. .

Thursday, March 26, 2009

ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN (Phần 2)- Hồi Ký của Xuân Vũ

ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN (Phần 2)
Xuân Vũ


CHƯƠNG 17

Trong mấy ngày đó tôi cứ sốt liên miên. Uống bao nhiêu kí-nin và uống cách nào cũng không chận cữ được.
Cho nên cuối cùng tôi quyết định đi bệnh xá để nhờ ở đấy tiêm dùm mấy ống kí-nin 0,40 mà tôi mang đi theo từ Hà Nội. Tôi tạm biệt Thu và Việt vào một buổi sáng.
Tôi lủi thủi đi trên đường một mình với cái bóng của tôi. Phía trước là hai anh giao liên người thiểu số khiêng một người bệnh cấp cứu cũng đi bệnh xá. Anh trạm trưởng gửi tôi cho mấy người này.
Nghe anh trạm trưởng nói đi non một ngày đường thì tôi ngại, nhưng anh khuyên tôi nên đi sớm. Cái sốt của tôi là cái sốt cách nhật, khó cắt cữ nếu để dây dưa, lá lách sẽ thòng thòng khó trị lắm. Đi đường có khi ngã dập lá lách chết cũng nên. Anh trạm trưởng đã đổi cho tôi những viên ki-nin xanh mà anh cho là rất thần hiệu, nhưng những viên thuốc ấy lại cũng vô hiệu đối với tôi.
Hôm nay đúng ngày sốt nhưng cơn sốt đến vào lúc xế chiều. Tôi hy vọng sẽ đến bệnh xá trước khi cơn sốt đến.
Hai người giao liên vẫn đi trước tôi. Lúc đầu tôi còn trông thấy họ, dần dần khoảng cách nhân lên và bây giờ thì họ đã biến mất. Tôi hơi lo. Vì trong rừng không ai đi một mình mà lại tay không bao giờ. Nhưng tôi không thể đuổi theo kịp họ. Tôi định là họ sẽ dừng lại gác đòn võng trên hai cái nạng mà nghỉ tôi sẽ bắt kịp. Nhưng càng đi tôi càng thất vọng. Theo sự chỉ dẫn của anh trạm trưởng thì cứ đi thẳng con đường lớn rồi đến con đường mòn đầu tiên, rẽ vào đó cứ thế mà đi một tiếng đồng hồ sẽ tới bệnh xá.
Giữa lúc tôi đang sợ hãi vì đường vắng người thì tôi lại gặp người, gặp cả một toàn người.
Họ đi lãi rãi không thành đội ngũ. Có nhiều người mặc áo cổ vuông để lòi những cách tay đầy ghẻ chóc. Có người vác cuốc, có người đi tay không, trông áo quần của họ tôi đoán là bộ đội, nhưng không thấy ai mang súng. Họ đi chậm chạp, lê thê, vẻ mặt ngơ ngác và họ không buồn nhìn tôi.
Tôi hỏi một anh vác cuốc:
- Ở đây gần tới bệnh xá chưa… bạn?
Tôi ngập ngừng không biết gọi bằng gì cho đúng: gọi bằng anh thì nghe xa lạ quá, còn gọi “đồng chí” thì quả tình tôi không thể gọi những người như vậy là đồng chí của mình.
Người đó gầm mặt xuống, vung tay lại phía sau và nói:
- Đâu phía đó, chúng tôi cũng chẳng rõ!
Tôi lại cắm cúi đi, bụng hoang mang không biết nên đi tới nữa không. Tôi vừa đi vừa sợ, không hiểu mình đã vượt qua một mối đường mòn nào chưa? Vì nếu là đường mòn dẫn vào một căn cứ, một cơ quan nào đó thì thường thường đường đó được ngụy trang rất kỹ. Người đi đường có để ý cũng không thể nhận ra. Vì thế nên tôi không dám bước nhanh. Tôi vừa đi vừa ngó chừng. Tôi đi rấn tới một quãng nữa thì đụng ngả ba. Tôi không biết nên rẽ về phía nào. Bởi vì theo lời anh trạm trưởng thì một con đường mòn sẽ dẫn tôi đến bệnh xá nhưng ở đây, ba nhánh đường đều bằng nhau. Hai nhánh trước mặt không có nhánh nào nhỏ hơn nhánh nào. Tôi dò dưới đất tìm dấu vết và mong cho những dấu vết ấy sẽ bảo cho tôi nên rẽ vào nhánh nào nhưng đất khô cứng, không thấy một dấu chân mới.
Trời đã trưa. Tôi ngồi lại một gốc cây ngay ở ngả ba, mở nút bi-đông ra uống một ngụm nước. Khi đặt đít xuống đất người ta mới biết đôi chân mỏi đến thế nào.
Tôi cởi một chiếc dép ra và rút lại quai dép. Cây rút dép làm bằng thau Phương mua ở Hàng Thiếc cho tôi. Phương đưa cho tôi và nói: “Em chỉ mong anh giữ lại cái món này!”.
Tôi giắt cây rút dép vào thắt lưng và mang lại dép, hy vọng sẽ có người qua lại. Tôi chợt thấy một cuộc diễn binh quanh tôi. Một đạo binh trùng điệp.. Tôi theo dõi một quãng xa xem đạo binh ấy khởi đầu từ đâu và sẽ dừng lại ở chỗ nào. Những chú lính to đầu, hai cái răng thật to màu nâu như hai cái nanh. Chúng đi hàng dài, chú nọ nối chú kia, im lặng lầm lỳ có vẻ tự tin. Thỉnh thoảng lại có một anh to trội hơn, có lẽ là chỉ huy. Chúng gây thành những tiếng rào rào trên lá khô. Cái tiếng động làm cho tôi nghĩ tới bước chân chậm chạp của cái chết. Chúng bò sát chân tôi nhưng vẫn cứ thản nhiên như không hề trông thấy tôi. Và tôi cũng ngồi yên không muốn động đến những đối thủ nguy hiểm ấy. Mình không đánh người ta thì người ta không đánh mình.
Xem chúng nó lầm lỳ vậy chớ ghê gớm lắm. Ai sơ ý đặt ba-lô xuống đất ngủ một đêm sáng ngày thức dậy, cái ba-lô trở thành cái ổ mối. Một cái xác nằm giữa rừng, chỉ qua một đêm hôm sau chỉ còn bộ xương. Tôi rùng mình không muốn nghĩ xa hơn nữa.
Bỗng một cành khô rơi xuống đội hình diễn binh. Lập tức các đơn vị tản ra, nhanh nhẹn, ráo riết và từ những doanh trại ở đâu không rõ, đạo quân ấy tuôn ra càng lúc càng đông, tủa ra khắp nơi như đang chuẩn bị chiến đấu. Tôi nhảy nhổm lên. Một chú đã ngoặp vào bàn chân tôi rồi 2, 3 chú bám vào. Tôi đưa tay phủi lia, thân mình chúng văng ra nhưng hai cái càng vẫn cặp dính cứng vào da tôi.
Tôi quơ ba-lô, nhảy vào một chỗ trống và thoát ngay ra khỏi cái trận địa nguy hiểm.
Tôi vừa đi, vừa ngoái lại nhìn đội hình của đạo quân đang triển khai – và như có một thứ linh tính hướng dẫn, tôi rẽ luôn sang phải.
Tôi thấy hơi nguy – Cơn sốt đã đến. Cái bàn tay vô hình kia bắt đầu vuốt vào những đốt xương sống của tôi. Tôi rùng mình một cái,và tôi ngó quanh quất vào bên phải là nơi có nhiều cây cao để tìm chỗ mắc võng. Tôi chỉ còn đủ thời giờ để làm cái việc quan trọng nhất đó vì tôi thấy trước rằng mình phải nằm lại giữa rừng đêm nay. Ý nghĩ đó làm cho tôi ân hận tràn lòng. Sao mình lại đi bệnh xá làm quái gì?
Tôi tìm một cái cây có cháng ba. Tôi phải mắc võng trên cây. Những người đi rừng bảo như vậy, vì ở dưới đất một mình sẽ có thể gặp đủ thứ nguy hiểm. Tôi không ngờ chuyện đời lại trở nên rắc rối như vậy. Cái ân huệ mà tôi mong được ơn trên ban bố cho là đêm nay trời đừng mưa.
Tôi cố hết sức mới đem ba-lô lên được trên cái cháng ba tôi đã ngắm sẵn. Tôi mắc võng ngay trên đó. Tôi siết chặt những mối dây nhiều lần rồi mới lên nằm. Hãy tưởng tượng một con người như tôi, cầm ca cháo ăn còn run mà phải đeo trên từng nhánh cây và nhấc người lên. Tôi thò đầu nhìn xuống đất. Tôi có cảm giác là tôi vừa thoát được sự nổi giận của những chú mối càng hung dữ đang vây lùng tôi.
Tôi thiếp lịm đi theo ánh mặt trời đang tắt dần. Tôi mơ màng nghĩ đến cái chết trong giấc ngủ là cái chết nhẹ nhất, nhưng tôi lại xua ngay cái ý nghĩ này. Tôi tỉnh dậy sau một cơn sốt. Tôi định đi tiểu. Tôi thò chân xuống để tìm dép. Chân tôi quờ nhằm khoảng không, tôi giật mình, rút chân lại, cả người nổi da gà.
Tôi đã nhớ ra mình đang nằm ở giữa trời.
Tối như mực nhưng không dám bấm đèn. Tôi đã chịu nhiều cơn sốt nên đã quen. Sau khi dứt cơn thì đầu óc lại tỉnh táo như thường. Tay tôi nắm nhánh cây, hơi nhỏm người lên một tí… để nhìn.
Tôi sợ người và sợ cả thú rừng biết tôi ở đây. Tôi lại nằm gọn trên võng, tôi quờ tìm cái bi-đông nước treo ở đầu võng. Tôi rút nút bi-đông rót vào mồm những giọt nước ngon lành.
Một cái lá rơi đánh xạc, một cành cây gãy đổ xuống đất cũng làm cho tôi lo âu. Những loại côn trùng rên rỉ dưới những gốc cây, những lá mục không bao giờ dứt như một bản nhạc được trình tấu không dưới quyền điều khiển của một nhạc trưởng nào.
Có phải tiếng côn trùng đêm nay làm dâng lên trong lòng tôi một nỗi nhớ nhung khắc khoải, những giờ phút mà tôi đã tung cho Phương tất cả sức lực, đã bị rơi rớt đi nhiều ở dọc đường, để vượt lên đỉnh cao nhất của sự ham mê xác thịt mà kỷ niệm còn hằn mãi trên da thịt tôi. Đó là lần cuối cùng. Tôi sống nhiều bằng bản năng. Tình yêu là một thứ bản năng.
Phương đã đi tới đâu rồi? Trong đêm nay nàng nghỉ lại nơi đâu? Nàng đau khổ nhớ tiếc những kỷ niệm vừa qua hay đã nằm gọn trong lòng … đất?
Tôi lặng người ra, khổ sở. Chưa bao giờ tôi thấy khổ sở khi phải xa một người con gái như Phương. Tôi vẫn biết rồi Phương chẳng yêu mình được nữa, mà tôi vẫn khổ khi chia tay với nàng. Con gái, đứa nào cũng thế, sự chung đụng thường dẫn họ đến tình yêu hơn là một phút bất chợt loé lên bừng cháy. Họ dễ nhớ dễ quên.
Tôi nghiêng đầu ra mép võng.
Không gian sầu thảm. Một con chim gì đang đậu ngay trên đỉnh đầu tôi, tự nãy giờ cứ đứng ở đấy, chốc chốc lại kêu lên những tiếng ai oán. Tôi không thấy nó nhưng tôi chắc nó màu xanh sậm và có đôi mắt chan chứa u buồn. Ở đằng kia, có một một cô luôn luôn đáp lời, mỗi lần chú đằng này gióng lên tiếng gọi. Dường như chúng đang hò hẹn tìm kiếm nhau. Tôi có cảm giác đó là linh hồn của hai người chết vì một mối tình nan giải, và đôi linh hồn ấy đêm đêm lại quờ quàng tìm nhau để nối lại cuộc tình ái dang dỡ trên dương trần. Tiếng kêu của chúng nghe não nùng ai oán lạ. Nghe chim kêu, tôi thấy đau khổ tràn lòng. Tôi nghe như gan ruột mình chín từng đoạn một. Nỗi tình yêu, nỗi cuộc đời.
Dội lên trong tâm tự tôi một nỗi ai hoài xót xa. Hiện lên trong đầu óc tôi một đôi nhân tình cùng là người Nam, cùng đi về Nam và cùng đi trên đường này.
Họ yêu nhau. Họ bị cấm đoán trong lúc họ mang gạch tập dượt ở trường đi B. Nhưng rồi họ vẫn yêu nhau. Họ bị cảnh cáo. Và kết quả cuối cùng đến với họ là chàng thì đi Ông Cụ còn nàng thì rẽ xuống Bác Kế. Họ được cái hạnh phúc đi chung nhau trên một quãng đường và trên quãng đường này tình yêu cũng vẫn bất hợp pháp.
Một buổi trưa họ đi tụt lại phía sau vì họ đổi được một trái dưa gang. Họ lẫn vào rừng để tận hưởng cái quả dưa trời cho ấy. Ăn xong, chàng cứ ưỡn ẹo. Chàng kêu tức bụng và không chịu đi.
Chàng cởi cúc áo ngực và trật vai ra bảo nàng xem có ve cắn không. Nàng hớt hãi kêu lên: “Ve cắn là bị sốt và làm ké không khỏi đó nghen!”
Tìm mãi nhưng không thấy chú ve nào hết mà chỉ có dấu răng bầm tím in trên vai chàng, từng cái kẽ răng cũng lộ lên. Nàng hơi ngượng, nàng biết chàng đùa. Chính đó là vết răng của nàng để lại cho chàng hôm qua. Chàng hỏi:
- Em có thấy ve không?
- Có rồi! – Nàng đáp và áp mặt xuống vết thương trên vai chàng thủ thỉ:”Đây, ve đây! Con ve to tướng đây anh có thấy không?”
Chàng không nói, bất thần vần ngữa nàng ra và rên rỉ:
- Em! Em!
Nàng cũng rên lên khe khẽ:
- Anh anh! … Của em đây. Anh giữ cho em!
Chàng ôm gọn nàng vào lòng và lại đặt nàng trên một mớ lá khô dòn. Nàng cố bật dậy, nhưng không thể. Nàng kêu lên và chặn tay chàng một cách dịu dàng:
- Ấy chết, anh đừng làm thế!
Chàng vẫn rút đầu vào ngực nàng và đưa một tay nắn những ngón đàn quen thuộc mà mỗi phím như truyền sang chàng một thèm khát sôi bỏng. Nàng dẫy nẩy:
- Anh không giữ cho em!
- Anh đang giữ đây!
- Mai đã mà!
- Chưa chắc có ngày mai!
Họ không cãi nhau nữa. Nhìn vết bầm trên vai chàng, nàng nói:
- Em là chó anh nhỉ!
- Bao giờ?
- Lúc nào em cũng cắn anh! Nhưng sao anh không báo thù?
- Thì làm gì?
- Em thích anh làm cho em toé máu ra!
- Thế à?
- Em không thích những cử chỉ bình thường!
- Đau đớn nhớ lâu phải không?
- Ơ kìa… anh không… ngoan… tí nào cả!
Chàng không nói, và bằng một cử chỉ vô cùng quả quyết, chàng đã cho da thịt chàng và nàng cọ xát nẩy lửa vả chàng đã đi vào nàng một cách thần kỳ.
Đôi mắt nàng không còn ánh sáng, đờ đẫn nhìn chàng và kêu rên gần như than thở:
- Anh!… anh phí sức nhiều quá!
Rồi nàng nghe tất cả những cảm giác của nàng dồn lại ở một trung tâm, một nơi, một cái rốn đại dương ào ào sóng dậy mà cây thiết bảng thần thông trấn giữ vừa cắm thẳng vào, đau đớn mà êm ái.
Nàng nghe nàng trôi bập bềnh trên mặt của một biển nhạc mênh mông với một nhịp điệu đều đều với những trường canh chắc nịch. Nàng không thấy ngọn cây đang quay tít bên ngoài, không thấy đôi chim đang trố mắt nhìn nàng. Giây phút đó kéo dài. Đột nhiên nàng muốn rít lên, nàng thấy toàn thân nàng rắn lại thành một tảng băng và đồng một lúc nàng cũng nghe có một làn nước ấm đê mê chảy qua suốt khối băng ấy. Hai cánh tay nàng quơ lên ôm siết lấy, quấn chặt lấy, ghì xuống miết một vật gì vừa nặng, vừa ấm làm cho khối băng kia tan vỡ, đầm đìa.
Ngọn gió hiếm hoi của rừng già thổi qua như một người khách lãnh đạm. Lá lại rơi, đàn ve lại trổi điệu nhạc sầu muôn thuở.
Nàng đã nghe lại tiếng vỡ của lá khô dòn và nàng gọi:
- Anh!
Chàng như chợt tỉnh, nghe tiếng gọi của nàng như một tiếng gió mơ hồ âu yếm quá!
Chàng vẫn lặng thinh. Chàng nghe mũi chàng lút vào một vật thể quá đổi mềm mại mà chàng hít thở hương thơm nguyên chất của da thịt nõn na. Nàng lại nhìn vết thương rướm máu trên vai bên kia của chàng.
- Anh! Anh có đau không?
Chàng chầm chậm mở mắt ra. Chàng không muốn cắt ngang cuộc sống thần tiên. Chàng muốn nằm mãi thế này, tận hưởng sự rã rời sau phút vượt dốc. Chàng thấy đau nhưng cái đau thích thú và sung sướng.
Chàng còn thèm muốn. Sức chàng chưa kiệt.
Khí rừng làm bằng hương lá khô và hoa dại gây gây làm cho chàng như say nhẹ, dễ chịu.
Bỗng chàng ngồi dậy bế xốc nàng vào lòng như bế một đứa trẻ con. Chàng nhìn suốt từ đầu đến chân nàng. Một màu hoa huệ trắng nuốt lốm đốm rắc những cánh hoa hồng, những nốt nhạc mà bàn tay của nhạc sĩ thần vừa để lại. Một ít tóc rơi trên ngực nàng như một áng mây in trên nền tuyết.
Như một con thú dữ bị một sự thèm khát quất vào bản năng, chàng lại dằn nàng ra và lại cung hiến tất cả cho nàng: tâm hồn và thể xác. Chàng muốn tận hưởng đến giọt tình trong đáy cạn của tim nàng, muốn chiếm đoạt, muốn dày xéo nàng để không bao giờ, không bao giờ nữa…
Chao ôi, tôi nằm một mình ở đây, treo lủng lẳng trên cành cây mà nhớ mà tiếc cái kỷ niệm của chính tôi. Cái cảnh đó đối với tôi đáng lẽ ra là cuộc sống thực hằng ngày, thế mà nó đã trở thành kỷ niệm; đáng lẽ nó là tương lai, nó lại là dĩ vãng; đáng lẽ là hạnh phúc, nó lại là khổ đau và tôi biết tôi với Phương từ đó chỉ còn sống với nhau bằng kỷ niệm.
Tôi nằm đây mà tôi nhớ làn da của nàng từ trên vai chạy dài xuống, xuống nữa, những đồi dốc, suối sóng của cả một địa dư mênh mộng đã trở thành bãi chiến trường mà vó ngựa của sự thèm muốn điên dại đã xéo dày, đã dẫm nát một cách đau thương mà thoả thích. Và chàng hiệp sĩ chiến đấu đã ngã gục ở đây như ngã dưới chân đài vinh quang tuyệt đỉnh trong những phản ứng kỳ diệu của nàng đã quật ngã đồng thời đã đón nhận chàng vào trong nàng trọn vẹn.
Tôi đau khổ, tôi thấy mất một cái gì rất cụ thể.


CHƯƠNG 18


Ở dưới đất nghe tiếng cành cây khô gãy răn rắc. Tôi nghe có mùi hôi thối phất qua. Tôi rụt đầu vào như một cái máy. Ở chỗ có tiếng cành cây gãy như có ánh sáng kỳ lạ, như hai mũi chĩa bằng điện chọc thẳng về phía tôi. Tôi nhắm mắt lại nhưng hai tia sáng kia vẫn cứ soi mói vào người tôi. Tôi co rút người lại như con cuốn chiếu. Tôi không dám thở nữa. Tôi hơi ân hận sao hồi nãy mình không tìm một chỗ cao hơn mặc dù cái cháng ba này cũng đã cao rồi.
Đôi chim ân tình đã lảng đi đâu không thấy kêu than nữa. Có lẽ chúng lẫn tránh một điều gì. Thay vào đó một tiếng chim khác, tiếng chim như bảo mọi người hãy mau mau “Tránh khỏi! Tránh khỏi”
Đó là con chim tiền tiêu của Chúa Sơn Lâm. Tiếng chim vang lên trong tâm linh tôi, rung động đến từng sợi thần kinh nhỏ nhất trong đầu tôi. Tôi có cái cảm giác là hai tia điện khi nãy đang từ gốc cây chọc thẳng vào lưng võng của tôi nhoi nhói.
Thôi rồi, tôi sẽ chết nơi đây, vào miệng cọp. Nó đã ngửi thấy con mồi đang treo trước miệng nó chỉ gang tấc. Tôi thấy đau đớn quá!
Tôi đã đi khắp nước Việt Nam, từ Nam Quan đến mũi Cà Mau. Vâng, đi làm cách mạng! Tôi đã đạp lùi hàng vạn dậm sau chân mình. Để làm gì, để cho ai? Không rõ! Cái chết là điều tất nhiên, nhưng, cũng như mọi điều khác, mỗi cái chết đòi hỏi một lý lẽ. Thôi đành nhắm mắt!
Đột nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi vụt nhớ tới mẹ tôi ở một nơi xa xôi giờ này đinh ninh rằng tôi đang sống trên một thiên đưòng.
Bỗng… rốp! rột rột….! Véo…!
Tôi nghe như một luồng gió vút qua những kẽ cây, tiếng những cành cây gãy rôm rốp, những ngọn cây lớn lay động ào ào như một cơn trốt xoáy qua rồi im hẳn.
Tôi không dám thở mạnh nữa. Tôi không biết những tiếng động vừa qua có thật hay không? Tôi lắng nghe xem con chim có còn kêu “tránh khỏi” nữa không. Im phắc. Không có một tiếng côn trùng. Tất cả đều đã tản đi hết.
Lâu lắm, không rõ là bao lâu tôi nghe lại giọng ân tình lúc nãy của đôi chim đối đáp với nhau, ở phía xa. Có lẽ giây phút kinh hãi đêm nay đã qua rồi chăng?
Tôi vẫn nằm im – tôi nghe toàn thân mồ hôi ướt đẫm, lưng áo cũng ướt, dán hẳn vào da.
Tiếng đôi chim ân ái vang lên càng lúc càng nhặt. Tôi nghe hình như chúng không còn xa nhau như trước nữa. Sau mỗi lần tiếng chim vang lên, lại thấy chúng nhích lại gần nhau thêm một quãng.
Một thứ gì bàng bạc như ánh sáng từ trên cao đổ xuống chan hoà. Tôi ngước mặt nhìn lên, thầm cảm đội Ơn Trên.
Đôi chim qườ quạng suốt đêm tìm nhau kia đã kêu lên những tiếng hoà hợp. Trời đã sáng!
Tôi nghiêng đầu nhìn xuống rồi tôi ngồi dậy nhìn xuống, nhìn quanh, không có dấu vết gì đáng cho tôi sợ sệt. Áo tôi ướt đẫm như chiếc áo của những người giao liên thiểu số cõng một lúc tám quả ĐK trên lưng.
Trí khôn của tôi trở lại. Tôi chợt nhớ ra rằng “Ông Lớn” chỉ “chụp” mồi khi nào “Ổng” trông thấy được cái cổ của con mồi. Không trông thấy được cái cổ, không bao giờ “Ổng” chụp.
Tôi ném ba-lô xuống đất, rút dao găm trong lưng chặt một nhánh cây. Tôi cầm nhánh cây đập bốn phía như muốn xua đuổi những mảng bóng đen còn rơi rớt lại.
Tôi đứng dậy thò đầu ra nhìn bốn phía. Tôi mong có một bóng người đi qua. Tôi suy nghĩ, đắn đo mãi. Rồi tôi cuốn võng. Nhưng kìa, tôi không thấy chiếc bi-đông ở đâu. Tôi nhớ rõ là đêm qua tôi có uống nước. Mất cái bi-đông thì cũng có nghĩa là xe hơi chạy đường trường không có bình xăng. Tôi đeo cái võng vào lưng rồi tuột xuống.
Nhưng nó đây rồi! Tôi reo lên khi chân vừa chấm đất. Chiếc bi-đông nằm trên gốc cây, nút vẫn nhét kín, móp một chỗ, nhưng bên trong vẫn còn nước. Tôi ôm chầm lấy chiếc bi-đông như bắt gặp một bửu bối.
Tôi ngước nhìn lên cháng ba. Tôi nhớ lại sau khi uống nước xong tôi treo chiếc bi-đông trên đầu võng, có lẽ tôi treo không cẩn thận, lúc Chúa Sơn Lâm lò mò tới gốc cây, nó đã khôn ngoan rơi xuống như một nhát búa, có thể trúng đầu Chúa Sơn Lâm, làm cho Chúa Sơn Lâm tưởng mình bị trời đánh mà co giò phi như gió vào bụi rậm ?
Tôi nhìn quanh gốc cây nhưng chẳng thấy một dấu vết nào của Chúa Sơn Lâm để lại. Rồi đứng tựa lưng vào một gốc cây, tôi cầm cái nhánh cây trong tay chìa ra phía trước đề phòng Chúa Sơn Lâm chụp. Tôi lấy cơm ra ăn, rồi uống mấy viên kí-nin chận cữ. Xong, tôi quảy ba-lô đi tiếp. Tôi thấy bớt sợ các thứ hiểm nguy, cảm thấy như vừa được thử thách trước một thứ hiểm nguy ghê gớm và vui vẻ nhất!
Tôi đi một quãng lại gặp một toán người, mặt mày cũng ngơ ngáo như toán người hôm qua. Họ đang đốn cây. Tôi thấy thiệt vui khi được nói chuyện với con người. Tôi hỏi một người:
- Ở đây gần đến bệnh xá chưa các đồng chí?
- Đi qua một con suối, rồi đi một rấn lên một quãng nữa, xong đụng một gốc cây thật to là rẽ sang bên phải.
- Độ mấy tiếng nữa đồng chí?
- Chậm thì hai tiếng – người ấy nói tiếp – Nhưng sốt cái bụng sưng to, nước da vàng giống màu trái bứa chín như tôi đây, lá lách số 3 rồi, nó còn bảo tôi về lao động! Đồng chí còn tươi roi rói, nó không nhận đâu!
Mặc, tôi cứ đi. Đi một chặp thì tới một khoảng đất trống. Tôi nhìn vào. Không có dấu vết của sự sống. Chỉ có một mô đất… Tôi kêu lên. Chân tôi bị trồng chặt dưới đất. Mô đất kia cao quá mặt đất một ít, chỉ vừa đủ để gọi là một cái mô và nó dài như một nấm mồ. Tôi nghĩ như vậy. Và tôi không lầm, vì dưới những hòn đất lục cục thòi ra hai cái bàn chân như hai cái bàn chân của một người nằm ngủ đắp chăn, đầu quay về rừng chân hướng ra đường như còn luyến tiếc con đường bỏ dở. Tôi nhỉn một tí. Tôi không thấy gì ngoài hai bàn chân đã xanh đen. Chỉ trong giây lát nữa thôi, hai bàn chân đó sẽ được bọc bằng một đôi tất cườm óng ánh, mà mỗi hạt cườm là một chú nhặng xanh.
Những gì lạ lùng nhất, kỳ quặc nhất, nếu anh chưa trông thấy ở đâu, hoặc anh chưa hề nghĩ rằng nó có thể xảy ra ở đâu, anh sẽ thấy trên con đường này lần đầu tiên, cũng như hôm nay, lần đầu tiên, tôi trông thấy thi thể một con người được mai táng ở rừng theo nghi lễ … rừng.
Một mảnh giấy gắn trên một cành cây sát lề đường ngay trước mặt tôi bị gió lay động, lắc lư nhưng không bay lên được, như mảnh linh hồn người xấu số chưa tan. Bất giác tôi nom vào. Trên tấm giấy có những dòng chữ, rõ ràng từng nét. Lối chữ hơi ngoáy nhưng khá đẹp, câu trên câu dưới hẳn hoi:
“Vào đây thì ở lại đây,
Bao giờ mộ mọc xanh cây thì về!”
Tôi như mờ cả mắt. Những chữ cứ như chạy trên mặt giấy lao xao như một đàn mối càng chạy loạn. Mỗi chữ như một mảnh oan hồn muốn cất cánh bay đi nhưng vẫn còn vấn vương cái xác nằm kia.
Tôi lại nhìn đôi bàn chân, rồi quay lưng đi.
Anh ta tên gì? Kẻ bất hạnh đã mang theo những ý nghĩ gì xuống đáy mồ? Câu hỏi đó sẽ làm đau khổ hằng triệu người có con em tập kết ra Bắc, có con em vào Nam chiến đấu. Nhưng sẽ chẳng có ai có thể trả lời nổi, dù khi đã kết thúc chiến tranh, ngoài một người mà người đó thì không bao giờ trả lời nữa.
Tôi vừa đi vừa chạy như sợ người kia vùng dậy đuổi theo. Tôi chạy như vừa thoát nạn.
Tôi chạy một mạch, thấy mỏi chân, bèn đứng lại. Nhưng dù không mỏi tôi cũng không chạy được nữa bởi vì đã tới núi.
Đường mòn nhẵn chứng tỏ người ta đi lối này rất nhiều. Tôi đi chậm lại, vừa đi vừa thở, hai lỗ tai lùng bùng chập lâu mới hết.
Tôi đang đi bỗng dừng lại như chạm vào một cái gì trước mặt. Tôi thấy ngờ ngợ, rờn rợn. Tôi ngó quanh quất. Không thấy gì cả.
Đường vắng tanh. Tử khí trùm cây cỏ. Tôi thấy chùng bước . Nhưng nếu tôi không tiêm được mấy ống thuốc này thì không cắt cữ được, nằm đây mà sốt thì một là chết, hai là quay về Bắc. Cả hai điều đó tôi xem như tai hoạ ngang nhau. Bỗng nhiên tôi thấy như có ma lực đẩy phía sau lưng tôi.
Tôi rẽ vào và rấn lên ít bước thì đụng vào …trời ơi, đụng vào một bộ xương. Rõ ràng một bộ xương trong một cái hốc đá. Nó trắng một cách ghê rợn. Tôi thấy không sợ hãi nhưng chỉ giật mình khi vừa trông thấy. Tôi bước một bước đến gần bộ xương. Bên cạnh đó là một khẩu AK mà cái báng súng đã bị mối mọt gậm hết chỉ còn trơ lại cái cốt sắt. Cái nòng súng cũng đã mục đi. Sét kết khối và vỡ ra từng mảng. Tôi quay trở ra ngay và đi tiếp vô phía bệnh xá.
Có lẽ người này cũng đi bệnh xá như tôi. Đi đến đây anh ta kiệt sức. Anh ta định nghỉ chân một chốc rồi đứng dậy đi tiếp. Nhưng anh đã không gượng sức được cho nên anh ngồi xuống và không bao giờ đứng dậy nữa. Ai biết anh ta tên gì, quê quán ở đâu? Cũng như anh bạn nằm dưới đất ló hai bàn chân ra lúc nãy, anh bạn này đã đi và không đến.


