. .

Friday, March 20, 2009

TỪ THỰC DÂN ĐẾN CỘNG SẢN Part 2

TỪ THỰC DÂN ĐẾN CỘNG SẢN Part 2
HOÀNG VĂN CHÍ
Chương 14 - Chiến dịch giảm tô

Vài tháng sau cuộc “Đấu tranh chính trị” chấm dứt một đoàn cán bộ đã được huấn luyện tại Trung Quốc giả dạng làm nông dân bí mật tới làng. Nhờ tổ đảng địa phương mách mối làm quen với một vài cố nông túng bấn nhất trong làng, và xin cho ngụ cư trong nhà. Họ thực hành một chính sách gọi là “ba cùng”, nghĩa là cùng làm việc với chủ nhà (mà không lấy công), cùng ăn với chủ nhà (nhưng góp phần mình), và cùng ngủ một giường với chủ nhà. Nếu chủ nhà có vợ, như trường hợp thông thường, thì một nữ cán bộ tới ngủ cùng với bà vợ, và một nam cán bộ ngủ với ông chồng.


Họ ở như vậy trong ba tháng. Anh nông dân rất hài lòng vì bỗng dưng có người giúp việc không công. Họ làm đủ mọi việc, cày bừa hoặc gặt hái, tuỳ theo vụ. Họ quét nhà, trông trẻ, và trò chuyện luôn mồm. Họ tìm hiểu đời tư của chủ nhà, rất chăm chú nghe và tỏ vẻ thông cảm mỗi khi chủ nhân kể cho nghe một cảnh cực khổ của mình. Chẳng bao lâu người nông dân chất phác coi họ là đồng tình đồng cảm với mình và có bao nhiêu tâm sự “to nhỏ” với họ cho kỳ hết. Họ chịu khó nghe và giảng giải cho anh thấy rõ nguyên nhân của mọi nỗi khổ của đời anh. Tỉ dụ trường hợp một anh nông dân bị vợ bỏ, đi lấy chồng khác, thì cán bộ giải thích ngay rằng: “Giá anh không bị tên địa chủ độc ác ấy bóc lột thì anh đâu đến nỗi túng thiếu. Anh đã sắm được cho chị ấy đủ thứ thì việc gì chị ấy lại nỡ bỏ anh!”. Tóm lại, theo cán bộ thì mọi nỗi đau khổ mà nông dân đã phải chịu đều xuất phát từ sự bóc lột tàn bạo của bọn địa chủ lang sói. Đấy chính là điều mà họ cố nhồi vào óc mấy anh bần cố nông đã chứa họ trong nhà.

Sau đó họ bày vẽ cho nông dân biết rằng chỉ có một phương pháp duy nhất để cải thiện đời sống của mình là tin theo chính sách của Đảng, vùng lên tiêu diệt cho kỳ hết bọn địa chủ cường hào ác bá trong làng. Công tác tích cực nhồi sọ này tiếp diễn mỗi ngày đến gần 18 giờ, cho tới khi người nông dân trước kia hiền lành ngoan ngoãn, nay sẵn sàng đứng dậy chống lại chủ đất của mình. Người nông dân được giác ngộ gọi là cái “rễ”, và công tác kể trên được gọi là “bắt rễ”.

Tới giai đoạn này, người cán bộ chấm dứt mọi hành vi xách động của mình trong làng, và từ đó chỉ ở miết trong căn nhà mà anh đã “ba cùng”. Từ đấy cán bộ chỉ hành động qua cái “rễ” của anh ta, người mà anh ta cấp dưỡng tiền nong và dùng làm gián điệp thường xuyên. Anh ta cổ động cái “rễ” mà ta tạm gọi là A đi kết nạp B, rồi đến lượt B đi kết nạp C, và cứ thế mãi. Công việc này gọi là “xâu chuỗi”, và B, C, D, v.v, được gọi là “cốt cán”. Phương pháp kết nạp này (mỗi rễ và mỗi cốt cán chỉ được phép giới thiệu một người mà thôi) nhằm phòng ngừa trường hợp vô tình kết nạp một số lớn “phản động” và nhằm tránh những cạm bẫy mà địa chủ trong làng có thể giăng ra. “Rễ” còn giữ nhiệm vụ bí mật liên lạc với những cán bộ khác, đang công tác tại những xóm lân cận, để trao đổi và đối chiếu những tin tức do các cốt cán cung cấp. Họ điều tra tỉ mỉ mọi chi tiết của đời sống trong làng, tình trạng sở hữu ruộng đất và tài sản, thái độ chính trị, hoạt động quá khứ, và ngay cả những cuộc tình duyên kín đáo nhất của từng người một (việc điều tra những cuộc tình duyên này nhằm một mục đích đặc biệt: người đàn bà nào thời còn con gái, có “dính líu” với một địa chủ nào, sẽ bị bắt buộc phải “tố” trước công chúng rằng chị đã bị người địa chủ kia “hãm hiếp”). Sau vài ba tháng hoạt động như vậy, người cán bộ thu thập được đầy đủ chi tiết cần thiết về cái làng mà anh phụ trách, để đích thân báo cáo trước một phiên họp bí mật của đoàn Cải cách ruộng đất đóng trong tỉnh. Tại đây, sau khi tham khảo ý kiến của đoàn, anh cán bộ đề nghị qui định thành phần cho tất cả dân làng, đặc biệt là thành phần địa chủ, và gán cho người nào “tội” gì?

Tới lúc đó đội cải cách ruộng đất mới ra mắt công khai, uỷ ban hành chính xã và chi bộ đảng ở xã tức thì bị giải tán. “Đội” đứng lên điều khiển mọi công việc trong làng, cắt cử một đội công án mới gồm toàn nông dân cốt cán, và ra lệnh phong toả làng. Thường thường mỗi làng ở Bắc Việt có một luỹ tre xanh bao quanh, và có hai cổng. Họ đóng cổng lại, canh gác suốt ngày đêm và không cho ai ra vào nếu không có giấy phép của đội Cải cách ruộng đất. Đội liên lạc với đoàn bằng một đường dây điện thoại mới dựng lên. Khách bộ hành hễ thấy hàng cột tre con đang xanh mang dây điện thoại là biết ngay trong làng nào đó ở phía đầu dây đang có đấu tố khủng khiếp. Người nào khôn hồn hãy tránh ngay đường dây ấy, nếu không, có thể bị tai bay vạ gió, nguy hiểm đến tính mạng không chừng.

Chiến dịch chính thức mở đầu như vậy và được thực hiện làm sau bước liên tiếp, mà bước cuối cùng là “phiên xử án”.


Bước 1: Phân định thành phần

Nông dân thuộc thành phần bản bộ, tức là bần cố nông, phải đi dự một lớp đặc biệt để học cách phân định thành phần tất cả dân làng. Những tài liệu học tập gồm có bản Điều lệ phân định thành phần ở nông thôn, các văn kiện về thể thức áp dụng bản điều lệ này cùng những tiêu chuẩn phân loại. Mỗi tỉnh có tiêu chuẩn khác nhau mà báo chí cộng sản không hề nói đến. Thí dụ trong một tỉnh, những tiêu chuẩn phân định các loại trung nông như sau:
a. Trung nông cứng: Những trung nông có một con bò, một con heo và một đàn gà.
b. Trung nông vừa: Những trung nông có một con heo và một đàn gà.
c. Trung nông yếu: Những trung nông chỉ có một đàn gà hoặc không có gì hết.
Không những tiêu chuẩn ở mỗi tỉnh một khác mà còn thay đổi mỗi đợt đấu tố một khác.

Sau mười ngày tích cực học tập và “bình nghị dân chủ”, các học viên biểu quyết một bản phân định thành phần mà thường thường là y hệt tài liệu cán bộ đã soạn thảo từ trước. Tất nhiên lúc đầu mỗi người một ý, nhưng sau khi thảo luận mọi người đều chấp nhận ý kiến của cán bộ. Điều này chẳng có gì lạ vì thực tế chứng tỏ cán bộ biết rõ về dân làng hơn hẳn người làng.


Bước 2: Phân loại địa chủ

Ngay sau khi đội Cải cách ruộng đất (thường gọi tắt là đội cải cách, hoặc đội) ra mắt công khai, tức là mười ngày trước khi thành lập danh sách địa chủ, những người sẽ bị quy là địa chủ đã bị bắt ngay và nhà cửa của họ đã có “cốt cán” canh gác suốt ngày đêm. Nhưng mỗi loại địa chủ sẽ bị đối đãi một cách khác nhau.

Trên lý thuyết và theo lời ông Trường Chinh tuyên bố trong bản báo cáo của ông thì có ba loại địa chủ chính: địa chủ Việt gian phản động, cường hào, gian ác, địa chủ thường và địa chủ kháng chiến. Ngoài ra còn có một loại nữa gọi là “nhân sĩ tiến bộ” dành riêng cho mấy ông cựu quan lại hiện được cộng sản trọng dụng, như các ông Hồ Đắc Điềm, Phan Kế Toại, v.v.

Nhưng trên thực tế loại thứ hai và thứ ba không hề có. Tất cả mọi địa chủ, không trừ một ai, đều bị quy vào loại “địa chủ Việt gian phản động”. Như đã trình bày ở trên, tất cả các địa chủ còn ở lại vùng kháng chiến cho đến năm 1953, dù muốn dù không, đều có tham gia ít nhiều vào công cuộc kháng chiến vì chính sách của cộng sản là tuyệt đối không để một ai có thể ngồi không, không có “công tác”. Thanh niên và những người tráng kiện thì gia nhập quân đội hoặc làm cán bộ chính quyền, ở xã, huyện, hoặc tỉnh. Những người tuổi tác thì tham gia những tổ chức bù nhìn như “Phụ lão cứu quốc”, “Mặt trận liên Việt”, v.v. Mọi người đã tham gia kháng chiến trong bảy năm trời nên tin tưởng rằng mình sẽ được xếp vào loại “địa chủ kháng chiến”, hoặc ít nhất cũng là “địa chủ thường” vì sau khi tự xét, họ thấy họ chẳng hề phạm một tội gì đối với nông dân. Đành rằng họ có “bóc lột” nông dân bằng cách cho nông dân thuê ruộng lấy tô nhưng họ lý luận rằng đấy chẳng qua là tính chất của chế độ cũ, và từ ngày lên cầm chính quyền, cộng sản cũng vẫn dung túng lối “bóc lột” đó trong bao nhiêu năm rồi. Nhưng đến khi chiến dịch Cải cách ruộng đất lan đến làng họ, mọi người đều giật mình thấy mình bị xếp vào loại “Việt gian phản động” và bị tố đủ thứ tội. Ngay cả những người tích cực phục vụ chính quyền kháng chiến và đã được ông Hồ Chí Minh tuyên dương công trạng cũng bị tố cáo là đã cố tình “chui vào cơ quan của Đảng và chính phủ để phá hoại cách mạng”. Không cần phải bằng cớ, chỉ cần một nông dân nào đó nói rằng đã trông thấy địa chủ vẫy tay ra hiệu cho máy bay Pháp là đủ lên án địa chủ đó là Việt gian, làm giáp điệp cho Pháp.

Loại địa chủ này, cũng gọi là địa chủ đầu sỏ, lại được chia thành ba hạng nặng nhẹ khác nhau: A, B, và C. Cán bộ không tuyên bố cho địa chủ biết là họ bị xếp vào hạng nào những chỉ cần một chút thông minh cũng đoán biết ngay. Nếu đám biểu tình hô “đả đảo tên địa chủ X, Việt gian phản động, cường hào, gian ác!” (4 danh từ kèm theo chữ “địa chủ”) thì có thể biết chắc chắn Y là địa chủ hạng B. Còn nếu họ chỉ hô: “Đả đảo tên Z địa chủ ngoan cố!” (1 danh từ) thì Z thuộc hạng C. Mỗi hạng sẽ có một số phận khác nhau. Địa chủ hạng B phải đi dự một lối cải tạo đặc biệt kéo dài trong ba bốn tuần, suốt ngày đêm không được ngủ. Mục đích của lớp cải tạo này là khủng bố tinh thần địa chủ để bắt cung khai những chỗ chôn giấu vàng bạc. Họ bị khủng bố liên miên đến nỗi họ trở thành nửa tỉnh nửa điên và sẵn sàng thú nhận bất cứ điều gì cán bộ bắt họ phải thú nhận. Họ phải viết thư về cho vợ con chỉ chỗ giấu vàng, bạc, bảo đào lên mang nộp cho nông hội. Ngoài ra họ còn phải viết tờ kê khai tất cả những người còn nợ họ tiền nông. Họ khai ra người nào thì lập tức đội cải cách bắt người ấy phải “trả” ngay cho nông hội. Vì địa chủ mất tinh thần, nhiều khi khai vu vơ nên có nhiều thương gia bị “vạ vịt”, mất sạch cơ nghiệp dù không có liên quan trực tiếp đến Cải cách ruộng đất. Địa chủ hạng C bị giữ trong một nhà nông dân cùng làng, nhưng đêm đến lại bị công an cầm kiếm đến điệu đi, chuyển từ nhà này sang nhà khác.

Một điều đáng chú ý là việc quy định thành phần lúc nào cũng chỉ có tính cách tạm thời, và địa chủ hạng nào cũng có thể “kích” lên “hạ” xuống tuỳ theo thái độ của đương sự, hoặc “ngoan cố” hoặc ngoan ngoãn phục tòng. Vì cán bộ có giao hẹn trước, rõ ràng như vậy, nên phần đông các địa chủ tỏ ra khúm núm và sợ sệt. Nhưng vì Đảng đã ấn định một số tử hình tối thiểu cho mỗi xã nên dù tất cả địa chủ có khúm núm bằng mấy cũng có một số không sao tránh khỏi án xử tử. Nhưng nói chung, khúm núm vẫn có lợi hơn là bướng bỉnh, và người dân Việt, đã từng biết phải khúm núm như thế nào đối với quan lại và thực dân, nên sớm nhận thấy giờ đây họ còn phải khúm núm hơn nữa đối với “giai cấp mới”.


Bước 3: Tống tiền công khai

Sau khi chủ gia đình bị bắt và điệu đi, cán bộ đội cải cách gọi vợ con địa chủ đến và bảo cho biết phải lo trả ngay tức khắc số tiền gọi là “thoái tô”, hoặc nợ nông dân. Trước đấy bốn năm năm, chính quyền cộng sản có ra một thông cáo buộc địa chủ phải giảm tô 25 phần trăm. Hồi ấy, mới bắt đầu kháng chiến, báo chí chưa phát hành rộng rãi nên nhiều người không biết, và sau khi ban hành bản thông cáo, chính quyền cũng bỏ bẵng hàng năm không đả động tới. Giờ đây, nông hội cho rằng tất cả địa chủ đều không tuân luật và đòi gia đình địa chủ phải “thoái tô”, tức là trả ngay tức khắc số tô đã thu quá mức trong bốn năm năm. Sự thực thì đa số địa chủ đã giảm tô, hoặc tuân theo thông cáo hoặc sợ chế độ mà phải tự ý giảm, nhưng vì họ quen thói luộm thuộm và tự xét ruộng đất chẳng có là bao nên không nghĩ tới việc biên lai, sổ sách. Dù sao đi nữa bây giờ có khiếu nại cũng vô ích và cũng không có quyền khiếu nại nên địa chủ đều phải nhận “trả”. Số “thoái tô” phải mang nộp cho nông hội, một tổ chức do đội cải cách thành lập để núp sau ra lệnh.

Cán bộ cải cách thường phán như sau: “Anh em nông dân đã khai rằng mày đã thu một số tô quá mức là X tạ, Y ký và Z gam (con số rành mạch từng gam một). Anh em hẹn cho mày đến ngày… giờ… phút… phải trả cho kỳ đủ, nếu thiếu thì coi chừng!”. Nói xong hắn đưa ra một mảnh giấy bắt vợ con địa chủ phải ký nhận. Việc “đòi nợ” này còn một vài điểm đáng chú ý.

Theo cán bộ thì “số nợ” được tính theo lời khai của mỗi tá điền cộng lại, nhưng thực ra thì cán bộ không hề để ý tới lời khai của ai cả, và cũng không hề làm tính cộng. Việc bắt tá điền khai báo là chỉ cốt để có cớ “đòi nợ”. Còn số “nợ” là do cán bộ ước định, căn cứ trên sự ước lượng về khả năng có thể trả được của mỗi địa chủ: liệu chừng có bao nhiêu tiền mặt, nữ trang, v.v. và bao giờ cũng ấn định một mức tối đa. Mục đích của “thoái tô” là làm cho địa chủ và gia đình chỉ còn hai bàn tay trắng, trừ ruộng đất, nhà cửa và đồ đạc trong nhà. Những thứ này không thể thoát đi đâu được và sẽ bị tịch thu trong chiến dịch sau. Việc làm cho toàn thể giai cấp địa chủ chỉ còn hai bàn tay trắng, ông Trường Chinh gọi một cách “văn hoá” là “làm giảm uy thế kinh tế của địa chủ”. Chủ tâm bần cùng hoá địa chủ, cho tới mức độ cuối cùng biểu hiện tăng giảm số “nợ” tuỳ theo khả năng tột bực của “con nợ”.

Nếu địa chủ hoặc gia đình địa chủ trả hết số “nợ” trong thời gian hạn định thế nào cán bộ cũng giở giọng nói: “Hôm nọ chúng tao tính lầm. Hôm nay tính lại thấy số nợ của mày thực sự là… (thường đưa ra một con số gấp đôi con số trước)”. Trái lại, nếu “con nợ” khôn khéo, đúng kỳ hạn trả một phần rồi gãi đầu gãi tai, van nài xin khất một thời hạn nữa sẽ cố gắng trả nốt, cứ mỗi kỳ lại trả thêm một chút, vừa trả vừa nằn nì để chứng tỏ cả thiện chí lẫn sự bất lực của mình, thì cán bộ có thể bớt dần số nợ, mỗi chuyến giảm xuống một ít. Không phải vì cán bộ thương tình nhưng vì Đảng muốn tỏ cho nhân dân biết quả thực đã có nhiều địa chủ trả đủ số nợ, việc đòi nợ hợp tình hợp lý và con số nợ cũng đúng với khả năng địa chủ. Nhưng nếu địa chủ cứ ì ra, không trả gì hết hoặc chỉ trả một số không đáng kể hoặc vì không xoay đâu ra tiền, hoặc vì liều chết bướng bỉnh thì nhất thiết số “nợ” cũ đứng nguyên, không tăng không giảm. Trong trường hợp ấy, đòi nợ không còn là vấn đề nữa và địa chủ sẽ bị “kích” lên hạng trên, quy thêm nhiều tội và cuối cùng có thể bị bắn.

Trong khi địa chủ phải chạy tiền trả nợ hoặc bằng tiền mặt hoặc bằng vàng bạc thì nhà cửa của họ bị niêm phong, không được bán chác một thứ gì. Tất cả nhà cửa, trâu bò cho đến đồ đạc trong nhà đều được coi là tài sản của nhân dân. Những thức này sẽ bị tịch thu sau, nên địa chủ không được phép bán. Mục đích của việc đòi “nợ” không phải là đòi cho đủ số tiền mà chính là lấy cho hết những thứ địa chủ có mà có thể giấu như tiền mặt, vàng bạc, v.v. Mỗi khi địa chủ, hoặc vợ địa chủ chậm trả thì nông hội phái một nhóm hội viên (phần nhiều là bà con trong họ) đến thúc giục phải trả cho mau. Họ sẽ hỏi vặn những câu như: “Đôi vòng mày đeo hôm cưới đâu rồi?” (đám cưới có thể là 20 năm về trước), hoặc: “Mày bảo không có tiền, thế phần gia tài của bà ngoại mày để cho con mẹ mày tiêu đi đâu hết?” (việc thừa hưởng gia tài có thể là 40, 50 năm trước).

Một cách “tống tiền” khác là bắt vợ địa chủ lôi đi biểu diễn khắp làng, mỗi tay mang một bãi phân bò tươi, cổ đeo một tấm biển lớn đề “Tôi là địa chủ ngoan cố”. Nếu bà ta có con mọn thì chắc chắn là hai mẹ con phải giữ ở hai nhà để con không được bú và mẹ bị căng sữa, trong một thời gian rất lâu. Nếu con đã lớn thì mỗi đứa cũng phải giữ ở một nơi và đứa nào cũng bị doạ nạt cho tới khi chúng cung khai đúng hoặc không đúng những nơi cha mẹ chúng chôn giấu của cải. Trẻ con non gan nên thường khai lung tung. Mặc dầu, hễ chúng khai chỗ nào là cốt cán lập tức đưa cuốc, bắt mẹ chúng phải đào chỗ ấy. Công việc “đào mỏ” này có thể kéo dài hàng tháng nên nền nhà địa chủ gần như không còn chỗ nào không đào bới. Nhiều nông dân, sau đấu tố, được lĩnh nhà địa chủ để ở thường không có phương tiện để sửa sang lại nên nhà cho bằng phẳng.


Bước 4: Tố khổ

Trong khi địa chủ bị “tống tiền” một cách hợp pháp thì nông dân được triệu tập đi học một lớp đặc biệt về “tội ác của giai cấp địa chủ”. Mục đích của lớp học là giảng cho nông dân hiểu địa chủ đã phỉnh phờ, cướp đoạt, bóc lột và áp bức như thế nào. Học xong, mỗi người bắt buộc phải “kể khổ”, nghĩa là phải tố chủ ruộng của mình ít nhất là một tội đối với mình. Để ôn lại trí nhớ nông dân, giảng viên đọc một bản kê khai những “tội điển hình”, nói là đã thu thập trong những lớp học trước. Kết quả là nhiều nông dân trước kia vẫn từ tốn với chủ ruộng, đứng lên gán cho chủ cũ một số tội ác nào đó trong số những tội ác mà giảng viên đã đọc cho họ nghe.

Những người “tố khổ” có thể chia đại khái thành ba loại. Loại thứ nhất gồm những người mong có địa vị trong chế độ mới, hoặc ham được “quả thực” tức là lấy của địa chủ chia cho nông dân. Họ tố hăng vì đội cải cách có hứa rằng “ai tố nhiều sẽ được hưởng nhiều” và “ai tích cực đấu tranh sẽ được kết nạp vào các tổ chức của Đảng”.

Loại thứ hai gồm những người cầu an bảo mạng, họ tố để tỏ vẻ “dứt khoát lập trường với giai cấp địa chủ” và đứng hẳn “về phe Đảng”. Những người “tố hăng” phần nhiều là những phần tử có thành tích bất hảo, trước kia có phạm một tội nào đó mà cán bộ làm ngơ chưa hỏi đến. Những người tố “quấy quá” phần nhiều là con cái địa chủ, cha mẹ cho phép tố để giữ lấy thân, tránh cho toàn gia khỏi bị tiêu diệt. Đoạn văn sau đây, trích ở tờ Thời Mới, số 8 tháng 5, 1957, nói lên sự thông đồng giữa bố mẹ và con cái về việc con cái “tố khổ” chính bố mẹ mình.


Cứ tố hăng vào

… Sau khi “đội” (cải cách) rút, người con dâu đi kể lể với bà con hàng xóm rằng:

Tôi nào có phải hạng sấp mặt lên tố bố mẹ chồng. Khi “đội” người ta phát hiện (quy là địa chủ) rồi, thì hai mẹ con thì thầm suốt đêm. Tôi định ra kêu với “đội”, nhưng bà cháu cứ gàn đi: “Tao già bảy, tám mươi rồi, có lên địa chủ thì cũng gần kề miệng lỗ. Mày mà kêu thì chả tránh khỏi tiếng liên quan, rồi thì cả hai mẹ con tay trắng. Mày cứ tố hăng vào để giữ lấy số ruộng mà cày…”

Loại thứ ba là những người tố chỉ vì sợ hãi. Tuy địa chủ là mục tiêu chính nhưng nhiều người dù không có ruộng đất cũng có thể bị quy là địa chủ, hoặc có liên quan với địa chủ, nếu cán bộ xét thấy họ có “tư tưởng địa chủ”. Liên quan là một danh từ rất mơ hồ, có nghĩa là quyến thuộc, bạn bè, hoặc chỉ là chỗ quen biết, lui tới. Đoạn văn sau đây trích ở tờ Nhân Dân, ngày 2 tháng 6 năm 1956, nói rõ dân chúng sợ bị quy là liên quan tới mức nào:


Vợ chồng tôi từ nay thật hết lo

… Mọi người đang đứng quanh xem giỏ tép của anh Tý vừa đơm đó ở đồng về, nghe nói đến chuyện liên quan đều quay lại. Bà Bền tiếp luôn: Bà con hàng xóm láng giềng ai còn lạ gì nhà tôi, mấy đời cực khổ, phiêu bạt ra giữa cánh đồng, vợ chồng già ngày đêm đến đó kiếm ăn. Mong đợi mãi, đội cải cách ruộng đất về làng, vợ chồng tôi được kết nạp vào nông hội. Thế rồi hôm họp xóm, ông Bền nhà tôi được cử làm đại biểu đi dự đại hội nông dân xã. Chả biết đầu đuôi thế nào đang dự đại hội, ông cụ nhà tôi bỏ về, trông như người mất hồn, mấy ngày đêm liền không ăn không ngủ. Tôi gặng hỏi mãi ông cụ chỉ nói: “Thế là khổ tao, bà mày tính thế nào chớ không thì nguy lắm”. Rồi có đến hàng tháng ông ấy không dám đi họp hành gì cả, cứ nằm lẩn thẩn bấm đốt ngón tay: nào là “Nhà ta một thằng rể, có họ hàng với địa chủ nữa. Thế là liên quan nhất định liên quan rồi”.

