứng cỏi đáp lại rằng việc Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam là để bênh vực quyền dân tộc tự quyết. Thái độ thiếu ngoại giao của Lê Khả Phiêu sau đó đã bị phê bình trong nội bộ đảng. Một điều đáng chú ý là trong dịp này, tại Mạc Tư Khoa, Nga cũng thông báo tổng thống Putin sẽ viếng thăm Đại Hàn và Việt Nam vào đầu năm tới.
Có lẽ trong thâm tâm Lê Khả Phiêu, mục đích chính của việc lên lớp Clinton không trực tiếp liên hệ tới vấn đề quan hệ ngoại giao hay kinh tế với Hoa Kỳ mà thực ra là để trấn an Trung Quốc và lấy lòng các thành phần bảo thủ. Bản báo cáo về cuộc nói chuyện riêng với Clinton được công bố trên đài truyền hình hai lần, sau đó được chính thức phân phát cho báo chí. Tân Hoa Xã của Trung Quốc cũng phổ biến ngay lập trường cứng rắn với Hoa Kỳ của Lê Khả Phiêu. Ngoài ra, có dịp lên lớp tổng thống một nước đang đứng đầu các nước tư bản cũng là để giải tỏa những dồn nén. Sáu tháng trước, trong chuyến công du Pháp quốc, theo nghi lễ, tổng thống và thủ tướng Pháp đã không ra phi trường tiếp đón Lê Khả Phiêu, vì trên danh nghĩa chính thức, Lê Khả Phiêu chỉ là tổng bí thư một đảng chính trị. Người thay mặt chính phủ Pháp ra phi trường đón tiếp là bộ trưởng giao thông, lý do ông này là đảng viên cộng sản. Khi rời nước Pháp, chính phủ Pháp cũng không tổ chức tiệc tùng đưa tiễn theo nghi lễ quốc khách (10). Được cử lên làm người có quyền lực cao nhất một nước, nhưng khi ra nước ngoài bị coi thường khiến Lê Khả Phiêu sau khi về nước, chẳng những đã mưu định giữ ghế tổng bí thư thêm một nhiệm kỳ mà còn tìm cách kiêm nhiệm luôn chức chủ tịch nhà nước giống như Giang Trạch Dân bên Trung Quốc. Quốc gia duy nhất đón tiếp Lê Khả Phiêu một cách trọng thể là Cuba, khi Phiêu sang viếng thăm vào ngày 7-9-1999. Đền bù lại, Cuba đã được Lê Khả Phiêu tặng cho 3000 tấn gạo.
Cùng đi với Clinton sang thăm Việt Nam, ngoài vợ con ông cùng các phụ tá còn có trên 30 đại diện của những công ty lớn như Boeing, Nike, Genetral Motors, Lucent, Motorola… đến để tham quan khả năng kinh tế.
Clinton được mời nói chuyện tại trường đại học Hà Nội và buổi nói chuyện được trực tiếp truyền hình. Trái với ý muốn của Lê Khả Phiêu, buổi nói chuyện cũng như sự tiếp đón của dân chúng đối với Clinton diễn ra rất nồng nhiệt. Đối với nhà cầm quyền Việt Nam, chuyến đi đó gây khá nhiều phiền phức. Họ đã bắt giữ ông Hà Hải, tổng thư ký Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo ngày 19-11-2000 khi ông này đang định từ Long Xuyên lên Sài Gòn gặp Clinton và khi Clinton đang ở Hà Nội thì phi công Lý Tống dùng một máy bay từ Thái Lan bay về Sài Gòn rải truyền đơn rồi an toàn trở lại Thái Lan.
Lý Tống sau 1975 từng vượt ngục tù cộng sản đi bộ sang Tân Gia Ba (11). Năm 1992, ông trở về Việt Nam ép một phi công hàng không Việt Nam bay quanh vùng Sài Gòn để thả truyền đơn. Lần đó ông bị bắt sau khi nhảy dù xuống đất nhưng do chính phủ Hoa Kỳ can thiệp nên được thả 6 năm sau. Trở về Mỹ, năm 2000, ông lái một phi cơ nhỏ sang Cuba rải truyền đơn chống Castro ở Havana rồi an toàn trở về Mỹ.
Do sơ hở này, phòng không của Việt Nam đã trở nên “quá cảnh giác” nên ngay ngày hôm sau, đã bắn lầm một phi cơ dân sự. Sau vụ trở lại Việt Nam lần thứ hai của Lý Tống, Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng và các cấp chỉ huy không quân, phòng không đều bị khiển trách vì không chu toàn nhiệm vụ.
