. .

Thursday, March 19, 2009

Ngày Long Trời Đêm Lở Đất (tiếp theo)

CHƯƠNG 38
NGƯỜI VÔ HÌNH
Thầy lại nằm yên, trông đợi trời sáng.
Trời sáng, một ngày tới, con người quanh ta họ lại thức dậy và làm những việc thường ngày. Trong đó có cái việc quan trọng nhất mà họ phải hoàn thành và hoàn thành vượt mức, ấy là đánh đổ giai cấp địa chủ, tiêu diệt bọn Việt gian phản động bằng tất cả ngón đòn hóc hiểm, trò chơi man rợ nhất mà họ moi tìm, nhào nặn ra từ trong đầu óc. Phải giết người làm sao đây để cho thoả cái khoái cảm của lòng hận thù, ganh ghét giai cấp mà Trời đã ra lệnh, Đội đã phóng tay, ban cho họ cái quyền tự do vô hạn độ!

Nghĩ tới chuyện vợ chú Lê Trạch Đông tố bà nội con, mà cũng là mẹ của thím ấy chứ còn gì, đang đêm một mình mò ra giếng làng, cởi quần, chổng mông đít, ngồi xổm, ỉa phẹt xuống giếng mấy bãi liền để cho cả làng phải uống nước cứt. Rồi nghĩ sang chuyện vợ chồng Cò Toe được y tá Toành mớm cho, tố thầy đã nhét cái lưỡi cưa vào ruột thằng cu con… để đến nỗi thằng bé lăn đùng ra chết ngay… Thầy phải lắc đầu bái phục chịu thua cái trí tưởng tượng phong phú cực kỳ của các ông bà nông dân ta!
Các chuyện cổ tích hoang đường, tiếu lâm nực cười xưa nếu đem so sánh với những chuyện đấu tố thời bây giờ, nói như chàng Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng là “chẳng nước mẹ gì”.
Không nhịn được, tự nhiên thầy phá lên cười.
Tiếng cười vang lên trong phòng giam giữa đêm khuya làm chính thầy cũng giật mình.
Vỹ ơi! Anh hoá điên rồi sao? Ừ, tôi đang điên đây. Là con người đôi lúc cũng dễ hoá điên lắm, nhất là sinh ra ở cái đời này!
Thầy dỏng tai, rán sức nghe. Không ai hay biết gì cả. Chỉ có tiếng mọt nghiến từ tấm ván cửa đàng sau buồng giam. Giữa đêm khuya nghe rõ mồn một, lại có vần có điệu như tiếng nhai rồn rột, trèo trẹo, vỡ vụn một khúc xương từ hàm răng của con chó, con gấu… Hay chính con người chúng ta?
Ngày mai đây, 27 tháng Chạp năm Ất Mùi 1955… thầy linh cảm rằng Mai Duy Vỹ sẽ không còn nữa, hay nói cho thật đúng và chính xác hơn, Mai Duy Vỹ sẽ chết. Người ta sẽ giết hắn để cho tất cả mọi người ở quanh đây, khắp cả Nga Sơn Thanh Hoá được sống. Riêng những người như các ông Đông, Toành, Xoa, Toe… và mấy ông bà Đội, đặc biệt ông Đội trưởng, người Nam Đàn, nói tiếng Nghệ thì không chỉ được sống thôi mà còn được giết. Giết! Giết!
Ngày mai đây, tiếng con mọt nhai nghiến kia lại vẫn rồn rột, trèo trẹo vang lên trong đêm khuya. Không chỉ thế thôi đâu, còn nhiều con khác nữa, chuột, mối, bọ sẽ gậm nhấm khoét đục Mai Duy Vỹ này, đùn đất lên, khỏa vùi nỗi đau một thời của dòng họ Mai cùng năm tháng.
Thầy muốn sống, các con ơi, thầy muốn sống! Ai lại đi bắt một con người vô tội phải chết ở tuổi 36! Trời Đất ơi! Hãy cho tôi sống để tôi nuôi các con nhỏ, báo hiếu đền ơn cha mẹ! Bà con ơi! Các đồng chí ơi! Tôi vô tội! Hãy để cho Mai Duy Vỹ được sống để Vỹ chữa bệnh cho dân nghèo, báo đền công ơn các đấng tiên liệt! Oan cho con lắm, Bác Hồ ơi! Oan cho tôi lắm, anh Trường Chinh ơi!
“Vỹ!”
Một tiếng thét đập vào tai, ngay trước mặt làm thầy giật mình, sững người.
“Sao đồng chí hèn nhát thế?”
Thầy ngước nhìn phía trước. Căng mắt tìm xem trên nền tối của màn đêm có hình bóng ai hiện lên không? Lại cũng muốn ngoái sang bên, quay ngoặt lại đằng sau… nhưng cái cổ đã cứng ngắc như hoá đá.
“Đồng chí Vỹ! Thử nhớ lại xem nào…” - Tiếng nói bớt gay gắt, có phần ôn tồn. - “Thử nhớ lại xem… Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Lý Tự Trọng… đã nói những gì với kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của giai cấp trước lúc ra đi. Ánh mắt của họ đã nhìn thẳng vào Cái Chết như thế nào? Mới đó thôi, chưa tới 15 năm… Vậy mà sao bây giờ đồng chí lại có thể đớn hèn, tham sống sợ chết thế nhỉ?”
Thầy chới với trước một đợt sóng ngầm xô tới, ào lên, bật ngửa. Là một tay bơi vào loại khá thế mà mình bỗng nhiên trở thành người không biết bơi, cứ thế chìm xuống, chìm xuống…
“Không! Không mà!… Cho tôi nói” - Thầy ú ớ la lên - “Tôi đâu có đứng trước kẻ thù… Bà con nông dân, Đội Cải cách… các anh em, đồng chí… những người tôi xin được cúi đầu, tuân thủ, phục vụ. Chính họ coi tôi, Mai Duy Vỹ, là kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của giai cấp đấy chứ! Giả dụ đế quốc Pháp có bắt được tôi, giam giữ tra tấn, đem tôi ra pháp trường xử bắn, như Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn thụ… tôi tin rằng mình cũng có được sự dũng cảm, kiên cường… nếu không 10 phần, thì ít ra cũng được ba bốn năm phần như các đồng chí ấy. Trước lúc ra đi, lòng dẫu đau đớn thương vợ nhớ con, tôi vẫn có đủ sức mạnh bình tĩnh nhìn vào Cái Chết! Tôi không có kẻ thù! Tôi không phải là kẻ thù!”
Thầy uất nghẹn, muốn thét lên.
Một vệt sáng đi ngang qua. Hòn lửa đỏ nhấp nháy chập chờn. Hình như Ai đó? Người-vô-hình nào đang lởn vởn mờ tỏ đằng trước mặt?
“Vậy kẻ thù là ai?” Tiếng Người-vô-hình đay lại có phần gay gắt không khoan nhượng.
“Tôi không phải là kẻ thù! Thế thôi!” - Thầy lắc đầu, dằn giọng.
“Anh cho rằng mình không phải là kẻ thù thì… chính anh đã là kẻ thù!”
“Ủa? Sao vậy?”
Người-vô-hình nói thủng thẳng từng tiếng nghe như đọc bài:
“Lịch sử của loài người từ khi có giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp.
Từ khi xã hội loài người phân chia ra giai cấp là từ đó sinh ra kẻ thù. Giai cấp bóc lột là kẻ thù của giai cấp bị bóc lột. Và ngược lại… Ai cũng trở thành kẻ thù của ai hết! Không ai là không có kẻ thù, và không ai không phải là kẻ thù. Và tôi đây này, tôi cũng là kẻ thù của chính tôi! Hiểu chưa?”
“Vâng. Nhưng mà…”
“Nhưng mà cái chi? Hử? Hạnh phúc là đấu tranh!”
“Đồng ý. Có đấu tranh mới có hạnh phúc…”
“Cho nên, đấu tranh ban ngày chưa đủ, phải đấu tranh cả ban đêm. Làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm. Lao động sản xuất, giết giặc…”
“Đồng ý”.
“Ngay cả ban đêm, nhắm mắt rồi trong giấc ngủ cũng phải… đấu tranh!”
“Dạ. Vì sao thế ạ?”
“Kẻ thù nó chui vào, ẩn khuất ngay trong giấc ngủ, không phải thế sao? Chẳng hạn, đồng chí mơ thấy mình ăn no mặc ấm, vợ đẹp con khôn, không phải làm chi cả mà thóc lúa đầy bồ, chết đi rồi còn được lên Thiên Đàng, về Niết Bàn… Không phải là kẻ thù nó len vào, nó xui khiến bậy bạ hay sao? Kẻ thù nó xúi mày làm những điều ác hại như cưa tay, chặt chân, bỏ lưỡi cưa vào bụng, tiêm thuốc độc vào người các ông bà, anh chị nông dân… cho nên mày là kẻ thù đứt đuôi của giai cấp nông dân, anh em bần cố, Quân Chủ lực… rồi chứ còn gì! Còn cãi nữa không?”
“Nhưng mà…”
“Nhưng… nhưng cái con khỉ! Vẫn chưa thông hả?”
“Nhưng… nói như vậy hoá ra trước khi xã hội loài người phân chia giai cấp thì kẻ thù có rất ít hoặc gần như không có. Còn từ khi phân chia giai cấp tới nay thì nẩy sinh ra không biết bao nhiêu là kẻ thù! Con người đang từ chỗ vô tư, nhân hậu, bỗng nhiên trở nên xấu tính: dòm ngó, xét nét, ganh ghét, cấu véo, đâm chọc, đánh lộn, bắn giết nhau… Có phải thế không ạ?”
“Ừ… thì nói nữa đi”.
“Con người mang tính giai cấp rồi cũng ảnh hưởng tới loài vật… Chẳng hạn như con chó. Trước đây, con chó nào cũng là con chó. Nghĩa là, ở với con người thì ban ngày sủa gâu gâu để cho chủ biết có người qua đường hoặc vào nhà, ban đêm ăng ẳng kêu to để chủ hay rằng trời vẫn còn tối và Ông Trăng đang còn mắc trên ngọn cây đang chờ Bà Trời lên gỡ thoát ra…
Nghĩa là, cùng với con người, chó ta rất hồn nhiên, vô tư!
Nhưng từ khi con người phân chia giai cấp rồi, bắt đầu cấu véo, uýnh lộn, bắn giết nhau thì loài chó tự nhiên cũng thay đổi cách nhìn, lối sống đối với nhau. Con chó nhà này bắt đầu ganh ghét với con chó nhà bên kia. Tại sao mình gầy gò, xấu xí như ri mà hắn ta thì béo tốt mượt mà như rứa? Vì cớ chi mà mình thì một miếng cơm vãi, cơm rơi trông chờ mỏi cổ lắm khi cũng nỏ có, còn phải kiếm thêm bãi phân, cục cứt; tranh nhau đớp cắn mổ rỉa cùng với con gà thằng mèo… Còn hắn thì sao, cơm thừa canh cặn chẳng thiếu, thỉnh thoảng còn được bồi dưỡng thêm cục xương heo, xương bò to tướng, gân thịt còn đeo bám tua tủa, ngoạm đưa vào xó ngồi gặm cả buổi cũng chưa hết…
Bởi thế cho nên, đôi khi ta vẫn thường thấy ngoài ngõ, trên đường có những con chó đè nhau ra, cắn nhau chí tử. Một hai con cắn nhau đâu đã xong, tự nhiên nhiều con khác xuất hiện ở đâu trong các ngõ xóm, hóc hẻm… chạy ra, chúng cũng chia làm hai phe rõ rệt, nhập vào liên kết với hai con chó kia, nhảy chồm lên nhau, cắn xé nhau cho đến khi nào tơi tả da thịt, sứt mõm, long răng… rồi mỗi con chạy đi mỗi nơi, mà vẫn không sao hiểu được vì đâu lại xẩy ra trận đại chiến, cuộc đấu tranh giai cấp khủng khiếp, quyết liệt như vậy?”
Thầy dừng lại, giữ ý. Cứ tưởng u mặc (humour) một chút cho vui, có khi chạm nọc hắn lại nổi điên lên, nhưng không, Người-vô-hình lại còn pha trò góp vui thêm.
“Thế còn trường hợp như ta vẫn thường gặp, hắn nói, một con chó và một con cầy, hai con chổng đít lại nhau, ngoắc ngoéo đuôi nhau, làm cái trò gì mà dù người ta có lấy đá ném vô đầu, dùng gậy nện vào sống lưng, hoặc cầm dao rựa chặt một phát xuống giữa… hai cái nớ, thì… hai đứa, à hai con, vẫn cứ đoàn kết, kiên quyết không chịu ly khai, buông rời nhau ra! Theo đồng chí, hiện tượng đó biểu hiện bản chất gì?”
“Tôi chưa dám đánh giá và cũng không quen kết luận về cái gọi là bản chất, tuy nhiên về hiện tượng, theo tôi, ta có thể gọi đó là sự đồng cảm giai cấp, mối giao hoà giai cấp hoặc khối liên minh giai cấp…”
“Chưa chắc! Hiện tượng và bản chất dù không thể lúc nào cũng đánh đồng lại làm một, tuy nhiên vẫn không thể tách rời hai cái đó ra… Hai cái con đó, chúng nó chắc gì đã mang bản chất giai cấp giống nhau, thành phần giai cấp giống nhau? Phải truy tìm cho ra thành phần giai cấp, lý lịch ba đời của chúng…”
“Ba đời thôi ư? Theo tôi vẫn chưa đủ. Phải bốn năm đời trở lên ta mới tạm gọi là nắm được bản chất giai cấp của từng người: Lịch sử nhân loại, lịch sử đấu tranh giai cấp đã trải qua cả mấy ngàn triệu năm kia mà!”
Thầy khẽ cười. Hắn im lặng. Có vẻ như đồng ý mà lại cảnh giác.
“Đã nói đi nói lại rồi! Vấn đề quan trọng nhất vẫn là giai cấp và đấu tranh giai cấp.” Giọng hắn lại trở nên khô queo và lạnh lùng. “Không thể, dù là một phút, mà buông lơi quan điểm giai cấp, chao đảo đứng không vững trên lập trường giai cấp. Có đấu tranh giai cấp thì xã hội mới phát triển được. Phải đẩy đấu tranh giai cấp lên tới đỉnh tột cùng! Và đây là trận cuối cùng…”
Rồi Người-vô-hình nói như hát:
Đây là trận cuối cùng sẽ thắng
Đè bẹp quân thù đế quốc!
Chúng ta không xa rời!
Quyết không bao giờ xa rời!
Đảng là đội ngũ của giai cấp tiên phong!
…Đây Liềm Búa vung lên nhằm vào đánh cho quân thù nát tan.
Chúng ta bao người quyết không xa rời
Đảng Cộng sản mến yêu. 

Ai đi tiên phong giành cơm áo cho dân?
Ai đứng lên lãnh đạo được toàn dân đấu tranh
Cung sang tang! Củng sản tàng…
Cung sản tàng! Giai cấp tiền phong!
Trong người tự nhiên thấy phấn khởi, lâng lâng… thầy cũng hai ba nào… vỗ tay lấy nhịp, đệm theo cho hắn hát… Hắn dừng lại đột ngột, dò xét.
“Trận cuối cùng này. Hắn dằn giọng, nói to. Dù có phải hy sinh, đổ máu đến một phần ba nhân loại cũng phải quyết tâm chiến đấu và… hoàn thành!”
“Đồng ý! Quyết tâm!” Thầy hùa theo một cách chân thành ngây thơ. “Xin được phép hỏi đồng chí… Sau trận cuối cùng sẽ thắng, và chắn chắn sẽ thắng cả trăm phần rồi, xã hội loài người sẽ tiến lên… tới đâu?”
“Cộng sản chủ nghĩa, chứ còn gì nữa!?” Hắn nói nghe như gắt.
“Tiến lên Cộng sản chủ nghĩa rồi thì khi ấy… xã hội loài người có còn giai cấp nữa không?”
“Không! Xoá sạch hết giai cấp!...”
“Thế còn đấu tranh giai cấp?”
“Hết! Hết giai cấp đấu tranh! Còn giai cấp nào nữa mà đấu với tranh!”
Thầy cười. Hắn cũng cười.
“À… mà vẫn còn đấu tranh chứ? Đấu tranh với ai, biết không? Đấu tranh với Thiên nhiên. Phải làm chủ Thiên nhiên. Bắt Thiên nhiên phải mưa nắng theo ý của con người chúng ta! Không được bão lụt, hạn hán, động đất, sóng thần lung tung…”
“Phải trèo lên đầu, cỡi lên cổ Thiên nhiên… Nhong nhong ngựa ông… Nếu Thiên nhiên không chịu nghe lời làm theo thì đè xuống, ngồi lên lưng, bóp dái… Cấm không được kêu. Hà hà. Nếu mày không chịu làm theo tao, thì tạm thời tao cứ vắt đất ra nước thay trời làm mưa, nghiêng đồng đổ nước ra sông cái đã! Có phải thế không ạ? Thưa đồng chí…”
Người-vô-hình chững lại. Hắn cảm thấy ta và hắn, hắn và ta hình như cả hai đều đã ít nhiều buông lơi quan điểm giai cấp, đi chệch ra hơi xa đấu tranh giai cấp, bèn quay trở về tư thế cũ, lên giọng huấn thị răn đe ngay:
“Này, ta báo cho ngươi hay. Từ nay cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh cuối cùng, giai cấp vô sản thế giới, quần chúng công nông binh, nông dân Quân Chủ lực chúng ta… có rất nhiều kẻ thù và phải tiêu diệt cho kỳ hết những kẻ thù đó! Giết! Giết! Giết hết!”
“Đồng chí nói… con số đến cả một phần ba nhân loại kìa mà!”
“Không có đùa! Một phần ba chứ hai phần ba cũng phải … giết! Mày nằm trong con số đó…”
“Nhưng… tôi đâu có phải là kẻ thù!”
“Đã nói đi nói lại rồi! Ai cho rằng mình không phải là kẻ thù thì chính hắn là kẻ thù!”
“Sao lại thế?”
“Ai tự cho rằng mình không có kẻ thù thì chính hắn trở thành kẻ thù của tất cả mọi người! Bởi cớ sao? Bởi vì cái tên đó, là mày chẳng hạn, suốt đời có bao giờ đấu tranh bảo vệ cho ai đâu… cho nên cứ tưởng là mình không có kẻ thù. Tại mày ngu ngơ không biết đó thôi, chán vạn kẻ căm ghét mày, coi mày là kẻ thù của họ. Có đúng không?”
Thầy bắt đầu cảm thấy chờn chợn, rờn rợn trước cái lý lẽ ghê gớm, chết người đó.
“Nhưng… Tôi đã một đời yêu thương, quý trọng, cứu giúp nhiều người!…”
“Xì! Mày đã từng làm công chức cho Pháp, ăn lương của Tây… Đế quốc thực dân, địa chủ phản động, công giáo tay sai của Pháp, Việt gian bán nước cho Tây… Mày cũng thương yêu, cứu chữa, giúp đỡ… chúng nó? Hử?!”
“Đâu có!” Thầy cảm thấy đuối hơi, chới với.
“Này, hãy nghe ta hát khúc ca này. Nghe! Chúng ta thề phá tan quân thù: thực dân, đế quốc, sài lang với phe phản động ta đập tan à hoang!… Kết đoàn! Chúng ta là sức mạnh! Kết đoàn chúng ta là sắt gang! Đoàn kết ta bền vững! Dù sắt hay là gang. Dù sắt hay gang còn kém bền vững!… Cái bài ca hay nhất mà Bác Mao và Bác Hồ, cả hai Bác đều rất thích, mày lại còn không biết hay sao, hở Vỹ?”
“Vâng, tôi cũng biết hát và thuộc lòng bài Đoàn Kết đó, nhưng mà…”
“Chẳng nhưng chẳng mà cái gì hết! Đế quốc, phản động… Chúng nó là kẻ thù! Chúng ở đâu mày biết không? Ở bên Tây, ở ngoài mặt trận và ở ngay… trong mỗi một cái thằng như mày. Đúng chưa? Mày đã từng học tập chính trị, chỉnh huấn… còn lạ gì nữa, biết tỏng tòng tong rồi, thực dân đế quốc, Việt gian phản động… chúng nó nằm trong tư tưởng, ăn sâu vào tác phong của mày!”
“Vâng, tôi hiểu, và tôi đã thành khẩn bộc lộ ưu khuyết điểm, phê và tự phê và tôi đã lột xác cải tạo, tẩy rửa… làm theo đúng yêu cầu của Cách mạng, của Đảng…”
“Xì! Mày thì chỉ có khuyết điểm, làm chó gì có ưu điểm? Hử? Đã là địa chủ phản động thì chỉ có cấu kết làm tay sai cho đế quốc chứ làm sao tẩy rửa, cải tạo, lột xác nổi! Hử! Mày là kẻ thù! Chính mày là kẻ thù một trăm phần trăm của nông dân, của dân tộc! Hiểu chưa? Còn chối cãi nữa hay thôi?”
Lạ thật! Tự nhiên thầy thấy mình thiểu số, nhỏ bé đến vô cùng tận. Cái Người-vô-hình này do Bác Mao đẻ ra, rồi ai đó kéo lôi vào đất nước mình là hoàn toàn có lý và đúng đắn. Thế gian này ngập ngụa, chen chúc những kẻ thù. Con số một phần ba là chưa đủ, e chừng có khi hơn. Thầy đã học lịch sử Cách mạng Pháp. Đâu chỉ có vợ chồng Louis 16, nhà bác học Lavoisier… mà rồi đến cả Robespierre, người đã làm cho nhiều cái đầu rơi xuống, đến lượt cuối cùng là mình rồi cũng… “porter sa tête sur l’échafaud”. Rơi đầu!” Cái đầu con người ta quan trọng là thế rồi có lúc cũng phập một phát, sật một cái… cắt đi, rời ra, rớt xuống… như củ khoai sọ! Người-vô-hình có lý lắm. Mai Duy Vỹ thì đã là cái gì đâu!
Thầy ngây thơ hỏi:
“Dạ, nếu vậy thì… Trong gia đình, cha mẹ, con cái, anh em, bà con… có là kẻ thù của nhau không? Thưa đồng chí…”
“Trước khi trả lời mày, ta muốn xác định rõ: Ta không có đồng chí, đồng rận gì với mày hết! Mày là kẻ thù kia mà! Đã nói rồi, lại quên sao?”
“Nhưng mà…” thầy nói ngay để cho hắn không kịp ngắt lời. “Đồng chí, đồng rận gì gì nữa, rồi cũng có lúc trở thành kẻ thù của nhau! Điều ấy có lẽ… là không sai”.
“Ừ… ừ… thì…” Hắn lưỡng lự. “Thì cứ gọi là đồng chí cho nó xong. Cũng không sao! Đó là cái lối xưng hô tiện lợi nhất của thời đại chúng ta!”
Tự nhiên hắn dịu giọng:
“Đồng chí nhắc lại câu hỏi vừa nêu ra…”
“Trong một gia đình thì ông bà, cha mẹ, anh em, bà con… có là kẻ thù của nhau không?”
“Sao lại không nhỉ? Gia đình là một xã hội thu nhỏ. Xã hội có đấu tranh giai cấp thì gia đình cũng có đấu tranh giai cấp. Không đấu tranh thì gia đình làm sao củng cố được khối đoàn kết liên minh vững bền? Vợ phải đấu tranh với chồng. Chồng phải đấu tranh với vợ… Con cái phải đấu tranh với cha mẹ! Ấy là chuyện thường ngày trần tục. Còn trong đấu tranh chính trị thì vấn đề giai cấp được ưu tiên, đặt lên trên hết! Lúc bấy giờ, quan hệ trong gia đình là quan hệ giai cấp. Nghĩa là không phải chồng bảo gì vợ cũng phải tuân theo; cha mẹ nói gì con cái cũng phải nghe theo! Phải đấu tranh chống lại tư tưởng phong kiến, tàn dư bóc lột trong đầu óc họ. Và khi cần, phải tố cáo những hành vi phản động, chống phá giai cấp trước quần chúng, trước Đảng! Lúc bấy giờ, dù chồng mình đi nữa thì vẫn cứ là kẻ thù. Vợ phải đấu tố chồng! Dù cha mẹ mình đi nữa cũng vậy thôi, là kẻ thù, con cái phải đấu tố cha mẹ! Dĩ nhiên, muốn đấu tranh thì phải tố giác. Nói gọn và rõ hơn là muốn đấu thì phải tố! Đấu tố! Đấu tố! Và… đấu tố!”
“Đồng chí nghĩ gì khi dân gian người ta nói: “Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con!… Anh em, như thể tay chân…”
“Xì! Chuyện cũ xưa rồi! Cha mẹ sinh chúng ta ư? Đúng vậy. Nhưng khi họ nuôi chúng ta lớn lên rồi, chúng ta lại thuộc về Giai cấp, về Đảng. Tổ quốc, Đồng bào là trên hết! Cha mẹ sinh con ra, nuôi dạy đến khi chúng nó lập gia đình, sinh con cái… rồi chúng nó cũng thành cha mẹ. Nếu nói cha mẹ là trên hết thì ông bà là bố mẹ đẻ ra cha mẹ, lại còn phải đặt lên trên nữa, rồi còn cố kí, cụ kị đẻ ra ông bà… thì sao? Cái này trên cái nọ, cái nọ trên cái kia, cái kia trên cái nớ, cái nớ trên cái í… Cái kiểu sắp xếp ngôi thứ như thế chính là mầm mống sinh ra, nền nếp tạo dựng thành chế độ phong kiến! Cực kỳ nguy hiểm! Trung với Nước hiếu với Dân, thế là quá đủ! Khỏi phải khen chê, trách móc nhau. Đó là tiêu chuẩn sáng giá nhất để xếp loại Đạo đức của con người!”
Hắn lại cao giọng ngân nga như hát:
“Vợ chồng lấy nhau ư? Thì đó là sự kết hợp tự nhiên giữa hai Cái Con, hai giống Đực Cái. Cũng tốt thôi! Chẳng có vấn đề gì! Tuy nhiên cũng phải điều tra lại ba đời, đánh giá bản chất, đề ra phương án hành động cho từng trường hợp theo quan điểm giai cấp đúng đắn.
Chẳng hạn, nếu hai vợ chồng cùng xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ bần cố thì vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ còn là củng cố, xây dựng khối đoàn kết liên minh, vậy thôi. Nhưng nếu xuất thân từ hai thành phần khác nhau, thì phải cương quyết đấu tranh giai cấp đến cùng để phân loại nhau, và nếu cần thì… loại bỏ nhau! Lấy ví dụ, vợ xuất thân từ thành phần bần nông, trung nông lớp dưới mà chồng là địa chủ phong kiến thì dứt khoát vợ phải đấu tố chồng đến cùng!
Nếu đồng chí lấy vợ lẽ, thì con vợ hai, vợ ba của đồng chí thực chất chỉ là đứa ở cho hai vợ chồng đồng chí, bởi họ đã bị đè nén, chịu áp bức đến hai ba tầng! Cho nên, hai mụ vợ hai, vợ ba phải đoàn kết thành một khối liên minh công nông, vùng lên đấu tố mụ vợ cả và thằng chồng (tức là vợ chồng đồng chí)!”
Phải bấm bụng, thót hốc đít để khỏi vãi ra cười, thầy nói ngay:
“Thưa đồng chí! Chẳng cứ gì phải lấy tới hai ba vợ, chỉ cần một vợ duy nhất thôi, đàn ông chúng ta cũng đã thường xuyên phạm tội áp bức, bóc lột đàn bà rồi! Cho nên tôi đề nghị, phải phóng tay phát động tất cả chị em phụ nữ, đàn bà vùng lên! Và mỗi gia đình, phải để cho các bà vợ được đấu tố chồng! Chẳng phải họ đều là tầng lớp bị áp bức bóc lột cả hay sao?”
Người-vô-hình dừng lại, ý tứ. Có thể hắn chưa quen mà cũng chẳng ưa lối đùa của bọn tiểu tư sản trí thức, cái bọn mà Bác Mao vẫn đánh giá xếp loại là chưa bằng cục cứt. Hắn xẵng giọng:
“Mày định nói gì? Ám chỉ ai thế, Vỹ?”
Thầy bình tĩnh trả lời với một sự tự tin rằng mình đang áp đảo Cái Chết.
“Tôi đang biện luận về sự áp bức giai cấp đúng như quan điểm hận thù giai cấp của đồng chí”.
Thầy nhìn hắn tần ngần và lấy làm lạ về sự lựa chọn ngôi nhân xưng: Đồng chí! Hai tiếng “Đồng chí” vốn có từ bên Tàu, không phải, có lẽ từ bên Liên Xô qua Tàu, dịch nghĩa biến âm rồi lưu truyền sang ta. Hai tiếng đó cào bằng, xoá sạch, thay thế vào tất cả các ngôi thứ. Hãy coi chừng và cảnh giác! Đồng chí…
“Được rồi. Cho đồng chí phát biểu ý kiến!”
“Tôi nghĩ rằng, dù ai đi nữa, đã là một đồng chí chồng thì đêm tới thường hay giở trò áp bức bóc lột đồng chí vợ. Cái lề thói cũ xưa bắt đàn bà nằm dưới để đàn ông chồm đè lên trên là bắt nguồn từ bản chất, xuất phát từ quan điểm phong kiến mà ra. Ngay cái chuyện đó thôi đã nảy sinh mối thù mang tính giai cấp rồi.
Nói như vậy có nghĩa là tất cả các đồng chí từ Mao Chủ tịch vĩ đại trở xuống đều gây ra mối thù giai cấp, mâu thuẫn đối kháng. Cho nên, bây giờ ta phóng tay phát động cho các đồng chí đàn bà vùng lên, đảo ngược trở lại, để họ nằm lên trên, bắt các đồng chí đàn ông nằm xuống dưới. Như thế may ra mới xoá bỏ được phần nào ách áp bức phong kiến, mối hận thù giai cấp. Có phải không ạ?”
Người-vô-hình im lặng, không thấy phản ứng gì. Cuối cùng hắn nói: “Giai cấp tư sản, bọn tư bản Phương Tây vẫn ưa làm cái trò đảo ngược đó. Chúng cho đàn bà nằm lên trên, đàn ông nằm ở dưới… Nhưng xét cho cùng, đó chỉ là trò cải lương giả hiệu, không phải là Cách mạng, chẳng giải quyết được yêu cầu cấp thiết gì của quần chúng Công Nông Binh…”
“Nếu vậy thì… hay là… ta sắp xếp lại hai lực lượng cách mạng này cho nó ổn thoả hơn: Không nằm nữa mà cùng đứng, mặt đối mặt, áp sát vào nhau! Thế là, hết áp bức bất công, hết hận thù giai cấp! Ha! Ha! Ha!”
“Cười cái gì?” - Người-vô-hình hét lên - “Toàn là những trò Cách mạng giả hiệu cả. Đâu phải là Cách mạng thật sự, Cách mạng chân chính! Phải tiếp tục làm Cách mạng vô sản! Phải chuyên chính đến tận cùng! Sau cuộc Cách mạng trời long đất lở này phải tiếp tục làm cuộc Cách mạng đất lở trời long khác! Cách mạng không ngừng!”
“Nếu vậy thì đến khi nào mới thôi Cách… cái mạng?”
Thầy hỏi lại, dẫu rằng có hơi vui đùa, mà sao lòng thầy đầy xúc động hân hoan. Hình như cảm nhận được sự băn khoăn chân thật đó, Người-vô-hình cũng đắc ý và hào hứng:
“Đến khi nào trên toàn thế giới xây dựng xong chủ nghĩa Cộng sản, xoá bỏ hết giai cấp… Đã nói từ lúc nãy. Quên rồi à? Khi nào tất cả các nước đều nhổ vứt hết các cột mốc biên giới, chẳng ai thèm lấn chiếm của ai một tấc đất; tất cả đều là của chung, của anh cũng là của tôi. Bốn phương vô sản đều là anh em. Đất nước Việt Nam là của Trung Quốc… Và… Tổ quốc Trung Hoa là Mẹ chung của tất cả chúng ta! Bác Mao nào phải đâu xa, Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao! Ha ha!”
“Có nghĩa là… đến cái ngày con anh cũng là con tôi, vợ của anh cũng là vợ… của tôi!…”
“Vỹ!” - Hắn hét to - “A? Thằng này láo nhỉ? Mày đã nhận ra cái tội lỗi của mày chưa?”
Sự chuyển đổi đột ngột trong giọng điệu thái độ của Người-vô-hình khiến thầy hụt hẫng loạng choạng. Mối thù giai cấp, mâu thuẫn đối kháng giữa người với người, giữa hai cái giống đực cái theo kiểu này thì đời đời kiếp kiếp e cũng không thể nào hết được. Mà có lên tới chủ nghĩa Cộng sản đi nữa, có khi đã không giảm bớt lại còn gia tăng rắc rối, ác nghiệt hơn!
Thầy ấp úng:
“Tôi thừa nhận rằng tôi có bóc lột bà con nông dân, đúng thế, nhưng tôi không có áp bức gì ai cả, ngoài vợ tôi… Đó là theo quan điểm đấu tranh giai cấp của đồng chí mà tôi suy diễn, chứ thực ra hai chúng tôi xuất thân cùng một giai cấp. Có khác chăng tôi là địa chủ phong kiến, còn vợ tôi là địa chủ… nông dân. Cùng một bản chất giai cấp giống nhau làm sao có mâu thuẫn đối kháng? Tôi thương yêu vợ con tôi, tôi chẳng thù ghét ai trên đời này cả. Tôi chưa hề làm hại ai, trái lại…”
“Vỹ!” - Người-vô-hình gằn giọng, nghe còn rõ và dữ dằn hơn gầm thét. - “Giờ tận số đến rồi mà mày vẫn còn ngoan cố hử? Tao nhắc lại cho mày nghe. Mày là tên địa chủ cường hào gian ác, phản động bán nước; vợ mày là con mẹ địa chủ bóc lột, hà hiếp, áp bức bà con nông dân. Mày phải khép vào tội chết và chịu án tử hình! Còn vợ mày, con cái mày thì cho sống để lao động cải tạo, trả nợ đền ơn bà con nông dân bần cố cho đến tàn đời, hết kiếp nghe chưa?”
Người-vô-hình vụt biến sau cánh cửa khoá hai vòng xích sắt.
Vệt sáng đỏ từ tay hắn vừa phóng ra nhắm thẳng vào đầu thầy. Một tiếng nổ không to lắm nhưng rất chói và đau xé.
Thầy ngật người ra sau, đổ vật xuống nền nhà.