CHƯƠNG 19

Tôi đi miết cho đến đứng trưa thì lọt vào khu vực mà thỉnh thoảng lại thấy rơi rớt một vỏ ống thuốc hoặc một mẩu bông gòn nhuộm thuốc đỏ.
Đích là bệnh xá rồi. Chắc hai anh giao liên người Thượng đã cáng bệnh nhân đến đây từ hôm qua.
Mặt tiền của bệnh xá được trang trí bằng một dãy mộ lè tè mặt đất và một cái huyệt vừa đào xong đất còn mới. Chắc sắp chôn ai đây. Người chết nhiều đến nỗi không có cái chết nào làm xúc động những người trông thấy. Và người bệnh cũng nhiều đến nỗi y tá bác sĩ phải trốn lánh hoặc đưa mắt nhìn qua mà không xem đó là trách nhiệm của mình, cho dù là bệnh nhân đến tận bệnh xá và gặp bác sĩ ở ngay bệnh xá! Như tôi hôm nay đây.
Từ lúc tôi vào cho đến lúc người ta xem giấy tờ, tôi mất đến hai tiếng đồng hồ. Cái con người xem giấy tôi là một người béo ,gương mặt bầu bĩnh. Đặc biệt cặp mắt anh ta lộ hẳn hơn mọi cặp mắt lộ bình thường. Có lẽ mỗi khi xem giấy hoặc nhìn người bệnh, anh ta phải trợn trạt, phải trố mắt ra nhìn thật kỹ xem bệnh nhân có đủ điều kiện cho anh ta săn sóc hay không .
Anh ta xem giấy của tôi xong nhìn tôi đau đáu rồi nói giọng lạnh lùng:
- Anh sốt như thế thì ở nhà chữa bằng kí-nin thôi. Vô đây làm gì? Vô đây anh còn bị bệnh nặng thêm. Tôi nói cho anh biết, ở đây là ổ của một trăm thứ bệnh, nó lây anh hiểu chưa? Các anh hễ cứ bệnh tí là đi bệnh xá. Bệnh xá ở đâu, chứ ở đây chẳng có cái mẹ gì cả, ngoài ba viên kí-nin và một lọ thuốc đỏ. Còn tệ hơn thời đánh Tây cưa chân bằng cưa thợ mộc.
Anh ta nói chưa hết câu chuyện thì đã quay sang cạnh hỏi một người khác có lẽ cũng là y tá:
- Thằng cha thương hàn đi rồi à?
- Chịu gì nỗi mà chịu!
- Bảo văn phòng xuất 3 thước vải đen. Tội nghiệp!
Rồi anh ta quay sang tôi:
- Anh nào hồi mới vô đây chỉ có sốt rét thôi. Nằm ở đây, chữa sốt rét chưa xong là bị thương hàn. Thương hàn chưa khỏi, dính luôn kiết lỵ. Anh ấy nằm ở trại cách ly, tội lắm! Nằm lâu quá lỡ cả lưng, loét cả mông …. Anh ta là tỉnh ủy viên đó, cho nên tiêu chuẩn được ba thước vải đen hơn anh em.
Mới tới lúc đầu, nghe anh ta nói, tôi hơi khó chịu nhưng dần dần tôi thấy anh ta nói có lý cho nên tôi mới trình bày chuyện của tôi một cách bình tĩnh. Tôi nói:
- Thú thật với đồng chí là tôi không biết gì về bệnh xá cả! Tôi cũng không có ý định vào nằm ở đây. Tôi chỉ xin nhờ các đồng chí tiêm dùm tôi mấy mũi kí-nin 0,40.
Anh y tá nhảy cỡn lên:
- Cái đó làm gì có ở đây. Vô lý! vô lý! Chúng tôi không thể nào giúp đỡ đồng chí được.
Tôi cười nhã nhặn và tiếp:
- Dạ tôi chỉ nhờ đồng chí tiêm dùm thôi, còn thuốc thì tôi có.
Vừa mới đến đó thì từ bên ngoài có một cái cáng đi vào.
Anh y tá lắc đầu:
- Tôi trốn mất! Tối rồi cũng nên cho người ta nghỉ với chớ!
Nhưng cái cáng vẫn đi vào.
Người bệnh nằm trên võng cứ ngóc lên múa tay loạn xạ như đấu võ với một đối thủ vô hình và mồm cứ la hét, cứ nói lải nhải không đầu không đuôi, có khi vô nghĩa, có khi có nghĩa như một tên say rượu.
Một tiểu đội đi phía sau để thay phiên nhau khiêng. Một cậu luôn luôn đi bên cánh chiếc cáng để đè bệnh nhân xuống khi anh ngóc dậy múa may, hoặc xé quần xé áo, lao mình xuống đất.
Khi vô đến nhà, hai người đặt cái cáng xuống giá. Một anh có vẻ là chỉ huy tốp người khiêng nói với anh y tá:
- Đồng chí này là trung đoàn phó đây.. Tiếng Liên Xô đồng chí ấy nói lẫy cò không kịp… Không biết bệnh gì kỳ cục quá. Cứ múa cứ hét như thế suốt đêm ngày. Có khi nói toàn chiến lược chiến thuật y như giảng bài..
Tôi không muốn nhìn lâu cái cảnh tượng não lòng ấy nữa. Đúng ra tôi muốn trở ngay lại trạm với Thu. Nhưng chiều đã xuống hẳn rồi. Giá mà tôi bẻ mấy ống kí-nin 0,40 tôi uống được thì tôi đâu có phải cực khổ thế này.
Tôi quảy ba-lô đi tìm chỗ ngủ, không nhờ ai dẫn cả. Tôi đi theo một con đường mòn dẫn xuống một cái láng lợp bằng lá rừng và ni-lông.
Tôi bước vô láng ngang nhiên xem mình là bệnh nhân đã được thuận vào nằm. Không có một cử chỉ nào của tất cả những người nằm trong láng tỏ ra vui buồn khi tôi bước vào. Vài người đưa mắt nhìn tôi, rồi thôi, làm như không có gì mới cả.
Láng chia làm hai phần. Một phần thì gồm có hai dãy sạp nứa ọp ẹp, trên đó các bệnh nhân nằm chen chúc sắp lớp như cá mòi. Còn một phần thì toàn võng, những cái võng mắc song song với nhau, chiếc này sát chiếc kia. Bệnh nhân chỉ nằm im chứ không lắc được. Nhìn suốt hai dãy sạp nứa, không thấy ai quen, không một chỗ trống. Tôi đưa mắt tìm chỗ trong dãy võng. Đây là chỗ lý tưởng nhất, nhưng không thể nào chen được!
Nền đất thâm sì. Mấy cái chén bể lăn lóc. Mấy đống ói mửa không ai hốt. Cơm vãi ra ở giữa láng. Dọc theo đầu sạp, những cái áo, cái quần treo tòng teng đã lên mốc. Từ tất cả những cái đó bốc lên một mùi chết.
Tôi trở ra ngoài tìm chỗ mắc võng, tự nhủ thầm rằng qua đêm nay thôi, từ nay về sau xin bái luôn các thứ bệnh xá. Ở ngoài trạm mình thấy bệnh mình nặng lắm, nhưng khi vào đây thì bệnh mình đúng là một thứ bệnh vặt vô nghĩa lý so với mọi người.
Tôi nôn nao muốn trở về ngay, muốn bay đi ngay. Khi tôi đi, Thu lo lắm. Vì tôi đi có một mình và Thu ở nhà một mình với Việt.
Tôi đang nằm suy nghĩ vơ vẩn thì có tiếng kẻng. Một que sắt gõ vào một cái vỏ đạn không thành nhịp thành hồi gì cả, làm như người gõ kẻng không có đủ thì giờ để làm cái việc đó cho trọn vẹn.
Tôi nhìn lại thì thấy thiên hạ chạy rầm rập về một hướng với ca, với bi-đông trên tay, leng keng lộp cộp, như một cuộc chạy đua hỗn loạn mà đích tới chắc chắn là nhà ăn.
Tôi biết là giờ cơm.
Tôi có thức ăn nhưng không có cơm, tôi phải đi lãnh cơm. Kinh nghiệm ở đường dây cho tôi biết rằng nạn ăn cắp rất thịnh hành. Cho nên khi tôi lọ mọ cuốn võng xong, mang ba-lô tới nhà bếp thì người ta đã tràn vào kín cả một gian nhà, tôi không chen vào được.
Người ta kêu lên có vẻ vui mừng:
- Tuyết Mun phát cơm bây ơi!
- Thế hả. Vậy là mình có thêm tí cháy!
- Con Tuyết Trắng phát thì đói meo.
Trời mưa lâm râm vừa đủ ướt áo. Cái mùi đất đặc biệt của bệnh xá do hằng trăm thứ pha trộn, bốc lên xộc vào mũi tôi làm cho tôi chốc chốc lại phải sịt mũi một cái hoặc nhón chân lên ngửa mặt lên trời mà hít một hơi thật dài cho căng hai lá phổi ra.
Cái mưa ở rừng tuy không buốt, nhưng nó dai dẳng héo ruột héo gan chẳng khác mưa phùn miền Bắc là mấy.
Mọi người phải chen chúc nhau đứng trong nhà vây quanh thúng cơm. Cái thúng cũ thâm đen đã rách, đựng cơm trắng bốc khói mù mịt. Tuyết Mun, một cô gái vừa gầy vừa đen đúa như tên gọi cô ta, tay cầm danh sách bệnh nhân đọc to lên. Anh nào anh nấy ngóng cổ lên nghe, khi đến tên mình thì đáp lại một tiếng “có” rất to, như tự xác nhận rằng : “tôi đang đợi ở đây khi Đảng gọi để lãnh cái khẩu phần cơm gầy còm mà tôi có quyền hưởng thụ.”
Đọc một lượt 8 tên thì Tuyết Mun lại phát cơm. Một khẩu phần một bát sét. Nếu nắm lại thì được một nắm lỏng lẻo.
Những cái ca, cái đĩa nhôm chen vào, chìa vào tua tủa kín cả thúng cơm, tranh nhau lãnh trước (vì lãnh sau có khi hết cơm, hoặc không đủ cơm, khẩu phần rút xuống kém hơn), Tuyết Mun gạt phắt ra và quát ầm lên.
Vài anh cứ thò tay bốc lấy một cục, hoặc bẻ một miếng cháy bỏ vào mồm nhai rau ráu.
Cứ tám anh thì lập một nhóm, lãnh cơm xong thì sang lãnh thức ăn. Rồi kéo nhau ra ngoài giữa trời mưa lúm xúm chia với nhau, chí choé. Tôi nhìn thấy mỗi mẩu thịt thâm đen to bằng từng lóng tay một.
Tôi nghe một người nói:
- Hôm nay mỗi đứa lãnh được một cái má “phanh” xe đạp!
- Không! một mẩu dép lốp cao su.
Tôi đứng chờ cô Tuyết Mun phát đến khẩu phần cuối cùng để tôi xin lãnh cơm thì cô ta đáp:
- Anh mới vô đâu có báo cho nhà bếp?
- Cô cho tôi lãnh gạo được không?
- Thôi được, để tôi giải quyết cho!
Nói xong Tuyết Mun quay vào bếp một chốc, trở ra trao cho tôi một dĩa nhôm đầy cơm và nói:
- Khẩu phần của tôi và Tuyết Trắng đó.
Tôi thấy Tuyết Mun tuy da dẻ đen đúa nhưng duyên dáng mặn mòi, có lẽ cô ta ít bị sốt.
Tôi cầm lấy dĩa cơm và vui vẻ hỏi:
- Ở đây có một cô Tuyết nữa hả cô?
- Còn chị Tuyết Trắng. Em cũng tên Tuyết nhưng vì đen nên người ta gọi em là Tuyết Mun.
Tôi lãnh cơm xong định quay về chỗ cũ thì Tuyết Mun hỏi:
- Anh ở Miền Bắc phải không?
- Phải!
- Về Ông Cụ phải không?
- Phải, về Nam Bộ.
Tuyết Mun vui vẻ:
- Em hỏi anh câu này nhé!
- Cô cứ hỏi đi!
- Nhưng mà anh phải trả lời cho thiệt nhé. Anh hứa đi.
- Ừ, hứa thì hứa.
Tuyết Mun ngập ngừng một giây rồi nói:
- Nghe nói bà con mình ra Bắc khó ở lắm phải không anh? Vì vậy cho nên hồi 1957 sau khi thời hạn tổng tuyển cử đã qua mà không có tổng tuyển cử thì anh em mình biểu tình đòi về dữ lắm phải không anh? Em có một người anh đi ngoài đó nên em lo lắm!
Bị hỏi bất ngờ, tôi chỉ cười trừ và hỏi lại Tuyết:
- Ai nói với cô vậy ?
- Đó, anh không chịu trả lời thấy chưa? Như vậy nghĩa là có rồi! – Tuyết vui vẻ hỏi tiếp – Em nghe nói mấy bà chị trong mình lấy chồng Bắc khi tập kết ra Bắc đều đụng đầu một bà răng đen ở ngoài đó có không anh?
- Các cô thiệt! – Tôi nói tiếp – thiếu gì chuyện mà không hỏi, lại hỏi những chuyện kẹt không hà! Thôi để bữa nào rồi tôi trả lời!
Tôi trở về chỗ cũ mắc võng ăn cơm rồi nằm dưỡng sức.
Tôi nhìn vào láng thấy một cô gái đang dắt một người sờ soạng đi ra. Tuyết Mun cũng đã xuống láng hồi nào đang ngồi cho một anh khác uống thuốc. Xong Tuyết Mun lại ra chỗ tôi, tay cầm một cái áo bẩn chua lòm, tay cầm cái chai dốc ngược xuống:
- Hết trơn anh ạ! Tội nghiệp thật! Chỉ cần một chai này là mắt anh ấy trông thấy trở lại thôi. Ở đây nhiều người không thấy đường chỉ vì thiếu sinh tố D, sinh tố A. Chịp! Đành chịu mù!
Tôi vui vẻ hỏi Tuyết:
- Nghe nói ở trong mình các chị em chờ cán bộ Mùa Thu về dữ lắm phải không cô? – Tôi nói tiếp – Tôi còn nghe rằng các chị em hứa sẽ trừ tuổi cho họ nữa.
- Trừ tuổi thế nào? – Tuyết Mun vặn hỏi.
- Trừ tất cả những năm họ sống trên miền Bắc. Ví dụ như anh 38 tuổi mà sống ở Miền Bắc 12 năm thì về tới trong Nam chị em coi anh ta như thanh niên nheo nhẽo 26 tuổi!
Tuyết Mun cười:
- Ai nói với anh vậy?
- Có thư trong Nam ra mà.
- Ai viết chứ riêng em thì không có viết và chưa thấy ai viết lá thơ nào như vậy.
Rồi Tuyết Mun đi thẳng.
Tôi sống một đêm ở giữa cái tổ vi trùng tổng hợp mà tưởng như vi trùng đột nhập vào cơ thể mình bằng mọi ngả của châu thân. Sống một đêm với tiếng gào thét của anh trung đoàn phó nhập trại từ chiều và với cảm giác rằng đây là nơi tập trung bệnh tật của trái đất.
Tôi mừng vô kể khi thấy trời sáng. Tôi định bụng chỉ nhờ tiêm cho tôi hai ống kí-nin 0,40 rồi cút đi ngay.
Nắng lên. Hơi đất bốc lên nồng nặc. Lâu ngày không tắm, quần áo tẩm mồ hôi, chăn võng ẩm ướt, lá mục đẫm nước mưa cùng với mùi bông băng thuốc đỏ, cơm cháo thiu, tất cả những thứ đó làm cho tôi ngặt mình, hai cuống phổi như bị nghẹt, trán, lưng đẫm mồ hôi và đầu hâm hấp nóng.
Trước cửa láng có một tốp người cởi áo phơi nắng như một đàn gà bịnh toi, xụ cánh gục đầu. Gần võng tôi hơn, có hai người ghẻ mọc đầy mình, da sần như da rắn hù ri cóc cũng ngồi phơi nắng. Người này lấy que nứa cạo lưng, cạo tay, cạo khắp châu thân người kia. Những mẩu phấn tróc ra từ những đốm lát ghẻ bay lên trong nắng như cám.
Một người ngồi trên một cái rễ cây mục cạo một bánh thuốc bộc phá và lấy một mẩu giấy con xúc từng tí một rắc vào những mục ghẻ loét trên đùi. Đáng thương nhất là một anh bị bệnh phù thũng. Anh ta không mặc quần áo được vì người anh sưng to lên quá mức tưởng tượng . Anh lần tay theo từng thân cây đi ra nắng tìm chỗ ngồi. Anh ta ngồi xuống một gốc cây một cách nặng nhọc. Anh ngồi đó rất lâu, không cử động. Gương mặt anh sưng bự ra, hai mắt híp lại còn nhỏ tí. Hai chân anh sưng phù như chân voi.
Lâu lắm tôi mới thấy anh cử động. Anh đưa một ngón tay ra ấn xuống bàn chân sưng phù của anh. Anh lấy ngón tay ra rồi chăm chăm nhìn bàn chân với cái lỗ thủng mà đầu ngón tay vừa gây ra. Cái lỗ thủng có thể chứa nửa chung nước.
Tôi cuốn võng, quảy ba-lô đi lên văn phòng. Ở đây người ta đang vây quanh anh trung đoàn phó đang múa may bứt quần bứt áo. Mấy người cận vệ của anh không kềm nỗi. Anh ta nói tiếng Liên Xô, tiếng Trung Quốc, mồm anh ta sùi bọt, mắt anh ta trợn lên. Anh ta đã hò hét suốt đêm nhưng chưa thoả mãn.
Từ phía trong bệnh xá, hai người khiêng ra một cái võng phủ vải đen. Tôi nhớ lại chiều hôm qua anh “cán bộ béo mắt lộ” bảo xuất ba thước vải đen cho người chết. Chính là người này đây. Và khi vô đây, tôi cũng thấy một cái huyệt mới đào. Cũng chính cho anh này đây. Tỉnh ủy viên nên được ba thước vải đen hơn người phàm.
Mọi người im lặng, cúi đầu.
Khi chiếc võng đã đi xa, mỗi người một câu, một cảm tưởng, thương xót lẫn mỉa mai.
- Thế là mất không !
- Thế là nó đã trung với nước hiếu với dân rồi!
- Cái đếch! Chết cho rảnh nợ.
- Tầm bậy! Anh ta vô Nam trước mình!
Tôi ngao ngán vô cùng. Tôi nhờ anh y tá mắt lộ tiêm dùm thuốc. Anh y tá tiêm ngay mỗi bên mông một mũi.
Rồi ba chân bốn cẳng tôi thoát khỏi khu vực này với tốc độ nhanh nhất. Tôi nhìn thấy lại cái chỗ mắc võng cũ của tôi bên cạnh Thu ở trạm như Christophe Colomb tìm thấy đất liền . Hú vía!


CHƯƠNG 20

Hôm sau thì tôi lên đường với Việt và Thu. Thật ba người là ba người riêng rẽ không thể nào kết thành một khối được. Tôi thì không thích Việt, Việt thì đi chung với Thu mà có tôi bên cạnh thì chẳng khác nào gặp một con kỳ đà to tướng. Thu thì thích tôi nhưng lại cảnh giác với tôi, còn tôi thì thích Thu nhưng lại lúc nào cũng sợ Thu phản đối cho nên cái hình tam giác mà ba chúng tôi mỗi đứa là một đỉnh, thật không ai tìm ra nổi cái diện tích và giá trị của mỗi góc độ. Một cuộc hành quân như vậy nếu có gặp địch thì chiến đấu làm sao?
Chúng tôi đổ ra đường cái thì gặp một cụ già. Cụ ấy là cụ Chín Sử. Không rõ làm nghề gì trong ngành giáo dục nhưng cụ nung nấu ý chí về Nam ngay khi ra Bắc. Cụ nói có chết sẽ về Nam mà chết. Vì thế cụ quyết xin về. Những người lãnh đạo xét tới xét lui và sau cùng đã quyết định cho ông già 54 tuổi vượt Trường Sơn bằng cặp chân mỏi gối đùn.
Tôi gặp cụ già ở trạm ba. Lúc đó tôi còn khoẻ lắm, tôi khinh thường núi non đèo dốc, khinh cả túi thuốc trong ba-lô. Ông Chín đã “ăn pan” dọc đường . Mới đi có vài trạm mà cụ đã sưng đầu gối. Hai cái bánh chè của cụ khô hết nước nhờn nên cái khớp xương đầu gối không co giãn như thường lệ được.
Cụ nai nịt theo kiểu cầu thủ đá bóng. Khi đi đường cụ mặc quần đùi, đeo “băng đầu gối” và “băng mắt cá” chỉ thiếu đôi giày đinh nữa là thành cầu thủ. Cụ giắt lá cây từ mắt cá lên tới đầu, chung quanh nón, không để một chỗ nào hở hang mà phi công Mỹ có thể nhìn thấy và nhận định được rằng đó là một con người đang di động.
Trong ba-lô của cụ có không biết bao nhiêu sâm Triều Tiên. Mỗi khi nghỉ thì cụ lấy nguyên củ ra gặm như người ta buồn miệng gặm chơi một củ cải đường nho nhỏ.
Tôi đi vượt ông già không biết bao nhiêu trạm bây giờ mới gặp lại đây.
Tôi nói ngay:
- Chốc nữa cháu sẽ biếu cụ một món ăn đặc biệt.
Lão già nghe nói thức ăn bèn tố khổ ngay:
- Mấy đứa quen mang dùm thức ăn cho tôi rồi đi thẳng luôn phía trước, tụi nó thấy tôi đau mà không gởi trả lại tôi. Thế mới buồn!
Tôi hơi bực:
- Sao cụ lại gởi thức ăn cho người ta mang như vậy?
Cụ già thở dài tỏ ý hối hận:
- Thì nào ai đã đi hai lần trên đường này mà có kinh nghiệm? – Cụ tiếp – Tôi cũng tưởng rằng đường đi dễ dàng, người đi trên đường có thể dừng lại đợi nhau bất cứ lúc nào chớ đâu có ngờ mà nó ác nghiệt như thế này!
Ông già lại thở dài:
- Đường sá gì kỳ cục quá!
Cụ già hôm nay trông thật bết bát. Đôi mắt cụ khép nhỏ lại, ti hí vừa đủ nhìn. Khuôn mặt cụ tóp lại như một miếng cau khô. Những nếp nhăn chứa đầy mồ hôi như một trái khóm chín rục ứ đầy mật sắp tràn ra.
Cây lá giắt đầy mình cụ làm cho cụ trở thành một bụi cây di động trên đường. Mỗi bước đi làm cây lá rung lên xào xạc.
Tôi lại hỏi:
- Như vậy cụ không còn thức ăn nào trong ba-lô hết sao?
- Còn chứ, còn một ít ruốc chà bông, vì nó nhẹ nên tôi để mang lấy. Cha chả! chơi cái mửng này thì hết chỗ chê rồi, nào thịt kho mặn, nào muối trắng, nào muối sả, muối tiêu của bà con làm riêng cho tôi, nào trà Chính Xuân hoa nhài tôi cũng giao hết cho tụi nó mang luôn. Bây giờ tôi thèm một chung trà hết sức, ước gì uống được vài ngụm, tôi có thể lội hằng chục cây số liền như chơi.
Thấy ông già đau khổ, tôi không muốn khơi thêm nữa. Tôi lặng lẽ đi lùi lại phía sau lưng lão. Trên đường này những chuyện bình thường thì ít còn những chuyện kỳ cục thì không sao kể cho hết được. Ngay mỗi một người đi trên đường này cũng đã là một sự kỳ cục quá ư to lớn rồi.
Bỗng nghe tiếng quát:
- Máy …ba….ay..!
Tôi dừng lại dớn dác nhìn, chưa thấy gì cả, chỉ nghe tiếng động cơ mơ hồ. Có lẽ có một chiếc máy bay đang di chuyển về phía này nhưng tàng cây lá um tùm làm gì nó thấy mình được? Vậy mà tôi không thấy ông Chín ở đâu nữa. Tôi sợ ông già đã ngã xuống một cái hố nào bên lề đường mà tôi không hay. Tôi vội kêu lên inh ỏi:
- Ông Chín ơi! ông Chín! Ông…!
- Sụyt! suỵt! Làm cái gì om sòm vậy?
Một tiếng nói thì thầm chen với tiếng lá cây xào xạc bên tôi. Tôi nhìn lại thấy giữa những nhánh cây có hai chấm sáng quắc đang chiếu về phía tôi thì tôi biết là ông Chín đang đứng đó.
Ông Chín đứng nép sát vào một thân cây cổ thụ và chung quanh đầy những bụi cây rậm. Không biết làm cách nào mà ông nhảy thót vào đứng ở chỗ đó nhanh đến thế?
Ông Chín khe khẽ đưa bàn tay rẽ những cành lá và vẫy vẫy tôi:
- Tránh mau! Trá…ánh ! Nó tới rồi!
Thấy tôi cứ đứng im không chịu trốn, ông Chín thò tay ra níu lấy áo tôi lôi vào bụi cây và nói:
- Sao cứ đứng chết ở đó hả? Đồ ôn dịch! Nó thấy là toi cả lũ nghe chưa?
- Thấy sao được mà thấy ông già!
- Sao không thấy? … Chứ … chứ nó thấy mình khó hay mình thấy nó khó?
Tôi đáp:
- Nó thấy mình khó chớ mình thấy nó dễ.
- Nhưng hễ mình thấy nó thì nó thấy mình!
- Ai bảo cụ vậy? – Tôi phát cáu – Cụ làm như nó có phép vậy.
Cụ già cũng không chịu thua:
- Nó không có phép mà bay được trên trời à?
- Nó bay thì nó bay chớ!
Hai người còn cãi thì chiếc trực thăng bay tới. Chỉ có một chiếc thôi. Tiếng động cơ nghe to quá. Pành pạch, pành pạch! Cơ hồ như nó đến ngay trước mặt, trên đầu mình. Ông Chín rút sát vào thân cây.
Tôi thấy bàn tay của ông ta nhè nhẹ kéo những cành lá che lên đầu mình. Dường như ông sợ cử động mạnh máy bay sẽ nghe thấy.
Đã vậy cụ còn giục tôi:
- Đứng nép vào!
Nhưng tôi cố thò đầu ra khỏi thân cây mà nhìn tiếp xem chiếc máy bay đi về hướng nào. Cụ già nắm lấy vai áo tôi mà lôi vào:
- Đã bảo nó trông thấy mà!
- Thấy thấy cái gì? Nó bay tận mây xanh!
Nhưng ông cụ cứ lôi tôi, ấn tôi sát gốc cây và nghiến răng ken két:
- Mây xanh gì! Nó tới kia kìa!
Tôi đành phải nghe lời ông gìà. Tiếng máy bay pành pạch có vẻ như nó quần ở khu vực này.
Ông Chính càu nhàu bên tai tôi:
- Nó trông thấy đồng chí rồi đó, thấy chưa? Khổ quá! Tôi đã bảo hễ mình trông thấy nó, nó trông thấy mình mà!
Nhưng tôi không tin như vậy. Tôi đứng nép vào gốc cây mà ló đầu ra nhìn như lúc nãy. Nó không thể nào thấy được. Tại mình sợ quá, cho nên mình cứ nghĩ là lúc nào nó cũng có thể trông thấy mình.
Tôi chọc tức ông già.
- Tại nó trông thấy cụ chứ!
- Sao trông thấy được?
- Tại vì cụ nhúc nhích!
- Tôi nhúc nhích, nó cũng không thấy được tôi.
- Nó thấy cụ ngụy trang nhiều quá.
- Ngụy trang nhiều thì tốt chứ sao?
- Nhưng khi cụ nghe động cơ thì cụ nhảy phốc vào bụi. Thằng phi công nó biết là có người ta chạy trốn, mặc dù nó thấy có lá cây thôi.
- Hừ! Thằng phi công khôn nhỉ?
- Khôn chứ không khôn thì làm sao nó làm phi công được. Cụ thử nghĩ xem bụi cây gì biết chạy? Đang đi giữa đường lại nhảy phốc vào kia rồi đứng im, không phải người ta là cái gì?
Ông Chín lặng im. Một chốc máy bay đi xa, ông Chín thở dài thườn thượt và nghiêm nghị.
- Đồng chí chủ quan khinh địch quá!
- Không! Tôi không chủ quan. Cụ sợ quá nên cụ đánh giá địch quá cao.
Ông già càng nghiêm nghị hơn lên:
- Nè! Tôi không có đùa đâu nhé!
- Thì tôi cũng nói thật mà! Tôi đâu có chủ quan, tôi chỉ bình tĩnh thôi. Cụ trốn thì tùy cụ, còn tôi không trốn là quyền của tôi.
Ông Chính đưa tay vạch lá và ló hẳn cái mặt mồ hôi ròng ròng ra ngoài và nói:
- Quyền của đồng chí hả? Ở đây không ai hoàn toàn có quyền về mình nghe chưa? Ở đây là tập thể, là chủ nghĩa cộng sản văn minh, mặc dù ở giữa rừng rú nhưng không phải là cộng sản dã man, ăn lông ở lỗ. Không phải ai muốn làm gì thì làm nghe chưa?
Nghe ông già giỡ Các Mác ra để tranh luận về một việc trốn máy bay, tôi suýt bật cười, nhưng sợ cụ già thêm nổi xung lên nên tôi đành nhịn.
Đường càng đi càng dốc.
Lắm lúc anh giao liên đứng ngất ngưởng trên cao quát xuống: “Mau lên các đồng chí ơi!”
Cứ hết một cái dốc, mình vừa thở phào định nghỉ xả hơi lại đến một cái dốc khác rồi cái dốc đó vừa qua thì lại thêm một cái dốc cao hơn nối tiếp. Tôi quát trả lại anh giao liên:
- Mau cái gì được mà mau? Nè tôi nói cho mà biết nghe, chúng tôi là con người hẳn hoi chứ không là máy nghe chưa? Máy kia chạy còn phải nghỉ ngơi cho mát máy, xăng nhớt cho đầy rồi mới chạy tiếp huống chi là người?
Chúng tôi tới trạm lúc mặt trời sắp lặn. Bộ đội đã ngồi đầy đặc cả lối đi và trong rừng . Đáng lẽ họ đi luôn trạm này rồi, nhưng họ phải đùn lại đây vì kẹt đường. Anh giao liên nghe tin đó mà sảng sốt kêu lên:”Kẹt đường rồi à? Kẹt đường rồi à?”
- Kẹt rồi!
- Ai nói?
- Thì tụi tôi ngồi chình ình đây, không kẹt là gì!
Tôi chưa hiểu sự kẹt đường nó quan trọng đến mức độ nào, nhưng nhìn vẻ mặt hớt hãi của anh giao liên thì đoán ra đó là một tai nạn lớn vô cùng.
Anh giao liên chạy bay tới trước vừa chạy tất tả vừa kêu:
- Kẹt thì bỏ mẹ rồi! Gạo đâu ăn?
Chính đó là một đại họa rồi. Từ cái sự không gạo ăn đó sinh ra vô số tai họa khác: trộm cắp, phá tán, đánh cá dưới suối bất kể lộ bí mật v.v…
Ông Chín lần mò tới sau.
Có lẽ thấy chúng tôi chỉ có mấy ngoe hay vì có “chất tươi” nên giao liên đưa thẳng chúng tôi vô trong trạm.
Trạm là một ngôi nhà cao cẳng của người Thượng đã bỏ đi lúc nào. Trước nhà có một cái sân nho nhỏ mòn nhẵn và một lối đi hút vào trong rừng.
Đi tới một trạm mới là cả một niềm vui, chúng tôi cảm thấy đường đi rút ngắn được một quãng dù rằng trên thực tế nó chẳng có là bao. Bởi vì đường không ngay thẳng mà nó lòng vòng, leo lên tuột xuống , có khi đi cả ngày đến chừng quay lại nhìn thì vẫn thấy nơi xuất phát ở ngay sau lưng mình.
Ba đứa chúng tôi không ai bảo ai bèn chui xuống sàn nhà mắc võng. Thiệt là vui khi được ở trong nhà. Tôi còn hiểu thêm rằng, nếu một đoàn người bị đùn lại thì đoàn sau vẫn cứ đi tới, lại đùn. Nếu không thể khai thông đường được thì trạm này sẽ nối liền với trạm kia bằng một sợi dây mà mỗi mắc dây là một con người.
Chúng tôi được nấu cơm trong nhà, khỏi phải che lửa, tắt lửa khi có máy bay tới.
Đó lại cũng là một diễm phúc quá lớn đối với chúng tôi. Trong lúc chúng tôi sửa soạn bếp núc thì ông Chín lại lò dò đi ra rừng. Chập sau ông trở vào với một ôm nhánh cây.
Tôi hỏi:
- Cụ làm gì đó?
- Ngụy trang.
- Ngày mai kẹt đường đâu có đi được mà cụ lo dữ vậy!
Cụ già làm thinh không nói không rằng chi cả, cứ lui cui nhặt những nhánh cây và đi trải khắp mặt sân. Trời đất! Ông già ổng định ngụy trang cho cả cái sân này.
Tôi thấy thương ông già vô hạn. Đúng là một ông già. Một thằng trẻ không thể nào quan tâm đến việc đó dù rằng việc đó có thể gây tai hại chăng nữa.
Ông Chín vừa rải lá trên sân vừa giải thích với chúng tôi rất hùng hồn.
- Tôi hỏi các đồng chí, tại sao ở giữa rừng như vậy lại có một cái nhà và một cái sân? Có thể máy bay nó không biết, nhưng đâu phải chỉ có máy bay do thám mà thôi. Giặc nó còn thả biệt kích nữa chứ, máy bay nó thấy cái nhà và cái sân, cố nhiên nó phải nghi ngờ thì nó sẽ hỏi tụi biệt kích! Như vậy là mình bị lộ ngay.
Ông già giải thích theo lối suy đoán chủ quan của ông ta, nhưng nghe cũng có lý. Vả lại việc của ông không làm mệt nhọc chúng tôi cho nên chúng tôi chấp nhận sự hữu lý của cụ một cách dễ dàng.
Cụ già phủ cả cái sân và phủ luôn cả con đường mòn đi vào rừng. Cụ làm xong việc đó thì trời tối mịt.
Cụ lên nhà. Anh trạm trưỏng và hai anh giao liên cũng không tự ái về sự tự động của cụ già. Tất cả khách lẫn chủ đều tấm tắc khen ông già.
Ông Chín lấy làm khoái chí vì thấy không ai phản đối mình. Ông Chín giải thích thêm:
- Tụi phi công là gớm lắm. Tụi nó có con “mắt thần” hiểu chưa? Ban đêm nó nhìn thấy rõ như ban ngày ấy. Súng phòng không của mình phủ kín lá ngụy trang mà nó nhìn còn thấy đó! Bởi vậy cho nên hễ nó đánh là đánh trúng ngay trận địa chứ không sai bao giờ.
Bữa cơm chiều nay thật là vui vẻ. Chúng tôi nấu xong mang cả lên nhà sàn ngồi ăn quây quần với nhau. Tôi và Thu đem ra một tí lương khô chó mới bào chế ra thết trạm và ông Chín, để tỏ lòng biết ơn trạm đã cho chúng tôi vô ở cùng trạm và để tỏ lòng kính phục Cụ già Ba Tri. Cơm xong chúng tôi vừa ngã lưng ra võng là có hai người tới. Hai người này đi thẳng lên thang làm cái nhà sàn rung rinh.
Sau đó chúng tôi được biết một người là chỉ huy phó và một người là quản lý đường dây.
Anh chỉ huy ném ba-lô xuống sàn nhà và thở phào:
- Kẹt cái kiểu này thì thắt họng!
- Dạ!
- Mỗi ngày mà cứ ùn thêm vài ba trăm con người ta, ùn lại độ năm ngày thì hơn ngàn rưỡi con người ta , mỗi ngày mỗi người một lít gạo lấy đâu ra mà cấp cho họ?
- Dạ! – anh trạm trưởng chỉ có mỗi tiếng “dạ” như để chấm câu cho ông chỉ huy phó.
- Kho bây giờ lại bị tắt không bổ sung được chỉ hôm nay là hết gạo ngay. Bởi vậy cho nên mình phải lo “Xoi” đường ngay. Phải xoi ngay!
Tôi đã từng nghe những tiếng như làm đường, mở đường, nối đường, thông đường v.v… chứ chưa nghe hai tiếng “xoi đường” bao giờ! Nghe cái tiếng “xoi” tôi cũng đã hiểu là sự khó khăn lớn lắm. Bởi vì nếu dễ dàng thì người ta chỉ nói “mở đường” thôi. Vì sự dày đặc của núi rừng, vì tình hình giặc, người ta phải dùng một vật vừa sắc vừa nhọn mà đâm, mà ngoáy rất lâu mới thủng được cho nên mới goị là “xoi”.
- Xoi cho thủng, còn xoi không thủng thì chết đói…
Nói vậy rồi ông chỉ huy phó cùng ông quản lý đường dây dắt ông trạm trưởng đi ngay.
- Xoi đường!
Họ đi làm cái nhiệm vụ đó, còn chúng tôi thì nằm lại đây chờ và cảm thấy số phận mình tùy thuộc cuộc đi xoi đó của họ.
Tôi lân la trò chuyện với ông Chín. Tôi được biết thêm rằng ông Chín người ở Gia Định. Ông đã xin về Nam rất nhiều lần, nhưng lần nào ông cũng thất vọng vì tuổi tác của ông. Nhưng ông không thất vọng, ông lo bồi bổ sức khoẻ ngày lại ngày, ông thấy khoẻ hơn lên và ông lại xin về.
Cấp trên thấy quyết tâm của ông rất lớn, vả lại để một lão già ở Miền Bắc cũng chẳng làm nên cơm cháo gì. Thôi thì cho lão đi. Lão ta tới nơi thì lãnh đạo được tiếng sáng suốt, còn nếu lão ta có chết bờ chết bụi thì cũng không làm sao vì đó là nguyện vọng của lão ta mà! Thế cho nên ông Chín được đắc ý và quảy ba-lô đi vào trường đi B để được mang gạch lội bộ trong 3 tháng trước khi thực sự leo dốc trèo đèo.
Ông Chín vui vẻ nói với tôi:
- Trước khi lên đường một ngày, chiếc xe chở đoàn tôi đi chơi bị xe lửa đụng chết hết cả xe, chỉ còn mình tôi sống sót. Bị xe lửa đụng mà không chết thì có lẽ không bao giờ tôi chết nữa!
Ông Chín nói xong rồi mở ba-lô lấy một củ sâm bằng ngón tay ra gọt gọt bỏ cả vào bi-đông rồi châm nước sôi tiếp theo. Ông lắc lắc cái bi-đông:
- Tôi không nhờ cái món này thì tôi chết lâu rồi!
Uống nước xong ông Chín lên võng nằm, còn tôi cũng không xuống sàn nhà làm gì. Lâu lâu mới được nằm ngay lưng trên vạt một đêm, kể cũng sướng, cho nên tôi cứ nằm ngay tay chân ra cho thoải mái mà nghe ông Chín kể chuyện.
Ông Chín không kể chuyện nữa, mà ông tâm sự. Ông nói:
- Bây giờ đến tỉnh tôi chỉ mong ước làm một việc là dạy học trò. Dạy lớp mấy cũng được. Tôi là thầy giáo đã từng dạy 2 thế hệ, dạy cha rồi dạy con. Tôi không thích công chuyện nào hơn dạy học. Tôi ước mong sao đi về tới nơi, tôi được một cái trường học lợp lá núp dưới bóng cây vườn với vài mươi đứa trẻ. Tôi dạy chúng từng chữ, và một hôm nào đó, tôi nhìn ra cửa, có một người lạ mặt đến thăm tôi và tự xưng là học trò cũ của tôi.
Tôi buột miệng nói:
- Tôi là Carnot đây thầy còn nhớ tôi không?
Ông già đang nằm bỗng ngồi dậy đập vào vai tôi một cái rõ đau.
- Đúng! Đúng quá! Đồng chí nói trúng tim đen của tôi. Và đó là phần thưởng xứng đáng nhất của tôi.
Nhưng từ phút vui sướng trở đi, ông Chín không nói động tới việc dạy học nữa. Ông nằm lặng thinh. Một chập sau tôi mới biết ông Chín khóc. Ông sụt sùi rồi hỉ mũi rất to khi ông biết rằng ông không giấu được tiếng khóc đối với tôi.
Ông Chín nghẹn ngào:
- Nhưng tất cả những điều đó chỉ là ước mơ thôi.
- Tại sao vậy Cụ?
- Hừ … hừ… ! vì nó xa vời quá!
- Sao lại xa vời, mình đi hết một phần ba rồi.
- Còn hai phần ba nữa mới tới nơi! – Ông Chín ngưng một chốc – Trong lúc đó thì sức lực của mình đã xài hết ba phần tư rồi, hai điều đó mâu thuẫn hẳn lại với nhau. Lâu nay tôi đã suy nghĩ về việc này, nhưng không tiện nói với ai bởi vì sự sa sút tinh thần của mình sẽ lây sang những người bên cạnh.
Tôi thấy ông Chín chỉ là người đáng thương và đáng kính, một nhà mô phạm trên đường dây gian nan này!
Ông Chín nói tiếp:
- Sở dĩ không trở ra Bắc là vì nếu trở ra thì không có hy vọng đi vào nữa. Thôi thà về gần tới quê hương rồi có gục ngã cũng vẫn hơn là đi xa biệt mù không thấy bóng dáng quê nhà. Dù mình có chết thì cũng chết trên đường về.
Tôi nói, mà không tin ở lời nói của mình:
- Anh em sẽ thay phiên nhau mà dìu Cụ cho đến ranh Nam Bộ chớ!
- Không! tôi không để cho anh em phải nhọc nhằn vì cái thân già của tôi!
Trời đất! Sao hết chuyện này đến chuyện khác mà toàn chuyện thảm não không vậy? Mới vừa đục xong cái mộ bia cho anh bạn không quen ở trạm vừa rồi thì lại đụng ông già tàn phế này.