Khi Lý Tống bay trở về Thái Lan, ông đã bị nhà cầm quyền Thái Lan bắt và bỏ tù đến năm 2007 mới được thả về Hoa Kỳ.
Sau chuyến đi của Clinton, Việt Nam lại đón tiếp tổng thống Putin của Nga. Bang giao với Nga được cải thiện rất nhiều từ khi Putin lên cầm quyền và nhất là sau khi Phan Văn Khải sang Nga ký thỏa ước trả món nợ 1.7 tỷ mỹ kim. Putin đến thăm Việt Nam từ Đại Hàn và khi gặp Trần Đức Lương, hai bên tuyên bố sẽ phát triển một “hợp tác chiến lược”, theo đó, ngoài việc Nga hợp tác với Việt Nam thăm dò và khai thác dầu hỏa, còn giúp xây dựng cho Việt Nam nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trị giá khoảng 3.5 tỷ mỹ kim và một nhà máy thủy điện tại Sơn La, tổn phí khoảng 2.6 tỷ.
Việc xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La đã gây ra một số chỉ trích, vì Sơn La là vùng có thể có động đất và vì bắt buộc phải di cư 100 ngàn người đi nơi khác. Tin đồn về việc di cư này mấy năm trước đã là một nguyên nhân gây ra biến loạn ở vùng Tây Nguyên. Ngoài ra, Việt Nam cũng nhờ Nga phóng giúp một vệ tinh truyền tin.
Vấn đề chính trong chuyến viếng thăm của Putin là Việt Nam sẽ tiếp tục mua võ khí của Nga. Từ 1990, việc sản xuất và bán võ khí vẫn là một nguồn xuất cảng lớn của Nga (báo chí Ấn Độ gọi tên Putin là chữ viết tắt của Planes–Uranium–Tanks–Infrastructures–Nuclears).
Putin đã khuyến khích Việt Nam mua thêm các chiến đấu cơ Sukhoi 27 (tầm hoạt động 3680 cây số), oanh tạc cơ Su-30 MK và có thể cả Mig-29. Hải quân Việt Nam cũng được tân trang. Việt Nam đã mua những tàu phóng hỏa tiễn và hệ thống phóng phi đạn chống chiến hạm Mosquito, với những phi đạn có thể bay thấp và bắn trúng mục tiêu trong vòng 120 cây số. Sau chuyến đi của Putin, Nga bán được cho Việt Nam hai dàn hỏa tiễn phòng không tối tân S.300 PMU1, có thể bắn trúng phi cơ cách xa 150 cây số. Nga đã bán cho Trung Quốc loại võ khí này và còn dự định bán cho Trung Quốc loại S.300 PMU2, tối tân hơn. Do ám ảnh áp lực của Trung Quốc, nhiều khi Việt Nam đã lén lút mua võ khí một cách ngoài qui ước. Chẳng hạn, tháng 10-2002, khi nhân viên hải quan St. Petersburg khám xét một thùng hàng lớn đưa về Việt Nam, ngoài thùng ghi là phụ tùng xe hơi, nhưng bên trong lại thấy một số hỏa tiễn phòng không tối tân nhất của Nga.
Để tiết kiệm ngân sách, trong chuyến đi Việt Nam, Putin cũng cho biết sẽ trả lại hải cảng Cam Ranh vào năm 2002, trước thời hạn giao kèo 2 năm. Tuy rất muốn hải cảng được Hoa Kỳ thuê lại, nhưng vì sợ mất lòng Trung Quốc, Việt Nam mời Trung Quốc là nước đầu tiên cho chiến hạm ghé thăm Cam Ranh. Hiểu thâm ý của Việt Nam, Trung Quốc cương quyết từ chối. Việt Nam sau đó tuyên bố sẽ biến Cam Ranh thành một thương cảng.
Sau khi Putin về nước, Nông Đức Mạnh và Trần Đức Lương cũng đã lần lượt sang Nga đáp lễ.
Cùng thời gian chuyến viếng thăm của Clinton và Putin là những cuộc viếng thăm của bộ trưởng quốc phòng Fernandes, ngoại trưởng Singh và thủ tướng Vajpayee của Ấn Độ. Đối với Việt Nam, Ấn Độ là một nước quan trọng vì đông dân, có thể chế tạo võ khí khá tối tân và nhất là thật tâm muốn bang giao chặt chẽ với Việt Nam.