CHƯƠNG 39
ĐỒNG HỒ SỐNG. SỰ SỐNG TRONG
SIÊU NHÀ TÙ, SIÊU ĐỊA NGỤC
Trời vẫn tối! Không hiểu bây giờ là mấy giờ?
Đã lâu rồi thầy mất thói quen xem đồng hồ, coi giờ. Tự nhiên nhớ lại hai cái đồng hồ mình đã dùng trong đời.
Cái đồng hồ quả quít Thụy Sĩ thầy mua vào những năm 40 ở hiệu Tàu có sợi dây bạc đeo cất, bỏ túi… rất tốt. Dạo ấy Lệ Uyên chưa sinh. Một lần thầy bỏ quên, đánh mất nó ở đâu cũng không biết. Bà nội có ý ngờ cho anh Nuôi. Mẹ thì lại nghi chú Đông. Cũng chỉ vì vậy mà anh Nuôi khóc lóc, thề thốt, doạ nhảy xuống giếng tự tử. Mẹ chồng con dâu cãi lộn. Bà vẫn thường bênh che cho chú Đông, kể cũng lạ, và có phần khắt khe với con đẻ, con dâu!
Cái đồng hồ thứ hai đeo tay nhãn hiệu Niklès - Made in France là của một đồng chí tặng.
Tiểu đoàn trưởng Lê Hải Ba được thầy mổ ruột thừa, sau khi lành đã cởi tháo đồng hồ đặt vào tay thầy. “Tôi tặng anh vật này làm kỷ niệm. Có thể một ngày nào đó chỉ còn lại nó trên đời này và… anh sẽ nhớ đến tôi…” Đồng chí ấy nói mà rưng rưng nước mắt. Thầy từ chối không nhận.
Hồi ấy đồng hồ là vật quý hiếm. Cái Nikles lên dây cót đó phải mua ở Hà Nội hoặc vùng tề đưa ra. Dẫu rằng một mạng sống được cứu sinh là chuyện ân nghĩa khó quên, thầy cũng không nỡ nhận món quà quý của bệnh nhân mà bệnh nhân đó là một đồng chí, một người lính Cụ Hồ.
“Người thầy thuốc rất cần đồng hồ, cần hơn ai hết, anh giữ lấy nó… cho tôi vui lòng.” Tiểu đoàn trưởng nài nỉ.
Bây giờ nhớ lại, nghĩ tới câu nói của đồng chí ấy mà thấy như điềm gở... “Chỉ còn lại nó trên đời này”. Quả đúng thế. Tiểu đoàn trưởng pháo binh đã hy sinh ở mặt trận Điện Biên, còn Mai Duy Vỹ này mạng sống đang được đếm từng giây, từng phút…
Đột nhiên, thầy đặt tay lên phía trái ngực và kinh ngạc cho trái tim mình. Tic tac! Tic tac! Nó vẫn còn đập? Thật kỳ lạ. Tic tac tic tac… Đã bao năm rồi, mỗi lần cầm ống lắng đặt lên ngực bệnh nhân, dùng ngón tay bắt mạch bệnh nhân mà sao y sĩ Mai Duy Vỹ lại không cảm nhận được trái tim con người mới là cái đồng hồ đích thực. Cái đồng hồ đếm đo mạch sống của con người vô tư, hào phóng, kỳ diệu phi thường! Ôi trái tim con người chúng ta!
Quả tim Mai Duy Vỹ vẫn còn đập! Thầy muốn la to lên cho mọi người nghe, cho cả nhân loại biết.
Nhịp đập đầu tiên của nó là lúc còn nằm trong thai mẹ! Mẹ ơi! Mẹ đã cho con một sinh mệnh, một đời sống. Vậy mà bây giờ người ta lại nỡ cướp nó, giết nó đi! Con có tội tình chi! Đã không được sống để báo đền ơn sinh thành của thầy mẹ, lại còn để người ta giết mẹ mình đi! Làm con mà không cứu sống được mẹ sao còn có thể gọi là con, là mang tội bất hiếu bất nghĩa biết mấy lần! Trời đất ơi!
Thầy bưng mặt khóc. Khóc không thành tiếng. Và ngạc nhiên sao mình vẫn còn nước mắt để mà khóc? Điều kỳ lạ! Vậy là sự sống trong con người mình vẫn còn? Lần này, nếu họ không giết thầy, cho thầy ra khỏi nhà tù, chắc thầy lại sống, tiếp tục sống như mọi người được tha khác. Nhưng cái buồng giam trong đình làng này nghĩ cho cùng không thể gọi là nhà tù được. Nó đâu có giống Hoả Lò, Lao Bảo, Kontum, Côn Đảo… Nó là Siêu nhà tù! Siêu địa ngục!
Con người là một động vật kỳ lạ! Thầy nghĩ ngợi miên man. Nếu mình là con chó, con mèo, con trâu, con bò… ừ cứ cho là con cọp đi nữa, mà bị ngược đãi hành hạ như thế này chắc chắn là nó đã chết trong một thời gian ngắn, vài ngày, dăm mười ngày!… Vậy mà Mai Duy Vỹ này vẫn còn sống, vẫn chịu đựng được mọi ngón đòn hiểm hóc, tai ác, chết người!
Sự chịu đựng, sức sống này có từ đâu? Có phải từ trong bào thai mẹ sinh ra? Có đấy. Nhưng chỉ một phần thôi. Sức đề kháng, thích nghi kỳ lạ này lại chính là do nhà tù sinh ra. Ai có ở tù mới hiểu được điều này. Hơn hết mọi nhà tù trên thế gian này là nhà tù Cải cách Ruộng đất! Nhà tù Siêu phong kiến! Nhà tù Siêu đế quốc!
Cảm thấy mình như vừa khám phá ra được điều gì mới lạ, một phát minh trong Y học, thầy nở một nụ cười ngây thơ…
Nụ cười chợt tắt. Dòng lệ từ trong hai hốc mắt lại ứa ra.
Nước mắt mình vẫn còn? Vậy là mình vẫn sống. Câu hỏi, câu trả lời cứ lặp đi, lặp lại.
Mai Duy Vỹ này đã tận mắt thấy con người ta lúc lọt lòng mẹ, cất tiếng khóc. Chính bàn tay Vỹ đỡ đẻ và không ít người đã ngợi khen là khéo tay mát tay hơn cả các cô đỡ Sage-femme. Nghiên, Hoà, Lan… các cô đều mê Vỹ!
Vỹ đã thấy dòng lệ người mẹ trào lên má, giọt nước mắt trẻ sơ sinh hiện ra cùng tiếng khóc: Tôi đã sinh ra một con người cho đời! Tôi là một con người đây!
Mà đâu chỉ con người, Vỹ đã từng thấy con chó Vện khóc, con trâu cái nhà mình khóc… lúc chúng nó chết. Thế đấy! Vậy mà bây giờ những giọt nước mắt của Mai Duy Vỹ đang trào ra đây lại không có một con người nào trông thấy cả. Có ai thương xót Mai Duy Vỹ này không?
“Không!”
Tiếng búa nện. Phát súng nổ. Chát chúa lỗ tai. Buốt nhói cả tim óc.
Thầy gục xuống. Chẳng cần tới một nhát búa, một phát súng mình cũng đã chết. Và đang chết đây!... Thầy nằm yên không động cựa.
CHƯƠNG 40
QUỶ NGƯỜI - NGƯỜI QUỶ
Có tới bảy tám con quỷ… Thầy đoán chừng vậy. Bởi vì nhìn toàn thân thì có vẻ giống giống con người, cũng hai chân hai tay, nhưng cái mặt thì khang khác, là lạ…
Nếu là con trâu, con chó, con cọp… thì cái sừng, cái mõm, móng móng vuốt của chúng đều biểu thị cái gì đó thuộc về nòi giống của chúng. Đằng này… đít giống như mặt, mặt na ná như đít? Mắt và mồm là hai cái lỗ - mồm ở trên, mắt ở dưới. Và hình như… chúng có đuôi? Cái đuôi thay cho cái tay, ngoắc ngoéo, móc nối nhau biểu thị sự đồng cảm, đồng tình. Đặc biệt hai cái tay xoè cụp, rung rinh… rất nhạy bén trước mọi tiếng động, trạng huống. Chúng nói với nhau những gì thầy không nghe rõ. Ao áo, nháo nháo… báo cáo… láo nháo… xạo xạo… đả… ảo… đảo … đảo… í í… lí bí… chí chí… đồng ý…
Hồi nhỏ, mình cứ suy từ loài vật mà hình dung ra con quỷ. Đầu trâu mặt ngựa có gì đáng xấu đâu. Thật sai lầm! Hình như đoán ra được ý nghĩ của thầy, bọn quỷ biến hình trở thành những bóng đen. Trông chúng lại có vẻ giống con người hơn. Thầy bắt đầu so sánh phân loại bằng cách lặp đi lặp lại hai mệnh đề tương phản nhau: con người là con quỷ - con quỷ là con người. Rồi, người là quỷ - quỷ là người. Rồi người-quỷ, quỷ-người… quỷ-người, người-quỷ!…
Thầy lặp đi lặp lại như một trò chơi lúc còn học lớp đồng ấu, tiểu học.
Hồi ấy, thầy và chú Đông ngồi đối mặt với nhau, giơ tay ra vỗ chéo vào bàn tay nhau, miệng thì kêu: chó, mèo… mèo chó… Cứ thế tranh nhau nói; cho đến khi nào mỏi mồm, rã mép, răng lưỡi va cắn vào nhau… Rồi cuối cùng, dừng lại. Một tay anh này chỉ vào mặt anh kia la lên: “Chó!”
Con chó, con mèo biết con nào xấu hơn con nào? Con chó có gì là xấu đâu! Vậy mà chú Đông vùng vằng, ấm ức đến phát khóc; lại chạy vào mách với bà nội là anh Vỹ anh ấy bảo con là con chó! Và bà thì lúc nào chả thế, lại bênh thằng Đông, đe mắng thằng Vỹ!
Bây giờ thầy đang thử cố sức lặp đi lặp lại hai tiếng người-quỷ, quỷ-người… và định bụng đến một lúc nào đó, hết hơi rồi, hoặc lý trí không còn kiểm soát, chế ngự được đầu óc nữa thì… cái tiếng cuối cùng ấy là một phán quyết đúng đắn nhất.
Người… quỷ!
À ra vậy. Con người chính là con quỷ! Ông Pasteur khi tìm ra vi trùng bệnh chó dại - khám phá ấy cũng chưa quan trọng bằng phát minh này của Mai Duy Vỹ! Phát minh này sẽ mở ra con đường mới, tránh cho nhân loại bao thảm họa tai ương.
Hình như bọn quỷ này đã nhận ra mưu đồ, biết được tư tưởng, nắm chắc quan điểm chính trị của Mai Duy Vỹ… Cả lũ xúm lại, vật ngửa, chận đè lên người thầy:
- Không cho nó ngóc đầu dậy!
Một con kêu lên. Mấy con kia chồm tới, bóp cổ thầy một lúc cho đến nghẹt thở rồi từ từ buông ra. Con lớn nhất, cũng là đầu đàn, lãnh đạo cả lũ, dựng thầy ngồi dậy, dùng tay bịt mồm. Con nhỏ hơn, cũng thuộc hàng lãnh đạo, chổng đít lại, lấy cái đuôi ngắn ngủn ngoáy ngoáy chọc chọc vào hai lỗ mũi thầy…
- Mặc quần áo liệm vào cho nó! Mau lên, Quân Chủ lực!
Hai ba con cùng “dô nào” bắt tay ngay vào việc. Chúng làm nhanh đến nỗi mình chưa kịp vùng vẫy, đã mặc gọn vào người một bộ áo bằng vải xô trắng, thứ vải thô tháp mà người ta thường khâm liệm khi đặt tử thi vào quan tài…
Thầy hoảng sợ, kinh hãi định la thét lên thì lạ chưa, lũ quỷ bỗng chốc biến đi đâu hết?… Chỉ còn một mình Mai Duy Vỹ, thầy của mẹ và các con giữa cõi Trần gian.