CHƯƠNG 21



Bộ đội ở ngoài rừng nấu nướng lửa đỏ rực khắp nơi. Anh giao liên đã trở về. Tự nãy giờ anh đi la ó vể việc tắt lửa mỗi khi có máy bay đến. Anh vừa leo lên thang vừa càu nhàu:
- Vô kỷ luật nhất là bộ đội! Ông nội ai bây giờ la hét cũng không nỗi. Máy bay tới bên đít mà thổi còi muốn lạc giọng cũng không chịu tắt lửa cho! Mặc kệ mẹ, tao không thèm la nữa, thí mạng cùi đó. Thằng nào muốn làm gì thì làm!
Ông Chín không tán thành cái thái độ của anh giao liên. Ông ta chúa sợ máy bay, làm sao ông nằm im được với cái cảnh bếp núc lửa khói loạn xạ như vậy?
Ông leo xuống thang và quờ quạng đi ra nhóm bộ đội gần nhất ở ven rừng. Giao liên không cho họ vô tới đây, nhưng họ không nghe, cứ chỗ nào thuận tiện thì họ tới. Thấy ông Chín đi dẹp cái trận “hoả công”, anh giao liên phì cười:
- Ông ngoại mà bảo họ nghe, về đây con lạy ông tới sói trán ăn thua!
- Tao không cần lạy!
- Vậy con cõng ông ngoại đi suốt một trạm.
- À, nhớ đấy nghe! Nhớ nghe các đồng chí!
Rồi ông Chín xăm xăm đi thẳng tới nhóm bộ đội đang chụm lửa rần rần ngoài rừng.
Ông Chín dừng lại và ôn tồn cất giọng:
- Tôi xin có ý kiến một chút các đồng chí! Các đồng chí ơi!…tôi xin có ý kiến một chút!
Có người ngước lên nhìn. Có lẽ anh này ngạc nhiên vì ở giữa rừng Trường Sơn lại có một lão già đầu râu tóc bạc như vậy.
Ông Chín nói tiếp:
- Tôi thấy các đồng chí chụm lửa to quá, sợ máy bay nó trông thấy chăng? Yêu cầu các đồng chí chụm ít ít một chút để khi có máy bay ở xa thì tắt cho nhanh, cho kịp. Nó xài toàn phản lực, hễ mình nghe tiếng nó thì nó đã bay qua rồi.
- Không sao đâu cụ, chúng tôi có trực ban hễ có tiếng động cơ là a-lê-hấp chúng tôi ngậm nước phun cái phèo, thế là tắt rụi hết trơn.
Ông Chín vẫn ôn tồn và kiên nhẫn giải thích.
Một giọng đáp lại:
- Thôi bỏ đi bố già, để chúng con nấu ăn cho chóng rồi còn nghỉ ngơi. Mệt bỏ mẹ rồi đây, lại còn huấn từ. Cụ có rổi thì về nằm nghỉ đi.
- Ơ hay! Những người khôn ngoan là những người chịu nghe lẽ phải. Tôi nói thế các đồng chí không nghe ra thì còn chờ đợi cái gì?
Một người nói:
- Tôi đói tôi cần ăn cơm chớ không cần gì hết! Ai quấy rầy tôi, người đó không biết lẽ phải.
Một người khác lại tiếp:
- Đói thì ăn cơm chớ kỷ luật không ăn được. Cụ muốn gì thì về nói với đơn vị cụ! Chúng tôi có cấp chỉ huy của chúng tôi.
Ông Chín vẫn bình tĩnh:
- Vậy thì tôi yêu cầu gặp cấp chỉ huy của các đồng chí để tôi bảo cấp chỉ huy của các đồng chí ra lệnh cho các đồng chí dập lửa.
- Chính cấp chỉ huy của chúng tôi cho phép chúng tôi nấu ăn đấy. Cụ xem, toàn đơn vị nổi lửa mà!
Ông Chín lặng thinh, ông bực tức lắm. Ông quay về nhà, nói với anh giao liên:
- Đồng chí ra mà bảo họ chứ tôi chịu thôi. Bộ đội gì mà kỳ cục quá, tôi chưa từng thấy bộ đội vô kỷ luật như thế.
Anh giao liên bình tĩnh đáp:
- Như thế là thường đấy cụ ạ! Vô kỷ luật như thế có thấm thía gì. Họ đói là họ bất chấp cả điều lệnh kỷ luật. Khoai sắn của đồng bào họ gặp là cứ đào lấy củ ăn, có khi bị đồng bào bắn tên tẩm thuốc độc chết miệng còn ngậm củ sắn; có khi đói quá họ cướp cả kho gạo; có khi đi mệt quá họ đánh cả giao liên. Ở đâu chứ trên đường này tôi ngán bộ đội lắm. Thấy bộ đội là tôi xanh mặt rồi. Họ ăn cắp ăn trộm, họ không kém thổ phỉ chút nào, chỉ còn cái hiếp dâm nữa thôi! Kỷ luật quái gì, khi họ no nê lành lặn kia mới nói kỷ luật chớ đói meo thế kia thì còn tinh thần nào mà giữ kỷ luật hở cụ? Cháu khuyên cụ nên bỏ đi, chớ có lôi thôi, họ gây chuyện đó.
Quả thật, anh giao liên vừa nói dứt tiếng thì có tiếng chân nặng chịt dưới sân và tiếp theo là tiếng quát:
- Thằng nào ngon muốn gặp tao đâu, xuống đây!
Một giọng khác dịu dàng hơn:
- Xin lỗi các đồng chí, nghe lính tôi nói lại lúc nãy có mấy người đến tìm chúng tôi để dạy chúng tôi việc gì, vậy chúng tôi mong gặp các người ấy ngay bây giờ.
Anh giao liên lẹ chân nhảy phốc cái rột ra cửa sau và lủi vô rừng mất tăm. Chỉ còn lại ông Chín với tôi. Tôi cũng hơi ngán, nhưng ông Chín lên tiếng ngay:
- Tôi đây, dạ tôi đây, các đồng chí ạ. Tôi muốn gặp các đồng chí không phải dạy việc gì đâu mà để thảo luận với các đồng chí một việc thôi. Nếu các đồng chí vui lòng thì xin mời lên đây, ta thảo luận với nhau.
Hai người bộ đội mang súng ngắn bước lên cầu thang, đi thật mạnh trên những nấc thang gỗ làm cho cả cái nhà sàn đòng đưa như võng.
Thu kêu lên eo éo:
- Coi chừng sập nhà chết chúng tôi ở dưới này!
Một người đứng ở giữa cầu thang và cười lên hô hố nghe rất đắc chí:
- Ở đây mà cũng có “chất nhép” nữa he! – Rồi anh không ngần ngại bấm đèn pin ngay võng của Thu.
Tôi nhỉn qua kẽ sàn nhà. Trong ánh đèn pin tôi trông thấy Thu đã mở mắt và nhanh tay kéo ống quần xuống. Có lẽ Thu đang nằm bóp cái chân đau. Chao ôi! Hai cái đùi của cô diễn viên múa ba-lê thỉnh thoảng lại phơi bày trước mắt tôi mà lần nào cũng hấp dẫn.
Có lẽ anh chàng bộ đội cũng ngây ngất vì cái màu ngà ngọc và cái hình thể khêu gợi của cặp chân ấy. Cho nên anh chàng líu lưỡi, không nói thêm được lời nào nữa.
Khi Thu đã giấu kín đôi chân thì anh chàng kia mới thong thả đi lên. Có lẽ anh ta còn tiếc rẻ cái thực tế quá hấp dẫn đã biến đi quá nhanh, nên cứ rọi đèn xuống sàn nhà.
- Hề ..hề.. chào cụ!
- Chào cụ ạ! Hồi chiều tôi gặp cụ đi ngang qua đơn vị đây mà!
Hai chàng chỉ huy đơn vị bỗng nhiên đổi giận làm vui. Thiệt là may mắn! Ban đầu nghe giọng gay gắt và mát mẻ của họ tôi tưởng nguy to rồi. Thảo nào anh giao liên chẳng khôn hồn biến mất vô rừng như một chú chuột nhắt.
Bây giờ họ vui vẻ đối xử với ông già như vậy là vì sao? Có lẽ vì lão già này có tuổi chăng?
Ông Chín nói ngay:
- Nè! Tôi nói cho các đồng chí biết, nếu địa điểm này bị lộ thì các đồng chí phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Tôi sẽ viết thơ lên báo cáo với Trung Ương Đảng chớ chẳng phải chơi đâu!
Tôi thấy thời cơ thuận lợi, nên vọt miệng nói tiếp:
- Thật đấy các đồng chí ạ. Ông Chín đây là đồng chí cũ 40 đó, từng hoạt động chung với anh Hai Hùng ở Hốc Môn Bà Điểm. Anh Hai Hùng và đồng chí Phạm Văn Đồng mời ông đến nhà ăn cơm riêng luôn đấy.
Việt ở dưới sàn nhà cũng chêm vào:
- Ông Chín về Nam là do quyết định của Trung Ương. Chính đồng chí Lê Đức Thọ thông qua danh sách đấy và ông Nguyễn Văn Vịnh trưởng ban Thống Nhất tiếp kiến ông Chín trước khi ông Chín lên đường về Nam.
Những loạt tôi và Việt vừa bắn ra là toàn những điều phịa để tôn ông Chín lên, nhưng ông Chín không nhịn được, xua tay lia lịa:
- Đừng có nói đùa, không phải chuyện như vậy đâu, tôi không đồng ý!
Ông Chín càng nghiêm nghị từ chối sự đề cao của tôi và Việt bao nhiêu thì các vị chỉ huy càng không tin lời ông ta bấy nhiêu.
- Đây kìa – tôi trỏ Việt ở dưới sàn nhà – Ông bạn của tôi đã từng tham dự trận Điện Biên Phủ. Cây súng ngắn của anh ta mang là cây súng của Cụ Hồ tặng riêng cho anh ấy, nhưng mà anh ta không có nói cho ai biết. Ở giữa rừng này ai mà biết cái giá trị của ai.
Hai vị chỉ huy nghe tôi giới thiệu mấy nét về hai nhân vật thì nhảy nhổm lên.
Một anh nói ngay xuống sàn nhà:
- Đâu, cây súng lục của Cụ Hồ tặng đâu cho xem chút coi. Ái cha chả! Của quý!
Việt nằm im. Tôi thấy có cơ hội đưa Việt lên mây xanh. Tôi gọi Việt:
- Lên đây chơi, gặp bồ lính cả mà!
- Lên đây xem có quen không?
Viên chỉ huy nói tiếp:
- Tôi cũng có dự Điện Biên đây. Lên nhìn bạn chơi!
Việt rất lẻo mép cho nên mặc dù không biết Điện Biên là cái gì, Việt cũng có hằng trăm chuyện để chứng minh răng mình là chiến sĩ Điện Biên. Việt lò dò leo lên mắt nhắm mắt mở:
- Đâu? Ai là chiến sĩ Điện Biên đâu?
- Tôi, tôi đây!
- Thế à? – Việt nhìn một trong hai người chỉ huy.
Tôi nói tiếp:
- Anh Việt đây là đại uý từ 1954 đấy!
Anh chỉ huy tự xưng là chiến sĩ Điện Biên tỏ vẻ ngạc nhiên và nói:
- Hồi năm 1954 làm gì có đại uý hở đại ca? 1958 mới phong quân hàm mà!
Việt vọt miệng đáp ngay một cách vui vẻ:
- Tiểu đoàn trưởng tạm gọi là đại úy, chớ gì mà thắc mắc các bạn!
Việt tự xưng là tiểu đoàn trưởng từ năm 1954 thì các vị chỉ huy giật mình. Họ xuống nước ngay.
Một người nói rất lễ độ, theo quân phong:
- Báo cáo thủ trưởng, đơn vị bị kẹt đường.
- Tôi biết rồi! – Việt nói một cách thản nhiên.
- Dạ, báo cáo thủ trưởng hôm qua anh em hành quân suốt ngày mệt quá cho nên đói lã, anh em nấu cơm cũng có phần bừa bải.
- Tôi biết rồi!
- Dạ sau khi ông Chín bảo anh em thì chúng tôi cho lệnh dập lửa.
Việt cười với giọng kẻ cả dễ dãi với cấp dưới:
- Được rồi, không có vấn đề gì lắm đâu!
Tôi quay mặt vào vách. Tôi chú ý thấy chỉ chập sau thì lửa tắt hết. Té ra Việt chỉ nói chơi vậy mà kết quả. Tôi sợ bỏ lỡ cơ hội nên tôi chêm thêm:
- Đồng chí ấy do Bộ Tổng biệt phái…
- Dạ!
Và hai vị chỉ huy yên chí rằng Việt là cán bộ biệt phái của Bộ Tổng trên đường dây này.
Tôi bảo tiếp hai vị chỉ huy:
- Còn cây súng lục của Cụ Hồ tặng đẹp lắm, nhưng để sáng hãy xem, bây giò tối om xem không rõ.
Anh chỉ huy vừa gật đầu, vừa dạ liền mấy tiếng.
Chập sau hai vị từ giã chúng tôi.. Hai vị lại bấm đèn và quơ xuống dưới sàn nhà một lượt. Chắc hai vị muốn tìm lại đường nét và làn da trắng của cặp đùi đã từng làm cho hai vị sửng sốt mê man lúc nãy.
Tôi nói đưa theo:
- Mai mời hai anh đến chơi, cô Thu là diễn viên ca múa Trung Ương đấy, đi diễn nước ngoài như đi chợ vậy. Mai nếu mấy anh yêu cầu cô Thu sẽ múa hát đủ các bài bản cho đơn vị nghe.
- Ồ, thế tốt quá. Mai chúng tôi sẽ đem biếu các đồng chí thịt rừng.
- Thế càng tốt hơn nữa.
Tôi cười một cách đắc ý về cái trò mà tôi vừa ném ra có kết quả bất ngờ.
Hai vị vừa khuất thì cậu giao liên cũng mò vào, áo quần rách tả tơi. Anh ta thở hổn hển và nói:
- Tôi chạy tuôn cả gai góc.
- Chạy đi đâu vậy?
- Sợ các chả đập và đốt nhà.
- Làm gì?
- Tôi bị một lần rồi.. Họ hỏi không có gạo.. Tôi không phải là thủ kho mà lại bị ăn thoi… Tôi thất kinh rồi.
Tôi cười và càng thương hại anh giao liên.
Tôi nói:
- Họ chỉ là Ban Chỉ Huy đại đội thôi, trung úy là thượng số. Còn chúng tôi có ông đại úy mà đại úy hồi 54 kia đấy, sợ gì!
Anh giao liên xuýt xoa:
- Phải dè vậy em đâu có chạy làm gì! Trời đất ơi, hú hồn tôi tưởng mấy ổng phá chòi rồi chứ!
Thu nãy giờ nằm im. Khi nghe tiếng tôi từ trên gác đi xuống, Thu mới nói:
- Đạo diễn hạng nhất!
- Thôi mà!
- Anh tài thật đấy!
Tôi nói để chữa ngượng:
- Tài cái gì! Gặp biến cố thì phải bày đặt ra sáng kiến vậy thôi. hì hì…dù sao mai Thu cũng có khán giả ngưỡng mộ tới hoan hô rồi!
Tôi lên võng nằm. Bao nhiêu chuyện vừa giả vừa thật xảy ra cho một buổi chiều, rồi những chuyện ngày mai mà tôi dự định sẽ xảy tới: kẹt đường hết gạo v.v…
Thu bỗng gọi tôi:
- Anh à!
- Gì em?
- Em không đồng ý mấy anh đóng kịch như thế nữa.
- Tại sao? Cho nó vui mà, kẻo tẻ ngắt, sốt rét nó được dịp làm lung đấy!
- Em thấy thế nào ấy! Chính ông Chín cũng phản đối mà! Ai làm như thế, được cái gì?
- Được lắm chớ. Một là bộ đội tắt hết lửa, em thấy không, hai là mai có thịt rừng ăn, ba là anh giao liên không phải lủi vô rừng rách áo toạt da, bốn là… những việc lợi về sau ai biết?
Cái làn da và đường nét đôi chân của Thu lúc nãy bất thần hiện ra dưới ánh đèn pin xanh ngắt trở lại trong trí tôi như một ảo ảnh. Đôi chân đó, vẫn cứ đôi chân lúc hiện ra trước mắt tôi trên bờ suối, trong một cơn mưa hay trong giây phút bất ngờ nào đó, là một niềm an ủi, một sự khuyến khích đối với tôi. Tôi ngắm nó, tôi âm thầm khao khát nó, tôi yêu nó. Chắc Thu cũng biết như vậy nên Thu càng giữ kẽ với tôi trong từng cử chỉ, từng lời nói, như hai nhà ngoại giao đấu khẩu với nhau, không hề để sơ hở. Cho nên đến lúc này tôi vẫn chưa nói được tiếng gì.
Tôi nhớ có lần Thu ở dưới suối lên, khi đi qua một quãng ướt thì gặp tôi, Thu đưa mũi chân bước mím trên những hòn đá để tránh bị ướt, một tay cầm mớ quần áo đã giặt, một tay xăn quần lên quá gối.
Thu không trông thấy tôi cho nên cứ chậm chạp một cách quí phái tìm những hòn đá trọc để bước, vô tình Thu bị trợt chân, nước tóe lên ướt cả quần, Thu phải vén lên cả nửa đùi để vắt tạm cho ráo nước.
Khi ngẩng lên Thu bất chợt thấy tôi cách đó không xa. Tôi vẫn đứng tần ngần trước mặt Thu, Thư như vừa đi vừa ngắm nghía vẻ đẹp của đôi chân mình mà hình như lâu nay không có dịp nào rảnh rang nhìn lại chúng.
Gặp tôi bất ngờ Thu hơi ngượng. Cố nhiên tôi cũng không giữ được sự tự nhiên. Rồi hai đứa cùng đi về. Dọc đường Thu cứ để nguyên đôi chân trần quá đầu gối và chốc chốc lại rũ nước trên quần mà kêu lên: “Tai ác cho con suối!”
Còn tôi thì sung sướng một cách âm thầm, thỉnh thoảng tôi liếc sang, nhưng liếc mãi cũng không tiện cho nên, để cho sự liếc của tôi được dễ dàng và công khai, thỉnh thoảng tôi lại kêu lên:”Coi chừng kẻo trợt chân bây giờ! Hòn đá đó trơn lắm!” Tôi chỉ hòn đá mà đôi mắt tôi thì không rời chân nàng.
Làn da trắng vừa xanh mét vừa ướt nước. Những hạt nước còn đeo dính rải rác trên chân nàng như luyến tiếc những giây phút sinh thú của chúng nên chúng cố bám vào đấy như những hạt ngọc để trang điểm cho những vật thể mà sắc đẹp vốn đã thừa. Thu ơi! Nếu tôi được là một hạt nước dính ở chân em! Cái lần đó tôi và Thu đi mãi như thế bên nhau trên quãng đường suối, lặng lẽ với những cử chỉ lập lại mãi của tôi, nhưng Thu và tôi cả hai đều không chán. Tôi thì rất bằng lòng vì cho rằng mình lừa được người con gái để thỏa mãn những thích thú của mình. Còn Thu thì hình như Thu thừa hiểu ý định của tôi nhưng Thu chẳng những không phản đối mà cứ để cho tôi ve vuốt đôi chân nàng với cặp mắt thèm thuồng của tôi.
Bất thần tôi nói:
- Thu ạ, anh yêu đôi chân em quá!
Thu dừng lại và lườm tôi. Tôi nói và cười vui vẻ:
- Uớc gì anh được làm một hạt bụi dưới chân em.
- Em sẽ nghiến nát anh ra.
- Không, anh sẽ bay tung lên và đáp lên tóc lên má em.
Thu đỏ rừ hai má. Thu biết tôi gài bẫy. Nàng mắc cở nhưng nàng rất thích.

-CHƯƠNG 22-

Ông Chín tự nãy giờ nằm im, có lẽ ông không hài lòng về sự bịa đặt của chúng tôi để tâng ông lên. Đoán chừng như vậy, tôi hỏi:
- Ông Chín ơi, thức ngủ?
Ông Chín không đáp.
Một chốc, tôi nhắc lại với Thu cái chết của anh binh sĩ bạc phận và tấm mộ bia. Trên đời biết ai là bạc phước nhất? Vì dụ nhu anh binh sĩ nọ, anh ta chết tức tối đau đớn thực đấy nhưng ít ra anh ta cũng còn được chôn cất và còn có một bia, ấm áp nấm mộ.
Thu nói:
- Eo ôi! So với bộ đội thì mình sướng hơn nhiều! Em thấy nhiều anh khiêng pháo oằn cả xương sống, cong queo cả đôi chân mà leo dốc đều đều. Có những cặp chân còn bằng những cái cọc màn không hơn không kém!
- Hở hở? Ai nói cái gì mà cọc màn? – Từ tầng trên có tiếng gầm lên. Tôi nghe chính là tiếng của ông Chín.
Tôi nghe vạt tre nghiến ken két thì đoán chắc ông Chín trở mình hay đã ngồi dậy. Ông Chín nói vọng xuống bọn tôi:
- Phải cô văn công nói chân bộ đội là cái cọc màn đó không?
Thu đáp:
- Dạ không, cháu nói thấy chân bộ đội bằng cái cọc màn mà phải khiêng pháo thì cháu thương tâm quá.
- Khô….ông! Tôi nghe rõ ràng là những cái cọc màn biết đi mà! Cha chả trời đất! Bộ đội ta chân đồng, chân sắt, đạp lùi vạn dậm gai chông mà cô bảo đó là những cái cọc màn biết đi thì còn trời đất gì nữa hử?
Ông Chín nói tiếp giọng gay gắt hẳn lên:
- Tôi hỏi lập trường cô để ở đâu chứ?
- Dạ cháu thấy vậy thì cháu nghĩ vậy chớ sao mà phải động tới lập trường ạ! Chẳng qua là cháu nói chơi …
Ông Chín quát:
- Nói như vậy mà là nói chơi à? Tôi cho cô hay đây là vấn đề lập trường rõ chưa? Người có lập trường vững chắc không nói như cô. Cô ăn nói như vậy là không còn đủ tư cách của cán bộ cách mạng nữa. Như vậy là quá hồ đồ cô hiểu chưa?
Thu không chịu thua, tôi ngồi bật dậy trên võng.
- Cháu xin lỗi cụ…
Thôi chết rồi! Kẻ vui miệng, người hay bắt bẻ!
Thực tình lúc đầu tôi cũng tưởng là ông Chín nói chơi cho vui, chẳng ngờ ông nói thật. Ông Chín đề cập tới lập trường một cách nghiêm chỉnh.
Thu giận quá, nói không ra tiếng:
- Cháu xin lỗi ông Chín, cháu nói vậy có can phạm gì đến lập trường đâu mà ông Chín nói cháu những tiếng quá đáng.
Ông Chín cũng giận quá nói khàn cả tiếng:
- Cô nhìn bộ đội đang đi chiến đấu đổ máu cho quê hương mà cô bảo là những cây cọc màn biết đi có phải cô láo xược không?
- Ơ hay! Có chi đâu mà láo với xược? Chân bộ đội quá gầy guộc thì cháu bảo nom như những cây cọc màn chứ có gì mà cụ phải gắt ầm lên như thế? Cháu không đồng ý.
- Này! – Ông Chín chỉ trỏ xuống sàn – Này cô kia, nếu có cơ quan cô ở gần đây thì tôi sẽ báo cáo để cô lãnh một hình thức kỹ luật. Tại sao cô khinh rẻ quân đội cách mạng như thế? Cô cũng là văn công văn kiết sao cô lại có một cái nhìn tệ hại như thế kia?
Tôi bảo nhỏ Thu:
- Thôi đi em, đừng nói nữa. Ông Chín là người khó tính nên ổng hay nói này nói nọ vậy thôi, rồi ổng quên hết!
Nhưng tôi vừa dứt tiếng thì ông Chín đã gầm lên:
- Tôi không phải là người khó tính đâu nhé! Tôi chỉ nói những điều đúng đắn thôi, các đồng chí chớ nên hiểu lầm.
Ông Chín vẫn tiếp tục giải thích:
- Đâu phải là chuyện nói chơi, ở đây, chúng ta cần lập trường. Lập trường không thể thiếu được, lập trường thay cho cơm ăn thay cho nước uống, thay cho cả máu chúng ta trên đường này. Vậy mà đồng chí mang nó ra đây nói chơi à? – Ông Chín vỗ ngực phạch phạch – Tôi cân nặng 75 kí lô nhưng tôi kém hơn những cái cọc màn biết đi ấy vì tôi thuộc thành phần địa chủ, đồng chí hiểu chưa?
Cách mạng cần những người gầy ốm chân như cọc màn đó, chứ đâu cần những người béo tốt như tôi, như đồng chí!
Bây giờ thì Thu không chịu đựng nữa. Thu nói hơi to:
- Cháu biết ông Chín là người đúng đắn….
Ông Chín nhảy cỡn lên:
- A hay! Đồng chí định chửi tôi có phải không? Này! này tôi bảo cho mà biết đồng chí chỉ đáng con tôi.
- Dạ cháu đáng cháu nội ông cũng được!
- A! Đồng chí định rủa tôi chết sớm đó hả?
Câu chuyện lằng nhằng như thế đó, cắt đầu này thì nó lại mọc ra nơi khác.
Tôi để cho một lão già gàn và một nữ sinh bất khuất cãi nhau chơi. Ai cũng có lý lẽ vững vàng hết cả. Ông già cứ ôm cái lập trường đầy rong rêu và bón bằng sách vở cũ rích như cái bụi tre ở nông thôn được vun bồi bằng những mớ miểng sành, miểng chén, những ông táo ông lò hết xài; còn cô nữ văn công viện ra những tin tức mới về tình hình Cộng Sản quốc tế, từ những “cây cọc màn biết đi” kéo dài đến chủ nghĩa xét lại.
Tội nghiệp nãy giờ anh giao liên nằm im thin thít không nói tiếng nào. Có lẽ anh ta chán ngán vì những chuyện thế này. Việc hay ho nhất đối với anh ta là làm sao xoi đường cho thủng để cho dòng người kia khỏi bị ứ đọng lại, nếu không nó sẽ réo ầm lên mà đòi gạo đòi muối, to hơn cơn suối giận dữ ngày nước lũ.
Anh giao liên đã ngủ một giấc dài, thức dậy lục đục nấu trà uống. Ông Chín cũng ngồi dậy uống với anh ta.
Gió rét căm căm. Sau một ngày nóng bức, hơi rừng núi xông lên, vây riết những sinh vật đang ngọ nguậy trong sự bất lực thèm khát và rụi tàn. Ông Chín còn trà Chính Xuân hẳn hoi. Ông cất kỹ trong ba-lô không dám uống, bây giờ đem ra thì nó đã mất hết mùi và lên mốc.
Tôi nghe có trà thì cũng mon men lên góp mặt vào buổi trà đàm.
Anh giao liên này rất trẻ. Anh ta là người Nam Bộ. Tôi nhận ra điều đó là vì tôi nghe trong câu chuyện anh ta nói đến một thứ rau mà chắc chắn ở Miền Trung và Miền Tây Nam Bộ mới có: đó là rau dừa.
Rau dừa là thứ rau mọc ở ruộng nước sâu và vào mùa mưa. Người ta hái cái ngọn non của nó ăn với mắm kho và đặc biết nó có vú, vú nó trắng phau mởn mởn như một loại bông đá và mong manh như bọt xà-phòng.
Cái vú rau dừa trắng nổi phêu phêu trên mặt nước gợi cho người ta sự ngon lành của bữa cơm đạm bạc ở đồng quê, đậm đà tình quê hương.
Cho nên khi nghe đến rau dừa, thì lòng tôi thực sự rung động. Ở giữa núi rừng làm sao mà tìm được một thứ gì quen thuộc của xứ mình. Cho nên tôi hỏi ngay anh giao liên:
- Anh ở tỉnh nào vậy?
- Em tên là Mai, quê ở Bạc Liêu.
- Trời đất, ở xa vậy!
- Xa thì xa chứ biêt sao bây giờ?
- Sao ra đây chi đây?
- Thì đi làm cách mạng mà, ở đâu đi không tới?
- Nhưng tôi muốn hỏi anh vì lý do nào anh trôi dạt ra tới tận ngoài này?
- Thì tình nguyện thôi.
- Lúc này ở trong mình dễ thở không?
- Dễ thở là mấy năm trước kia, bây giờ thì khó thở rồi. Trốn trực thăng chạy mệt đứt hơi.
- Ủa, vậy sao tôi nghe nói chiến thuật “Trực Thăng Vận” bị ta bẻ gãy tan tành hết rồi mà?
Cậu giao liên phì cười:
- Gãy ông nội tôi chớ gãy! Vô trỏng rồi biết! Có gãy giò thì có!
Rồi anh ta giải thích cái lý do ly hương của anh ta:
- Tôi đang công tác ở tỉnh. Ở đó có chuyện gì đâu mà làm. Ở không mãi tôi cũng chán cho nên tôi đi giăng câu kiếm cá ăn. Cá ở Cà Mau thì anh phải biết. Câu bao nhiêu cũng có. Ăn cá mãi phát chán rồi nấu canh chua chỉ húp nước canh thôi.
Tưởng xứ nào cũng sướng như xứ mình cho nên nghe lời kêu gọi của cấp trên em từ giã gia đình cắp nón ra đi với bộ đồ dính da.
Núi non ở Nam Bộ không có. Cho nên vừa trông thấy núi là chúng em chạy ra leo núi chơi cho thoả thích. Chạy sướng thật, chân mình cứ leo cứ bám trên đá mà bước lên, tuy có mệt nhưng vẫn cứ thích.
Cậu giao liên tiếp:
- Chẳng ngờ rằng núi ở xa trông thì đẹp nhưng muốn nhìn cảnh đẹp phải no bụng. Leo chơi vài lần thì thích thật, nhưng chỉ leo vài ngày rồi thì chán. Nhiều đứa ngồi khóc cha khóc mẹ suốt ngày không chịu đi công tác nữa. Nhiều đứa phăng theo đường mòn mò ra đường cái lên xe hơi trở về xứ. Riêng em…ở đây mãi rồi, đi đâu cũng khó coi. Bụng làm dạ chịu chớ trách ai!
Mai thở dài:
- Bây giờ núi trở thành kẻ thù của em rồi. Em không ghét gì bằng ghét núi!