Một người hỏi: “Thế bà có sợ liên quan không?”

Bà Bền cười: “Anh bảo ai không sợ mới thật là tài…”

… Đứng dậy ra đi, bà còn nói thêm một câu: “Vợ chồng nhà tôi từ nay mới thật hết sợ liên quan.” Một người mỉm cười nhìn theo bà nói: “Chả phải mình bà sợ, xóm tôi khối người lo sợ như thế!...”


Có ba loại liên quan, mỗi loại được đối xử một cách khác nhau:
1. Loại có “liên quan nặng” với địa chủ, gồm những người “có tư tưởng địa chủ”, có thái độ bênh vực địa chủ. Những người này sẽ bị đối xử y hệt địa chủ, nghĩa là bị “cô lập”, bị đặt ra ngoài vùng pháp luật, bị bao vây kinh tế tức là bị quản thúc với vợ con ở ngay trong nhà của họ cho tới khi đói mà chết.
2. Loại có “liên quan vừa” gồm những người trước kia có nhiều “ân tình” với địa chủ. Loại này sẽ bị cùng với gia đình đưa đến một làng nào đó, đổi nhà, đổi cửa với một người nào khác cũng có “liên quan vừa” với địa chủ ở làng ấy và cũng bị đuổi khỏi làng.
3. Loại có “liên quan sơ” gồm những người bị nghi là chưa dứt khoát lập trường đối với địa chủ, không chịu đấu tố hăng. Loại này chỉ bị trục xuất ra khỏi nông hội. Sau khi giai cấp địa chủ bị tiêu diệt thì chỉ có nông hội là nơi mà nông dân có thể thuê trâu bò hoặc vay giống mạ khi thiếu. Trong một làng mà mọi người đều nghèo như nhau thì vận mạng của mọi người hoàn toàn nằm trong tay nông hội.
Mặc dù những hình phạt ghê gớm kể trên, nhiều nông dân vẫn gan dạ, nhất định không chịu “tố” những người cùng làng bị quy là địa chủ. Họ bất chấp mọi sự cưỡng ép hoặc phỉnh phờ vì, dù ít học, họ cũng tiêm nhiễm ít nhiều luân thường đạo lý, và ở Việt Nam cũng như ở khắp mọi nơi, tố cáo người khác vẫn bị coi là một việc đáng khinh. Hơn nữa các Phật tử đều tin ở thuyết “nhân quả” và sợ “quả báo” nếu vu oan giá họa cho kẻ khác.

Trong phong trào Trăm hoa đua nở, Phùng Quán đã làm một bài thơ đả kích chính sách bắt buộc nhân dân phải “nói điêu”. Bài thơ nhan đề “Lời mẹ dặn” có mấy câu như sau:

Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.

(Báo Văn số 21, ngày 27/9/1957)

Vì bài thơ kể trên Phùng Quán bị đưa lên mạn ngược “học tập lao động” cùng nhiều văn nghệ sĩ khác trong nhóm Nhân văn Giai phẩm. Từ ngày ấy không ai biết số phận ông ra sao.


Bước 5: Đấu địa chủ

Sau khi lập xong danh sách tội ác của mỗi địa chủ, những người được chỉ định ra “đấu trường” tố khổ công khai bắt đầu tập dượt vai trò của mình để có thể biểu diễn một cách trôi chảy, trước công chúng và trước người bị “đấu”. Đấu địa chủ là “trò” then chốt của cả chiến dịch, nên cần phải chuẩn bị hết sức chu đáo. Y hệt các diễn viên phải tập đi tập lại vai trò của mình trước khi lên sân khấu, những người đứng ra “đấu” cũng phải luyện tập lời ăn tiếng nói bộ điệu của mình cho thật hoàn hảo để khán giả có cảm tưởng là mình chân thật và những tội mình buộc cho địa chủ là có thực. Họ tập dượt về đêm, rất kín đáo, nhưng con cái nông dân thường có dịp thấy bố mẹ vừa xay lúa, giã gạo, vừa lặp đị lặp lại một câu để thuộc lòng. Đóng vai trò “đạo diễn”, cán bộ phụ trách còn bày vẽ dáng điệu và uốn nắn lời nói cho họ. Trong những buổi diễn thử, có một hình nộm bằng rơm đặt ở giữa nhà thay thế cho địa chủ, để những người “đấu” tiến đến sát, đọc thử những lời họ sẽ phải đọc. Sau khi chuẩn bị đầy đủ, đội công tác cải cách ruộng đất công bố ngày “đấu”.

Vì có ba hạng địa chủ, A, B và C nên cũng có ba loại đấu.

Địa chủ hạng A bị đấu trong ba ngày liền, trước một đám đông từ một chục đến hai chục ngàn người, tức là dân một “liên xã”, một đơn vị hành chính gồm từ mười đến mười lăm làng.

Địa chủ hạng B bị đấu trước một đám đông một hai ngàn người, tức là tất cả dân trong một làng, liên tiếp trong hai ngày. Họ cũng bị gán những tội thường gán cho địa chủ hạng A, nhưng tương đối nhẹ hơn.

Địa chủ hạng C chỉ bị “đấu lưng”, nghĩa là “đấu vắng mặt”. Trong khi nông dân tố cáo những tội ác của họ thì họ bị giữ ở một nơi khác, đến khi tố xong họ mới bị điệu ra trước cuộc họp để nghe đọc một bản tổng kê các tội ác mà các tá điền, chỉ có tá điền của địa chủ mới được dự cuộc đấu này, đã “tố” họ. Nghe xong, địa chủ phải tuyên bố “nhận” hay “không nhận”. Nếu nhận, địa chủ phải ký tên vào biên bản buổi họp. Đảng giải thích rằng sở dĩ có “đấu lưng” là tại Đảng muốn khoan hồng đối với những “phản động phụ”, những phần tử mà Đảng còn hy vọng cải hoán được. Vì còn hy vọng họ sẽ cải hoán nên Đảng không muốn “cạn tầu ráo máng” đối với họ, làm họ mất mặt trước công chúng. Thực ra thì chẳng phải vì vậy, mà vì một lý do khác hẳn. Phần lớn những người bị quy là địa chủ hạng C là những người buôn bán ở thành thị nhưng có ít nhiều ruộng ở “quê cha đất tổ”, không cốt để thu lợi mà cốt để “đóng góp với làng nước”, khỏi mang tiếng “bỏ làng”. Vì họ thường sống ở tỉnh thành, thỉnh thoảng mới về làng cúng giỗ và nhân thể thu tô, nên người làng không biết nhiều về đời tư của họ. Vì không có đụng chạm trực tiếp nên việc “bịa” ra tội là một việc rất khó. Muốn cho “xuôi tai”, người “tố” phải nói rõ bị chủ ruộng đánh đập hoặc hiếp đáp trong dịp nào, ở đâu. Đảng biết rằng toàn là chuyện bịa nên sợ đứng trước mặt đương sự người tố có thể ấp úng, làm mất uy tín “anh em nông dân” và gián tiếp mất uy tín Đảng. Vì vậy Đảng tổ chức “đấu lưng”, giấu địa chủ đi một chỗ, để cho những người “bịa tội” được vững tâm hơn. Chỉ có tá điền nghe nên dù họ có ấp úng, ngượng ngùng cũng chẳng sao. Thật vậy đã có một vài cuộc đấu phải bỏ dở vì địa chủ, khi thấy nông dân buộc tội một cách lố bịch quá, nhịn không nổi, phải phá lên cười.

Mỗi lần đấu một địa chủ hạng A thì toàn thể nhân dân trong xã phải bắt buộc đi dự, kể cả phú nông và các địa chủ khác, mỗi nhà chỉ được một người lớn ở nhà để trông nom củi lửa và trẻ nhỏ. Người đi dự xếp hàng thành từng nhóm riêng. Trung nông và bần cố nông đứng theo “tổ nông hội”. Phú nông đứng riêng và đi riêng, nhưng địa chủ và con cái địa chủ thì đứng lẫn với bần cố nông, mỗi người do một “tổ nông hội” canh chừng. Cứ năm người họ thành một nhóm, mang theo một bình nước uống và một điếu cày vì một khi ngồi vào chỗ trong hội trường thì không ai được phép đứng dậy, đi lại. Mỗi làng vác theo biểu ngữ và cờ quạt trẻ con đi đầu đánh trống ếch. Địa chủ bị bắt đi giữa bần cố nông cũng phải vừa đi vừa hô khẩu hiệu như mọi người, thỉnh thoảng cũng dơ nắm đấm hô “đả đảo!”.

Mọi cuộc đấu đều tổ chức ngoài trời, thường là sân banh, hay tốt hơn trên sườn đồi. Dân mỗi làng ngồi trong một khoảng đất có vạch vôi trắng làm giới hạn. Khán đài bằng gỗ và tre, cao ba từng. Từng dưới có 14 “thư ký” ngồi, 13 người là bần cố nông chỉ ngồi làm vì, một người là trung nông, biết đọc biết viết, ngồi hí hoáy, có vẻ làm thư ký thực. Từng trên là chủ tọa gồm bảy bần cố nông, trong số có chủ tịch nông hội làm chủ tọa cuộc họp và một phụ nữ đóng vai công an trưởng (tác giả nhận thấy vai trò công an trưởng bao giờ cũng do phụ nữ đóng, trong năm cuộc đấu tác giả có dịp tham dự. Tác giả có cảm tưởng Đảng dành vai trò này, có tính cách hống hách, cho phụ nữ để đề cao uy quyền chính trị của phụ nữ trước công chúng). Người đàn bà này chỉ huy tự vệ xã, và cứ năm phút lại hò hét, ra lệnh cho người bị đấu đứng trước khán đài phải quỳ xuống, đứng lên, giơ tay lên trời, khoanh tay trước ngực, giang tay ra hai bên, v.v. Trên tầng cao nhất của khán đài treo ba bức ảnh khổng lồ, Hồ Chí Minh ở giữa, Malenkov bên phải và Mao Trạch Đông bên trái, trên mỗi chân dung lãnh tụ có cờ mỗi nước. Hai bên khán đài là những biểu ngữ rất lớn mang những khẩu hiệu như “Phóng tay phát động quần chúng đấu tranh giảm tô (hoặc Đấu tranh cải cách ruộng đất)”, và “Đả đảo tên địa chủ… Việt gian, phản động, cường hào, gian ác”.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp mọi cuộc họp đều phải tổ chức về đêm để tránh máy bay oanh tạc. Những cuộc đấu tố giữa trời đều đốt sáng bằng đuốc, lửa khói cao ngất từng mây, tạo nên một quang cảnh quái đản, một cảnh tượng ác mộng. Người tham dự có cảm tưởng chứng kiến một cảnh quỷ sứ đương hành hạ những vong hồn rơi xuống địa ngục.

Khán đài soi sáng bằng đèn điện. Đôi khi có máy phát điện nhỏ nhưng thường là dynamo xe đạp. Bốn năm chiếc xe đạp buộc phía sau khán đài, mỗi chiếc có người đạp luôn chân. Cán bộ đội Cải cách ruộng đất nấp phía sau khán đài để nhắc và ra lệnh cho chủ tọa đoàn. Đôi khi có cố vấn Tầu mặc quần áo Việt cùng ngồi với họ.

Chủ tịch chủ tọa đoàn khai mạc hội nghị và tuyên bố lý do cuộc họp. Sau đó là một bài thuyết trình về ý nghĩa và sự cần thiết của cuộc đấu tranh chống địa chủ; đại khái là vai trò chính yếu của nông dân trong kháng chiến, tính cách bội phản của giai cấp địa chủ, v.v. Sau đó người đàn bà giữ chức công an trưởng ra lệnh cho tự vệ xã lôi tên địa chủ Việt gian, phản động, cường hào, gian ác ra để “anh chị em nông dân hỏi tội”. Tức thì hàng vạn người đồng thanh hô: “Đả đảo thằng Việt gian, phản động, cường hào, gian ác (tên họ người địa chủ bị lôi ra)”. Nạn nhân không được đi bằng hai chân, mà phải bò bằng hai tay và đầu gối từ ngoài hội trường vào đến trước khán đài. Phía khán đài đắp hai ụ đất cách nhau chừng một thước, mỗi ụ cao độ một thước (để khán giả trông rõ) và rộng chừng một thước vuông. Địa chủ bước lên một ụ, và ụ đối diện để cho những người đấu lên đứng. Nếu người bị đấu là một linh mục Gia tô giáo, hoặc một hòa thượng Phật giáo thì cán bộ bắt phải cởi áo ngoài ra (áo tu sĩ hoặc áo nhà chùa). Cộng sản thanh minh rằng đương sự bị đấu với tư cách cá nhân là địa chủ, không dính dáng gì về tôn giáo nên không cho mặc áo tôn giáo, nhưng sự thực thì cộng sản cố ý tránh quang cảnh một cuộc khủng bố tôn giáo công khai và quá lộ liễu.

Chủ tịch chủ tọa đoàn gọi “anh chị em nông dân” lên “kể tội”. Tức thì, hàng trăm cánh tay giơ lên, nhưng liếc qua vào tờ giấy trước mặt, y gọi một tên. Người được chọn nhảy lên đài, chỉ tay vào mặt địa chủ, hỏi: “Mày có nhớ tao là ai không?”, và chẳng đợi câu trả lời, hắn tiếp luôn: “Tao là… ở làng… đã đi ở (hoặc làm ruộng cho mày trong… năm)”. Bao giờ người lên đấu cũng bắt đầu như vậy, hỏi “bâng quơ” một câu “Mày có nhớ tao là ai không?” rồi tự xưng danh, tóm tắt “tiểu sử” của mình. Cán bộ bắt họ làm như vậy để công chúng biết qua loa về quan hệ giữa người đấu và người bị đấu. Người ngồi xem nhớ lại những buổi tuồng Tầu, mỗi khi một vai mới ra bao giờ cũng xưng danh: “Mỗ đây tên tự là… “. Sau đó người đấu tuôn ra một tràng những tội ác, kể lể nào là bị cướp trâu, cướp bò, đánh đập, nhét phân vào mồm, hiếp vợ, giết con, rủ vào hội “Việt gian”, vẫy tay cho máy bay Pháp, v.v. Điều đáng chú ý là người đứng lên đấu thường dùng đủ danh từ tục tĩu; hình như cán bộ xui họ chửi rủa địa chủ bằng những câu tục tĩu nhất, một là để “hạ uy tín” địa chủ xuống tận đất đen, hai là để làm ra vẻ tự nhiên, dùng những lời ăn tiếng nói “một trăm phần trăm nông dân”. Người bị đấu không được phép trả lời, hoặc phản ứng. Họ chỉ được phép nói “có” hay “không”. Nhưng hễ họ nói không thì tức khắc toàn thể đám đông gầm lên như sấm: “Đả đảo thằng… ngoan cố”. Trong khi ấy, cứ chừng năm phút một, người bị đấu lại được chị công an trưởng ra lệnh quỳ xuống, đứng lên, giơ tay lên, giang tay ra, và cứ như thế mãi. Mỗi người được phép tố địa chủ trong 15 phút, và sau bốn người tố, nghĩa là vào khoảng một giờ đồng hồ, thì người địa chủ bị điệu đến trước “thư ký đoàn” ký nhận vào một biên bản. Trong khi đấu, người thư ký hí hoáy giả vờ biên chép, nhưng kỳ thực bản tội ác mà địa chủ phải ký nhận đã đánh máy sẵn từ trước.

Địa chủ hạng A bị đấu như vậy trong ba đêm liền. Đêm đầu họ bị đấu về các “món nợ mồ hôi”, tức là những tội bóc lột nông dân, như cướp trâu, cướp bò, cho vay nặng lãi, v.v. Đêm thứ hai dành cho những “món nợ hạnh phúc” nghĩa là những người lên đấu kể tội địa chủ đã hiếp vợ mình (nếu là đàn ông) hoặc đã hiếp chính mình (nếu người đấu là đàn bà). Đêm thứ ba dành cho những “món nợ máu”. Địa chủ bị tố nào là giết vợ, giết con nông dân, ra hiệu cho máy bay Pháp bắn chết dân làng. Đêm thứ ba cũng là đêm tố cáo địa chủ về các tội có tính cách chính trị, đại khái như rủ rê người này người nọ vào tổ chức phản động, do thám tin tức quân sự, nói với này người kia rằng Pháp sẽ cho mình làm tỉnh trưởng, huyện trưởng, v.v. Nếu người bị đấu cứ khăng khăng chối “không” thì những người lên đấu ngày hôm sau sẽ tố những tội càng ngày càng nặng cho đến cuối cùng sẽ phải đưa ra tòa án nhân dân đặc biệt, kết án tử hình và xử bắn. Trái lại, nếu người bị đấu tỏ vẻ ngoan ngoãn, bị tố bất cứ tội gì cũng cứ nhận và ký vào biên bản thì thường thường không bị tố những tội quá nặng. Nhưng dù tất cả địa chủ có ngoan cố đến đâu thì cũng có một số không thể nào thoát chết, vì Đảng đã ấn định một số tối thiểu phải chịu tử hình tại mỗi xã. Đúng ra thì Đảng chỉ ấn định một số tối thiểu nhưng nếu có nhiều người “ngoan cố” thì số tử hình có thể tăng thêm. Thực ra thì Đảng không muốn vượt qua con số tối thiểu, vì phương châm của đảng là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ”. Hơn nữa, nếu nhiều địa chủ nhất định không chịu nhận tội, thì người đi dự có thể có cảm tưởng là tất cả đều là bịa đặt, đều nói điêu. Trái lại nếu địa chủ nào cũng ngoan ngoãn nhận hết “tội ác” thì cảm tưởng sẽ là “anh chị em nông dân chất phác, bao giờ cũng nói thật”. Vì uy tín của nông dân và của Đảng, nên Đảng chỉ cần địa chủ nhận tội và sẽ nới tay, không xử bắn quá mức ấn định. Trong đợt đầu, nhiều địa chủ không hiểu nguyên tắc đó nên cứ khăng khăng chối. Kết quả là đa số bị xử tử. Tuy nhiên cái chết của họ đã là bài học cho những người sau. Dần dần mọi người đều hiểu rằng tất cả chỉ là một tấn bi hài kịch. Người đấu cũng như người bị đấu chỉ là diễn viên của một tấn tuồng do Đảng bày đặt ra và bắt mỗi người phải đóng một vai, không ai được phép trái ý Đảng.

Địa chủ ở mọi nơi đều bị tố những tội ác cùng một kiểu. Những tội điển hình là: treo cổ nông dân lên cây, nhốt nông dân vào cũi chó, bắt nông dân liếm đờm, ăn phân (chỉ khác nhau ở thứ phân: bò, gà, người, v.v.), đốt nhà nông dân, dìm trẻ con xuống ao cho chết (bất cứ trước kia có đứa trẻ nào chết đuối thì bây giờ cũng là chết do địa chủ dìm), bỏ thuốc độc xuống giếng, phá các cuộc họp của nông dân, giết người (bất cứ ai chết bệnh cũng tố là do địa chủ giết), hãm hiếp, v.v. Đoạn văn sau đây trích ở tờ Nhân Dân, cơ quan chính của Đảng, xuất bản ngày 2 tháng 2, 1956 kê khai những tội tương tự:

“Ở xã Nghĩa Khê, thuộc tỉnh Bắc Ninh, bọn địa chủ tổ chức mấy em thiếu nhi đi ăn cắp tài liệu, ném đá vào các cuộc họp của nông dân. Ở Liễu Sơn, chúng dùng một em thiếu nhi đi đốt nhà khổ chủ, nhưng bà con nông dân kịp ngăn được. Thâm độc hơn, ở Liễu Hà, chúng cho mấy em thiếu nhi ăn bánh chưng có thuốc độc, làm mấy em bị ngộ độc suýt chết. Ở Vân Trường chúng dụ dỗ em Sửu, 13 tuổi, rủ hai em gái nữa nhẩy xuống giếng tự tử để gây hoang mang trong thôn xóm. Ở Đức Phong (Hà Tĩnh) chúng mua bài tú lơ khơ (bài Trung cộng mang sang) cho các em mải chơi, bỏ trâu ăn lúa để phá hoại mùa màng”.

Điều đáng chú ý là địa chủ càng đạo đức bao nhiêu, như thể linh mục, hòa thượng, và nhất là các nhà nho, thì càng bị quy nhiều “tội” hiếp dâm bấy nhiêu. Nói chung thì hễ địa chủ có vẻ đạo mạo (râu dài, trán sói, mục kỉnh) thì thế nào cũng bị quy những tội loạn luân. Trong rất nhiều trường hợp chính con gái địa chủ lên trước khán đài tố rằng chính bố mình đã hiếp mình. Người trong cuộc mới biết có sự thông đồng giữa bố con; biết là thế nào bố cũng chết, người con gái đành tâm phải tố như vậy để theo lời cán bộ được quy là trung nông, và như vậy có hy vọng sống yên tâm nuôi lũ em dại. Cũng theo kiểu ấy, địa chủ càng có thành tích yêu nước bao nhiêu thì lại càng bị tố nhiều tội phản quốc bấy nhiêu.

Vì tố không cần bằng cớ, nên từ cố kiếp nào, bất cứ trong làng có người nào chết cũng có thể tố là đã bị địa chủ giết. Bác sĩ Nguyễn Đình Phát, chủ đồn điền ở Phủ Quỳ, Nghệ An và đại biểu quốc hội Việt Minh, đã bị tố là đã giết 35 người, vì bấy nhiêu người đã chết vì bệnh sốt rét trong đồn điền của ông ta. Trong một buổi đấu cụ cử Lê Trọng Nhị, làng Cổ Định, tỉnh Thanh Hóa, một lãnh tụ phong trào Văn Thân năm 1897-1908 đã từng bị đầy ra Côn Đảo trong chín năm, một mụ đàn bà trong làng chỉ vào mặt cụ và tố: “Mày biết thằng con tao không phải là con bố nó, mà chính là con mày? Trong khi chồng tao đi vắng, mày hiếp dâm tao rồi sinh ra nó”. Cụ Cử Nhị năm ấy 75 tuổi, mụ đàn bà vào khoảng 60 và người con mụ chừng 40. Người làng tính nhẩm và nhớ lại, hồi mụ sinh người con, cụ Cử Nhị còn đang nằm trong xà lim Côn Đảo, cách xa hai nghìn cây số.

Có nhiều địa chủ tỏ ra rất bình tĩnh suốt mấy buổi đấu tố. Một bà già ở Nghệ An chẳng nói “có” mà cũng chẳng nói “không” hỏi câu nào bà ta cũng chỉ nhắc đi nhắc lại: “Xin anh em một viên đạn!”. Ở Thanh Hóa một người lên đấu bắt đầu bằng câu thường lệ: “Mày có nhớ tao là ai không?”. Địa chủ nghiễm nhiên trả lời “Có chứ! mày là thằng… Năm ngoái mày ăn cắp tao con gà”. Chủ tọa buổi đấu ra lệnh bế mạc cuộc họp tức khắc. Một tuần sau, tổ chức lại, địa chủ tỏ vẻ ngoan ngoãn hơn trước và tên “trộm gà” không thấy lên đấu nữa. Trong ba ngày đấu tố, người bị đấu được ăn uống đầy đủ. Bữa cơm có thể có thịt gà, thịt bò và nhiều thứ bổ béo khác, chè tầu, cà phê. Địa chủ được tẩm bổ có lẽ là để có đủ sức chịu đựng ba ngày ba đêm đấu tố ngoài trời, đứng lên quỳ xuống luôn luôn mà không bị ngất xỉu. Sau ba ngày đấu tố, địa chủ bị đưa đi trại giam chờ ngày tòa án nhân dân đặc biệt xét xử.