CHƯƠNG 41
ĐẤNG CHÍ TÔN, CHÍ THÁNH, CHÍ THẦN…
Thầy đang đứng ở một con đường.
Nhìn quanh chẳng thấy cái gì hết. Không một mái nhà, không một con người, con vật, không một bóng cây. Màu trắng đục bao quanh, không phải mây, chẳng là sương mù. Chẳng có hình bóng gì cả. Sắc sắc không không. Bỗng nhiên thầy nhớ tới bốn tiếng trùng âm ông nội con nói ngày xưa… Sắc sắc không không… Có lần thằng cò Vỹ ở truồng, chẳng mặc quần áo, từ ngoài giếng vừa tắm xong, chạy vào nhà la lên: “Không không sắc sắc giơ cặc lòi cu… mình mẩy thu lu, ai cho thì… đút!” Chẳng hiểu ai bày cho thầy, anh Nuôi thì phải, cứ thế mà ca mà hát… Từ dưới bếp tới trên nhà, ai nấy được một mẻ cười no nê.
Hôm đó, ông Cử Mai, ông nội con đang tiếp ông Cử Hồ bên Hà Trung sang chơi. Mỗi lần gặp nhau ngồi bên ghế trường kỷ hai ông Cử thường hay nói chữ. Ngoài “sắc sắc không không” lại còn “vô vi”, “tri túc”… thầy chẳng hiểu ý nghĩa của những cái đó là gì?
Thấy mọi người vui cười hoan hỉ, lại bắt gặp con mình đang nồng nỗng ngoài sân trông như thằng ngộ, trước mặt khách, bậc túc nho tri kỷ, ông nội con bất bình đứng dậy, bước ra sân, hỏi chuyện đầu đuôi rồi nắm tay thầy lôi vào nhà bắt nằm sấp xuống phản, thong thả hỏi tội, quất cho hai roi vào mông đít…
Chữ nghĩa thánh hiền, chuyện thần thánh, sao lại dám đem ra đùa cợt? Đứa nào xui? Đứa nào bày? Nhớ lấy!
Bây giờ cái sắc sắc không không ấy đang vây quanh thầy.
Thầy chợt nghĩ, đã sinh ra con đường là để cho người ta đi; mình phải đi, không thể cứ đứng mãi ở đây được. Thế là thầy cất bước. Vừa bước đi dăm chục bước, chưa gì đã dừng chân. Ngoái lại nhìn, thì lạ chưa, đoạn đường phía sau lưng mình không thấy nữa, biến đi đâu mất? Sắc sắc không không. Thầy suy lí: Vậy là con đường này chỉ có mà đi tới, đi tiếp, muốn dừng chân để quay trở lại cũng không được. Con đường gì mà lạ nhỉ? Nhưng ta đang đi đâu, đi để làm gì?
- Mai Duy Vỹ!
Một tiếng kêu từ trên cao vọng xuống.
Thầy sững sờ ngước nhìn. Tia chớp lửa loằng ngoằng vẽ một con đường giữa trời như con rắn đỏ. Tiếp liền, tiếng sét nổ không to lắm mà sao chói tai, buốt óc, rợn cả người.
- Mai Duy Vỹ!
Thầy giật mình đứng sững nhìn cảnh tượng lạ lùng. Trước mắt bây giờ chẳng còn sắc sắc không không nữa mà da trời phía Đông, thầy tin là phía Đông, có lẽ ma xui quỷ khiến như vậy chăng, đang ửng lên một màu hồng sáng. Con rắn khi nãy bây giờ biến thành con rồng lửa uốn lượn, khép vòng. Ô kìa! Một cái ngai màu đỏ. Những tia vàng loé ra từ Ngai Đỏ và một vị Vua, chỉ có thể là một Hoàng Đế thôi, đang ngự trên đó.
Theo thói quen, tính cố hữu trong khí huyết, cân não của một người dân nô lệ Á Châu, đầu gối chưa gì đã rã khớp, hai ống chân nhũn mềm ra như bún, thầy vội vàng quỳ xuống…
- Mai Duy Vỹ!
Âm giọng rền vang nghe như lưỡi gươm khua, viên đạn rít trên đầu.     Thầy vội vàng lắp bắp:
- Muôn tâu Bệ hạ!
- Ta không phải là Vua, chẳng phải Tổng Thống. Hãy nhìn lên đây!
Thầy ngửa cổ, rướn đầu cao hơn:
- Ta là Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần, Chí…
Vừa sợ hãi lại tò mò, thầy trố mắt nhìn. Một mái đầu tóc trắng như mây, vuốt ngược, loà xoà hai bên vầng trán rộng… Đôi mắt ánh lên tinh thần của khoái lạc và thủ đoạn, hoà điệu theo miệng cười giả trá, hơi tuồng kịch… Cái mặt vừa giả lại vừa thật có một sức hấp dẫn đến nỗi thầy ngây dại nhìn và môi nở nụ cười.
- Mai Duy Vỹ!
Âm giọng nghe rõ ràng, đanh rắn từ trên cao vọng xuống.
- Ta đây! Ta là người nô bộc trung thành của muôn dân. Hãy nghe và trả lời những câu hỏi của ta!
- Dạ. Con cũng là… - Thầy lắp bắp - đầy tớ của nhân dân…
- Xì! Mi là thằng địa chủ phản động, bán nước hại dân… lại không tự biết mình hay sao?
- Dạ, tôi là địa chủ - Thầy ngập ngừng suy tính. Đang từ con chuyển sang tôi, thầy bỗng hốt và sợ, như hai lần đấu quỳ trước các ông bà nông dân. Trót đã lỡ lời… - Nói cho thật đúng, cha đẻ ra con mới thật là địa chủ, con là công chức, cán bộ… Nhưng chối cãi điều đó, con lại là một đứa con bất hiếu với cha mẹ… Vâng, con là địa chủ. Nhưng con đâu có phản động, bán nước, hại dân!
Im lặng một lúc. Hoàng Thượng ngự trên Ngai Rồng Đỏ hình như ít nhiều có phân vân. Người thong thả điệu nghệ vuốt chòm râu bạc…
- Không ai tin điều mày nói cả.
- Dạ, làm sao vậy? Kính thưa…. Muôn tâu… Dân người ta không tin hoặc phủ nhận cố tình, điều đó có thể hiểu được, bởi họ bị vây bọc, đè nén trong vòng ngu muội, bùa mê, tăm tối, dốt nát… nhưng còn Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh… Người thấu suốt cả sáu cõi…
Đấng Tối Cao cười, lấp lửng.
- Ngươi quên rằng… Ta cũng chỉ là kẻ nô bộc trung thành của muôn dân thôi hay sao?
Thầy gân cổ, cãi lý:
- Con cũng là đầy tớ… của dân. Vào Đảng năm 1948, cho đến nay tính ra đã 7 năm vì nhân dân phục vụ, quên mình hy sinh…
Đấng Tối Cao cau mày, ra chiều lưỡng lự, cân nhắc:
- Biết vậy. Nhưng mà…
- Nhưng mà sao ạ?
Thầy chắp hai tay trước ngực, chờ đợi, cầu khẩn.
Có tiếng súng nổ vọng lên đâu đó, nghe xa mà lại gần. Thầy rùng mình cố giữ hai đầu gối sao cho vững, tì trên đất.
- Đồng chí Vỹ! Nghe đây - tiếng sấm truyền từ trời cao xuống - Ta biết anh vô tội, lòng anh trong trắng. Nhưng… ta không thể cứu anh được. Mà cho dù ta có muốn cứu anh, ban lệnh xuống thì đã chắc gì quần chúng nhân dân người ta nghe cho? Cải cở thủ ti - Cải cách Ruộng đất là cuộc Cách mạng lớn nhất trong lịch sử đấu tranh giai cấp của dân tộc, mang tầm cỡ nhân loại… Trong cơn trời long đất lở này, sóng thần Cách mạng đang ào ào dâng cao, cuộn tới, bánh xe lịch sử đang lăn đi... Ai người bị cuốn trôi, nghiến nát âu cũng là lẽ thường tình. Miễn sao Cách mạng Thế giới đạt được thắng lợi cuối cùng!
Có một người phụ nữ lòng dạ còn trong trắng tốt đẹp hơn anh, còn đáng thương, đáng quý hơn anh ở cách đây không xa lắm… Một người đàn bà! Ta đau lòng nhắc lại: Một người đàn bà! Anh đã nghe rõ chưa? Vậy mà ta cũng không cứu được! Mong anh thông cảm cho ta…
Đấng Chí Tôn vụt biến. Trong mây mù còn vọng lại tiếng sấm rền xa xa.
- Ta... không… thể… cứu anh được!
Thầy đổ vật người xuống, nằm lăn ra giữa đường. 

CHƯƠNG 42
PHÚT GIÂY… VĨNH BIỆT!
Mở mắt… Thầy thấy mẹ đang ngồi ở cái ghế nhỏ trước mặt.
Vẫn chưa tin đó là mẹ của các con. Trời ơi, mẹ gầy ốm sút đi đến không thể nhận ra. Có ai tin được rằng vợ của Mai Duy Vỹ, bà y sĩ ngày xưa mà bây giờ còn thảm hại hơn mụ ăn mày năm đói Ất Dậu 45! Làm gì được là đứa ở, con nuôi, đầy tớ nhà họ Mai!
Mẹ nói, ông Đội trưởng người Nghệ An cho phép vợ Mai Duy Vỹ được vào thăm chồng… Nói xong, hai tay ôm mặt khóc. Thầy bảo, đời người sớm muộn rồi ai cũng một lần ra đi. Anh sắp được gặp lại thầy mẹ, ông bà, tổ tiên… Mình em khóc thế đủ rồi, khóc nữa kiệt sức, dành sức ở lại mà nuôi con… Mẹ nói, mình cứ yên lòng mà ra đi. Một phần đời em đã để dành ra phụng thờ ông bà, tổ tiên, thì nay phần còn lại, xin trọn đời thờ chồng! Anh đừng quá lo mà tâm linh làm bối rối, xao xuyến người ở lại. Trời sinh voi sinh cỏ. Các cụ đã dạy rồi. Mẹ con nhà Vỹ sẽ vượt qua cơn hoạn nạn này. Người ta không cho mình ăn cơm thì mình ăn rau, ăn cỏ.
Cùng đường thì ăn cóc, ăn nhái, ăn châu chấu… miễn là sống được!
Thầy bảo, nếu còn sống sót, em gắng nuôi dạy các con nên người. Đói cho sạch, rách cho thơm. Dù trời long đất lở, xã hội loạn lạc, nhân tình đảo điên, vợ con cũng phải cố mà giữ lấy phẩm chất, danh dự, đức hạnh của dòng họ Mai…
Thanh Tâm, Lệ Uyên dẫu là con gái, chúng nó vẫn đại diện cho nòi giống, phẩm tiết của dòng họ Mai. Đầu tháng này, Lệ Uyên bị ngộ độc sắn, không ai vào báo cho thầy biết, chẳng ai cứu chữa cho con tôi cả, quằn quại ôm bụng suốt cả một đêm, may mà qua khỏi. Phúc phận nhà họ Mai vậy là vẫn còn. Ôi, Thanh Tâm, Lệ Uyên, các con của tôi, nỗi đau lớn nhất của thầy trước lúc ra đi là không được ôm các con vào lòng!
Câu chuyện trao đổi tới đó thì anh dân quân vào báo Đội bảo hết giờ rồi, vợ thằng Vỹ phải ra ngay! Ừ thì nhờ ơn Đội mà vợ chồng Vỹ, thầy mẹ các con, còn được gặp nhau. Đội mà không cho thì cũng đành chịu!
Mẹ nhìn thầy: Vĩnh biệt! Nói được hai tiếng rồi quay ra, nón rách úp vào mặt, nức nở. Vĩnh biệt!
Đất trời sụp đổ. Trần gian tan nát…
CHƯƠNG 43
NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG.
ÁN TỬ HÌNH
- Vỹ!
Thầy hơi giật mình, mở mắt ra. Họ vào khi nào mà mình chẳng biết?
Gần cả chục người đứng trong gian buồng chật, quần nâu áo nâu, đi chân đất, thật khó phân biệt. Định thần một lúc thầy mới dần dần nhận ra. Bốn người cầm gậy, quấn dây thừng. Một người vai mang khẩu súng trường mut-ca-tông. Một người có vẻ khác lạ bởi đôi dép lốp dưới cái xà cột bên hông, chắc là ông Đội trưởng. Từ khi bị bắt, sau hai lần đấu, có điều lạ là thầy vẫn chưa tận mắt nhận rõ mặt được ông Đội này.
Nghe giọng nói, biết người Nghệ An, là bộ đội Cụ Hồ…
- Tháo cùm ra, bắt ló đứng dậy!
Y tá Toành nói, vung văng tay chân, điệu bộ ra vẻ chỉ huy. Họ xúm nhau lại tháo cùm. Ổ khoá ngoắc nối dây xích cũ rỉ rét lâu ngày khiến họ loay hoay, ngắc ngứ mãi với chìa khoá xoay vặn, kéo đi lôi lại làm vết loét hai cổ chân như bị cưa, bị cắt. Thầy kêu rên. Họ càng mạnh tay hơn.
Cùm lim vừa được tháo gỡ, lôi nhấc hai ống chân trầy trụa máu mủ, mụn nhọt ra… họ để thầy ngồi yên một lúc. Hai anh dân quân xốc nách thầy đứng lên. Thầy đổ vật xuống khiến hai chàng gầy ốm loạng choạng cũng muốn ngã theo.
- Ló đói đấy. Ló chưa chết đâu mà no!
Vẫn giọng Toành, khó lẫn vào đâu được.
- Để cho ló thông cảm với cái khổ của bà con lông dân bị dòng họ Mai nhà ló bóc nột đè lén hằng mấy mươi lăm lay.
Không thấy những người kia nói gì. Họ đưa thầy ra ngoài cửa buồng giam, nói cho đúng hơn, cái buồng ngủ của ông từ canh giữ ngôi đình làng ta bao đời nay.
Ra trước sân đình, cái hơi khí tự nhiên của Đất Trời làm mình như được sống lại. Quên cả rét tháng chạp, phong phanh quần áo nâu rách, thầy ngước nhìn bầu trời xám: lớp lớp mây ùn ùn đang theo gió mùa đông bắc tràn về. Cảm tạ Đất Trời! Thầy muốn kêu lên. Lạy tạ Nga Sơn, Mẹ quê hương đã sinh ra con! Không nỡ tâm để Mai Duy Vỹ, đứa con tội nghiệp oan khốc phải chết trong buồng giam, nơi xó đình mà được chết ở ngoài Đất Trời này! Chưa kịp chắp tay cúi đầu, quên mất rằng mình đang bị trói trật cánh khuỷu hai tay sau lưng, xương khớp hai ống chân như đã gẫy rã ra, thầy khuỵu gục xuống sân đình.
“Thằng Vỹ đói! Phải cho nó ăn cái gì để nó tỉnh dậy rồi mới dẫn nó ra ngoài trường đấu được…”
Có người đưa ra ý kiến như vậy. Giọng nói của một người xa lạ không phải người trong làng này. Một người đàn bà!
Một người nữa lôi chiếc chiếu rách từ trong đình ra trải phủ lên người thầy. Khoảng dăm mười phút sau, họ kiếm đâu ra được một khúc sắn luộc đã nguội lạnh, gại gại cọ cọ mồm thầy, bảo ăn đi… Sực nhớ tới lời các cụ năm xưa, ai đi về Bên Ấy mà không có cái gì lót dạ, người ấy sẽ trở thành con ma đói, lang thang vật vờ khắp Âm phủ… Đã bao lần trong nhà thương, chứng kiến cảnh người bệnh lúc sắp chết, cố gượng dậy để người nhà đút vào mồm thìa cháo, miếng cơm, ngậm cả thịt gà, thịt lợn… thầy cũng cố ngậm lấy khúc sắn và nhai… để còn kịp nhận ra quanh mình hiện tại là những con người chứ không phải những con quỷ.
Lạy trời! Lạy người! Con xin cắn cỏ ngậm vành cái ơn sâu người đàn bà nào đã động lòng nghĩ tới chuyện cho Mai Duy Vỹ ăn cái gì đó trước khi chết!
Thầy mở mắt… Bây giờ là mấy giờ? Buổi sáng hay buổi chiều?
Đột nhiên, một con quạ đen nãy giờ đậu trên nóc đình rướn mình, đập cánh rồi lao thẳng vào bầu trời như quả đạn moóc-chi-ê… Quạ… ạ! Qu… ạ! Nó kêu lên. Tưởng đâu nó biến mất, ai ngờ một lúc sau lại quay trở lại, bay một vòng trên đầu mọi người. Quạ… ạ! Quạ… ạ! Họa! Họa!… Từ mỏ nó như vừa rớt ra một cái gì không phải con mồi mà là vệt máu!
Rồi, thật trùng hợp kỳ lạ! Một bầy ong vỡ tổ, vù vù bay qua, cứ như một đám người chạy loạn, chạy giặc.
Họ lại dựng thầy lên. Hai người xốc nách hai bên. Kéo lê lết đi được chừng mười bước, họ phải dừng lại. Hai chân thầy như đã gẫy đôi không thể nào đặt bước lên đất. Từ đây ra tới đấu trường-bãi bắn còn cả một đoạn đường không phải ngắn. Chỉ còn cách là đặt thằng Vỹ lên xe bò rồi cho trâu kéo. Họ bàn nhau… Con trâu thì có thôi nhưng xe bò kéo thì kiếm đâu ra. Họ lại đưa ra sáng kiến cho Vỹ ngồi vào cái thúng, đặt vô quang gánh, rồi dùng đòn càn lồng vào quang gánh để hai người khiêng đi. Người đề xướng ra cách lối tiện lợi này là cò Toe, từ nãy giờ đứng khuất ở phía sau, nhưng lập tức bị y tá Toành phản đối. “Nàm như thế hoá ra nà mình hầu hạ địa chủ, khiêng cáng ló như ngày xưa khiêng võng cáng quan huyện, như thế nà lô nệ…”
Ý kiến của hĩm Xoa đưa ra xem chừng được hơn cả, tức là, trói chân trói tay thằng Vỹ lại rồi buộc nó vào cây luồng, thay nhau khiêng đi. Như thế, vừa nhanh chóng thuận lợi, đỡ mệt nhọc, mà lại còn hạ được uy thế của giai cấp địa chủ bóc lột, phản động…
Rồi mặc cho thầy đau đớn kêu rên, họ làm xong công việc đó chẳng mấy khó khăn.
- Đồng bào, đồng chí chú ý!
Từ ngọn cây xoan gần trụ sở Uỷ ban cũ, một người ngồi trên hai chạc cây tay cầm cái loa sắt tây, mồm áp sát… đang đọc theo lời một người ngồi bên tay cầm tờ giấy có ghi những dòng chữ…
- Đồng bào, đồng chí chú ý! Đúng hai giờ chiều nay xin mời tất cả bà con ta, bần cố nông, Quân Chủ lực Nông dân, trung nông lớp dưới… không kể trung nông cứng, phú nông… trẻ già lớn bé, tập trung trước trụ sở Uỷ ban cũ, xếp hàng theo tổ chức đoàn thể… sau đó, chúng ta sẽ kéo quân ra trường đấu để tham gia đấu tranh, đấu gục tên địa chủ bóc lột phản động, thằng Việt gian bán nước Mai Duy Vỹ...!
Hôm nay là 27 tháng Chạp, Đội sẽ thi hành bản án, tuyên án tử hình tên địa chủ phản động, thằng Việt gian bán nước Mai Duy Vỹ để bà con nông dân ta, các đồng chí chúng ta được ăn một cái Tết Nguyên Đán cho thêm phần vui vẻ, phấn khởi! A lố! A lồ!
Như vậy là mình sắp chết rồi. Họ giết mình thật sự chứ không phải đem mình ra đấu như hai lần trước đây.
Cái Chết đến thật rồi mà sao Mai Duy Vỹ còn trông chờ… Trông chờ cái gì nữa! Mai Duy Vỹ vẫn còn ngây thơ, ngây thơ suốt cả một đời ư? Thậm chí, Vỹ còn nhìn lên mấy cành xoan trụi lá mùa đông và nhớ tới ngày nào!
Lệ Uyên ơi! Ngày nào, năm nào đây thầy còn cõng con trên vai. Con nhong nhong ngồi trên đôi vai thầy, hai chân thõng xuống. Cha con mình đi dạo mát buổi chiều, qua chỗ này đây… Mảnh trăng rằm hôm ấy hiện ra sau rặng cây xoan này, tròn to và sáng đến nỗi khi thầy giơ tay chỉ cho con xem Ông Trăng kìa, Ông Trăng đang đậu trên cành xoan, thì bé Uyên cứ đòi thầy, thầy ơi, cho con Mặt Trăng! Đòi cho bằng được Mặt Trăng, dẫy nẫy lên, hai chân đạp đạp vào ngực thầy! Về tới nhà rồi mà vẫn còn đòi, còn khóc, chướng ách là thế… đến nỗi bà nội phải kêu lên: Anh Vỹ ơi! Anh nuông chiều con quá đấy, rồi anh làm hư con mất thôi! Phải nghiêm khắc với con…
Ừ, thế đấy… Hoá ra một đời Mai Duy Vỹ cho tiền, cho gạo, cho thuốc men, cho cả bàn tay mổ xẻ, hiến cả xương máu… Cho không thiên hạ hết mọi thứ! Vậy mà rồi, có cái Mặt Trăng kia vẫn không làm sao lấy cho con gái mình được. Đời vô lý, bất công là thế đấy!
Chuyện tự nhiên, dễ hiểu thế mà sao Vỹ không thấy được! Vỹ không biết thương cho chính bản thân hắn, vợ con hắn, thì bây giờ đến lúc cơ nhỡ này đây, còn ai vào đó mà cứu hắn được nữa! Hắn phải tội chết là… đáng đời!
“Không có cái gì lạ dưới ánh sáng mặt trời!” Thầy chợt nhớ tới câu nói không biết ở đâu, của ai mà ông bác sĩ người Pháp ở nhà thương Thanh Hoá vẫn hay nhắc tới những lần gặp gỡ, mỗi khi bắt tay vào việc.
Và bây giờ kìa, mặt trời đang mờ mờ rọi ánh qua đám mây ngầu đục trên đầu mình kia cũng nhắc lại cho mình biết cái Chân lý đó. Phải rồi, tất cả đều đảo điên, giả trá và lừa dối hết, chỉ còn lại đôi mắt của con tôi, đôi mắt của Lệ Uyên đang nhìn cha nó, đôi mắt ấy là thật. Thầy đang đếm từng phút, từng giây cuộc sống để tính xem mình còn được sống với đôi mắt con hiện ra được bao lâu? Ôi! Con gái thương của thầy mẹ! Mai sau lớn lên xin con đừng oán trách cha!
- Đặt nó xuống đây thôi!
Người khiêng đằng trước bỗng thốt lên.
- Tôi cũng gãy cả xương bả vai ra.
Người khiêng đằng sau phụ họa theo. Thầy không biết hai người này là ai, ở đâu trong xã này. Vừa nói xong cả hai đã quẳng vứt “thằng Vỹ” xuống bên đường. Họ làm nhanh đến nỗi thầy tưởng cột xương sống mình gẫy đôi một cái rụp.
Y tá Toành lên giọng cha bố:
- Ló chỉ còn xương với da, lặng gì mà lặng đến lỗi phải bỏ ló nại đây hử?
Hai người vặc lại:
- Nặng chứ sao không nặng? Sao đồng chí không ghé vai vào mà lại bắt bọn này khiêng?
- Từ sáng tới giờ bầy choa cũng chỉ được hớp cháo vào bụng…
Y tá Toành vênh váo:
- Tao ấy à? Đời lào tao khiêng! Cả một đời tao hầu hạ ló, ló áp bức đè lén tao chưa đủ sao hử?
Ông Đội cất giọng Nghệ An phân xử:
- Thôi mà, các đồng chí! Gắng thêm một đoạn nữa, đến lối rẽ vào đấu trường ta sẽ dừng lại, bắt nó đứng dậy, đưa dẫn nó vào. Các đồng chí có phải khiêng nó vào tận trường đấu đâu mà sợ! Thôi đừng cãi nhau nữa! Gắng lên! Nào…
Hai người dân quân lại đặt đòn ống lên vai. Nhất Đội nhì Trời! Đội đã nói là họ phải nghe thôi.
Ông Đội lý giải thêm:
- Đến đó rồi, dù hắn có nằm liệt đi nữa, các đồng chí cũng dựng cổ dậy, kéo lết nó vô… để cho đồng bào, đồng chí tận mắt nhận dạng vạch mặt chỉ tên hắn… có như thế mới cổ vũ được tinh thần, nâng cao được sức mạnh đấu tranh!
Quả nhiên, Đội khiến Trời xui thế nào mà họ khiêng vác thầy tới cái chỗ rẽ vào trường đấu rồi đặt xuống một cách nhẹ nhàng hơn, không đến nỗi dữ dằn như quăng tảng đá, ném con chó lúc nãy. Tháo dây trói ra khỏi cây luồng, đòn khiêng, rồi để “thằng Vỹ” nằm trên bãi cỏ một lúc, chính họ cũng ngạc nhiên thấy thầy chẳng những chưa liệt bại, chết ngắc mà còn cụ cựa rồi mở mắt ra nhìn. Thầy bắt đầu cảm nhận, hiểu ra, chính cái không khí tự nhiên ngoài trời đã làm cho mình tươi tỉnh, khoẻ khoắn cho dù bị trói cột khiêng đi như con lợn, con chó.
Ôi! Cái buồng giam khủng khiếp! Cái nhà tù kỳ quái rùng rợn đã giết dần giết mòn mình cả mấy tháng nay!
Biển động. Ồ biển động. Rõ ràng thầy đang nghe tiếng sóng ầm ì, theo gió rì rào ngoài biển từ Hòn Nẹ lùa vào đồng cói. Biển động. Gió thổi. Hơi thở của Đất Mẹ Nga Sơn lay động những cành cây ngọn cỏ, đang mơn man hai bên má thầy!
Nhưng có một cái biển khác, biển người trên đấu trường đang ầm ào gào thét bên tai thầy, không thể lầm lẫn vào đâu được.
- Đả đảo Mai Duy Vỹ, tên địa chủ cường hào áp bức bóc lột nông dân, thằng Việt gian phản động bán nước!
- Đả đảo!
- Đả đảo! 