CHƯƠNG 23

Sáng hôm sau chúng tôi ăn cơm xong thì đồng chí Phó chính ủy đường dây và anh trạm trưởng về. Cả hai trút ba-lô và súng xuống vạt nứa.
Ông Phó chính ủy nói:
- Bỏ mạng rồi.
- Khó xoi quá – Anh trạm trưởng kêu lên – Tụi Mỹ nằm khít rim.
- Bọn này ác thật. Bỗng nhiên lại nhảy xuống Bùi Gia Mập mười ngàn quân rồi nằm ỳ đó không chịu đi đâu cả. Thế có chết không kia chứ? Mỗi ngày mình phải cung cấp cho lính kẹt nằm tại đây hàng ngàn lít gạo… Gạo đào đâu ra?
Ông Phó chính ủy hỏi anh trạm trưởng:
- Bây giờ tôi định mở đường sang phía Đông cậu xem có được không? Chứ để nằm ỳ ở đây, nội lính nó phá thôi cũng lộ hết mục tiêu, cậu thấy thế nào?
- Dạ!
Tiếng “dạ” của anh trạm trưởng có vẻ miễn cưỡng, không tin tưởng sự chuyển hướng ấy sẽ mang lại kết quả.
Ông Phó chính ủy nói tiếp:
- Chuyển đường sang hướng Đông thì gần căn cứ địch lắm, có thể bị lộ hoặc bị ăn pháo, nhưng nếu để nằm lại đây cứ mỗi ngày ùn thêm vài trăm thì sớm muộn gì cũng lộ, mà lộ thì ăn B52. Cậu thấy thế nào?
- Dạ tôi cũng thấy thế đó!
- Thế thì cơm nước xong tôi với cậu lội tiếp nhé. Hễ xoi không thông là sáng mai bắt đầu cho đi.
- Dạ!
Cơm nước xong, hai người lại quảy ba-lô đi xoi đường. Ông Chín thì lại đi bẻ nhánh cây từ trong rừng xa mang về từng ôm đem rải trên mặt sân tiếp tục cái công việc hôm qua nghĩa là ngụy trang cho bằng được cái sân mới nghe. Tôi thì nằm võng nghĩ ngợi lơ mơ. Việt soạn ba-lô. Hắn ngồi quay lưng lại tôi dường như sợ tôi trông thấy những của nổi của chìm của hắn.
Thu thì xuống suối gội đầu. Tôi nằm trên võng, có thể nhìn rõ cả Việt lẫn Thu.
Bộ đội ở ngoài kia bắt đầu đi lãnh gạo. Họ đi ngang qua chỗ tôi nằm, người nào cũng ngó vào một cái, thỉnh thoảng có người kêu lên
- Nhà! nhà tụi bây!
- Có người ở!
Rồi họ đi qua trước đôi mắt lạnh nhạt của tôi. Thỉnh thoảng tôi mới điều động đôi mắt của tôi khỏi ánh tóc xoả của Thu mà quay lại phía đạo quân đi lãnh gạo. Nếu ông Chín biết tôi chăm chú nhìn Thu hơn nhìn bộ đội ổng sẽ qui cho tôi mất hết lập trường.
Những anh bộ đội mặt bủng da vàng đi khật khừ trông đến thương tâm. Tôi thú thật thấy nhiều anh tàn tạ quá tôi không dám nhìn. Không hiểu đau ốm như thế nào mà mặt mày sưng lên và vàng như nghệ. Kẻ thì buộc ruột tượng ngang lưng, người thì vắt vai lòng thòng lểnh thểnh , những người không còn ruột tượng thì lấy quần dài túm ống lại và vắt trên vai, hai ống chẻ ra bỏ thòng ra sau lưng trông rất chửi đời.
Thu đứng một lúc rồi vốc nước lên gội. Bọt xà phòng sùi lên trắng xoá. Lâu quá tôi mới trông thấy bọt xà-phòng trên mái tóc đàn bà.
Tóc Thu không dài. Có lẽ Thu làm tóc trước khi đi.. Bây giờ đã đến lúc làm lại rồi mà không có tiệm thành thử nó hơi ngay ngay cong cong xem cũng hay. Đối với tôi ở Thu cái gì cũng hay cả. Thu cúi đầu xuống, rủ tóc ra phía trước để khỏi ướt lưng. Cái gáy của Thu để lộ ra trắng như một miếng dừa nạo. Ở lẫn trong mái tóc đen huyền, mãng gáy ấy càng ánh lên một cách tàn nhẫn.
Chắc Thu vẫn biết tôi đang nhìn Thu nhưng Thu cứ làm như không biết.
Thu đang đóng một vở kịch độc đáo chỉ có một vai và cũng chỉ có một khán giả thôi. Diễn viên vờ không biết mình được xem, còn người đang xem vờ không biết mình đang say sưa xem biểu diễn.
Đôi chân của nàng lại phô bày ra….niềm mơ ước. Nước chung quanh nàng xao động và tan ra cùng với cái bóng nàng in trên mặt nước, như cái kỷ niệm vừa phai.
Có một thời một cái hình tượng gần giống như thế nằm trong sự ôm ấp của chàng. Có những lần chàng tưởng như mình kiệt sức, nhưng khi đi cạnh nàng thì chàng thấy chàng vươn lên. Có lần đang đi bỗng sụp xuống ôm chặt lấy đôi chân nàng. Nàng khụy xuống bám vào cổ chàng. Thế là chàng bế xốc nàng đi lẫn vào trong rừng. Ở đó không có ai, chỉ có những vật vô tri. Chàng hấp tấp biến nàng trở thành một thực thể trong trạng thái tự nhiên để cho chàng hành hạ, dày vò. Và nàng cũng lặng lẽ đón những cực hình vui thú đó. Hai người đứng nhìn suốt nhau. Rồi đột nhiên họ không nhìn thấy nhau nữa. Người này đối với người kia là một khối mơ hồ mà họ chỉ cảm thấy bằng răng, bằng lưỡi, và bằng sự cọ xát, vặn vẹo, rên rỉ. Họ đứng, rồi ngồi, rồi nằm phơi trải tất cả vẻ đẹp thiên nhiên của họ cùng thiên nhiên làm cho những chiếc lá úa cũng run lên như những thớ thịt của rừng được hồi sinh.
Nhớ lại cái hạnh phúc quá ư cụ thể đó, tôi thấy trong người bứt rứt khó ở. Tôi biết sức khoẻ của tôi chưa đến nỗi bi quan.
Bộ đội đi rào rào, chí choé nói chuyện làm tôi quay lại nhìn. Từ cảnh tiên tôi bị lọt tỏm vào một cảnh trần tục quá trần tục. Một bên thì quá tươi đẹp thơ mộng, còn một bên thì quá gồ ghề cực nhọc với những con người áo quần lôi thôi lếch thếch đi dằng dặc, mắt ngó xuống, chân bước nặng chịch. Họ đi lãnh gạo, nhưng họ không lãnh được gạo vì gạo đã hết rồi.
Những người trở về gặp những người vừa đi, hai bên chửi ầm cả lên. Kẻ lên tới kho về không cũng chửi mà những kẻ chưa lên tới kho cũng chửi. Họ chửi cái kẻ đã không phát gạo cho họ để cho họ phải vác xác tới kho rồi vác xác trở lộn về với những cái ruột tượng trống không và với những cái dạ dày ọc ạch nước suối. Nhưng kẻ có trách nhiệm phát gạo tự hỏi gạo đâu mà phát?
Họ ngồi dồn cục lại ở chung quanh nhà tôi và nói chuyện ồn ào bất biết chủ nhà là ai. Họ ngó nghiêng nhìn vào cái nhà bếp của chúng tôi, có người vừa leo lên gác vừa nói:
- Leo lên tìm ngụm nước coi!
Thế là cứ tự tiện leo. Một nhóm kháo với nhau:
- Ê tụi này! Có phụ nẻo nghe!
- Đâu? Đâu?…
- Đấy kia dưới suối! Suỵt! Sụyt! Nó tắm, để coi chơi !
- Chắc dân thiểu số!
- Ờ, thiểu số thì hay lắm!
- Tha hồ coi!
- Nó không có ngượng gì đâu.
- Nó còn mời mình xuống tắm chung và lặn mò cá leo với nó nữa mà!
Một cậu cãi lại:
- Con này không phải phụ nữ Thượng đâu.
- Chứ con gái gì đây?
- Con gái thiểu số không trắng như vậy.
- Mẹ! Trông ngứa mắt quá.
- Sốt bỏ mẹ đi, lại còn!…
Một cậu tán thêm vào câu chuyện hài hước:
- Ăn cơm lược không?
Một cậu khác đáp:
- Không “lược“!
- Ăn “chấu” “lược” không ?
- Ngộ ăn “chấu” không “lược” !
- Há… dậy chớ… ứ “lược” không?
- Há… cái ló ở lâu mà cố? (Cái đó ở đâu mà có).
Rồi cả bọn cười ầm lên sặc sụa.
Cậu kia lại giải thích:
- Đó! Ăn cơm không được, ăn cháo cũng không được, sốt rét triền miên, nhưng nghe tới cái đó thì anh nhảy dựng lên ngay!
- Há há há..
- Mẹ! Đùi trắng quá mầy ơi !
- Sụyt!
Tôi vừa muốn ra miệng thì ông Chín đã bảo:
- Nè! Các cậu là bộ đội cách mạng nghe! Tư tưởng và hành động như thế đó hả?
Một tràng cười nổi lên ở ngay trước nhà. Một tiếng phản đối trả lại câu nói của ông Chính:
- Thằng cha nào thầy đời đó hả?
- Đ.M muốn dạy ông hả? Ông học 18 lớp huấn luyện rồi đây nhé. Trường Ái Quốc 1, Ái Quốc 2 ông đều dự nốt, thằng nào hơn ông mà làm trời?
Có lẽ chưa bao giờ ông Chín bị người ta xối nước vào mặt lạnh toát như lần này. Ông giận tái mặt, tôi thấy đôi môi ông run run. Chắc ông đang giằn câu nói mà ông sắp nói ra.
Nếu tôi ở vào trường hợp ông thì tôi thụt cổ rùa luôn rồi, còn ông thì không . Ông già gân vẫn chậm rãi bước xuống thang. Ông tằng hắng hai ba cái liền, đến cái cuối cùng thì chân cũng vừa chạm đất. Ông nói:
- Tôi đây, tôi nói nhưng tôi không muốn làm thầy đời ai hết.
Đám lính im thin thít. Ông Chín nói tiếp:
- Tôi chỉ muốn khuyên các đồng chí làm hoặc nói điều gì thì phải xem điều đó có sai lập trường không? Nhất là các đồng chí là chiến sĩ tiền phong của giai cấp.
- Thôi dẹp đi ông già!
Một tiếng quát từ trong bụi rậm. Tôi nghễnh cổ nhìn, thì ra một anh chiến sĩ vàng võ đang làm xấu trong bụi vừa đứng dậy.
Anh ta nói oang oang:
- Tôi nghe ông nói tôi hết mắc … ngay! Tôi đứng dậy liền để trả lời cho ông rõ. Cái gì mà lập trường với lập bò? Ông làm như ông là đại lý độc quyền cái món lập trường ấy vậy – Anh chiến sĩ vỗ ngực pạch pạch – Tôi mấy chục vết thương trong mình đây! Như vậy mà tôi phải nghe ông giảng lập trường hả?
Ông Chín vẫn bình tĩnh:
- Tôi không giảng, tôi chỉ nói.
- Nói cái gì, đùi trắng thì chúng tôi nói đùi trắng. Chớ phải chúng tôi nói đùi đen hay sao mà ông bảo chúng tôi mất lập trường?
Ông Chín ôn hoà:
- Nhưng chiến sĩ cách mạng đâu có quyền nói như vậy.
- Tại sao không? Ông giảng cho tôi nghe.
- Chuyện đùi đàn bà nói ra chỗ này gợi những ý nghĩ không tốt cho anh em ta.
- Tại sao không tốt? – Anh lính càng tỏ ra ương ngạnh và hiếu chiến – Lính tôi đâu phải những thằng không có ….
- Nhưng mà nói để làm gì? Cái đùi đàn bà có bồi dưỡng cho lập trường giai cấp của các đồng chí không?
Lũ lính thấy có kẻ đứng ra chống mũi chịu sào bèn nhao nhao lên:
- Có chớ ! Có chớ!
- Đùi đàn bà bồi dưỡng lập trường ghê lắm chứ!
Ông Chín trợn mắt:
- Mấy người đừng có lếu láo nghe!
Một anh khác có vẻ là học sinh nói rất ôn tồn:
- Xin lỗi bác là người đáng cha đáng chú nếu cãi nhau với bác thì thành ra mất tư cách. Đây cháu xin trình bày ý nghĩ của cháu thôi. Quả thật như vậy, đùi đàn bà bồi dưỡng lập trường cho chúng cháu rất nhiều. Bằng chứng là trong những vở ba-lê “Hồ Thiên Nga” của Liên Xô, có hằng trăm người vũ nữ tuyệt đẹp mà người nào cũng phơi trần cặp đùi của mình trước khán giả.
Trong tiểu thuyết “Con đường đau khổ” của Alexis Tolstoi, tác giả có tả cặp đùi của một nữ tài tử như sau : “Cặp đùi của nàng đáng thưởng cho một huân chương vàng!”. Xem đó thì việc chúng tôi nói nữ đồng chí kia có cặp đùi trắng đẹp quá có gì là mất lập trường, thưa bác?
Ông Chín đuối lý nhưng ông cũng không chịu im. Ông nói:
- Đó là chuyện nghệ thuật nghiêm chỉnh, còn đây là các chú đùa cợt.
Anh lính khi nãy ứng đáp ngay:
- Xem đùi đàn bà chẳng ai nghiêm trang được cả, trừ những đứa liệt dương và những thằng thiến đó thôi. Còn lũ lính chiến chúng tôi là lính có… cho nên xem đùi đàn bà là xem đùi đàn bà, ai muốn nghĩ sao thì nghĩ. Ông không phải lo hộ cho chúng tôi làm chi cho nhọc tuổi già.
Ông Chín hỏi giọng gay gắt:
- Chỉ huy các đồng chí là ai?
Tôi thở dài, trong lòng tôi ái ngại vì sợ câu chuyện dằng dai sẽ lọt vào tai Thu. Điều này làm cho tôi đau khổ. Tôi nhìn xuống suối. Thu đang từ dưới suối đi lên. Nghe cãi ồm ồm nãy giờ có lẽ Thu đã đoán ra câu chuyện. Thu dừng lại hỏi tôi:
- Chuyện gì đó anh?
Tôi hơi ấp úng định chối quanh không nói sự thật nhưng một anh chiến sĩ đã nói cướp ngay:
- Chuyện của chị đấy, chị có muốn nghe không?
Thu tươi cười, tay cầm mớ tóc rủ rủ cho nước văng ra và hỏi:
- Có chuyện gì các đồng chí cứ nói! Lâu quá tôi không được ai chú ý tới cũng buồn. Tôi là con gái, tôi thích người ta chú ý đến tôi luôn. Tôi là văn công.
- Vậy hả? Thế thì hay quá!
Cả đám chiến sĩ reo thích chí. Anh chiến sĩ có gương mặt vàng ẽo lúc nãy, được thế lấy trớn nói rất hăng:
- Có gì đâu! Chúng tôi bị ông lão này chụp cho một cái mũ mất lập trường rất to.
- Tại sao?
- Cũng vì chị đấy!
Thu tròn xoe đôi mắt và bằng những cử chỉ duyên dáng và rất sân khấu. Người nữ diễn viên có lẽ rất hứng thú khi đứng trước nhiều cặp mắt chăm chú nhìn mình, nàng nói:
- Tại tôi? Tôi làm gì mà các anh chịu chụp một cái mũ to dữ vậy?
Anh chiến sĩ nói ngay:
- Vì bọn tôi lúc nãy đi ngang qua suối… e hèm! Chúng tôi đi lãnh gạo về, đi rất mệt cho nên thấy suối chảy thì nghe cơn khát dấy lên, chúng tôi nhìn xuống suối và do đó chúng tôi bắt gặp một hiện tượng mà chúng tôi cho rằng là đẹp. Đó là đôi chân của chị.
Thu hơi ửng đôi má, đôi mắt Thu chớp chớp.
- Ồ! Thế à!
- Vâng, chỉ có thế. Xin chị chớ phiền. Chúng tôi không nói gì mất lập trường. Quả tình đôi chân chị đẹp thật. Chúng tôi đã từng xem ba-lê Liên Xô và thấy đôi chân của người Việt Nam ta đẹp không kém trình độ quốc tế.
Tôi suýt bật cười vì nhận xét của người chiến sĩ ngây thơ.
Thu hơi ngượng nhưng có lẽ Thu thích. Người con gái nào mà chẳng thích người khác khen mình đẹp?
Thu nói:
- Trong nghệ thuật múa ba-lê đôi chân là cốt yếu. Và trước nhất là đôi chân phải đẹp. Tôi có biết nghệ thuật này chút đỉnh cho nên tôi cũng biết thêm rằng hiện nay ở Việt Nam mình có trường đào tạo diễn viên ba-lê. Riêng đôi chân phải luyện tập bồi dưỡng sắc đẹp cho nó từ bé.
Cả bọn chiến sĩ nhao nhao lên lấy câu nói của Thu làm cái khiên để chống lại mũi gươm của ông Chín.
Thu nói tiếp:
- Xem đôi chân đẹp, biết thưởng thức vẻ đẹp của nó thì có gì là mất lập trường. Lập trường đâu phải là thứ gì nhẹ giá quá mà lúc nào người ta cũng đánh mất.
Thu lại mượn cái khối chiến sĩ này làm đòn xeo để bẩy tung đi cái cục gàn của ông Chín.
Thu còn nói tiếp:
- Ở đây không có sân khấu, nên tôi không thể biểu diễn cho các đồng chí xem được, chứ nếu ở Hà Nội thì tôi sẽ cho các đồng chí xem ngay một màn vũ lập trường.
Nói xong Thu để quần áo trên một tảng đá và đứng nhón trên mũi chân, vòng tay lên đầu làm vài ba động tác ba-lê rất đẹp.
Ông Chín tiu nghỉu đi lên tầng trên vì ông đã thấy trước mắt rằng ông không có đồng minh.


CHƯƠNG 24

Sáng nay anh giao liên có cho tôi một mẩu khoai mì còn tươi. Có lẽ vì hôm qua tôi cho anh một nhúm ruốc gà lẫn ruốc chó. Tôi còn một ít gạo (vì không bao giờ tôi ăn hết khẩu phần hằng ngày của tôi). Bữa ăn tôi không thiếu thốn, cho nên tôi không tôn trọng khúc khoai mì đúng với sự thành kính mà người ta phải có đối với nó trong lúc này.
Tôi đem gắn nó trên cành cây ở đầu võng. Tôi đang lim dim định kéo một giấc thì có tiếng người rào rào ngoài đường. Tôi mở mắt ra thì thấy bộ đội lại đi lãnh gạo. Tôi biết là kho gạo đang khuyết mà họ đi lãnh cái nỗi gì, sao không ai nói cho họ? Hay người ta muốn kéo dài sự hy vọng.
Bỗng một người hỏi tôi:
- Anh ngủ à?
- Tôi định nằm chơi nhưng lại buồn ngủ, nguy hiểm quá!
Tôi trả lời và mở mắt ra thì thấy một anh bộ đội đứng sừng sững ở đầu võng. Mặt anh ta phù lên no tròn như một cái bánh bao, mắt anh ta lờ đờ, hình như anh ta đang sốt. Anh ta nói ngay:
- Đồng chí còn khúc sắn trên đầu võng chắc đồng chí không dùng cho tôi…tôi xi….in.
Tôi ngồi bật dậy. Tôi như điện giựt vì có người đụng tới cái bao tử sắp thủng của tôi.
Tôi không nói năng gì mà cứ bàng hoàng. Tôi không hiểu anh ta nói gì cả. Và tôi cũng đáp lại như một cái máy, không hiểu rằng mình đã nói gì!
- Không được đâu đồng chí, đây là của một đồng chí khác mà đồng chí đó đang sốt không ăn cơm được. Chớ phải của tôi thì tôi cho đồng chí ngay rồi. Đồng chí với nhau không mà! Hơn nữa đồng chí vào giải phóng Miền Nam của tôi..
Bây giờ nhớ lại những lời đó, tôi thấy thật xấu xa. Ghê gớm thay cái miệng con người. Cái miệng khôn ngoan hay ngu xuẩn cũng chỉ vì cái dạ dày. Trong một con người, cái cao nhất không phải cái đầu mà là cái dạ dày. Cái dạ dày sai khiến, cái dạ dày chỉ huy, cái dạ dày lãnh đạo và chính cái dạ dày nói bằng cái miệng.
Sở dĩ tôi đáp ứng nhanh nhẹn và gần như đã sắp sẵn trong bụng từ lâu là vì anh bạn không quen này đã chạm vào cái dạ dày của tôi quá mạnh. Sự đụng chạm đó làm bật ra những âm thanh.
Anh chiến sĩ đứng tần ngần trước mặt tôi, vừa thất vọng, vừa ngượng ngùng. Anh không biết nói sao. Vẻ mặt non choẹt và phị của anh ta làm cho tôi đau khổ. Có lẽ anh ta phát khóc lên mất. Tôi cầm lòng không đậu. Tôi sẽ cho anh ta khúc sắn đó và xin lỗi anh ta bằng những lời thấm thía nhất. Nhưng khi tôi sắp sửa nói, thì anh ta đã quay đi, bước chân nặng như chì.
Và tôi cũng không phải nói nữa. Cái dạ dày của tôi êm dịu trở lại rồi.
Tôi tưởng tôi yên tâm vì khúc sắn đó không bị đụng chạm tới nữa nhưng tôi đã nhầm. Tôi không yên ổn chút nào hết. Tôi bị cắn rứt. Lần này không phải cái dạ dày bị đụng tới mà chính là trái tim. Tim tôi nghe xốn xang se thắt.
Tôi thấy con người đê mạt quá. Trên con đường khốn khổ này, con người đối với con người chẳng khác chi cầm thú, thằng mạnh thằng yếu, thằng nghèo thằng giàu…
Tôi xấu hổ với lương tâm quá. Khúc sắn đó của người ta cho tôi, tôi không dùng đến cho nên tôi mới để cho nó lăn lóc như vậy. Nếu không có anh chiến sĩ kia xin thì tôi cũng không nhớ tới nó.
Vậy mà tôi đã không cho anh ta. Tôi đã từ chối một cách rất chính trị.
Bây giờ, đau khổ vì cái cử chỉ tệ hại của mình, tôi nằm không yên. Tôi đứng dậy nhìn hút theo bóng anh chiến sĩ đã lẫn đi trong đám người lúc nhúc xa dần.
Tôi muốn gọi to lên nhưng tôi lại rất xấu hổ đến đỗi không dám gọi anh ta trở lại. Tôi nằm vật ra trên võng mắt ngó lom lom ra đường với mục đích tìm lại người chiến sĩ thảm thương kia.
Thỉnh thoảng tôi lại nhìn khúc sắn gắn trên cành cây. Nó như cái gai, như chính vết thương trong lòng tôi. Nó như cũng có linh hồn. Nó như cũng nhìn tôi bằng những cặp mắt vô hình và làm cho tôi xốn xang khó chịu. Miếng ăn là miếng tồi tàn.
Ở đây đã hẳn vậy, mà ở đâu cũng vậy.
Người ta đánh nhau chỉ cũng để giành lấy “cái ăn”. Anh chiến sĩ quân đội nhân dân đã hạ mình để xin khúc sắn mà không đạt được, còn tôi thì nói dối một cách tài tình để từ chối. Tôi đã xem tình đồng chí đồng đội thấp hơn cả khúc sắn kia.
Tôi đã ân hận thực sự. Anh chiến sĩ kia là một người tốt. Anh đã không đánh giật khúc sắn, cũng không mắng chửi tôi tiếng nào.
Giá anh ta văng tục với tôi thì tôi sẽ yên lòng và tôi không ân hận vì tôi có lý do chánh đáng: thằng mất dạy mình không cho là phải!
Tôi chờ mãi không thấy anh ta trở lại. Những người đi lãnh gạo về hàng đàn, mặt mày người nào người nấy méo xẹo méo xọ chẳng còn ra cái “khí thế chiến thắng” gì nữa! Cái dạ dày rách, cái mồm làm sao nở hoa?
Sốt ruột quá, tôi bèn ra đứng bên vệ đường. Chờ mãi, người đi đã thưa mà cũng không thấy anh bạn ấy.
Cái toán vừa gây sự với ông Chín còn đang lảng vảng ở đây, chuyện trò nổ như ngô rang với Thu. Đáng lý ra họ đã về từ lâu nhưng vì có “chất tươi” cho nên họ ở lại tỏ sự cảm mến đối với Thu.
Tôi đi tới góp chuyện và tả hình dáng nạn nhân của khúc sắn và hỏi có ai trông thấy anh này không?
- Ối! Có ai mà biết, con không cha mà!
Tôi suy nghĩ một lúc rồi lấy khúc sắn trao cho một cậu có vẻ chính chắn nhất đám. Tôi nói:
- Đồng chí đi về dọc đường để ý tìm hộ tôi cậu đó và trao cho cậu ta khúc sắn này. Nói rằng thằng cha hồi nãy ở dưới cái nhà gác đó nó gởi cho.
Anh lính cầm ngay khúc sắn, nhìn lườm lườm như mèo thấy mỡ.
Anh ta hỏi tôi:
- Cậu đó là gì của anh?
- À à… nó là em ruột của tôi! Đây là vấn đề tình cảm nhé! Nếu khúc sắn không tới tay cậu ấy thì tôi buồn lắm đấy!
- Ừ được, được ! Tôi bảo đảm.
Tôi nhìn theo toán lính kéo đi, mắt tôi trông thấy từng người rõ ràng. Chỉ cách tôi độ mười thước thì vỏ sắn đã rơi tơi tả xuống đất. Anh chàng còn quay lại nhìn tôi, miệng nhai ngấu nghiến như cười chê cái sự ngây thơ của tôi. Anh ta đã nuốt chững cái lương tâm của … tôi.
Tôi buồn vô hạn cảm thấy giá trị của mình và của bạn đồng đội xuống thấp quá! Buồn thay cái lý tưởng của mình, khi ra đi cao quý biết bao, với giấc mộng đầu đời, mà bây giờ chỉ còn lại có thế! Quanh quẩn những chuyện lặt vặt không đáng giá một chút trí não vậy mà nó chiếm hết trí não của mình.
Đêm hôm đó tôi mới bày đặt ra một cuộc liên hoan. Mấy khi có người tốt bụng như tôi (!) cho nên bộ đội hưởng ứng ngay.
Cái gì bằng ở giữa rừng xanh khô héo này mà được một bữa tươi.
Chất tươi ngon lành, chất tươi thực tế. Tôi cho Thu biết chuyện ấy như một quyết định, nghĩa là coi như tất nhiên Thu là diễn viên số một trong đêm nay.
Thu càu nhàu nũng nịu:
- Anh lúc nào cũng muốn đem bêu riếu em để làm việc nọ việc kia.
Hoàng hôn rừng nhóm lên một ngọn lửa man dã với hai người lính ngồi sẵn đó hễ có máy bay tới là cứ tuới nước vào cho lửa tắt ngay. Nhạc cũ dùng đệm đàn cho Thu múa duy nhất là cái soong và cái cổ họng của tôi. Tôi lật đít soong vỗ vào. Nó điếc câm không nghe tiếng vang.
Và tôi hát theo điệu tango bài Hoa Champa.
- Hoa Champa ơi, hoa đẹp hoa thơm
Một vầng hào quang hiển hiện giữa đêm đen chói chang ấm áp với vị nữ thần hiện ra huy hoàng đường bệ.
Nữ thần vận một cái choàng khăn tắm bên ngoài cái quần (xin lỗi độc giả) cho nó có vẻ dân xứ Lào để múa bài hoa Champa.
Chắc Thu cũng cảm thấy mình bay lên theo tiếng hát và tiếng nhạc của tôi.
Có bao giờ một người vũ nữ lại biểu diễn dưới cái ánh sáng như cái ánh sáng hôm nay, trên cái sân khấu như cái sân khấu hôm nay, với giàn nhạc như giàn nhạc hôm nay? Vậy mà Thu múa rất hay.
Ánh lửa soi một nửa gương mặt Thu, còn một nửa thì chìm hẳn trong bóng tối mờ nhạt. Cái chót mũi của Thu nhô lên thon đẹp và thanh tú lạ lùng.
Chiến sĩ ngồi xem đực mặt ra nhìn ngớ ngẩn như một lũ nô lệ bị hốt mất hồn. Họ không cử động, đôi mắt lờ đờ, mồm há hốc ra và tay chân xụi lơ không còn cảm giác. Có lẽ họ cũng không cần biết ở đâu lại có một người con gái múa một điệu múa thần kỳ như điệu múa này. Có lẽ bao nhiêu nỗi nhọc nhằn trên đường xa đã phủi sạch trong giây phút nầy. Bao nhiêu sắt thép nặng oằn vai và hằng trăm dặm đường sơn cước trở thành vô nghĩa lý trong giây phút nầy.
Thu đã giúp sức cho họ, mang lại cho họ nụ cười và ngọn gió mát lành trong cơn oi bức. Thu đã đưa tâm hồn họ đến bất cứ nơi đâu mà đôi chân Thu bước tới. Họ ngồi nghiêm trang như đang dự một dạ hội vĩ đại. Ánh lửa bay phơi phới như những mảnh lụa điều.
Nữ thần bước chậm rãi, giơ tay lên dịu dàng uốn mình như sóng lượn. Đôi mắt của nàng sáng rực như sao, nhìn mọi người như xoáy tận tim gan một cách buốt đau mà sung sướng. Nàng đi trong tiếng nhạc và ánh sáng, như gần như xa, như ẩn như hiện, như có như không, lúc đến sát lũ chúng sinh – tưởng như lũ này thở được hơi thở của nàng, lúc lại như ngàn trùng xa cách.
Thu đẹp quá Thu ơi! Anh tưởng đã mất một cách vô cùng thơ mộng vì em bỗng nhiên vụt biến thành nữ thần. Tôi vỗ soong hát mà lòng tan theo tiếng nhạc. Tôi tưởng tôi hoá thành một gã Trương Chi si tình đang ngồi gõ ván thuyền mà ca giữa không gian bao la dệt bằng mộng.
Không rõ nàng là biểu hiện của nghệ thuật hay chính nghệ thuật hiện lên trên thể xác tuyệt mỹ của nàng.
Tôi mới hiểu ra rằng chính mỗi người con gái là nghệ thuật siêu đẳng. Không có Nàng thì nghệ thuật như chim không cành đỗ, cá không được nước bơi, và hoa không có nắng để khoe sắc. Tôi thấy tôi yêu nghệ thuật và yêu Thu hơn bao giờ hết. Tôi thấy Thu đẹp hơn bao giờ hết, cái đẹp của linh hồn biến động ở từng cái chớp mắt, ở từng cử chỉ của những ngón tay, và làm rung động tim người bằng mỗi cái chớp mắt, mỗi cái đưa tay, mỗi cái động chân.
Tôi cũng cảm thấy tôi hát hay. Tiếng hát vang âm giữa những tầng không gian xanh và lướt trên những lá xanh đang mơ màng giấc ngủ.
Khu rừng bỗng nhiên trút hết vẻ âm u man rợ và trở nên quang đãng mơ mộng với những bóng cây nhảy múa theo ánh lửa, với những chú chim non, với những đóa hoa dại chuyển mình hé nở. Cọp beo chừng như cũng mất hết thú tính trở nên hiền lành dễ thương như những chú cừu non.
Thu đã hoán cải tất cả. Dữ hoá hiền, xấu ra đẹp. Cả tâm hồn tôi nửa như cũng thơ thới gột sạch mọi ưu tư.
Đôi chân Thu như hai cái búp non nõn nà di động. Tất cả người của Thu uyển chuyển rung động từng thớ thịt. Từng nếp áo, từng mép tóc của Thu đều ánh lên những hạt bụi hào hoa. Cả Thu đã hoá thành một đoá Champa mà lũ hành khất ở đây đang đói khát, đang tôn thờ.
Ông Chín ban đầu thì ngồi trên sàn nhà có vẻ phản đối cái vụ đốt lửa. Ông không thể chống lại số đông, nhưng ông tỏ sự bất bình bằng cách không xuống đất ngồi chung với mọi người.
Nhưng bây giờ thì ông Chín đã xuống đất ngồi. Có lẽ ông xấu hổ nên ông ngồi khuất sau một gốc cây. Tôi liếc thấy ông Chín chăm chú nhìn cũng như bao nhiêu người khác . Có lẽ ông cũng thích thú như bao nhiêu người khác. Và ông hơi hối hận về sự phản đối dù không có kết quả của ông.
Bỗng có tiếng thét:
- Máy ba….ay!
Tiếng thét như những thùng nước xối vào bếp lửa. Mà thực vậy, mấy người lính thủ sẵn nước trong tay như những cái vòi rồng vụt tưới vào đám lửa thơ mông làm tiêu tan ngay tất cả, tất cả.
Một sự xáo trộn đến cực độ, hồi lâu mới ổn định lại được trật tự. Nổi lên trong tất cả sự im lặng vừa được hồi phục đó là tiếng quát của ông Chín:
- Tắt lửa! Còn lửa cháy đó! Muốn chết hả? Mạng người chớ đâu phải con kiến? Văn nghệ văn ngọt gì?
Trời đất, rừng cây đang sáng sủa là vậy mà chỉ một loáng đã tối sầm lại như trong hũ nút. Người ta không dám thở mạnh, không dám cử động cũng không dám nghĩ rằng chính mình đã sống những giây phút bay bổng vừa qua.
Tất cả đều tan tác. Không còn một chút gì trong tâm hồn cũng như trên mặt đất. Chỉ còn sốt lại mùi khét bốc lên từ đống lửa bị dập tắt bằng nước, hăng hăng cay xè, quái gở.
Tiếng ông Chín càu nhàu:
- Tôi đã bảo mà không nghe tôi. Xem cái gì mà xem cái sự nhảy cóc nhảy nhái đó hả?
Lính tráng êm ru. Cấp chỉ huy cũng ngậm mồm. Họ rút lui không ý kiến. Họ dẫm lên cành khô kêu răng rắc, càn lên nhau kêu la ơí ới, gọi nhau về đơn vị.
Tôi bỏ trốn về võng nằm im thin thít như một kẻ cắp bị bắt quả tang, lòng buồn não vô cùng khi nghĩ tới cái cảnh tượng tan tác đang diễn ra ngoài rừng chung quanh đống tro tàn. Tôi không muốn nghĩ tới niềm hạnh phúc vừa tan vỡ, nỗi sung sướng khi được đối diện với Nữ Thần Nghệ Thuật. Tôi không muốn nhìn thấy nàng đột nhiên trở lại trần tục, lôi thôi lếch thếch với bộ xiêm y thần thoại đầy hào quang vinh quang đã rách nát.
Đêm rừng dày đặc. Tôi đã sống bao nhiêu đêm ở rừng rồi. Ngao ngán . Ngột ngạt.


CHƯƠNG 25

Sáng hôm sau tôi vừa mở mắt ra là thấy ông Chín lom khom xếp những cành lá trên sàn.
Tôi nói ngay:
- Nếu không có múa Hoa Champa hồi hôm thì lính ngủ không được đấy ông Chín ạ!
- Tại sao vậy? – Ông Chín chống nạnh lên và hất hàm hỏi tôi – Tại sao không ngủ được?
Tôi bình tĩnh đáp:
- Tại vì bụng đói quá mà. Nước suối không xoa dịu được cơn đói chứ sao! Phải nhờ tới hoa Champa.
Ông Chín nói một cách thản nhiên:
- Hoa Champa không uống được.
- Ông Chín quên rằng nghe hát thì đỡ đói sao?
- Phải rồi, nhưng máy bay quan trọng hơn.
- Nhưng nó chỉ quan trọng khi nó có thật kia. Còn đằng này không có mà quan trọng cái gì?
Ông Chín đứng lặng người ra rồi cất tiếng cười đắc chí với kết quả mà ông đạt được đêm qua.
Đến trưa thì có lệnh hành quân. Đường đã xoi thủng. Trong giây lát thấy ba-lô lục đục trên lưng. Soong chảo, súng ống lớp vác lớp gánh lớp khiêng, đụng khua nhau lộp cộp lạc cạc lèng xèng không biết có thể so sánh nó với cảnh tượng nào trong cuộc sống. Chợ không phải chợ, hội không phải hội, liên hoan không phải liên hoan.
Tôi bất chợt nhìn thấy trong đám lính một anh bạn quen. (Hẳn bạn đọc còn nhớ “ông già Noël ở nơi có cái đế cối 82 lót đường).
Không biết bao lâu rồi tôi không gặp lại anh ta. Anh ta gầy đến mức độ không còn gầy được nữa. Gương mặt anh ta không còn thịt chỉ còn đôi gò má nhăn nheo, nhô hẳn lên và cặp mắt sâu như hai cái giếng cạn. Anh ta choắt lại như một miếng khô sấy.
Không hiểu lý do nào anh ta lại treo và hôm nay vẫn còn treo chiếc khăn lông nhỏ dưới quai nón làm cho anh ta giống ông già có bộ râu vĩ đại. Tay anh ta mỗi bên vẫn cầm một chiếc gậy như cặp chân giả chắp vào cặp chân thiệt đã kiệt lực từ lâu. Trông anh ta đi, tôi muốn khóc. Bao giờ anh ta mới tới nơi? Vậy mà không chịu nằm lại dọc đường mà cứ lắt nhắt đi từng bước một.
Anh giao liên dẫn đường trên chặng này đã nai nịt xong. Anh đứng trên một cái rễ cây và tuyên bố nội qui mới do anh ta đặt ra sau khi đã được cấp chỉ huy truyền lại tình hình địch. Anh ta rất gọn. Súng cạc-bin, quần đùi, áo tay ngắn.
Anh ta nói:
- Hôm nay chúng ta sẽ đi một con đường đặc biệt. Có thể nói là rất gian khổ và nguy hiểm.
- Có nhiều dốc không đồng chí? – Một anh chiến sĩ hỏi.
Anh giao liên đáp:
- Không có dốc sao phải Trường Sơn. Càng đi vô càng dốc nhiều. Ở đầu đường, các anh bị cái đồi “Ngàn lẻ một”, vô đến cuối dãy Trường Sơn các anh sẽ bị cái đồi em em cái “Ngàn lẻ một” đó.
Anh giao liên xoè bàn tay ra:
- Đồng chí nào còn thuốc cho xin điếu, lạt miệng quá. Hình như cơn sốt tới.
Một anh chiến sĩ móc trong túi ra một mẩu thuốc và trao cho anh giao liên.
- Tôi còn có bấy nhiêu. Thăng Long đấy!
- Ồ! Thăng Long hả? Để làm vài hơi cho biết mùi – Anh giao liên bật lửa châm thuốc hút và nói tiếp:- Nhưng vô Nam dốc cao hơn các đồng chí à!
Một người cãi lại:
- Vô Nam là đi về phía đồng bằng, tại sao dốc càng cao hơn?
Anh giao liên phì phèo điếu thuốc không chịu cháy, anh phun phun sợi thuốc và nói với sự chắc chắn:
- Đành rằng đi về Nam là đi về phía đuôi Trường Sơn, nhưng tới đó dốc sẽ cao hơn nữa. Là vì sức khoẻ của các đồng chí đã kiệt. Ở đầu Trường Sơn các đồng chí leo cái “Ngàn lẻ một” tuy cao nhưng các đồng chí còn sức. Còn vô Nam tuy là dốc thấp hơn nhưng người hết gân, ngựa hết cỏ, muối mắm cũng cạn, chỉ còn có nước suối mà thôi!
Ai nầy lẵng lặng nghe và nhìn lại bản thân mình thì thấy đó là điều chí lý.
Nghe anh giao liên nói, tôi ớn quá. Trước mắt mình không có cái gì phấn khởi cả. Con đường hôm nay, không biết có vạch nổi hay không?
Đường đi gian nan thật vì đây là con đường không có đường. Không một ai đi trước mình trên lối này. Một thứ đường không biết sẽ đưa mình đi tới đâu?
Đi vài bước lại dốc, mạnh ai nấy đi theo ý thích và sức khoẻ của mình. Cả một khu rừng đó, cả một dãy đồi đó, ai muốn đi hàng ngang hàng dọc gì thì cứ đi. Người khiêng súng đi theo sự bất lợi của người khiêng súng; người mang ba-lô đi với sự uể oải của người mang ba-lô. Cho nên cả đoàn người đi qua rồi vẫn không để lại phía sau một vết mòn nào khả dĩ gọi đó là đường mòn để cho kẻ đi sau nhờ. Lên đến một cái đỉnh dốc, anh giao liên nhìn dáo dác và bảo:
- Bỏ mẹ! Lạc rồi!
Một người nhảy cỡn lên như đạp phải lửa:
- Hả, đồng chí nói cái gì? Lạc rồi hả?
- Chưa chắc nhưng sao đi mãi mà chưa qua được buông Ô.
- Buông Ô là buông gì đồng chí?
- Buông Ô là buông Ô chớ buông gì..
- Cái buông đó nằm ở đâu đồng chí?
- Ở chỗ nó nằm chớ đâu.
- Nhưng ở hướng nào? Đông hay Tây?
- Tôi chẳng biết Đông Tây gì hết!
- Trời đất! Anh học lớp mấy mà anh không biết phương hướng khi đi rừng?
Hai người đôi co với nhau làm cho anh giao liên đang lúc mệt, đổ quạu. Anh nói:
- Tôi không có học lớp mấy hết! Hồi nhỏ tới lớn tôi đi chăn trâu cho người ta không hè!
Rồi anh giao liên bỏ đi giữa sự câm lặng của mọi người. Đi được vài bước anh quay lại:
- Ở đâu ngồi đó nghe! Bỏ đồ xuống nghỉ. Đi bậy bạ tụi nó bắn tên thuốc độc chết ráng chịu.
Tôi lắc đầu hỡi ôi! Thế là lạc mất rồi.
Trời chiều gió ít nhưng không khí âm âm lạnh rợn người. Nắng đã xuống thấp chỉ còn vài ba đốm nhợt nhạt trên rễ cây. Không có con chim nào về tổ. Rừng hoang đến nỗi chim không làm tổ.
Vài ba người ném ba-lô xuống. Súng đạn kẻ thì treo trên cành cây, người thì giá súng, nhiều người lót đít ngồi như khúc gỗ.
Mấy anh chỉ huy thì dở bản đồ ra xem. Tôi cũng chen vào đám này khom xuống xem bản đồ làm như mình cũng là tham mưu.
Bản đồ nằm dưới đất, li ti những gân xanh gân đỏ chạy chằng chịt nhưng loay hoay mãi không ai tìm ra điểm hiện mình đang ngồi. Tôi nóng mũi nên chen vào một cách hết sức vô trách nhiệm:
- Thôi các đồng chí ơi! Đừng có tìm mà mất công! Biết đâu mà tìm? Thiệt là vô lý!
Lặng thinh một lát tôi lại nói:
- Tôi có cách này hay lắm!
- Cách nào?
- Quay lại trạm cũ!
- Để làm gì?
- Để có suối!
Hai vị chỉ huy mới té ngữa. Ở đây đâu có nước nôi gì? Ai cũng khát, mong cho tới nơi để nốc ba bi-đông một lúc vào cái dạ dày thay cơm. Nhưng bây giờ nước suối cũng không có nữa rồi.
Đành vậy thôi chớ biết làm sao? Quay trở lại đâu có phải là dễ? Đi rừng như đi đêm, nhất nhất đều phải có người dẫn nếu không thì cứ đi quanh quanh mãi trên vết chân mình mà thôi. Người hướng dẫn đã đi lạc thì làm sao?
Tôi buồn rầu vô cùng, vừa việc lớn vừa việc nhỏ, vừa đường ngắn vừa đường dài, đều không có một chút gì thuận lợi…
Tôi đang tìm chỗ để mắc võng. Bỗng tôi ngồi phệt xuống. Hai tay quơ quào bứt lấy một bụi rau xanh đưa lên mũi ngửi rồi bỏ vào túi cài nút lại ngay. Một cử chỉ chớp nhoáng nhưng Việt cũng trông thấy. Việt hỏi:
- Cái gì vậy anh?
- Ngò, ngò gai cậu ơi!
- Ngò nêm canh chua đó phải không?
- Đúng rồi.
Sự trao đổi của chúng tôi lọt vào tai những người bên cạnh, rồi lập tức được truyền ra khắp đoàn nhanh như gió.
- Ở đây có ngò gai nghe!
- Tìm ngò gai nấu tộ canh chua với lá bứa bây ơi!
Thế là mọi người dẫm lên gai góc, bới vào những kẹt đá để tìm cái món gia vị thân thuộc đó như một cuộc hành quân truy lùng địch quân.
Nhưng không ai tìm ra được thêm một lá nào nữa.
Việt bảo tôi:
- Đúng ngò không anh?
- Sao không đúng? Tôi ăn canh chua mòn răng mà!
- Đưa coi!
Tôi móc túi đưa mấy cái lá rau cho Việt. Việt đưa lên mũi hít hít như ngửi thuốc khoẻ:
- Đúng rồi. Ngò! Ngò!
Lính tráng văng tục ầm ĩ. Kẻ khiêm tốn thì than thở, đứa lỗ mãng thì chửi thề. Có những kẻ đã từng gặp cái cảnh lạc đường này thì ngồi lặng thinh chỉ kêu lên một tiếng rồi thôi.
Nước trong bi-đông đã cạn. Suối reo thì dưới chân núi. Chỉ hoá thành khỉ thì hoạ may mới đi xuống lấy nước được vì dốc đứng và ít ra bây giờ cũng đã 6 giờ chiều.
Người người thiêm thiếp vì đói lả và thất vọng. Đã nhọ mặt người, mỗi con người đều hòa lẫn vào cây cỏ và bóng tối.
Người giao liên nào đã dẫn họ tới đây? Bao giờ thì họ sẽ tới nơi hay không bao giờ họ đến?
Nỗi sợ sống giữa rừng sâu cùng với nỗi lo câu bị dẫn lạc đường nhồi lại làm một đè nặng lên tâm trí tôi như một tảng đá. Tôi chưa mắc võng vội. Lòng cứ bồn chồn không sao ổn định được. Loay hoay một chập thì trời mưa. Mưa thật to, bất ngờ. Ai cũng lấy ni-lông ra choàng và đứng co rút lại tìm một gốc cây mà nép mình vào. Mưa càng nặng hạt. Sườn núi nghiêng trút cho nên không thể đứng thẳng hai chân được, phải đứng một chân thẳng một chân dùn và cứ chịu như thế cho đến tàn đám mưa.
Không có gì buồn bằng khi hạ trại mà lại gặp mưa. Rồi lại không có nước và cuối cùng là không một que củi. Mà lại tối mịt.
Thôi, đành mắc võng rồi leo lên nằm với cái bụng tóp ve. Và chỉ có thể xoa dịu cơn đói bằng mấy giọt nước còn tráng đít bi-đông.
Nhiều người lầm bầm chửi giao liên, nhiều người đốt lửa hơ quần áo. Tôi thì chỉ nằm queo, không buồn nói tới Thu cũng không động tới Việt.
Bỗng Việt đến nói với tôi:
- Ta nấu canh chua đi anh!
- Giỡn cậu!
- Thiệt mà! Tôi vừa bắt được đúng ba con cua đá.
Việt móc túi quần đưa ra ba chú cua. Mỗi chú to bằng ngón chân cái, đen như than, ngời ngời như da trùn hổ. Việt còn móc trong túi áo ra mấy cái đọt bứa và nói:
- Vậy là đủ chất liệu rồi.
Tôi nói:
- Đâu còn nước!
- Vét hết nước trong bi-đông của tôi, của anh và của Thu là đủ.
Rồi Việt hăng hái tiến hành nấu canh chua. Việt chẻ những thanh nứa ra bằng chân nhang, bó lại. Tất cả cua, lá bứa và nước cho vào một cái ga-men. Tôi cầm cái quai, còn Việt thì châm lửa vào mớ que nứa kia kê duới đít ga-men. Việt gọi:
- Thu ơi! Có ăn canh chua không?
- Canh chua đâu anh?
- Có đây!
Tôi bảo Việt:
- Coi chừng hễ nước vừa sôi chín lá bứa và cua thì ngưng, kẻo sôi lâu cạn hết nước.
Quả thật, nước không ngập lưng mấy con cua. Chập sau, canh vừa sôi là tôi bảo Việt dập lửa ngay, rồi bảo Việt và Thu mang ga-men lại. Tôi lấy muỗng chia cho từng người . Mỗi người được một chú cua đá, mấy cái lá bứa và ba muỗng canh.
Bỗng Thu kêu lên:
- Ấy chết, ngò đâu không nêm vào?
- À ạ! Cái món chính mà lại quên.
Tôi bảo Thu:
- Em móc túi áo anh lấy ngò ra, tay anh bẩn quá.
Thu phụng phịu:
- Anh bóc lột em từng chút.
- Anh là tư sản văn chương đây mà!
Việt cười:
- Nhưng tư sản hụt.
Rồi mỗi đứa đem thức ăn về lều ăn riêng tùy theo sở thích của mình, cốt làm sao các món phụ thêm làm cho món canh chua cua đá được tăng thêm giá trị.
Cơm nắm mang đi từ trưa tới giờ thiu nhớt. Tôi cắn vô một miếng. Tôi không ngờ nó thiu đến thế nhưng không lẽ lại phun ra. Dù thiu nó cũng là cơm mà. Cho nên tôi ráng sức bình sinh mà nuốt nó vào. Ngon hay không tôi cũng biết nữa, chỉ thấy sau khi miếng cơm đi khỏi mồm thì tôi nôn thốc nôn tháo và cuối cùng nó dội hết ra ngoài.
Tôi cầm cái nắp ga-men canh chua lên mà húp mà nhai luôn con cua với mớ lá bứa và nuốt ngay. Còn mấy lá ngò thì tôi nhai chầm chậm để mà thưởng thức hương vị của quê hương với tất cả sự mơ ước và tưởng tượng của tôi.
Cơm vừa xong thì anh giao liên xuất hiện. Anh bảo đã tìm được đường xuống suối. Thế là cả đoàn nhao nhao đứng lên, không ai bảo ai, ùn ùn đi theo anh giao liên xuống suối.
Tôi và Việt phải thay nhau mà dìu Thu. Vì đi núi, leo lên rất nguy hiểm mà đi xuống lại càng nguy hiểm hơn. Ngã một cái là tai nạn ngay.