Tuy nhiên, sau chuyến đi của Clinton, càng gần đến ngày đại hội đảng lần thứ IX, cuộc đấu tranh nội bộ đảng CSVN càng trở nên gay gắt nên tiến trình cải thiện bang giao với Hoa Kỳ bị ngưng trệ. Do áp lực của phe bảo thủ, chuyến viếng thăm của đô đốc Blair, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, dự trù vào ngày 15-1-2001 bất thình lình bị Việt Nam hủy bỏ và không cho biết lý do. Phải chờ một năm sau (sau khi Việt Nam đã để cho chiến hạm Yulin của Trung Quốc ghé cảng Sài Gòn ngày 22-11-2001), ngày 2-2-2002, đô đốc Blair mới chính thức đến thăm Việt Nam và đã gặp Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Văn Trà, Nguyễn Dy Niên. Trong các cuộc tiếp xúc, đô đốc Blair ngỏ ý Hoa Kỳ không muốn thuê lại hải cảng này nhưng mong là tàu bè của tất cả các nước có thể ghé lại khi cần thiết, nhưng sợ làm phật lòng Trung Quốc, Việt Nam đã từ chối.
Cũng trong hội nghị trung ương đảng lần thứ 10 (khóa VIII) vào tháng 7-2000, những điểm căn bản cho bản báo cáo chính trị của đại hội đảng lần thứ IX sẽ được tổ chức vào tháng tư năm 2001 được Nguyễn Phú Trọng đưa ra bàn thảo. Nội dung dự thảo báo cáo nói chung vẫn kêu gọi “phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Phương châm này chỉ giản dị là sẽ cố gắng để ưu tiên phát triển cho kinh tế quốc doanh vượt trội hơn kinh tế tư nhân.
Hội nghị trung ương cũng đánh giá vai trò của ban thường vụ bộ Chính Trị để tìm cách thay đổi. Tuy công khai tuyên bố theo đuổi đường lối ngoại giao “đa phương”, bản báo cáo chính trị chỉ nhấn mạnh đến cải thiện quan hệ với “những nước láng giềng, xã hội chủ nghĩa và bạn bè truyền thống” là Ai Lao, Campuchia, Trung Quốc và Nga mà không nhắc nhở gì đến Hoa Kỳ, Tây Âu hay các nước ASEAN. Với tư cách một thành viên của khối ASEAN, Việt Nam đặc biệt chỉ quan hệ thân thiết với Ai Lao và Miến Điện. Ai Lao là do bản chất thụ động cố hữu vẫn phụ thuộc vào Việt Nam trên nhiều lãnh vực, còn Miến Điện, do nền độc tài quân phiệt khiến bị cô lập đối với quốc tế nên rất thân cận và được cảm tình của những lãnh tụ CSVN. Riêng đối với Campuchia, do mối hận thù lịch sử và thái độ của cán bộ Việt Nam trong thời gian chiếm đóng sau 1979, nên dù chính quyền Hun Sen đã được Việt Nam thiết lập và hỗ trợ, đã không còn có quan hệ thực sự thân thiết như trước. Trong lúc đó, Trung Quốc tiếp tục phát triển ảnh hưởng ở Campuchia bằng cách giúp xây một xưởng đóng tàu lớn ở Kompong Som với phí tổn trên 500 triệu mỹ kim.
Thực ra chủ trương nhường nhịn Trung Quốc không hoàn toàn dành được sự đồng nhất trong đảng. Đầu năm 2001, địa vị của Lê Khả Phiêu có những dấu hiệu lung lay khi hội nghị trung ương đảng thảo luận về vấn đề tuổi tác, đã biểu quyết không cho những ủy viên trên 65 tuổi được tái cử. Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đều gần 70 nhưng điều này nhắm vào Lê Khả Phiêu nhiều hơn. Hai tuần sau, đúng ngày mà bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Trì Hạo Điền sang thăm Hà Nội, tại miền Nam, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bài tiết lộ chi tiết về hơn 300 vụ vi phạm của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam. Tờ báo cũng đăng thêm về kế hoạch bảo vệ và quản lý hành chánh của Việt Nam trên những hòn đảo. Điều này đã gây phản kháng từ phía bộ ngoại giao của Trung Quốc. Có lẽ đó là sự thách thức của phe đổi mới trong miền Nam đối với phe bảo thủ trong đảng ngoài Hà Nội trước khi có đại hội đảng. Ngoài ra, đó cũng là một cách trả đũa Trung Quốc của phe đổi mới đối với sự việc tháng 12-2000, trong ngày mà Trần Đức Lương sang Trung Quốc để đúc kết thỏa hiệp lãnh hải và thỏa hiệp đánh cá trong vịnh Bắc Việt, phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc đã lên tiếng xác nhận chủ quyền Trung Quốc trên địa phận tranh chấp Trường Sa. Trước sự phản kháng của bộ ngoại giao Trung Quốc, phát ngôn viên bộ ngoại giao Việt Nam trả lời bài trên Sài Gòn Giải Phóng là ý kiến của một “tờ báo địa phương”. Tuy nhiên, mấy ngày sau, báo Lao Động cũng đăng một bài trong đó ghi lại lời của Hà Văn Tấn, viện trưởng Viện Khảo Cổ nói đã đào được những di chỉ đồ sứ của Việt Nam từ thế kỷ 13 ở các đảo Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn Lớn, Phan Vinh, An Bang... chứng minh chủ quyền lâu đời của Việt Nam trong vùng Trường Sa.