Cái âm tiếng “đảo” kéo dài ra nghe ảo ảo, ào ào, rạo rạo như gươm đao cọ xát.
- Có khổ nói khổ nông dân vùng lên!
- Vùng lên!
- Vùng lên!
- Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!
- Muôn năm!
- Hồ Chủ tịch muôn năm!
- Muôn năm!
Lặng đi một lúc lại ầm ầm vang dội:
- Đại nguyên soái Xiết-Ta-Liên muôn năm!
- Mao Chủ tịch vĩ đại muôn năm!
- Muôn năm! Muôn năm!
- Hoan hô Người Anh Cả Trường Chinh!
- Hoan hô đồng chí Hồ Viết Thắng!
- Hoan hô! Hoan hô!
Rồi ào ào tiếng kêu la lẫn tiếng gào thét hổ lốn, lẫn lộn:
- Hoan hô các đồng chí Cố vấn Trung Quốc sang giúp ta đánh bại kẻ thù giai cấp, đấu gục bọn địa chủ ngoan cố phản động!
- Hoan hô! Hoan hô!
- Cải cách Ruộng đất long trời lở đất thắng lợi và thành công muôn năm!
- Muôn năm! Muôn năm!
Tiếng vỗ tay đồng loạt nhịp nhàng hoà theo tiếng hát của thiếu nhi lẫn thanh niên, xoay đi vần lại:
Mí đồ đồ đồ phá mí rê
Rế đô xì đô rế xồn xồn
Đồ mí! Rề phá!
Mí rê đô xồn đô đô đô…
Lại tiếp theo bài hát khác, có tiếng trống đệm nghe như tiếng súng, đứng tim dựng óc người ta lên:
Chúng ta cùng nói vì chúng ta căm thù
Cùng tố rằng địa chủ giết người
Loài rắn độc thâm hiểm nhất đời
Nhớ lấy từng lời bần cố nông ơi!
Chúng ta thề đánh vào đầu đế quốc!
Nó thông đồng với địa chủ thu tô.
Cùng tiến lên xây đời Tự do...!
Rồi biển người lại cùng tấu lên, không ra hát cũng chẳng ra nói:
- Liên Xô ngày nay là Trung Quốc ngày mai!
- Trung Quốc hôm nay là Việt Nam ngày mai!
- Ngày mai! Ngày mai!
- Đời đời nhớ ơn Đảng ta vĩ đại!
- Đời đời nhớ ơn Bác Hồ!…
- Đời đời! Đời đời!
- Nhớ! Nhớ!
- Ời ời!
- Ớ ớ!
Long trời lở đất một lúc. Biển người Quân Chủ lực Nông dân lại im lặng. Im lặng lần này lạ lùng và khó hiểu.
Cái bẫy đang rình chờ con thú mồi… Nhưng bẫy hay không bẫy thì còn để làm gì nữa, Vỹ ơi! Đời anh cũng đã sập xuống rồi!
Tùng! Tùng! Tùng! Tùng!
Một hồi trống vang lên nghe như nòng súng bắn cách quãng rồi nhanh dần. Một hồi trống nữa tiếp liền. Tiếng vọng từ Âm phủ về, từ Địa ngục lên. Thầy giật mình. Cả lũ cũng mất bình tĩnh.
Ông Đội trưởng nói:
- Các đồng chí dẫn Mai Duy Vỹ vào!
Y tá Toành đứng gần bên, đế theo:
- Thằng Vỹ đứng nên! Anh em ta dẫn ló đi!
Hai anh dân quân cúi xuống, thò tay qua nách, xốc thầy ngồi dậy.
Họ định lôi đi, kéo lê cái xác chết Mai Duy Vỹ vào trong bãi bắn như thế này hay sao? Một ý nghĩ thoáng qua. Tia chớp loé trong đầu. Cụ Cử Mai Duy Hiển, thân phụ ông Cử Mai Duy Hoà, người mà Mai Duy Vỹ gọi bằng ông nội, Mai Lệ Uyên gọi bằng cố nội… hiện ra? Cổ đeo gông, tay khoá, chân xiềng xích… Cố đang lê bước giữa hai hàng lính bảo hộ. Vừa là bạn, vừa là đồng chí của Đinh Công Tráng, cụ Cử họ Mai bị Pháp giết trong khởi nghĩa Ba Đình. Dòng họ Mai chúng ta dẫu thế nào, cũng không chịu mang khí huyết nô lệ trong người…
Thầy khẽ gạt tay hai người dân quân:
- Xin các ông cho tôi…
Họ ngạc nhiên, dừng lại.
- Cho tôi được đứng lên, tự đi…
Thầy từ từ đứng lên, loạng choạng. Đất dưới chân như sụt lở…
Y tá Toành lải nhải:
- Ló giả vờ đấy. Ló đi được. Cái đồ địa chủ bóc nột, phản động, bán lước hại lòi, đụng vào ló nàm chi cho bẩn nhớp tay chân…
Thầy quay sang nhìn thẳng vào mặt hắn. Con rắn độc ngóc đầu trân trân nhìn lại rồi không hiểu sao cụp mặt xuống.
Ông Đội trưởng sốt ruột, nói như gắt:
- Đồng chí Toành! Đủ rồi, thôi đừng nói nữa! Khổ quá! Dẫn nó đi ngay!
Thầy loạng choạng bước. Đã xuýt ngã chúi xuống, may có hai anh dân quân đưa tay ra đỡ…
- Cảm ơn…
Thầy nói lắp. Rét run và xúc động. Cảm ơn… Hai tiếng “merci”… cảm ơn đã phát ra thành thói quen suốt một quãng đời sống và làm việc ở nhà thương Thanh Hoá, không hiểu bây giờ là lần thứ mấy, có lẽ là lần cuối cùng!
Cảm ơn. Thầy gắng sức đặt từng bước chân… Cảm ơn Đất Mẹ Nga Sơn đã cho con khí huyết, dòng sống họ Mai, từ khi người con đầu tiên của dòng họ - Mai An Tiêm - bị vua Hùng Vương thứ 4 phạt tội đày ra đảo xa ngoài biển này. Cảm ơn Đất Mẹ Nga Sơn lần cuối cùng lại cho con vùi xác vào trong lòng Mẹ… Cảm ơn!
Thầy đi. Nhích chân từng bước. Từng bước của Con Người.
- Đả đảo thằng Vỹ địa chủ bóc nột, cường hào áp bức, cướp thóc núa, nhai xương uống máu bà con lông dân!
- Đả đảo! Đả đảo!
- Đã đảo thằng Vỹ, tên Việt gian bán lước, hại lòi, con chó săn đắc nực của đế quốc phong kiến!
- Đả đảo! Đả đảo!
Y tá Toành bước vội lên trước, đầu ngoái sang trái rồi quay sang phải, tay vung lên hô la. Hắn ta hét đến vỡ họng, giọng khản đặc. Cái giọng thuốc lào Thái Bình (hay Nam Định?) của Toành dù có sang tới Bên Ấy thầy cũng không quên.
Trời rét. Rét đến nỗi hai bàn chân nứt nẻ, ống chân khô cứng co rút, lại thêm hai tay bị trói trật cánh khuỷu ra sau lưng, mấy lần dúi dụi ngã xuống mặt đất. Vậy mà, Lệ Uyên ơi, thầy cảm nhận cái giá rét của Đất Mẹ Nga Sơn một cách dễ chịu, gần như sung sướng. Cảm tạ mùa đông Xứ Bắc! Không có cái lạnh của Đất Mẹ làm sao con được hưởng hơi ấm ngọn lửa thiêng của hạnh phúc sum vầy dòng họ, tổ tiên, gia đình… nhất là vào những ngày giáp Tết, chuẩn bị đón xuân như hôm nay: 27 tháng Chạp - Ất Mùi - 1955!
Ôi! Cái thời đại loạn lạc, đảo điên, băng hoại, vô đạo, vô luân!
Con người muốn tồn tại, muốn sống, dẫu đã giả ngu, hoá hèn, trở thành con vật rồi vẫn cứ bị giết chết! Phải làm ma, làm quỷ kia thì không chỉ sống thôi đâu, mà còn được hiển vinh cao sang nữa! Mai Duy Vỹ ơi! Anh đã… ăn hết Quả Lừa chưa?
Gió thổi lao xao chen sóng biển rì rào… Âm thanh hoà trộn mà rành rọt đáng yêu sao từ xa khơi vào, lượn vòng dãy núi Tam Lênh, qua những rặng vẹt, đồng cói mênh mông u buồn; lại hoà điệu cùng lời ca, tiếng vọng của ai xưa… lênh đênh qua cửa Thần Phù, khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm… vừa đến bên tai thầy u u ư ư… một hồi dài. Làn sóng âm thanh đó tự nhiên lại tách bạch, rõ rệt, rành rọt:
“Ngu! Ngu! Còn ngu! Còn ngu lâu! Chưa hết đâu!”
Rồi loé chói lên trong đầu nghe như tiếng sét đánh:
“Ai bảo khôn cũng chết, dại cũng chết, biết… thì tưởng rằng khỏi chết hay sao? Xì! Thôi đi! Cái điều cũ kỹ mấy ngàn năm nghe đi nghe lại, cứ tưởng là mới mẻ hay ho lắm! Biết rồi cũng chết! Chỉ có chết rồi mới hết… Hết mà vẫn …còn.”
Vâng! Con biết con ngu, con ngu mà! Con có nói gì nữa đâu!
Con ngu vậy là còn ít, Vỹ ơi, bởi con ngây thơ và thật thà. Thánh thần, vĩ nhân kia cái bọn ranh ma độc ác đó mới thật là ngu, ngu hết chỗ nói…
Và Cái Chết! Cái Chết đã hiện ra trước mắt con kìa!
Cái Chết…
Vẫn là cái bãi tha ma ấy… Ngày xưa, có lần thầy theo anh Nuôi, hai anh em cùng cỡi trâu ra đây cho trâu ăn cỏ, ngồi thả diều, đánh khăng…
Ngày ấy, cỏ mọc xanh lút mồm trâu bò, bây giờ hoang sơ cằn cỗi. Nơi đây, bây giờ là chỗ tập trung người để mít tinh, biểu tình của làng xã. Bước chân người giẫm đạp, tiếng người vỗ tay, thét loa, hò la… từ ngày Khởi nghĩa tới nay, làm cho cỏ cũng sợ hãi mọc ít đi, không lớn nổi, trâu bò cũng ít tới… Một phần rẻo đất bên kia nay đã lô nhô hiu hắt những nấm mồ.
Vẫn là cái “khán đài” dựng lên trên mô đất cao gồm mấy bộ bàn dài bằng gỗ kê sát nhau. Ghế ngồi là mấy cây tre giằng, cây luồng ghép, đặt buộc lên những cọc gỗ…
Cũng như hai lần đấu trước, ngước nhìn lên thầy đã thấy những khuôn mặt cũ, ông Đội trưởng Đội Cải cách Ruộng đất ngồi trên đó, còn một bà Đội nữa đang đứng lẫn trong đám quần chúng, Quân Chủ lực Nông dân. Tám chín “cốt cán” Đội đã “xâu chuỗi bắt rễ” tách ra đứng một chỗ phía dưới “khán đài”, mấy người dễ dàng nhận ra: vợ chồng Cò Toe, Hĩm Xoa, thím Đông, y tá Toành… Còn mấy người nữa trông quen quen nhưng không nhớ tên, hình như Đội mới xâu chỗi bắt rễ thêm?… Không thấy mặt chú Đông!
Y tá Toành sau một lúc lăng xăng đi lui đi tới dưới “khán đài”, cũng đã thấy leo lên ngồi trên hàng ghế lãnh đạo, Chủ tịch đoàn…
Trên đầu những người này là ba bức ảnh treo khung gỗ: chân dung Bác Hồ, Bác Mao và đồng chí Malencốp. Ngọn cờ đỏ sao vàng buông rũ, khẽ dật dờ trong gió. Hai bên, hai băng khẩu hiệu bằng cót, quét vôi trắng, nền chữ đen đỏ: Đảng Lao động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Toàn dân đoàn kết, quyết tâm đấu gục tên địa chủ phản động bán nước Mai Duy Vỹ!… Vẫn là mấy câu khẩu hiệu của hai lần đấu trước, đem ra treo dựng lại, nhưng hôm nay có một cái bảng cót trông không lớn lắm, chữ viết nguệch ngoạc, lại được cắm ngay dưới chân “khán đài” trước mặt Quần chúng Nông dân Chủ lực: “Lợ máu phải đền lợ máu!”
Thầy chưa kịp nghĩ gì về mấy chữ “máu” này thì bàn chân đã dừng lại trước cái hố hình chữ nhật đào sâu khoảng hai gang tay…
Hai lần đấu trước thầy đã phải quỳ trong cái hố này, cúi đầu xuống, cấm không được ngẩng mặt lên, để cho các đồng chí cốt cán bần cố nông được Đội xâu chuỗi bắt rễ đứng ngay trên miệng hố gào thét, xỉa xói, tố hết nỗi khổ đau của họ, tội ác trời không dung đất không tha của thầy… Họ đứng trên cao, trước miệng hố mới nổi bật lên được uy thế bần cố, xưa là nô lệ nay là Ông Bà Chủ; còn mình quỳ ở dưới hố bây giờ không được là cái con chó, con sâu bọ…
“Vỹ ơi! Anh đang nhìn cái gì đấy?”
Lạ thật. Có tiếng ai đang thủ thỉ bên tai mình? Vẫn là cái hố hôm trước, có gì lạ đâu. Lại nghe tiếng ai kêu đến lạc cả giọng:
“Nhìn về bên trái! Mắt với mũi! Phía tả! Cánh tả!”
Thầy chợt nhận ra cây cột người ta mới đào đất chôn từ sáng nay. Một đoạn luồng ngâm dài đã cắm sâu dưới đất để họ trói đứng mình vào cột rồi vẫn còn dôi ra một khúc, nhô lên trên đầu chừng 20 phân.
“Lùi lại sau lưng dăm bước chân thôi, cái huyệt người ta đào sẵn, đất cát ùn chất lên cả đống kìa! Anh không thấy à? Lúc nào anh cũng thật thà, ngây thơ đến dại dột! Cái huyệt ấy, ngôi nhà Vĩnh cữu, Cách mạng ruộng đất chia phần cho anh… Đã thấy chưa?”
Thầy đang định ngoái cổ lại nhìn thì bóng hình ai kia trông quen quá đã hiện ra ngay trước mặt, một nụ cười nhân hậu buồn buồn…
“Đồng chí Mai Duy Vỹ! Anh Vỹ… Tôi, Trần Vĩnh Quyền, chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính xã Nga Phú… bạn học cũ, bệnh nhân của anh đây. Tôi đi trước anh… Họ vừa mới tử hình tôi ngay dưới chân núi An Tiêm. Sáu viên đạn súng trường vào người. Một viên đạn súng lục vào thái dương bên trái. Một đầu đạn còn mắc ở trong ngực, chếch lên phía bả vai trái… Chào Vĩnh biệt!”
“Vĩnh biệt!” Thầy vừa định kêu lên thì bác Quyền, Trần Vĩnh Quyền chứ không thể là ai khác lại hiện ra…
“Anh Vỹ! Xin báo cho bạn của tôi biết một tin mới. Có thể đây là thông điệp của Yavê Thiên Chúa? Trên đường tôi trở về Nước Chúa thì ngược đường Bên Ấy có một người chạy bộ từ thị xã Thanh Hoá về tới Nga Sơn mang theo mệnh lệnh của Đoàn Cải cách Ruộng Đất, coi như Bộ Tổng Chỉ huy hoặc Toà án Tối cao, tạm hiểu như thế nhé… Cái lệnh truyền mồm ấy là “Huỷ bỏ bản án tử hình có chữ ký của bà Đội Lê Thị Choét! Tha chết cho Trần Vĩnh Quyền!”
Cảm ơn người anh em đồng chí tôi không được biết tên đã lập một kỷ lục chạy bộ ma-ra-tông mới cho nước nhà trên đoạn đường dài 40 ki-lô-mét.. khi bàn chân đất không dày dép, toạc da, toé máu vừa tới chân núi An Tiêm, truyền được khẩu lệnh mồm thì anh này đã gục xuống bất tỉnh!
“Huỷ bỏ án tử hình có chữ ký của bà Đội Lê Thị Choét! Tha chết cho Trần Vĩnh Quyền!”
Trần Vĩnh Quyền đây! Tôi đã nghe rồi! Lạy tạ Đất Mẹ Nga Sơn! Vĩnh biệt bà con Nga An! Tôi đang trên đường về Nước Chúa mang theo 40 tuổi đời, bốn ngàn năm tuổi nước… Mình đi trước nhé, Mai Duy Vỹ ơi! Vĩnh biệt!”
“Vĩnh biệt!” Môi thầy mấp máy, lặp lại. Thầy chỉ muốn kêu to lên… nhưng bàn tay ai từ phía sau đã chụp lấy vai phải, lôi lại, ấn xuống.
- Vỹ! Đứng lại!
Thầy dừng lại.
- Quỳ xuống!
Chưa kịp quỳ xuống, hai người hai bên đã kéo lôi, đẩy thầy xuống hố cạn trước mặt. Sợi dây thừng trói cột hai tay làm thầy loạng choạng ngã chúi. Đầu đập vào cạnh hố, môi răng dính đầy đất cát, mông đít chổng lên… Họ phải thò tay xuống vực dậy, để thằng Vỹ có thể co duỗi quỳ dưới hố.
Trận mưa đêm qua làm lớp đất mùn bên trên còn ướt dính nhoe nhoét. Một con nhái bén nhảy lên đậu vào vành tai thầy, vừa rớt xuống dưới bụng lại bò lên đầu gối… Kìa, nó nhìn thầy! Ôi! Con vật đáng yêu! Chẳng cứ gì mày mới có vẻ đẹp tự nhiên, hiền hoà, mà rồi đây, cả đến dòi bọ, mối, đục khoét thân thể ta… cũng chẳng có gì đáng gọi là xấu! Chỉ có con người! Con người! Giống loài hung dữ độc ác nhất trên Trái Đất, thứ khổng trùng dịch bệnh khủng khiếp mà Louis Pasteur, Robert Koch, Alexandre Yersin cũng không ngờ tới, hình dung nổi!
Tiếng loa ọ ẹ cất lên.
Ông Đội nói tiếng Nghệ An thông báo cho bà con nông dân buổi đấu tố lần thứ 3, lần cuối cùng hôm nay bắt đầu. Để đảm bảo thắng lợi to lớn của cuộc Cách mạng long trời lở đất, Ông Đội đề nghị tất cả mọi người có mặt hôm nay, Quân Chủ lực Cách mạng phải ra sức phát huy cho kỳ hết lòng căm thù giai cấp, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất để đấu gục tên địa chủ ngoan cố nham hiểm, thằng Việt gian phản động, bán nước Mai Duy Vỹ!
“Thành tích cách mạng hôm nay…” - ông Đội la to - “chúng ta sẽ dâng lên Bác, Trung ương Đảng và Chính phủ, làm tấm gương sáng cho cuộc đấu tố điển hình không chỉ toàn huyện Nga Sơn mà toàn tỉnh Thanh Hoá chúng ta!”
Tiếng trống đánh điểm nhịp cho tiếng hoan hô nổi lên nghe như tiếng súng. Trong rừng cánh tay vung lên có chừng dăm bảy khẩu súng trường, mấy chục cây gậy, còn lại là thuổng, cuốc, mã tấu, dao… Cũng như hai lần trước, thầy dễ dàng nhận thấy có những cánh tay giơ lên nửa chừng cùng những tiếng hô rụt rè, phải phép, những ánh mắt sợ sệt… Ai đó? Ai mà không sợ ông Đội hơn sợ Trời, sợ người… sợ cả chính mình?
- Vỹ!
Thầy ngước đầu nhìn, ngạc nhiên hơn là… sợ hãi. Chú Đông, Mai Duy Đông nhà ta đang đứng trước mặt, giơ ngón tay trỏ xỉa vào mặt thầy.
- Cúi đầu xuống! Mi có biết tao là ai không? Thầy cúi đầu, nói nhỏ:
- Dạ, tôi không biết.
- Láo! Biết chứ răng lại không biết! Thằng này…
- Dạ. Vì tôi phải cúi đầu xuống, có được ngẩng đầu lên đâu mà bảo tôi nhìn ra ông là ai?
Thầy ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mặt chú Đông.
Có tiếng ồn ào ở phía dưới. Trong đám đông hình như có tiếng ai cười. Vài tiếng la, hô “đả đảo”.
- Phải bắt thằng Vỹ ló xưng nà con, thưa với bà con lông dân nà ông bà lông dân… không được phép gọi mình nà tôi!
Y tá Toành đứng ra để nhắc nhở Lê Trạch Đông, còn là để lấy oai.
Được tiếp sức, Đông chồm lên hét to:
- Nói đi! Tao là ai, mi có biết không?
- Dạ, thưa ông - thầy điềm đạm từ tốn - ông là Mai Duy Đông, em của tôi…
- Láo! Tao không có anh em gì với mi! Tao là… là... Lê Trạch Đông, là đứa ở của nhà mi. Cha mẹ mi, hai đứa bóc lột tao, đè nén áp bức tao suốt ba mươi năm, bắt tao ăn đói nhịn khát, cực khổ còn hơn con chó… để còn hầu hạ vợ chồng mi…
- Dạ thưa ông Ma… à quên (xuýt nữa thì thầy gọi “Mao” cũng bởi dòng họ nhà ta là Mai, tự nhiên mình lú lẫn)… ông Trạch Đông, ông không muốn nhận mình là con cái nhà họ Mai nữa, cái đó là quyền của ông. Còn đối với tôi thì trước sau ông vẫn là Mai Duy Đông, cha mẹ tôi nuôi nấng ông từ lúc ông mới sinh ra, tìm thấy ông nằm trong cái tã váy rách ở bụi xương rồng trước cổng nhà vào một sáng mùa đông… Tôi không muốn nhắc lại làm gì bởi vì ở Nga Sơn này nhiều người còn nhớ và… chắc ông cũng biết!
- Mi nói láo! Mả bố mả mẹ mi, tao nói cho mi biết, tao có cha, có mẹ hẳn hoi. Tao con nhà cố nông, vì nghèo khổ quá, cha mẹ tao bắt tao đi ở cho nhà mi để gán nợ… ba đời! Cái dòng họ Mai bẩn thỉu chó má của mi tao thèm vào! Tao là con của nông dân, sinh ra trong thành phần bần cố nông nghèo khổ. Đội Cải cách đã cứu sống tao. Đảng cho tao làm người. Mi hiểu chưa? Vỹ!
- Dạ, thưa ông Đông, tôi hiểu…
- Đã nói rồi! Không được xưng với tao (chú Đông vỗ ngực) là tôi, mi phải xưng mi là con chó, con lợn…
- Dạ, con chó con lợn này xin…
Quả thật, thầy cũng thấy lúng túng cứ phải xưng hô theo kiểu con chó con lợn này… May mà con chó nó chỉ biết sủa, con lợn nó chỉ biết ụt ịt chứ không thì… Ôi, khốn khổ cho cái kiếp con người ta!
Thầy im lặng. Chú Đông dừng lại, thở hổn hển. Đột nhiên, chú hét rất to như có ai bày cách cho phải làm như thế.
- Vỹ! Mi có biết không? Cách đây mấy năm rồi… vào cái Tết năm… năm… (chú chắc lưỡi, ngọng nghịu) nhà mi tụ tập toàn bọn Quốc Dân Đảng… Mi giơ tay xin thề trung thành với chúng nó đến hơi thở cúi còng, thề diệt hết… kẻ thù Cách mạng và bán nước cho Tây, rồi… thì… là…
Thầy ngạc nhiên, hoảng sợ. Hai lần đấu trước cái chuyện “Quốc Dân Đảng” này không thấy có? Chắc là Đội trưởng hay Toành đã bày trò cho Đông? Cái đầu chú ấy thì biết gì tới chuyện chính trị, Việt Quốc, Việt Cách… Đến nước này thì Mai Duy Vỹ có một cái đầu chứ có hai cái đầu người ta cũng chặt cho bằng được!
Thừa lúc chú Đông ngẩn người để nhớ ra những điều đã học thuộc lòng mấy hôm nay, bây giờ lú lẫn quên mất, thầy đột nhiên dứng dậy trong hố. Như có bàn tay vô hình nào lôi thầy dậy, vươn mình đứng thẳng; thầy định giơ cánh tay phải về phía lá cờ đỏ sao vàng và chân dung Bác Hồ ở trước mặt, trên đầu, nhưng khốn nỗi hai tay bị trói chặt, toàn thân run rẩy loạng choạng…
- Thưa bà con nông dân! Thưa các đồng chí! Tôi, Mai Duy Vỹ, đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, tiền thân là Đảng Cộng sản Đông Dương… Ông Lê Trạch Đông đã dựng chuyện, bịa đặt, xuyên tạc… Tôi là một người Cộng sản. Đảng Cộng sản kết nạp tôi ở ngoài Mặt trận năm 1948 chứ không phải tại nhà tôi. Các đồng chí của tôi, một số là thầy thuốc, một số người ở trên Tỉnh uỷ, Uỷ ban có lúc đến thăm tôi, gặp gỡ tại nhà tôi. Chuyện ấy là có thật nhưng họ là những đảng viên Cộng sản chứ không phải Quốc Dân đảng. Quốc Dân đảng chúng nó theo Tưởng Giới Thạch, Nguyễn Hải Thần về bên Tàu từ lâu. Mà bên Tàu bây giờ có thằng nào là Quốc Dân đảng thì Bác Mao và Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đã bắt nhốt hoặc làm thịt hết rồi!
Như một đứa con bị đòn oan, cậu học trò bị xử phạt vô lý, thầy ngước nhìn ảnh Bác Hồ và ngọn cờ đỏ sao vàng, hai mắt trào lệ… Thầy uất ức, dằn từng tiếng, rõ từng lời:
“Bác Hồ là lãnh tụ tối cao của toàn dân Việt Nam, là người thầy tôn kính nhất của tôi. Tôi làm theo lời dạy của Bác, đi theo con đường của Đảng. Tôi nguyện trung thành với Đảng, hy sinh cho Cách mạng đến giọt máu cuối cùng. Có… Có…! Có lần tôi đã nói như vậy…
Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!”
Thầy ngẩng cao đầu, lấy hết hơi sức la to. Rồi ứa trào nước mắt, nghẹn nấc.
Y tá Toành đang ngồi trên “khán đài” đứng dậy, giơ ngón tay xỉa xuống dưới đấu trường.
- Thằng Vỹ ló lói náo đấy bà con ạ. Ló nà tên Quốc Dân đảng chính cống nhưng nại đội nốt chui vào, trá hình nàm đảng viên Đảng Nao động để phá hoại Đảng ta! Cộng sản đâu đến phần ló! Ló nà tên Việt gian phản động bán lước! Các đồng chí! Bịt mồm thằng Vỹ nại! Không cho ló lói lữa! Thằng Vỹ phản bội nại dân tộc lòi giống Việt Lam! Ló phải chết! Đả đảo thằng Vỹ!
Vài tiếng hô “đả đảo” rời rạc tiếp theo.
Cả đấu trường lặng đi. Ngay cả ông Đội trưởng đang méo mồm trợn mắt rít điếu thuốc lào cũng dừng lại bối rối.
- Bắt ló câm mồm ngay! Không cho ló lói lữa!
Toành rít lên.
Thầy đứng thẳng như cây cột chôn trước mặt. Cây cột như cũng sửng sốt nhìn thầy, ngạc nhiên sao một con người lại có thể đứng yên được trước sự xúc phạm, vu oan giá họa đến thế.
Ông Đội quát tháo ra lệnh cho du kích, dân quân bắt thầy phải quỳ xuống.
Tiếp theo, đến lượt Hĩm Xoa, vợ chồng Cò Toe bước lên đấu tố.
Vẫn những chuyện cũ lặp lại hai lần đấu trước: cướp ruộng, tiêm thuốc độc cho vợ Xoa chết, nhét lưỡi cưa vào ruột thằng cu con Cò Toe. Lưỡi cưa đó rành rành là của y tá Toành mớm cho Cò Toe. Khi nói ra chi tiết này, Cò Toe hơi lúng túng quay sang nhìn Toành lúc đó đã từ “khán đài” xuống chầu chực sẵn bên…
Một điều lạ, có thể người ta không tin được, thầy không có ghét bỏ căm thù gì những người nghèo khổ tăm tối đó. Họ là người làng nước, bà con xóm giềng thân thuộc của mình bao đời nay bây giờ trở thành nạn nhân, con tốt trên bàn cờ đen tối và độc ác của Đội Cải cách. Giả sử, nếu Trời thương Đội cho thầy thoát khỏi án tử hình, Mai Duy Vỹ lại sẵn sàng cầm túi thuốc nửa đêm lên đường, khi họ lâm bệnh đến nhà mình cầu cứu.
Ôi! Chữ Tâm của Mai Duy Vỹ, Lòng Nhân của dòng họ Mai xứ Nga Sơn - Thanh Hoá!
Dẫu rằng không theo Phật Giáo và Công Giáo, đôi lúc thầy vẫn nghĩ đã là con người thì không ai tránh khỏi tội lỗi. Đó là lẽ tự nhiên… Mình sinh ra trong gia đình sung sướng ắt phải mang nợ với những kẻ tật nguyền, nghèo khổ. Và, đi theo Đảng, làm đầy tớ cho dân, san bằng cái hố giàu nghèo để khắp thế giới này chẳng còn người bị đói khổ áp bức, ai ai cũng bình đẳng sung sướng… đó chính là mơ ước của thầy…
Trong Chỉnh huấn khi viết tự kiểm điểm, thầy cũng đã thành khẩn bộc lộ, kê khai những sai lầm tội lỗi của mình đối với bà con nông dân nghèo khổ và thấy mình trở nên trong sạch khoẻ khoắn như một con bệnh được chữa lành cứu sống.
Nghe bạn kể, ông Karl Marx nghèo túng đến nỗi không còn đồng nào trong túi để trả tiền thuê nhà trọ, cuối tháng phải trèo tường chạy trốn chủ nhà; Bác Hồ giản dị tiết kiệm chỉ mặc bộ quần áo nâu, đi dép cao su, quanh năm ăn cơm muối khoai lang cà pháo… thầy rưng rưng nước mắt.
Thầy đã kể lại những mẩu chuyện này cho cả nhà nghe để răn đe, giáo dục mọi người.
Con ạ, thầy chẳng ưa gì lối sống tu hành của các nhà sư và cha cố; nhưng sao mình lại mang một đức tin ngây thơ rằng hình như chỉ sống trong nghèo khổ con người ta mới có đạo đức và, mọi tội ác trên đời này đều bắt nguồn từ cuộc sống giàu sang, thừa mứa?
Và người Cộng sản xuất hiện!
Người Cộng sản sinh ra trên Trái Đất này là để hoàn thiện ước mơ cao đẹp nhất của con người!
Đến nước này rồi mà Mai Duy Vỹ cẫn còn nghĩ ngợi lan man như thế đấy, thử hỏi có dở hơi không?
Và kìa, Lệ Uyên ơi, Thần Chết đã đến lạnh lùng đứng bên “khán đài” cách một quãng trước mặt thầy. Bên tai thầy có ai nói thầm thì:
“Vỹ ơi! Tội ác trên thế gian này lũ lụt kéo đến từ hai phía, phía người giàu và cả phía người nghèo. Đừng lầm tưởng rằng chỉ có phía người giàu thôi đâu, và hình như… con ơi, điều trái với mong muốn của tất cả chúng ta là, cái phía người nghèo ấy xem ra lại nhiều và… nhiều hơn! Ôi! Tai họa!
- Vỹ!
Tiếng người hét trước mặt gần đến nỗi thầy váng cả đầu óc, chưa nhận ra được ai kia, Thần Chết hay y tá Toành, vừa đè dí ngón tray trỏ vào trán làm mình xuýt ngã ngửa.
- Mi có biết tao nà ai không?
- Dạ, biết…
- Lói to nên cho bà con lông dân, quần chúng nao động Quân chủ nực Cách mạng người ta nghe! Hử! Mi có biết tao nà ai không?
- Dạ, thưa… Ông là ông Toành, y tá…
- Ái chà! Mi tưởng mi nà y sĩ nà ghê gớm nắm hả? - Toành dừng lại cười gằn - mi nà cái cục cứt, con chó, con nợn mà thằng Pháp ló lặn ra… Có phải bọn Tây, mấy thằng đốc tờ Pháp, chúng ló dạy mày cưa chân, chặt tay bộ đội, mổ bụng người ra nhét nưỡi cưa vào ruột gan họ rồi khâu chỉ nại rồi thì… mi còn pha chế tẩm chất độc vào những viên thuốc của Tây rồi đưa cho anh em chiến sĩ, bà con lông dân uống để người ta năn đùng ra chết. Có đúng như thế không?
Thầy im lặng. Cố nhớ lại và hơi ngạc nhiên. Thật ra mình đâu có biết gì nhiều về cái anh Toành này. Cò Toe, Hĩm Xoa… bà con trong làng thì mình biết, bởi họ cùng quê, thậm chí cùng họ… Còn Toành? Họ tên hắn là gì, quê quán ở đâu? Hình như có ai nói hắn từ Thái Bình vào Nga Sơn năm đói Ất Dậu 45; lại có người nói hắn chạy loạn từ Ý Yên Nam Định vào đây năm 1947?…
- Vỹ! Mi giết tất cả anh em bộ đội, bà con lông dân, trẻ già nớn bé nà… nà… hai trăm mạng người có đúng không? Hử!
Thầy ngước mắt nhìn Toành, ngạc nhiên về sự bịa đặt tưởng tượng của con người - động vật tàn ác nguy hiểm nhất trên Trái Đất. Con số 200 mà Toành vừa công bố đã được Đội Cải cách thống kê ghi vào biên bản lần đấu thứ hai. Hôm đó, chẳng hiểu vì đầu óc đã điên loạn hay bởi cái bản chất nghịch ngợm, hài hước từ thuở còn là học trò, thầy đã xin phép Đội được sửa con số 200 thành 1955… Vậy mà sao hôm nay hắn vẫn còn nhắc lại?
Thầy nói nhanh để hắn không kịp ngăn lại:
- Thưa ông Toành. Con đã nói lần trước rồi sao ông vẫn không nhớ? Không phải chỉ 200 đâu! Con đã giết tất cả là một ngàn chín trăm năm mươi lăm mạng người!