CHƯƠNG 26

Chúng tôi đi sau bộ đội cho nên đã có đường mòn. Bùn trây trên đá. Đá thì sắc và bùn thì trơn. Đến một chỗ dốc đứng sững, cả tôi lẫn Việt đều phải nắm tay Thu kềm lại. Tôi đưa chân dò chỗ để bước nhưng chỗ nào cũng trơn. Tôi cứ ướm mãi mà không bước được trong lúc ở phía trên đang đùn lại.
Một tiếng quát:
- Nhanh lên!
Một tiếng khác:
- Ngủ ở đấy à?
- Đúng thật rùa leo núi!
Tôi cáu quá những không còn cách nào khác. Tôi đành ngồi phệt xuống đi “pa-tanh” bằng hai mông đít. “Rô…ột” tôi trợt một quãng thì hết dốc. Tôi đứng dậy và nhìn lên. Tôi bảo Thu:
- Chỉ có cách đó thôi em. Bước loạng choạng trợt ngã thì bị thương đấy.
Thu lắc đầu. Với cái bàn chân vừa lành của Thu nàng không thể đi qua cái quãng trơn này được. Thu lưỡng lự mãi, nhưng sau cùng bị những tiếng gắt gỏng từ bên trên dồn xuống, cực chẳng đã Thu phải chấp nhận cái lối trượt “pa-tanh” như tôi. Thu ngồi xuống, hơi cau mặt, nhưng rồi cũng tuột xuống, mài cặp mông ngà ngọc trên những cục đá lởm chởm đầy bùn. Tôi quay mặt đi. Rột! Tôi thấy Thu đứng dậy và vội vã lấy tấm ni-lông ra choàng như trong lúc trời mưa. Chúng tôi đến bờ sưối thì thấy bộ đội nổi lửa khắp nơi. Hồi sáng trước khi đi, trạm đã quơ quào ở đâu được một mớ gạo phát cho bộ đội có thể nấu cháo loãng mà húp. Cả một tiểu đội húp cháo, thì cái tiếng húp cháo rồn rột đó chắc sẽ vang động tới tận những đâu đâu.
Bất ngờ, trong lúc tôi đi tìm chỗ mắc võng thì gặp mấy người bạn cũ ở Hà Nội, còn Thu thì gặp lại những nữ khán giả cũ của mình. Không gì bằng gặp bạn quen trên đường xa xứ lạ. Ít nhất cũng nương tựa nhau được cái tinh thần. Hoặc nếu mình “có làm sao” thì cũng có người biết, ít ra là một người biết.
Cho nên ba đứa tôi đến mắc võng bên cạnh các bạn này. Lê Ngọc, bạn của tôi, trông có vẻ còn rắn rỏi lắm. Tôi hỏi:
- Cậu chưa sốt trận nào à?
- Chưa!
Lê Ngọc tiếp:
- Tôi uống thuốc phòng rất đều và ngủ rất kỹ.
- Đoàn cậu có bao nhiêu?
- Đấy!
Lê Ngọc trỏ mấy anh chị em đang lui cui làm cơm và tiếp:
- Đó là Hải và cô Hồng Liên cán bộ của khung nhà trường đấy và vừa rồi tớ mới kết nạp thêm một cậu ở dọc đường. Trước kia cậu là y tá của tiểu đoàn 307.
Chẳng đợi tôi hỏi, Lê Ngọc tiếp:
- Anh ta người ở Hốc Môn mà lại bị đưa về Khu 5. Không biết thằng tổ chức nào chó thế. Chơi tréo cẳng ngỗng anh ta. Nhưng anh ta cũng biết khôn, gần tới trạm rẽ xuống Khu 5 thì anh ta ngã sốt. Cố nhiên là đoàn anh ta đi tuốt, bỏ anh ta ở lại. Đoàn vừa đi khỏi thì anh ta ngóc đầu dậy quảy ba-lô đi ngay. Trên đường này đâu có giấy tờ gì cho ra hồn. Đâu có ai biết ai. Cho nên anh ta đi thẳng tuột. Vô tới đây thì cậu ta xin nhập tịch đoàn mình. Trong đoàn tôi có bác sĩ cũng đỡ.
Tôi hỏi ngay:
- Anh ta có ống chích không?
- Có chớ! Anh ta bây giờ là bác sĩ mà!
- Thế thì hay lắm. Cho tụi tôi móc vô đoàn của cậu với nghe!
Lê Ngọc quay lại nói với mấy cô cậu thanh niên trong đoàn:
- Nấu thì cố mà che lửa. Có báo động thì dập lửa ngay, lơ mơ giao liên nó đâm thủng cả soong nồi thì treo mõm luôn!
Tôi hỏi Lê Ngọc:
- Bỏ nghề rồi hay sao mà đi đây, hả?
- Đi vô mở đại học chớ! Đi cả một cái khung giáo sư mà.
- Thế cơ à!
- Ừ, thì làm ăn to mà cậu!
Tôi thở dài:
- Nghe thì như là mâm cổ đã dọn ra và mình chỉ còn phủi chân leo lên.
- Cậu không biết chớ bên công an, mình có mấy thằng bạn nói họ đang chuẩn bị đưa vào một lô cảnh sát giao thông để tiếp thu Saigon đấy. Nhưng vô tới đây thì tớ biết rồi! Các chả tếu quá!
Bỗng có tiếng quát:
- Máy ba…ay!
Hải, một đoàn viên của Lê Ngọc chụp lấy ca nước để bên cạnh hớp một ngụm và “Phèo!” Hải phun vào bếp, lửa tắt ngay.
Có tiếng quát:
- Ai còn lửa đó? Muốn chết hả?
Tôi nhìn dọc theo bờ suối, còn những đốm lửa nhá nhem và nhiều mớ than đỏ rực chưa tắt kịp.
Cái tiếng kia lại quát:
- Tắt ngay! Đá mẹ nó cái nồi cơm đó đi! –
Hải lại chụp lấy ca nước đổ luôn vào bếp. Hồng Liên càu nhàu:
- Ướt hết làm sao nhúm lại!
Tôi không còn nghe tiếng nói qua lại mà nghe tiếng cười rúc rích của hai cô cậu. Rồi tiếng cười cũng im luôn. Tiếng cô gái kêu lên, tiếng cấu véo nhau rồi tiếng gắt khẽ phản đối “Anh nghịch lắm!” và tiếng “ơ kìa…ơ kìa…” liên tục.
Máy bay chỉ lướt qua rồi biến hẳn.
Lửa lại nhóm lên khắp nơi. Nhưng lửa vừa cháy lên thì lại:
- Máy ba..ay!
Bên cạnh tôi một cậu lính càu nhàu:
- Máy cái con mẹ mày, máy bay!
Một cậu khác:
- Máy cái gì máy mãi vậy? Ba tiếng đồng hồ chưa sôi nồi cơm. Đ.m. máy tao cho mày đói, tao cho mày chết!
Xoảng! xoảng! Sẵn chân cậu ta đá luôn, tung cả bếp núc , ga-men xuống suối. Rồi cậu ta lên võng nằm.
Rồi máy bay đi. Lửa lại lên tươi đời.
Lê Ngọc nói với Hải:
- Hễ tới chặng gay go thì in như rằng tới phiên cậu trực nhật. Xui quá Hải nhỉ? Hải này, cái trường đại học của cậu cứ quanh đi quẩn lại chỉ có cái soong cơm với ba lão táo tàu, có chán không?
Hải ngượng ngùng nhìn Hồng Liên:
- Em thổi lửa mãi, cái mồm em trở thành cái loa thì con gái nó chê thì bỏ mạng anh ạ!
Hồng Liên đôi má đỏ rừ đang ngồi bên cạnh Hải chen vào ngay:
- Thế ra anh là người mồm loa mép dãi à?
- Ừ được. Chẳng bằng bộ răng hàng rào thưa gậm một lúc hết phéng nửa ký lô “thép ngào đường” của bộ đội.
- Đây lửa xuống thấp rồi, anh thổi lên đi.
- Anh không thổi nó cũng lên, vì chính anh là lửa mà!
- Lại tếu bốc giời! À mà anh Hải! Tại sao các anh bộ đội hôm nọ lại bảo ăn lạc rang là ăn thép nhỉ?
- Anh đố Hồng Liên đấy!
- Em chịu thôi!
- Thế mà cũng làm trời. Này nhé, ở Nghệ An vùng Bến Thủy em biết không?
- Có nghe nói.
- Ở đó có những đám thiếu nhi đi rễu ngoài đường cứ hễ gặp ai mua đậu lạc thì nó giải thích chủ trương của chính phủ rằng hai kilo lạc đổi được một kilo thép của ngoại quốc cho nên chính phủ chủ trương thu mua hết tất cả đậu lạc để đổi thép đem về xây nhà máy! Vì thế ai ăn lạc thì phạm chính sách. Hiểu chưa?
Lê Ngọc đưa hai tay lên miệng làm loa:
- Cần một người có hàm răng thật khít nặng trên 40 kilo để thổi lửa!
Hồng Liên xoè hai bàn tay ra hơ lửa.
- Em lạnh à? – Hải thân mật.
- Không, em không lạnh nhưng gần lửa em thấy dễ chịu hơn.
- Da em hơi vàng rồi đấy!
- Vàng quá đi chứ còn hơi gì nữa! – Hồng Liên đưa tay lên sát mặt xem – Mỗi ngày 6 viên ki-nin uống phòng, còn gì nữa mà không vàng! Chịp!
Hải nhạy miệng:
- Thế là Hồng Liên là kẻ da vàng bụng ỏng hả?
Tôi ngồi nghe các cô cậu đối đáp với nhau mà cũng vui lây.
Bỗng từ bên kia suối có tiếng quát:
- Đám nào vô kỹ luật thế hả?
- Tên nào xấc láo thế hả? – Lê Ngọc đứng phắt dậy quát trả.
- Tôi cho các người biết, tôi, Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh cho cái bếp lửa đó phải tắt ngay!
Tôi lại thấy thêm một chuyện kỳ cục. Nhưng kỳ cục nhất là một tay tiểu đoàn trưởng mà lại có một thái độ thôi bỉ đến thế.
Lê Ngọc dịu giọng:
- Các ông có cơm đưa ra đây cho chúng tôi thì chúng tôi tắt lửa. Chín giờ rồi. Các ông đói chúng tôi cũng đói.
Tiếng quát bên kia suối vọng qua:
- Nhưng không phải vì đói mà người ta vô kỹ luật.
- Cũng không phải vì muốn giữ kỹ luật mà người ta trở thành lỗ mãng với nhau.
Tiếng chân ầm ầm lội qua suối, dẫm trên sỏi nặng chịch và đến gần bên Lê Ngọc. Tôi đưa mắt nhìn sang. Một con người không cao, gương mặt xương với hai gò má nhọn hoắt và cặp mắt sâu hóm.
Anh chàng hất hàm hỏi Lê Ngọc:
- Anh ở đơn vị nào mà bướng thế hử?
- Chúng tôi không biết, không được biết ông là ai cho nên chúng tôi không thể cho ông biết chúng tôi là ai!
- Tôi đã bảo rằng tôi là tiểu đoàn trưởng.
- Thế hả? Chúng tôi ở trong một đơn vị không nằm trong tiểu đoàn của ông!
- Anh có biết chung quanh đây có bao nhiêu người không?
- Đó là một điều nên giữ kín hơn là nói ra.
- Các anh có biết ai quản lý đường dây nầy không?
- Đó lại cũng là một điều bí mật mà những người tôn trọng kỹ luật không nên hỏi hoặc không nên đáp lại cái câu hỏi đó. Vì như thế là vô kỹ luật.
Lê Ngọc trả lời xuôi rót và đầy vẻ chế diễu làm cho đối phương đang sẵn sàng nổi nóng nhưng không thể nóng lên được. Cuối cùng y phải hạ thấp giọng:
- Các anh có một dúm thôi, còn chúng tôi hằng ngàn người. Máy bay như rươi các anh không thấy à? Nó phát hiện được thì hằng ngàn sinh mạng con người ta hoá ra tro bụi, các anh đền được không? Tôi cho các anh biết đường dây này do quân đội quản lý. Các anh đi trên đường này thì phải chịu kỹ luật của quân đội . Nếu các anh chống lại, nhân danh tiểu đoàn trưởng tôi bắn bỏ các anh. Các anh nghe rõ chưa?
Lê Ngọc ngồi xuống không nói cũng không nhìn hắn nữa. Thấy những quả đấm của mình cứ thoi vào quãng không, hắn quày quả ra về.
Nhưng vừa sang bên kia suối, y lại quát:
- Trinh sát chiến đấu sang bắt trói đám đó cho tôi!
Y vừa dứt lời thì những bước chân ùn ùn lội qua suối. Tôi bảo khẽ Lê Ngọc:
- Thôi anh ạ. Nhịn hắn đi.
Lê Ngọc nuốt ực:
- Không việc gì phải chịu nhục. Hắn có giỏi thì vào đánh nhau với Mỹ. Hay ho gì đi ăn hiếp tụi dân chánh?
Toán trinh sát chiến đấu đã sang. Quần họ ướt tới đầu gối, nước chảy ròng ròng xuống đất. Họ không cầm súng. Một người trong toán họ nói nhỏ nhẹ:
- Thôi các anh ạ, một câu nhịn chín câu lành. Tại ông ta quá nóng. Đối với chúng tôi, ổng đập bằng gậy, tát tai là thường. Lúc nãy ổng tưởng nhầm là lính của ổng, hơn nữa vì có các cô “cu nhép” ở đây… cho nên… ổng hơi cương!
Hải đã cời than ra. Cháo vừa chín. Những hòn than trông ngon lành. Hồng Liên buột miệng bảo:
- Các anh về nói với ổng là chúng tôi xin đa tạ ổng nhé!
Tôi nằm trên võng nãy giờ nhìn xem cuộc thế. Tôi gật gù và tỏ ý khen Lê Ngọc:
- Tuyệt! Đối thoại chan chát như kịch Sếch-pia .
- Cậu không ra tiếp mà còn chế nữa!
- Cậu đã để cái “xanh-cốp” tài thật vừa chỏi lại vừa êm, tuy êm mà lại rất chỏi . Cho nên đối phưong không thể “cao trào” được mà cứ lềnh lềnh rồi cút luôn.
Hải đứng dậy nói to lên:
- Cần những người có năng lực tiêu diệt cháo loãng đây! Mau lên! Mau lên!
Cháo xong họ lên võng nằm. Đó là giờ phút thần tiên nhất.
Tôi kể lại câu chuyện cậu binh sĩ quê ở Quảng Bình chết vì “bệnh tư tưởng” và tấm mộ bia tôi và Việt đục hôm trước cho Lê Ngọc nghe.
Lê Ngọc nói:
- Tôi chạy tét các cha đó rồi! Tụi mình đã đi tới đây, kêu trời không thấu. Nói nhỏ mà nghe: lính chết như gà bệnh toi, còn lính trốn như đi chợ.
Một chốc tôi thấy chột bụng, chắc chắn là vì nắm cơm thiu và món canh chua nấu ba sồn bốn sực khi chiều. Tôi vạch cây tìm chỗ. Lê Ngọc bảo giọng lè nhè:
- Coi chừng rắn chàm oạp nghe! Bị nó một cái là vô phương cứu !
Tôi đi vài bước mới biết rằng trời có trăng. Trăng hiện lên trên bầu trời cao như một cái mặt người rằn rện. Ánh trăng loang lổ, rơi bừa bải trên cành cây và dưới mặt đất. Tôi ngỡ tôi đi lạc vào vương quốc của những âm hồn.
Đang đi bỗng tôi nghe tiếng cành khô gãy. Tôi hơi sợ. Không biết người hay thú rừng. Tôi bèn đứng nép vào một gốc cây to.
Bỗng tôi nghe tiếng kêu the thé:
- Ối giời! ối giời! Anh giết em đi! Anh giết em đi!
- Ừ, anh sẽ giết em, giết chết em!
Rồi im bặt.
Những tiếng kêu kia làm cho cho sự tò mò của tôi nổi dậy. À ha trên đường đi bại liệt này người ta cũng còn sức để giết nhau.
Loáng thoáng qua những cành cây, những mảng trắng nhễ nhại, tiệp với ánh trăng, rung rinh, nhấp nhô với một nhịp điệu vừa phải. Rồi một khối như khối đá lăn quay, nghiêng ngã, rập rềnh, vỡ ra làm đôi rồi lại ập vào nhau, lăn lóc, nghiêng đè trên những cành khô nghe răng rắc.
Tôi phải định thần mới nhìn ra. Những mảng trắng , ồ những mảng trắng như những cái bánh ếch trần béo bở mịn màng.
- Em sắp chết, em sắp chết!
- Anh giết … anh gi…iết em!
- Nhanh lên … anh!
Tôi chỉ còn trông thấy hai bắp chân ngoặc vào cái mảng lưng, hai cánh tay trần trắng toát cũng xoắn vào cái cổ, ghì cái lưng và cái cổ xuống. Kẻ thắng thế cũng ôm xoắn lấy đối thủ, hai chân xoạc hẳn ra và đạp tung những lá khô và cành cây. Trông như một màn đô vật. Họ quyết giết nhau.
Rồi thôi, cơn gió qua nhanh. Những địch nhân lại thân ái với nhau.
- Anh hư lắm! – Một cái tát khẽ.
- Hư gì mà hư. Để yên anh nhìn!
- Anh nhìn thế, em chịu thôi!
- Không, anh nhìn trăng. Ồ trăng của anh tròn đẹp thế! – Những tiếng nói rít qua hai hàm răng nghiến lại.
- Em bảo anh để giành vô Nam hãy…
- Giành gì! Nay còn hưởng được, ta cứ hưởng.
- Mai sức đâu anh đi? Ơ kia… lại nữa rồi!
- Chứ thôi à?
- Em đã bảo là phạm chánh sách mà!
- Sách gì mà phạm?
- Ba khoan!
- Ba khoan chứ ba chục khoan cũng xổ toẹc. Khổ bỏ mẹ đây lại còn khoan với dùi!
Hai cánh tay như hai thỏi ngà bỗng giơ lên xoắn vào cái cổ đang nghễnh dài ra mà nhìn và riết xuống. Họ chung sống hoà bình với nhau như vậy không biết bao lâu, tắm ánh trăng, tận hưởng những phút giây còn sót lại có thể hưỏng được.
Tôi về nằm lưng võng mà không ngủ được. Những mảnh trắng vừa của trăng vừa của da thịt cứ lấp loáng trong đầu tôi. Tôi trăn trở mãi. Bỗng bên kia:
- Em còn nước đó không?
- Còn! Anh sang đây mà uống.
Họ đã về. Họ khát sau phút giây lăn lóc, họ bồi dưỡng sức khoẻ bằng nước suối.


CHƯƠNG 27

Sáng chưa thiệt mặt đã nghe tiếng tri hô ầm ĩ bên kia suối. Tôi nằm im trên võng lắng nghe:
- Thằng Khả đi mất mẹ rồi nghe!
- Ở tiểu đội 5, thằng Ưng cũng biến luôn rồi!
Lê Ngọc lầm bầm:
- Cho ông bỏ mẹ ông đi nhé ông tiểu đoàn trưởng! Kỷ luật của ông đấy.
Rồi Lê Ngọc nhảy xuống đất ngay. Lê Ngọc thọc tay trong túi quần và đi xuống suối, ngóng sang bên kia một cách thích thú. Lê Ngọc nói to lên:
- Hôm nay 3 giờ mới hành quân, mình tha hồ xem cái màn chèo bát nháo này.
Lê Ngọc lấy gói thuốc cuộn một điếu vừa phì phà vừa tìm chỗ ngồi yên trí sẽ được xem những màn lớp bất ngờ.
Hải, Hồng Liên và tôi cũng xuống suối súc miệng. Thu cũng đã thức, cũng đã đi theo chúng tôi. Hồng Liên nói với Thu:
- Không có lý bộ đội lại đào ngũ. Mình gặp họ dọc đường, họ quyết tâm đến thế mà, chị Thu!
Một chốc, Thu mới chẫm rãi nói:
- Nghe nói họ đi bộ từ Thái Nguyên. Chịp! Súng nặng đến thế mà…
Bên kia bờ có tiếng quát:
- Mỗi trung đội cho một tiểu đội đi lùng. Bắt về đây, ông thì treo cổ cả duộc!
Tiếng súng khua, tiếng người bước chạo rạo, tiếng gọi nhau một chập rồi im hẳn. Một tiểu đội lội suối sang phía này. Một anh hỏi Lê Ngọc:
- Các đồng chí đóng bên này có thấy bên chúng tôi đi…
- Thấy các anh đi đâu ạ? – Lê Ngọc chận ngay.
- Anh em chúng tôi có một cậu và một tiểu đội.
- Đi công tác à?
- Dạ không! – Anh ta ngập ngừng mãi – Anh em họ đi quanh quất đâu trong ấy mà!
Lê Ngọc hăng hái:
- Ồ, đi vô rừng sợ lạc à? Không lạc đâu, chốc họ về thôi.
- Dạ không, anh em họ trốn ấy mà!
- À ạ! trốn nghĩa là đào ngũ ấy phải không?
Lê Ngọc gằn từng tiếng một cách khoái trá. Lê Ngọc để lộ ý trả thù về việc hôm qua.
Tiểu đội võ trang kéo đi qua. Một cậu lầm bầm:
- Tớ mà gặp tớ để cho nguyên băng!
Hồng Liên cứ ngơ ngác:
- Bộ đội đào ngũ thật hả anh Hải?
- Chứ không à?
- Sao lại thế nhỉ?!
Hải bực dọc:
- Có gì mà lạ! Thằng thì đào ngũ từ Hà Nội, thằng thì nhảy tàu què cả chân kia. – Hải tiếp – Dọc đường em đã chẳng trông thấy đầy dẫy ra đó à? Ở chặng nào mà không gặp! Em cứ tưởng ai cũng như mình à?
- Nhưng đó là một phần nhỏ thôi chứ anh?
- Cố nhiên ở Hà Nội thì một phần nhỏ, còn tới đây thì nó không nhỏ nữa rồi.
Hồng Liên vẫn ấm ức:
- Nếu muốn không đi thì báo rằng mình không thích đi, rồi xin ở lại chứ việc gì phải đi rồi đào ngũ cho nhơ danh?
- Em hiểu đời còn kém quá. Bây giờ thì lên mà nấu cháo đi, kẻo tới giờ giới nghiêm bây giờ.
Tôi và Lê Ngọc vừa lên võng nằm thì người ta lôi về một anh. Có lẽ tên anh này là Khả, theo như người ta nói lúc sáng.
Khả chưa đầy 20. Đôi má Khả chảy xuống như bị phù. Nước da vàng như nghệ, cái áo lục quân của anh rách xể một bên vai. Có lẽ anh bị gai quào trong đêm qua. Chẳng ai nói câu gì khi tiểu đội dắt anh ta đi ngang qua lều của Lê Ngọc và của tôi.
Tôi thấy Lê Ngọc thích thú ra mặt. Lê Ngọc bỏ bì thuốc vào túi rồi lại đi xuống suối. Lê Ngọc cuộn xong điếu thuốc đã nghe tiếng gắt ầm bên kia suối:
- Cậu đi đâu? Trốn hả? Vinh dự thay lính Bác Hồ! Pốp! pốp! Tôi ra lệnh cho cậu từ giờ phút này không được đi một bước khỏi gốc cây đó. Pịch! pịch! Cứ ngồi mà ôm cái gốc cây đó cho đến khi có lệnh mới!
Tiếng khóc bỗng trào lên rưng rức.
- Ơ hay, sao lại khóc? Tôi đùa với cậu à?
- Em không đi nữa!
- Quân đội là cái chợ à? Muốn vào thì vào, muốn ra thì ra à?
- Không phải thế, nhưng em ốm quá!
- Ốm thì có thuốc men chứ.
- Em không xa nhà được.
- Cậu không bằng trẻ con ấy!
- Em chưa cầm súng bao giờ. Em đang ở hợp tác xã.
Tôi hình dung gương mặt viên chỉ huy, cặp mắt trợn lên, tay chống nạnh, tay ra bộ tịch dữ dằn, nhưng khi anh lính nói tới câu này dường như ông ta bị hẫng cho nên không nghe anh ta hò hét nữa.
Anh lính đào ngũ đã đưa ra một lý do bất ngờ. Anh chưa cầm súng bao giờ! Anh đang ở hợp tác xã, không biết vì sao anh lại đi vô Nam.
Lê Ngọc nói với tôi:
- Tội nghiệp anh thanh niên! Có lẽ đó là một học sinh lớp 7. Lính của viên tiểu đoàn trưởng toàn như thế hay đây chỉ là một trường hợp đặc biệt?
Tôi không có câu trả lời.
Từ bờ bên kia có một người đi xuống suối. Người ấy chính anh lính đào ngũ. Tôi đoán thế vì thấy cặp mắt anh ta đỏ hoe. Anh ta ngồi xuống khoát nước rửa mặt, không chút ngượng ngùng.
Thấy Lê Ngọc đang hút thuốc, anh ta hỏi xin:
- Anh quăng cho em một điếu với!
- Anh là Khả phải không?
- Vâng, Khả là em.
Lê Ngọc rúi túi thuốc và hỏi:
- Cậu có bật lửa không?
- Không có anh ạ. Cả tiểu đội chỉ có một chiếc, em làm gì có được cả một chiếc?
- Không có bật lửa, cậu làm sao đi rừng được mà trốn?
- Thì em cũng liều. Có thân thì phải lo.
Lê Ngọc cuộn một điếu thuốc, châm lửa rồi ném sang cho Khả. Khả nhặt lấy điếu thuốc mấp lấy mấp để. Mắt cu cậu sáng hẳn lên. Cu cậu nói huyên thiên.
- Mấy hôm nay em toàn nhịn, xin được tí nào em vê lại rồi mồm ngậm nước hút theo kiểu sâu kèn. Hút được một điếu tỉnh người lắm anh ạ!
Lê Ngọc hỏi:
- Cậu không chuẩn bị mà dám trốn về à?
- Em đã liều mà! Em nhất định về. Có giết em cũng không đi!
Có người đi xuống suối. Lê Ngọc không hỏi nữa. Lê Ngọc trở lên lều với vẻ mặt buồn bã vô cùng.
Bỗng …”đoàng”!
Tôi quay lại nhìn, chẳng biết chuyện gì đã xảy ra nữa.
Lê Ngọc vừa ngồi dậy thì Hải hớt hãi chạy về. Hải vừa thở vừa nói:
- Bộ đội tự sát anh à! Ghê quá!
- Có đúng thật không?
- Em nghe họ kêu bên kia suối mà!
Lê Ngọc ngã người trên võng:
- Đúng là Espoirs perdus!
Tôi cảm thấy như viên đạn đã bắn vào giữa ngực mình. Tôi muốn kêu lên để trút nỗi đau đớn.
Tiếng nói, tiếng gắt bên kia suối rào rào lên. Tôi nghe ra thì đó chỉ là một vụ tự gây thương tích thôi. Anh bộ đội đã bắn một phát AK vào bàn chân mình một cách rất chính xác (!) ở kẽ giữa ngón cái và ngón trỏ. Tiếng bàn tán xôn xao rồi ầm ĩ.
- Mẹ kiếp, sao không nổ vào đầu cho thích?
- Tớ đếch khiêng đấy!
- Thương binh loại một đấy nhé!
- Thiếu gì cách mà lại tự bắn lấy mình?
- Đại đội 3 vượt lên chiếm kỷ lục về con số “B quay”.
- Chặng nào cũng có “quay” một vài con như thế mình xơi không hết.
Chập sau, đơn vị tập họp. Binh sĩ tụ tập lại dưới một tàng cây cổ thụ có thể che kín một trung đoàn. Lê Ngọc nghếch đầu lên mép võng nhìn sang. Có lẽ Lê Ngọc không còn giữ ý định trả thù đối với viên tiểu đoàn trưởng nữa, nhưng Lê Ngọc muốn tìm hiểu thêm một vấn đề.
Một giọng nói cố nén tức giận:
- Ban chỉ huy tiểu đoàn tập họp tiểu đoàn lại để tuyên bố quyết định thi hành kỷ luật đồng chí Khả C2 và đồng chí Ron C3. Như các đồng chí đã biết, trong tiểu đoàn ta lại vừa có 12 tên đào ngũ, toàn thể tiểu đội 5 đã trốn hết và 2 tên của tiểu đội 1, tất cả đều thuộc đại đội 3.
Chúng tôi cho một tiểu đội đi lùng, nhưng tiểu đội này cũng chưa trở về. Chúng tôi lại cho đi lùng, nhưng không tìm thấy. Những tên đó, kể từ giờ phút này, coi như bị khai trừ khỏi quân đội và khai tử trong cách mạng. Còn 2 đồng chí Khả và Ron, trong khi chờ đợi quyết định chính thức, chúng tôi xin công bố những hình thức kỷ luật như sau:
Một, đối với đồng chí Khả. Đồng chí Khả là xã viên hợp tác xã mới gia nhập quân đội chưa đầy 3 tháng. Đây là lần đầu tiên, đồng chí Khả tự ý bỏ vũ khí, và rời đơn vị. Nhưng xét vì, đồng chí Khả ý thức chính trị còn non kém nên mới có hành động vô kỷ luật đó. Ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định: cảnh cáo ghi lý lịch đồng chí Khả và giao cho tập thể giáo dục. Đơn vị vẫn xem đồng chí Khả như một quân nhân còn đủ mọi quyền lợi chánh trị.
Hai, đối với đồng chí Ron. Tự gây thương tích là một hành động vô kỷ luật cao độ đã từng xảy ra ở nhiều đơn vị. Để ngăn ngừa hành động này có thể lây rộng ra, ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định cảnh cáo ghi lý lịch đồng chí Ron và đồng chí Ron phải tự băng bó lấy vết thương để hành quân theo đơn vị. Ban chỉ huy không cho phép đồng chí Ron nằm lại và bất cứ ai cũng không được quyền khiêng đồng chí Ron.
Thu đã đến ngồi bên đầu võng của tôi từ lúc nào. Nghe tới đây, Thu buột miệng nói:
- Ác thế! Người ta què mà bắt đi!
Tôi muốn rầy Thu nhưng chính tối cũng không biết Thu nói đúng hay sai.
Bên kia suối, cuộc họp tan, không nghe ai bàn tán gì thêm