Trong khoảng thời gian đấu tố, mỗi tỉnh xuất bản một tờ báo địa phương lấy tên là Lá rừng (ngụ ý tội ác của địa chủ nhiều như lá rừng) để tường thuật những vụ đấu tố trong toàn tỉnh. Tất cả công chức trong tỉnh đều phải đi “tham quan”, nghĩa là về các làng có đấu tố để quan sát chính sách Cải cách ruộng đất. Đảng muốn họ đi sát với “anh em nông dân” để am tường nỗi khổ của anh em nông dân và công nhận chính sách tiêu diệt giai cấp địa chủ của Đảng là “hợp tình hợp lý”. Họ cũng “ba cùng” với nông dân, nhưng chỉ được quan sát, không được phát biểu ý kiến. Tuy nhiên, việc có mặt của họ cũng có phần lợi cho địa chủ. Vì muốn tỏ cho họ thấy chính sách của Đảng rất đúng, nên cán bộ cố gắng thận trọng hơn nên do đó, địa chủ cũng được nới tay hơn. Một phần nào những người tới tham quan cũng là “thần bảo mạng của họ”.


Bước 6: Xử án địa chủ

Vài ngày sau cuộc đấu, một tòa án nhân dân đặc biệt tới xã xử những người bị tố. Mỗi huyện thành lập một tòa án gồm toàn bần cố nông không có mảy may kiến thức về pháp luật và án lệ. Tòa gồm có một chánh án, vài thẩm phán và một công cáo ủy viên nhưng không hề có người biện hộ cho bị cáo. Tòa xử theo “Biên bản cuộc đấu” và không cho bị cáo tự bào chữa. Bồi thẩm đoàn cũng gồm toàn nông dân đã làm chủ tịch đoàn trong cuộc đấu tố. Án có thể từ năm năm khổ sai đến tử hình, kèm theo tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tịch thu tài sản chỉ là một việc “lấy lệ”, vì dù tòa không tuyên án tịch thu thì sau này, tới chiến dịch Cải cách ruộng đất đích thực, toàn bộ tài sản của mỗi địa chủ cũng sẽ bị tịch thu.

Những người bị kêu án tử hình bị bắn ngay sau khi tuyên án và hố chôn đã đào sẵn, trước khi tòa nhóm họp. Hồi đầu, những người bị xử tử hình được phép tuyên bố vài lời trước khi bị bắn, nhưng sau khi một người, trước khi chết, hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm! Đảng Lao động muôn năm!” thì thủ tục “tư sản” này bị bãi bỏ. Từ đó về sau, hễ tòa tuyên án tử hình thì tức khắc một cán bộ đứng sau nạn nhân, nhanh tay nhét giẻ vào miệng và lôi đi. Một điều đáng thương cho những người bị hành quyết là những tự vệ xã cầm súng bắn phần nhiều mới cầm súng lần đầu, nên bắn trật bậy bạ. Nhiều nạn nhân bị lôi đi chôn chưa chết hẳn. Mồ chôn địa chủ bao giờ cũng san phẳng và cấy cỏ lên trên. Những cuộc xử bắn địa chủ bao giờ cũng tổ chức thành biểu tình.

Công chúng vỗ tay hoan hô khi nạn nhân ngã ngục dưới làn đạn.

Người tham dự đấu tố không khỏi liên tưởng đến cảnh mèo vồ chuột, mèo vờn đi vờn lại con chuột chán chê rồi mới cắn chết. Cộng sản đối với địa chủ cũng y hệt như vậy. Mang địa chủ ra đấu tố chán chê trong ba ngày liền, rồi vài hôm sau mới mang địa chủ ra bắn. Họ làm như vậy hình như nhằm hai mục đích: thỏa mãn bản năng tàn ác của một số cuồng tín và gieo khiếp đảm trong tâm hồn toàn thể nhân dân.

Cải cách ruộng đất còn một hình thức khác cần phải nói tới là chính sách “Cô lập địa chủ”. Số người chết vì chính sách này còn đông gấp mười lần số người bị tòa án nhân dân đặc biệt kêu án tử hình.


Chính sách “Cô lập địa chủ”

Hễ bị quy là địa chủ thì tức khắc bị toàn thể dân làng coi như con chó ghẻ. Không ai được chào hỏi hoặc trò chuyện, trẻ con được phép, hoặc nói đúng hơn được khuyến khích ném đá, nếu chúng thấy địa chủ ra đường hoặc đứng trước sân. Trong hơn một năm trời, từ ngày bắt đầu chiến dịch thứ nhất đến ngày kết thúc chiến dịch thứ hai, địa chủ và gia đình không được phép ra khỏi ngõ, trừ khi bị gọi ra ủy ban có việc. Vì chính sách “cô lập” này, phần lớn gia đình địa chủ bị chết đói, trẻ con và người già chết trước, người lớn chết sau. Mục đích của chính sách vô cùng kinh khủng này là nhằm tiêu diệt cho kỳ tuyệt giống “bóc lột” ở nông thôn. Như đã nói ở phần trên, không hề có thống kê về số người bị chết đói vì chính sách “Cô lập địa chủ” nhưng có thể ước đoán rằng đa số thành phần giai cấp “địa chủ” đã bị chết như vậy. Trong bài diễn văn đọc trước Đại hội toàn quốc của Mặt trận tổ quốc, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã nói: “Trong khi đập tan giai cấp địa chủ, ta không phân biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê thảm những người già cả, hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu diệt”. Cũng về mục này Nguyễn Hữu Đang, bộ trưởng bộ văn hóa trong chính phủ Việt minh đầu tiên, đã viết trong báo Nhân văn như sau:

“Trong Cải cách ruộng đất, những việc bắt người, giam người, tra hỏi (dùng nhục hình dã man), xử tử, xử bắn, tịch thu tài sản hết sức bừa bãi, bậy bạ, cũng như việc bao vây làm cho chết đói những thiếu nhi vô tội trong các gia đình địa chủ, hoặc chính là nông dân bị quy sai thành phần”.

Quả thực ông Hồ đã chủ tâm diệt chủng giai cấp địa chủ không khác Đức Quốc xã diệt chủng người Do Thái. Nhưng nếu so sánh, chúng ta có thể nói Hitler và Eichmann đường hoàng hơn ông Hồ và ông Mao, vì khi họ ra lệnh lùa người Do Thái vào phòng hơi ngạt, họ ngang nhiên nhận lãnh trách nhiệm về quyết định của họ trước công luận và trước lịch sử. Trái lại, ông Hồ và ông Mao muốn ban cho giai cấp địa chủ một cái “chết tự nhiên”, không ai mang tiếng giết họ, bắt họ phải “bất đắc kỳ tử”.

Ngay cả sau Cải cách ruộng đất, nếu ốm đau, địa chủ và thân thuộc cũng không được chữa chạy thuốc men, trong khi người Do Thái dưới chế độ Quốc xã vẫn có bác sĩ Do Thái trông nom. Tình trạng này đã được luật sư Nguyễn Mạnh Tường tóm tắt như sau:

“Khi đưa tới bệnh viện, một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì “mất lập trường”. Để nó chết mới chứng minh mình có “lập trường giai cấp”.

Những địa chủ còn sống sót tới phong trào Sửa sai sau phong trào hạ bệ Stalin ở Nga, là nhờ được hàng xóm mủi lòng giúp đỡ bằng cách, tối đến, ném cơm và thuốc men qua hàng rào để cứu họ và gia đình khỏi chết.

________________________________________
[1]Có hai Nghị định ấn định hai bản điều lệ phân định thành phần giai cấp ở nông thôn khác nhau. Một Nghị định số 29/BTTG, ký này 5-3-1953 và một Nghị định số 472 TTG ký ngày 1-3-55. Sở dĩ có sự thay đổi lại trong bản điều lệ trước, là do cộng sản quyết định tịch thu toàn bộ ruộng đất thuộc về tôn giáo. Sau khi công giáo ào ạt di cư vào Nam, cộng sản thấy cần phải nới tay với nhà thờ công giáo nên ban bố một bản điều lệ khác, để lại cho mỗi nhà thờ một số ruộng đát vừa cho những “người làm nghề tôn giáo” tự canh tác lấy.
[2]Hồi mới phát động phong trào, cộng sản đưa ra khẩu hiệu “cô lập phú nông” (về phương diện chính trị), nhưng vì cán bộ lẫn lộn với “cô lập kinh tế” nên bao vây nhiều gia đình phú nông đến nỗi họ bị chết đói (sẽ nói về chính sách cô lập kinh tế trong Chương sau). Vì vậy nên cộng sản đổi lại khẩu hiệu thành “liên hiệp phú nông”. Sự thực vẫn là gạt phú nông ra ngoài cuộc tranh đấu, không có gì là “liên hiệp” cả.
[3]Gérard Tongas, cuốn J’ai vécu dans l’Enfer Communiste du Nord Vietnam nhà xuất bản Les Nouvelles Editions Debress Paris 1960. Tr.222.


Chương 15 - Cải cách ruộng đất đích thực


Mặc dù tàn bạo quá sức tưởng tượng, chiến dịch giảm tô chỉ mới là màn khai mào, tương đối ôn hòa với chiến dịch kế tiếp mệnh danh là Cải cách ruộng đất đích thực. Như đã nói ở trên, giảm tô chỉ nhằm thanh toán một thiểu số địa chủ, những người giầu nhất, và theo quan điểm Mác-xít, cũng là phản động nhất. Tiêu diệt bọn “đầu sỏ” này chỉ là một hành động “sơ khởi” mở đường cho một cuộc quét sạch, tại nông thôn, mọi tiềm lực chống đối chính sách mà Đảng sắp ban hành: tập thể hóa nông nghiệp và thiết lập nền vô sản chuyên chính.

Cả hai chiến dịch đều thực hiện chính sách “vết dầu loang”. Ở làng nào cũng vậy, vào khoảng một năm sau chiến dịch giảm tô, thì đến Cải cách ruộng đất. Sở dĩ có một năm xả hơi là vì cần phải chỉnh đốn lại làng mạc, cả về kinh tế lẫn về hành chính. Trong suốt mấy tháng giảm tô, nông dân đã mất quá nhiều thì giờ họp hành, biểu tình, đấu tố nên sao lãng công việc đồng áng. Thực vậy, làng nào mới qua chiến dịch giảm tô cũng tương tự như mới qua một trận bão, rào giậu đổ nát, nhà cửa siêu vẹo, chó, lợn và cả trâu bò đi lang thang không người chăn dắt. Bị thất đảm trong chiến dịch vừa qua, không mấy ai có bụng dạ làm ăn. Đã bao đời, họ chịu khó đầu tắp mặt tối để mong có ngày “mát mặt” và bóp chắt để có ít nhiều để lại cho con cháu. Nhưng nay, bỗng nhiên họ nhận thấy hễ có của ăn của để hơn người là đắc tội, nên họ như rời rã chân tay không muốn làm lụng làm gì cho vừa tốn sức vừa nguy hại đến bản thân. Để đả phá thái độ uể oải của nông dân, Đảng bèn đề ra chính sách “Thi đua xã hội chủ nghĩa”; nhưng cải tạo tư tưởng cho nông dân không phải là việc dễ dàng, một sớm một chiều mà thực hiện được. Ít nhất cũng phải một năm mới làm cho nông dân hiểu rằng dưới chế độ mới họ còn phải cặm cụi nhiều hơn trước. Đảng đốc thúc nông dân sửa nhà sửa cửa, đào kênh đắp đường, chống lụt, chống hạn, cứ liên miên như vậy cho đến ngày họ cảm thấy nếp sống tập thể đã thay thế cho nếp sống riêng rẽ và từ nay họ chỉ cần tuân theo chỉ thị của nông hội, không cần có sáng kiến cá nhân.

Năm xả hơi cũng là năm cải tổ lại ủy ban hành chính và chi bộ xã vì cả hai đều đã bị giải tán lúc chiến dịch giảm tô mới bắt đầu. Tất cả các cán bộ và đảng viên cũ, dù trước kia có tích cực và có thành tích bằng mấy cũng bị gạt ra ngoài, nếu họ có ít nhiều liên quan với giai cấp địa chủ. Lần này ủy ban và chi bộ gồm toàn bần cố nông đã có thành tích trong cuộc đấu tranh vừa qua, dù có mù chữ cũng không sao. Vì điều kiện kết nạp vào tổ đảng mới phải là không có mảy may liên hệ với địa chủ, nên đa số đảng viên cũ bị bỏ rơi và những phần tử được kết nạp phần lớn đều là cốt cán và những người đã “đấu hăng” trong chiến dịch vừa qua. Vì có phân biệt “mới” “cũ” nên tất nhiên có xung đột giữa hai loại đảng viên, và kết quả là các “đảng viên mới” có quyền bính trong tay và nhân dịp chiến dịch Cải cách ruộng đất, quy hầu hết các “đảng viên cũ” là địa chủ và bắt tống giam. Vô số đảng viên cũ bị quy là đảng Việt gian phản động, cường hào, gian ác và bị xử bắn, con số những người còn bị giam, chưa kịp mang bắn, và được thoát chết nhân dịp Sửa sai lên tới 12 ngàn người (con số do báo Nhân dân công nhận). Những người này tuy nhờ Sửa sai mà thoát chết, nhưng khi được tha về cũng đã mất cửa mất nhà, có khi mất cả vợ. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong Chương 16, khi bàn về chiến dịch Sửa sai.

Một câu hỏi cần được đặt ra là: Tại sao các đảng viên cũ còn đang được kính nể trong chiến dịch thứ nhất lại bị bạc đãi trong chiến dịch thứ hai? Việc Đảng trở mặt đối với họ hình như có những lý do như sau:
1. Cải cách ruộng đất là một cuộc thanh trừng đại quy mô, trong toàn quốc, thực hiện ngay trong hàng ngũ Đảng. Các đảng viên cũng phải thanh trừng như “quần chúng” không Đảng, và Đảng đã ủy thác cho bần cố nông thực hiện cuộc thanh trừng này. Sở dĩ kỳ trước đảng viên được yên thân và kỳ này đảng viên mới bị là tại Đảng có một chiến lược đặc biệt: quần chúng trước, đảng viên sau: đũa không bẻ cả nắm.
2. Hầu hết các đảng viên cũ đều thuộc thành phần phú nông địa chủ, nên đến lúc Đảng cần “vô sản hóa” hàng ngũ, họ bị loại trừ và quy là địa chủ thì cũng chẳng có gì là lạ.
3. Sở dĩ có sự xung đột giữa đảng viên cũ và đảng viên mới là tại trong mười năm đảng viên cũ cầm quyền ở nông thôn họ đã trở thành một giai cấp mới. Họ nói họ có lập thường vô sản nhưng thực sự thì họ vẫn kỳ thị vô sản, miệng vẫn nói: “anh chị em nông dân” nhưng trong thâm tâm vẫn coi bần cố nông là “dân ngu khu đen”. Có thể nói rằng hình phạt họ phải chịu trong chiến dịch Cải cách ruộng đất chỉ là hậu quả của thái độ hống hách trong mười năm qua (1945-1955).
4. Vì trong chiến dịch Cải cách ruộng đất, Đảng đã ấn định cho mỗi xã một con số tối thiểu địa chủ bị tù đày và bị tử hình cao quá mức, năm lần nhiều hơn trong chiến dịch giảm tô, nên nếu lần này đảng viên cũ vẫn được ngoại lệ thì không kiếm đâu cho đủ số người mang đi xử tử hoặc cho vào tù.

Vì những lý do kể trên nên thế tất phải xảy ra cuộc xung đột giữa hai loại đảng viên, giữa đảng viên cũ mà đa số thuộc thành phần phú nông địa chủ, gia nhập Đảng không phải vì quyền lợi giai cấp mà chỉ vì bị hấp dẫn bởi lý thuyết Mác-xít hoặc tham vọng nào khác, và những đảng viên mới gồm bần cố nông và một số bất lương du đãng. Bọn đảng viên mới này không có tham vọng gì hơn là lôi tuột tất cả mọi thành phần xã hội xuống ngang mức với mình.

Sự xung đột giữa mới và cũ cũng là điều mà Đảng muốn vì Đảng quan niệm có xung đột, thanh trừng mới hữu hiệu, mới có điều kiện để chuyển từ thế “phản đế” sang thế “phản phong”. Chứng cớ là mặc dù vô số đảng viên kỳ cựu bị tù đày hoặc hành quyết mà Đảng không hề can thiệp. Mãi đến khi chiến dịch kết thúc, ông Võ Nguyên Giáp mới thay mặt Đảng, tuyên bố việc chém giết tràn lan là một việc đại sai lầm.

Cũng in hệt giảm tô, Cải cách ruộng đất cũng bắt đầu bằng một cuộc quy định thành phần, lần này là quy định lại, rồi đến đấu tố và sau đó là xử án và xử bắn. Thủ đoạn reo rắc khủng khiếp cũng y hệt chiến dịch trước, chỉ khác ở một điểm là lần này số nạn nhân đông hơn gấp bội. Mỗi xã tối thiểu phải xử tử năm mạng. Số người tự vẫn có phần tăng nhiều hơn vì lẽ những người mới bị “vạch mặt” (phát hiện là địa chủ) không chịu nổi nỗi nhục vì trước đây một năm, họ còn “tố hăng” những người bị quy là địa chủ trong chiến dịch trước. Số người chết đói vì “cô lập” cũng tăng nhiều hơn vì những phú nông hoặc trung nông mới lên chức địa chủ không có đủ điều kiện tinh thần và vật chất để sống qua thời kỳ cô lập bằng các địa chủ chính cống. Về tâm lý, các địa chủ chính cống đã chuẩn bị tinh thần để chịu “búa rìu” của thời đại. Về vật chất họ cũng có nhiều thuận lợi. Nhiều gia đình địa chủ có con cái kèm theo nghề khác mà theo luật Cải cách ruộng đất không đụng chạm tới, như công nghệ hoặc buôn bán. Họ lại còn có bà con, bạn bè làm cán bộ bí mật giúp đỡ. Trái lại, những địa chủ mới, trước kia là phú nông, trung nông, đều là những người chỉ biết trồng cây cuốc đất và suốt đời không ra khỏi làng. Sở dĩ họ “có đủ bát ăn” hơn người khác là chỉ tại họ suốt đời thực hiện phương châm “làm rốn ăn ít”. Ngày nay, bỗng dưng bị quy là địa chủ, họ không có chỗ sở cậy nên không tránh khỏi chết đói trong thời gian cô lập.

Về truất hữu tài sản thì hai chiến dịch chỉ khác nhau ở một điểm: Trong chiến dịch giảm tô tịch thu tài sản chỉ là một hình phạt của tòa án nên chỉ có địa chủ “đầu sỏ” mới bị tịch thu hoặc một phần, hoặc toàn bộ tài sản. Trong Cải cách ruộng đất, toàn bộ tài sản của tất cả mọi địa chủ đều bị trưng thu nghĩa là sung công mà không được trả tiền, trên thực tế, không khác tịch thu gì hết.


Trưng thu tài sản

Trong chiến dịch đầu, chỉ có địa chủ “đầu sỏ” mới bị xử án và bị tòa tuyên án tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Đấy là một hình phạt để trị tội những địa chủ Việt gian phản động. Nhưng địa chủ không bị ra tòa, hoặc có ra tòa nhưng tòa không tuyên án tịch thu tài sản thì vẫn giữ nguyên sở hữu nhà cửa ruộng nương của mình. Nhưng đấy chỉ là trên lý thuyết. Thực tế thì ngay từ hồi mới phát động chiến dịch, tất cả đồ đạc trong nhà họ đã bị ghi vào biên bản. Họ không được phép bán bất cứ thứ gì, dù nhỏ nhặt nhất, và hễ mất mát hoặc hư hỏng, họ sẽ phải chịu trách nhiệm. Từ ngày ấy trở đi, một thửa vườn của địa chủ chẳng hạn, vẫn là tài sản hợp pháp của địa chủ nhưng trái cây trong vườn đã bị coi là của “nhân dân” rồi. Có nhiều địa chủ bị đánh đập thậm tệ cũng chỉ vì, như ông Adam và bà Êva, họ không cưỡng lại được sự cám dỗ của những “trái cấm” trước mắt họ. Biện pháp phi lý này cũng áp dụng cho cả lúa ruộng. Trên lý thuyết, ruộng vẫn còn là của tư hữu của địa chủ, nhưng tá điền phải nộp cho nông hội. Tình trạng rắc rối này kéo dài trong một năm cho đến phát động chiến dịch Cải cách ruộng đất, chính quyền mới tuyên bố tịch thu, trưng mua tất cả ruộng đất “thừa” của địa chủ.

Theo một đạo luật (Sắc lệnh số 197/SL, ban hành ngày 19 tháng 12 năm 1953. Chương 2, Điều 4) thì chỉ có ruộng đất, trâu bò và nông cụ thừa mới bị sung công, còn tất cả mọi thứ khác đều không đụng đến. Nhưng đến thực tế thì địa chủ và gia đình bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng. Cũng theo sắc lệnh này, có ba loại truất hữu khác nhau:
1. Tịch thu ruộng đất và tài sản của “thực dân, đế quốc và Việt gian phản động”. Đối với thực dân đế quốc thì tịch thu toàn bộ, còn đối với Việt gian phản động thì tịch thu nhiều ít tùy theo tội trạng.
2. Trưng dụng phần tài sản của Việt gian phản động còn lại, sau khi đã tịch thu một phần. Trưng dụng cũng là lấy không trả tiền, chỉ khác tịch thu ở chỗ không cần phải đưa ra tòa.
3. Trưng mua tài sản của những địa chủ không phản động. Theo sắc lệnh thì trưng mua nghĩa là truất hữu có bồi thường. Người bị truất hữu sẽ được trả bằng quốc trái. Giá ruộng ấn định bằng số một năm hoa lợi và chính phủ hứa sau mười năm sẽ trả, và chịu lãi cho người bị truất hữu mỗi năm một phân rưỡi. Chính phủ tỏ vẻ rất sòng phẳng và pháp luật rất minh bạch, nhưng trên thực tế thì chẳng địa chủ nào được “trưng mua” cả vì một lẽ rất giản dị: không có địa chủ không phản động. Vì vậy nên biện pháp trưng mua chỉ có trên giấy tờ. Trên thực tế, tất cả tài sản của mọi địa chủ đều bị trưng thu, nếu không bị tịch thu.
Mãi đến chiến dịch Sửa sai mới có một số địa chủ được tha khỏi tù, được hạ xuống làm “địa chủ thường” hoặc “địa chủ kháng chiến” có khi xuống thành trung nông và ngay cả bần nông. Họ được hoàn lại tài sản, nhưng thực sự thì họ chỉ được lấy lại một phần ruộng nương và nhà cửa. Nói là nhà cửa, nhưng chỉ còn mái nhà và mấy hàng cột, vì trước khi giao trả cho họ và dọn đi nơi khác, những bần cố nông được phép chiếm cứ nhà cửa của họ đã đánh tháo cánh cửa và vách ván làm củi đun. Cây cối trong vườn cũng bị chặt mang đi bán và trâu bò cũng bị đánh què làm thịt. Đồ đạc phân chia cho bần cố nông thì bần cố nông đã bán đi bán lại qua tay nhiều người không còn tìm thấy tung tích.

Có thể có một số “nhân sĩ tiến bộ” như ông Phan Kế Toại và ông Hồ Đắc Điềm được trưng mua tài sản và được giao tờ quốc trái bồi thường, nhưng tới nay đã đủ 10 năm mà chưa nghe nói hoặc đăng trên báo chí Hà Nội là đã có ai được lĩnh tiền bồi thường cùng với số lãi 15 phần trăm trong 10 năm. Có điều chắc là nếu chính quyền Bắc Việt làm ngơ thì chẳng có ai to gan dám mở miệng đòi, vì nếu đòi tiến bồi thường ruộng đất tức là còn “óc địa chủ”; và như vậy tất nhiên không đáng được chức “nhân sĩ tiến bộ hoặc bất cứ thành phần nào khác ngoài thành phần địa chủ. Như thông cảm lẫn nhau, cả Đảng lẫn người mất ruộng đều làm ngơ sắc lệnh 197 SL, không đả động gì đến cả vốn lẫn lãi.