Toành ngớ người. Hình như hắn chưa hiểu ra.
- Thưa ông Toành. Năm nay là năm 1955. Tính từ khi con cầm xê ranh, dao mổ cho đến nay, con đã giết tất tần tật là một ngàn chín trăm năm mươi lăm mạng người chứ còn sao nữa? Chỉ hai trăm thôi à? Ít quá! Một lần nữa… Con xin nhắc lại!
Đám đông Quân Chủ lực Cách mạng ồn ào, sôi động. Có tiếng ai cười khẽ.
Toành chợt hiểu, cười găm lại trong mồm:
- Mi nếu náo hả Vỹ? Đến chết rồi mà vẫn còn dám đùa cợt, chế nhạo các ông bà lông dân chúng tao.
Rồi vụt đứng thẳng người, tay vung nắm đấm lên hô:
- Đả đảo thằng Vỹ náo xược, ngoan cố, coi thường quần chúng, Quân Chủ nực Cách mạng, chế nhạo bà con bần cố lông dân!
- Đả đảo!
- Đả đảo!
Biển người đả đảo ào ào cuộn dâng lên. Toành càng hét to hơn:
- Kiên quyết đấu gục Mai Duy Vỹ, thằng địa chủ bóc nột gian ác, thằng thầy thuốc giết người cưa chân, chặt tay bộ đội, uống máu lông dân, bỏ thuốc độc cho bệnh nhân uống…
- Đả đảo! Đả đảo!
- Có khổ nói khổ nông dân vùng lên!
- Vùng lên! Vùng lên!
Mắt Toành đỏ nọc như vừa bật máu. Hắn dừng lại lấy sức, dồn hơi để hét:
- Vỹ!
- Dạ.
- Mi đã cắt dây điện để cho quân ta không nhận được nệnh của Bộ Tư nệnh mặt trận ở trên đánh Móc về! Có phải không?
- Dạ.
- Vỹ! Chính mi ở Nho Quan đã bấm đèn bim nên trời để gọi máy bay Pháp tới bỏ bom. Đúng không?
- Dạ
- Có đúng không? Dạ nghĩa nà nàm sao?
- Dạ!
- Vỹ! Có phải mi đã niên nạc với Nê Hữu Từ ở Phát Diệm không?
- Dạ. Không. Thưa ông Toành. Con đâu phải người Công Giáo. Con theo đạo Cộng sản, làm sao quen biết được Giám mục Lê Hữu Từ?
- Mi lói náo! Mi với hắn là hai thằng phản động cấu kết với nhau, niếm gót giày cho Pháp, chống phá Cách mạng!
- Dạ. Kính thưa Đội! Kính thưa các ông bà Nông dân - Thầy nói chậm rãi - Con không có quen biết gì với cha Lê Hữu Từ cả. Nhưng Bác Hồ, năm 1947, theo lời mấy ông trên Tỉnh nói cho con biết, Bác có vào thăm Thanh Hoá, lúc về Bác đã ghé qua Phát Diệm gặp Lê Hữu Từ khuyên bảo ông ấy nên đoàn kết Lương Giáo chống Pháp…
Ông Đội trưởng đặt điếu cày xuống, đập bàn, đứng dậy, xỉa ngón tay trỏ xuống phía thầy, thét lên:
- Vỹ! Mi toàn bịa đặt, nói láo! Bác Hồ sao lại đến gặp Lê Hữu Từ? Nó là thằng cha cố phản động bán nước buôn dân. Mi cả gan dựng chuyện cho Bác Hồ, định hạ uy tín lãnh tụ tối cao của toàn dân phải không? A! Thằng này… ghê gớm thật. Tự lột trần rành rành chân tướng của một tên Việt gian bán nước… Đáng tội chê… ết!
Toành chồm tới nhổ một bãi nước bọt vào mặt thầy, xỉa xói theo:
- Vỹ! Chính mi đã cứu sống thằng Tây Giắc, thằng Pháp cướp lước. Sau đó, một thời gian dài mi nàm gián điệp cho ló, cho tới Hiệp định Giơnevơ khi ló về lước. Thưa bà con Lông dân, Quân Chủ nực… các đồng chí ạ, thằng Vỹ với thằng Giắc, hai đứa suốt thời gian ở mặt trận cứ lói chuyện với nhau bằng tiếng Tây xì nà xì nồ… Ló lói gì, chỉ chúng ló mới hiểu được thôi. Nhưng anh em, đồng chí trong quân đội hồi ấy, rồi người ta cũng biết, biết hết… Chẳng hạn, thằng Giắc giơ tay nên quay vòng nà ra cái ý máy bay Pháp ló nượn vòng, còn thằng Vỹ thì… cũng giơ tay nên nhưng nại đâm thọc xuống rồi kêu đùng một cái, tức nà ra hiệu cho phi công Tây ló lém bom chứ còn gì lữa! Có phải thế không hở bà con, các đồng chí?
Ông Đội trưởng hô to:
- Đả đảo thằng Việt gian Mai Duy Vỹ liếm gót Tây, cấu kết với Pháp, âm mưu bán rẻ nước ta cho bọn thực dân đế quốc!
- Đả đảo!
- Đả đảo!
- Thằng Vỹ đáng tội chết!
- Phải tử hình Mai Duy Vỹ!
- Tử hình! Tử hình!
Mặt trời bỗng nhiên ló ra khỏi đám mây đen. Ánh nắng lấp loáng trên “khán đài”. Thầy nheo mắt cảm nhận đây là tia nắng cuối cùng của Trái Đất. Vầng mặt trời quang minh chính đại thênh thang đi vòng trên đầu thế gian từ khi Mai Duy Vỹ mở mắt chào đời cho đến nay. Mặt trời đỏ lửa thần diệu ấy bây giờ không còn nguyên hình nữa, chỉ là một đám cháy… Đám cháy cũng sắp tắt. Quả nhiên đám mây đen khác đùn tới, che lấp. Bóng tối sa sầm. Một giọt mưa trên cao ấy rơi nghiêng xuống đúng vào giữa trán thầy.
Ông Đội trưởng đọc to, dằn nặng từng tiếng Nghệ An những dòng chữ trên tờ giấy trong lòng hai bàn tay run run… Bản án tử hình Mai Duy Vỹ đã được Đoàn Cải cách - Cấp trên ký duyệt.
“Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Độc lập Tự do Hạnh phúc”
Thầy chỉ nghe được ngần ấy chữ. Cái đoạn kể tội, luận tội vu vơ, lảm nhảm cứ như lời trẻ con chơi bịt mắt bắt dê; và cả cái phán quyết giết người rùng rợn cũng như trò đùa, tuồng diễn trên sân khấu: Tên địa chủ phản động Mai Duy Vỹ phải chịu án tử hình!
Thần Chết đã tới, đứng gần cây cột chôn trước mặt.
Lời ai đây nghe rành rọt bên tai thầy:
“Người ta bảo Cách mạng là ngày hội của quần chúng. Mai Duy Vỹ ơi, anh đã mải mê đi trong đám quần chúng. Và tới bây giờ, trên sân khấu của Ngày Hội anh cũng phải tham gia đóng nốt vở tuồng. Khốn nạn thân anh, vai diễn này lại đẫm máu và nước mắt!”
Họ dựng thầy dậy, lôi ra khỏi cái hố cạn, đẩy kéo sang tới cây cột dựng đứng kia.
Thoạt tiên, họ định cởi tháo dây trói trật cánh khuỷu ở sau lưng thầy nhưng y tá Toành không chịu. Theo ý Toành, cứ để như thế rồi trói luôn vào cây cột. Cò Toe, rồi cả Hĩm Xoa không tán thành bởi lẽ, nếu để vướng hai tay trật sau lưng thì làm sao mà trói được, đã vừa cấn cái… lại không chắc chắn. Phải tháo ra rồi cũng trói hai tay sau cây cột thì tiện lợi hơn. Ba tên cãi nhau. Ông Đội trưởng lại đứng ra phân xử.
- Sau trước gì rồi cũng phải tháo dây thừng, cởi trói ra - Ông ta nói - Bắn xong rồi, còn phải cho nó xuống huyệt nằm để mà lấp đất chứ!
Toành vẫn còn cay cú:
- Để ló chết trong tư thế bị trói mà chôn nại không hơn à? Như thế mới đúng cách. Sang tới Bên Ấy ló có muốn ngửa tay đi ăn xin bà con lông dân cũng không được. Phải thế chứ!
Cò Toe, Hĩm Xoa lặng lẽ làm theo phán quyết của Đội. Thoáng chốc, họ đã cởi tháo hai tay thầy rồi trói ngoặt ra phía sau cây cột; một cuộn thừng quấn năm sáu vòng từ ngang ngực xuống bụng. Một đoạn thừng buộc hai ống chân vào cột…
Trói rất chắc, thở cũng đã khó, chứ chưa nói đến muốn cụ cựa…
Ông Đội khẽ ra lệnh:
- Bịt mắt nó lại. Miếng giẻ đâu rồi?
- Dạ. Có… có đây…
Toành nói sau lưng thầy. Vội bước lên, lôi trong túi áo ra một đoạn vải dài đã buộc nối, rộng bản chừng ba ngón tay chập lại, hắn làm một vòng quanh đầu thầy rồi buộc thắt phía sau gáy. Đoạn vải đen đã cũ, khăm khắm mùi mồ hôi nước tiểu Toành đặt để chưa đúng cách, trước lỏng sau chặt, hơi tụt xuống sống mũi… Thằng hậu đậu! Chứng nào vẫn tật ấy. Y hệt như năm xưa buộc ga-rô, quấn bông băng cho anh em thương binh.
- Đồng chí Đông đâu rồi?
Ông Đội nói nghe khản cả tiếng.
- Dạ thưa Đội, có… có tôi.
- Từ nãy giờ đi đâu, sao chưa đứng vào hàng ngũ?
- Dạ… dạ…
Thật lạ lùng. Lệ Uyên ơi! Nói ra hẳn không ai tin: thầy muốn gặp lại, thấy mặt chú Đông! Cả nhà ta không có ai được đến đây để… tiễn đưa thầy. Dòng họ Mai vắng mặt, diệt vong hết rồi sao? Thôi thì, dù chú ấy có thay lòng đổi dạ đi nữa vẫn còn là con nuôi của ông bà, vẫn là dấu vết, hơi hướng của dòng họ Mai chúng ta! Sự ngu dốt kém cỏi của con người hoá ra đôi lúc cũng cần thiết: thầy vẫn thấy được mờ mờ qua băng giẻ buộc che hai con mắt. Kìa! Chú Đông đang nhìn thầy, hố mắt hoảng loạn, tay run run giơ ra cầm lấy khẩu súng trường.
Ông Đội điểm danh đủ 6 tên: Toành, Cò Toe, Hĩm Xoan hai anh dân quân và Lê Trạch Đông. Sáu người đứng dàn thành hàng ngang.
- Chú ý! Tất cả làm theo lệnh tôi!
Ông Đội vừa nói dứt câu thì ai kia từ đám đông xô đẩy, chen lấn người bước ra… Người đàn bà này đâu phải ai xa lạ, thím Đông, vợ Mai Duy Đông, tóc tai loà xoà, miệng chửi bới, hai tay vùng vẫy giằng lấy khẩu súng của chồng làm chú Đông loạng choạng để mũi súng quệt xuống đất.
- Anh hèn nhát, anh sợ… anh không dám bắn nó hả? - Thím Đông hét lên - Đưa súng đây, tôi bắn cho! Thằng Vỹ phải đền nợ máu!
Cả đấu trường nhốn nháo. Thần Chết cũng sững lại, đưa mắt nhìn về phía người đàn bà lạ lùng đó. Thím Đông nhà ta, không phải là ai khác, đã xô chồng ngã dúi dụi lăn quay trên đất, hùng hổ cầm khẩu súng trường đứng vào vị trí của chồng.
Vĩnh biệt!
Vĩnh biệt Nga Sơn quê hương ngàn đời! Vĩnh biệt dòng họ Mai! Vĩnh biệt Thầy Mẹ kính yêu! Vĩnh biệt vợ hiền thương! Vĩnh biệt Thanh Tâm, Lệ Uyên, các con yêu quý… Mai Duy Vỹ đi đây!
Trước mắt thầy lần lượt hiện ra từng khuôn mặt thân thương yêu dấu. Lệ Uyên ơi! Con gái yêu của thầy!
Đừng nhìn thầy như thế! Đừng buồn! Đừng khóc! Đừng oán trách thầy để con côi cút giữa Trần gian!
- Tất cả các đồng chí làm theo lệnh tôi! - tiếng ông Đội nhắc lại - Bồng súng lên!
Sáu cây súng cùng giương lên nhằm về một phía - Mai Duy Vỹ! 