CHƯƠNG 28


Tôi đang nằm suy nghĩ một lúc hằng trăm chuyện thì có một chú lính từ xa đi tới đập võng tôi và gọi tên tôi.
Tôi ngóc đậy. Cậu lính vỗ vỗ ngực:
- Cháu là Thiên đây, con của nhà thơ X. Nhà ở phố Hàng V… Hồi Tết năm ngoái chú có đến uống rượu với ba cháu đấy.
Tôi còn đang ngơ ngác thì cậu ta nhắc:
- Chú uống rượu còn ba cháu ngâm thơ. Ba cháu đem cái cốc đặc biệt ra uống Mao Đài tửu đấy.
Tôi đập vào đùi cậu thanh niên thật mạnh:
- À…phải! – rồi ngồi bật dậy.
- Đấy, chú nhớ rõ chưa?
- Rõ rồi! Cháu vào đây bao giờ?
- Có lẽ trước chú một năm.
- Sao bây giờ còn nằm đây?
Phút vui gặp gỡ hình như bị giới hạn bằng câu hỏi đó. Thiên yểu xìu cái mặt xuống ngay:
- Bộ đội khiêng pháo mà chú. Ối giời, xe ba gác cải tiến của hợp tác xã mà mang vô đây định tải pháo. Chớ chú không để ý thấy những cái xe đó nằm chỏng gọng ở trạm làng Ho đó sao?
- Có thấy nhưng không biết là xe gì!
Thiên cười mũi:
- Đối thủ của mình đã nhảy lên mặt trăng ngồi chong ngóc trên đó rồi mà mình ở đây còn dùng xe ba gác cải tiến của mấy lão già hợp tác xã mà tải pháo.
Tôi giật mình. Nghe Thiên nói vụ cái xe ba gác cải tiến tôi mới sực nhớ những chiếc đèn xe mô-lô-tô-va trên quốc lộ 1.
Vào thời gian máy bay Mỹ oanh tạc miền Bắc ác liệt thì ban ngày quốc lộ 1 không có một bóng xe bóng người.
Xe và người chỉ đi đêm. Để bảo đảm an toàn, mỗi chiếc xe đều không dùng bất cứ cái đèn nào trong xe mà lại treo một bóng đèn nhỏ trên ngọn cần câu rà sát mặt đất và chĩa hẳn về phía trước.. Đó là con mắt của tài xế. Tôi tò mò tìm hỏi thì anh lái xe nói rằng làm như thế máy bay không phát hiện được xe mà nó chỉ thấy bóng đèn con di động. Nếu nó nghi ngờ nó ném bom thì ném ngay bóng đèn chớ không thấy xe mà ném. Đó là sáng kiến không biết của nhà chiến thuật nào, nhưng tôi tôi thấy nó được thực hiện trên khắp quốc lộ 1 lúc tôi đi công tác giới tuyến.
Tôi kể câu chuyện đó cho Thiên nghe để làm một sự cân xứng với cái xe ba gác cải tiến của Thiên.
Nghe xong Thiên cười:
- Nhà quân sự nào nghĩ ra cái sáng kiến đó có lẽ cho rằng máy bay Mỹ bắn xe chạy trên đường bằng súng mút-cơ-tông hoặc súng cao su. Còn nếu bỏ bom thì mỗi lần bỏ một trái to bằng hạt nhãn và bề kính sát thương của nó là 5 tấc!
Thiên bắt qua chuyện khác ngay:
- Nghe nói Liên Xô hay Hungari gì đó có cho mình kính hồng nội tuyến gì đó mà!
- Nội ngoại đâu không biết nhưng hồi tôi đi chỉ thấy toàn cái cần câu theo kiểu tôi vừa nói đó.
Thiên lại chuyển mục:
- Này, cái đoàn văn nghệ của chú may lắm đấy.
- Sao? – Tôi nôn nóng – Cậu có gặp à?
- Thì chính cháu đưa đi mà!
- Ủa, cháu là giao liên à?
- Trước là bộ đội, nhưng đến đây ỳ ra không vô nữa vì sốt. Lá lách thòng. Cháu vô trạm dạy văn hóa. Vừa rồi ông Phó Chánh Ủy đường dây bảo xoi đường đưa khách vô, cháu ở trạm trong ra đây đón khách.
- Rồi sao? Đoàn của chú, có ai làm sao không?
- Lọt hết cả! Chỉ lọt qua có 5 phút là biệt kích Úc nó cắt ra ngay chóc, chịp! Nó xơi hết nửa đội trinh sát tiền tiêu của bộ đội gồm có cả một ông Trung Đoàn Phó. Ông ta mang cả tiền ăn của trung đoàn. Mất tích luôn tới nay, không tìm thấy xác,cũng không nghe đài Saigon nói.
Thiên tiếp:
- Các chả chủ quan lắm. Đi ngang bãi pháo, cháu bảo chạy nhanh qua. Nhưng các chả cứ dềnh dang ngồi ăn cơm, đến chừng pháo bắn, không chạy được. Pháo vừa dứt thi một toán biệt kích trong rừng cắt ra ngay giữa đội hình. Các chả đâu có chuẩn bị mà bắn. Súng thì bó lại gánh lòng thòng lễnh thễnh hoặc quấn ruột tượng gạo chung quanh vác như vác củi khúc. Súng máy thì bỏ băng đạn trong ba-lô, còn súng cối thì đế một nơi, nòng một ngã, đến chừng ráp được vào thì anh vác đạn ở đâu đâu. Hành quân chiến đấu như thế đó, gặp giặc đánh ngữa cổ cho chằng nuốt. – Thiên tiếp – Từ đây trở vô thì cứ đụng hoài hoài. Gặp biệt kích người Thượng còn ớn nữa! Nó bắn một phát lượm một con. Mỗi thằng bắn nhiều nhất là một băng rồi rút ngay. Nó leo núi như khỉ, đố ai đuổi kịp!
Nghe có chuyện mới lạ, tốp của Lê Ngọc cũng chạy sang nghe.
Thiên tiếp:
- Bắt đầu từ trạm này trở đi là máu lửa nhé. Không có ăn no ngủ kỹ được nữa đâu! Sốt rét có cơn, bom pháo còn có hồi chớ biệt kích thì không cơn không hồi gì hết!
Thiên quèo Lê Ngọc:
- Anh có thuốc gì cho em xin một điếu với. Có phải anh đã dạy Tổng Hợp không? Em là sinh viên Tổng Hợp cơ sở 2 đây! Em vào làm giao liên một năm rồi, quên mẹ nó hết toán lý hoá.
Lê Ngọc móc thuốc ra cho Thiên.
Thiên đưa tay nhận điếu thuốc và xuýt xoa mãi. Thiên châm thuốc rít một hơi đài vô tận, nuốt ém cả khói rồi phì ra đằng mũi, hai tia khói chĩa thẳng xuống đất. Thiên tiếp:
- Biệt kích Úc ghê gớm lắm. Nó đi không đầy chục thằng và chuyên môn cắt rừng bằng địa bàn, chúng nó phục kích thì không thể phát hiện được.
Thiên lại rít một hơi đài, khẽ gạt cái tàn thuốc vào mũi dép và gật gà gật gù, nhướng nhướng đôi mắt say thuốc và tiếp:
- Em kể một chuyện như thế này cho các anh nghe xem có khiếp không? Bởi thế các anh đừng có khinh thường. Kỳ đó chúng nó phát hiện được đường đi của mình. Chúng nó phục kích cách đường vài chục thước. Chúng nằm luôn ba ngày liền, chờ đến ngày thứ tư chúng bắn một loạt chết ba người. Ba hôm sau đơn vị mới cho người ra tìm xác thì thấy cả ba cái xác nằm nguyên đó, ba-lô, súng ngắn, súng dài còn đủ hết. Anh em ta cho rằng chúng đã rút đi rồi bèn ì ạch khiêng xác, thu súng về, chẳng dè lại bị nổ một loạt nữa. Hai người chết. Cơ quan bỏ luôn, hai ba ngày sau mới dám cho người ra điều nghiên, vẫn không thấy dấu vết gì hết. Lần này thì chắc chắn là chúng đã đi rồi. Chẳng có lẽ chúng gan trời mà nằm nín lại nữa. Anh em ta cũng lại lom khom khiêng xác, lại bị chúng đế luôn một loạt nữa. Lần này chúng bò lên, lấy tất cả đồ đạc, súng ống của ba trận rồi rút mất.
Mấy hôm sau cơ quan lại cho người ra phục kích và nghiên cứu. Chỉ thấy có mấy cái hầm ngụy trang rất kỹ. Còn từ ngoài đường vào tới hầm không có một cái lá nát, không một nhánh cây gãy, và mặc dù trời mưa vẫn không thấy một dấu chân. Mãi mới tìm được mấy cây sào. Và sau đó nghiên cứu ra là chúng nó không đi bằng chân như mình . Mà chúng nó dùng sào chống và nhảy như nhảy sào thể thao. Chúng nhảy theo kiểu con Kangourou của xứ Úc. Cứ vọt tới một cái rồi đứng lại xoá hết dấu vết rồi lại phóng tới nữa, cho nên dù có để ý cũng không tìm thấy một dấu chân nào.
Thiên vênh mặt lên:
- Các anh thấy khiếp chưa? Cho nên đừng có nói nó là lính đánh thuê không có tinh thần chiến đấu là bỏ mẹ. Nó dám nằm hầm sáu ngày liền, ăn đó tiêu tiểu đó, không hút một điếu thuốc. Chúng chỉ có mỗi một sơ sót nhỏ là khi rút đi chúng đã bỏ lại những cây sào nên mình mới tìm ra được cái chiến thuật Kangourou của nó!
Thiên hút hai ba hơi thuốc liền. Điếu thuốc cháy đã gần hết nhưng Thiên không chịu quăng đi. Thiên lấy một cái nhánh con cặp lấy và đưa lên mồm rít lia lịa cho đến khi lửa cháy tận môi, Thiên mới thôi.
Thiên nói tiếp:
- Đấy các anh thấy không? Các ông nhà lính của mình bê bết lắm. Súng ống mang vác như thế đó. Mệt đói quá họ vứt bừa. Riêng trạm của em hiện lượm được cả tiểu đội AK – Thiên vỗ vỗ vào bá khẩu cạc-bin trên vai – Đây cũng là quà của các bố ấy đấy. Mà chưa hết đâu! Đi dài dài vô rồi các anh xem, súng đạn bộ đội treo đầy đường thấy mà nóng ruột! Lắm lúc dắt các ổng đi mệt, các ổng chửi bọn tôi như chó, lại còn hăm tát tai, hăm cho xơi kẹo đồng. Cái nghề giao liên là cái nghề bạc bẽo các anh ơi! Cực chẳng đã phải làm, thống nhất rồi, bọn giao liên làm gì? Chẳng lẽ lại trại, lại ám hiệu, lại đưa khách à? Trong Đại Học Tổng Hợp của mình có khoa văn, khoa lý hoá, khoa nọ, khoa kia chớ có khoa “giao liên” không? Giao liên là một cái nghề rừng. Anh có hiểu tiếng “rừng” của em không?
Thiên vụt hỏi:
- Hà Nội cỡ này sơ tán chắc bỏ phong trào lao động xã hội chủ nghĩa rồi hả các anh?
Lê Ngọc nói:
- Bây giờ ở Hà Nội cũng có nhiều phong trào. Nào là phong trào lao động XHCN vào sáng chủ nhật, phong trào ba khoan… Ối, nhiều lắm không nhớ hết! Nó nạo róc hết xưong tủy của mình.
Thiên cười:
- Em đi xa Hà Nội chẳng bao lâu mà trở nên lạc hậu nhỉ!
Lê Ngọc giải thích:
- Ba khoan là khoan yêu, khoan cưới, khoan đẻ. Nếu chưa có người yêu thì hãy khoan yêu, nếu yêu rồi thì khoan cưới, nếu cưới rồi thì khoan đẻ.
Thiên ngạc nhiên:
- Khoan yêu, khoan cưới thì còn có thể được, chứ khoan đẻ làm sao thấu hở anh?
- Thấu chứ, vì cái khẩu hiệu này là nhắm vào thanh niên, trong các cuộc họp chi đoàn, nếu cậu nhận một cái khoan thì tức là cậu phải khoan cho có kết quả. Chính phủ chúng ta sáng suốt, cho nên chủ trương bao giờ cũng đi đôi với biện pháp. Ca-bốt bây giờ bán đầy cả mậu dịch rồi, còn các thứ thuốc xoa và phương tiện khác nhập từ Trung quốc sang, như cái nút nhét cổ tử cung lại. Nó có lợi cho những ai muốn “khoan“ có kết quả nhưng nó lại gây ra những tai nạn khác. Ví dụ như trước đây con gái hoặc đàn bà có chồng đi xa yêu đương sợ có thai bây giờ không lo nữa.
Thiên lắc đầu:
- Em không hiểu ra làm sao cả!
- Về Hà Nội em sẽ hiểu thôi – Lê Ngọc tiếp – Chỉ có một phong trào này là người ta không đặt tên chính thức mà thôi!
- Phong trào gì vậy anh?
- Phá thai!
Thiên bật ngữa ra chới với. Một chốc Thiên hỏi:
- Anh nói phong trào phá thai à?
- Không phải là người ta ào ào đi tới bệnh viện xin phá thai như đi lao động XHCN, mà có những cái buồng bí mật. Trước kia muốn phá thai người đàn bà phải mang giấy có chữ ký của chồng đến bệnh viện, bây giờ thì ai cần cứ phá. Tôi biết được chuyện này vì tôi có bạn làm ở mấy bệnh viện lớn.
- Phức tạp quá hả anh!
- Cuộc chiến tranh này ghê gớm quá. Các bà ăn quen nhịn không quen, chồng đi Nam hôm trước hôm sau là đã léng phéng rồi. Tôi biết cả vợ một tay đại tá vừa từ giã chồng, nước mắt chưa khô là đã đạp xe lại nhà tình nhân rồi.
Thiên hơi buồn, có lẽ Thiên lo cho người yêu ở Hà Nội.
- Bodéga còn bán bánh mì không anh?
- Còn chứ!
- Bánh min-phơi vẫn 6 hào hay lên giá?
- Vẫn thế, nhưng muốn mua phải xếp hàng lâu lắm và có khi tới phiên mình mua thì hết nhẵn, mình đành phải mua thứ bánh mà mình không thích.
Thiên thở dài, hai tay bó gối nét mặt rầu rầu.
- Em nghe mình đã có Mig rồi mà sao cứ để nó leo thang mãi vậy anh?
- Tôi biết thế nào được? Lê Ngọc tiếp – Khi nó đánh Nghệ An, tôi đang dạy ở đó. Trường đại học Vinh tan hết. Tôi đã tiếp sinh viên chở sách của trường đi bằng xe cút kít tản khai vào làng cách đó 12 cây số… Rồi nó ra luôn Thanh Hoá, đánh hỏng cầu Hàm Rồng. Lúc đó tôi được gọi về để đi Nam. Tôi đạp xe đạp, tay cầm ghi-đông, tay bấm đèn pin, từ Vinh chạy suốt một đêm. 9 giờ sáng hôm sau thì tới Ninh Bình, vừa vào nhà trọ chợp mắt thì máy bay tới. Đồng bào lao nhao như kiến vỡ tổ. Nó chỉ bắn một phát, cầu Ninh Binh gục xuống sông.
Thiên nói để chữa ngượng cho mọi người:
- Chắc các ông ấy chờ nó ra tới Hà Nội mới quất cho nó qụy anh ạ! Vì ở Hà Nội có nhiều khách quốc tế cho mọi người đều trông thấy trước mắt!
Lê Ngọc cười khẩy:
- Cần gì phải chờ nó ra tới Hà Nội cho mất công! Ngày lúc Kossygine sang, Thần Sấm và Con Ma cũng đã đến “chào” rồi mà!


CHƯƠNG 29

Chiều hôm sau thì chúng tôi đến một cái trạm bên bờ sông. Không biết được con sông đó tên gì. Trên nguyên tắc giao liên, thì đến đâu thì đến, đi đâu thì đi, không ai được quyền hỏi đó là đâu.
Con sông quá rộng, nước trong, nhưng không có lấy một mái nhà, một bóng thuyền.
Tôi mừng quá, bương bả đi tới mé sông và sẵn bãi lài tôi đi thẳng xuống mé sông rửa mặt và ngâm chân. Tôi nhìn phía trên, nhìn phía dưới, một quãng sông thẳng tắp, nước trong xanh, chảy xiết, mát mắt mát lòng.
Tôi có cảm tưởng là tôi đã đến một chặng quan trọng của cả con đường dài. Nó như mở tầm mắt ra hướng về phía đồng bằng xanh mát.
Bọn chúng tôi lại vào trạm một cách ngang nhiên với cái “lết-xê-pát-xê” (laisser-passer: giấy thông hành) sống là Thu.
Trạm này có lẽ là một tổng trạm, vì nhân viên vừa Kinh vừa Thượng có đến 9, 10 người. Có cả nhà ngủ, nhà ăn, chuồng lợn và lợn. Trạm lại còn có một cái nhà vừa mới cất, nền nhà nện phẳng phiu, nóc nhà lợp bằng lá kết ngay hàng như ngói.
Nhưng trời ơi! sự phức tạp ở đây tôi chưa từng thấy ở bất cứ trạm nào. Có lẽ ở đây thu nhận cả khách ra Bắc, khách vào Nam và khách đi các nẻo cho nên ngày thường mà người bệnh phải nằm lại trạm có đến số trăm. Cách xa hằng cây số đã nghe tiếng náo động như chợ họp. Cách vài trăm thước đã nghe mùi tanh tưởi, mùi hôi thối của một cuộc sống vô tổ chức.
Chúng tôi phải vượt qua một bãi phóng uế rộng như sa mạc để vào trạm. Hình ảnh tôi bắt gặp trước tiên là một anh người Thượng cầm một cây AK giương sẵn lưỡi lê hầm hầm đi dạo qua các cái tăng. Ai nom thấy y cũng đều lấm lét.
Ở đây thì có cả: sốt rét ác tính lên cơn hò hét suốt ngày đêm, mê sảng bò xuống sông uống nước, kiết lỵ không đi nổi cứ nằm tiêu trên võng, hai người ở chung một lều mắc võng trên võng dưới, ăn cắp dép, bi-đông, ăn nấm độc, trúng thực v.v… Còn sốt rét thưòng thì không kể làm chi. Mỗi một cái tăng là một ổ vi trùng, một trời bất mãn.
Anh giao liên người Thượng đang đi chẫm rãi bỗng rảo bước nhanh về phía một cái tăng đang có khói bốc lên.
- Bây giờ là mấy giờ mà anh nấu hả?
- Dạ ba giờ – Anh binh sĩ đang ngồi chẻ củi đun ngước lên đáp.
Anh người Thượng quát:
- Lệnh mấy giờ mới được nấu?
- Dạ 6 giờ.
Bỗng anh người Thượng ném cây AK xuống đất và leo vọt lên một gốc cây như một con khỉ bị săn đuổi. Anh leo lên gần đến ngọn cây thì dừng lại, bẻ nhánh cây quất lia quất lịa như thầy pháp đuổi tà. Tôi không hiểu anh ta làm gì vậy? Anh ta quơ một chập rồi tuột xuống vừa nói vừa thở hổn hển:
- Anh có thấy tai hại không? Trời mưa ẩm ướt, khói bốc lên đóng cục trên ngọn cây anh thấy không? Máy bay nó bay ngang nó thấy rồi làm sao?
- Nó tưởng là hơi nước bốc lên chớ gì!
- Nước gì? hả? anh muốn giết người ta hả? – Rồi anh giao liên Thượng chụp lấy cây AK chĩa hai ba cái liên tiếp. Tôi quay mặt đi.
Tiếng khóc nổi lên theo tiếng chửi rủa của anh người Thượng.
- Tao cho mày chết. Xoảng! xoảng! Vô kỷ luật! Xoảng!
Tôi quay lại thì thấy cái ga-men của anh binh sĩ ngã lăn xuống đất, nước đổ xuống bếp khói tro bốc lên mù mịt. Anh giao liên chĩa một nhát xuyên qua đít ga-men rồi vít nó văng ra xa lắc.
- Đấy, ai muốn nấu thì nấu đi xem!
Anh binh sĩ ôm mặt khóc rưng rức. Thuận tay anh giao liên quơ lấy luôn mấy cái ga-men, xỏ xâu xách đi và càu nhàu:
- Tao treo mõm chúng mầy tới tối!
Tôi về trạm. Trời sắp mưa.
Không gì đáng sợ bằng mưa. Mưa lạnh. Mưa làm tăng cơn đói. Mưa làm cho sốt. Mưa thêm sầu não, bi lụy.
May sao anh trạm trưởng về tới. Anh nhỉn vô nhà và quát:
- Có mấy đồng chí trung ương tới đây chưa?
Tôi còn lưỡng lự không biết có phải anh ta hỏi chúng tôi không thì anh trạm trưởng đã chạy tới chỗ tôi và Thu, lắp bắp:
- À, đây rồi! đây rồi! Tôi có được trạm ngoài báo cho biết.
Tôi thở phào nhẹ nhỏm.
Anh trạm trưởng nói:
- Các đồng chí mắc võng trong nhà mà nghỉ. Sáng mai tôi cho nó đi săn về cho các đồng chí làm lương khô. Lúc này mới sa mưa, cỏ tranh mọc lún phún trên bãi tro của rẫy vừa mới đốt, nai ra ăn ngọn tranh non từ hừng sáng. Đến mặt trời lên một chút là hắn ra bờ suối uống nước. Tám giờ mai, các đồng chí sẽ có một con nai.
Quả y như lời hứa của anh trạm trưởng, mặt trời lên ấm đất một chút thì nghe hai tiếng AK nổ.
Độ một tiếng đồng hồ sau, hai người giao liên Thượng khiêng về hai cái đùi nai to hơn đùi bò, máu me đỏ lòm. Lại còn đèo thêm một cặp sừng và cái đuôi nai. Họ mắc hai cái đùi nai vào nhánh cây vừa xong thì người ta đến vây kín cả hai khối thịt đó. Có người xông vào xẻo ngay một cục và chạy biến đi…
Anh trạm trưởng quát:
- Đi ra rừng mà xẻ. Còn nguyên ngoài đó.
Tức thì cả đám người như một đoạn cua-rơ đổi hướng, tủa ra chạy đi. Chỉ còn lại độ mươi bộ mặt ỳ ra đó, vừa rên vừa xin:
- Chúng em bệnh quá không đi nổi! Trạm trưởng cho em xin!
Anh trạm trưỏng cắt ném cho mỗi người một cục, may được chỗ nào nhờ chỗ ấy.
Còn chúng tôi thì đưa cho anh trạm trưởng mỗi người 200 đồng Miền Nam rồi tha hồ lấy thịt. Anh trạm trưởng đưa cho tôi xem cái đuôi nai và bảo:
- Món này bổ lắm! Nhưng bổ nhất là cái lộc nhung của nó. Nếu hôm nay săn được con nai tơ, tôi cho anh hút một cái thì sáng mai anh nứt da ra thôi! Tụi tôi có đây mà không dám cho vô miệng vì sợ nó hành xác… Ở đây túng … chỗ lắm… chịp!
Anh trạm trưởng nháy mắt nhìn tôi một cách ma quỷ:
- Này, anh bạn có giới thiệu cho mình được không?
- Ừ, để rồi… tôi … – Tôi ậm ờ với Khanh.
Đang vui chuyện thì có người chạy về báo cáo:
- Chúng nó giành nhau chém lộn đổ máu ngoài đó đồng chí trạm trưởng!
Anh trạm trưởng cười:
- Làm gì thì làm, ngoài quyền hạn của tôi, tôi không biết.
Anh trạm trưởng tỏ vẻ ái mộ chúng tôi thật sự. Anh bảo:
- Cái gì chớ thịt ở đây tôi bảo đảm cho các đồng chí. Chỉ sợ các đồng chí không có sức mang thôi!
Rồi anh bảo các nhân viên trạm:
- Kiểm soát gắt gao. Có thịt về, nó nấu khói lên mịt trời đấy! Cái chỗ này sẽ ăn B52, nhất định!
Anh trạm trưởng nói với chúng tôi:
- Ở trạm này chứa toàn là dân trời đánh thánh đâm các đồng chí ạ! Có cả “bê quay” ở tít đằng kia đó.
Thu trố mắt nhìn anh trạm trưởng:
- Bê quay à đồng chí? Có đắt không?
- Đắt lắm. Thôi gọi bằng anh cho thân mật. Tôi, tôi tên Khanh. – Anh trạm trưỏng nhìn Thu với cặp mắt mê đắm – Cô có muốn xem bê quay tôi dắt đi?
- Em không muốn coi mà muốn mua thôi!
Anh trạm trưởng có vẻ thích cái tiếng “em” của Thu vừa tung ra. Anh bước ngay vào cái nhịp câu Thu:
- Được, để tôi giúp . Sợ em không mua chứ!
Thu reo lên nhí nhảnh. Thu nói với tôi:
- Mình may quá anh nhỉ? Vừa có nai lại có cả bê quay.
Tôi thấy Thu đang vui chuyện với anh trạm trưởng nên lảng đi xuống sông múc nước, để cho hai bên “đá lông nheo” với nhau.
Khi trở lên, tôi ghé lại một cái lều. Trong lều có hai cái võng, một chiếc trên, một chiếc dưới.
Trong lều có một xâu thịt và một cậu đang ngồi chẻ những thanh nứa ra thành mảnh thật nhỏ để chụm không có khói.
Tôi hỏi:
- Còn cậu nữa đâu?
- Đi kiếm thịt thêm.
Tôi nhìn trong lon ghi-gô thấy có mấy cục thịt. Có lẽ không có dao hay không đủ sức xắt ra nên anh chàng để những cục thịt to bằng bắp tay mà nấu.
Tôi lân la nói chuyện với cậu ta một hồi lâu rồi về trạm. Tôi cũng đem thịt ra xắt, chuẩn bị kho thật mặn để mang theo đường. Còn Thu thì đang vui vẻ nói về cái nghề múa của Thu. Thỉnh thoảng Thu đưa tay, quơ chân làm cho anh trạm trưởng cứ híp mắt mà cười.
- Cấp cứu! cấp cứu! – Có tiếng la bài hãi .
Anh trạm trưởng đang say mồi, nhìn ra, thản nhiên nói:
- Chém lộn với nhau thì tự băng lấy chớ ai mà cứu với cấp!
- Không phải đâu! Anh này đang ngồi bỗng ngã ra chết tươi.
Nhưng anh trạm trưởng vẫn cứ bình tĩnh:
- Thuốc ở đâu mà cứu?
Tôi cũng đi đến chỗ cái lều có mắc võng trên võng dưới lúc nãy. Anh chiến sĩ ngồi nấu thịt nằm ngữa ra hai mắt trợn lên, hai tay hai chân giăng ra như một con nhái nằm phơi bụng. Người ta chạy tới cũng đông, la lối ỏm tỏi, nhưng không ai mó đến. Mỗi người một tiếng:
- Thằng này phải gió!
- Sốt ác tính, viêm màng não rồi!
Tôi lấy làm lạ không hiểu anh ta bệnh gì mà kỳ cục vậy? Tôi nhìn vô cái hộp ghi-gô. Tôi thấy thịt trong hộp vơi đi nhiều. Tôi nghĩ hay anh ta nuốt một cục to không kịp nhai mà mắc nghẹn? Nghĩ vậy, tôi nhìn cái cổ của anh ta. Quả thật nó hơi no ra như sắp nổi bướu. Tôi bèn đưa tay ấn xuống và vuốt thật mạnh hai ba cái liền.
Tôi nghe một tiếng “ót” – Cái bướu đó tan liền. Cục thịt đã chạy xuống và anh bạn thở ra nhẹ nhàng.
Tôi đỡ anh ta ngồi dậy. Cả đám người cười rộ lên. Một cậu mỉa mai:
- Không có cái ăn chết đã đành, có cái ăn cũng chết!
Tôi trở về trạm kể chuyện lại cho anh trạm trưởng nghe. Anh ta bảo:
- Bọn này là lũ qủy phá nhà chay đồng chí ơi! Tụi nó ở đâu thì thối đất thối đai đến đó. Mặc kệ nó, chết một con nhòn một mủi.
Anh trạm trưởng vừa nói đến đó thì “Ấm” một tiếng bộc phá nổ như một cái dấu chấm câu cho anh trạm trưởng.
- Đó, các đồng chí nghe không? Nó đánh cá đó. Thuốc nổ của trung ương gởi về Nam, tới đây Hà Bá thu hết.
Anh quay lại bảo:
- Đứa nào chạy ra tìm cái thằng chó chết đó cho tao coi.
Một lát sau, anh giao liên người Thượng tay xách AK, tay đùn một anh chiến sĩ vô trạm… Anh này đi từng bước một.
Vừa trông thấy mặt, Khanh đã quát:
- Vô kỷ luật, đứng nghiêm nửa tiếng đồng hồ!
Rồi anh quay lại nói chuyện với Thu, không để ý tới anh chiến sĩ mặt xanh nanh vàng kia đang đứng nghiêm với cặp chân như những cái cọc màn.
Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, anh giao liên người Thượng đã chạy đi bắt ba người nữa về và tự anh ra lệnh cho họ đứng nghiêm như người trước.
Có lẽ anh trạm trưởng thấy thương tâm hay thấy họ đứng như vậy bất tiện cho câu chuyện giữa anh và Thu cho nên quay đi quay laị, những người bị phạt đã lẩn đi hết mà anh cũng không nói gì. Anh bảo anh giao liên người Thượng:
- Tha nó đi! Nhưng các cậu phải đi tìm và tịch thu hết tất cả các bánh thuốc nổ cho tôi!
Anh giao liên vừa đi, Khanh nói với tôi:
- Thì phải làm oai vậy chớ nó đói quá mà! Nếu mình như nó, mình cũng không làm gì khác hơn


CHƯƠNG 30


Một buổi sáng, tôi thức sớm. Tôi định tập thể dục để lấy gân cốt. Nhưng vừa thọc chân vào dép thì tôi nghe tiếng khóc, tiếng khóc oà lên như có người chết.
Tôi nhìn ra ngoài, đảo mắt nhìn tìm xem ai khóc. Rồi tôi đi thẳng ra bụi nứa trước cửa nhà. Tôi hỏi một cậu bộ đội:
- Ai khóc vậy?
- Thằng Trớn nó mất đồ nó khóc – Cậu bộ đội vừa nói vừa trỏ tay.
Thì ra, người mất đồ là cái cậu hằng ngày vẫn đến mượn cái bật lửa của tôi. Đã bốn năm hôm rồi, tôi gặp cậu ta ở đây và cậu chỉ nằm một mình.
Tôi thấy xót xa quá. Tôi hỏi:
- Cậu Trớn mất hết đồ đạc phải không?
Cậu thanh niên ngước lên nhìn tôi, mắt đẫm nước mắt, mồm cậu méo xệch, đầu cậu ngoẻo sang một bên.
- Chúng nó lấy hết đồ đạc của em anh ạ! Đêm qua sốt, em nằm mê man ..hu ..hu… – Trớn đưa tay gạt nước mắt và khóc ngọt ngào – Chúng nó lấy của em hết tất cả những “món đồ chiến lược”, hu … hu . Thế nầy em đây làm sao tới nơi được? hu ..hu…! …
Trớn cứ quệt nước mắt mà khóc trước cái ba-lô bị trút hết đồ cũng có cái miệng méo xệch như miệng chủ nó . Tôi ngồi xuống bên Trớn. Tôi đưa ta cầm lấy cái ba-lô. Nó lép kẹp như một bao từ trâu đã trút hết cỏ.
Trớn lại cầm lấy cái ba-lô dốc ngược xuống, những món đồ còn lại tuôn hết ra đất.
Trớn ném cái ba-lô sang một bên rồi nói:
- Đấy anh xem những món đồ chiến lược của em mất hết rồi, khác nào nó chặt chân em!
Tôi nhìn dưới đất thấy một quân phục còn mới, một cái áo cổ vuông, một cái quần đùi, một cái áo lót mồ hôi của nhà máy dệt Đồng Xuân, một tấm vải mủ rách, mấy băng đạn AK.
Tôi thầm nghĩ: chắc có lẽ cậu này thuộc một binh chủng đặc biệt cho nên có những món đồ chiến lược. Nếu mất những món đồ đó thì cậu ta không thể hoàn thành nhiệm vụ được.
Tôi không định hỏi, nhưng Trớn nói ngay:
- Chúng em mỗi đứa được hai bộ quai dép, một bộ tra vào dép rồi, còn một bộ cất kỹ trong ba lô để phòng đường xa, không có nó thì không đi được. – Trớn đưa bàn chân ra và tiếp – Cái quai dép của em đứt mấy lần rồi mà em chỉ nối chứ không dám thay cái mới. Bây giờ thì nó lấy cả dép lẫn quai của em rồi. Còn bộ quai dép xơ-cua bỏ trong ba-lô nó cũng lấy tuốt.
Trớn xốc từng cái quần cái áo lên và nói:
- Cái túi thuốc nó cũng lấy luôn. Nửa kí-lô mì chính (bột ngọt) em không dám ăn còn nguyên với nửa kí-lô muối nó cũng lấy mất. Mất những thứ đó, em chỉ còn có chết!
Tôi mới hiểu ra những “món đồ chiến lược” là những món đồ gì?
Bỗng Trớn cuống cả lên. Trớn cầm lấy chiếc áo mới, xộc tay vào từng túi.
Thấy anh ta bối rối, tôi hỏi:
- Mất chứng minh thư đi đường à?
- Không, cái đó thì em lại không thiết. Giao liên nó không cho em đi thì em càng thích .
Trớn ngồi xuống xộc tay vào các túi của chiếc ba-lô với một cử chỉ vô cùng tuyệt vọng, anh ta hất cái ba-lô văng ra:
- Thôi rồi, mất nữa rồi!
- Vàng à?
- Không, một món hàng chiến lược quan trọng nhất, đó là cái bật lửa!
Tôi nói:
- Theo tôi biết, để cho các cậu không dám trốn vì trong mình không có bật lửa, mỗi tiểu đội chỉ có một cái bật lửa do tiểu đội trưởng giữ, sao cậu có riêng một cái?
Trớn hơi quạu, cậu ta câng câng cái mặt lên:
- Ờ, của em chứ! Em mua cái bật lửa 3 số 5, em nghiện thuốc lá mà!
Tôi khổ tâm vô cùng, nhưng không biết làm gì để giúp cậu bé, tôi vỗ vai cậu ta và bảo:
- Tớ sẽ cho cậu mượn bật lửa mãi mãi!
Rồi tôi đi vào nhà. Thu đã thức dậy, nàng ngồi trên võng, gác một chân lên mép võng, một chân thòng xuống dép, để trần ra đến đầu gối. Tôi bàng hoàng. Thu không ngờ tôi đang bị xúc động vì đôi chân của nàng hay nàng muốn khoe với tôi đôi chân mà nàng biết rằng tôi mê đắm. Nàng cứ ngồi nguyên như vậy và duỗi thẳng chân đau ra, tươi cười với tôi:
- Anh xem này, cái cổ chân của em thường rồi!
Đôi chân Thu tuy hơi gầy, dày sành đạp sỏi hơn một tháng nay nhưng cũng vẫn cứ ửng lên màu quí phái.
Tôi nhìn cái bắp chân trắng muốt. Bỗng nhiên tôi ngồi khuỵu xuống đất.
Tôi đưa tay ra, bất giác tôi bóp mạnh một cái.
- Đau không? Em thấy đau không?
- Đa….au! Thu cau mặt.
- Thế sao bảo như thường rồi?
- Anh bóp mạnh quá – Thu vui vẻ – Vừa thôi chứ anh! Anh lại muốn khiêng em trên vai nữa à?
Mắt Thu lấp lánh niềm vui. Tôi nghe mặt mình nóng bừng. Tôi không đứng lên nổi nữa.
Tôi đưa ngón tay gõ gõ vào bàn chân Thu. Thu đập vào vai tôi. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi chụp lấy cổ tay Thu siết chặt và nghiến răng ken két:
- Dữ hả? Dữ hả?
Thu nhắm mắt vung tay ra và kêu lên:
- Ôi đau, trông anh như muốn nuốt sống em vậy!
- Ừ, ừ nuốt sống!
Tôi đứng phắt đậy, định nói, định làm cái gì nhưng tôi lại chạy vụt ra ngoài. Một chốc định thần xong, tôi trở vào. Tôi nói:
- Đêm hôm đó, anh ngủ trên ngọn cây, anh lấy làm ân hận sao mình đã đi bệnh xá làm gì để phải chịu một đêm cô đơn bạc tóc như vậy.
Tôi kể tiếp cho Thu nghe về tiếng gọi của cặp chim ân tình, việc cọp rình và chiếc bi-đông rời trúng lưng “Ông” ta. Thu ngồi chăm chú nghe, hai tay thu lên ngực và rùng mình từng chập.
Tôi nói tiếp:
- Anh sẽ thấy bớt cô đơn hơn nếu cùng lúc đó, ở nhà em cũng nghe tiếng chim ấy với anh!
Thu nhìn tôi đôi mắt hơi lơ mơ:
- Tiếng chim như thế nào?
- Nếu nhại thì khó lắm nhưng đại khái là một con trống và một con mái. Con trống kêu:”đến đây nhé!“, con mái đáp:“mau đến đây!“
- Anh chỉ tưởng tượng! – Thu với tay tát vào vai tôi.
Tôi cười xoa:
- Thì nằm giữa rừng anh tưởng tượng như vậy mà nhớ em.
Đôi má ửng lên, Thu vui vẻ nói:
- Để yên, em kể cho anh nghe sự tích con chim ấy. Nhưng em hỏi anh nghe tiếng chim đó lúc khuya và khi nó hót tiếng cuối cùng hoà hợp nhau là trời bắt đầu đâm mây ngang phải không?
- Phải! – Tôi nói tiếp – Đôi chim ấy là đôi tình nhân em nhỉ?
- Vâng!
- Ước gì chúng mình là đôi chim đó!
Mặt Thu bỗng biến sắc, rắn lên như mặt hồ đang ấm nắng mùa xuân bỗng trở thành băng giá. Thu nhìn tôi trân trân không chớp mắt. Còn tôi thì vẫn cứ cười đùa và trêu ghẹo Thu bằng những cái nháy mắt của tôi.
Thu kêu lên như bị ai hốt hồn:
- Ơ ơ! Anh! Em không biết đâu đấy! Em không thích anh đùa như thế.
- Không, anh không đùa đâu, anh nói thật để cho em đề phòng.
Thu cúi nhìn mũi chân nàng. Tôi nói luôn:
- Anh hôn bàn chân đau của em một cái nhé. Cho nó khoẻ lên rồi mai đi! Nhưng không phải anh hôn chân em đâu mà chính là anh hôn cái nghệ thuật của chân em cống hiến cho đời. – Tôi nói một cách hết sức bình thường – vì thế anh không yêu em thì anh không chịu được.
Thu vẫn không ngước lên. Những mớ tóc xoà ra phía trước che hầu kính gương mặt Thu. Thu đưa tay ôm sát ngực như để ghìm lại trái tim đang đập mạnh. Thu cho cả cái chân đau xuống dép như để lấy thăng bằng. Thu lẩm bẩm:
- Ai anh cũng yêu!
Tôi vui vẻ:
- Em trách anh làm gì chuyện đó?
- Không, em đâu có trách anh!
Thu lặng lẽ nhìn tôi với đôi mắt đờ dại không còn ánh sáng. Rồi Thu khẽ lắc đầu:
- Anh đừng yêu em!
- Tình yêu như trái chín. Làm sao ngăn cản được?
- Em không chịu đựng nổi tình cảm mãnh liệt của anh!
Tôi quì sụp xuống và ôm chặt lấy đôi chân nàng.
Tôi nghe như có một khối nam châm hút tôi vào một vật gì mềm mại và ngạt ngào hương.
Bên tai tôi tiếng gió rít, tiếng suối reo. Một cánh buồm đang no gió hứa hẹn một cuộc vượt trùng dương.