Như vậy là trên thực tế, cả ba hình thức truất hữu: tịch thu, trưng thu và trưng mua đều giống hệt nhau. Không kể những ông “nhân sĩ tiến bộ” chỉ mất ruộng không, nhưng được yên trên Việt Bắc còn mọi loại địa chủ đều bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng và vài mảnh áo rách. Cũng như mọi hành vi khác của Đảng, việc truất hữu tài sản của địa chủ cũng được cử hành với hình thức rất uy nghi. Sau đây là một bài báo tả cảnh buổi tịch thu tài sản đăng trong báo Cứu quốc số 2741, ngày 1 tháng 1 năm 1956:

“Nông dân thôn Thượng rùng rùng kéo đến nhà tên Phong (địa chủ). Cờ phơi phới. Tiếng trống thiếu nhi rồn rập. Những tiếng hô khẩu hiệu “đả đảo” và “hoan hô” không ngớt.

Giữa sân lù lù một đống cày cuốc, ô doa, liềm hái, thúng mủng cho tới nồi ba mươi, nồi mười, mâm đồng, chậu thau… hàng dẫy. Quanh sân những cây hải đường, cây mẫu đơn rực rỡ.

Đồng chí cốt cán gọi vợ tên Phong ra [1] . Đồng chí nhân danh nông hội tuyên bố tịch thu toàn bộ tài sản của nó.

Tiếng đấu tranh của nông dân mỗi lúc càng gay gắt, như không thể chấm dứt. Quanh đó, đồng bào đứng hàng trong, hàng ngoài. Đồng chí cốt cán tuyên bố, vạch rõ cho con mẹ địa chủ thấy đời nó, đời cha, đời ông nó không lao động, chuyên bóc lột, chiếm đoạt, mới có những của này. Của này là của nông dân… Con mẹ địa chủ mặt tái mét. Cả người nó run run. Đồng chí dõng dạc tuyên bố xóa bỏ hẳn quyền chiếm hữu gồm 24 mẫu ruộng và toàn bộ tài sản của nó. Tiếng vỗ tay ran lên “Hồ chủ tịch muôn năm!”, “Hoan nghênh chính sách tịch thu, trưng thu, trưng mua của Đảng và của chính phủ!”.

Hàng đoàn thanh niên nam nữ quẩy những gánh thóc từ nhà ngang qua sân. Hai con trâu cũng vừa dắt ra. Tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô vang dậy. Bà con thu xếp quẩy đổ đi. Khiêng, vác, gánh lũ lượt. Trống ếch các thiếu nhi càng ròn rã”.


Triển lãm đồ dùng của địa chủ

Sau lễ tịch thu, một số vật dụng riêng của địa chủ được mang ra triển lãm trước khi chia cho nông dân. Để làm nổi bật mức sống “xa hoa” của địa chủ, đồng thời cũng triển lãm cả vật dụng của bần cố nông. Một bên phòng triển lãm bày nào là áo gấm, mũ tây, can, giầy tây, điếu khách, ống nhổ, an bom [2] ảnh (trong an bom nhiều khi có cả ảnh cán bộ), còn một bên là váy đụp, áo rách, vài chiếc nồi đất để nói lên sự nghèo nàn của nông dân. Đôi khi có cả hai mâm cơm. Mâm của địa chủ thì nào là gà, cá, heo quay, rượu đế, còn mâm cơm của nông dân thì chỉ có cơm hẩm, cà thâm và một bát tương nặng mùi.

Năm 1954, sau khi cộng sản tiếp thu Hà Nội được vài tuần, họ có tổ chức một cuộc triển lãm như vậy tại vườn hoa Hàng Đậu, ở giữa thủ đô. Mục đích tất nhiên là để chứng minh cho dân thành thị thấy việc đánh đổ giai cấp địa chủ là một việc “hợp tình hợp lý”, để lôi cuốn họ theo cách mạng vô sản. Nhưng chẳng bao lâu cuộc triển lãm bị dẹp ngay vì dư luận của những người đi xem cho rằng nếu đó là mức sống của địa chủ nông thôn (áo gấm đã bạc màu, mũ tây “phở”) thì hãy còn thấp hơn mức sống của một công nhân Hà Nội. Sự thực thì ở một nước chậm tiến nào cũng có sự khác biệt rất lớn giữa thành thị và nông thôn. Thành thị đã Âu hóa ít nhiều, còn nông thôn vẫn ở nguyên tình trạng cổ sơ. Việt Nam đã trải qua chín mười năm chiến tranh, nên sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn ở Việt Nam lại càng rõ rệt hơn đâu hết. Các vùng Việt Minh kiểm soát bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài, phải chịu bom đạn hàng ngày, còn vùng Pháp kiểm soát thì đầy ngập hàng hóa Pháp, hoặc hàng hóa do Hoa Kỳ viện trợ. Quân đội viễn chinh Pháp cũng tiêu xài nhiều nên mức sống ở Hà Nội trong thời kỳ Pháp chiếm đóng cao hơn mức sống ở vùng Việt Minh rất nhiều. Vì thiếu mọi tiện nghi nên dân chúng trong vùng kháng chiến lui dần về nếp sống trung cổ. Địa chủ trong vùng kháng chiến, tuy có khá hơn nông dân, nhưng thực quả không có gì khiến dân Hà Nội phải thèm thuồng. Nhưng mặc dù họ đã bị bần cùng hóa sau chín năm kháng chiến, địa chủ vẫn là “giai cấp bóc lột”, vẫn bị quy là “tay sai của thực dân” và vẫn bị tịch thu tất cả những thứ họ hiện có để chia cho nông dân nghèo hơn.


Phân chia ruộng đất và tài sản của địa chủ

Muốn đánh giá đúng mức kết quả của Cải cách ruộng đất, hai yếu tố cần phải nắm vững. Một là tổng số ruộng đất bị tịch thu và tổng số nạn nhân của cuộc tịch thu, hai là tổng số người được phân phát của tịch thu và trung bình mỗi người được bao nhiêu. Nhưng việc khó khăn là khó tìm ra mấy con số này. Nhà cầm quyền Bắc Việt chưa bao giờ công bố tổng số địa chủ bị truất hữu tài sản. Có lẽ vì họ sợ nếu họ công bố con số địa chủ lên báo chương thì người đọc sẽ giật mình thấy quá nhiều người đã bị quy là địa chủ, tỷ lệ những “kẻ thù của nhân dân” lên quá cao.

Còn về ruộng đất phân chia cho nông dân thì không nhất thiết là ruộng đất của địa chủ, vì thực ra trong số đó có cả công điền mà nông dân vẫn thay phiên cày cấy. Cộng sản góp cả công điền lẫn với ruộng đất truất hữu của địa chủ mang chia đều cho nông dân, và sau này lại gộp lại làm tài sản tập thể của hợp tác xã. Không có con số nào nói rõ trong số ruộng đất chia cho nông dân, bao nhiêu là truất hữu của địa chủ và bao nhiêu trước kia vốn là công điền. Tuy nhiên, nên đọc cuốn Xã thôn Việt Nam do nhà xuất bản Sự thật ở Hà Nội xuất bản, chúng ta cũng thấy rõ ở Bắc kỳ 20 phần trăm tổng số canh điền là ruộng công, và ở Trung Kỳ, tỷ lệ ruộng công lên đến 25 phần trăm. Đoạn văn sau đây trích trong cuốn Xã thôn Việt Nam nói rõ về vấn đề công điền:

“Ở một vài nơi công điền chiếm một tỷ lệ rất cao. Thí dụ ở Xuân Trường (Nam Định) 77,5 phần trăm đất đai cày cấy trong huyện là ruộng công. Nhưng ở nơi khác thì tỷ lệ ruộng công ít hơn: huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) 59 phần trăm, phủ Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên) 42,5 phần trăm, phủ Lý Nhân (tỉnh Hà Nam) 46 phần trăm… Ở Quảng Trị chẳng hạn, công điền nhiều hơn tư điền, và ở huyện Triệu Phong toàn thể ruộng đất trồng trọt đều là công điền. Ở huyện này, mỗi nông dân được chia trung bình mỗi người chừng ba mẫu [3] ”.

Công điền ở Việt Nam có truyền thống lâu dài và có lẽ là di tích của chế độ cộng sản nguyên thủy. Ngày nay cộng sản mang công điền gộp với ruộng đất truất hữu của địa chủ, chia cho nông dân để chứng minh lợi ích của Cải cách ruộng đất. Thành thực mà nói thì một nửa lợi ích đó là của cộng sản nguyên thủy để lại; chỉ có một nửa là của cộng sản Mác-xít mà thôi.

Trong cuốn Xã thôn Việt Nam, tác giả Nguyễn Hồng Phong có công nhận rằng (trang 69) ở Bắc Kỳ có 240.000 mẫu tây công điền và ở Trung Kỳ có 200.000 mẫu tây. Vì lãnh thổ Bắc Việt hiện nay gồm có Bắc Kỳ và một nửa phần Trung Kỳ nên chúng ta có thể tạm coi là tổng số công điền thuộc Bắc Việt là 240.000 mẫu tây, cộng với 200.000 mẫu tây chia đôi, tức là 340.000 mẫu tây tất cả.

Chính phủ Bắc Việt hình như muốn tránh, không tiết lộ tổng số ruộng đất tịch thu của địa chủ mà trái lại, chỉ công bố một vài con số tản mác, ở một số địa phương. Một phần khác, sau khi đã tịch thu và chia rồi lại “sửa sai” và trả lại ruộng đất cho những người bị “quy nhầm là địa chủ”, do đó không thể biết được những con số chính xác về truất hữu ruộng đất của địa chủ và phân chia cho dân nghèo. Tác giả chỉ thấy một tài liệu tổng quát, nhưng quá sơ sài. Đấy là một bài do một chuyên viên Nga V. P Karamichev viết trong tờ Ekonimika Sel’kogo Khozyaistva (Chăn nuôi và Kinh tế nông thôn), tập V, 1957, trong đó có những con số tổng kê như sau:

“Cải cách ruộng đất (ở Bắc Việt) đã tịch thu 702.000 mẫu tây ruộng đất, 1.846.000 nông cụ, 107.000 gia súc và 22.000 tấn thực phẩm. Tất cả đem chia cho 1.5.00.000 gia đình công nhân và bần cố nông”.

Ông Karamichev không nói rõ trong 702.000 mẫu tây ruộng đất tịch thu, có bao nhiêu mẫu là của “thực dân đế quốc” tức là đồn điền chè và cà phê mà chủ là Pháp kiều đã bỏ hoang từ 1945, và cũng trong số ấy có bao nhiêu công điền, phải chăng đã có một nửa, tức là 340.000 mẫu tây như chúng ta đã ước lượng ở trên. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào những con số của nhà chuyên viên Nga, chúng ta có thể ước lượng mỗi gia đình được hưởng vào khoảng 4.000 thước vuông (đất và ruộng), một nông cụ và 1 phần 13 của một gia súc. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng dưới đề mục “nông cụ” có cả những vật như thúng mủng, nồi niêu, mâm đồng, chậu thau, v.v. như đã tả trong báo Cứu quốc số 2741 (đã trích ở trên). Còn “gia súc” cũng gồm cả chó, mèo, dê, lẫn trâu bò.

Một mặt khác, nếu đem con số tổng kê của ông Karamichev so với những con số cục bộ của một vài địa phương chúng ta thấy những con số của ông Karamichev có vẻ lạc quan hơn nhiều. Tỷ dụ như theo bản Thông cáo của Ủy ban Cải cách ruộng đất nói về vùng ngoại ô Hà Nội là vùng trù phú nhất Bắc Việt thì:

Nông dân lao động đã tịch thu và trưng mua trong tay giai cấp địa chủ 20.482 mẫu (ta) ruộng, 511 trâu bò, 6156 nông cụ các loại, 1.032 nhà cửa và 346.903 cân lương thực. Nông dân lao động đã bắt địa chủ thoái tô được 155.069 cân thóc và 6.429.950 đồng [4] . Tất cả tài sản đó đã chia cho 24,690 gia đình nông dân và nhân dân lao động gồm có 98.133 nhân khẩu. Đổ đồng mỗi cố nông được 2 sào 9 thước, mỗi bần nông được 2 sào 8 thước và mỗi trung nông được 2 sào 13 thước.

Phân tích những con số trên đây chúng ta thấy ngoài mảnh đất, mỗi “nhân khẩu” chỉ nhận được 1 phần 17 “nông cụ”, 1 phần 95 cái nhà, 1 phần 192 gia súc, hơn 5 cân thực phẩm và 65 đồng (đồng bạc Việt cũ, tương đương với 0,50 đ VNCH).

Nếu nghiên cứu kỹ lưỡng văn kiện trên, chúng ta có thể đạt tới những kết luận như sau:
1. Theo sắc lệnh Cải cách ruộng đất (Mục 2, Chương 1 và 2) thì chỉ có “Việt gian phản động” mới bị tịch thu nhà cửa. Như thế ngụ ý là số 1.032 “nhà cửa” ghi trong bản thông cáo là của 1.032 “Việt gian phản động”. Mang con số này so với con số 24.690 gia đình nông dân và nhân dân lao động, ta thấy tỷ lệ “Việt gian phản động” lên tới 4 phần trăm dân số ngoại thành Hà Nội. Như vậy có nghĩa là toàn thể giai cấp địa chủ đã bị quy là Việt gian phản động và đã bị tịch thu nhà cửa và cũng có nghĩa là cộng sản coi 4 phần trăm nhân dân là “kẻ thù của nhân dân”.
2. Nếu ta đem số gia súc, nông cụ, thực phẩm cùng với số ruộng đất tịch thu chia cho số địa chủ thì trung bình mỗi địa chủ chỉ có 7.000 thước vuông đất, nửa con gia súc, 6 nông cụ, 500 cân thực phẩm, 6.500 đồng bạc Việt cũ, tương đương với 50 đồng VNCH. Như vậy khó mà bảo họ là đại phú được.
3. Việc trung nông được 2 sào 13 thước, trong khi cố và bần nông chỉ được 2 sào 9 thước và 2 sào 8 thước (kể ra cũng suýt soát cả ) chứng tỏ những danh từ “bần”, “cố”, “trung” không có liên hệ gì trực tiếp với mức sống vật chất của họ cả. Thực ra cả ba loại này đều nghèo ngang nhau, và đáng lý phải được xếp tất cả vào loại “bần nông”, nhưng vì các trung nông thực sự đã bị quy là phú nông hoặc địa chủ cả rồi, nên cũng phải “lấy đại” một số bần nông để “phong chức” lên trung nông .
4. Nếu đem tổng số thực phẩm và tiền thu được chia cho số nhân khẩu thì mỗi nhân khẩu chỉ nhận được 5 cân thực phẩm (gồm cả lúa lẫn ngô khoai) và 65 đồng bạc Việt cũ. Cho rằng đổ đồng người lớn và trẻ con mỗi ngày ăn hết 250 gam lương thực thì số tiền và thực phẩm được chi cũng đủ nuôi sống họ trong vòng 20 ngày là cùng. Nhưng đó mới chỉ là trên lý thuyết. Thực tế có hơi khác, vì nông hội đã sử dụng một phần lớn “quả thực” (tài sản tịch thu của địa chủ) vào việc này nọ, kể cả việc cấp dưỡng cán bộ trong 6 tháng và cuộc liên hoan “mừng thắng lợi chống phong kiến”. Tại một làng mà chúng tôi lưu lại trong thời kỳ “long trời lở đất” này, một bần nông nhận được chừng 2,5 kg lúa còn một trung nông được một xuất tiền vừa đủ mua một gói thuốc nội. Thực vậy, có nhiều người phê bình là đã hoang phí đem cả số “quả thực” mua quà cho con. Đấy là phần thưởng của sáu tháng trời [5] liên tiếp học tập, thảo luận, biểu tình, tuần hành với nửa triệu người thiệt mạng. Kết luận là ngoài 4 nghìn thước ruộng đất số “quả thực” mỗi gia đình nông dân nhận được không đáng kể.
Ruộng đất ở đồng bằng Bắc Việt, và nhất là ở ngoại thành Hà Nội giá rất đắt, mỗi nông dân bằng ấy ruộng đất quả là một thành tích. Tất nhiên người được ruộng đất rất đỗi vui mừng, nhưng chẳng bao lâu những gì xảy ra sẽ dội cho họ một gáo nước lạnh. Với số ruộng đất mới được chia, cộng vào số họ vốn có, làm số lợi tức của họ tăng lên, và vì thế nông nghiệp tính theo lối tích luỹ tiền, nên hễ ruộng đất của họ gấp đôi thì số thuế họ phải đóng có thể lên gấp ba. Một phần khác những ruộng đất của địa chủ trước kia bị “bình” một sản lượng quá cao, với dụng ý làm khánh kiệt giai cấp địa chủ cho nhanh, bây giờ đem chia cho dân nghèo thì dân nghèo trước kia đã bình con số sản lượng ấy bây giờ phải nhận về phần mình. Rút cục họ sẽ phải đóng cho chính phủ một số thuế nông nghiệp không kém số tô trước kia đóng cho địa chủ [6] .

Vài tháng sau khi chia ruộng, toàn thể ruộng đất của nông dân lại bị tập thể hoá. Họ không còn có ruộng đất riêng, mà phải làm việc đầu tắt mặt tối cho hợp tác xã mới lĩnh được mỗi ngày 10 điểm, tức là 1 ký rưỡi gạo. Trong số 20 điểm mà hai vợ chồng nông dân kiếm được mỗi ngày, họ phải nhượng 2 điểm cho một bà già trong xóm giữ giùm con, một điểm cho một người khác đi chợ giúp. Chế độ “ăn tiêu bằng điểm” vẫn còn hiện hành và có lẽ sẽ còn kéo dài cho tới ngày thiết lập chế độ công xã.

Như mọi hành động khác, việc phân phát ruộng đất cho dân nghèo ở Bắc Việt được thực hiện với rất nhiều nghi thức: biểu tình, tuần hành, diễn văn, phát biểu ý kiến, khẩu hiệu biểu ngữ, cờ quạt, trống ếch, v.v. Mỗi nông dân nhận được một “địa bạ” và một biển gỗ, ghi rõ họ tên để cắm vào giữa ruộng. Tất nhiên là có sự tranh giành, người tranh thửa nọ, người đòi mảnh kia vì tốt xấu, xa gần nhưng chung quy rồi cũng đâu vào đấy, vì được ruộng mà phải đóng thuế ngang với tô thì cũng không ai hào hứng lắm.

Nhưng việc phân phát nhà cửa, gia súc và nhất là đồ đạc lại là một chuyện khác. Trong nhiều trường hợp, cán bộ đảng không thể nào làm hài lòng mọi người và tránh những cuộc xung đột “nảy lửa”. Bài sau đây trích ở báo Nhân dân số 807, ngày 20-5-1956 tường thuật một cách linh động một trường hợp đã xảy ra.


Cái tủ đứng

Cuộc họp chia của đấu tranh ở xóm Đ.M bắt đầu từ sáng sớm đến chiều, rồi lại từ chập tối đến nửa đêm vẫn chưa xong. Đến giờ ăn, mọi người chạy về ăn vội vàng rồi lại đến họp ngay. Cả trẻ con cũng theo bố mẹ kéo đến nơi, đêm khuya chúng mệt, ngủ la liệt trên mấy tấm phản.

Trâu bò, nông cụ, nhà cửa đã chia ổn thoả rồi, chỉ còn những tài sản khác là gay go. Của ít người nhiều, việc phát động tư tưởng lại làm kém, nên bà con có rất nhiều thắc mắc. Người nào cũng thiếu thốn, cái gì cũng có rất nhiều người xin, việc bàn bạc cứ giằng co mãi không xong. Gay go nhất là việc chia cái tủ đứng. Bà Trụ và bà Du đều là bần cố nông thiếu thốn như nhau. Bà nào cũng viện hết lý của mình ra yêu cầu được chia cái tủ đứng. Nhưng lý của ai cũng phải cả, nên rốt cuộc chẳng ai nhường ai. Cuối cùng bà Trụ nói:

“Suốt từ đầu hôm đến giờ, tôi đã nói với bà hết nước hết cái mà bà khăng khăng một mực. Thật chưa thấy ai tham như bà”.

Bà Du đỏ mặt tía tai:

“Bà bảo tôi tham, thế dễ nhà bà chê của đấy phỏng? Nhà bà có buồng, có khoá, bà còn muốn cái tủ nữa mới vừa!”

Bà Trụ đứng phắt dậy:

“Nói với bà cũng bằng thừa”.

Bà Du cũng đứng lên:

“Muốn gì thì muốn, tôi cũng phải được cải tủ ấy. Họp mấy ngày nữa tôi cũng không nhường cho bà”.

Nói đoạn hai bà cùng bỏ ra về. Sau buổi đó, cán bộ họp với cốt cán thảo luận kế hoạch và giao cho cốt cán đi phát động tư tưởng hai bà.

Chị Bảo tìm đến bà Trụ trước. Vừa thấy mặt chị bà nói chặn:

“Chị đến đả thông tôi có phải không? Mấy thì mấy tôi cũng không thông. Nhưng mụ Du thì tôi không nhường”.

Chị Bảo cười:

“Làm gì mà bà nói như lửa thế? Thì ai đã dám bảo bà nhường? Nhường nhịn là do thương yêu lẫn nhau, có ai bắt ai phải nhường ai bao giờ?”

Bà Trụ nói :

“Tôi mười mấy năm trời đi ở với con Xoè khổ sở với nó biết là bao. Bây giờ của đấu tranh được nhiều, tôi có dám giành thứ gì đâu? Chị xem từ hôm qua tôi đã được cái gì chưa? Thấy ai thiếu hơn là tôi nhường ngay. Duy cái tủ này thì tôi nghĩ nhà tôi ở lẻ ngoài đồng, tối lại đi họp luôn, có cái gì để chỉ sợ nhỡ ra mất mát, nên đi họp mà bụng cứ thấp thỏm. Giá được cái tủ, có gì đi đâu thật là yên tâm”.

Chị Bảo nói:

“Hôm qua ai cũng nhận thấy bà rất có tinh thần nhường nhịn, thấy ai thiếu hơn mình, bà vui lòng nhường ngay. Nhưng đến lượt cái tủ này thì quả là gay go. Nhà bà ở lẻ, bà lại đi vắng luôn, kể bà nói cũng phải”.

Bà Trụ thấy chị Bảo đồng ý, như cởi tấm lòng:

“Đấy chị xem, nhà trống huếch trống hoác thế này, có gì mất biết kêu ai?”

Chị Bảo mỉm cười:

“Khốn nỗi của ít người nhiều, giá có hai cái tủ chia cho hai bà thì tốt bao nhiêu. Vì chỉ có một nên mới rầy rà. Bà Du cũng một mực đòi lấy, chẳng hiểu nhà bà ấy thế nào?”

Nhà bà Du ở đầu làng, có ba gian nhà rách nát, cửa ngõ chẳng có. Bà Trụ biết vậy, nhưng nói ra sợ chị Bảo so sánh, nên trả lời:

“Hai vợ chồng khỏe như voi, không chịu làm gì đến chết nhà cũng thế mà thôi. Tôi nghĩ, đi ở cho nhà con Xoè, hơn chục năm trời, ngày nào cũng thấy nó mở ra khóa vào cái tủ ấy. Lúc nào tôi cũng cầu sao cho ngày sau được cái tủ như vậy. Nay nhờ ơn Đảng lãnh đạo, đấu tranh thắng lợi mà tôi không được cái tủ ấy thật không vui lòng”.

Chị Bảo thủng thỉnh nói:

“Vẫn hay là bà (đi) ở nhà nó, ngày ngày trông thấy và ao ước cái tủ ấy. Kể bây giờ được thì tốt. Nhưng bà nghĩ lại xem: Cái tủ ấy là mồ hôi nước mắt của nông dân, còn đâu là của con Xoè? Nông dân đòi lại được ruộng đất, nhà cửa và các tài sản của bọn địa chủ cướp đoạt là do đoàn kết đấu tranh. Riêng từng người đấu tranh thì làm sao thắng? Nếu ai cũng nghĩ mình đi ở nhà địa chủ nào mình phải được chia của nhà địa chủ ấy thì còn nói gì là đoàn kết đấu tranh và nhường nhịn lẫn nhau nữa?”