CHƯƠNG 44
CHÔN SỐNG
- Bắn!
Năm viên đạn nổ cùng một lúc. Một viên đạn nổ tiếp theo. Viên đạn chính xác hơn cả của y tá Toành trúng vào ngực phải, xuyên qua phổi. Bốn viên kia vào bụng, cổ, tay, chân. Và viên sau cùng, có lẽ của thím Đông, bay sượt qua đầu thầy. Một tràng vỗ tay nghe rời rạc đứt quãng. Toành chống súng xuống đất, nhe răng cười. Nghĩ ngợi thế nào, hắn lại quay đầu lại đám đông quần chúng - Quân Chủ lực Cách mạng la lên:
- Sao vỗ tay ít thế? Chỉ vỗ vậy thôi à? Ơi bà con ơi! Vỗ tay nên! Vỗ mạnh nên! Lào lào!…
Im lặng.
Ông Đội bước tới, nhìn hai con mắt thầy vẫn còn mở, toàn thân run giật, nói:
- Thằng Vỹ còn sống hả?
Họ xúm nhau lại, từng người cúi đầu xuống nhìn.
- Dạ, còn sống…
Y Tá Toành cúi đầu sát xuống nhìn vào mắt thầy, lùi lại nói với ông Đội:
- Xin đề nghị đồng chí… bắn thêm cho ló một phát lữa vào đầu, thế nà chắc ăn.
Ông Đội ngần ngừ. Toành vẫn bám dai:
- Theo đúng nuật quốc tế mà! Các lơi đều nàm thế…
Ông Đội lầm bầm:
- Sáu người bắn vào một cái xác không hồn mà rồi cũng không xong! Các đồng chí làm ăn như cứt! Bộ đội ngoài chiến trường mà như thế ni có mà thằng Pháp nó chịu giơ tay đầu hàng cho!
Toành đế theo:
- Thôi, các đồng chí ạ. Nần lày ta rút kinh nghiệm cho những nần sau…
Ông Đội lừ lừ nhìn hắn, hự một tiếng:
- Lần sau là thế quái nào? Đồng chí nói năng gì lạ. Lần nào nữa?
Đám đông quần chúng, Quân Chủ lực Cách mạng đang nhốn nháo hoảng loạn. Cái đê người vỡ dưới kia ầm ào tiếng kêu la lẫn tiếng khóc… Những bàn tay bưng che… Những chiếc nón rách úp trùm mặt.
Ông Đội bối rối nói:
- Các đồng chí! Đằng nào nữa, sớm muộn trước sau gì thằng Vỹ cũng chết. Chỉ lát nữa thôi. Chi bằng lôi cổ nó xuống huyệt chôn quách đi cho rồi! Tôi ra lệnh: Chôn! Chôn ngay!
Họ xúm nhau lại quanh cây cột, tháo gỡ dây thừng giằng buộc thi thể tội nhân. Cò Toe càu nhàu rằng Hĩm Xoa buộc quá chặt bây giờ khó gỡ nút. Hĩm Xoa gọi thêm mấy dân quân nữa tới giúp việc. Họ dùng liềm giật, lấy dao cứa đứt. Thầy tụt xuống, tụt xuống… cho tới khi hai đoạn dây cuối cùng buộc hai ống chân đứt sổ thì thầy đổ xuống, lăn ra đất…
Bỗng nhiên, sự Sống từ Trời cao xuống, từ dưới Đất lên, hay từ dòng giống họ Mai xưa mấy ngàn năm Hùng Vương dựng nước trở về làm thầy hồi tỉnh. Nhịp đập trở lại trái tim, hơi thở mở hai buồng phổi, óc não phát sáng.
Chẳng biết thần linh nào hiện ra sai khiến, bảo thầy chắp hai tay, run rẩy đưa lên trước ngực… Thầy nói:
- Tôi lạy các ông… đừng chôn sống tôi… cho tôi sống… để tôi chữa bệnh cho dân…
Ông Đội ngẩn người ra chốc lát, cau mày, hình như không hiểu ý nghĩa câu nói của thầy.
Thầy lặp lại:
- Cho tôi sống… tôi chữa bệnh cho dân…
Rồi đuối hơi, lịm ngất đi. Máu từ đâu lại ứa ra, kéo màn che cả bầu trời trước mắt.
Y tá Toành rít răng, giọng khàn đục nghe vẳng bên tai:
- Chữa bệnh cái gì! Có mà mày nại giết hại bà con lông dân ấy chứ. Lợ máu phải đền lợ máu! Thằng Vỹ, mày phải chết! Lào, lào… các đồng chí, mỗi người lắm một tay, một chân cùng tôi…
Hắn cùng cò Toe, Hĩm Xoa, thím Đông - bốn tên nắm hai tay hai chân thầy lôi kéo đến huyệt chôn.
Máu ộc ra từ người Mai Duy Vỹ, rớt chảy trên đất cát một vệt dài. Ném thầy xuống huyệt rồi, tay chân họ đều dính máu. Cò Toe, thím Đông vừa đưa tay lau quệt vào ống quần vừa nhổ nước bọt.
Cái huyệt vừa hẹp lại vừa ngắn. Vùng đất này cát pha, có cứng lắm đâu mà sáng nay họ đào qua loa chiếu lệ. Mai Duy Vỹ chỉ cao mét sáu dư vài phân thôi mà họ không để cho hắn được nằm duỗi thẳng tay chân trong huyệt. Lại phải kéo hai chân, nhô đầu gối lên, co hai ống sậy. Đã vậy, chiều sâu cũng chỉ bằng nửa cây gậy chống, chắc hồn ma Vỹ có thể đêm đêm giơ tay lên chỉ trỏ, trò chuyện với các vì sao! Mà biết đâu đấy, chỉ một hai trận mưa xuống, đất trôi đi hết là xương thịt hắn lại lòi ra cho quạ rỉa, chó tha…
Nga Sơn ơi! Đất Mẹ mênh mang sâu dày cho cói mọc người sinh, sao nỡ để đứa con bất hạnh của mình phải nằm xuống trong cái nhà mồ theo kiểu chuột chui dế đùn thế này! Luật nhân quả bù trừ bao trùm khắp thế gian. Ai bảo ông bà tổ tiên họ Mai xưa khai phá đất hoang rừng thiêng làm gì, ôm cho lắm vườn ruộng vào mình, để vạ Cải cách Ruộng đất bây giờ lại cho con cháu, bắt Mai Duy Vỹ phải độc đắc trúng cái án tử hình này!
Lệ Uyên ơi! Thảo nào ông nội con lúc hấp hối đã sấm truyền lại: sau khi tôi chết rồi, con cháu có chôn tôi thì khỏi cần tới hòm ván, nhưng nhớ đào huyệt thật sâu, chôn thật sâu; dẫu thân xác có làm mồi cho giun dế cũng được, miễn sao đừng để người đời đụng tới, moi tìm ra!…
“Anh Vỹ!”
Có tiếng ai vừa gọi thầy?
“Đồng chí Mai Duy Vỹ!”
“Có tôi! Ai gọi tôi đó?”
“Cao Hữu Hiến đây…”
“Cao Hữu Hiến, Ty trưởng Ty Lao động Thanh Hoá phải không?”
“Vâng. Chính tôi!”
Giữa trời mây u ám, tia chớp loé hiện ra một khuôn mặt thân thương quen thuộc. Kém thầy một tuổi, con người mới 35 xuân nở một nụ cười tươi, hàm răng sáng tuyệt đẹp… Cái đẹp của một thời hăng say bốc lửa, dâng trọn cuộc đời cho lý tưởng Cộng sản mà Paul Vaillant Couturier gọi là “Mùa xuân của nhân loại”.
“Vĩnh biệt Mai Duy Vỹ! Tôi đi trước anh nhé!”
“Ơ kìa! Sao vội vàng thế? Lại không nói với nhau được một lời hay sao? Hiến ơi!”
“Biết nói gì bây giờ? Vỹ ơi! Ở đời chẳng có cái gì bất biến vĩnh cữu, kể cả chủ nghĩa Cộng sản. Tôi vào Đảng
Cộng sản từ thời bí mật, trước anh 5 năm. Vậy mà bây giờ, cũng như anh, bọn côn đồ, lưu manh, cơ hội chúng nó dám gán cho mình cái nhãn hiệu là Quốc Dân Đảng. Đồng chí Vỹ à, thời nay chúng nó cũng chẳng biết Mác Ăngghen là ai đâu; toàn nói mép cả thôi, và dĩ nhiên cái đầu Nguyễn Thái Học cùng với 11 cái đầu đồng chí của ông ấy rơi xuống trong khởi nghĩa Yên bái, thậm chí cả đầu của Nguyễn Thị Minh Khai trong khởi nghĩa Nam Kỳ chúng cũng chẳng quan tâm…
Tôi không có được sự kiềm chế như anh. Chữ Nhẫn trong tôi yếu lắm. Sáng hôm qua, nhân lúc người gác ngục đi ra ngoài đánh rớt cái gương con trước cửa, tôi vội nhặt lấy. Thừa biết sớm muộn gì cũng chỉ vài hôm nữa chúng nó sẽ tới dẫn mình đi cho “ăn kẹo đồng” theo lối nói đùa cợt mất dạy của tụi này, đồng chí Vỹ ạ, tôi quyết định tự tử! Trọn đời, tôi chỉ chấp nhận một toà án duy nhất - đó là Đảng Cộng sản của tôi.
Vì vậy, tôi đã đập vỡ cái gương tròn vừa bằng lòng bàn tay ra làm hai mảnh. Chọn cái mảnh có mũi nhọn sắc hơn, tôi rạch thẳng một đường từ cổ họng chạy xuống tới bụng dưới; rồi thọc tay vào trong sâu lôi rút hết tất cả ruột non ruột già ra… Máu chảy lai láng từ trong nhà tù, ngoằn ngoèo tới ngoài cửa, bò ra tới sân…
Bọn chúng trông thấy, hốt hoảng chạy vào. Tôi giơ tay chỉ đống ruột bầy nhầy, lòng thòng trước bụng nói:
“Xin nhờ các ông báo cáo lên trên… để cho Bác Hồ và Anh Trường Chinh biết ruột gan lòng dạ của Cao Hữu Hiến, đảng viên Cộng sản trong trắng như thế này đây!”…
Nói vừa hết câu, tôi tắt thở.
Vợ con tôi ở xa. Các con còn nhỏ.
Chỉ có hai cháu Duy và Sơn, con của hai ông anh ruột, may vừa tới kịp. Các cháu dùng một cái đọi lớn, loại bát múc canh, úp vào trước bụng, che lại để cho mớ gan ruột khỏi sổ ra lòng thòng; đoạn lấy dây chuối buộc chận vòng từ bụng xuống dưới lưng, rồi đặt tôi lên võng cáng đưa về nhà.
Tôi quê ở Thừa Thiên - Huế. Vì tham gia Cách mạng nên xa nhà từ nhỏ, không được như anh nằm trong lòng Đất Mẹ Nga Sơn - Thanh Hoá. Cũng như anh, tôi chết chôn không ván không hòm, bó cuốn manh chiếu rách; chỉ hơn anh mỗi một điều là cái huyệt của tôi các cháu đào rất sâu, nằm ở dưới này duỗi thẳng chân tay rộng rãi và thoải mái!
Vĩnh biệt nhé, bạn thân yêu Mai Duy Vỹ! Tôi về trước anh đây! Hẹn gặp lại!”
Tia chớp lại loé sáng. Con Rồng Đỏ hiện lên. Cao Hữu Hiến vụt biến.
Ông Đội vai mang xà cột, đi lại quanh huyệt tỏ vẻ bực bội:
- Có mỗi cái hố chôn cỏn con này mà đào cũng không xong! Từ sáng tới giờ, mấy cậu dân quân làm chi, ngồi tán phét hả? Mần ăn như cứt! Đồng chí Toành! Tôi đã phân công đồng chí…
Toành lý sự, phân bua:
- Báo cáo anh… có sao đâu ạ. Bà con lông dân ta chôn ló thế lày nà phúc cho ló nắm rồi. Chôn thằng Vỹ thì cũng như chôn con chó, con nợn… Tôi có cách lày, giải quyết nà xong ngay!
Vừa dứt câu hắn đã vớ lấy cái cuốc, đứng dạng háng trên huyệt, quay ngược lưỡi cuốc, trở cán giơ lên cao bặm môi méo mồm nện hai cái thật mạnh xuống hai đầu gối thầy.
Rắc! Rắc!
- Như thế lày đã được chưa, các đồng chí?
Hắn quay lại nhìn mọi người mắt long lên, miệng cười cười. Sự sống trong người thầy như dòng điện giật run, bật lên, co duỗi. Và hai con mắt lại tự nhiên mở ra trừng trừng nhìn những con quỷ, không phải đâu, những con người! Thanh Tâm, Lệ Uyên, ơi các con yêu thương, thầy vẫn còn sống mà.
Cò Toe cầm thuổng, Hĩm Xoa cầm mai, hai tên vọt lên đứng hai bên.
- Vỹ! Cho mày về chầu tiên tổ họ Mai nhà mày!
Toe vừa nói vừa nghiến răng giơ cao cây thuổng, giộng một nhát xuống đầu thầy. Xoa méo mồm trợn mắt giơ cao cán mai làm tiếp một nhát vào ngay mắt bên phải thầy.
- Vỹ ơi! Cho mày về chơi Âm phủ để mày chữa bệnh cho thằng cha sinh ra mày, con mẹ đẻ ra mày, chữa cho cái lũ địa chủ bóc lột, bọn Việt gian bán nước…
Thím Đông cũng cầm cuốc chen vào, cuốc lấy cuốc để lên đầu “Thằng Vỹ”.
- Tiên sư cha thằng Vỹ! Mả mẹ thằng Vỹ! - Tay cuốc mồm la - Tiệt nòi tiệt giống họ Mai nhà mi nhé.
Xem ra thím Đông đã thoả mãn bần cố, toại nguyện trăm phần trăm: vừa trút khỏi thân mình của nợ thành phần địa chủ, lại được mang cái lý lịch cao sang bần cố, đứng vào hàng ngũ các đồng chí. Cũng như mấy người kia, trên tay thím nhầy nhụa những máu và óc của Mai Duy Vỹ…
Lưỡi mai, lưỡi cuốc cứ va chạm nhau chan chát, rào rạo… Từng mảng óc hoà lẫn máu văng ra, phọt lên tung toé…
Lê Trạch Đông lùi lại sau… Tuân lệnh ông Đội chú ấy cũng cầm xẻng xúc đất đổ xuống huyệt, làm theo những người kia.
Chỉ trong thoáng chốc đất cát đã chồng chất lấp đầy xác Mai Duy Vỹ - nấm mồ của đứa con dòng họ Mai ở xứ Nga Sơn - Thanh Hoá.
Một ngọn Tam Lênh bé tí trong cõi người ngập tràn máu và nước mắt

CHƯƠNG 45
CHA ĐI TRƯỚC, CON VỀ SAU…
BÂY GIỜ CON LẠI ĐI TRƯỚC…
- Thầy ơi! Thầy ở đâu rồi?
Lệ Uyên hoảng hốt kêu lên, hai tay quờ quạng…
- Đây, đây… thầy của con đây. - Tiếng ông Vỹ nghe từ đâu xa xăm, vẫn trìu mến dịu dàng - Thầy kể xong rồi đấy. Những điều con muốn biết mà gần nửa thế kỷ nay thời gian còn kéo màn che kín, phủ đầy cả một biển máu và nước mắt. Thôi nhé, thầy đi…
- Một lần nữa thầy lại bỏ rơi đứa con côi cút tội nghiệp của thầy ư?
Lệ Uyên bật khóc. Ông Vỹ cười không thành tiếng; nụ cười còn nguyên nỗi buồn đau… lại hiện ra trước mặt hai chị em.
- Thầy chúc mừng các con đã được Siêu thoát …
Thùy Dương cũng ngỡ ngàng bối rối:
- Bác bỏ chúng con đi thật à? Bao giờ thì bác mới được Siêu thoát?
Ông Vỹ ngập ngừng, đắn đo:
- Bác còn phải chờ…
- Bác đã gặp Tiến sĩ Võ Ngọc Châu chưa?
- Có. Gặp rồi. Tiến sĩ Châu bảo tôi phải chờ tới năm hai ngàn lẻ 19…
- Sao phải tới 2000 lẻ 19, thưa bác?
- Năm đó, Bên Này sẽ có một biến cố trọng đại. Ông Châu cũng chờ… tới 2019 mới có người ở Bên Này sang Bên Ấy giữ Sổ Siêu Thoát thay phiên cho Tiến sĩ… Các con ạ, loài người ở Bên Này do đa phần không nắm được Thuyết Tương Đối, lại luôn bị nhốt tù trong Bể Khổ nên họ mỗi ngày một thêm nhỏ nhoi, tham lam, đố kị. Vì bị ép buộc sống bên nhau, lại chịu một Trời độc đoán đè nén nên càng ngày họ càng hèn hạ, càng hiểm độc tàn ác hơn. Cái mối dây ràng buộc liên hệ đó tệ hại khủng khiếp đến nỗi sang tới Bên Ấy rồi không phải ai cũng dễ dàng được Siêu thoát cả…
Những kẻ độc ác một cách hồn nhiên đó, cháu Thùy Dương ạ, hầu hết đều mắc tội và phạm tội. Họ vừa là nạn nhân lại vừa là phạm nhân… Làm sao chúng ta dễ dàng thoát ra khỏi mối liên hệ ấy? Bác đã nói rồi… Còn trường hợp bác thì…
- Cháu hiểu. - Thùy Dương bồng bột - Ôi bác! Trong gia đình Nhân loại ai cũng chỉ mong có được một người cha như bác; và cũng… mong sinh ra được một người con như bác..
- Cháu không quá lời đấy chứ? Bác đã gặp cha của cháu… Ông ấy là một người rất đáng mến…
- Bác ơi! Hồi còn ở Bên Này, dẫu nhiều khi sống lăng nhăng bậy bạ, cháu vẫn ăn nói thật lòng không chút giả trá. Chị Uyên không am hiểu đời sống xã hội bằng cháu đâu. Cháu biết rõ, cái lũ tự phong ta đây là thần thánh, chẳng có đứa nào đáng được gọi là người, toàn một bọn chó má, quỷ sứ, đồ ba que xỏ lá cả!
Ông Vỹ ngần ngừ, phân vân.
Thùy Dương càng hăng:
- Nếu bác theo đạo Ki-tô, chắc Toà thánh La Mã đã phong Thánh cho bác!
Ông Vỹ cười, vẫn nụ cười không thành tiếng, êm sâu như một vết thương.
- Không dám đâu, cháu! Bác nào có mơ ước làm một Jeanne d’ Arc?
- Thế thì… chắc bác phải là một vị Bồ Tát?
Ông Vỹ lại cười:
- Càng không dám… hai chữ Bồ Tát theo giáo lý Nhà Phật mà có lần bác tìm hiểu, có nghĩa là “chúng sinh đã giải ngộ”. Phải không cháu? Giải ngộ cho mình chưa đủ, còn phải giải ngộ cho người khác nữa! Thùy Dương ơi, bác Vỹ của cháu, nếu tính tuổi từ lúc mới sinh ra đến bây giờ cũng đã gần cả trăm năm trong cõi người… Vậy mà, bác vẫn chưa hiểu được mình là ai; vì sao mình lại sinh ra vào đúng cái thời khốc hại, ê chề, độc địa, tối tăm có một không hai này? Và cái vòng luân hồi sinh tử, tử sinh này đến bao giờ mới ngừng quay?
Ngậm ngùi một lúc, ông nói thêm như để cho riêng mình nghe:
- Tôi theo Đạo Con Người, đạo của chính tôi. Lúc ở Bên Này sang Bên Ấy, tôi đã nhận biết: có Trời ở trên đầu, có Đất ở dưới chân, có cha mẹ ông bà tổ tiên họ Mai sinh ra mình. Đạo của tôi là Đạo Ông Bà Tổ Tiên, Đạo ở quanh mình, khắp nơi khắp chốn…
Rồi quay sang Lệ Uyên:
- Con gái yêu của thầy mẹ… Thầy đã kể hết rồi. Toại nguyện chưa? Chúc mừng các con được Siêu thoát.
Thôi, để thầy đi!
Lệ Uyên hờn dỗi, vùng vằng:
- Chúng con không thể chờ thầy được sao? Thầy khoan hẵng đi!
Ông Vỹ chăm chú nhìn Lệ Uyên:
- Lạ thật! Con không có thay đổi bao nhiêu. Từ hồi ấy cho đến nay, 45 năm rồi, làn môi con gái họ Mai tôi vẫn thế, dỗi hờn, phụng phịu, thấm mọng nước mắt…
Đột nhiên ông thoáng giật mình, sửng sốt:
- Thôi, thầy phải đi…
Lệ Uyên hốt hoảng:
- Không! Không! Thầy cho con đi với! Biết thế này thì… thà con đừng có Siêu thoát nữa!
Ông Vỹ giơ tay ngăn lại:
- Đừng! Đừng! Con người ta có mệnh hệ, con ơi! Mệnh hệ con từ lúc mới sinh ra là để gắn với thầy. 45 năm qua, cha con mình chỉ nghĩ tới nhau. Thầy mong gặp lại con ở Bên Này để kể lại đầu đuôi câu chuyện cho con nghe. Nếu chỉ riêng có hai cha con mình thôi thì như vậy e rằng chưa đủ. Bởi Nhân loại-Lớn cần có một người thứ ba nữa xác nhận, chứng kiến, đó là Thùy Dương, em kết nghĩa của con. Thùy Dương cũng là con của thầy mẹ. Các con cứ yên tâm mà Siêu thoát. Thôi nhé, thầy đi…
Ông Vỹ lùi lại. Hình bóng ông nhỏ dần… Chỉ còn một đốm sáng loé lên.
Rồi tắt.
Biến…
CHƯƠNG 46
ĐOẠN KẾT (EPILOGUE)
SIÊU THOÁT
Lại trở về Bên Ấy…
Họ ngồi bên nhau im lặng.
Họ biết cái câu mình hoặc người kia sẽ nói lên, chỉ câu ấy thôi, hễ đã nói xong là một đột biến sẽ xẩy ra. Đột biến này xem ra rồi quá sức chịu đựng!
Lúc còn ở Dương gian, như mọi con người, cả hai đều sợ Chết, bây giờ một nỗi sợ khác xem ra còn lớn hơn, chiếm đoạt, ngự trị hình hài họ, thứ hình hài mảnh hơn ánh sáng, nhẹ hơn không khí cả siêu lần: nỗi sợ phải xa nhau!
Lệ Uyên chăm chú nhìn cô em kết nghĩa.
Cái đầu hơi nhỏ, mái tóc uốn kiểu con trai úp lên như chiếc súp lơ Đà Lạt nhuộm màu hoe khiến cho ả có vẻ ngây thơ dễ thương của một cô bé lai Tây, góp phần xoá bớt, mờ nhạt đi những nét chưa hoàn hảo của cánh mũi hếch, vầng trán hơi cao mà hẹp, hai con mắt hơi lồi bộc lộ sự lì lợm ham hố lắm khi nóng nảy đến dại dột…
Để bù trừ lại cái “trôốc” chưa lấy gì làm hoàn mỹ lắm, Bà Mụ đã nặn cho cô em một cặp môi phải nói rất chi là đáng kể, dẫu rằng có hơi mỏng một chút nhưng lại rất tươi. Màu tươi tự nhiên như cánh sen, nụ hồng lẽ ra chẳng cần tới mỹ phẩm (Thùy Dương đã hối hận vì đua đòi lây nhiễm phải thói quen dại dột thời hiện đại), mỗi khi cần mở ra hay khép lại để trình diễn hai hàm răng sáng bóng đều đặn không thể chê vào đâu được, đến nỗi Lệ Uyên đôi lúc cũng phải thầm so sánh tự thấy hàm răng của mình đúng là chưa đạt được điểm 10 như vậy, Hàm răng ấy khi phát ra, dù là âm điệu chọ chẹ của xứ “cà cuống có đuôi” vẫn đầy ma lực cuốn hút lòng hảo tâm, hào hiệp của phái mạnh!
Có lẽ chàng Lê Vĩnh thuở hoa niên đã đắm say một trong hai cái “góc” của nàng Phan Thị Thùy Dương thuở ban đầu gặp gỡ làm chi; sau này thì kể sao cho hết những đấng mày râu thời Đổi mới Tư duy lần lượt xếp hàng đứng sau, thế chân cho Lê Vĩnh, kẻ đã có tội phản bội và cũng góp công đột phá đổi mới nàng…
Nổi trội hơn cả có lẽ là Lão Hướn và kết thúc là đại tá Mai Đắc Xuân, người tình lý tưởng của nàng!
Biết kể sao cho hết bao kẻ không tên và có tên đã tự nguyện xung phong hoàn thành nhiệm vụ để làm thoả mãn khát vọng đổi đời của cô gái núi Hồng sông Lam!
Không ai đáng yêu dễ thương hơn cô em kết nghĩa của mình. Lệ Uyên thầm nghĩ. Mọi tiêu chuẩn về đạo đức, thẩm mỹ ở Bên Ấy, qua bao đời tưởng đã thành khuôn mẫu cho mọi người noi theo làm theo, bây giờ trở nên mớ bòng bong phế thải những lầm lẫn và ngu dốt!
Trong khi đó, Thùy Dương đã ngả người vào lòng chị kết nghĩa, mắt nhắm tay ôm ghì… Lệ Uyên khẽ kéo cái váy đầm bó xuống, phủ che đầu gối và cặp giò hơi nhỏ nhưng rất thẳng của cô em. Cử chỉ này làm Thùy Dương thoáng mỉm nụ cười biết ơn. Nụ cười dễ thương đến nỗi không kiềm chế được, Lệ Uyên phải cúi xuống đặt một cái hôn lên cặp môi hồng thắm, quên mất mình đang luyến ái đồng tính, điều mà nhân loại vẫn còn tranh cãi, rào cản…
Thùy Dương mở mắt ra. Ả cười. Trong mắt ả, người chị hiền thục và xinh đẹp, gần như trái ngược hoàn toàn với hình thể tư chất con người ả một thời, tưởng chừng như mâu thuẫn đến chối bỏ, phủ nhận thì nay đã gắn bó đến hài hoà: Chị của em, em yêu chị biết bao! Em chẳng bao giờ muốn xa chị!…
Lệ Uyên đọc được ý nghĩ ấy. Lẽ ra chị phải đặt ngay một cái hôn tiếp lên đôi mắt kia, nhưng đã ngập ngừng khiến cặp môi yếu đuối của ả phải run lên, mấp máy…
- Chị em mình…
Lệ Uyên vội vàng đặt bàn tay lên miệng Thùy Dương nhưng đâu còn kịp nữa, một phần nửa câu còn lại của cô em đã lọt qua kẽ tay chị, dẫu hơi lệch pha nhưng vẫn rành rọt:
- … Rồi sẽ ra sao đây?
Đột nhiên cả hai cùng rùng lên một cái, buông rời… Họ đều cố cưỡng lại, chới với, xáp vào nhau. Nhưng một lực kéo đến từ đâu hai phía, giữ họ lại, lôi họ ra khiến họ cảm thấy mình mỗi lúc một đuối sức và sự gắng sức của cả hai trở nên vô nghĩa. Người nọ thấy người kia cứ như giật lùi, trôi đi… mỗi lúc một cách xa nhau hơn.
- Lệ Uyên ơi!
Thùy Dương kêu lên rồi bật khóc.
- Thùy Dương! Chị đây mà…
Lệ Uyên nghẹn ngào, giơ tay vẫy…
- Chị…
- Em…
- Ơ kìa! Chúng ta mãi mãi xa nhau hay sao?
- Chị em mình rồi sẽ… lại gặp nhau…
- Gặp nhau ở đâu?
- Chưa rõ. Nhưng chắc rồi sẽ… gặp lại nhau. Em cứ tin đi!
- Biết thế này thì chị em mình thôi đừng có Siêu thoát nữa! Siêu thoát nỏ làm cái chi! Lệ Uyên ơi, em có mơ chi Thiên Đường, Niết Bàn như người ta đâu! Mà Thiên Đường, Niết Bàn dù có thật đi nữa rồi cũng chỉ nên hiện hữu, tồn tại ngay trong hiện tại của Cõi Trần chúng ta… Kiếp trước đã qua rồi, kiếp sau còn nói làm quái gì! Cứ ngồi đó mà chờ ngày mai tươi đẹp, mà đợi kiếp sau đàng hoàng! Chị em mình thà bị nhốt giam đời đời, muôn năm trong cái nhà tù đoạn trường, Bể Khổ   Trần gian… còn hơn là Siêu thoát như thế này!
Tiếng nấc.
Tiếng khóc.
Hai đốm sáng nhỏ dần.
Tắt.
Biến.