CHƯƠNG 31

Bên ngoài đang lao nhao lên, không biết việc gì. Mấy người giao liên mệt lử đang ngồi ngoài sân.
Khanh hỏi:
- Xem chung quanh chuồng, không có dấu chân của Ổng à?


- Không có đâu. Đêm qua đâu có tiếng chim “tránh khỏi” quanh vùng này- một người dộng dộng chiếc gậy xuống đất và nói tiếp:
- Chuồng không có lỗ trống, chung quanh không có dấu chân “Ông lớn” thì chỉ còn các “Ông nhỏ” nhà mình thôi chứ ai vô đây?
Khanh bảo:
- Anh em toả rộng ra tìm xem, kẻo nghi oan cho người ta.
Ngoài mặt thì Khanh nói vậy để anh em trong trạm không chĩa mũi nhọn vào khách, nhưng sự thực thì Khanh nghi quyết cho khách. Cái vụ con heo bị xén mất cái đùi sau mới xảy ra hôm trước đâu có lâu gì. Nhưng khách mà Khanh nghi nhất là “khách trời ơi”.
Khanh bảo:
- Các cậu ra nói với anh chỉ huy tốp “bê quay” cho tập trung tất cả vô đây! Nói trạm trưởng mời!
Khanh không dám dùng tiếng bảo, mà nhũn nhặn nói là “mời”. Lạ quá, một con lợn ở giữa chuồng lại mất tích trong đêm qua. Chỉ có Phật trên toà sen mới im lặng được. Cái vụ trước Khanh đã bỏ qua rồi. Chiều hôm qua khi đám “bê quay” đến, Khanh đã ái ngại, nhưng làm sao bây giờ. Dù sao thì mình cũng phải coi họ là….đồng chí.
Họ bắt bằng cách nào mà con heo không kêu?
Tôi hỏi:
- “Bê quay” là đơn vị nào mà kỳ cục vậy đồng chí?
- Nó không phải là một đơn vị, nó là một đám vô tổ chức gồm tất cả lính của các đơn vị đi Nam mà quay trở lại. Đi Nam gọi là đi B, cho nên đi B mà quay trở lại, người ta gọi là “bê quay”!
Khanh lắc đầu nguầy nguậy:
- Cái tốp này thì ghê lắm đồng chí ạ! Nó không sợ cái gì hết muốn làm gì thì làm, kỷ luật quân đội chúng nó đem ra nó nấu giả cầy hết rồi.
Một người từ bên ngoài đi vào. Anh ta gầy gò, hai má hóp hẳn vào, hàm răng trên xỉa ra như cười. Anh ta nói giọng lạnh lùng, dường như anh cảm thấy trước có việc gì không hay:
- Tôi là Chừng, chỉ huy trung đội Bê quay đây. Đồng chí cho tập trung họ lại làm gì?
Khanh thấy hơi ngại vì phải tiếp xúc với mấy người này. Khanh nhã nhặn:
- Cũng có chút việc đồng chí ạ!
Những người mặc quần áo bộ đội, nhưng mỗi người một kiểu cách riêng, đã kéo vào. Chừng bảo:
- Ngồi cả đấy!
Khanh nói:
- Cách đây mấy hôm chúng tôi bị mất một cái đùi heo. Đáng lẽ thì phải nói mất cả con heo, nhưng vì người ta chỉ xén có một đùi. Con heo tôi vừa xổng ra khỏi chuồng gặp mấy trự, mấy trự đè con heo xuống xén phăng đi một đùi. Các anh coi trên trời dưới thế có ai chơi ác vậy không? – Khanh cố thỏo đều đặn để không phải bốc lên – Đêm qua lại bị mất một con nữa. Lần này thì chúng tôi mất nguyên con.
Chừng không đủ kiên nhẫn nghe tiếp. Anh cắt ngang:
- Chuyện đó có ăn thua gì chúng tôi. – Nói xong Chừng ngồi chồm hỗm xuống và móc thuốc ra cuộn hút một cách bình thản.
Khanh hơi nóng mắt.
- Có chứ! không thì sao tôi “dời” các anh vô đây làm gì? Các anh xem đó, trạm chúng tôi có mấy anh em, ở giữa rừng sâu này kí cóp nuôi được mấy con heo tự túc. Các anh đáng lý phải thương chúng tôi lắm mới phải. Các anh lại làm như thế!
Một anh mặc áo cổ vuông quần đùi, để lột tay đầy nốt thâm đen, nghênh mặt lên, cái mặt tròn như cái bánh ếch trần. Anh ta nói rất nhanh:
- Chúng tôi hiểu ý của đồng chí chạm chưởng rồi tức nà đồng chí nghi anh em chúng tôi đã nàm thịt con nợn của đồng chí chứ gì! Chúng tôi không thể nàm những chuyện như vậy, mặc dù chúng tôi đang bị “thích” cho một cái chữ không tốt nên trán nà thằng “Bê quay”, nhưng quay thì quay chứ, đi B chúng tôi không đi thì chúng tôi quay lại. Trở về Bắc chúng tôi sẽ ra khỏi quân đội. Nhưng hễ nà Bê quay rồi thì chúng tối không còn ra cái thớ gì nữa hay sao?
Một anh gầy nhom, răng khểnh, tóc xụ xuống che cái trán như một cái lưỡi trai, anh ta dựng một tay lên đầu gối và nói theo nhịp giơ lên bổ xuống của cánh tay này và không nhìn vào trạm trưởng:
- Chúng tôi vào quân đội không phải để ăn cắp! Vì thế người ta không thể muốn trét bùn vào mặt chúng tôi lúc nào thì trét, và nhất định là chúng tôi không thể để người ta trét bừa. Chúng tôi quay trở lại vì chúng tôi không thích đi Nam. Như thế không phải là chúng tôi hoàn toàn mất hết phẩm chất. Chúng tối bị lột mũ, lột sao trên đầu nhưng chúng tôi không cần.
Một người gầy nhom đứng phắt lên lêu đêu khẳng khiu như một cái cọc mắc võng.
Anh ta nói giọng từ tốn, chấm phết rất rõ ràng như một giáo viên đang giảng bài:
- Trạm mất đồ, trạm có quyền nghi ngờ. Đó là quyền của trạm. Chúng tôi là khách chỉ nghỉ chân một đêm ở đây rồi đi. Và chúng tôi bị trạm nghi ngờ. Phải nói trắng ra như vậy. – Anh ta nuốt nước bọt một cách trầm tĩnh – Thế nhưng nếu muốn buộc tội kẻ khác, chỉ nghi ngờ thôi chưa đủ, cần phải có bằng chứng. Chúng tôi, những kẻ bị nghi ngờ, không biết dúng hay sai, mong chờ trạm trưởng bằng chứng đích xác!
Chừng, nãy giờ ngồi hút thuốc, xem như chuyện của ai không phải chuyện của mình, bây giờ mới lên tiếng:
- Tôi nói thật với anh nhé anh trạm trưởng – Chừng cười mũi – trong đời tôi chưa bị ai làm nhục nhưng trên đường Trường Sơn này thì tôi bị rất nhiều lần, mà đây là một. Tôi đã từng mang nhiều thương tích trong người đây, đây, và đây – Anh xăn quần vạch bụng và đập vào tay – Nhưng ngày hôm nay tôi coi công lao của tôi như dã tràng xe cát chỉ vì tôi không chịu đi Nam, chứ đến bây giờ nếu tôi tình nguyện đi thì tôi sẽ được phục hồi chức vụ cũ. Nhưng đối với tôi cái gì tôi đã quyết định rồi là tôi không thay đổi. Tôi nói như thế để cho các anh biết rõ về tôi là một thằng như thế nào!
Chừng ngưng một chút rồi tiếp:
- Người ở đây năm cha ba mẹ, cá mè một lứa không ai khiển được ai. Cho nên các anh mất lợn thì các anh cứ tìm bằng chứng, nếu các anh bắt được ai , người đó chịu, còn tôi thì tôi chẳng chịu trách nhiệm về ai cả.
Khanh nói:
- Ở đây không phải chúng tôi đòi các anh thường bồi gì cả.
Một anh “Bê quay” la to:
- Chúng tôi chỉ yêu cầu các đồng chí đừng có đem ách giữa đường mà mang vào cổ chúng tôi.
- Vậy cái gì đây? – một anh giao liên ném một cái ga-men vào giữa sân rồi đứng nghênh mặt nhìn đám “Bê quay”: – Còn chối nữa thôi?
- Nhưng đâu phải của chúng tôi?
Anh giao liên nóng tiết, nhảy cỡn lên như đạp phải gai:
- Các anh cương quyết không nhận phải không?
- Có đâu mà nhận?
Anh giao liên quay ra ngoài nói tiếng thiểu số. Một chốc hai anh thiểu số mang vào ba chiếc ba-lô no phình.
Đám Bê quay bắt đầu nhớn nhác. Chừng nhìn xuống đất. Chẳng ngờ những bằng chứng laị rõ rệt một cách tàn nhẫn như thế. Khanh rất tức tối không họ cự laị Khanh, nhưng bây giờ Khanh lại thấy khổ. Khanh muốn ngăn anh giao liên lại, nhưng hai anh thiểu số đã mở mấy chiếc ba-lô và lôi ra những gói thịt luộc chảy nước ròng ròng. Họ ném tất cả xuống đất. Nào thịt nạc, nào gan, nào phèo… Cái đầu lợn còn nguyên. Cặp mắt con lợn trợn lên và cái miệng bạnh ra như cười đời.
- Ba-lô này có phải là ba-lô của các anh không?
Hai anh thiểu số khoa tay múa chân. Họ nói sùi cả bọt mép. Một người sấn tới trước đám “Bê quay” nom sát vào mặt họ và vung cả nắm tay lên.
Khanh nói bằng tiếng thiểu số một thôi dài. Hai người thanh niên mới chịu nín hẳn.
Khanh nói với Chừng:
- Thôi cho anh em về đi. Ba-lô của anh nào thì cứ mang về.
Chừng đứng đậy, phủi đít chửi đổng một câu:
– … mẹ! ngày mai có ra đường lấy cái thúng mà úp cái đầu lại!
Tôi và Thu đứng trong nhà xem rõ từ đầu đến cuối. Nhìn những miếng thịt nằm lăn lóc trên sân tôi không còn hiểu ra làm sao nữa.
Anh chàng cao lêu đêu và cái anh có mái tóc như cái lưỡi trai vẫn còn ở đó đợi cho mọi người đi hết rồi, hai chàng hiệp sĩ mới bước ra hay tay xách mấy cái ba-lô kéo lết dưới đất vừa đi vừa lầm bầm:
- Mẹ nó, nó sợ xấu mặt không xách, cứ để cho mình!
Anh có mái tóc như lưỡi trải ngó quanh quất rồi bước ra xách ba-lô và quay lại chợt trông thấy Thu, anh ta cố ý làm ra vẻ tự nhiên. Anh ta cất giọng hát:
- Súng một nòng, đạn hai viên, bắn ai chẳng bắn , tôi chỉ bắn cái thuyền quyên của nàng… i i i i.... rồi ngất ngưỡng đi thẳng.
Khanh ngồi trong nhà cố ý tránh mặt để họ lấy ba-lô của họ cho đỡ ngượng. Khanh quay sang tôi và Thu:
- Anh chị xem họ coi trời bằng vung chưa?
Khanh lắc đầu và thở dài. Khanh lấy thuốc ngồi hút, chẩm rãi phà từng ngụm khói và lại lắc đầu:
- Tôi làm trạm trưởng ở xứ này đã hai năm. Tôi đã đụng với các bố nhiều trận lắm, có trận các bố suýt bắn tôi, nhưng chưa có trận nào tôi bị như trận này.Tôi thắng mà tôi khổ tâm . Thắng mà khổ hơn bại, còn hơn đại bại.
Tôi kiếm cách lảng đi, không muốn nghe thêm.
Qua con sông này rồi thì tôi mới chắc ăn. Dù bệnh nặng người ta cũng không đưa ra Bắc nữa.
Cho nên đã có những người như tôi khi qua được con sông này rồi, lột nón xá dài.
Còn ai lơ mơ không quyết tâm đi Nam thì nằm lại đây “suy nghĩ”, hoặc tìm, hoặc tạo lý do để mà “quay”.
Tôi và Thu là tiêu biểu cho hai hạng người trên đây: Tôi thì sợ bệnh nặng, bị cáng trở ra Bắc. Còn Thu thì suy nghĩ với chiều hướng làm “bê quay”!
Riêng ông Chín thì đã đuổi kịp một trong những người mang đồ ăn giúp ông nhưng các vị này đã xơi hết nhẵn rồi.
Chúng tôi thấy ở trong trạm chật chội và riêng Thu đã bị anh trạm trưởng trổ mòi lôi thôi, cho nên chúng tôi dời ra rừng mong tìm lấy sự yên tĩnh.


CHƯƠNG 32


Một buổi sáng, tôi thức giấc, trăn trở mãi không ngủ tiếp được. Tôi định ngồi dậy nấu nước uống thì nghe tiếng bàn tán bên cạnh vọng sang:
- Mổ đi! không mổ cũng chết!
- Không có lấy một cái bistourie lấy gì mà mổ?
- Trong đoàn có ai mang theo nô-vô-ca-in không?
- Có tôi đây!
- Nó lăn lộn từ tối đến giờ.
- Ruột thừa bạo phát rồi!
- Mổ ngay thì có thể sống!
- Nhưng chả lẽ mổ bằng lưỡi dao găm của hợp tác xã phố Hàng Hòm?
- Bậy nào, sao lại dính cái Hàng Hòm vào đấy?
Một tiếng reo lên phấn khởi:
- Tớ có cách rồi!
- Cách gì?
- Lưỡi cạo râu. Tuyệt!
- Không được đâu, phạm chết!
Im lặng hồi lâu, rồi lại:
- Không mổ cũng chết!
- Ờ, không mổ cũng chết!
- Mổ may ra còn sống. Có một ông bác sĩ đi công tác miền núi bị bệnh dọc đường. Ông ta soi kiếng và tự mổ, ấy vậy mà sống!
- Chớ sao!
- Thôi đừng cãi nữa, quyết định đi. Cậu nào giúp tớ này. Đem nô-vô-ca-in ra đây! Căng tăng lên che bụi. Nấu nước luộc kim. Cậu nào có Gillette cho xin một lưỡi.
- Nhưng hãy hỏi nó đã.
- Hỏi gì? Ai lại hỏi bệnh nhân!
- Tớ ớn lắm, lưỡi lam mỏng dễ phạm lắm!
- Thì đây là cầu may thôi mà.
Tôi rởn ốc khắp người. Mổ ruột thừa mà bằng lưỡi cạo râu. Có lẽ đây là một sáng kiến phải được xếp cao hơn cái xe ba-gác ở làng Ho và cái cần câu trên quốc lộ 1.
Sáng hôm đó chúng tôi bị một trận bom tơi bời. Vừa chết vừa bị thương 20 mạng.
Cuộc sống ở bờ sông này vốn đã phức tạp càng trở nên bi đát và phức tạp hơn sau trận bom. Có người cháy rụi tài sản, có người mất đầu, có cánh tay văng mắc trên cành cây. Nhốn nháo, khóc lóc, chửi bới, văng tục, tro than, máu me, quát tháo, xác chết …
Những cặp mắt dáo dác, nhớn nhác, những gương mặt lầm lì choắt lại, những gò má sị ra, những bàn tay khô gầy, những cái dạ dày ọc ạch nước suối…
Có lẽ Khanh đã quen chịu cái cảnh này cho nên Khanh cứ bình tĩnh như thường.
Khanh ra lệnh cho tất cả chiều này sẽ vượt sông ở một quãng cạn có thể lội qua được. Như vậy không cần đến bè, mãng và thuyền. Trạm của Khanh chỉ có một cái thuyền độc mộc bể nát.
Tôi gặp cái anh chàng y tá Nam bộ bị phân công về Khu 5 ở đây trong lúc sắp sửa lội qua sông. Anh ta tự giới thiệu tên là Năm, và anh em tặng cho biệt hiệu là Cà Dom (một loại ghe làm bằng thân cây cổ thụ) vì hồi ở tiểu đoàn 307 có lần Năm một tay cầm ba khẩu súng trường giơ lên và lội xốc đứng qua sông.
Năm Cà Dom ngồi tâm sự với tôi. Mở đầu Năm Cà Dom đã chửi đổng ngay:
- Tổ chức cái … cái … chớ tổ chức. Người ta quê ở Hóc Môn nó lại phân công về Khu 5. Lặng im mà đi thì thôi, cãi lại nó cho đi Lào. Tôi nói thiệt với anh, thằng nào đi vô đây cũng bất mãn một bụng.
Rồi Năm Cà Dom dịu giọng ngay:
- Thế là thoát anh ạ! Tôi nói thiệt tôi về tới quê phen này tôi nuôi ngựa đua.
Năm Cà Dom lắc đầu lia lịa:
- Chào ồi! Tôi vô tới đây tôi mừng hết lớn. Qua con sông ôn dịch này nữa là alê quất ngựa chuối một “tăng” là tới nơi. Tôi hỏi thật người anh em nhé! Sống mười mấy năm trên đất Bắc, người anh em có cảm tưởng gì khi qua khỏi cây cầu treo ở ngọn Bến Hải?
Tôi cười. Năm Cà Dom nói tiếp:
- Tôi nói thật, tôi lột nón xá dài. Thiệt tình, tôi vái cả mũ.
Năm Cà Dom cười khắc khắc và vỗ đùi tôi, có vẻ đắc chí vì đã qua mặt được các trạm mà lọt, vô tới đây.
Tôi chợt nhớ câu chuyện lúc sáng. Tôi hỏi:
- Cậu có biết cái đoàn nào đó định mổ ruột thừa cho thằng nào bằng lưỡi lam không?
- Biết chớ! Nhưng mà biết làm thế nào? Ở đây không có cái gì bình thường nữa hết! Để vậy thì chết, mổ bừa may ra khỏi chết. Cũng như tôi, như anh vậy.
- Tôi có đau ruột thừa đâu…!
- Chúng mình đau “ruột thiếu” …khè ..khè… Tôi nói như vậy là nếu mình ở ngoài Bắc thì chắc chắn chết, còn về Nam thì có thể chết nhưng may ra còn sống! Thế đó! Chúng mình đi trên con đường này thì cũng ví dụ như thằng kia mà bị giải phẩu bằng lưỡi lam vậy thôi! May ra thì sống.
Bỗng nghe tiếng la quát loạn xạ ở phía bộ đội tập họp:
- Bắn bỏ! bắt được bắn bỏ!
- Thằng nào “quay” đó?
- Năm sáu thằng!
- Cho truy lùng ngay. Lôi về đây cho tôi!
Năm Cà Dom cười mũi:
- Lùng con mẹ gì! Không khéo mất cả chì lẫn chài nữa bây giờ!
Năm Cà Dom tiếp:
- Ta đã bảo ở chỗ này thế nào tụi nó cũng “quay” dữ lắm! Con sông này chẳng khác nào cái Bến Hải thứ hai. Nó không chịu đi mà bắt ép mãi nó phải kiếm cách chuồn. Ở ngoải, nghe bài ca và ngâm thơ trên đài, thằng nào cũng tưởng bở, cắt tay lấy máu viết “hú…úy..ết..ết…” tâm thư xin đi Nam, bốc tếu tới trời. Ai dè vô mới có ba trạm đã bắt đầu thấy “bê quay” lai rai rồi. Càng vô càng “quay” tợn. Chúng nó biết hễ vượt qua con sông này là khó bề “quay”.
Tôi biết Thu đang khó ở, nhưng biết làm sao, đã đi là phải đi bất kể trời đất, bất kể bệnh tật. Người ta đi tới như gió bão. Mình không thể ngồi lại nhất là ngồi lại bên bờ sông, làm mục tiêu cho máy bay. Đến giờ phút chót tôi mới hỏi Thu:
- Em biết lội không?
- Biết!
- Thế thì hay quá! Tôi reo lên – Trông người ta lội qua thì thấy có chỗ ngập đầu đấy em ạ!
- Ấy chết! Ngập đầu thì làm sao mà lội. Phải
bơi chớ ! Em chẳng biết bơi đâu!
Trời mới vừa nhá nhem. Cát trên bãi sông trắng lên mãi màu sa mạc hoang dại. Mặc dầu những đoàn người đang chạy làm cho bụi bốc lên mù mịt, tôi vẫn cảm thấy một sự man rợ của những nơi không có dấu chân người. Tôi chẳng biết con sông này bắt nguồn từ đâu và nó tưới những thành phố làng mạc nào. Phía trên nguồn đổ xuống đến đây nó eo thắt như một cái cổ chai. Nước trào lên, sủi bọt trắng tràn qua những tảng đá và lao tới như những đàn ngựa bất kham.
Rè..rè… rè… có tiếng máy bay ở phía dưới dòng. Pập…pập.. pập.. Không gian loè lên ánh chớp. Những đốm sáng tròn nhóang lên tủa ra như những cụm pháo bông nhỏ, rồi vụt sáng lên, xé rách cả một vùng trời. Ánh sáng lan đến chỗ tôi và Thu đứng.
Chiếc máy bay cứ bay, vẽ thành vòng tròn quanh những trái pháo sáng. Cứ chốc chốc lại pập pập pập, pháo sáng lại phụt ra, chẳng mấy chốc mà những chấm đỏ đầy cả một vùng trời như những chùm ớt chín cây. Quát tháo ầm ĩ:
- Qua nhanh đi.
- Nhanh thế nào được…
- Cứ đi, nó không thấy đâu!
- Nhanh lên, nó tới đấy!
Nước tung lên trắng xóa từng nơi. Bước chân lội ầm ầm hỗn độn. Người ngã. Súng rơi trên đá. Lại trườn dậy, lại chạy, lại sụp xuống hố, lại ngã. Nước vẫn chảy ào ào. Tôi dìu Thu đi trong cái đám người đang đạp bừa lên nhau qua mặt nhau ấy. Tôi tự bảo: “Không thể cuống lên được. Sự bình tĩnh trong lúc này rất cần thiết”.
- Cứ đi chậm chậm,em! Có anh đây đừng sợ!
Có lẽ Thu chưa trông thấy cải cảnh qua sông như thế bao giờ. Trông như một cuộc chạy loạn. Mặc cho người ta vượt lên, Thu vẫn cứ dò từng bước, bước thật chắc. Đó là kinh nghiệm đã học được trong những lần qua suối.
Một người xỏ chân vào kẹt đá kêu cứu. Một người đổ ầm xuống, nước bắn vào người Thu. Một người đang lom khom mò chiếc dép sút bị một người khác cỡi bừa lên lưng, hai người cùng ngã, chửi nhau ầm ĩ.
Càng đi ra xa, sông càng sâu. Nước đã ngấn tới đùi. Tôi xót xa nhìn Thu qua ánh pháo sáng. Nét mặt Thu tái nhợt. Tay Thu như không nhấc gậy lên nổi nữa.
- Cố gắng lên em! – Tôi càng bám chặt cánh tay Thu.
Nước sắp đến lưng. Hai người khiêng cây súng gì có vẻ nặng nề. Họ bước rất chậm. Họ thở hổn hển. Bỗng “ầm” người đi sau sụp ngã, người đi trước ngã theo.
Hai người đi phía sau, có vẻ cùng một tổ, nhảy tới. Một người rên:
- Nắm chắc kẻo rớt súng!
Một tiếng hét:
- Đi về phía này cạn!
Tôi nhìn về phía có tiếng kêu. Ở đó nước chỉ quá đầu gối. Tôi bảo Thu:
- Đi về phía đó em!
Đến bờ, Thu ngồi phệt xuống. Tôi xốc lấy chiếc ba-lô trên lưng Thu và nắm lấy tay Thu đứng dậy.
Những tốp người qua khỏi sông, bắt đầu chạy như gió. Bãi sông bên này rộng mênh mông. Cát bốc lên như sa mù ác mộng. Người ta phải chạy vượt lên, qua cho khỏi chỗ này. Bước dẫm lên hố bom và mảnh đạn. Thu không thể nhấc chân chạy nhanh được. Thu ngã đầu vào vai tôi. Tôi ôm quàng sau lưng Thu. Thu kêu:
- Em đau bụng quá!
Một binh sĩ chạy vượt lên. Chân anh ta bước hụt xuống một lỗ bom. Toàn thân anh ta cùng với khẩu súng và bao đạn ngã xuống đánh “rậc” một cái. Cây súng văng ra xa lắc. Tôi và Thu đi qua. Anh ta vẫn nằm sải tay
ở đấy. Nhiều người nhảy qua lưng anh. Hai người khiêng cây súng gì lúp xúp chạy qua. Họ xoay trần và mặc quần đùi, lưng họ lấp loáng nước hay mồ hôi.
Cây hai bên đường cháy trụi hết lá. Từng cành in trên nền trời như những bộ xương trong cõi hư vô. Người ta vẫn chạy hồng hộc. Bụi bốc lên xốn cả mắt, nồng cả mũi.
Ở phía sau tôi, chiếc máy bay vẫn rè rè lượn vòng và pập pập pập. Thu lả ra. Tôi định ngồi laị nhưng có tiếng quát:
- Chạy mau lên. Xa 4 cây số mới dừng lại!
Tôi lôi Thu đứng dậy. Thu như cái xác không hồn.
Tôi bảo:
- Ngồi đây máy bay bắn chết!
Thu cố đứng dậy tựa hẳn vào tôi và thều thào:
- Em có … kinh!
Tôi rùng mình.
Thu oà lên khóc: – “Để em ở lại đây thôi anh ạ!”
Những tốp người cứ rào rào lướt qua. Súng ống khua lách cách, tiếng kêu với tiếng chân chạy ùynh uỵch, tiếng máy bay ù ù, tiếng thét rống lên.
Tôi bảo:
- Mặc kệ. Thu cứ đi chầm chậm!
Và tôi lôi Thu đi trong sự bát nháo hỗn độn đó.
Thu lê chân theo tôi. Mỗi một bước đi Thu lại kêu lại khóc. Thu dùng dằng không chịu đi. Rồi Thu ngồi phệch xuống nhu một cái bao cát rơi đánh phịch.
Tôi ngó quanh quất để tìm một người quen. Nhưng ai mà nhận là quen với chúng tôi trong lúc này?
Thôi cũng mặc. Cứ phó cho Trời.
Tôi lục ba-lô lấy võng mắc lên và bế Thu lên nằm.
Cái võng mắc vào hai cái cây đã bị thuốc độc làm rụng hết lá đúng trơ xương ra. Ở đây là khu tử địa. Máy bay rải chất độc làm thành vòng đai trắng để kiểm soát người vượt sông.
Ở đây là vùng ranh giới của bóng tối và ánh sáng. Những trái hoả châu soi sáng mặt người lan tới đây. Đi quá về phía Nam là sụp vào trong vũng tôi.
Tôi ngồi bên võng Thu mà nhìn những đám người ướt lóp ngóp ì ạch nặng nề đi qua, mình mẩy ướt đầm, hình thù quái dị chẳng khác một lũ âm binh từ cõi dưới hiện về.
Bỗng tôi nghe tiếng quát:
- Trở lại! Trở lại mau!
Một tiếng trả lời yếu ớt:
- Tôi đi múc nước!
- Múc nước cái con mẹ mi! Mi định “quay” hả? Trở lên không tao bắn!
Tôi nghe tiếng cơ bẩm khua lách cách.
Mấy cái bóng quay trở lên, dáng đi thất thểu.