... Tối hôm ấy bà Trụ bắn tin cho bà Du biết là bà đồng ý nhường cái tủ”.

Chúng tôi trích nguyên văn bài “Cái tủ đứng” đăng trên mặt tờ báo Nhân dân vì chúng tôi thấy bài diễn tả một hình ảnh trung thực của một khía cạnh quan trọng của Cải cách ruộng đất. Bài báo bộc lộ một yếu tố tâm lý rất thông thường của quần chúng nông thôn mà cũng là một yếu tố khiến họ ủng hộ cộng sản. Chỉ có cộng sản chủ trương lấy của nhà giầu chia cho nhà nghèo mới mang lại cho họ niềm hy vọng sẽ có ngay tức khắc những thứ họ từng mơ ước lâu ngày. Chỉ một cái tủ đứng cũ kỹ chẳng hạn cũng đủ làm cho họ say mê và xả thân tranh đấu cho cộng sản.

________________________________________
[1]Tên Phong có lẽ bị đi tù, hoặc xử tử rồi.
[2]album.
[3]Nguyễn Hồng Phong: Xã thôn Việt Nam, Hà Nội, 1959.
[4]Từ trước tới nay Bắc Việt có tất cả ba thứ tiền. Thời kỳ đầu là “Bạc Tài chính”. Từ 1950 trở đi là “Bạc Ngân hàng” mỗi đồng ăn 100 đồng Tài chính. Cách đây mấy năm, đơn vị chính thức là “Đồng Bạc nặng” mỗi đồng ăn 1000 đồng Ngân hàng. Tiền nói trên là tiền “Ngân hàng”.
[5]Tính thời gian cả hai chiến dịch, trong 2 năm liên tiếp.
[6]Đã nói ở Chương 6


Chương 16 - Sửa sai


Chương trình Cải cách ruộng đất vừa thực hiện (năm 1956) và ngay sau khi thiết lập chế độ vô sản chuyên chính ở nông thôn thì đột nhiên Đảng Lao động tuyên bố là đã phạm nhiều sai lầm mà, theo lời Đảng đã làm cho “uy tín của Đảng và đời sống của nhân dân bị tổn thương rất nặng nề”. Vì vậy nên Đảng phát động ngay một chiến dịch “Sửa sai” bắt đầu bằng việc “tự rút lui” của ông Trường Chinh, tổng bí thư Đảng và ông Hồ Viết Thắng, thứ trưởng phụ trách Cải cách ruộng đất.

Tạm thời làm phát ngôn viên cho Đảng, ông Võ Nguyên Giáp đọc trước Hội nghị thứ 10 của TW Đảng một bản kê khai những “sai lầm”, ông Võ Nguyên Giáp thú nhận 7 sai lầm chính sau (nguyên văn):


1. Coi nhẹ yêu cầu toàn diện của nhiệm vụ cách mạng, coi nhẹ yêu cầu mở rộng mặt trận chống phong kiến và mặt trận dân tộc thống nhất. Vì vậy mà trong khi thực hiện nhiệm vụ phản phong đã coi nhẹ, thậm chí có nơi cán bộ đã phủ nhận những thành tích của cuộc đấu tranh phản đế tách rời cải cách ruộng đất với kháng chiến và cách mạng, thậm chí có nơi làm cho đối lập nhau. [1]
2. Coi nhẹ đoàn kết với trung nông, không thực hiện chính sách liên hiệp phú nông, thậm chí đả kích phú nông, coi phú nông như địa chủ.
3. Đả kích tràn lan, không thi hành sách lược phân hoá, không chiếu cố gia đình địa chủ có công với cách mạng, gia đình địa chủ có con em đi bộ đội hoặc làm cán bộ, không chiếu cố địa chủ kháng chiến và phân biệt đối đãi con cái địa chủ.
4. Không chú trọng đề phòng lệch lạc, không nhấn mạnh phải thận trọng tránh xử trí oan những người ngay, do đó mà đi đến mở rộng diện đả kích, đánh địch tràn lan, dùng những biện pháp trấn áp một cách phổ biến.
5. Trong khi thực hiện cải cách ruộng đất ở nơi có nhiều đồng bào tôn giáo thì làm sai chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tín thờ cúng của nhân dân.
6. Trong khi thực hiện chính sách cải cách ruộng đất ở vùng thiểu số thì đả kích quá rộng vào từng lớp trên: không coi trọng, thậm chí xâm phạm đến phong tục tập quán của địa phương.
7. Trong công tác chỉnh đốn tổ chức (Đảng) thì không nắm vững tiêu chuẩn chính trị, mà lại phạm vào chủ nghĩa thành phần. Không chú trọng phương châm lấy giáo dục làm chính mà đơn thuần dùng biện pháp tổ chức: kỷ luật, xử trí, giải tán các tổ chức, thậm chí dùng phương pháp truy bức (tra tấn) để làm công tác chỉnh đốn...


(Nhân dân số 970, xuất bản ở Hà Nội ngày 31/10/1956)

Khi thấy bản thú nhận sai lầm kể trên và được tin Trường Chinh và Hồ Viết Thắng bị “hạ bệ”, nhiều quan sát viên ngoại quốc tin rằng quả có “sai lầm” và thế tất chính quyền Hà Nội sẽ thực tình sửa chữa. Có người quan niệm phong trào Cải cách ruộng đất của cộng sản đã hoàn toàn thất bại. Sự thực thì khác hẳn vì chiến dịch Sửa sai chỉ là một tấn tuồng diễn tiếp sau những tấn tuồng khác.

Sửa sai là một chiến dịch, một bộ phận của chương trình Cải cách ruộng đất. Như vậy có nghĩa là định tâm sửa sai đã có từ trước khi phát động phong trào Cải cách ruộng đất. Các độc giả chắc còn nhớ, ngay từ đầu, năm 1953, cộng sản đã phát động một chiến dịch gọi là: “Đấu tranh chính trị” (đã trình bày ở Chương 7) để dọn đường cho chiến dịch Cải cách ruộng đất, nghĩa là chuyển dần dần từ một trạng thái bình thường đến một trạng thái khủng bố. Bây giờ là lúc cộng sản làm ngược lại. Sau ba năm khủng khiếp, cộng sản muốn bình thường hóa tình hình trở lại. Vì vậy nên mới có chiến dịch Sửa sai. Tất nhiên là Đảng sẽ mất ít nhiều uy tín, nhưng Đảng cho rằng đấy là một việc không thể tránh được.

Hồi ông Mao và các lý thuyết gia Trung cộng vạch ra chiến thuật Cải cách ruộng đất họ đã cố tình khủng bố quá mức do cho rằng có khủng bố quá mức mới chắc chắn thành công. Họ dự tính sẽ làm cho quần chúng quên sự quá mức đó bằng một phong trào Sửa sai, bằng cớ là ngay từ năm 1926 Mao Trạch Đông đã viết: “Muốn chữa một tình trạng bất công thì phải vượt quá mức của sự công bằng”. [2] Chấp nhận ý kiến của ông Mao, ông Hồ giải thích về chính sách căn bản của Cải cách ruộng đất trong một khoá chỉnh huấn, như sau: “Nếu muốn uốn thẳng một cái que cong thì phải bẻ nó quá về phía bên kia và giữ như vậy một lúc lâu. Khi buông tay cái que sẽ từ từ thẳng trở lại”.

Cả ông Hồ lẫn ông Mao đều đoán trước thế nào dân chúng cũng phản đối Cải cách ruộng đất theo kiểu của hai ông, vì muốn đề phòng mọi phản ứng chống đối nên hai ông đã chủ trương khủng bố quá mức. Muốn hiểu tại sao hai ông lại chủ trương như vậy, chúng ta cần hiểu rõ mục đích tối hậu nhưng giấu kín của Cải cách ruộng đất.

Trước tiên, Cải cách ruộng đất không phải chỉ nhằm tịch thu ruộng đất của địa chủ để phân phát cho dân nghèo, vì nếu mục đích chỉ có vậy thì chính quyền cộng sản chỉ việc ký một sắc lệnh là xong. Trước Cải cách ruộng đất đã có rất nhiều địa chủ tình nguyện “hiến điền” nhưng chính phủ từ chối không nhận hoặc trong nhiều trường hợp đã nhận rồi lại hoàn lại, nói rằng chính phủ “không muốn một công dân nào bỗng dưng bị hao hụt lợi tức thường xuyên của mình”. Sự thực thì cộng sản muốn bắt địa chủ cứ ở thành phần địa chủ cho đến ngày “đền tội”. Cộng sản không cần và không muốn địa chủ hiến điền vì, toàn quyền trong tay, lúc nào cộng sản muốn tịch thu cũng được. Cải cách ruộng đất có những động cơ thầm kín như sau:
1. Tịch thu và phân chia ruộng đất chỉ là giai đoạn chuyển tiếp, mà tập thể hóa ruộng đất mới là mục đích tối hậu. Muốn bắt buộc toàn thể nông dân phải cam chịu số phận sống dưới chế độ tập thể, các lãnh tụ cộng sản thấy cần phải tiêu diệt tận gốc “tư tưởng tư hữu tài sản từ mấy ngàn năm đã chôn sâu trong tiềm thức của mọi người dù là bần cố nông”.

Muốn đạt tới kết quả họ áp dụng câu cách ngôn “sát nhất nhân, vạn nhân cụ”. Áp dụng vào Cải cách ruộng đất, câu cách ngôn trên có thể đổi thành “Giết một số địa chủ để không còn một ai muốn sở hữu ruộng đất”.

Chính vì vậy cộng sản ấn định cho mỗi xã một số tử hình nhất định, ngay cả ở những xã mà toàn thể ruộng đất là công điền. Quả nhiên mọi người mất hồn mất vía ngay tức khắc. Hồi ấy nhân dân miền Bắc đặt ngay câu phương ngôn, truyền khẩu từ người nọ sang người kia “Gạo chợ, nước sông, ốm nằm nhà thương, chết chôn nghĩa địa”. Như vậy có nghĩa là những ai khôn hồn thì từ nay tuyệt đối không nên có của tư hữu, vì có của tức là mang hoạ.
2. Đảng bắt nông dân phải đấu tố và chém giết địa chủ để làm bàn tay nông dân phải dính máu. Một khi tay đẫm máu thì không thể rửa sạch và dù muốn dù không chỉ còn một cách là đi với Đảng cho đến tận cùng. Vì không thể nào liên kết với chủ cũ để chống lại chủ mới, người nông dân đành phải chấp nhận số phận nào mà Đảng đã dành cho. Sau khi tàn sát một số người lên tới 5% dân số Bắc Việt, người nông dân có cảm giác tội lỗi. Cái cảm giác ấy được cộng sản đề cao là “Tình thân của anh chị em nông dân làm chủ lấy vận mệnh của mình”.
3. Về phương diện chính trị, Cải cách ruộng đất đánh dấu một bước ngoặt từ lập trường phản đế sang lập trường phản phong, hay nói một cách khác, từ kháng chiến chống thực dân Pháp sang chém giết địa chủ người Việt. Vì mục tiêu đấu tranh đột nhiên thay đổi nên Đảng thấy cần thiết phải thanh trừng tất cả các phần tử quốc gia trong hàng ngũ kháng chiến, ngay cả những đảng viên mà Đảng nghi ngờ không hoàn toàn chính thống. Đảng cho rằng một cuộc thanh trừng triệt để không thể nào thực hiện được bằng cách ủy thác cho cấp trên nhiệm vụ chọn lọc và khai trừ cấp dưới. Vì đầu óc bè phái hãy còn ăn sâu nên, nếu dùng phương pháp kể trên, sẽ có rất nhiều người lọt lưới. Theo nhận thức của Đảng thì thanh trừng phải thực hiện từ dưới lên trên, nghĩa là phải bắt đầu từ cấp xã “phóng tay”. Do bần cố nông trong xã thanh trừng “phản động”, vì chỉ có người cùng làng mới biết rõ thái độ chính trị của mỗi người trong làng, Đảng nói: “Nhân dân rất sáng suốt, và trong nhân dân, “chỉ có bần cố nông là đáng tin cậy hơn cả”. Lập luận này đưa thẳng tới chủ trương “phóng tay phát động quần chúng đấu tranh”. Đảng thừa biết rằng nếu phóng tay thì quần chúng sẽ đấu tố bừa bãi, nhưng suy đi tính lại, Đảng đã thà bừa bãi một chút mà “tiệt nọc” còn hơn thận trọng mà kết quả hời hợt. Theo luật sư Nguyễn Mạnh Tưởng thì nguyên tắc của Cải cách ruộng đất là “thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch”.
Đảng biết trước hễ “phóng tay” thì thế tất phải có “sai lầm”. Nhưng Đảng vẫn nhắm mắt làm ngơ để mặc cho sai lầm tiếp diễn. Hàng vạn người bị giết oan, bị tù đày, hoặc bị bao vây cho đến chết đói, mà Đảng chẳng hề giơ một ngón tay nhỏ cứu vớt lấy một người. Theo luật pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì người bị kết án tử hình có quyền ký đơn xin Hồ chủ tịch ân xá, nhưng thực tế, ông Hồ không hề ân xá lấy một người gọi là, ngay cả những đảng viên trung kiên trước khi bị bắn hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm!” Tháng 3 năm 1956, ông Hồ có ra lệnh tạm đình chỉ mọi vụ hành quyết, nhưng đấy là hậu quả xa xôi của phong trào “Hạ bệ Stalin phát xuất từ Moscou, nhân kỳ Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô. Những người may mắn thoát chết - vì bản án xử tử chưa kịp thi hành - và sau này được trả tự do không hề chịu ơn ông Hồ, mà một cách gián tiếp, họ đã chịu ơn Khrushchev.

Muốn thấy rõ cộng sản đã chủ tâm “đả kích tràn lan” chúng ta còn một cách là mang bản thú nhận sai lầm của Võ Nguyên Giáp đối chiếu với bản Báo cáo của Trường Chinh đã nói tới trong Chương 12 của cuốn sách này. Một điểm nổi bật là những điều mà Giáp gọi là “sai lầm” đều là những điểm then chốt Trường Chinh đã nêu lên và hứa sẽ tôn trọng trong khi thực hiện Cải cách ruộng đất. Sự thực thì Đảng đã hứa hẹn, nhưng Đảng “quên” không giữ lời hứa, cho đến khi “sai lầm” đã xảy ra rồi, Đảng mới nhận là “sơ suất”. Theo tỉ dụ các que của ông Hồ thì Trường Chinh chính cái tay uốn ngược que, và Giáp là cái tay buông cái que cho nó thẳng trở lại. Sửa sai tức là bình thường hóa lại đời sống, không khác buông tay để cho que đứng thẳng trở lại.

Biện pháp đầu tiên của Sửa sai là tha hết địa chủ và đảng viên ra khỏi nhà tù hoặc trại giam. Tổng số những người được tha chưa hề tiết lộ, nhưng theo lời ông Võ Nguyên Giáp, trong số người được tha có 12 đảng viên. Tất nhiên trong khi bị giam, đảng viên cộng sản là những người đau khổ nhất. Ông Ngô Đức Mậu (cháu nhà cách mệnh Ngô Đức Kế), một đảng viên cộng sản kỳ cựu đã từng sống nhiều năm trong ngục Lao Bảo hồi Pháp thuộc, đã tả nỗi đau khổ trong ngục thất cộng sản như sau:

“… Những lúc bị giam giữ trong buồng riêng cô quạnh, rét mướt, đau khổ, những anh em thường an ủi nhau: củng cố lòng tin để chịu đựng ngược đãi, củng cố lòng tin để sống… vì ở tù đế quốc và ở tù hiện nay (cộng sản) nó khác xa nhau. Ở tù đế quốc bị hành hạ bằng thể xác nhưng tinh thần lành mạnh được an ủi, khoan khoái… Còn ở đây (tù cộng sản) thì sao? Chúng tôi bị giày xéo cả thể chất lẫn tinh thần. Chung quanh chúng tôi, ai nấy đều cho chúng tôi là địch, là kẻ bán nước hại dân, thì bảo họ đồng tình với chúng tôi sao được…”

Cũng trong bài ấy Ngô Đức Mậu còn than vãn là bị chính các đồng chí cộng sản của ông tra tấn, không cho ông tự bào chữa:

“… Những việc mà một số anh em cán bộ ở Hà Tĩnh dựng đứng lên, hoặc lật ngược lại những thành tích đã qua của tôi (từ thời Đông Dương Cộng sản Đảng) để truy bức tôi suốt ngày đêm, để buộc tội phải nhận những việc mà tôi chưa hề làm, mà cũng chưa bao giờ nghĩ tới… Cuộc truy bức càng ngày càng nặng, nó vượt ra ngoài khuôn khổ của một cuộc đấu tranh về nguyên tắc. Tôi ỳ ra mãi cũng không được. Nhiều ý nghĩ khác (tự tử chẳng hạn) lại nảy nở ra và xoay quanh trong đầu óc tối như chong chóng”.

(Nhân dân, 30 tháng 10, 1956)

Đảng giải thích cho các tù nhân biết là chỉ vì sai lầm mà không may họ bị vào tù, và Đảng hứa không bao lâu nữa họ sẽ được trả lại tự do. Tuy nhiên trước khi được ra về, họ phải ở lại nhà tù một tháng để học lớp “sửa soạn ra về”. Dưới sự chỉ dẫn của một đại diện Đảng, họ phải học tập, nghiên cứu những vấn đề phức tạp của bản thú nhận sai lầm của ông Võ Nguyên Giáp, bài nói về thái độ tự phê bình của Đảng, chủ nghĩa Mác-xít không bao giờ sai và “thái độ đúng đắn đối với những người đã tố sai”. Đảng hứa sẽ hồi phục công quyền và hoàn lại tất cả tài sản mà Đảng đã tịch thu của họ. Đảng khuyên họ nên quên những nỗi đau khổ vừa qua, củng cố lại lòng tin nơi Đảng và tiếp tục phục vụ Đảng một cách trung thành như đã phục vụ từ trước. Điều cần nhất là tuyệt đối không được trả thù những người đã vu oan giá họa cho mình.

Các ủy ban xã được lệnh cử phái đoàn đến tận nhà tù đón rước những người bị giam và đưa họ về quê quán. Dĩ nhiên là họ vui mừng khôn xiết khi họ đặt chân tới làng cũ gặp lại vợ con. Tờ Nhân dân đã kể trường hợp của Tân, một trong số những người cùng cảnh ngộ.

“Gia đình đồng chí xưa nay là trung nông. Từ đời ông, đời cha, đến đời đồng chí (Tân) vẫn cày sâu, cuốc bẫm. Đồng chí tham gia cách mạng từ những ngày đầu khởi nghĩa. Năm 1947, xã đồng chí bị địch chiếm đóng cũng là năm đồng chí được rèn luyện, thử thách nhiều và được kết nạp vào Đảng. Làm bí thư chi bộ và chủ tịch xã, đồng chí đã lãnh đạo nhân dân anh dũng đánh giặc. Bao nhiêu lần xã bị địch càn quét đồng chí phải nằm hầm nhịn đói, có lần phải bật ra vùng du kích, nhưng rồi vẫn tìm cách trở về xây dựng lại cơ sở tiếp tục chiến đấu cho đến ngày kháng chiến thắng lợi. Sau ngày hòa bình lập lại, thi hành chỉ thị của cấp trên, đồng chí đã chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chống phong kiến (Cải cách ruộng đất). Nhưng chẳng những đồng chí không được tham gia cuộc đấu tranh ấy mà trái lại, đã bị quy là địa chủ cường hào gian ác phản động đầu sỏ và bị đánh đổ (đấu tố) một cách quyết liệt. Thật là đau xót! Mỗi lần nghĩ tới không sao nén nổi phẫn uất”.

Nhân dịp Sửa sai, Tân được tha về, và:

“Đồng chí (Tân) lẩm nhẩm tính: “Ngót tám tháng bị giam cầm, chờ duyệt án tử hình, hơn một tháng trả tự do”. Thấm thoát đã xa nhà chín tháng. Mai về gặp lại vợ con, họ hàng, làng xóm. Đồng chí hồi hộp nghĩ tới những phút sẽ được gần lại vợ, gần lại con, những hơi thở, những bàn tay ấm áp… Đồng chí chưa lên nhà ông Lễ (anh Tân) vội, lại rẽ vào gian bếp lụp xụp nơi ở của vợ con đồng chí sau ngày tất cả tài sản của gia đình đồng chí bị tịch thu. Đồng chí phải khom người mới bước được vào trong bếp. Bồ hóng chằng chịt trên nóc, trên vách. Một chõng ọp ẹp kê chật cả nửa bếp. Em gái đồng chí chạy vào, khóc lóc:

“Sung sướng chưa anh ơi! Trong khi anh đi tù, người ta bắt chị và các cháu phải sống chui sống rúc thế này!”

Đồng chí thấy đau lòng trước cảnh sống khổ cực của vợ con trong những ngày qua. Đồng chí còn trấn tĩnh, xua tay bảo em gái, mà chính mình cũng là nói với lòng mình:

“Khóc lóc, oán hận chẳng có ích gì mà chỉ gây cho mình thêm đau khổ”.

Rồi đồng chí đi ra thẳng lên nhà ông Lễ.

Nhà ông Lễ tối hôm ấy đông vui hơn cả ngày cưới anh Bái, con trai ông… Hết ấm nước này đến ấm nước khác, câu chuyện đi sâu vào tình cảm gia đình, họ mạc, xóm giềng.

Bà con nhắc lại những chuyện sai lầm trong Cải cách ruộng đất, những chuyện buộc lòng phải đấu, tố nhau, dứt tình dứt nghĩa. Lòng ai nấy xót xa. Không khí nhiều lúc trầm trầm lặng xuống”.

(Nhân dân, 14 tháng 11, 1956)

Sau khi tha địa chủ “oan” ra khỏi tù thì biện pháp thứ hai là hoàn lại những tài sản đã tịch thu của họ, nếu còn có để hoàn lại. Đồ đạc bàn ghế thì dĩ nhiên chẳng còn vì sau khi phân phát cho bần cố nông họ đã bán táng đi từ đời nào rồi. Những thức được trả lại phần nhiều chỉ là nhà cửa, vườn tược, nhưng tất cả đều điêu tàn vì những bần cố nông được thụ hưởng không đủ phương tiện chăm nom. Và như chúng tôi đã kể ở trên, rào giậu và vách gỗ đã bị rỡ làm củi đun, con trâu bò đã bị làm thịt mang ra chợ bán.

Nhưng mặc dầu của cải hoàn lại chẳng còn được là bao, những người được trả lại cũng hết sức hoan hỉ. Ý nghĩ sẽ được trở về nơi chôn rau cắt rốn và sống dưới mái nhà tổ tiên xây cất cũng đủ làm cho họ vui lòng. Chỉ có những bần cố nông được ở trong nhà của địa chủ trong mấy năm, bây giờ phải cuốn gói đi chỗ khác mới thật đau lòng.

Biện pháp thứ ba là trả lại vợ cho những người đã bị “tịch thu” mất vợ. Có trường hợp người vợ tự ý bỏ vì sợ bị “liên hệ”, hoặc vì hai bên thông gia đã “tố” nhau nên gây thù oán. Nhưng trường hợp thông thường là người vợ còn trẻ và duyên dáng, nên một đảng viên “mới” nào đó ép phải lấy hắn trong khi chồng phải đi tù. Một số đông những người phụ nữ bất hạnh này đã sống với chồng mới tới hai ba năm nên khi chồng cũ tha về thì đã có con với chồng mới, thành ra vấn đề hoàn lại cho chồng cũ là một vấn đề nan giải. Vấn đề này đã được giải quyết bằng một Thông tư của Bộ Tư pháp ban hành ngày 19 tháng 4 năm 1957. Vì bản Thông tư này quả là “vô tiền khoáng hậu” và nói lên sự nghiêm trọng của tình trạng lúc bấy giờ nên chúng tôi xin cứ nguyên văn lai cảo để cho các bạn đọc có dịp nhàn lãm.