Cũng trong tháng 2-2001, báo Tiền Phong đăng tin đã bắt giữ Phạm Văn Dũng, phó chủ tịch ủy ban nhân dân phường Hoàng Văn Thụ, Hà Nội về tội làm gián điệp (với ám chỉ là cho Trung Quốc).
Ngày 6 tháng 2 năm 2001, tại Đắc Lắc (Ban Mê Thuột) và Gia Lai (Pleiku), một biến động lớn xảy ra.(12) Khoảng năm ngàn người thuộc nhiều sắc dân thiểu số như Êđê, Jarai…nổi lên biểu tình phản đối chính quyền dung dưỡng, hợp tác với người Kinh liên tiếp chiếm đoạt đất đai của họ để lập đồn điền trồng cà phê, đồng thời ngăn cản họ không cho theo đạo Tin Lành. Họ cũng đòi được tự trị về chính trị.
Vì cà phê là một nguồn xuất cảng quan trọng (mấy năm gần đây mức xuất cảng cà phê của Việt Nam chỉ thua Colombia), dân người Kinh và ngay cả những “khu kinh tế quốc doanh” của quân đội đã lấn chiếm và khai phá đất đai của dân thiểu số địa phương.
Theo báo Quân Đội Nhân Dân ngày 27-2-2001, một “khu kinh tế quốc phòng” do binh đoàn 16 thành lập tại tỉnh Dak Lak từ 1999 đã chiếm tất cả 584.032 mẫu rừng, khai hoang để trồng cao su, bông vải, hạt tiêu, cà phê. Việc khai hoang và định cư dân từ các vùng khác cùng với sự tham nhũng của các viên chức hành chánh bắt ép dân địa phương đã gây ra những bất mãn dẫn tới bùng nổ thành biểu tình bạo động, nhất là khi có tin chính phủ trung ương dự định xây đập thủy điện ở Sơn La và sẽ dời khoảng 100 ngàn người (gốc người Thái) đi nơi khác mà nơi khác đó chắc chắn là vùng Tây Nguyên.
Để đối phó với những cuộc biểu tình, chính quyền địa phương phong tỏa toàn tỉnh, cấm phóng viên ngoại quốc đến lấy tin, kiểm soát đường dây điện thoại, sau đó, huy động công an, quân đội, xe xịt nước để đàn áp. Nhưng các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục nhiều ngày tại những địa điểm khác nhau. Khác với những cuộc biểu tình của nhân dân Thái Bình mấy năm trước chỉ phản đối về thuế khóa và những viên chức tham nhũng, cuộc biểu tình này liên quan đến những vấn đề lớn lao hơn như luật lệ về sở hữu đất đai, về tình trạng các sắc dân thiểu số, về tự do tôn giáo và tự trị chính trị.
Từ nhiều năm, do văn hóa và nếp sống khác nhau, những sắc dân thiểu số tại vùng Tây Nguyên đã khó hòa đồng vào nếp sống của người Việt. Sau 1955, những chính quyền liên tiếp ở miền Nam Việt Nam tương đối để cho họ tự trị và đưa ra nhiều biện pháp nâng đỡ. Dù vậy, năm 1964 đã xuất hiện một lực lượng chống đối là phong trào FULRO (Front Unifié de Lutte des Races Opprimées – Mặt trận Đoàn kết những Chủng tộc bị áp bức) nổi loạn trong vùng Tây Nguyên. Cuộc nổi loạn này bị dập tắt nhanh chóng và những người cầm đầu chạy qua Campuchia. Sau 1975, do kinh tế Việt Nam tồi tệ, đời sống của người dân thiểu số càng khốn khó hơn. Ngoài những túng quẫn về vật chất, họ còn bị chính quyền tìm cách trói buộc về nhiều phương diện sinh hoạt, nhất là bóp nghẹt quyền tự do tín ngưỡng của họ, đặc biệt với những người theo Công Giáo hay Tin Lành. Vì thế, sau nhiều năm bị chèn ép, họ đã nổi lên biểu tình phản đối.