CHƯƠNG 33


Tôi liều mình ở lại nơi ranh giới của ánh sáng và bóng tối , làm mục tiêu xạ kích của máy bay cho đến sáng hôm sau.
Tôi thấy Thu trở thành một người khác. Bụi bám trên tóc làm cho tóc nàng màu xám tro, quần áo dày cộp, mộc thếch. Da mặt nàng khô như sấy. Qua một đêm vượt sông – con sông trên mặt đất và con sông trong tâm tư – nàng già đi mười tuổi!
Tôi hỏi:
- Em vẫn .. còn…
- Còn hai ngày nữa mới dứt anh ạ!
Tôi nhìn hai bắp chân nàng. Máu còn dính đầy (xin lỗi độc giả)
- Để em băng lại rồi sẽ đi anh ạ! Qua cho khỏi khu tử địa này rồi hãy hay.- Thu gắng gượng nói.
Chập sau chúng tôi lại lên đường. Nhiều người bị rớt lại sau đoàn bây giờ cũng lếch thếch bò theo.
Một bộ phận pháo nặng đang đi trước chúng tôi. Họ xoay trần ra khiêng một cái nòng pháo giắt lá um tùm. Cái đòn dài oằn xuống và dây nghiến kĩu kịt như sắp đứt ra. Hai người một đầu. Những tấm lưng gầy nhom cong quắp xuống và ngọn đòn khuyết sâu xuống vai họ, tưởng chừng đến một giây phút nào đó nó có thể chẻ rời cái vai ra khỏi thân người.
Những bắp thịt nuộc lưng gồng lên như cố giữ cho chiếc xương sống uốn éo khỏi gãy cụp xuống trong khi những chiếc xương sườn cứ uốn cong như lúc nào cũng có thể bung ra.
Càng đi tôi thấy rừng càng ngày càng sâu càng dày, núi càng ngày càng hiểm trở, những cái nòng súng thì như càng ngày càng to ra, còn những con người càng ngày bé lại.
Mà thật, con người càng ngày càng bé lại, tọp lại, choắt lại, khô lại, không phải một cách nói tượng trưng mà là trông thấy.
Tôi trỏ cho Thu những bắp chân đang loăng quăng bước trước mặt chúng tôi. Tôi nói:
- Những cây cọc màn biết đi chớ còn gì nữa!
Thu nhếch môi cười miễn cưỡng:
- Coi chừng mất lập trường!
Đường ác quá. Không có quãng nào thẳng được năm chục thước. Không có chỗ nào bằng phẳng. Cái nòng pháo cứ phải chạm vào vách đá ở những khúc quanh gắt. Những người khiêng, chân vừa bước, tay vừa bám vào vách đá, đi những bước khúc mắc, tréo chân nghịch tay, ẹo xương sống, thành thử một bước trên đường này bằng một nghìn bước ở đường thường. Vì thế, bệnh như tôi và Thu mà vẫn đuổi kịp họ và vượt họ.
Dọc theo đường nhiều người ốm quá, họ ngồi trên những hòn đá. Thật tình tôi chẳng dám nhìn. Bởi vì càng nhìn họ tôi càng trông thấy tôi rõ hơn. Thế mới khổ!
Thu kêu mệt. Chúng tôi dừng laị bên cạnh một anh lính đang ngồi. Trời ơi, cái mặt anh ta sần sùi như một quả na sắp nứt ra.
Anh lính tố khổ với tôi ngay:
- Em đói quá. Bị bom cháy hết rồi! Em xin anh tí muối?
- Em ở pháo binh khiêng pháo ngã bị pháo đè gãy một cái ba sườn. Bây giờ yếu quá, em xin qua bộ binh nhưng cấp chỉ huy bảo em mất tinh thần nên không cho!
Tôi không còn cách nào từ chối. Lần trước tôi không cho anh binh sĩ khúc mì bây giờ tôi còn ân hận. Cho nên lần này tôi cho cậu ta một tí muối trắng – có thể đếm được bao nhiêu hạt.
Không biết anh lính đã bắt được con rắn mối và đã xơi hồi nào, chỉ còn lại cái đuôi. Anh ta ngữa bàn tay ra nhận mấy hạt muối của tôi, móc túi lấy ra cái đuôi con rắn mối và chấm ăn. Anh ta nhai rau ráu.
Anh ta nói:
- Không có muối tanh quá ăn vô cứ buồn nôn. Nhờ có muối của anh, em thấy khoẻ lại ngay. – Anh xoè bàn tay ra đưa lên miệng liếm nốt những hạt cuối cùng rồi anh ta nói tiếp: – gớm, đơn vị của em bị biệt kích một cú tơi bời. Mất nòng pháo 120. Em suýt chết. Đồ đạc mất hết! Đơn vị tan tác mà lại không lãnh được gạo. Em toàn bắt cua bắt nhái, nấu với rau giềnh chấm với tro thay muối. Ăn tro mãi, da cứ đen sịt ra, yếu như bún, ngã xuống không đứng dậy nổi. Nhiều đứa ăn da bò nướng với rau giềnh sống chấm tro bị kiết lỵ cứ chảy re re không mặc quần được. – Anh binh sĩ ăn xong cái đuôi con rắn mối chép chép miệng như còn thòm thèm – Muối tan trong máu em rồi đấy.! Này anh, em nghe nói ai bệnh được đưa về Bắc trở lại có không?
- Ai biết đâu việc đó.
Tôi và Thu không ai bảo ai nhưng đều muốn đứng dậy đi như lủi trốn cái hình hài này. Nhưng anh ta đã kể tiếp:
- Đơn vị em có một cậu tự vận anh ạ! Cậu ta tên Ngạc, quê ở Hà Đông. Cậu ta yếu không đi nổi, nhưng ông đại đội trưởng bắt phải đi, nhất thiết phải đi. Cậu ta năn nỉ anh em:”Các cậu khiêng tớ đi, tớ gọi các cậu bằng bố!” Nhưng đi còn không nỗi, ai còn sức mà khiêng?? Một buổi trưa ông đại đội trưởng kiểm tra đơn vị, tay cầm một củ mây. Gặp cái gì không như ý là ông ta quật lia lịa. Đến chỗ võng của Ngạc, ông ta hỏi:
- Cậu nào nằm đây?
- Dạ em! – Ngạc đáp.
- À, Ngạc hả? Cậu đã bắn vào ngón tay trỏ hôm ở trạm 3 phải không?
Ngạc không dám đáp lại. Ông ta hỏi tiếp:
- Tại sao lại nằm, không chuẩn bị hành quân?
- Dạ, em sốt quá!
- Tại sao sốt? muốn “quay” hả?
Thế là ông ta quật lia, rồi ông ta giật luôn dây võng, Ngạc rơi xuống đất, ông ta phớt tỉnh bỏ đi.
Anh em chuẩn bị hành quân. Ngạc soạn ba-lô lấy bộ đồ mới nhất ra mặc, bộ đồ Đông Xuân, Ngạc chưa xỏ chân vào lần nào. Anh em tưởng Ngạc phục thiện, và tự nguyện tiếp tục hành quân, nào ngờ trong lúc anh em đang loay hoay nấu nướng thì “đoàng”, Ngạc nằm thẳng trên võng, người mặc quân phục. Cây AK kề trên ngực và chỉ một viên, từ cằm trổ lên giữa sọ.
Tôi và Thu đứng dậy tạm biệt anh lính, như tạm biệt một sự đau thương đã hóa thành người. Trời ơi! Trời đất ơi! Sao lắm chuyện thế, mà chuyện nào cũng ghê rợn, oái oăm tàn tận, nghe như bịa chớ không có thật. Vậy mà vẫn là sự thật.
Chúng tôi đến một chỗ người đùn lại, chật ních như nêm.
Anh giao liên nói:
- Sắp đến đoạn đường gay go. Lấy đường thủy làm đường bộ. Các đồng chí chuẩn bị gói ghém đồ đạc. Phụ nữ thi phải cẩn thận, vắt nhiều dữ lắm. Đường đi 6 tiếng đồng hồ liền.
Thế là đi.
Tôi mới hiểu thế nào là đường thủy làm đường bộ. Nghĩa là tất cả người ngợm trai gái già trẻ Bắc Nam Trung, dân quân chánh, súng đạn đều trầm mình dưới nước mà lội, mà bơi, mà trườn, mà lặn. Con đường Trường Sơn vốn là con đường kỳ cục và chặng đường này chính là cái đỉnh của sự kỳ cục. Hai bên suối vách đá dựng đứng như tường xây, không có một chỗ nào có thể leo trèo đi trên đó được.
Cho nên người ta phải đi dưới lòng suối. Mấy hôm trước trời nắng, nước cạn, đi dưới lòng suối không việc gì. Nhưng chỉ sau cơn mưa vừa qua, suối to nhanh đến thế.
Hai ven suối người nằm như rạ. Không biết họ nằm từ bao giờ mà thấy có nhiều chiếc tăng đã rách và dây tăng thay bằng những sợi dây rừng. Có người nằm trong một hốc đá, có người mắc võng vào những cái rễ cây, có người mắc võng ngang qua một cái hố, nếu đứt võng thì gãy xương sống ngay. Ở một gốc cây có đến ba cái võng treo chụm vào nhau.
Không biết họ đến đây hồi nào và thuộc đơn vị nào. Có người nằm xếp ve như tàu lá, có người không còn cử động, chỉ chờ mối càng tới tha đi nữa thôi. Cố nhiên là họ không lãnh gạo được và khách đi ngang qua đây chỉ nhìn họ chắt lưỡi thương hại rồi cũng đi qua. Tôi thấy có người đã để lại cho một anh nằm trên phiến đá một hộp sữa đã khui rồi, như tế sống anh ta vì anh không còn làm gì được với hộp sữa đó ngoài việc lấy mắt nhìn nó cho đến lúc không còn nhìn được nữa thì thôi.
Họ không thể nào đi nổi chặng đường này vì họ không thể ngâm mình dưới nước. Mà từ nay sắp tới thì con suối luôn luôn phình lên tràn trề vì những cơn mưa không dứt.
Thu như con mắm sống dầm dưới nước, càng ngày càng tái ra.
Tôi bảo Thu:
- Cố gắng lên em! Mình càng đi chậm thì suối càng to, càng gặp nguy hiểm
Thu không nói không rằng cứ lê từng bước theo tôi.
Nước ngập lên thường xuyên đến ngực, có khi đến cổ, có khi đến mũi, phải ngữa mặt lên mà đi.
Đang lội, tôi bỗng thấy một vật gì lù lù từ trên trôi xuống thật nhanh. Nó lao thẳng vào tôi và Thu. Tôi nhận ra một cây súc to. Nó bị trốc gốc và nước cuốn phăng phăng theo dòng. Tôi quát:
- Tránh, Thu, tránh! Cây đổ!
Thu nhận ra ngay cái tai hoạ đang giáng xuống chúng tôi. Thu bươn người tới giơ thẳng hai tay ra cầu cứu với tôi. Tôi nắm chặt hai bàn tay và kéo nàng sát vào tôi rồi tôi lôi tuột nàng vào bờ, cả hai cùng đứng sát vào nhau trên một hòn đá và tựa lưng vào vách đá nhìn ra.
Cái cây súc như một con trâu điên thẳng trớn đâm đầu vào một gộp đá ở giữa dòng suối, bứng tung cái gộp đá này đi, gây nên một tiếng động khủng khiếp. Do cái chướng ngại đó, cái thân cây bỗng quay ngang, gốc cây đụng vào một bên, ngọn cây gác lên một bên bờ suối.
Thu đưa hai tay lên bịt mắt, còn tôi thì ôm chặt lấy nàng và ép sát nàng vào vách đá. Cả hai cùng chờ đợi một tai biến gì do cái thân cây quay ngang ấy gây ra.
Nhưng cái thân cây run run một chốc rồi nằm im như một chiếc cầu bắc ngang qua suối.
Tôi bảo Thu:
- Em xem kìa!
Thu vẫn bưng mặt và không ngớt kêu “eo ôi!” mãi.
Tôi hôn trên má nàng như hôn sự giá lạnh tê buốt. Có lẽ nàng cũng không cảm thấy cái hôn đó của tôi.
Bất thần tôi luồn tay ra sau lưng Thu và kéo riết nàng ghì chặt nàng vào thân tôi và môi tôi nhen lửa khắp trên mặt nàng lạnh lẽo như bãi tha ma.
Có lẽ không chịu nổi những cử chỉ bạo của tôi nàng xoay mình qua và cứ đứng nguyên như thể để cho tôi sưởi lấy nàng bằng ngọn lửa trong người tôi mà chính nàng đã nhóm lên cho tôi nhưng nàng không hề hay biết.
Mấy cậu lính lội ngang, nhìn chúng tôi:
- Cha cha! Của bạc nghìn mà đem ngâm dưới nước hé!
- Ối giào ồi! như thế kia thì có lên giời xuống đất em cũng xin đi!
Tôi và Thu lại tiếp tục cuộc đi khổ sai. Nước từ trên ngọn chảy xuống càng lúc càng mạnh, đập thẳng vào ngực tôi. Cứ sẩy chân một bước là bị nước cuốn đi ngay.
Một toán người khiêng một vật gì nặng quá! Có lẽ bốn anh chàng khiêng cái nòng pháo mà chúng tôi gặp chiều qua lúc vượt sông.
Họ đi thật vất vả, thật tội nghiệp. Nòng súng bị chìm khuất dưới nước chỉ còn thấy mấy sợi dây căng thẳng với chiếc đòn oằn. Họ nương nhau mà đi từng bước một. Có khi người này bước tới mà người này chưa tìm chỗ bám chân được thì người kia vẫn phải dừng lại chờ. Có khi cả mấy phút đồng hồ, bốn người vẫn đứng nguyên một chỗ.
Bỗng một người kêu lên:
- Chết, bỏ mẹ, kẹt chân ái ..á…ái!
- Xỏ chân vô kẹt đá hả? Rút ra mau…!
Nhưng dòng nước đã đạp anh ta ngã xuống và tất cả những người kia cũng ngã theo . Ùm..ùm!…
Nhưng chỉ ba người đứng dậy được còn một anh thì bị nước cuốn trôi đi. Một người lao theo níu lại và lôi anh ta vào bờ.
Anh ta kêu trời như bọng:
- Gãy mẹ ống chân rồi!
- Chết cha, gãy chân à?
- Tớ không đứng dậy được nữa.
- Xeo chân vô kẹt đá mà, khổ quá!
Một người bảo:
- Chuyền tới báo cáo ban chỉ huy. Toán khiêng pháo bị nạn, cho người thay!
Lôi anh bạn gãy chân vào bờ xong, cả ba lao trở ra mò cái nòng pháo. Họ lặn dưới nước để kéo cái khối thép đó vô bờ. Cứ mỗi hơi lặn chỉ lôi nó vô được một quãng rồi lại ngóc lên thở phì phì như trâu bị cắt cổ, rồi lại lặn xuống. Cứ mỗi lần ngóc lên, họ vừa vuốt mặt vừa chửi đổng om trời.
- Ông ..đếch lặn nữa. Hộc máu ra đằng đít rôi.
- Bác Hồ ơi là Bác Hồ ơi!
- Đếch có thằng nào tiếp.
Lôi xong cái nòng pháo vô đển mé bờ, họ không còn sức để kéo nó lên bờ nữa. Cả ba ngồi thở dốc. Còn anh bạn gãy chân ngồi ôm cái chân gãy mà rên:”ối giời cao đất dày ơi! ối cha mẹ ơi! Chắc con chết quá cha mẹ ơi!” vang dội cả lòng suối.
Một chốc thấy có một tốp người từ trên kia thả theo nước trôi xuống. Một người có vẻ chỉ huy. Anh ta quát:
- Cái gì la om vậy hả? Thằng nào lại bắn vào chân phải không?
- Báo cáo đồng chí khẩu đội trưởng: lòng suối trơn quá. Toàn đá đầu ông sư và rong rêu cho nên chân bị xeo vào kẹt đá.
Anh khẩu đội trưởng nhìn người lính bị gãy chân đang ngồi lê dưới đất. Anh ta hỏi:
- Gãy có nặng không? Cố gắng đi được không?
- Báo cáo khẩu đội trưởng, chắc em chết. Xin khẩu đội trưởng cho em một viên đạn cho mát thân.
Anh khẩu đội trưởng quay mặt ra lòng suối quát:
- Tất cả dừng lại, trở lại đây nghe lệnh tôi!
Những người có kỷ luật quay trở lại. Tất cả độ năm sáu người. Người nào người ấy xanh như mắm trở và gầy như cái que.
Anh khẩu đội trưởng quát:
- Chặt đòn khiêng đồng chí này, còn bao nhiêu thay phiên khiêng nòng pháo. Mau lên! không cãi! không được bàn tán. Lệnh!
Tôi thấy tất cả đứng im như đá.
- Nhanh lên! – Anh khẩu đội trưởng chống nạnh lên và quát.
Chập sau, người ta đã đốn được một cây đòn và soạn ba-lô của người bị thương lấy cái võng ra buộc vào đòn rồi bế anh ta đặt lên võng, hai người một đầu, người ta khiêng anh thương binh đi.
Còn lại cái nợ kia. Những người được phân công khiêng nòng pháo vẫn cứ đứng như trời trồng.
Anh khẩu đội trưởng quát:
- Lôi nòng pháo lên. Tiếp tục hành quân!
Mọi người vẫn đứng như chết. Anh khẩu đội trưởng phải chỉ định từng người một. Người nào cũng “vâng” mà mặt nhăn như bị.
Đến người thứ tư, anh khẩu đội trưởng hỏi:
- Đồng chí là Tửng, bí danh Quyết Thắng phải không?
- Vâng ạ!
- Thế thì đây là dịp may để biểu hiện cái tên của đồng chí.
- Dạ, em không khiêng ạ!
- Ơ… ơ… cái gì? – Anh khẩu đội trưởng giật nẩy người lên như bị ai thoi vào mạng mỡ.
- Dạ, em không khiêng được ạ!
- À thế hả? Tại sao?
- Em ốm ạ!
- Ốm cũng phải khiêng!
- Em không khiêng nổi ạ!
Anh khẩu đội trưởng tròn xoe đôi mắt và anh gằn từng tiếng một:
- Tôi-lệnh-cho-đồng-chí!
- Tôi-lệnh-lại-cho-khẩu-đội-trưởng!
Pạch! Pạch!.. Tát đá túi bụi. Anh khẩu đội trưởng lại tát thêm một cái và nói rất dõng dạc:
- Tôi nhân danh bí thư chi đoàn khai trừ đồng chí Quyết Thắng ra khỏi chi đoàn.
Rồi anh ta hỏi:
- Đồng chí Quyết Thắng có nghe rõ không?
- Dạ, rõ ạ!
- Được rồi! – Anh khẩu đội trưởng móc súng ngắn giờ lên mổ mổ vào trán của Quyết Thắng. – Bây giờ tôi nhân danh khẩu độitrưởng kiêm bí thư chi bộ ra lệnh cho đồng chí khiêng nóng pháo tiếp tục hành quân.
- Tôi ra lệnh lại cho đồng chí…
- Nghiêm! Câm mồm!
- Dạ, vâng ạ!
- Đồng chí bị khai trừ có chống chế gì không?
- Dạ, em nghĩ khẩu đội trưởng làm như thế là khẩu đội trưởng thương em rất nhiều. Từ lâu em chỉ mong được có thế.
Anh khẩu đội trưởng nhảy cỡn lên như đạp phải lửa:
- Đồ láo! láo! – Anh ta nắm tóc Quyết Thắng giật mạnh làm cho Quyết Thắng lảo đảo rồi anh ta chĩa súng vào mang tai Quyết Thắng mà rít lên:
- Mày có chịu đi không, mày thằng chó!
- Em không đi nổi ạ!
- Tao bắn mày để làm gương.
- Vâng, em chỉ mong được có thế cho mát thân em.
Đoàng!
Tôi cố định thần để nhìn cho rõ, còn Thu kêu lên một tiếng thất thanh rồi gục mặt vào vai tôi. Nang vừa run vừa nói:
- Eo ôi! em hãi quá!
Làn khói bao trùm lấy cái đầu của nạn nhân và nòng súng ngắn, tan dần. Tôi thấy Quyết Thắng và anh khẩu đội trưởng vẫn còn đứng nguyên tại đấy.
Để chữa thẹn anh khẩu đội trưởng bảo:
- Tao tha cho mày lần thứ nhất – rồi anh ta hăng hái (!) bảo những người kia – Nào ta đi!
Anh ta kê vai vào đòn, nhưng lần này tới phiên những người kia noi gương Quyết Thắng.
- Chúng em không đi nổi ạ!
- Ơ kìa! Tôi đùa với các anh đấy phỏng?
- Dạ chúng em đói quá, không có muối, thịt cứ bợ ra, pháo nặng quá mà lại dầm mình trong nước…
- Ơ kia… giở cái giọng gì thế hả?
- Dạ chúng em không dám ạ.
- Tôi bắn chết các anh, tôi không ở tù.
- Vâng, thủ trưởng không ở tù.
- Đồ láo! Chát! chát! chát! Đ.m. chúng mày chống lệnh ông thì giết, ông thì giết!
- Giết cái đầu b…
Ba anh đội viên áp vào đánh viên chỉ huy của họ. Anh khẩu đội trưởng bị ngã xuống dòng suối nhưng tay còn giơ khẩu súng lục lên như đầu một con rắn độc. Chát! chát!
Ùm! ùm! Những người đứng trên bờ vác đá ném theo. Một anh quơ cây đòn khiêng pháo đập lia lịa. Nước tung trắng xoá chẳng còn trông thấy gì nữa.


CHƯƠNG 34

Thu bảo tôi:
- Đi anh!
Rồi Thu lôi tôi lội xuống suối trườn tới mà đi một cách hết sức hăng hái. Vừa lội Thu vừa ngoái cổ lại xem và kêu lên từng chập. Thu nói:
- Không có ông Chín ở đây cho ổng huấn từ!
Chúng tôi lội một chốc thì gặp bác sĩ Năm Cà Dom. Anh ta chỉ có cái quần đùi dính da. Ba-lô của anh treo lủng lẳng trên cành cây. Anh đứng chống nạnh nhìn dòng suối chảy xiết. Thấy tôi và Thu bè bè đi đến, Năm reo lên:
- A hay quá! lên đây nghỉ các bồ. Ngâm nước mãi dọp bẻ chết tươi đấy!
Tôi và Thu lại leo lên đứng trên một tảng đá. Tôi thấy hơi bối rối vì tôi đang đứng trước một tượng thần nữ bằng xác thịt qua ư gần gũi với tôi. Đằng sau những manh vải ướt đẫm dán sát vào thân nàng hiện lên những đường cong hài hoà mà con đường tai ác này đã ra sức tàn phá, nhưng nó vẫn giữa được vẻ đẹp nguyên thủy của một hình khối mà đứng bên cạnh nó tất cả đều trở nên thô kệch vụng về.
- Cô đang sốt đấy – rồi Năm nhìn từ đầu đến chân Thu. Bỗng Năm trông thấy máu chảy dọc theo bắp chân của Thu. Năm kêu lên:
- Lại làm sao nữa kìa?
Thu xấu hổ nhìn xuống.
- Cô ấy đang có kinh! – Tôi đáp thay cho Thu.
- Cha cha cha! Dã man thật. Thôi ngồi lại đây nghỉ. Lội thế này nhiễm trùng, hỏng cả cuộc đời đấy. Lấy võng ra cho cô ta nằm, căng tăng lên. Chết, chết! Sao ẩu thế. Phải tôi biết tôi đâu có cho đi. Ai đời phụ nữ có kinh lại bè dưới suối mà đi như vậy chớ. Thiệt là ngược ngạo y như trong vè nói ngược… Ngựa đua dưới nước , tàu chạy trên bờ…
Năm Cà Dom nói không hở miệng.
Tôi mắc võng đỡ Thu lên nằm. Mặt nàng tái nhợt. Nàng thiếp đi.
Năm Cà Dom bảo:
- Cậu lấy ga-men nấu nước để tôi tiêm cho cô ta một mũi thuốc khoẻ!
Trời lại vần vũ sắp mưa. Mây đen cuồn cuộn trên đầu. Con suối chảy càng lúc càng xiết. Mưa trên đường này là một đại hoạ. Suối đang dâng lại gặp mưa thì càng nguy hiểm.
Tôi bám rễ cây chuyền trên những gộp đá đi tìm củi. Nhưng tôi không tìm ra một nhánh củi, mà tôi lại tìm thấy những mảnh đời bị vùi lấp trong sương gió Trường Sơn.
Trên một mảng đá, ba khẩu AK dụm lại theo kiểu giá súng của tổ tam tam chế ở thao truờng. Và bên cạnh đó là ba cái võng mắc cạnh nhau. Trên mỗi chiếc võng đều có người nằm. Tôi nhặt lấy đá ném nhưng không thấy ai cử động. Thế là thêm ba oan hồn trên đường này. Tôi lật đật quay trở lại và thuật chuyện đó với Năm.
Năm ngồi lặng giây lâu rồi mới nói:
- Những chuyện như vậy thiếu gì. Thôi đừng có nói, nghe mất mẹ nó hết tinh thần. Mình cứ ngậm tăm mà đi cho tới nơi.
Trời mưa. Chúng tôi ngồi co ro trong lều của Thu mà chờ đợi cơn mưa tạnh để Năm tiêm cho Thu rồi tiếp tục đi.
Rải rác vài người hì hục lội ngang qua chúng tôi, có người ném những câu bất ngờ:
- Sướng he! Một bà hai ông he!
- Có muốn thì lên! – Năm Cà Dom vui vẻ ngoắc – Lên đây!
Anh lính lắc đầu:
- Thôi, teo tóp mẹ nó hết rồi! Tiên có vẫy em cũng xin thôi!
Trời mưa, và mưa to ngay. Đường đi càng vắng. Có lẽ người ta không lội được nữa, đã leo lên hai bên vách đá mà bám ở đó như những con thằn lằn.
Nước càng dâng lên, trông thấy từng phút một. Những lối đi ven bờ suối cũng ngập luôn.
Thế mà anh lính gãy chân cứ nằm tòng teng trên võng, nước ngập cả người, anh ta phải ngóc cổ lên. Và bốn người khiêng anh ta cứ lần từng bước một, tay bám vách mà đi. Gần đến chỗ chúng tôi thì một người trượt chân ngã. Cái võng bị ném xuống nước và anh thương binh bị nước cuốn phăng đi như một cái lá. Nhanh như chớp một anh lao theo, chụp lấy nhưng chỉ vớ được cái ống quần của anh bệnh, cho nên chỉ giữ được chiếc quần trong tay còn anh ta thì tuột trôi theo dòng nước.
Năm Cà Dom thét lên:
- Mau.. mau….au! Kẻo trôi mất.
Hai anh kia lao theo như Tạc-Dăng. Và sau một chặp đuổi bắt, hai anh bè ngược người bệnh về như bè một khúc chuối cây xơ xác. Có lẽ cái tai nạn làm cho bản năng tự vệ của anh ta sống dậy cho nên anh ta tỉnh hẳn lên. Anh ta bám chặt một cái rễ cây và gục đầu vào đấy . Và lại kêu:”Ối cha mẹ ơi, ối làng nước ơi!”
Năm Cà Dom chép miệng:
- Gay go nhất là cái chân gãy. Làm sao đi? Đời anh ta kể như “lúa” rồi!
Tôi không muốn nhìn cái cảnh tượng đó nữa. Tôi đi tìm củi. Bỗng Năm xem đồng hồ và nói:
- Bây giờ thì không thể đi kịp rồi. Nước lên to quá! Cứ hạ trại ở đây. Chuyến mai giao liên đi ngang mình sẽ tháp tùng.
Thế là tôi và Năm cũng mắc võng căng tăng. Và tìm cách nấu cơm, nấu cháo. Gạo thì còn chút đỉnh, nhưng làm sao nấu? Không có củi. Cũng không có chỗ bắc bếp. Năm nói:
- Anh có vẻ thư sinh quá. Gặp cái gì bất ngờ tôi thấy anh cũng lúng túng. Không sao đâu, tôi sẽ có cách!
Rồi Năm nói giọng cà rởn:
- Anh lấy con dao rừng của tôi đây. Anh leo lên cái gốc cây đó ngồi mà gọt cho tôi…
- Gọt cái gì?
- Gọt cái cây đứng đó. Gọt từng lát một như lát cam thảo của thầy thuốc Bắc vậy.
- Trời đấy! – Tôi kêu lên.
- Ừ, anh thấy công việc ghê gớm lắm, nhưng anh gọt trong một tiếng đồng hồ sẽ có đủ củi đun sôi một gà-mèn nước. Gọt một giờ rưỡi thì sẽ có củi nấu được một gà-mèn cháo búp búp. Mình sẽ nấu một gà-mèn cháo, mỗi đứa một chén, húp, chịu tới ngày mai….
Nói xong, Năm nhảy ùm xuống suối lội qua chỗ anh lính gãy chân. Anh ta còn giữ được cái lương tâm của người thầy thuốc.
Tôi làm y lời Năm. Tôi ngồi tôi gọt cái gốc cây rừng với sự kiên nhẫn của người xưa đục núi mở đường. Xong tôi lại gọt dép cao su lấy ra một ít lát để nhóm lửa. Cuối cùng tôi nấu được một gà-mèn cháo. Tôi gọi Thu dậy. Tôi múc cho nàng đầy nắp ga-men và bỏ vào đó một ít đường cát của tôi.
Thu húp xong, oà lên khóc.
Tôi ngồi lặng im. Không nói một tiếng nào, làm như tôi không quen Thu và không hề biết Thu đang khóc…
Trời tối mờ mờ. Hạt mưa bay vun vút qua mặt tôi. Gió rít ù ù như giận dữ. Những ngọn cây xoay tít, những nhánh cây vặn vẹo như những con trăn uốn mình, chực tách ra rời xuống đầu chúng tôi. Dòng nước đục lừ dầy dẫy những thân cây, những gỗ mục, những rác rêu xoáy tít. Những xoáy nước sùi bọt lên như mồm những con thủy quái đói mồi. Thỉnh thoảng lại có một thân cây to lao như một đoàn tàu hoả không phanh xuống dốc, sẵn sàng húc vào bất cứ ai.
Tôi không suy tính gì cả. Tôi cũng không muốn cử động, tôi sợ tôi biết rằng tôi là tôi và đang lâm vào cảnh tượng này.
- Uống thuốc phòng đi anh! – Thu đã dứt khóc từ bao giờ và nhắc tôi bằng một giọng còn đẫm nước mắt.
Tôi không quay lại và đáp:
- Chắc không sốt đâu. Vi trùng sốt rét phải trốn khỏi cái cảnh tượng này. Em có đỡ không?
- Còn bao xa nữa anh?
- Đi tới rồi mới biết bao xa.
- Mình phải biết là mình sẽ đi bao xa nữa chớ!
- Cố nhiên là khi đi người ta phải biết trước con đường mình đi, nhưng ở đây thì mình không thể biết thì làm sao đây?
Thu lặng im. Thu nghếch đâu lên mép võng và nhìn dòng nước cuốn. Mặt nước cuộn lên như cái lưng của con thuồng luồng nổi giận từ thời tiền sử. Đột nhiên, Thu nói:
- Em đã quyết định rồi.
- Quyết định gì?
- Em đã có lần nói với anh..
- Hừm! Em cứ thế mãi…!
- Em biết có đi cũng không đến!
Tôi lặng thinh. Thu xuýt xoa:
- Em rét quá anh ạ!
Đâu có cái gì khô? Kể cả cái ruột bật lửa. Thi làm sao mà hơ hám cho Thu. Ngồi trong tăng mà như ngồi ngoài mưa.
Tôi lục ba-lô lấy lọ cù-là quốc doanh, một thứ cù-là mà nếu người ta bôi vào mũi và trán sẽ lột da ngay. Vậy mà nó rất tốt trong lúc này. Tôi bảo:
- Để anh đánh gió cho.
Rồi không để Thu trả lời tôi bước lại võng. Thu nằm sấp lại và vén áo cho tôi. Tôi quệt ngay một mớ cù-là thật nhiều trên hai sóng lưng nàng và đưa tay chà-xát thật mạnh để tránh cho nàng cơn lạnh.
- Em thấy nóng không em?
- Lạnh lắm, anh xát mạnh vào! thế ! thế!
Trong ánh sáng hoàng hôn, trong màn mưa dày đặc, tôi đang sống trong một cơn say. Tôi ngây ngất vì mùi dầu hoà mùi da thịt nàng. Tôi muốn lập lại mỗi cử động, chà xát bàn tay tôi vào làn da trắng nuốt của nàng mà cả trong bóng tối, trong lâm nguy tôi vẫn trông thấy ánh lên, vang lên một tiếng kêu của da thịt, của dục tình.
Tôi run run hỏi:
- Em đã thấy đỡ nhiều chưa?
- Đôi chân em còn lạnh quá!
Tôi lại xoa dầu và bóp chân nàng. Tôi nắn và bôi tẩm cù là vào từng thớ thịt của nàng. Đôi chân nàng dài nằm song song trên võng như hai thỏi ngọc chẳng gợn chút bụi trần, dần dần ấm lại và nóng ran, bốc hương nồng lên.
Không biết thời gian có trôi nhanh như dòng suối?
Không biết tôi đã làm cho nàng ấm lại, hay chính nàng đã nhen ngọn lửa trong tôi?
Nàng nằm im, duỗi thẳng đôi chân mà nghe những cảm giác chạy lan khắp người. Còn tôi như một tên nô lệ tận tụy miệt mài và mong chờ ở nữ chúa một phản ứng tốt lành. Nhưng tôi lại là một bạo chúa đứng ngắm cả một đất nước đầy núi đèo tuyệt mỹ với sự thèm khát rực cháy tâm can.
Tôi đưa tay run run xoa dầu trên cổ nàng. Nhưng nàng xoay mình và từ từ đưa tay lên bấm cúc áo và hơi ưỡn ngực lên để cho cả một vầng tuyết trắng hiển hiện trước mắt tôi và đôi môi nàng khẽ mấp máy:
- Em còn lạnh quá, anh!
- Em! Tôi khẽ kêu lên và tôi cảm thấy tôi khỏe hơn bất cứ lúc nào.
Tiếng giây võng nghiến dưới một sức nặng gấp đôi. Nàng tỉnh hẳn ra. Nàng trăn trở trong tay tôi. Nàng nức nở. Nước mắt của nàng nhiều hơn nước suối đang dâng.
Ngoài trời vẫn mưa. Dòng suối phình to lên rồi tràn trề…


CHƯƠNG 35


Năm Cà Dom bơi trở về, vừa ho vừa khạc. Năm vuốt mặt và kêu lên:
- Nguy quá! Gãy hết một cái xương bắp chân. Chịp! Nằm lại đây thôi. Đi đâu nữa mà đi?
Tiếng anh binh sĩ gãy chân rên rẫm lúc to lúc nhỏ, như một tiếng kêu của một oan hồn. Anh ta kêu bố kêu mẹ, rồi kêu làng nước, anh ta kể lể chuyện khiêng nòng pháo nặng như thế nào, nó đè anh ta suýt gãy xương sườn mà cấp chỉ huy không cho nghĩ và lần này thì gãy chân.
Năm Cà Dom gọi tôi:
- Ông bạn văn sĩ này!
- Có tôi đây.
- Ông bạn đi trên còn đường này thấy rất nhiều điều phải không?
- Tất nhiên!
- Ông bạn kể tôi nghe một điều xem.
- Chính bản thân ông bác sĩ Năm Cà Dom là một điều rất hay ho.
Năm Cà Dom phá lên cười và đập vào võng nghe phành phạch:
- Đúng! Đúng chính là cái việc tôi về tới đây được là cả một sự đời. Này ông bạn à! nhiều khi mình chửi bới tục tằn mình thấy cũng ngượng, nhưng mình không thể dùng văn hoá mà phải xài “giấy năm trăm” mới thoả mãn!
Tôi hỏi lại:
- Còn anh, anh phải kể cho tôi nghe một điều chớ?
Năm Cà Dom cười hắc hắc và nói ngay:
- Chánh phủ sẽ có nguồn lợi to sau khi hết xài con đường này. Anh biết không? Mỗi bộ xương bán cho Viện Giải Phẩu 650 đồng chẵn chòi. Mà trên đường này thì riêng tôi, tôi cũng đã thấy đến ba bộ… và chung quanh đây, như anh nói, cũng có ít nhất ba bộ…
- Tôi cũng có gặp một bộ. Và đặc biệt có một bộ xương Mỹ. Xương Mỹ chắc bán giá khá hơn.
- Sao anh biết là xương Mỹ?
- Vì nó còn sống nhưng chắc chắn nó sẽ rủ xương trong cái củi giam nó.
Năm Cả Dom nói:
- Tôi không cần thấy như anh tôi cũng biết. Đặc điểm của xương Mỹ là to và dài như xương trâu xương bò.
- Anh so sánh tàn nhẫn thế!
Năm Cà Dom cười:
- Tựu trung con người cũng chỉ là một con vật đi hai chân thôi, nhất là trên con đường này!
Đêm sâu hun hút. Tiếng nước đổ từ trên nguồn ầm ì nghe xa lơ xa lắc như một kỷ niệm vùi lấp trong sương mù. Tiếng nước đổ như dội vào tâm tư tôi, như gội sạch cho tôi những bụi bặm ưu phiền của một chặng đường, của suốt một con đường qua.
Cái tấm mộ bia của anh chàng “bệnh tư tưởng”, hai bàn chân lòi ra dưới mô đất, cái bộ xương trong hốc đá, và đây nữa cái giá súng tổ tam tam với ba khẩu AK, mỗi một cái hình tượng đó là một cây số dựng lên trên đường tôi đang đi, và đứng sừng sững trong đầu tôi.
Bên cạnh tôi, Thu nằm im. Anh bác sĩ vui tính thì cứ trở mình, võng cứ khua sột soạt. Còn tôi như một tín đồ bất đắc chí đang mượn cái cảnh mưa gào thác đổ mà sám hối lại bản thân mình.
Tôi tự thú nhận với tôi rằng tôi đã nản chí, tôi không còn muốn phấn đấu nữa. Tôi muốn làm một chiếc lá trên dòng suối cuồng dâng này. Tôi nhớ lại lời của Lâm một chiều mưa. Câu nói ấy thỉnh thoảng lại vang lên trong tâm trí tôi. Bây giờ, cùng với cái tình huống nguy ngập này, nó lại trở lại với tôi như một người bạn, như một kẻ thù, như một sự ve vuốt, như một lời hăm doạ.- “Lần đầu tiên tao cảm thấy tao đi không đến nơi”.
Đối với tôi hôm nay, đây không phải là lần đầu tiên tôi cảm thấy điều đó. Mà điều đó là cái điều tôi cảm thấy thường xuyên mỗi khi tôi ăn cơm, mỗi khi tôi lên cơn sốt. Nhưng tôi cũng tự bảo tôi: có chết hãy chết ở nơi gần Sàigòn nhất. Với cái phương hướng đó, tôi cố lê thân xác tôi nhích tới từng trạm một.
Nhưng đến đây, bên bờ con suối đầy dẫy những đau thương vô lý, tôi lại cảm thấy tôi góp vào đó một sự đau thương và vô lý bằng cả cái con người tôi.
Các bạn người Nam ơi, ai đã từng sống trên đất Bắc những năm dằng dặc mưa phùn gió bấc ngồi trong nhà nhìn ra ngoài trời thấy bóng núi mịt mù trong mưa mà không nhớ quê hương ruột đứt ra từng đoạn. Ai sống trên đất Bắc mà chẳng mong ngày về Nam dù biết mình không về đến nhưng cũng cứ đi về. Như ông Chín, như ông già Noël kia, như biết bao nhiêu người nữa. Cứ đi, dù có chết, cũng chết trên đường về.
Bây giờ thì tôi biết rằng tôi khó lòng mà về được quê nhà trên mặt đất, vậy thì tôi hãy cho phép tôi gửi tâm hồn tôi vượt qua cảnh tượng hãi hùng này mà về thăm quê hương trong tơ tưởng, trong ký ức của tôi.
Bất giác tôi đưa tay vuốt nước trên trán như muốn lau sạch bụi bặm trên tấm gương kỷ niệm để cho tôi nhìn lại những hình ảnh xa xưa và thân yêu nhất, như những hình ảnh sau cùng.
Mái nhà, bờ ruộng với những hàng trâm bầu râm mát trưa hè. Và đây rồi,cái kỷ niệm sâu sắc nhất của cậu học sinh trường làng. Trên con đường đá xanh đầy ổ gà từ làng lên quận, một chú ngựa còm kéo chiếc xe ọc ạch với lão già đầu bạc cầm con roi nẹt đen đét trong không khí.
Không hiểu sao mỗi lần tôi nhớ tới quê tôi thì tôi lại bắt gặp cái hình ảnh ấy. Chiếc xe ngựa quá thân thuộc với tuổi thơ của tôi. Từ lúc chú ngựa hãy còn tơ sung sức, đã từng oanh liệt đuổi theo xe hơi cho đến ngày chú ngựa gầy yếu đi, cam chịu cho chúng bạn lướt qua mặt mình, tôi vẫn đi chiếc xe ấy.
Rồi cho đến khi chú ngựa kiệt sức, lão già đem treo một mớ cỏ non trên đầu cần câu buộc dọc theo gọng xe để khuyến khích chú ngựa chạy nhanh lên, tôi cũng không đi chiếc xe nào khác.
Một hôm tôi nói với lão già:
- Sao bác chơi chi ác vậy?
Lão già chỉ cười, cái cười thoả mãn của một người thi hành một quỷ chước thành công.
Vì là khách quen cho nên một hôm tôi được chứng kiến một cảnh não nùng. Hôm đó chiếc xe sắp về tới chợ. Cái dốc cầu quá cao. Lần nào về đến đây lão già cũng hò hét nẹt roi vang trong không khí. Lần này cũng thế. Chú ngựa bỏ vó rầm rập xuống mặt đường đá xanh, toé lửa, cố lôi chiếc xe lên đến nửa dốc. Bỗng nó bỏ vó lơi hẳn đi. Mớ cỏ non đang nhảy múa tung tăng trước mặt nó bỗng lắc lư như quả lắc đồng hồ.
Lão già vừa nẹt roi, vừa quát, nhưng chiếc xe sựng lại rồi tuột dốc.
Lão già vội nhảy xuống đất, cắn chiếc roi vào mồm và hai tay bắt bánh xe lăn tiếp với con vật.
Nhưng chiếc xe quá nặng và đằng sau chiếc xe còn có cả hằng chục năm lao lực, cho nên lão già dù có tài cán mưu kế đến đâu cũng không đẩy nổi chiếc xe và con ngựa già kiệt sức của lão lên dốc.
Chiếc xe tụt dần và bỗng đánh rầm một cái, chiếc xe lật ngang qua. Lão già chạy vụt tới nắm lấy cái hàm thiếc của chú ngựa lôi nó đứng dậy, nhưng chú ngựa đã ngã xuống, bốn vó bơi lia, cùng với hai bánh xe quay tít trong không khí.
Lão già vội vã rứt lấy mớ có non đã héo ở ngọn cần câu nhét vào mồm con vật đã sùi bọt lên trắng xoá, và thân mật bảo:
- Ăn đi,ăn đi con, là khoẻ ngay!
Con vật như nghe thấy lời nói ân nghĩa đó của lão chủ, nó cố há mồm mà nhận lấy cái phần thưởng độc nhất của đời nó trước khi nó trợn đôi mắt lên mà nhìn lão chủ… lần cuối cùng.
Con ngựa khổ đã chết lâu rồi. Và lão già cũng đã qua đời vì bệnh hoạn và không còn phương tiện để sinh sống.
Nhưng cái mớ cỏ non vẫn còn nhảy múa trước mặt tôi mỗi khi tôi nhớ lại chiếc xe ngựa chạy trên đường làng. Cái mớ cỏ non treo trước mắt đó, mà tội nghiệp, chú ngựa chạy hoài không đến. Ngày nay trên con đường đầy ổ gà đó chẳng biết còn có chú ngựa con nào chạy theo mớ cỏ non như vậy nữa không?
Chao ôi! Sao giữa cảnh hãi hùng này mà tôi nhớ lại một chuyện buồn làm chi vậy?
Tiếng rên rỉ của anh lính gãy chân làm cho tôi chợt nhớ ra rằng mình đang nằm bên bờ một con suối lũ.
Trời vẫn mưa. Nước đã dâng lên sát đít võng tôi.
Gió hú trên những ngọn cây cao như bước đi của những đám cô hồn tìm chỗ nghỉ chân.
Một nhánh cây thò vào trước đầu võng của tôi chập chờn như một mớ cỏ non nhún nhay. Nếu quả thật đó là mớ cỏ non thì đây chính là chiếc xe đã gãy đổ dọc đường.
Lạ thật những chuyện mới xảy ra hôm qua thì tôi cứ thấy nó mờ mịt xa xưa như hàng chục năm qua. Còn những việc cách đây mấy mươi năm thì tôi lại cứ tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua.
Tôi cũng không muốn phân biệt cái đã qua và cái hiện tại. Mà tôi cũng không dám nghĩ tới ngày mai. Ngày mai của tôi ư ? Trên đường Trường Sơn này hay ở đâu mà con đường này dẫn đển, dù trái đất có xoay, dù trời mưa hay trời nắng thì cái ngày mai đó cũng là sự lập lại của ngày nay và của ngày hôm qua.
Tôi nghếch đâu lên mép võng, giương mắt cố nhìn ra ngoài. Trời mưa đen đặc thấy gì đâu!
Ôi chao, con đường với những chặng đường…Ở phía sau lưng tôi, cái mộ bia của anh binh sĩ bên cạnh hai bàn chân thòi ra mô đất và cái bộ xươong trong hốc đá lẫn lộn tới chiếc xe chỏng gọng với hai bánh quay tít và bốn vó con ngựa chòi đạp trong không khí. Còn phía trước mặt tôi thỉ chỉ là… Và….


Sàigòn, hè 1973

XUÂN VŨ

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...