Bộ Tư pháp

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Thông tư về việc giải quyết những vụ vợ chồng bỏ nhau trong giảm tô và cải cách ruộng đất

Gần đây trong giảm tô, cải cách ruộng đất có những việc vợ chồng bỏ nhau do những nguyên nhân chính sau đây:

Bản thân hoặc gia đình một bên lên thành phần, hoặc bị kích lên thành phần hay bị quy sai là phản động.

Có sự đấu tố giữa vợ chồng, đấu tố bà con gia đình của nhau.

Những trường hợp bỏ nhau vì liên quan, vì đấu tố v.v. xảy ra ở nhiều nơi đã phần nào làm thương tổn đến đoàn kết nông thôn. Vấn đề này là do sai lầm chung trong giảm tô và cải cách ruộng đất. Vì vậy, cần quan niệm rằng việc giải quyết loại việc này là một công tác nằm trong công tác sửa sai chung. Vì vậy, bộ đề ra chủ trương sau:
a. Đối với vợ chồng bỏ nhau đã có con hoặc chưa có con, nhưng vợ chưa lấy chồng khác, chồng chưa lấy vợ khác, thì phương châm là kiên trì giải quyết tư tưởng cho hai bên thông cảm nhau là do sai lầm chung mà vợ chồng bỏ nhau, vậy nên về đoàn tụ với nhau như cũ, nhất là khi hai bên đã có con còn bé.
b. Đối với những vợ chồng bỏ nhau mà một bên đã lấy người khác rồi có hai trường hợp:

Nếu vợ đã đi lấy chồng mới mà chưa có con, nay vợ muốn trở về với chồng cũ và chồng cũ muốn đoàn tụ thì cho đoàn tụ và giải quyết cho người chồng mới thông. Nếu người vợ một mực ở với chồng mới dù chưa có con với người này thì nên giải thích cho người chồng cũ thoả thuận ly hôn với người vợ [3] . Trường hợp người vợ đã có con với chồng cũ, nhất là khi đứa con còn bé thì cẩn thận trong việc cho ly hôn.

Trường hợp chồng đã lấy vợ mới, có con hay chưa có con, nay muốn về với vợ cũ nhưng vợ cũ không muốn trở lại thì cần cho ly dị; trường hợp vợ cũ còn muốn trở lại với chồng thì nên căn cứ vào tình cảm của ba người đối với nhau và tùy tập quán địa phương mà giải quyết cho ổn thỏa. [4]
c. Trường hợp hai bên đều lấy vợ lấy chồng khác rồi thì nên cho họ ly hôn để họ chính thức lập gia đình mới.
d. Trường hợp đa thê, nhân vì đấu tố mà vợ lẽ bỏ chồng thì nói chung nên giải quyết cho họ ly hôn, nhưng có trường hợp vì sinh kế, vì con cái hay vì tình cảm, người vợ lẽ muốn đoàn tụ thì giải quyết cho đoàn tụ.
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 1956

K.T Bộ trưởng Bộ tư pháp
Thứ trưởng Trần Công Tường

(Trích Hà Nội hằng ngày, ngày 16 tháng 06 năm 1957)


Chính quyền cộng sản không hề công bố con số những cặp vợ chồng bị chia rẽ vì Cải cách ruộng đất nhưng việc cần thiết phải giải quyết vấn đề bằng một Thông tư đặc biệt của Bộ Tư pháp cũng đủ cho ta thấy tầm quan trọng của vấn đề và ước đoán một con số khá lớn lao. Bản Thông tư không nói đến trường hợp những người vợ goá, vì chồng bị xử tử, và sau đó bị cán bộ ức hiếp phải lấy, cũng không nói tới trường hợp con gái địa chủ bị ép lấy bần cố nông, vì đối với Đảng, đấy chẳng phải là một sai lầm.

Một điều đáng chú ý là trong mấy năm liền, Đảng không hề chú ý tới sự đau khổ và nhục nhã mà những phụ nữ kể trên phải chịu đựng. Nó chứng tỏ thái độ thực sự của cộng sản đối với phụ nữ và vạch trần sự giả dối trong những lời tuyên bố đường mật của cộng sản về vấn đề phụ nữ. Y hệt ruộng đất, nhà cửa, đồ đạc, phụ nữ cũng chỉ là một thứ tài sản mà Đảng tự cho mình quyền phân phối theo ý muốn.

Các lãnh tụ Đảng yên trí rằng bấy nhiêu biện pháp phóng thích khỏi trại giam, hồi phục danh dự những đảng viên bị giết oan, trả lại tài sản và vợ bị tịch thu, là đủ xoa dịu lòng uất hận của nhân dân đối với Đảng và bình thường hoá lại đời sống. Đảng cũng tin tưởng ở thế lực của Đảng có thể ngăn chặn mọi cuộc chống đối và một phần khác Đảng tin rằng dân chúng bị khủng bố nên đã mất hết tinh thần, không bao giờ dám nổi loạn. Nhưng các lãnh tụ cộng sản không để ý tới mấy yếu tố khác, đã gây nên mấy cuộc khởi loạn sau này. Trở lại hình ảnh cái que tre, chúng ta có thể nói khi Đảng thả tay thì que tre bật ngay trở lại với một sức mạnh mà Đảng không dự tính đúng mức. Nông dân ở nhiều nơi và trí thức ở thủ đô nổi dậy chống lại chế độ.


Chương 17 - Chống đối chế độ - Nông dân khởi loạn


Lẽ dĩ nhiên là các “đảng viên mới” không lấy làm hài lòng lắm khi thấy các “đảng viên cũ” ra khỏi trại giam và được khôi phục công quyền và đảng tịch. Họ thấy họ bị “mất mặt” và uy quyền của họ sẽ bị tiêu tan. Nỗi lo âu của họ đã được cơ quan chính thức của đảng mô tả như sau:

“Hiện tượng phổ biến là trên tư tưởng các đồng chí (mới) đó ngại thấy đảng viên, cán bộ, đồng chí (cũ) bị xử trí oan được trả lại tự do về sẽ “vào bè” công kích đảng viên mới và cốt cán. Có đồng chí (mới) lo có những cuộc ẩu đả, trả thù… Có đồng chí (mới) lo không biết cách đối xử với các đồng chí (cũ) bị xử oan ra sao, ngượng ngùng vì đã tố cáo đồng chí (cũ) ấy, bây giờ niềm nở với nhau thế nào được… Do nhận thức lệch lạc trên đã dẫn đến một số hành động sai lầm như: Cuộc họp bàn đón rước các đồng chí (cũ) được trả tự do đã biến thành cuộc thảo luận để đối phó với các đồng chí (cũ) đó” .

(Nhân dân ngày 22 tháng 11 năm 1956)

Vì lo quá nên tại nhiều nơi “đảng viên mới” thấy giản tiện nhất là “thịt” các “đảng viên cũ” ngay khi họ mới trở về làng. Vụ giết người sau đây, xử tại toà án khu Ba chứng tỏ tình trạng nổi loạn kể trên.


“Giết người có vũ khí

Vụ này gây cho hội trưởng một không khí căng thẳng và rất thương tâm. Hình ảnh gia đình nạn nhân với một bà mẹ già 72 tuổi, người vợ trẻ mới đẻ được 3 ngày, 9 người con còn nhỏ và nạn nhân chết một cách ghê rợn lởn vởn trong trí óc những người dự phiên toà. Mười hai can phạm đều là những thanh niên khỏe mạnh từ 18 đến 24 tuổi.

Ông Vũ Văn Tiện người thôn Phú Nông, xã Lô Giang huyện Tiên Hưng, nguyên chủ tịch uỷ ban Hành chính xã Lô Giang. Trong thời gian cải cách ruộng đất ông Tiện bị quy nhầm là địa chủ gian ác. Khi Sửa sai bước 1, ông Tiện được xuống thành phần trung nông và ngày sau khi được trả tự do, ông Tiện bị giết chết. Vũ Văn Hiển tức Tiến 22 tuổi, chi uỷ viên kiêm chính trị viên xã đội đồng mưu với Vũ Văn Thung, Vũ Văn Đức công an phó, Vũ Văn Tư xóm đội, và cùng với Hồ, Xuyến, Soạn, Thiệp, Xế, Thất, Đán, Thư đều là quân dân du kích, đã giết chết ông Tiện.

Sau khi ông Tiện người được trả tự do, Hiền liền tập hợp mọi người tại nhà Thung định mưu giết. Hai lần họ đã bố trí sẵn sàng nhưng không gặp. 10 giờ đêm ngày 28/1/57, Hiến cấp tốc tập trung anh em du kích rồi chia nhau bố trí. Khi ông Tiện về qua bắn một phát súng trường. Ông Tiện ngã xấp xuống. Đoạn cả bốn xông ra chém, rồi Xuyến bắn luôn 6 phát súng tiểu liên nữa… Sau khi hành sự họ rất bình tĩnh. Hiển ra lệnh cho mọi người trở về chỗ bố trí cũ, nếu thân nhân ông Tiện ra sẽ giết luôn…”

(Thời mới, 14/03/1957)

Vụ “đảng viên mới” giết “đảng viên cũ” kể trên chỉ là một trong vô số vụ khác mà báo chí Hà Nội hồi đó đã nêu lên. Vụ này chứng tỏ một cách minh bạch rằng những bần cố nông, sau khi đã lên chức “đồng chí” không muốn rút bỏ uy quyền mà ba năm trước Đảng đã “phóng tay” trao cho. Sau nhiều vụ giết tróc, các đảng viên mới phải tìm cách tự vệ, và trong nhiều trường hợp cương quyết trả thù. Vì được phục hồi công quyền và đảng tịch và được dân làng có cảm tình, họ lùng bắt những kẻ đã tố oan cho họ và hễ trước kia đã tố cho họ tội ác gì thì bây giờ họ thi hành đúng tội ác ấy. Những kẻ trước kia bịa ra tội ác bây giờ được “hưởng” chính tội ác mình đã bịa ra. Trường hợp thông thường là nhét phân vào mồm những người tố điêu. Sở dĩ có chuyện bắt ăn phân là tại hồi đấu tố Đảng xúi giục bần cố nông khai rằng họ đã bị địa chủ nhét phân vào mồm. Nhiều người bị đánh chết giữa đám đông và một số khác bị rạch mồm, cắt lưỡi. Dân Việt Nam thường cho rằng những kẻ chuyên vu oan giá hoạ thì rạch mồm cắt lưỡi là hình phạt xứng đáng nhất. Trong các chùa chiền thường có tranh vẽ cảnh những người nói điêu trên trần gian chết xuống âm phủ bị quỷ sứ rạch mồm cắt lưỡi.

Tình trạng trả thù trả oán trầm trọng đến nỗi ngày 1 tháng 12 năm 1956 Bộ Tư pháp phải công bố một bản Thông tư đặc biệt kêu gọi đình chỉ mọi cuộc chém giết. Thông tư do Nguyễn Văn Hưởng, thứ trưởng Bộ Tư pháp ký. Trong bản Thông tư có một đoạn ai oán thiết tha như sau:

“Quyền lợi của nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân, quyền lợi thiết thân của nhân dân như các quyền tự do, dân chủ, v.v. đã bị xâm phạm, nhiều khi một cách nặng nề. Có nơi pháp luật đã không được tôn trọng, có nơi pháp luật bị chà đạp. Những hiện tượng đó đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân, đến uy tín của chính phủ…”

(Cứu quốc ngày 2 tháng 12 năm 1956)

Để tự bào chữa trước dư luận quần chúng, các “đảng viên mới” đổ hết mọi tội lỗi cho Đảng, nói chỉ tại chính sách của Đảng sai mà xảy ra tình trạng như vậy. Đoạn văn sau đây trích tờ Học tập, cơ quan lý luận và chính trị của Đảng Lao động tỏ rõ thái độ “oán đảng” kể trên:

“Một số đồng chí khác đứng trước sai lầm trong công tác cải cách ruộng đất hiện nay có thái độ oán trách các đồng chí đã chỉ đạo tiến hành công tác đó, thậm chí oán trách cả Đảng, rồi bất cứ ở rạp hát hay ở vườn hoa, trên tầu hoả hay trong hiệu cắt tóc v.v. cũng đem những điều sai lầm đó ra nói một cách vô trách nhiệm. Lại có đồng chí đem gán hết trách nhiệm về những sai lầm đó cho cấp trên. Có đồng chí trước đây đã tham gia công tác cải cách ruộng đất, làm đội trưởng hoặc đoàn, uỷ viên, thế mà khi kiểm thảo sai lầm trước nhân dân thì nói đó là cấp trên thúc ép, do cơ sở (cốt cán) phát hiện tình hình sai (vu khống), còn mình thì chỉ có khuyết điểm “biết sai mà không mạnh dạn đấu tranh”.

(Học tập số 10 tháng 10 năm 1957)

Một điều cần phải nhận rõ là: trong khi cố gắng vỗ về những “đảng viên cũ” bằng cách đền bù cho họ một vài thiệt hại tinh thần hoặc vật chất mà họ đã phải chịu đựng một cách oan uổng, Đảng vẫn cố tình che chở cho các “đảng viên mới”. Lý do là tại chỉ có đảng viên mới, mới thực sự thuộc thành phần vô sản. Đảng thấy cần thiết phải có một số “vô sản chính cống” để trang trí cho cái mà Đảng mệnh danh là “vô sản chuyên chính”. Lý do thứ hai là Đảng muốn có một số “thiên lôi chỉ đâu đánh đấy” để bảo vệ Đảng phòng khi có những phong trào chống Đảng do những phần tử khác gây nên.

Trong ba năm làm mưa làm gió trong xã, thôn, các “đảng viên mới” được mặc sức hà lạm nên dân chúng rất oán ghét. Vì họ thiếu học nên họ chỉ hành động theo những kích thích tự nhiên. Do đó Đảng cho rằng họ là những phần tử dễ chiều và đáng tin hơn những phần tử phi vô sản đã gia nhập Đảng với lý tưởng. Những “đảng viên cũ” đã giúp Đảng rất nhiều nhưng vì họ là những con người “lý tưởng” nên rất có thể mắc phải những “khuynh hướng sai lầm”. Còn bần cố nông thì trái lại không cần lý thuyết mà chỉ biết lợi cho bản thân. Ngày nào mà họ còn quyền lợi thì họ vẫn trung thành với Đảng. Giả thử họ có bất mãn họ cũng không thể tự động gây rối được. Vì vậy nên sau khi khôi phục đảng tịch cho các “đảng viên cũ”, hàng ngũ Đảng gồm 2 nhóm mà sở trường và sở đoản bù đắp cho nhau. Do đó Đảng thấy cần thiết phải bắt hai nhóm đố kỵ lẫn nhau phải chung sống hoà bình và hợp tác với nhau. Đấy cũng là một mục đích của chiến dịch Sửa sai. Trong khi thu phục những đảng viên cũ Đảng cũng ép họ phải công nhận các đảng viên mới là “đồng chí” trong cùng một đảng.

Tuy nhiên, sự thể không quá dễ dàng như vậy vì Đảng đã cố tình gây hận thù giữa hai bên. Mặc dầu Đảng cố gắng hàn gắn, nhưng hố chia rẽ giữa “mới” và “cũ” vẫn mỗi ngày một sâu thêm. Ở những nơi mà trước Cải cách ruộng đất phong trào lên cao bao nhiêu thì chính ở đấy sự đổ vỡ lại to bấy nhiêu. Đấy là trường hợp tỉnh Nghệ An, quê hương của ông Hồ Chí Minh và cái “nôi” của cách mạng. Theo cơ quan chính thức của Đảng thì tỉnh Nghệ An là tỉnh đã xảy ra nhiều rắc rối nhất:

“Tỉnh Nghệ An có cơ quan Đảng và quần chúng từ năm 1930. Trong cải cách ruộng đất đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, nhất là đả kích vào cơ sở Đảng làm cho cán bộ, đảng viên cũng bị xử trí oan… Trong công tác lãnh đạo, tỉnh uỷ Nghệ An cũng mắc một số khuyết điểm… Có xã bắt những người sai lầm trong cải cách ruộng đất đứng ra cho hội nghị vạch tội (đấu tố). Có xã để xảy ra đánh đập cốt cán trong hội nghị, hoặc đuổi cốt cán ra khỏi hội nghị”.

(Nhân dân ngày 21 tháng 11 năm 1956)

Các uỷ ban và chi bộ xã được thành lập lại, nhưng lần này đến phiên các đảng viên mới bị tống cổ ra ngoài. Bài báo kể trên có đưa ra những con số như sau về tỉnh Nghệ An.

Tổng số đảng viên được cất nhắc sau Cải cách ruộng đất: 1.839

Tổng số những người kể trên bị đuổi ra khỏi Đảng nhân dịp Sửa sai: 1.162 tức 53%

Tổng số đảng viên mới bị đuổi: 900 tức 76%

Sửa sai quả là một cuộc cách mạng thanh trừng những đảng viên mới ngày trước đã thanh trừng những đảng viên cũ để chiếm chỗ. Vì hai nhóm “mới” và “cũ” bất động đái thiên nên việc sinh hoạt Đảng ngưng hẳn lại. Báo Thời mới đã mô tả một cuộc họp đảng như sau:

“Hội nghị như có một cái gì đè nặng. Người ta bó gối ngồi yên. Mấy cô nữ thanh niên ngả đầu vào nhau coi bộ mệt mỏi lắm. Gian bên kia, anh Sử giơ cao con dao díp ra cắt móng tay, cạo lạo xạo. Chủ toạ giục phát biểu như kêu gào nằn nì, lẻ tẻ mới có vài anh thanh niên lên tiếng. Trong xó tối, mấy bóng đen nằm co ro ngủ khoèo từ bao giờ, tiếng ngáy đều đều chốc chốc lại rít lên như có điều gì giận dữ”.

(Thời mới ngày 9/5/1957)

Cuộc họp Đảng mà tờ Thời mới tả cảnh ở trên tất nhiên đã xảy ra trong một xã mà sự xung đột giữa hai nhóm đảng viên chưa đến nỗi dữ dội lắm vì cả hai phe dù thờ ơ lạnh lùng hãy còn nghe lời hiệu triệu của Đảng, đến dự buổi họp. Ở nhiều xã khác tình trạng căng thẳng bội phần và không tránh khỏi những vụ xung đột đổ máu. Tuy cả hai phải bắt buộc phải tụ họp chung để chào cờ “búa liềm” nhưng đôi bên đều coi nhau như thù nghịch. Trong một loạt bài nhan đề “Sau những ngày sóng gió” phóng viên Xuân Chi của báo Thời mới đã tả cảnh một buổi họp đảng như sau:

“Tặng (một đảng viên mới bị bọn “cũ” đánh vỡ đầu mới ở bệnh viện về) ngồi bó gối, dựa lưng vào một góc tường, trên đầu choàng một chiếc khăn vuông đen còn để lộ ra một mẩu băng trắng… Phía bên kia là Lân, Kiệt, Tốn và một số anh em đảng viên cũ… Mấy đồng chí phụ nữ ngồi xúm sụm riêng một góc, chuyện trò nhí nháu, chốc chốc lại bảo nhau cười rúc rích. Tuy nhiên, những tiếng rì rào bàn tán những hồi cười lạc lõng, không phá nổi bầu không khí ghẻ lạnh, nửa như ngờ vực, sượng sùng. Người ta bước chân vào phòng họp với bộ mặt ngơ ngác, đôi mắt lơ láo điểm qua một lượt, rồi ngập ngừng đắn đo kiếm một chỗ ngồi. Những người hôm qua còn coi nhau như thù địch, đối đáp nhau bằng búa đanh và gạch củ đậu, hôm nay diện đối diện, dưới lá cờ búa liềm. Có lẽ từ hồi giảm tô đến nay, lần này là lần đầu tiên họ mới sực nhớ ra là họ là “đồng chí”. Lần đầu tiên, họ cùng một nhịp giơ cánh tay trái lên chào lá cờ đảng, lá cờ mà mọi người đều muốn giành giật về phe mình, cho riêng mình”.

(Tập phóng sự Sau những ngày sóng gió đăng trong báo Thời mới xuất bản ở Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 19 tháng 04 năm 1957)

Việc Đảng không kiểm soát nổi các đảng viên đã mang lại hậu quả: chính sách của Đảng bị dân chúng gác bỏ và tại một vài nơi xảy ra những vụ khởi loạn. Nhiều nông dân tự ý mang ruộng đất được chia trong hồi Cải cách ruộng đất trả lại cho chủ cũ, không đếm xỉa gì đến đường lối chủ trương của Đảng. Tuy nhiên điểm quan trọng hơn cả là lòng căm thù mà bấy lâu Đảng đã cố gây nên giữa người giầu và người nghèo đột nhiên biến mất. Địa chủ và tá điền lại đề huề trở lại và tình nghĩa “người làng người nước”, một đặc điểm của xã hội Việt Nam bỗng dưng được khôi phục. Tờ Thời mới đã tả quang cảnh “vui vẻ cả làng” bằng một câu như sau:

“Anh bạn tôi được chứng kiến một đám tổ tôm, trong đó địa chủ và nông dân kề đùi kề vai vẻ rất là “thân ái”. Khi bốc được cây chi chi, địa chủ vỗ vào đùi nông dân và xít xa: “Chậm một ly ông cụ nữa thì phải biết!”. Đấy là một thôn khi cán bộ Sửa sai mới về. Mỗi bàn tổ tôm hay chắn, bất hoặc xóc đĩa, đều kèm theo những sinh mạng như lợn, gà, chó. Và không riêng những người trong cuộc thức thâu đêm. Những người bán hàng quà, món nhắm, cũng phải “phục vụ” rất khuya”.

(Bài “Chi Chi nhẩy” trong báo Thời mới ngày 12/5/1957)

Ở nhiều làng giầu và nghèo chén thù chén tạc với nhau, đinh ninh rằng tất cả mọi sai lầm sẽ được sửa chữa và rồi đây làng xóm sẽ được yên vui như xưa. Nhưng đấy không phải là ý muốn của Đảng. Đảng chủ trương sửa chữa một số sai lầm nhất định trong khi vẫn duy trì sự nghi kỵ và mối hận thù giữa các thành phần xã hội. Đồng thời Đảng cũng chủ trương bảo vệ uy quyền cho nhóm đảng viên mới.

Vì thấy Đảng tuyên bố “Sửa sai” mà không hề “sửa” những sai lầm căn bản, nên tại nhiều nơi, dân chúng thất vọng, trở nên công phẫn và nổi loạn thực sự. Có tin tại nhiều nơi (Bắc Ninh, Nam Định, v.v.) dân chúng nổi dậy, nhưng theo nguồn tin chính thức của Đảng thì “nhờ có sự khéo léo của quân đội nên đã tránh được nhiều vụ nghiêm trọng”. “Sự khéo léo của quân đội” có nghĩa là trong mỗi nhà nông dân có ba người lính đến ở nhờ. Nhưng tháng 11/1956, báo chí của Đảng cũng phải công nhận ở huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An có một cuộc võ trang khởi nghĩa. Cách đấy ít lâu, một số người trong nhóm khởi nghĩa thất bại trốn thoát bằng thuyền vào Nam đã kể lại cho báo chí biết rõ chi tiết của vụ Quỳnh Lưu. Họ nói chừng hai chục ngàn nông dân chỉ có gậy gộc đã chống chọi với một sư đoàn quân lính chính quy.

Sự thực thì ở dưới chế độ cộng sản không thể có một cuộc nổi loạn nào có cơ thành công được. Chỉ một chi tiết sau đây cũng đủ chứng tỏ điều đó. Sau Cải cách ruộng đất tất cả thợ rèn mà ngày trước vẫn lưu động từ làng nọ sang làng kia sửa chữa dụng cụ cho nông dân, bây giờ phải hợp thành hợp tác xã, định cư ở một nơi và sản xuất nông cụ dưới sự kiểm soát của mậu dịch. Chính phủ đã kiểm soát tất cả những sản phẩm do họ chế tạo, từ con dao nhíp trở đi. Trong hoàn cảnh ấy, họ không thể nào rèn được giáo mác cho bất cứ ai. Những người thợ rèn, hồi trước rèn giáo mác cho cộng sản, ngày nay lại bị ngăn cấm không cho rèn giáo mác cho kẻ khác hòng chống lại cộng sản. Vì thành thạo về vấn đề nổi loạn nên cộng sản cũng biết cách để đề phòng kẻ khác mưu toan lật đổ thế lực của mình.