Trước những cuộc biểu tình của dân chúng Tây Nguyên, bộ Chính Trị đảng phải họp phiên họp bất thường ngày 10-02-2001 để tìm cách đối phó. Trước hết, chính quyền trung ương ra lệnh buộc một số viên chức hành chánh tỉnh Đắc Lắc phải xuống ở luôn trong các buôn ấp sinh hoạt với dân chúng và giải quyết nhanh chóng những tranh chấp khiếu nại. Các phái đoàn đảng và chính phủ lần lượt đến tận nơi tra xét. Đầu tiên là Nguyễn Tấn Dũng đến cao nguyên tháng 2-2002, tiếp theo là Phạm Thế Duyệt, Phan Văn Khải đến vào tháng 3, rồi Lê Minh Hương (bộ trưởng công an) đến vào tháng 7 và cuối cùng, Nông Đức Mạnh đến vào tháng 9.
Những biện pháp lấy lòng dân được hứa hẹn, chẳng hạn như lập nhà máy điện, mở bệnh viện, trường học, lấy đất công cấp phát cho dân nghèo…Công tác tuyên truyền cũng được đẩy mạnh, chương trình phát thanh và truyền hình của các sắc tộc khác nhau (Êđê, Jarai, Koho, Mnong, Sedang…) tăng thêm thời gian. Học sinh, sinh viên sắc tộc được tăng trợ cấp và quần áo. Sách báo tuyên truyền ca tụng chính sách về sắc tộc của đảng được in và phân phát, hình Hồ Chí Minh được phát không… Sau đó, một số đất đai bị chiếm lãnh được trao trả bớt lại. Tại Dak Lak, trả lại 165 ngàn mẫu, tại Lâm Đồng 66 ngàn mẫu.
Song song với các biện pháp xoa dịu, chính quyền đổ thừa những vụ biểu tình là nằm trong âm mưu diễn biến hòa bình của những thế lực thù nghịch và bắt giữ những người bị nghi là chủ mưu. Chính quyền tuyên bố đã bắt giữ khoảng 20 người, gán những người này là thuộc về lực lượng FULRO từng làm loạn đòi tự trị tại Miền Nam bốn mươi năm trước. Họ tố cáo người cầm đầu là Ksor Kok, hiện định cư tại Hoa Kỳ, mưu định thành lập quốc gia Degar trên vùng Tây Nguyên. Dù đã có các biện pháp xoa dịu song song với đàn áp, sự bất mãn của những sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên vẫn âm ỉ. Hàng ngàn người, phần lớn là đàn bà và trẻ em bỏ trốn sang Campuchia. Trong số người này chỉ có một số nhỏ được đi định cư tại những quốc gia khác. Số còn lại bị chính phủ Campuchia đẩy trở về Việt Nam.
Tuy đã có những biện pháp xoa dịu và đàn áp, những bất mãn của những sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên vẫn còn âm ỉ. Bị áp lực dư luận của Mỹ, đại sứ Peterson đã lên vùng Tây Nguyên quan sát vào tháng 7-2001, nhưng khi trở về, ông than phiền là không được trực tiếp tiếp xúc với dân chúng. Chính quyền Hà Nội cũng mời Hội Đồng Đặc Trách Về Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ cử một phái đoàn đến Việt Nam quan sát vào tháng 2-2002. Tuy nhiên, phái đoàn đã không được gặp những hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ, linh mục Nguyễn Văn Lý hay ông Lê Quang Liêm của Phật Giáo Hòa Hảo…
Hà Nội phản ứng dữ dội khi hai tháng sau, Human Rights Watch đưa ra một bản báo cáo dày 200 trang nhan đề Đàn Áp Những Người Miền Núi lên án chính quyền CSVN. Trước đó, ngày 6-9-2001, Hạ Viện Hoa Kỳ biểu quyết đạo luật HR 2833 xác nhận không có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng đạo luật này bị thượng nghị sĩ Kerry kềm lại không cho đưa ra Thượng Viện biểu quyết.