Đầu năm 2002 - Noel 2005
Hoàn chỉnh năm 2009
TRẦN THẾ NHÂN

 --------------------

BẠT
Thưa Quý độc giả!
Đến đây Quý vị đã đọc xong cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”.
Với những vị đã cao niên, từng kinh qua thực trạng xã hội Miền Bắc Việt Nam trong những năm 50 của thế kỷ trước, đều biết chắc chắn rằng cuốn tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” không khác gì một bộ phim phóng sự với độ xác thực 100% từ A tới Z.
Nhưng với những bạn sinh sau đẻ muộn, lại đang được sống trong một xã hội tự do dân chủ, rất có thể sẽ cảm thấy khó tin rằng ở quê hương chúng ta lại có một thời kỳ khủng khiếp hơn cả cảnh cuối tầng Địa ngục như vậy. Thật là ngoài sức tưởng tượng có phải không?! Nếu các bạn phân vân như vậy, thay vì tôi lớn tiếng dõng dạc tuyên bố: xin đem trọn cái mạng của mình ra đảm bảo cho cái điều không thể tin được đó là SỰ THẬT, thì tôi chỉ xin mời quý bạn hãy ghé về Việt Nam lúc này – thời kỳ những năm đầu thiên niên kỷ thứ ba – mà sống và chiêm nghiệm, dù chỉ một ngày thôi – cũng đủ để bạn nếm trải những gì đã được “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” ghi lại. Cảnh ấy, người ấy, không khí xã hội ấy, bạn tưởng chỉ là một quá khứ ngắn ngủi bi thảm của dân tộc ư? Không đâu! Thảm trạng ấy vẫn đang tiếp diễn nhãn tiền.
Quái thai độc tài đảng trị đã và vẫn đang ở cao trào đào huyệt nhằm chôn sống cả Dân Tộc. Hãy làm những gì trong khả năng của bạn để mỗi người và mọi người thấy, biết và hiểu rõ được điều này, cho bây giờ và cho cả mai sau./.
Nguyễn Quảng Tâm.
SUY NGẪM
KHI ĐỌC “NGÀY LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT”
CỦA TRẦN THẾ NHÂN
… Ôi ! quê hương
Hỡi những ngày xưa !
Thủy chung - nhân ái
Tất cả chìm-ngâm
Trong lừa dối cuồng điên…
Phùng Cung (1965)
Trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm của Dân Tộc ta, chưa từng có một trận thảm sát nào mà người Việt lại giết hại người Việt khủng khiếp như trong cuộc Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) dưới “thời đại Hồ Chí Minh” hồi giữa thập niên 50 thế kỷ 20! Đó là trận thảm sát dân lành cực kỳ man rợ do đầu óc kỳ thị giai cấp, do ý thức hệ Cộng sản của tập đoàn cầm quyền gây nên!
Trên thế giới đã từng có nhiều nước làm CCRĐ. Phần đông người ta làm một cách ôn hoà bằng cách Nhà nước mua lại số ruộng đất chủ sở hữu có trên tiêu chuẩn do NN quy định, hoặc cho phép họ được hiến tặng. Nhờ đó, các nước ấy đã nhẹ nhàng xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh, đồng thời giữ được hoà khí và ổn định xã hội, tránh những đảo lộn nguy hại.
Thế nhưng, các “lãnh tụ” Cộng sản thì cho đó là con đường “thoả hiệp giai cấp”, không đúng đường lối chủ nghĩa Marx-Lenin, không thể hiện tinh thần “đấu tranh giai cấp”, không phát động được lòng “căm thù giai cấp”, không mang tính “cách mạng triệt để”… Theo họ, CCRĐ phải là một “cuộc cách mạng long trời lở đất”. Phải “phóng tay phát động quần chúng”, nghĩa là làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, có thế mới dấy lên lòng căm thù giai cấp cao độ trong quần chúng bần cố nông mà họ coi là “quân chủ lực cách mạng” để đánh gục giai cấp địa chủ.
Đảng Cộng Sản dõng dạc tuyên bố CCRĐ là để thực hiện “người cày có ruộng”, ước mơ ngàn đời của nông dân. (1) Nhưng, đó chỉ là trên lời nói! Còn trong thâm tâm, các “lãnh tụ” Cộng sản có một ý đồ khác hẳn, nhắm những mục tiêu khác hẳn. Họ dùng khẩu hiệu “người cày có ruộng” làm “con mồi” nhử nông dân mà họ coi là “đồng minh chiến lược” (2) đi theo họ thực hiện những mục đích xa hơn, độc địa hơn. Họ dùng CCRĐ để tiêu diệt giới hữu sản bị họ coi là “giai cấp bóc lột” ở nông thôn, để truy quét các thành phần mà họ cho là “phản động”, quét sạch các tư tưởng và hệ thống giá trị đạo lý cổ truyền nặng về quyền tư hữu, loại bỏ cuộc sống tâm linh trái với chủ nghĩa vô thần của họ, xoá bỏ đạo đức truyền thống của gia đình, thôn xóm mà nền văn hoá làng xã lâu đời ở nước ta đã để lại. Chủ ý của họ còn là khủng bố tinh thần nhân dân, gây ra nỗi khiếp sợ triền miên trong người dân nhằm triệt tiêu mọi mầm mống chống đối họ. Họ ra sức xúi giục, kích động lòng hận thù, gieo rắc tính độc ác, tham lam, dối trá, đểu cáng… vào lòng người nông dân vốn chất phác, hiền lành… Tất cả những điều đó nhằm mở đường thực hiện cuộc cách mạng XHCN và huy động “quân chủ lực cách mạng” xông vào trận chiến đánh chiếm miền Nam.
Chính với ý đồ đó, các “lãnh tụ” Cộng sản đã gây ra những tội ác tày trời đối với Dân Tộc: họ đã biến CCRĐ và Chỉnh đốn Tổ chức thành một cuộc đày đọa, tàn sát dân lành và cả các cán bộ đã từng đứng dưới lá cờ của họ. Trong lúc nhân dân đang sống yên lành thì bỗng dưng Đảng phái những “Đội cải cách” về làng xã khép “tội” địa chủ cho nửa triệu người trong nước VN Dân Chủ Cộng Hoà (với dân số nông thôn hồi đó trên 10 triệu) (3), và số người này ngay lập tức bị hành hạ, bị đọa đày, bị giày xéo tận bùn đen! Hơn nữa, trên 172 ngàn sinh mạng vô tội đã gục xuống dưới lưỡi gươm “chuyên chính vô sản” vì bị quy oan là địa chủ cường hào gian ác, Việt gian, phản động, gián điệp, Quốc Dân Đảng! (4) Những cuộc “đấu tố” với cảnh con đấu cha, vợ tố chồng, con dâu vu oan cho bố chồng, con rể giá họa cho mẹ vợ, bà con, hàng xóm, láng giềng tố điêu lẫn nhau… đã đảo lộn đạo đức thông thường, giày xéo lên nền văn hiến lâu đời của người Việt, phá hoại truyền thống hoà hiếu, “lá lành đùm lá rách”, “tối lửa tắt đèn có nhau” của cư dân làng xã nước ta. Còn điều các “lãnh tụ” Cộng sản không ngừng rao giảng: “xây dựng con người mới” theo “đạo đức mới”, tức là “đạo đức Cộng sản” và “tư tưởng Hồ Chí Minh”, thì… than ôi, ngày nay, nhân dân ta đã thấy quá rõ “kết quả” thực tế rồi: đạo đức băng hoại, xã hội sa đọa, nạn tham nhũng tràn lan, nạn mua quan bán chức phổ biến, tệ nạn lừa dối, đảo điên, đểu cáng, độc ác… nhan nhản khắp nơi trong nước.
Còn câu chuyện hoang đường “người cày có ruộng” hoá ra là… một “quả lừa vĩ đại” mà Đảng Cộng Sản đã cho nông dân “xơi” đến bội thực! Vì CCRĐ vừa xong hồi cuối năm 1956, một số nông dân vừa mới hí hửng “cắm thẻ nhận ruộng” để Đảng chụp ảnh quay phim tuyên truyền thì đến năm 1957-1958, họ đã bị Đảng lùa vào hợp tác xã để “tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội”. Thế là ruộng đất của nông dân biến thành của hợp tác xã, còn người nông dân thì hoàn toàn lệ thuộc vào ban chủ nhiệm hợp tác xã, vào đảng uỷ và uỷ ban xã như những nông nô! Đến khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà “được” Đảng chuyển thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì… chỉ bằng một câu ngắn gọn trong Điều 19 của Hiến pháp năm 1980 “Đất đai, rừng núi, sông hồ… đều thuộc sở hữu toàn dân”, Đảng đã tịch thu một cách ngon ơ toàn bộ ruộng đất của nông dân, đất đai của toàn dân! Nông dân và nhân dân bị Đảng tước đoạt quyền sở hữu về ruộng đất, nói chung về đất đai, trong nháy mắt! Thế là ước mơ ngàn đời của nông dân mãi mãi vẫn chỉ là… “ước” và “mơ”!
“Quả lừa vĩ đại” này của Đảng chẳng phải một mình nông dân bị mà cả đại bộ phận nhân dân nước ta cũng bị. Thậm chí nhiều nạn nhân, khi đã “dựa cọc” rồi, sắp bị hành quyết mà vẫn chưa tỉnh, cứ nghĩ rằng tai họa của họ là do mấy “ông bà Đội” gây ra, nên trước khi chết có người vẫn gắng gượng kêu lên mấy tiếng “Hồ Chí Minh muôn năm!”. Con cái của họ, kể cả nhiều người có học thức mà vẫn cứ bị lừa cho đến… hơi thở cuối cùng! Mà chẳng những nhân dân ta, ngay cả một phần dư luận thế giới, một số nhà đại trí thức nổi tiếng cũng bị đánh lừa! Cố nhiên, đến bây giờ thì thế giới người ta tỉnh rồi, chỉ có một số khá đông người Việt Nam ta vẫn còn mê muội hoặc… giả vờ mê muội.
Mỉa mai thay, nửa thế kỷ sau cuộc “cách mạng long trời lở đất”, dường như Lịch sử Việt Nam lại trôi theo dòng chảy ngược! CCRĐ (1953-1956) “đã đánh đổ giai cấp địa chủ” thì giờ đây, ở nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, lại xuất hiện những địa chủ mới mà dân ta gọi là bọn “cường hào đỏ”, vì chúng là những cán bộ Cộng sản lợi dụng chức quyền chiếm dụng đất đai (là sở hữu toàn dân!) phát canh, thu tô, cho vay nặng lãi ở nông thôn để bóc lột chẳng khác gì địa chủ thời xưa. Giáo sư Viện sĩ Đào Thế Tuấn đã phải nói thẳng thừng: “Không có nước nào (như ở nước ta) người nông dân bị bạc đãi, bóc lột, hiếp đáp bởi bọn cường hào mới, đa số là đảng viên trong các đảng ủy điạ phương được cấp trên thông đồng che chở. Không ở đâu, chưa bao giờ nông dân bị tước đoạt đất ruộng qua “thu hồi” kiểu cưỡng bức và tùy tiện, với chính sách “đền bù” nhảm nhí, “bèo bọt” chỉ bằng một phần 10, có khi chỉ một phần 20 của giá trị thực!” Giờ đây lại xuất hiện cảnh nông dân cầm cố ruộng đất mà họ được phép sử dụng để đi làm thuê làm mướn hoặc đi tha phương cầu thực, các nhà khoa học xã hội gọi đó là “tình trạng ly nông”. Giờ đây xuất hiện thêm một lớp người “mới” có tên gọi là “dân oan”, tức là gần một triệu nông dân và người lao động bị chiếm đoạt đất đai, bị cướp đoạt nhà cửa đi “kêu oan”, thậm chí đi biểu tình, ở các “cửa quan” Cộng sản hàng chục năm trời mà vẫn “không đi đến đâu cả”! Giờ đây còn xuất hiện thêm những cảnh tượng nhục nhã chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà: “nhà nước xã hội chủ nghĩa” đem trên nửa triệu nam nữ nông dân, lao động “xuất khẩu” ra nước ngoài bán cơ bắp, mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa để nhà nước thu về hàng nhiều triệu đô la (5); “nhà nước xã hội chủ nghĩa” cho phép các dịch vụ “buôn người” dưới dạng “lấy chồng ngoại quốc” đưa hàng mấy trăm ngàn cô gái nông thôn vì nghèo đói phải bỏ mẹ cha, bỏ anh chị em, bỏ quê hương làng xóm để… bán mình cho các “ông… chồng” Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc…, thực chất là đi làm nô lệ, kể cả nô lệ tình dục! (6) Nhiều nhà nghiên cứu và nhà báo trung thực trong nước đã mô tả cuộc sống của người nông dân Việt Nam ngày nay còn lầm than, khổ ải hơn hồi trước “cách mạng”, hơn trước ngày “thống nhất đất nước”! Đó là sự thật hết sức phũ phàng mà nông dân Việt Nam đang phải ngậm đắng nuốt cay cúi đầu chịu đựng! 

CCRĐ “long trời lở đất” như vậy, một sự kiện lịch sử lớn lao như vậy, thế mà đã trên nửa thế kỷ qua, chưa có một công trình nghiên cứu chân thật, khách quan nào của các nhà khoa học trong nước được công bố! Chưa có một tác phẩm nghệ thuật, văn chương nào của các nhạc sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà văn, nhà thơ… trong nước diễn tả lại tấn thảm kịch đầy đau thương của Dân Tộc! Chẳng phải vì giới trí thức sáng tạo nước ta thiếu người có tài, có tâm, mà chỉ vì ngay sau CCRĐ các “lãnh tụ” Cộng sản đã coi đó là một trong những đề tài cấm kỵ không ai được đụng đến. Cái tabou khắc nghiệt này thì đám quan chức của chế độ cực quyền ngày đêm canh giữ nghiêm ngặt mãi cho đến ngày nay!
Hồi đầu cuộc “đổi mới”, cuốn “Ác Mộng” của Ngô Ngọc Bội chỉ mới dám lướt nhẹ qua chuyện “cải cách”… Mãi đến gần đây, đầu thế kỷ 21, mới lác đác xuất hiện vài cuốn tiểu thuyết đề cập thẳng đến đề tài cấm kỵ đó. Cuốn “Ba Người Khác” của Tô Hoài, hoàn thành từ năm 1992 nhưng chật vật mãi đến năm 2006 mới được xuất bản. Cuốn “Nước Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa Đăng sắp xuất bản thì bị cấm ngay tức thì và cuốn “Thời Của Thánh Thần” của Hoàng Minh Tường vừa in xong, chưa kịp phát hành thì số sách in đã bị Đảng ra lệnh thu hồi để nghiền làm bột giấy!! Một hành động man rợ, phản văn hoá của bọn Tần Thủy Hoàng thời nay!
Người viết những dòng này đã phải sống suốt quãng thời gian “long trời lở đất” rất kinh hoàng, đầy bi thương, đầy máu lệ, đầy chết chóc, đầy tàn phá, đầy “lừa dối cuồng điên”... Đã nhiều lần dự hội nghị về CCRĐ, được nghe “Bác Hồ vĩ đại” và “Anh Cả Trường Chinh” huấn thị về “CCRĐ”, “Chỉnh đốn Tổ chức”, về “phóng tay phát động quần chúng”... Đã từng chứng kiến nhiều cuộc đấu “địa chủ cường hào ác bá” ở Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Đông. Cũng đã từng đi làm nửa đợt “cải cách” ở Thái Bình, giữa chừng thì Thành uỷ xin về Hà Nội để nhận trách nhiệm lãnh đạo công tác “sửa sai cải cách” ở Ngoại Thành Hà Nội. CCRĐ quả là một cú đẩy mạnh làm người viết thức tỉnh, đánh giá lại Đảng Cộng Sản và các “lãnh tụ” của Đảng, cũng như nhìn lại con đường mình đã đi… Đó là khởi đầu cho một quá trình đấu tranh, dằn vặt, đau đớn để có được một nhãn quan mới, tư duy mới, cuối cùng dẫn đến việc rời bỏ Đảng Cộng Sản. Chính vì thế, người viết biết rõ nỗi đau khổ của bà con nông dân, vô cùng thông cảm với các nạn nhân của CCRĐ và nóng lòng mong mỏi được thấy những tác phẩm văn học nghệ thuật chân thật mô tả về sự kiện lịch sử đau thương này.
Thế rồi, hồi năm 1996, tôi đặc biệt cảm động khi lần đầu tiên được cầm trong tay tập copy bản thảo tiểu thuyết “Ba Người Khác” của Tô Hoài. Tôi thầm cảm ơn nhà văn Tô Hoài đã giáng một đòn mạnh vào cái tabou kỳ quái của Đảng để hé ra cho độc giả biết được phần nào sự thật về Cải cách RĐ. Ông là nhà văn lão thành có tên tuổi ở nước ta nên cái gương sáng của ông sẽ cổ vũ nhiều người khác noi theo.
Đọc xong, tôi đưa “Ba Người Khác” cho một ông bạn già xem. Ông ta đọc kỹ lắm rồi gặp tôi, ông bực bội phán: “Viết về CCRĐ mà Tô Hoài chỉ kể về ba thằng Đội ba lăng nhăng ấy thì không được! Phải nói đến “Ba Người Khác” cơ!” Tôi hỏi lại: “Là ai?” Ông đáp: “Ai nữa? Là Bác Hồ vĩ đại, Bác Mao cũng vĩ đại và Cụ Xít càng vĩ đại! Chính ba ông đầu nậu ấy đã bày ra cái chuyện “cải cách” ở nước ta”. Tôi nói: “Anh nói cũng đúng thôi! Không có Cụ Hồ và Đảng Cộng Sản, và Cụ Hồ không đi xin “chỉ thị” Cụ Xít, không xin phép Cụ Mao cho rước đoàn cố vấn Tàu sang thì chẳng có chuyện “cải cách” khủng khiếp này”. Anh ta hăng lên: “Đó là nói hàng trên. Còn dưới một bậc thì “Ba Người Khác” là “Anh Thận” (Trường Chinh), sau đổi là Năm để nhún nhường đứng sau Ba Duẩn, rồi đến thằng cha Hồ Viết Thắng và “Anh Lành” (Tố Hữu) “nhưng dạ chẳng lành” (7). Tôi hỏi: “Tố Hữu thì có liên quan gì đến? Lão ta không có chân trong Uỷ ban CCRĐ Trung ương mà”. Anh ta đáp: “Thế anh không biết à, y là kẻ “gác cổng” tư tưởng của Đảng ta. Y phụ trách công tác tuyên truyền cho chiến dịch “cải cách” đấy. Chính y đã đánh tơi bời Trần Bá Xá chỉ vì cái truyện ngắn chân thật “Anh Cò Lấm” đăng trên tạp chí “Tổ Quốc” hồi tháng 1 năm 1956, y buộc cho tác giả những tội “chết người”, như có tư tưởng phản động của giai cấp địa chủ, chống phá chính sách CCRĐ! Ban biên tập “Tổ Quốc” cũng điêu đứng vì y. Rồi đến khi Hà Minh Tuân cho ra cuốn “Vào Đời” có đụng chi mấy đến chuyện “cải cách” đâu mà y và lão (Nguyễn Chí) Thanh xúm vào đánh cho tơi bời, kỷ luật tùm lum. Cũng chính y đã tung ra những câu thơ sặc mùi đao phủ để kích thêm đầu óc hiếu sát của các Đội cải cách. Anh còn nhớ không?” Rồi anh ta đọc vanh vách:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế (8) mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt”…
Chuyện phiếm đàm của hai ông bạn già chúng tôi còn dài. Nhưng, nói chuyện nghiêm chỉnh thì phải công nhận là Tô Hoài đã bất chấp tabou, đề cập đến một đề tài “rất nhạy cảm”, và với văn tài của mình ông đã tạo nên một cuốn tiểu thuyết khá hấp dẫn. Ông đã vẽ lên rất rõ nét hình ảnh ba “anh Đội” cải cách – đội trưởng Cự, đội phó Bối kiêm chánh án và một cán bộ Đội tên Đình. Cả ba gã này mỗi tên một vẻ nhưng đều có tính lưu manh, đều hám quyền lực, đều dối trá, ham gái, dâm đãng và không gờm tay trước tội ác. Tác giả đã mô tả rất “ấn tượng” những cảnh hoang dâm, quần dâm của ba “anh Đội” với các cô “rễ chuỗi” bần cố, với các nàng dân quân… tạo nên một cảm giác tởm lợm của người đọc đối với mấy tên này. Tuy nhiên, người đọc tinh ý thấy rõ rằng Tô Hoài dù đã đụng đến đề tài CCRĐ nhưng lại tránh né, không dám phơi bày thực chất và nguồn cơn tấn thảm kịch của Dân Tộc đã diễn ra trong lịch sử. Độc giả chờ đợi rất nhiều ở một nhà văn có tầm cỡ như Tô Hoài, nhà văn đã từng tham gia hai đợt CCRĐ, làm đội phó lại kiêm chánh án Đội cải cách, họ hy vọng được thấy từ ngòi bút của ông hiện lên một bức tranh toàn cảnh đồ sộ, chân thật về cuộc đảo lộn khủng khiếp này. Nhưng, đọc xong “Ba Người Khác”, độc giả vẫn chưa thấy được toàn bộ sự thật, “sự thật trần truồng” không che đậy. Người đọc bàng hoàng nghĩ rằng lẽ nào chỉ vì ba cái thằng khốn nạn này mà mọi sự trong xã hội dưới thời “dân chủ cộng hoà” lại đảo lộn tùng phèo đến như thế ư? Thế thì ai cho chúng nó cái quyền “nhất Đội nhì Trời” để chúng nó tác oai tác quái làm những chuyện “long trời lở đất” như vậy? Ai đã vạch đường chỉ lối cho chúng, ai đã “phóng tay” cho chúng làm “cách mạng long trời lở đất”, làm loạn xị cả một vùng nông thôn như vậy? Ai đã đã kích động chúng “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ” để cho chúng thẳng tay tàn sát dân lành không chút xót thương? Ai? Ai?? Nhiều người cho rằng Tô Hoài là đảng viên Cộng sản, một cán bộ quan trọng của Đảng trong lĩnh vực văn học, một nhà văn-con cưng của chế độ, ông muốn sống “tròn” với Đảng nên dù có đề cập đến CCRĐ, nhưng ông đã hết sức gượng nhẹ, cố lái câu chuyện sang một hướng khác. Đoạn kết của tiểu thuyết, tác giả “cho” Đội trưởng Cự chạy vào Nam đầu hàng địch và bị “quân ta” giết… thì càng làm cho người đọc lạc hướng hơn nữa, dường như “Mỹ Nguỵ” có dính líu gì đến những chuyện xấu xa, những điều man rợ, những đảo lộn xã hội khủng khiếp hồi CCRĐ. Cố nhiên, cách kết cấu cốt truyện, hư cấu tình tiết là quyền của tác giả, nhưng độc giả có quyền đòi hỏi tác giả phải làm sáng tỏ sự thật của những tội ác tày trời.
Cuốn “Nước Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa Đăng và cuốn “Thời Của Thánh Thần” của Hoàng Minh Tường tôi cũng được đọc khá sớm bản photocopy từ trong nước gửi ra. Sau đó ít lâu, một người bạn thân trong nước gửi cho cuốn “Thời Của Thánh Thần” còn thơm mùi mực. Đó là một trong những cuốn may mắn “lọt lưới” thu hồi của nhà nước!
Điều đáng nêu lên ở đây là cả hai nhà văn Nguyễn Khoa Đăng và Hoàng Minh Tường đều rất can đảm “xông xáo” vào đề tài cấm kỵ này. Họ không ngần ngại mô tả rõ nét thảm cảnh kinh hoàng của nông thôn trong thời kỳ “cải cách”. Tuy nhiên, độc giả vẫn cảm thấy đôi chỗ còn gượng nhẹ, tránh né, dè dặt, mà đó là điều dễ hiểu, vì các tác giả đang sống dưới chế độ cực quyền khắc nghiệt, lưỡi gươm “chuyên chính” luôn luôn lơ lửng trên đầu… Hơn nữa, những ai đã từng sống trong thời kỳ “cách mạng long trời lở đất” cũng dễ nhận thấy là hai tác giả chủ yếu chỉ được nghe kể lại những cảnh khủng khiếp thời “cải cách” chứ chưa thật sự sống trong đó, nên có những chỗ phản ánh không thật sát thực tế, dùng lời ăn tiếng nói không phải thuộc về thời ấy. Riêng Hoàng Minh Tường còn đi xa hơn thời “cải cách”, ông đã mở rộng khung cảnh xã hội ra cả giai đoạn sau này, muốn giúp độc giả thấy rõ tính liên tục của cả một thời đại lịch sử. Đó là một ý định rất tốt, nhưng vì mở rộng quá nên phần sau của tiểu thuyết “Thời Của Thánh Thần” hơi bị loãng.
Còn tiểu thuyết sắp ra mắt người đọc nay mai, cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” của Trần Thế Nhân mà tôi vừa được xem bản thảo mới từ trong nước “vượt biên” ra ngoài thì chủ yếu tập trung phản ánh cuộc CCRĐ ở một vùng thuộc tỉnh Thanh Hoá. Nhưng qua những màn “cải cách”, qua chuyện kể của các nhân vật, đôi lúc tác giả cũng nhẹ nhàng đụng đến những chuyện về sau, chuyện “hậu cải cách”.
Tác giả là một người đã sống trong cuộc, cảm nhận sâu sắc nỗi đau của nhân dân và dũng cảm phơi bày sự thật kinh hoàng trên những trang viết. Tôi vốn là “dân” Khu Bốn (9), có dịp qua lại, quen biết vùng được mô tả trong truyện, biết rõ các “vị” mà dân địa phương coi là “hung thần cải cách”, như Hồ Viết Thắng, Đặng Thí, Chu Văn Biên… Ngay cả vài nạn nhân trong truyện tôi cũng đã từng nghe tên, vì tác giả giữ tên thật. Còn một số nhân vật khác tôi hơi ngờ ngợ là mình đã nghe đâu đấy, có lẽ vì lý do tế nhị nào đó tác giả đã đổi tên chút ít chăng. Cho nên tôi rất xúc động khi đọc những trang viết đượm đầy nước mắt trong “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”. Tôi có thể khẳng định rằng cuốn tiểu thuyết này của nhà văn Trần Thế Nhân đã dựa trên “người thật việc thật” mô tả sự kiện kinh hoàng đúng như nó đã diễn ra, không chút dè dặt, e ngại, không chút gượng nhẹ. Có thể độc giả trẻ tuổi ngày nay khi đọc nhiều cảnh tượng hết sức lạ lùng, kỳ dị, quái đản, rùng rợn quá sức tưởng tượng, thì không thể nào hiểu nổi làm sao trong cuộc sống đã có thể diễn ra những điều như thế được, đâm ra nghi ngờ tính chân thật của truyện. Nhưng, than ôi, những chuyện quái đản như thế hồi đó thật sự đã diễn ra và diễn ra ở nhiều nơi!
Cố nhiên, đã là tiểu thuyết thì tác giả phải hư cấu. Điều hư cấu nổi bật nhất là Trần Thế Nhân đã dùng “những người âm” của thế giới Bên Ấy để kể chuyện thật, rất thật của thế giới Bên Này. Tác giả dùng lối hư cấu đó vì… “Chết thật rồi/ mới dám nói/ Và Nói Thật!” (Khúc Dạo Đầu). Lối hư cấu này gần với tín ngưỡng dân gian, gần với đạo Phật, dễ được đại chúng chấp nhận. Có lẽ lối hư cấu này cũng không xa khoa học lắm khi gần đây các nhà vật lý học hiện đại đã phát hiện ra “vật chất đen”… Nhưng, điều quan trọng đáng nói là tác giả sử dụng lối hư cấu này thật nhuần nhuyễn đến mức người đọc thấy mọi sự kiện, mọi tình tiết trôi chảy rất tự nhiên, và câu chuyện rất đau thương lại cuốn hút mạnh tâm trí người đọc từ đầu đến cuối sách. Chính nhờ lối hư cấu này tác giả đã mô tả được rất chân thật nội tâm các nạn nhân của những “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” nửa thế kỷ trước. Trong một lá thư gửi bạn, tác giả tâm sự: khi viết tiểu thuyết này, tác giả có cảm giác rất thật rằng mọi lời nói, mọi sự kiện… trong tác phẩm là do chính người âm đồng hành, nhập vào tác giả mà kể lại.