________________________________________
[1]Nghĩa là trước kia càng chống Pháp hăng hái bao nhiêu thì bây giờ càng bị khủng bố bấy nhiêu.
[2]Mao Trạch Đông: “Báo cáo về cuộc nông dân bạo động tại Hồ Nam” trong Mao Trạch Đông tuyển tập, nhà xuất bản Lawrence and Wishart, Luân Đôn, 1954-56.
[3]Nên chú ý, Bộ Tư pháp còn tỏ ý thiên vị đối với chồng mới.
[4]Điều này có nghĩa là nếu không phải là công giáo thì cho phép lấy hai vợ.


Trí thức nổi loạn

Trong khi nông dân nổi dậy đánh nhau với cán bộ và quân đội nhân dân thì trí thức ở thành thị cũng không ngồi yên. Bằng bài vở, báo chí kịch liệt đả kích các lãnh tụ Đảng và một điều rất không ngờ, cuộc chống đối của trí thức đã gây nên nhiều ảnh hưởng sâu rộng hơn những cuộc bạo động của nông dân. Mặc dù thắng lợi của họ chỉ nhất thời, thành tích của họ không bao giờ phai nhạt trong trí óc dân chúng Việt Nam. Tất cả những trí thức tham dự cuộc chống đối này đều là những người đã từng tham gia kháng chiến và mới ở chiến khu về, trước đấy một hai năm. Không ai không biết những gian khổ họ đã can đảm chịu đựng trong chín năm kháng chiến. Sống lâu năm trong rừng sâu, không mấy người thoát khỏi bệnh sốt rét rừng, bệnh kiết lỵ và nhiều bệnh khác. Không có thuốc men, những chứng bệnh của họ đều trở thành kinh niên. Lương lậu không có, chỉ có “sinh hoạt phí” tương đương với vài chục ký gạo nuôi cả gia đình, họ chỉ sống bằng khoai sắn và măng tươi hái trong rừng chấm muối vừng. Phần lớn trí thức đều rằng ủng hộ chính quyền Việt Minh, tức là phản lại bản thân. Họ cảm thấy dưới chế độ Việt Minh, do cộng sản lãnh đạo, họ không thể có tương lai sáng sủa, nhất là sau khi cố vấn Trung Quốc “vĩ đại” được phái sang. Họ càng nhận rõ số phận của họ, sau Cải cách ruộng đất khi Đảng chỉ hoàn toàn tín nhiệm bần cố nông. Nhiều người đã tự ví mình là “hầu non của chế độ” ý nói Đảng chỉ ưa nhan sắc của mình rồi giở trò “chim chuột” mà không thực tình gắn bó. Ngôi “chính thất” Đảng đã để dành cho “công nông”, trí thức chỉ là “lẽ mọn”. Sự đau lòng của “kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng” đã được luật sư Nguyễn Mạnh Tường diễn tả như sau:

Các anh em trí thức kháng chiến thường phàn nàn rằng đảng thiếu tín nhiệm họ. Họ đau khổ mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua nhiều thử thách, chịu đựng bao nhiêu hy sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, đảng vẫn chưa tin ở họ. Nào họ có yêu sách gì quá đáng đâu? Họ có đòi làm bộ trưởng hay đại sứ đâu? Không, đại đa số các anh em trí thức nói chung không mơ ước các địa vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường cho các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ tha thiết đòi hỏi được mang khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do dân tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thức mà thôi.

Cụ Phan Khôi, một nhà văn lão thành đã diễn tả tâm sự của người trí thức bằng một thể khác. Cụ bày ra cách vừa uống cà phê vừa nhai kẹo bột (trong chiến khu không có đường trắng) và cụ giải thích tại sao lại phải vừa uống vừa nhai như vậy. Cụ nói: “Cái ngọt của kẹo tượng trưng cho lòng yêu nước. Nó đánh tan cái đắng của cà phê mà chúng ta có thể ví với cái lãnh đạo của Đảng. Như vậy, chúng ta có thể hưởng ứng được cái thơm của cà phê ví như cái danh dự của người trí thức.”

Trong vô số những khổ cực mà người tri thức phải chịu đựng, có một thứ khó chịu đựng nhất là thái độ hống hách của đảng viên. Một thi sĩ vô danh đã tả thái độ đó như sau:


Ông “vỗ ngực”

Học thuật văn chương chửa sạch nghề,
Tập toè lên lớp cũng khen chê.
Giáo điều khó nuốt lên thô bạo,
Tình cảm không tiếu kéo nặng nề.
Tình cảm khô khan như củi gộc,
Phê bình nồng nặc tựa cơm khê.
Anh em vặn lại cùng kỳ lý,
Vỗ ngực, ông giơ đảng chực loè

(Báo Văn số 24 xuất bản ở Hà Nội ngày 10–10-1957)

Thái độ ức hiếp tinh thần kể trên, cùng nhiều thể thức ức hiếp khác gây nên một cảm giác khiếp đảm trong tâm hồn người tri thức. Nhà văn Trần Lê Văn (cháu cụ Tú Xương) đã diễn tả cơn “ác mộng” của ông như sau, trong một bài nhan đề “Bức thư gửi một người bạn cũ” (một cán bộ cộng sản cùng làm việc trong cơ quan):

“... Có đêm tôi mê thấy hai cánh tay gầy guộc của anh, móng nhọn, nắm cổ tôi lôi xuống hầm tối om, đậy nắp lại. Có hôm anh lại hoá ra con quạ đen quặp tôi như con đại bàng quắp nàng công chúa trong chuyện cổ tích. Tôi thường kêu ú ớ, hoặc nghiến răng trong những giấc ngủ mê kinh hãi đó”.

(Trần Lê Văn, trong “Bức thư gửi một người bạn cũ”, Giai phẩm mùa Thu tập 1, tháng 10, 1956)

Một lý do thứ hai khiến trí thức Bắc Việt nổi dậy chống lại chế độ là sự sa đoạ của họ cả về tinh thần lẫn vật chất. Đoạn văn sau đây, trích trong bản Đề án của thi sĩ Hoàng Huế gửi Đại hội văn nghệ toàn quốc, năm 1956, đã nói lên tình hình khốn khổ về sinh hoạt vật chất của đa số văn nghệ sĩ ở chiến khu trở về Hà Nội:

“Ai cũng biết rằng đời sống của chúng ta thiếu thốn quá. Đấy là một sự thật buồn bã vẫn hàng ngày đập vào mắt chúng ta làm cho những kẻ đơn giản nhất cũng phải suy nghĩ.

Chúng ta không thắc mắc về cảnh sống trong kháng chiến. Nhưng trở về Hà Nội, giữa những phố xá đầy nhung lụa (hồi mới tiếp thu), tủ kính và ánh đèn xanh đỏ có lẽ chưa bao giờ người nghệ sĩ cảm thấy cay đắng như lúc này. Cần phải nói thẳng rằng ở một toà soạn báo Văn Nghệ, trong số 8 biên tập viên có vợ thì 6 người đã thất nghiệp hay bán thất nghiệp. Những trang giấy trắng đáng lẽ chi dùng để chép thơ cũng đã bao lần biến thành đơn xin việc. Những lá đơn ấy gửi đi rồi im lặng không nghe một tiếng trả lời.

Sự thật đã có những nhà văn viết đêm, không có một tách cà phê để uống. Đã có những thi sĩ không làm thế nào mà mua được dăm điếu thuốc lá trong cơn nghiện, và đã có một kịch sĩ bán chiếc đồng hồ đeo tay của mình để bồi dưỡng cho viết xong cuốn sách, nhưng in ra không đủ tiền để chuộc chiếc đồng hồ.

Hữu Loan có thể nói cho chúng ta biết tình cảnh của anh. Nằm trong bóng tối nhỏ ở ngoại ô Hà Nội khi không có tiếng vợ kêu con khóc, Hữu Loan chỉ mơ ước một ngọn đèn dầu để thức mà viết. Văn Ký cũng có thể nói cho chúng ta biết tình cảnh của anh. Buổi sớm mai không có củ khoai luộc cho con ăn, nghe tiếng con khóc mà đứt ruột”.

(Giai phẩm mùa Thu tập 2, tháng 10, 1956)

Nỗi khổ cực càng khó chịu đựng hơn khi, đồng thời, có một thiểu số giữ chức “cán bộ văn nghệ” ngang nhiên sống một cuộc đời xa hoa, phè phỡn. Cũng trong bản Đề án ấy, thi sĩ Hoàng Huế viết họ trịnh trọng thắt cà vạt đỏ, đi giầy da vàng, đọc đít cua và nhồm nhoàm ăn tiệc, rồi xách valy bay đó bay đây, trên mây trên gió.

Đời sống vương giả mà thi sĩ Hoàng Huế nói đến trong bản đề án của ông đã được Nguyễn Tuân, một nhà văn hiện giữ chức “cai nghiện” thú nhận sau khi đi dự Hội nghị Hoà bình thế giới ở Helsinki thủ đô Phần Lan về. Nguyễn Tuân khoe khoang như sau:

“Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thãi bổ béo; nghi thức lúc ăn thực là trang trọng: đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại”.

(Trích bài “Phở” của Nguyễn Tuân trong báo Văn số 1, ngày 10-5-1957)

Sự khác biệt giữa hai nhóm “cu li văn nghệ” và “cai văn nghệ” cả về phương diện chính trị lẫn đời sống vật chất đã gây nên nhiều mâu thuẫn đối kháng (theo đúng lý thuyết của Mác) không phải không đối kháng như Mao Trạch Đông đã thuyết trong tập “Dân chủ mới” của ông. Nổi loạn để chống lại tình trạng bất công như vậy chỉ là một vấn đề thời gian, và nó đã xảy ra nhân dịp Nikita Khrushchev phát động phong trào hạ bệ Stanin tại Moscou năm 1956. Bài diễn văn tố cáo tội ác của Stalin gây nên những phản ứng liên tiếp bắt đầu tràn tới Việt Nam một tháng sau.

Nhà xuất bản Minh Đức, trước kia vẫn xuất bản những sách báo trí thức của cộng sản ở chiến khu, phát hành ngay tập Giai Phẩm, trong đó có bài thơ nhằm đả kích ông Hồ Chí Minh, không trực tiếp đả động đến ông Hồ, mà chỉ nói vớ vẩn về cái bình vôi, Lê Đạt, tác giả bài thơ, viết như sau:

Nhưng người sống lâu trăm tuổi,
Y như một cái bình vôi.
Càng sống càng tồi,
Càng sống càng bé lại.

Sự thực thì vôi đóng dần, nên ruột bình vôi càng bé lại, mỗi cái bình vôi cũng dùng được hàng tháng.

Sợ mấy câu thơ vớ vẩn của Lê Đạt không được mấy người để ý và tìm hiểu thâm ý của tác giả, cụ Phan Khôi bèn viết tiếp một nhan đề “Ông bình vôi” đăng trong Giai phẩm mùa thu tập 1 để cắt nghĩa rõ hơn. Cụ giải thích tại sao bình vôi cứ đặc ruột dần dần, tại sao dân chúng lại gọi bằng “ông”. Cụ nói: “Người Việt Nam, về sau thế nào chưa biết, chứ về trước, hễ vật gì làm hại được hoặc lớn hoặc nhỏ, vật gì sống lâu to xác thì gọi bằng “ông” để tỏ lòng tôn kính sùng bái” và cụ Phan kết luận:

“Tóm lại, cái bình vôi, vì nó sống lâu ngày, lòng nó đặc cứng, miệng nó bịt lại, ngồi cú rũ trên tràng hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng “ông”.

Cụ Phan Khôi có ý giải thích cho độc giả biết rằng mấy câu thơ của Lê Đạt nhằm đả kích tinh thần “sùng bái cá nhân”, và nhiều người hiểu ngay rằng Lê Đạt và cụ Phan mượn “ông bình vôi” để mà chỉ “Cụ Hồ”, vì như mọi người trông thấy, ông Hồ đã già, và trở về già, ông không còn ái quốc như hồi còn trẻ. Lòng yêu nước của ông cứ mỗi ngày “bé lại”. Ngày xưa ông tự xưng là Nguyễn Ái Quốc mà ngày nay ông chỉ lo phục vụ các “ nước đàn anh”, không nghĩ gì đến đồng bào nữa.

Đảng cũng hiểu thâm ý của bài thơ nên tịch thu tập Giai phẩm và kiếm cớ bỏ tù một nhà văn trong nhóm, thi sĩ Trần Dần. Hồi ấy (tháng 3-1956) các lãnh tụ Bắc Việt ngần ngại không dám hưởng ứng phong trào hạ vệ sĩ Stalin phát xuất từ Moscou. Lý do là tại chiến dịch Cải cách ruộng đất đang dở dang, nên không dám nới tay trước khi hoàn thành chiến dịch. Đảng thấy cần thiết phải tiếp tục duy trì chính sách khủng bố trong ít tháng nữa. Vì vậy nên mãi đến tháng Tám năm ấy báo chí của Đảng mới chính thức đề cập đến vấn đề “chống sùng bái cá nhân”. Nhưng trước đấy, công nhân Ba Lan đã nổi loạn ở Pozna (28 tháng 6, 1956) và Mao Trạch Đông đã phát động phong trào “Trăm hoa đua nở”. Hai việc sau đây đã khiến tình hình Bắc Việt thêm căng thẳng bội phần. Nên chi, khi Đảng Lao động phát động chiến dịch Sửa sai, năm tháng sau khi Khrushchev đã hạ bệ Stalin giới trí thức Bắc Việt đã căm phẫn đến cực điểm và sẵn sàng mở rộng cuộc tổng tấn công chống lại chế độ.

Giai phẩm mùa Thu tái bản, và trong số ra ngày 29 tháng 8, 1956 đăng một bài thơ của Hữu Loan nhan đề “Cũng những thằng nịnh hót” kết thúc bằng mấy câu như sau:

Những người đã đánh bại xâm lăng,
Đỏ bừng mặt vì những tên quốc xỉ
Ngay giữa thời nô lệ,
Là người, chúng ta
không ai biết
cúi đầu.

Tiếng gọi của Hữu Loan được nhiều người đáp lại. Lập tức tất cả các văn nghệ sĩ có tài, cả già lẫn trẻ, cả đảng viên lẫn “quần chúng” tham gia cuộc đấu tranh. Một tuần sau tờ Nhân văn ra đời làm cơ quan phát ngôn cho giới độc lập. Điều đáng chú ý là chủ bút tờ báo lại là Nguyễn Hữu Đang một đảng viên làm bộ trưởng Bộ Văn hoá hồi Việt Minh mới cướp chính quyền. Những người viết bài đả kích hăng nhất cũng lại là những văn sĩ trẻ tuổi có chân trong Đảng. Tuy nhiên, kiện tướng trong cuộc đấu tranh vẫn là cụ Phan Khôi, một nhà văn lão thành hồi ấy đã ngoài bẩy mươi. Là cháu ngoại cụ Hoàng Diệu, ông “Tú Khôi” đã tham gia phong trào Văn thân năm 1907. Tới năm 1957 Phan Khôi là nhà nho có danh tiếng còn sống sót, vì trong chiến dịch Cải cách ruộng đất hầu hết các nhà nho ở Bắc Việt đã bị quy là địa chủ và thủ tiêu. Có thể nói trong phong trào “Trăm hoa đua nở”, cụ Phan đại diện cho cả một thế hệ, cho hệ thống tư tưởng Nho giáo, đơn thương độc mã chống chọi với ý thức hệ Mác-xít và chế độ cộng sản.

Bốn mươi năm trong nghề viết báo, cụ Phan đã nổi tiếng về bút chiến. Bắt đầu, cụ dùng lời văn đanh thép của cụ đả kích “lãnh đạo văn nghệ” và cùng nhiều cây bút trẻ, tố cáo Đảng là bè phái, tham ô, áp bức văn nghệ, thủ tiêu tự do của văn nghệ sĩ, “cả vú lấp miệng em”, v.v. Họ cũng nghi ngờ sự thành thật của giới lãnh đạo và mang cả giáo điều Mác-xít ra chế nhạo. Sinh viên Hà Nội cũng tham gia đấu tranh. Trong tập Đất mới họ xuất bản, họ tố cáo Đảng độc quyền các nữ sinh tiểu tư sản. Nhóm văn nghệ sĩ chống đối sử dụng mọi thể văn để đấu tranh, thơ, truyện ngắn, kịch, truyện giả tưởng và xã luận. Cuối cùng, ông Nguyễn Mạnh Tường, đại diện cho trí thức, đọc trước Hội nghị Mặt trận tổ quốc họp tại Hà Nội ngày 30 tháng 10, 1956, một bài diễn văn kịch liệt lên án toàn thể chế độ.

Nhờ những văn kiện này mà thế giới bên ngoài hiểu rõ nội tình cộng sản Bắc Việt. Đấy cũng là những tác phẩm xứng đáng với danh từ “Trăm hoa”. So với những “đoá hoa” khác đồng thời cũng nở ở các nước cộng sản khác vườn hoa Việt Nam có phần tươi thắm hơn nhiều. Sở dĩ các văn nghệ sĩ Việt Nam đã đạt tới một trình độ nghệ thuật cao, có lẽ là tại họ đã hấp thụ được hai nền văn chương phong phú của Tàu và Pháp, trong khi vẫn giữ được tinh thần hài hước, dí dỏm, một đặc tính của văn chương Việt. Một mặt khác vì đã học tập lý thuyết trong suốt mười năm và thường xuyên thảo luận chính trị nên họ sẵn có những lý luận sắc bén để tranh biện với phe “bênh đảng”. Trương Tửu là một trường hợp đặc biệt. Ông đả kích chính sách cộng sản trong một loại bài đăng trong Tạp chí Văn học, trong đó ông trích rất nhiều lời của Mác và Lênin, nhưng ông không chú thích là trích ở tài liệu, tác phẩm nào. Vì không có chú thích các chuyên viên của Đảng lao động cũng không biết Trương Tửu đã trích ở đâu, thực hay bịa, nên không dám tranh luận. Sau cùng Đảng phải dịch tất cả loạt bài của Trương Tửu sang tiếng Nga rồi gửi sang Moscou nhờ tra cứu và thảo bài trả lời. Mãi ba tháng sau, có bài từ Nga gửi sang, Đảng Lao động mới trả lời Trương Tửu.

Trong phạm vi cuốn sách nhỏ này, chúng tôi rất tiếc không thể trình bày tất cả các tác phẩm của giới văn nghệ Bắc Việt trong phong trào Trăm hoa, nhưng chúng tôi xin nhắc bạn đọc là phần lớn những tác phẩm này đã được in trong cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc xuất bản ở Sài Gòn năm 1959. Vì sách đã xuất bản lâu ngày và hiện nay khó kiếm, chúng tôi xin giới thiệu qua loa một vài tác phẩm có giá trị nhất.

1. “Những người khổng lồ” của Trần Duy, một truyện thần thoại do tác giả sáng tác kể chuyện Ngọc Hoàng sai nặn một lũ khổng lồ đưa xuống hạ giới giúp nhân loại, nhưng vì thiếu vật liệu nên vị thiên thần phụ trách không nặn quả tim cho lũ người này. Vì thiếu tim, đoàn khổng lồ xuống hạ giới giúp người thì ít mà giày xéo lên người thì nhiều, gây tang tóc khắp mọi nơi, còn nhiều hơn ma quỷ. Tác giả mượn câu chuyện để tố cáo việc cán bộ cộng sản sát hại vô vàn lương dân trong chiến dịch Cải cách ruộng đất vừa qua. Trong truyện, Ngọc Hoàng tức là Các Mác và Những người khổng lồ tức là đảng viên Đảng Lao động (Trần Duy, Giai phẩm mùa Thu tập 2, tháng 10, 1956).
2. “Thi sĩ máy” của Như Mai. Theo kiểu George Orwell trong cuốn 1984, tác giả mường tượng và tả một khía cạnh của xã hội cộng sản tương lai. Tác giả kể truyện, vì muốn thay thế các thi sĩ khó răn khó bảo, cộng sản chế tạo một chiếc máy, hễ bấm nút, có thể sản xuất ngay được 8.000 câu thơ trong một giây. Bài thơ nào cũng, đại để bắt đầu bằng “Thời đại tươi vui đẹp nắng vàng”, rồi đến “Rập rờn cờ đỏ trống khua vang” và kết thúc: “Bao tay lao động xây tươi đẹp phấn khởi nông trường tiên tiến hăng!” (Như Mai, Nhân văn số 5, Hà Nội, 30 tháng 11, 1956).
3. “Tôi tìm em”, thơ của Tạ Hữu Thiện. Nhà thơ muốn lấy vợ nhưng sau khi điểm các cô gái thuộc mọi thành phần, tỏ ý tiếc không thể lấy cô nào được vì tất cả đều không còn biết yêu, biết ghét… (vì ảnh hưởng của giáo lý Mác-xít) (Tạ Hữu Thiện, Trăm hoa, Hà Nội, 6 tháng 1, 1957).
4. “Con ngựa già của Chúa Trịnh”, truyện ngắn của Phùng Cung. Chuyện một con ngựa đua bị đưa vào phủ chúa kéo xe cho bà chúa, lấy làm hãnh diện với đồng loại, nhưng vì được ăn nhiều mà thiếu luyện tập nên khi dự thi, bị thua cuộc và tức đứt ruột chết. Tác giả mượn câu chuyện để mỉa mai mấy ông “cán bộ văn nghệ”, ăn trên ngồi chốc, lâu ngày không có sáng tác nên trở thành “đồ bỏ”, mất hết tài năng (Phùng Cung, Nhân văn số 4, Hà Nội, 5 tháng 11, 1956).

Trong ba tháng tương đối có tự do ngôn luận, cộng sản bị đả kích theo đúng kiểu, hai trăm năm trước, Voltaire đả kích giáo hội La Mã. Trong thời kỳ đầu, chính quyền cộng sản lúng túng, do dự, không biết nên đàn áp hay nới tay, vì họ hiểu rằng nếu nới tay làm ngơ thì chẳng bao lâu toàn thể chế độ sẽ bị sụp đổ, nhưng nếu thẳng tay đàn áp thì lại sợ trái tinh thần Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhưng sau Khrushchev thẳng tay đàn áp cuộc nổi loạn ở Hungari tháng 10, 1956, các lãnh tụ Bắc Việt mới vững tâm trở lại, và thấy rõ đường đi: họ thẳng tay đàn áp cuộc nông dân bạo động ở Quỳnh Lưu và cuộc trí thức nổi loạn ở Hà Nội. Những cuộc công nhân chống đối cũng chung một số phận.

Cuộc chiến đấu giữa Đảng và phe đối lập có thể chia làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn lâu chừng một tháng. Trong giai đoạn đầu, phe đối lập chỉ đả kích “những thằng nịnh hót”, những “cán bộ văn nghệ”, tố cáo những tệ hại như bè phái, tham nhũng và nhiều thói hư tật xấu khác của chế độ. Trong thời kỳ này Đảng làm ngơ, không khủng bố. Trái lại, một vài tờ báo của Đảng cũng hòa nhịp với phe đối lập tố cáo một vài sai lầm, nhưng đều đổ lỗi cho cán bộ và công chức cấp dưới.

Sang giai đoạn thứ nhì, phe đối lập đả kích một số lãnh tụ. Lần này Đảng chống trả bằng một loạt bài do một số trí thức thân Đảng sản xuất, nhưng lẽ dĩ nhiên, họ lý luận một cách yếu ớt, không thuyết phục được một ai. Một giáo sư đại học, ông Hoàng Xuân Nhị, viết một bài bênh vực lập trường của Đảng, dựa vào quan điểm của Lê-nin về văn nghệ, nhưng giáo sư Hoàng Xuân Nhị bị chính ngay một học trò của ông, tên là Bùi Quang Đoài, làm cho đại bại. Bùi Quang Đoài lật ngược tất cả những luận điệu của ông Nhị và cũng trích dẫn Lê-nin để chứng minh rằng “tự do sáng kiến và tự do tư tưởng”, theo ông thủy tổ của chủ nghĩa cộng sản, “tuyệt đối cần thiết phải được bảo đảm”. Sau đó Bùi Quang Đoài phê bình ông Nhị: “…một là ông Nhị không tiêu hoá được tài liệu (của Lê-nin) hai là ông Nhị đã lợi dụng tài liệu một cách xuyên tạc. Nó không đúng với tinh thần trung thực của người trí thức… Tôi xin đề nghị với ông Nhị một điều: Cố gắng nghiên cứu, suy nghĩ, để giữ bản chất trung trực của người trí thức”. [1] Hoàng Xuân Nhị im bặt và Đảng bỏ cuộc, vì các cán bộ Đảng không đủ sức tiếp tục cuộc bút chiến.