Ba năm sau, chính quyền Việt Nam vẫn còn loan báo những xáo động lẻ tẻ vào các ngày lễ Phục Sinh hay Giáng Sinh năm 2004.
Lợi dụng biến cố Tây Nguyên, trước kỳ họp chót của hội nghị trung ương đảng lần thứ 12 để quyết định cải tổ nhân sự vào dịp đại hội đảng, Lê Khả Phiêu đã thuyết phục đa số ủy viên bộ Chính Trị là trong lúc tình hình đang biến động, không nên thay đổi lãnh đạo. Dù vậy, khi hội nghị trung ương đảng họp, ý kiến này bị bác bỏ.
Ngoài ra, vì bị Đỗ Mười và Lê Đức Anh kềm chế, Lê Khả Phiêu đã dùng tổng cục 2 đặt máy nghe lén điện thoại của các ủy viên bộ Chính Trị để theo dõi hành động và mưu định của họ, đồng thời cũng điều tra những ủy viên có trương mục tại những ngân hàng ngọai quốc. Công tác nghe và điều tra lén này mang ám số A10 bị Lê Văn Dũng và Phạm Văn Trà báo cáo cho Lê Đức Anh vào tháng 6-2000. Lê Đức Anh, dù đã được báo cáo sớm, đã giấu đi tin này để chờ mấy tháng sau, khi trung ương đảng họp về nhân sự lãnh đạo cho đại hội đảng lần thứ IX mới đưa ra, nhằm mục đích hạ Lê Khả Phiêu.
Phạm Văn Trà và Lê Văn Dũng đã được che chở, chỉ bị khiển trách trong hội nghị. Phạm Văn Trà sau đại hội IX vẫn được giữ làm bộ trưởng quốc phòng và ở lại bộ Chính Trị tuy bị sụt thấp 2 hạng, còn Lê Văn Dũng tuy cũng bị khiển trách vì vụ Lý Tống và bị mất chức tham mưu trưởng quân đội, nhưng vẫn được chuyển qua làm chủ nhiệm tổng cục chính trị và được vào ban bí thư. Thay thế Lê Văn Dũng trong chức tham mưu trưởng quân đội là tư lệnh quân khu I Phùng Quang Thanh
Ngoài Phạm Văn Trà và Lê Văn Dũng, ba đảng viên cao cấp khác bị khiển trách và sau đó mất chức là Đoàn Văn Kiên, Hoàng Đức Nghi và Hà Quang Dự.
Đoàn Văn Kiên là tổng giám đốc tổng công ty than đá Vinacoal, vì quản lý sai lầm, than sản xuất ra không ai mua ứ đọng 4 triệu tấn phải bán phá giá và khiến một số lớn nhân công phải nghỉ việc. Hoàng Đức Nghi, chủ tịch ủy ban sắc tộc vì đã để xảy ra biến cố Tây Nguyên, và nhất là đã xảy ra thất thoát vì ăn cắp, hối lộ khỏang 70% ngân sách phát triển cho đồng bào sắc tộc. Chẳng hạn khi mua những máy truyền thanh cho dân thiểu số nghe đài tại Cao Bằng thì những máy này lại chỉ nghe được đài Trung Quốc mà không nghe được đài Cao Bằng cách đó có 8 cây số. Trong khi đó, Hà Quang Dự, chủ tịch ủy ban thể dục thể thao, vì có quá nhiều gian lận trong những cuộc tranh giải thể thao. Riêng Lê Khả Phiêu bị khiển trách, phê bình về việc nghe lén điện thoại và mất chức tổng bí thư.
Đại hội đảng lần thứ VIII của đảng CSVN họp vào giữa năm 1996 là lúc mà sự tranh chấp quyền lực giữa bộ ba Mười, Anh, Kiệt cầm quyền trở nên gay gắt. Sự tranh chấp này chỉ giải quyết được vào hơn một năm sau, nhưng vì những người thay thế như Phiêu, Lương, Khải đều yếu thế nên vai trò chính trị cũng như ảnh hưởng của bộ ba kể trên vẫn tồn tại cho tới hết nhiệm kỳ năm năm của đại hội. Trong thời gian đó, Lê Khả Phiêu đã được đưa lên cầm quyền như một biện pháp hòa giải.
Vì kém khả năng, không có hậu thuẫn vững mạnh trong đảng và lại phải cầm quyền trong một thời gian mà tình hình quốc tế và quốc nội gặp nhiều khó khăn, Lê Khả Phiêu đã không có được một biện pháp lãnh đạo mạnh mẽ nào để cải thiện tình hình trong mọi phương diện như kinh tế, nội an hay bài trừ tham nhũng…
Tệ hại hơn nữa, căn bản là một chính trị viên, trong sự chọn lựa giữa ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và quyền lợi quốc gia, Lê Khả Phiêu đã nghiêng nhiều về ý thức hệ và nhượng bộ Trung Quốc quá nhiều, nhất là về lãnh thổ, lãnh hải, với hy vọng lấy lòng những phần tử bảo thủ (phần lớn do Đỗ Mười và Lê Đức Anh chi phối) hầu giữ nguyên được quyền vị.
Nhìn chung, do tình trạng kinh tế sa sút, tệ nạn tham nhũng trong đảng và chính quyền gia tăng, sự bộc phát bất mãn của nhân dân ở Thái Bình, Đồng Nai, Tây Nguyên cùng với sự thao túng của Đỗ Mười và Lê Đức Anh.., Lê Khả Phiêu đã bị loại khỏi phạm vi quyền lực sau khi mới làm tổng bí thư được hơn nửa nhiệm kỳ.
CHÚ THÍCH CHƯƠNG V
___________________________________________
(1)— Nguyễn Văn Linh vẫn được coi như người bắt đầu phong trào Đổi Mới ở Việt Nam, nhưng về sau, ông ta rất sợ bị gọi là Gorbachev Việt Nam. Ông ta gọi Gorbachev là kẻ “cơ hội”. Các cán bộ cốt cán khác cũng thù Gorbachev và Yeltsin, hai người đã phá sập cái thiên đường của họ. Nhà xuất bản Công An Nhân Dân đã ấn hành cuốn sách Sự Phản Bội của Gooc Ba Trốp qui lỗi cho Gorbachev về sự sụp đổ của khối cộng.
(2)— Việc mất chức của Nguyễn Hà Phan, tài liệu mật của đảng CSVN ghi:“trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, khi đồng chí Nguyễn Hà Phan bị bắt và giam cầm, đã không giữ được danh dự của người cộng sản, tiết lộ cho địch những cơ sở nằm vùng. Sau khi được tha năm 1964, đồng chí không báo cáo những sai lầm với đảng. Lỗi lầm của đồng chí Nguyễn Hà Phan rất nghiêm trọng. Trung ương đảng quyết định xử lý kỷ luật với đồng chí Nguyễn Hà Phan và trục xuất khỏi đảng” (Trích Shadows and Wind - Robert Templer). Lỗi lầm của Nguyễn Hà Phan cũng như quyết định mật đó của trung ương đảng chắc do phe Võ Văn Kiệt tiết lộ.
(3)— Lý Quí Chung trước khi chết đã viết cuốn Hồi Ký Không Tên. Người viết không biết nhiều về cá nhân ông, nhưng qua hành động, ông điển hình là một người “cách mạng 30”. Trước 30-4-1975, ông từng đối lập với chính phủ VNCH, nhưng chính phủ đó vẫn nương nhẹ, để cho ông viết báo chỉ trích chánh phủ, kiếm tiền, làm dân biểu, đi ngoại quốc. Bạn bè ông, người thân của ông đi tù, trong nhật ký của ông, ông không viết một lời thông cảm. Nhật Ký Không Tên chỉ ghi lại những hậm hực vì không được trọng dụng. Trong khi Lý Chánh Trung còn được cho làm dân biểu bù nhìn một nhiệm kỳ, Lý Qúi Chung bị kéo ra Hà Nội làm một phóng viên quèn cho báo Lao Động một thời gian. Một chuyện khác, trong khi cả những cán bộ cộng sản cao cấp cũng công nhận lỗi lầm về việc cải tạo công thương nghiệp sau 1975 thì trong Nhật Ký Không Tên của Lý Qúi Chung, điều duy nhất mà ông ấm ức là chính quyền đã tịch thu nhà của cha ông, khi “tại tòa báo vào thời điểm đó, tôi tuyên truyền cho các cuộc cải tạo tư sản mại bản, công thương nghiệp, tư sản tư doanh “. Bỏ rơi những người quốc gia, nhưng những người cộng sản chính thống cũng không coi ông ra gì, ông là điển hình của giai cấp lưng chừng, “phi cầm phi thú”.