Sang giai đoạn thứ ba, phe đối lập đả kích toàn bộ chính sách của Đảng, nhưng Đảng dùng thủ đoạn để khủng bố ngấm ngầm. Đảng ra lệnh không bán giấy cho mấy tờ báo đối lập, phái công an cảnh sát đi doạ nạt các hiệu sách bán báo đối lập và sau cùng ra lệnh cho công nhân nhà in đình công không in báo Nhân văn. Nhưng trong khoảng thời gian ba tháng, sự phẫn uất của nhân dân đã lên tới cao độ. Những người Nam tập kết ra Bắc phá bốt cảnh sát Cầu Gỗ và sinh viên miền Nam tập trung ở làng Mộc nổi loạn, rào đường từ Hà Nội đi Hà Đông. Khi tờ Nhân văn số 6 sắp xuất bản, trong đó có bài kêu gọi nhân dân xuống đường biểu tình chống lại chế độ, Đảng ra lệnh đóng cửa tờ báo và bắt mấy người cầm đầu. Phe đối lập bị bưng mồm bịt miệng, và những người “đầu sỏ” bị quy là Việt gian phá hoại. Đảng tổ chức ngay một chiến dịch “Cải tạo tư tưởng” và tiếp theo là một phong trào “Học tập lao động”.

Trên nguyên tắc thì tất cả trí thức, bất luận là chống Đảng hay thân Đảng đều phải học tập lao động, hoặc ở xưởng máy, hoặc ở đồng ruộng. Nhưng thực tế thì những trí thức thân Đảng được gửi tới mấy xưởng máy ở Hà Nội, Nam Định, hoặc Hải phòng, tiếp tục hưởng đầy đủ tiện nghi. Phe trí thức đối lập thì trái lại bị đưa lên miền thượng du, lam sơn chướng khí học tập lao động dưới sự chỉ bảo và kiểm soát của cán bộ dân tộc thiểu số. Kết quả là phần đông những trí thức đã sống tám chín năm trong rừng để tham gia kháng chiến chống Pháp, lần này, chỉ cách có hai năm, lại trở về chốn cũ. Có một điểm khác là trong thời gian kháng chiến, họ được dân địa phương quý trọng và giúp đỡ, còn lần này trái lại họ bị coi là một thứ tù chính trị. Hai năm trước, họ là chiến sĩ cách mạng. Bây giờ họ là Việt gian phản động. Dân thiểu số miền Việt Bắc đã theo Việt Minh từ ngày chống Nhật. Họ đã bị cộng sản tuyên truyền liên tiếp trong nhiều năm, và vì chân thật ngây thơ, nên họ dễ nghe theo luận điệu tuyên truyền hơn dân chúng miền xuôi. (Điều đáng chú ý là đội vệ sĩ bảo vệ ông Hồ gồm toàn lính người Mán). Đưa trí thức đối lập lên mạn ngược, Đảng yên trí về hai điểm. Một là họ không trốn và hai là họ không hy vọng tuyên truyền dân địa phương theo họ chống Đảng, vì phần lớn dân chúng miền này không nói tiếng Việt.

Một người trong bọn, thi sĩ Yến Lan gửi thư về báo Văn học, trong thư có một đoạn như sau:

“… Lúc mới về, hỏi ra tình hình sinh hoạt, thấy thưa người lớn, vắng trẻ con (ở đây đẻ nhiều nhưng nuôi được ít), nhiều người chân phồng ra như chân voi…”.

(Báo Văn học số 9, ngày 15-8-1958)

Trong một bức thư khác cũng gửi cho báo Văn học, Hoàng Chương một cán bộ văn công (công tác văn nghệ) khu V tập kết ra Bắc tả cảnh “cưỡng bách lao động” như sau:

“… Từ nhà đến Đồng Cống (nơi làm việc) xa chừng ba cây số. Chúng tôi dậy thật sớm tranh thủ gánh phân để tránh bớt nắng mưa. Tôi nhớ năm nào tiếp tế bộ đội ở chiến trường, gánh lúa bốn mươi cân leo dốc, nhờ vui và thích mau gặp bộ đội nên quên mệt [2] . Cô Thu, người Hà Nội trước chưa quen gánh, hôm nay cũng cố được hai mươi cân. Nhìn Hùng cởi trần gánh thoăn thoắt ai biết đó là một sinh viên Hà Nội…”

(Cùng số Văn học)

Nhiều người trong nhóm trí thức đối lập không thấy trở về Hà Nội và cũng không có tin tức gì hết. Một số ít được trở về với gia đình, nhưng phải là công tác khác, không được dạy học và sáng tác văn nghệ. Từ đấy về sau, Đảng Lao động chỉnh đốn lại Hội Văn nghệ liên tiếp đến mấy lần, để đạt tới tình trạng cuối cùng là những báo chí của Đảng không còn mảy may tính chất văn nghệ. Hiện nay, báo chí xuất bản ở Hà Nội thường gồm có hai phần: phần thứ nhất là những bài vở nhạt nhẽo do cán bộ Đảng viết, và phần thứ hai là phiên dịch truyện dài, truyện ngắn của các nước cộng sản khác.


Chương 18 - Con đường thẳng tới cộng sản chủ nghĩa

Đè bẹp xong cuộc bạo động của nông dân Nghệ An và phong trào trí thức chống đối ở Hà Nội, Đảng Lao động bèn “tái hồi” chính sách cũ để tiến tới cộng sản chủ nghĩa. Đảng tổ chức hợp tác xã nông nghiệp trên toàn thể lãnh thổ Bắc Việt, buộc nông dân phải sinh hoạt và sản xuất tập thể nghĩa là làm việc cho “đoàn thể” là chính yếu mà cho gia đình và bản thân là thứ yếu. Mỗi sáng, hễ nghe tiếng “kẻng” đúng 6 giờ là họ phải ra đồng làm việc dưới sự điều khiển của cán bộ, 11 giờ về ăn cơm trưa và học tập chính trị, 1 giờ lại ra đồng làm việc đến 6 giờ chiều. Tối đến phải đi họp để nhận phần việc ngày hôm sau. Mỗi ngày, nếu làm tốt và đủ 10 giờ, mỗi người được ban 10 điểm, mỗi điểm ăn 150 gam gạo. Nếu làm kém hoặc không đủ giờ, tất nhiên, sẽ được ít điểm hơn.

Đến vụ, sau khi gặt, hợp tác xã chia số thu hoạch thành 4 phần. Phần thứ nhất để đóng thuế, phần thứ hai để “làm nghĩa vụ” tức là bán cho chính phủ bốn lần rẻ hơn giá thông thường ở “thị trường tự do” [3] , phần thứ ba để trả nợ cho ngân hàng và các cơ quan khác, phần thứ tư chia cho xã viên theo tổng số điểm mỗi người đã nhận được trong toàn vụ. Chính phủ và Đảng hết sức khuyến khích nông dân “thâm canh”, nhưng dù vậy, sản xuất theo đơn vị diện tích vẫn rất thấp. Lý do chính là tại làm việc theo chế độ, “công nhật”, nên người làm không thấy trách nhiệm trong công việc làm mà chỉ “cơm chúa múa tối ngày”. Vì họ không chịu khó canh nước giữ bờ, nên hễ hết mưa là hết nước và chẳng bao lâu lại phải huy động đi “chống hạn”. Các lãnh tụ Trung cộng và Việt cộng hiện vấp phải một khó khăn mà các nước cộng sản khác không gặp; lúa là một cốc loại mọc dưới nước, đòi hỏi rất nhiều công chăm sóc, một loại cây rất “tiểu tư sản” không chịu uốn mình theo nếp sống tập thể dễ dàng như lúa mì hoặc các loại cây thực phẩm khác. Vì sản xuất kém nên Bắc Việt luôn luôn thiếu lương thực trong 10 năm nay. Bài báo sau đây, trong vô số những bài tương tự, chứng tỏ tình trạng thiếu ăn “kinh niên” ở Bắc Việt.

“… Tình hình lương thực tỉnh ta có khó khăn. Miền núi tuy không bị thiên tai nặng nề như một số huyện đồng bằng, nhưng do sản xuất kém nên vụ mùa năm nay (1964) nhiều nơi thu hoạch thấp hơn năm 1963… Lương thực miền núi vẫn khẩn trương, nay càng khẩn trương hơn. Cán bộ và bà con nông dân các hợp tác xã trong tỉnh hãy tham gia góp ý kiến, bàn bạc cụ thể, tranh cãi cho ra lẽ, tìm cách giải quyết nạn đói giáp hạt sắp tới”.

(Miền tây Nghệ An số 380, ngày 1 tháng Giêng, 1965)

Bàn về lý do tại sao sản xuất mỗi ngày một kém, tác giả bài báo đưa ra giải thích như sau:

“Nông dân bỏ sản xuất trước mắt để đi làm việc khác kiếm tiền mua gạo. Một số bà con trong các hợp tác xã chỉ nghĩ về việc kiếm tiền, và cho rằng họ có tiền là có gạo, không tích cực sản xuất, trồng ngô khoai, sắn và các thứ rau mầu. Ruộng đất tốt bỏ hoang hoá, cây trồng không chăm bón, thời vụ không đảm bảo, làm tập thể cho hợp tác xã thì ít, làm riêng cho mình thì nhiều…”

(Cũng số báo kể trên)

Trong liên tiếp mười năm nay, vì thiếu, nên lương thực luôn luôn bị hạn chế. Theo thể lệ hiện hành, mỗi nhân khẩu được mua mỗi tháng 13,5 kg lương thực, trong số chỉ có 8 kg gạo còn ngoài ra là ngô, khoai, sắn. Chính quyền hô hào tăng gia sản xuất bằng cách trồng các loại cây lương thực “ngắn ngày”, như bầu bí rau muống cạn xung quanh các công sở, trường học, trại lính, nhưng vì diện tích ít ỏi nên thu thập chẳng được là bao.

Một biện pháp quyết liệt khác đã được thi hành; trong hai năm gần đây, chính quyền Bắc Việt đã đưa, mỗi năm 25 ngàn gia đình nông dân miền đồng bằng sông Nhị Hà lên miền thượng du khai khẩn đất hoang và tìm cách tự túc để giảm bớt miệng ăn ở miền xuôi. Chương trình di dân này còn nhằm hai mục đích khác: Việt hoá và kiểm soát dân tộc thiểu số cùng thiết lập căn cứ kinh tế để chuẩn bị một cuộc trường kỳ kháng chiến nếu Bắc Việt bị tấn công. Nói về tương lai lâu dài và đất nước thì đấy là một cố gắng rất đáng khen, nhưng vì miền Bắc không đủ phương tiện trừ bệnh sốt rét nên công cuộc hiện đương gặp nhiều khó khăn.

Để giải quyết nạn thiếu ăn, chính quyền Bắc Việt đã nghĩ đến giải quyết nhập cảng lương thực từ bên ngoài, nhưng ngặt vì xuất cảng ít nên không có ngoại tệ để nhập cảng đủ số lương thực cần dùng. Có bao nhiêu ngoại tệ thu được hoặc được “các nước bạn” viện trợ đều phải dùng vào việc mua sắm máy móc để thiết bị cho nền công nghệ phôi thai.

Suốt trong 10 năm nay và ngay cả trong những năm “được mùa viện trợ” của các nước bạn, cán cân xuất nhập của Bắc Việt vẫn bị chênh lệch, xuất ít nhập nhiều. Bản thống kê sau đây do Bộ Ngoại giao và Tổng cục Thống kê Bắc Việt có thể cho chúng ta một khái niệm đại cương về vấn đề kể trên.

Đơn vị: 1.000.000 rúp cũ
Năm Xuất Nhập Hụt Tỷ lệ xuất nhập
1955 27,3 294,4 -267,1 9,2%
1956 81,7 314,2 -232,2 26%
1957 163,8 398 -234,2 41,1%
1958 204,6 253,2 -48,6 80,8%
1959 269,2 417,9 -148,7 64,4%
1960 319,6 511,6 -192 62,4%
1961 [4]
319,6 617,1 297,5 55,9%
1962 60,4%
1963 59,1%
1964 74,1%


(Trích tạp chí Nghiên cứu kinh tế xuất bản tại Hà Nội tháng 12, 1964. Bài “Bàn về thăng bằng xuất nhập khẩu hiện nay” của Lưu Văn Đạt, tr.46)

Điểm đáng chú ý là từ 1962 trở đi bản thống kê không ghi những con số xuất nhập cảng mà chỉ công bố tỷ lệ chênh lệch giữa xuất và nhập. Nên nhớ rằng cũng vào khoảng thời gian này (1960) cuộc xung đột bùng nổ giữa Nga sô và Trung cộng, và đối với cuộc xung đột này, Bắc Việt luôn luôn giữ thái độ “trung lập”. Một vài dấu hiệu cho phép một số quan sát viên nhận định rằng chính vì thái độ “nước đôi” ấy mà Nga coi Bắc Việt là thân Tàu, và Tàu coi Bắc Việt là thân Nga, với kết quả là cả hai nước đàn anh đều đình chỉ không viện trợ cho Bắc Việt bắt đầu từ 1961. Không những cắt dứt viện trợ mà khối cộng sản Âu châu còn từ chối không bán đồ phụ tùng và mua hàng hóa của Bắc Việt. Trước kia Bắc Việt vẫn mua len mang về phân phát cho hàng vạn phụ nữ đan áo để bán sang Đông Âu nhưng từ 1961 trở đi hầu hết những người sống về nghề đan đều bị thất nghiệp. Chúng ta có thể ước đoán rằng sở dĩ bản thống kê kể trên không ghi rõ những con số xuất nhập cảng từ 1961 trở đi là tại những con số ấy đã xuống quá thấp. Tuy nhiên cũng trong bài báo ấy, tác giả có thu nhận như sau:

“Chúng ta đã sử dụng gần hết số tiền viện trợ không phải hoàn lại do các nước xã hội chủ nghĩa anh em giúp ta trong những năm trước. Từ đây hình thức viện trợ chủ yếu là hình thức cho vay dài hạn, có vay có trả, có đi có lại. Nếu khả năng xuất khẩu không theo kịp yêu cầu nhập khẩu thì chúng ta bắt buộc phải hạn chế số nhu cầu về nhập khẩu”.

(Lưu Văn Đạt “Bàn về thăng bằng xuất nhập khẩu hiện nay” Nghiên cứu kinh tế, Hà Nội, tháng 12, 1964)

Từ ngày chiến tranh lan rộng ra Bắc Việt, thái độ của Nga sô và Trung cộng đối với nước “em út” có thay đổi, tuy nhiên cũng chưa ai biết hai nước kể trên đã giúp Bắc Việt những gì, về phương diện kinh tế. Chúng ta có thể nói từ 1960 đến 1964, Bắc Việt không khác một đứa con trong gia đình mà cả bố lẫn mẹ, sau khi ly dị, không nhìn ngó đến. Nếu nhớ lại lời ông Hồ khuyến cáo học sinh lớp chỉnh huấn, khuyên họ không nên “ngồi giữa hai chiếc ghế”, thì có thể nói rằng chính ông Hồ đã bị ngã vì ông đã ngồi giữa hai ghế Nga và Tàu.

Năm 1963, theo lời Giáo sư P. J. Honey, Bắc Việt có dạm đổi một số hàng tiểu công nghệ để lấy bột mì của Úc châu nhưng Úc châu chê hàng xấu không đổi. Sau đấy, Bắc Việt có đổi cho Trung cộng một số hoa quả “nhiệt đới” và cây thuốc để mua lại của Trung cộng một số bột mì mà Trung cộng đã mua của Ca-na-da. Bắc Việt cũng xuất cảng một số “thực phẩm xa xỉ” như lợn, gà (mỗi em học sinh phải nuôi và bán cho chính phủ mỗi năm hai con gà) để nhập cảng một số “lương thực căn bản” nhưng kết quả chẳng được là bao. Vì nông thôn không cung cấp đủ thực phẩm nên công nhân và dân thành thị nói chung cũng bị thiếu thốn. Tờ Thời mới xuất bản ở Hà Nội ngày 7 tháng 7, 1961 nói về nạn thiếu gạo ở thành thị như sau:

“Mỗi lần họ (công nhận xưởng máy dệt) đi mua gạo, họ phải nghỉ việc nửa ngày. Nhiều khi số người xếp hàng đông quá, họ phải nghỉ việc nhiều buổi mới mua được xuất gạo”.

Tháng 4, 1965, tờ Nghiên cứu kinh tế còn viết như sau:

“Hãy còn tình trạng phải xếp hàng chờ đợi, người tiêu dùng phải đi nhiều nơi, nhiều chỗ mới mua được đủ những mặt hàng thực phẩm khác nhau cần cho việc nấu ăn hàng ngày”.

(Lê Đông “Bàn về vấn đề thực phẩm cho các thành phố”, Nghiên cứu kinh tế số 26, tháng 4, 1965)

Từ ngày bắt đầu “thành lập xã hội chủ nghĩa” cộng sản Bắc Việt cố gắng xây dựng một nền kỹ nghệ, vừa để “trưng” với nhân dân đấy là “xã hội chủ nghĩa”, vừa nuôi hy vọng sản xuất hàng hóa công nghệ, mang xuất cảng để đổi lấy vật liệu và lương thực. Hiện nay đã có tất cả hơn một ngàn công xưởng lớn nhỏ, nhưng vì thiếu chuyên viên, vì cán bộ ưa sản xuất nhanh và nhiều để lấy thành tích, nên hàng hoá do Bắc Việt chế tạo không đúng tiêu chuẩn quốc tế, vừa xấu vừa đắt, không thể nào cạnh tranh nổi với sản phẩm công nghệ của Nhật Bản hiện tràn ngập thị trường Đông Nam Á.

Mặc dù những khó khăn kể trên, Bắc Việt hướng theo con đường mà 40 năm về trước ông Hồ hình dung là “con đường tiến tới thắng lợi cuối cùng, tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”, con đường mà ông nhìn rõ vì có “mặt trời” của chủ nghĩa Mác-Lê-nin soi sáng.

Vì quyết tâm đi theo con đường kể trên và bắt buộc mọi người đều phải tiến bước theo hướng “mặt trời Mác-Lê-nin nên Đảng Lao động bắt toàn thế giới công thương kể cả phu xích-lô, người làm chữa xe đạp và những người buôn thúng bán mẹt phải thành lập hợp tác xã để sinh hoạt tập thể. Nhiều người phải bỏ nghề cũ để nhập đoàn đi “phát triển văn hoá và kinh tế” trên thượng du, mỗi đoàn có một số đảng viên Đảng Lao động đi theo kiểm soát. Một số đã tự giác, còn đa số hiện làm việc và sinh hoạt theo kiểu “cu li” đồn điền thuở trước.

Nói về sự thay đổi lề lối sinh hoạt cũng nên nhắc tới số phận những người mà cộng sản mệnh danh là “tư sản dân tộc”. Họ là những người trước kia có một xưởng máy cỏn con, dùng dăm bảy người thợ và học việc. Hồi mới về tiếp thu Hà Nội, cộng sản đề cao họ “bạn của nhân dân” và hứa tôn trọng hình thức kinh doanh của họ. Nhưng cộng sản chỉ giữ lời cho đến ngày chiếm cứ Hải Phòng, cửa bể cuối cùng để di cư vào Nam. Sau đó chính quyền Bắc Việt buộc các xí nghiệp tư nhân phải đổi thành công tư hợp doanh, nghĩa là tự đặt mình dưới sự kiểm soát của chính phủ. Nếu họ không chịu, chính phủ sẽ không cung cấp nguyên vật liệu. Những chủ cũ được tiếp tục điều khiển xưởng máy với chức vụ giám đốc, nhưng dưới sự giám sát chặt chẽ của cán bộ Đảng. Tình trạng “nửa nạc nửa mỡ” này được duy trì trong hai năm (1957-59). Nhưng từ 1959 trở đi, khi bước sang giai đoạn “xây dựng xã hội chủ nghĩa”, Đảng cử đảng viên là giám đốc và bắt các “tư sản dân tộc” phải “cải tạo theo chủ nghĩa xã hội”, nghĩa là phải làm việc bằng tay chân công nhân, nặng nhọc hơn công nhân, trong khi vẫn bị khinh rẻ là “giai cấp bóc lột”. Tư sản dân tộc khác địa chủ ở điểm không bị đấu tố và tù đày, nhưng cả hai đều từ địa vị “bạn của cách mạng, của nhân dân” bước xuống thành phần “kẻ thù của giai cấp”. Theo tờ Học tập, cơ quan lý luận của Đảng Lao động, thì kiếp sống của “tư sản dân tộc” đã làm mủi lòng một số đảng viên phụ trách kiểm soát họ. Tờ Học tập viết:

“Có một số cán bộ phụ trách xí nghiệp công tư hợp doanh quả quyết rằng những người tư sản đang làm việc ở xí nghiệp do các đồng chí đó phụ trách đã tiến bộ một trăm phần trăm, và việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với họ “không còn thành vấn đề nữa”. Thế rồi các đồng chí đó hối hả đòi “thay đổi thành phần (thăng chức làm công nhân) cho các nhà tư sản… Rất rõ ràng là nếu những người làm công tác cải tạo giai cấp tư sản dân tộc không chịu đi vào nghiên cứu “cuộc sống nội tâm” của những nhà tư sản, chỉ mới nhìn thấy những vết dầu mỡ loang trên tấm áo và thậm chí những chai tay của các nhà tư sản mà đã vội tính chuyện thay đổi thành phần cho họ, thì những người (cán bộ) đó sẽ rất dễ bị lóa mắt bởi những hiện tượng bề ngoài mà không nắm được bản chất vấn đề, do đó sẽ không thể nào làm tròn trách nhiệm trước đảng và giai cấp”.

(Học tập, tháng 3, 1965)

Giới tư sản dân tộc Bắc Việt đã chịu lam lũ trong 7 năm nay, nhưng lời tuyên bố kể trên chứng tỏ con đường “cải tạo” của họ còn dài, và hiện nay họ chưa có mảy may hy vọng “lên chức” công nhân.

Hiện nay Bắc Việt đã hoàn thành công cuộc tập thể hóa nông nghiệp và công nghiệp, nhưng có một điểm đáng chú ý Bắc Việt chưa thành lập, “nhân dân công xã”. Từ trước Bắc Việt vẫn theo sát chính sách của Trung cộng. Tất cả mọi phong trào do Trung cộng đề xướng đều được thi hành tại Bắc Việt chừng hai năm sau bắt đầu từ thuế nông nghiệp đến Cải cách ruộng đất, rồi đến tổ đổi công, hợp tác xã… nhưng Trung cộng đã thực hiện “nhân dân công xã” từ bảy tám năm nay mà cho tới nay Bắc Việt vẫn cứ đứng nguyên trong giai đoạn “hợp tác xã”. Có thể Bắc Việt đã nghe lời khuyên can của Nga sô mà không tiến tới “nhân dân công xã”, mà cũng có thể Bắc Việt chưa muốn thực hiện một chế độ hoàn toàn cộng sản trong khi chưa “giải phóng” được miền Nam. Nhưng vì áp lực của Tàu mỗi ngày một mạnh nên rồi ra, rất có thể, Bắc Việt sẽ trở lại bắt chước Trung cộng và đi theo từng bước chân một.

________________________________________
[1]Bùi Quang Đoài, “Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị”, Nhân văn số 4, ngày 5-11-1956
[2]Ý nói bây giờ gánh ít hơn, nhưng vì đau khổ nên thấy cực nhọc hơn nhiều.
[3]Theo lời ông Lê Duẩn trong bài “Xây dựng tư tưởng làm chủ tập thể trên lập trường giai cấp vô sản” trong báo Học tập số tháng 6, 1965 thì giá một ký thóc ở thị trường tự do là 0,80 đ, và giá bán cho chính phủ là 0,20 đ.
[4] Riêng năm 1961, trong tài liệu ghi con số “rúp mới” nhưng chúng tôi tính cả sang “rúp cũ” cho đồng loại. Mỗi rúp mới ăn 4,444 rúp cũ.

Mời Bạn Đọc tải sách về đọc ở đây ----> Word

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...