(4)— Vụ đàn áp dân Thái Bình
(5)— Kaysone Phomvihane sinh năm 1920, nói được tiếng Việt, cha là người Việt (tên Nguyễn Trí Loan?), là người thực sự chỉ huy đảng cộng sản Ai Lao đằng sau Souphanouvong. Làm tổng bí thư kiêm thủ tướng từ 1975 đến 1991 thì từ chức, lên làm chủ tịch nước. Chết năm 1992, được Việt Nam bỏ tiền ra làm một viện bảo tàng kỷ niệm Phomvihane rất lớn. Mấy năm gần đây, vì Trung Quốc muốn tranh giành ảnh hưởng với Việt Nam tại Lào, cho nên năm 2006, họ làm một cái tượng của Phomvihane cao 8.5m để đặt trước nhà bảo tàng này.
Xin đọc: Ai Lao: đất và người của Hàn Lệ Nhân, website Vietnamexodus.
(6)— Vụ án Trịnh Vĩnh Bình và Phương Vicarrent, xin đọc bài của Trần Quốc Hoàn (bút hiệu) và bài của ký giả Trọng Kim (báo Ngày Nay) trên website Đàn Chim Việt. Người viết Trần Quốc Hoàn, có lẽ là một viên chức trong bộ công an nên đã rất rõ về Nguyễn Khánh Toàn. Nguyễn Khánh Toàn là nhân vật số 2 trong bộ công an, vào năm 2007 còn bị tai tiếng về gian lận nhà đất. Ông Hoàn cho biết vợ Nguyễn Khánh Toàn là Phạm Gia Liên có hùn hạp làm ăn với Ngô Chí Đan.
(7)— Theo Sheri Prasso, người ra lệnh cho Phan Văn Khải không ký BTA là Đỗ Mười dù lúc đó Đỗ Mười không còn là tổng bí thư, cũng không là ủy viên bộ Chính Trị mà chỉ là “cố vấn”. Mấy năm sau, trong một hội nghị trung ương đảng, nhiều ủy viên đã chỉ trích gay gắt Đỗ Mười làm trái nguyên tắc. Lúc này Đỗ Mười đã hết là cố vấn. Xin coi ở đây
(8)—- Chuyến đi của Phạm Thế Duyệt sang Trung Quốc năm 1999, ngoài việc tham khảo ý kiến về thỏa ước BTA, còn để học hỏi thêm về việc phát triển Mác xít khi thực hành kinh tế tư bản. Để biện luận điều này, ủy viên bộ Chính Trị Trung Quốc Li Ruihuan nói rằng “chủ nghĩa Mác không gạt bỏ mà còn hấp thụ tất cả những thành tựu của văn minh loài người”.
(9)— Trong lễ ký kết thỏa ước, Phan Văn Khải đến tham dự, nhưng Chu Đông Cơ không đến, mà chỉ cử Wang Yi, trưởng phái đoàn thương thuyết của Trung Quốc, tương đương với cấp thứ trưởng thay mặt mà thôi.
(10)— Theo Bùi Tín, khi Lê Khả Phiêu sang Pháp ,dẫn một phái đoàn hùng hậu hơn một trăm người, nhưng T.T Chirac không muốn tiếp nên gửi thông tư cho chính phủ để thủ tướng Jospin tiếp. Thủ tướng lấy cớ chính phủ không mời nên làm lơ. Bộ trưởng Ngoại Giao lấy cớ bận việc bỏ đi nơi khác. Báo chí Pháp cũng không có báo nào đăng tin về cuộc viếng thăm.
(11)— Cuộc đời Lý Tống là một cuộc đời bất khuất nhưng cũng ly kỳ không kém những nhân vật của Jack London và đã được kể lại trong báo Reader’s Digest. Ông mãn hạn tù (lần thứ ba) ở Thái Lan năm 2007, CSVN đòi dẫn độ ông về Việt Nam. Mới đầu, tòa sơ thẩm đồng ý nhưng ngày 3-4-2007, tòa phúc thẩm bác bỏ vì hành động của Lý Tống đối với Việt Nam có tính cách chính trị và luật Thái Lan không cho phép dẫn độ tù chính trị. Ông trở về Hoa Kỳ tháng 4-2007. Tổng cộng ông đã ở tù 21 năm. Trong lần đầu vượt ngục từ Việt Nam tới Singapore, ông được chuyển qua trại Galant để cứu xét định cư, một hội đoàn gửi tặng 500 mỹ kim, ông đã không dùng và bỏ vào quĩ giáo dục trẻ em tị nạn trên đảo.
(12)— Vụ xáo trộn Tây Nguyên: Thunder from the Highlands của Margot Cohen trong tập san Far Eastern Economic Review số tháng 3-2001.
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...