Đọc “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”, tôi cảm nhận rằng Trần Thế Nhân đã thực hiện đúng thiên chức cao quý của người cầm bút để không tự nhốt mình trong cái “chuồng văn” tù túng, ngột ngạt với đủ loại ý thức hệ Mác-Lê, đảng tính, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa… vớ vẩn, nhảm nhí, không tự ép mình phải đi theo “lề phải” của kẻ cầm quyền, ông mới có thể sáng tạo nên một thiên tiểu thuyết – nói theo từ ngữ thời thượng trong nước – sáng giá như vậy. Sáng giá cả về tính chân thật, cả về mặt văn chương.
Bút pháp của tác giả bình dị mà táo bạo, trầm tĩnh, nhẹ nhàng mà da diết, xoáy sâu vào lòng người đọc. Lối viết hình ảnh, bóng bẩy, ẩn dụ đôi khi xen vào những triết lý sâu xa. Giọng văn hóm hỉnh, châm biếm, hài hước, trào lộng gây hứng thú dù bức tranh toàn cảnh thật vô cùng ảm đạm.
Có những câu nói thật thà, thơ ngây của nhân vật lại rất thâm thuý, nêu lên được thực chất của những vấn đề lớn. Chẳng hạn, câu nói mộc mạc của Thùy Dương, một nhân vật nữ: “Ông chồng yêu quý của em có lần bảo Bác Mao viết kịch bản. Nhà Hát tuồng Thiên An Môn diễn trước, rồi đưa sang Ba Đình Hà Nội… Ta cứ thế mà làm theo Tàu…”. Suy cho cùng, câu nói đó phản ánh sự thật nửa thế kỷ trước và cả sự thật ngày nay, và cả những gì rất đắng cay cho Đất Nước, cho Dân Tộc ta nằm đằng sau sự thật khốn nạn đó nữa! Đúng thế, như chúng ta đều biết, chính sự thần phục, quỵ luỵ đớn hèn và sự lệ thuộc nhục nhã của kẻ cầm quyền CS đối với “Thiên triều Đỏ” nửa thế kỷ trước và cả ngày nay đã gây cho Đất Nước ta biết bao tai ách, kể cả việc mất đất, mất biển, và hiện đang đặt Dân Tộc ta trước hiểm họa mất nước rành rành!!
Cái nhìn của tác giả đối với nông dân trong truyện rất công bằng: trong khi mô tả những “rễ chuỗi” gọi là “bần cố” có tính lưu manh, tham lam, độc ác, vô ơn vô nghì, gieo oan giá họa cho người ngay, ông lại đưa lên hình ảnh những người nông dân hiền lành bị Đội ép buộc phải miễn cưỡng “tố điêu” ở “đấu trường” theo lời mớm của Đội, nhưng sau lưng Đội họ vẫn lén lút, thầm lặng giúp đỡ cho người bị oan. Hồi đó mà dám làm như vậy thì thật là liều lĩnh, nhưng lương tâm thôi thúc họ phải hành động theo tính người, theo tình người, bất chấp hiểm nguy.
Khác với mấy cuốn tiểu thuyết viết về CCRĐ mà nhiều người đã biết, như “Ba Người Khác” của Tô Hoài, “Nước Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa Đăng, “Thời Của Thánh Thần” của Hoàng Minh Tường, cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” của Trần Thế Nhân không chỉ phơi bày rất rõ nét những tội ác tày trời trong CCRĐ, mà còn khéo léo vẽ lên bằng những đường nét ẩn dụ để người đọc tinh ý có thể liên tưởng nhận ra được bộ mặt thật của những thủ phạm chính đã gây ra tội ác.

Nhà văn mở đầu thiên tiểu thuyết của mình bằng mấy chương kể lại câu chuyện bi thảm của nàng cung phi thời xưa. Nhưng chuyện xưa lại phảng phất bóng dáng một nàng “cung nữ” thời nay - thời “dân chủ cộng hoà” - cùng với “Đức Vua” và viên “Thượng Thư” đầy quyền lực cũng thời nay… Hoá ra, “khúc cung oán” thời nay lại ngậm ngùi, ai oán, bi thương, thê thảm hơn nhiều so với “Cung oán Ngâm Khúc” thời cụ Ôn Như Hầu Ng. Gia Thiều! Lối mở đầu như vậy làm người đọc cảm thấy dường như tấn thảm kịch đầy máu lệ của một con người bé nhỏ, yếu ớt lại mở đầu cho cả một loạt thảm kịch triền miên của nhân dân…
Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong truyện tác giả đã nói rõ tuổi tác của “Đức Vua” «triều nhà Nguyễn»: «Năm ấy Người đã 66 xuân». Nếu lấy năm 1955 là năm xảy ra cuộc CCRĐ ở huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá để tính, thì năm sinh của “Đức Vua” thời nay nhằm đúng vào năm 1890. Một chi tiết khác – «Sáu năm trước, Triều đình đã xử chém ngang lưng một viên quan tổng kho. Dẫu y là công thần, đã từng theo gót chân Thiên Tử xông pha nơi lam chướng ngàn trùng, vào ra trong máu lửa, tên khuyển nho đầy tớ hoang dâm vô độ này đã biển thủ công quỹ và xài phí tài sản vương quốc để cung phụng tiệc cưới xa hoa của hắn….» – hoàn toàn ăn khớp với sự kiện ngày 5 tháng 9 năm 1950, viên Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục quân nhu của Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bị xử tử theo lệnh của “Đức Vua”, vì tên này đã phạm tội tham ô lãng phí, lấy của công để tổ chức đám cưới xa hoa của y. Vụ án này xảy ra đúng sáu năm trước cuộc CCRĐ ở Thanh Hoá hồi năm 1955 mà tác giả đã mô tả.
Giọng lưỡi của “Đức Vua” «triều nhà Nguyễn» nói về mình với nàng cung nữ – “Lòng Trẫm nặng một nỗi thương đau. Khanh có biết chăng? Trẫm thương những con dân cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm, bầy trẻ lớn lên chưa được cắp sách tới trường… Đất nước ngàn năm loạn lạc chinh chiến; may Trời cho còn lại được ít ngày thái bình yên vui… Vậy mà nay ngoại bang quay trở lại xâm chiếm, cắt chia. Chiến tranh lại tiếp nối chiến tranh. Nghe tiếng suối khóc, lắng tiếng gió than, lòng Trẫm càng não nề xót xa. Trăng càng sáng, nước non xinh đẹp càng tang thương, lòng Trẫm càng nặng nỗi lo cho dân, chua xót niềm đau cho xứ sở. Trẫm làm sao nhắm mắt ngủ yên?...” – sao mà giông giống giọng văn trong «Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động… » của… Trần Dân Tiên đến thế!
Đó là vài chi tiết về “Đức Vua”. Còn về nàng cung nữ thời xưa thì những nét chấm phá rất nhỏ, như «cái áo màu xanh chàm kiểu bà ba không có túi, cái váy dệt thổ cẩm dài sát đất», «vẻ đẹp sơn dã thâm u», «giọng nói của đàn bà phương Bắc»… làm người đọc dễ nhận ra đây chính là cô thôn nữ miền núi, một đoá hoa rừng Việt Bắc, thậm chí người am hiểu có thể đoán được cả họ tên cô «cung nữ» bất hạnh thời nay. Ngay cả cái kết cục đầy bi thương của nàng trong truyện không thể không làm cho ta liên tưởng đến cái chết tức tưởi đầy oan nghiệt của người «cung nữ» thời «dân chủ cộng hoà» mà cô em của nàng đã kể lại cho người chồng chưa cưới của cô…
Người viết những dòng này cảm thấy dường như những chữ, những câu sau đây trong truyện cũng nhắm vào một hay những đối tượng cụ thể nào đó: …“Tội ác bọn Quỷ Thần vòi vọi/chồng chất đỉnh Muôn Năm!”...“Những cái gì trái phản với Tự Nhiên/dù bay có cố công vẽ tô xây đắp/thành đầu lâu Núi Tháp/rồi cũng có ngày rã tan đổ sập!/Chỉ cần nỗi oan khốc của một người đàn bà/ngây thơ chân thật/cũng đủ góp phần vào tiêu tan cả Ác Nghiệp/của một Quỷ Vương Chí Linh Chí Thánh Chí Thần!” (Khúc Dạo Đầu),… hay… «Im lặng. Bỗng nhiên họ nghe tiếng ai đó vọng lên: “Đời là sân khấu của những tấn bi hài kịch. Bốn ngàn năm lịch sử, cái người đóng kịch tài ba điệu nghệ nhất là ai các con có biết không? Nó kia kìa! Các con không thấy sao? Khi phải cười, nó cười; lúc cần khóc, nó khóc. Cứ y như thật. Và sân khấu ngập tràn máu, nước mắt. Nó là người, chỉ là người thôi. Vậy mà ma xui quỷ khiến thế nào, ai cũng coi nó là Chí Thần, Chí Thánh?...” (Chương 5)… hay lời của Thùy Dương nói với Mai Duy Vỹ: «Bác ơi! Hồi còn ở Bên Này, dẫu nhiều khi sống lăng nhăng bậy bạ, cháu vẫn ăn nói thật lòng không chút giả trá. Chị Uyên không am hiểu đời sống xã hội bằng cháu đâu. Cháu biết rõ, cái lũ tự phong ta đây là thần thánh, chẳng có đứa nào đáng được gọi là người, toàn một bọn chó má, quỷ sứ, đồ ba que xỏ lá cả!» (Chương 45).
Đặc biệt là tác giả đã giành cả chương 41 để mô tả cuộc hội ngộ kỳ lạ như trong giấc mơ của Mai Duy Vỹ, người tử tù của cuộc CCRĐ, với «Hoàng Thượng ngự trên Ngai Rồng Đỏ» : «Muôn tâu Bệ hạ!...» - «Ta không phải là Vua, chẳng phải Tổng Thống… Ta là Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần, Chí… (Đức Vua kịp dừng lại, suýt nữa thì Người nói thêm một chữ có thể làm lộ mình ra – người viết ghi thêm). Ta đây! Ta là người nô bộc trung thành của muôn dân. Hãy nghe và trả lời những câu hỏi của ta!»
Và cuộc đối thoại bắt đầu giữa Mai Duy Vỹ, người tử tù, với «Đấng Chí Tôn». Sau khi buộc tội cho Mai Duy Vỹ «Mi là thằng địa chủ phản động, bán nước hại dân… » và bị người tử tù này khéo léo, lễ phép phản bác lại, cuối cùng «Đấng Chí Tôn» đuối lý đã phải nói: «…Ta biết anh vô tội, lòng anh trong trắng. Nhưng… ta không thể cứu anh được. Mà cho dù ta có muốn cứu anh, ban lệnh xuống thì đã chắc gì quần chúng nhân dân người ta nghe cho? Cải cở thủ ti - CCRĐ là cuộc Cách mạng lớn nhất trong lịch sử đấu tranh giai cấp của dân tộc, mang tầm cỡ nhân loại… Trong cơn trời long đất lở này, sóng thần Cách mạng đang ào ào dâng cao, cuộn tới, bánh xe lịch sử đang lăn đi... Ai người bị cuốn trôi, nghiến nát âu cũng là lẽ thường tình. Miễn sao Cách mạng Thế giới đạt được thắng lợi cuối cùng! (Chữ đậm do người viết nhấn mạnh). Có một người phụ nữ lòng dạ còn trong trắng tốt đẹp hơn anh, còn đáng thương, đáng quý hơn anh ở cách đây không xa lắm… Một người đàn bà! Ta đau lòng nhắc lại: Một người đàn bà! (Ý nói bà Nguyễn Thị Năm chăng ?! – người viết ghi thêm) Anh đã nghe rõ chưa? Vậy mà ta cũng không cứu được! Mong anh thông cảm cho ta… » 

Nói xong, «Đấng Chí Tôn vụt biến. Trong mây mù còn vọng lại tiếng sấm rền xa xa : Ta... không… thể… cứu anh được!»…
Đoạn trích trên đây nêu bật ý đồ sâu xa của Đảng Cộng sản khi làm CCRĐ không phải để cho «người cày có ruộng» mà chính là để chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi trên toàn Thế giới, đồng thời nó vạch trần cái nhẫn tâm, lòng tàn ác cũng như sự dối trá của các «lãnh tụ» Cộng sản.
Có thể nói, trong văn chương đương đại thật là hiếm thấy ở các văn nghệ sĩ trong nước ta cái thái độ dũng cảm, thẳng thắn phê phán như vậy đối với kẻ cầm quyền toàn trị.
*
Xin nói thêm rằng, trong thư gửi bạn, tác giả cho biết cuốn tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” đã được hình thành cách đây 10 năm, được tác giả chỉnh sửa nhiều lần, nay coi như đã xong. Vì lường trước được rằng khó có một nhà xuất bản nào ở Việt Nam nhận in tác phẩm này mà không phải gánh chịu những rủi ro, nên tác giả đã có ý định “bỏ tủ khoá lại”. Nhưng, sau khi vượt qua nỗi sợ chính mình, lại gặp được “thiện duyên”, tác giả đã quyết định cho “đứa con tinh thần” của mình xuất ngoại tìm đường tự do để kể lại cho đồng bào trong và ngoài nước, cũng như cho toàn Nhân Loại biết những chuyện hãi hùng, khủng khiếp khôn cùng, những đau thương, khổ nhục ê chề nơi Địa Ngục trần gian mà người dân Việt Nam đã và đang chịu đựng.
Cũng có thể ai đó nghĩ rằng chuyện CCRĐ xảy ra đã hơn nửa thế kỷ rồi, kể lại làm chi cho thêm đau lòng, nên quên đi thì hơn. Còn tập đoàn Cộng sản cầm quyền đương thời thì luôn miệng hô hào nhân dân “quên quá khứ, hướng tới tương lại”. Đó là một thủ đoạn bịp bợm, một chính sách ngu dân thực thụ của kẻ cầm quyền xảo quyệt. Vì một dân tộc quên quá khứ thì không bao giờ có tương lai tốt đẹp cả!
Vả lại, quên làm sao được khi nỗi oan khốc của hàng triệu con người không hề được giải toả, nó ngấm sâu vào tiềm thức của Dân Tộc đã trên nửa thế kỷ rồi? Quên làm sao được khi những thủ phạm chính gây ra tội ác không bị đưa ra ánh sáng, khi cái Đảng gây ra tội ác không bị vạch trần, và Đảng ấy lại không hề sám hối và thề sẽ không tái phạm nữa? Quên làm sao được khi ngày nay giữa thanh thiên bạch nhật tập đoàn Cộng sản cầm quyền vẫn ngang nhiên tiếp tục dùng những thủ đoạn tàn bạo thời CCRĐ để đối xử với nhân dân? Những vụ cướp đoạt ruộng đất, nhà cửa trắng trợn, những cuộc “đấu tố” các nhà dân chủ ở phường, ở làng, những cuộc “làm việc” của công an với tính cách sách nhiễu, nhục mạ, hành hạ đối với các nhà trí thức dân chủ bất đồng chính kiến, việc sử dụng bọn cặn bã xã hội, bọn “xã hội đen”, giống như “rẽ chuỗi” hồi “cải cách”, để cùng với công an “nhân dân” đánh đập dã man các nhà tu hành, các giáo dân, Phật tử, tín đồ Hoà Hảo, Tin Lành, Cao Đài, phá chùa, phá nhà thờ, đập nát Thánh giá, xúc phạm tượng thờ, bao vây suốt ngày đêm nhà cửa các chiến sĩ dân chủ không cho họ đi lại làm ăn, bao vây kinh tế không cho họ sinh sống bình thường, ném đồ dơ bẩn thối tha vào nhà người dân… tất cả những chiêu thức độc ác, đê tiện đó có khác chi thời CCRĐ? Thậm chí, lối xét xử của các toà án “nhân dân” ngày nay đối với các chiến sĩ dân chủ, đối với thanh niên, trí thức yêu nước dám lên tiếng bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc thì có khác chi lối xét xử của các toà án “nhân dân đặc biệt” đối với các người bị quy là “địa chủ, cường hào” hồi “cải cách”? Vẫn cái lối buộc tội vu khống, oan uổng, vẫn cái cách xử độc đoán, độc tài của “quan” toà, cố tình trấn áp không cho bị cáo được nói, thậm chí công nhiên bịt miệng bị cáo trước toà, cái lối xử mà bắt bị cáo chỉ được phép cúi đầu nhận tội, không cho tranh cãi, còn ai dám phản bác cáo trạng thì “quan” toà hèn hạ trả thù bằng cách tăng mức án thêm nhiều năm tù! Chính vì thế chúng ta không có quyền quên, mà phải nhớ, nhớ mãi cái bài học đắng cay của thời CCRĐ đã qua. Nhớ không phải để trả thù ai mà để cho chính mình bớt ngu dại, bớt ngây thơ, để khôn thêm, cảnh giác hơn, dũng cảm hơn và để không còn bị đánh lừa, không còn bị đè đầu cưỡi cổ nữa.
Tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” chắc sẽ giúp cho những ai đọc nó sẽ không quên mà nhớ mãi những ngày đen tối, khủng khiếp của thời qua để tăng thêm nghị lực và quyết tâm đấu tranh cho một tương lai tươi sáng hơn, không còn bóng dáng những kẻ nhân danh chủ thuyết này, chủ nghĩa nọ, tư tưởng kia để đè nén, áp chế, hành hạ, thậm chí giết hại dân lành.
Có thể coi cuốn tiểu thuyết này là một đài tưởng niệm không gì phá vỡ nổi, một nén tâm hương thơm ngát của tác giả Trần Thế Nhân thắp cho vong linh các nạn nhân của chế độ Cộng sản cực quyền toàn trị ở nước ta! Đài tưởng niệm và nén tâm hương đó làm ấm lòng người Bến Ấy cũng như Bên Này!

Moskva, ngày 23 tháng 1 năm 2010,
nhân dịp kỷ niệm Ngàn Năm Thăng Long
Viết thêm vài đoạn ngày 31 tháng 5 năm 2010.
NGUYỄN MINH CẦN


GHI CHÚ:
1/ Tại kỳ họp thứ ba của Quốc Hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khoá 1 (tháng 12 năm 1953), để thông qua Luật CCRĐ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dõng dạc khẳng định một lần nữa khẩu hiệu “người cày có ruộng” và tính chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình của cuộc CCRĐ. Ông nói: "Luật CCRĐ của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ" (nguyên văn). Ngày nay, mọi người đều thấy rõ lời nói của “lãnh tụ” Cộng sản kiêm Chủ tịch Nước khác nhau một trời một vực so với thực tế và việc làm của những người Cộng sản! Thật đúng là “nói dzậy mà không phải dzậy”!
2/ Hồi đó, nông dân chiếm đến trên 90% dân số của nước ta.
3/ Trong báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước Quốc Hội đã nói rõ địa chủ chỉ có 5% dân số mà chiếm phần lớn ruộng đất ở nông thôn. Vì thế, trong CCRĐ, Đảng chính thức quy định tỷ lệ địa chủ trong dân số nông thôn là 5%. Tỷ lệ 5% đó dựa trên cơ sở nào không ai biết, vì hồi đó không hề có một cuộc điều tra nào về tình hình kinh tế, xã hội và ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam. Nhiều nhà phân tích cho rằng đó là nhận định chủ quan của các “lãnh tụ” Cộng sản theo kiểu volontarisme (duy ý chí). Cái tỷ lệ 5% này đã gây ra biết bao oan khốc cho người dân, vì các Đội Cải cách phải cố sức “đôn” nhiều người lên “thành phần địa chủ” cho đủ số tỷ lệ!
4/ Số liệu này trích từ bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” gồm 3 tập, do Viện Kinh tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội – xem tập 2.
5/ Theo báo cáo Cục quản lý Lao động nước ngoài của VN, năm 2008 có trên 500 ngàn người Việt đang lao động tại hơn 30 nước trên thế giới. Từ năm 2005, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mã Lai bắt đầu nhận người Việt “xuất khẩu lao động”. Báo cáo còn cho biết trong vài năm tới, số lao động “xuất khẩu” có thể sẽ tăng lên đến một triệu.
6/ Theo tài liệu năm 2008 từ Văn phòng Kinh tế Văn hoá Đài Bắc tại Việt Nam, có khoảng 770 ngàn cô gái Việt Nam sang Đài Loan “làm… dâu”! Đáng chú ý là trong số đó, phụ nữ miền Tây Nam Bộ (vốn là vùng có cuộc sống trước năm 1975 tương đối sung túc) bị bán qua Đài Loan chiếm tỷ lệ cao nhất so với các tỉnh thành trong nước. Báo chí ở một vài nước sở tại cho biết nhiều côbị đánh đập, bị bỏ đói, bị buộc phục vụ sinh lý cho cả gia đình hoặc bị bán cho các “động” mãi dâm. Một số cô không chịu được nhục nhã đã tự tử, hoặc phản ứng lại và bị đánh chết!
7/ “Anh Lành nhưng dạ chẳng lành” là một câu vè về Tố Hữu lưu truyền trong giới văn nghệ sĩ hồi ông ta còn sống, ám chỉ những vụ đàn áp tàn nhẫn trí thức, văn nghệ sĩ dưới thời ông.
8/ Ý nói thuế nông nghiệp là nguồn thu chính của chính quyền, được áp dụng hồi đó (từ năm 1951) ở nông thôn miền Bắc Việt Nam. Đây cũng là một cơn ác mộng nữa đối với nông dân, vì thuế đánh theo lối lũy tiến, nghĩa là thu hoạch được nhiều thì phải nộp thuế cao hơn gấp bội. Nếu không nộp đủ thuế thì người nông dân bị đày đọa đủ cách, thậm chí bị bỏ tù. Và nếu không muốn bị ở tù thì nông dân đành phải mang trâu bò ra bán, hết trâu bò thì phải bán đến nữ trang, đồ vật trong nhà, thậm chí cả những đồ tế tự trên bàn thờ, v.v… để nộp thuế. Những cuộc “bình diện tích” và “bình sản lượng” nhằm tính số lượng thu hoạch để định mức thuế chủ ruộng phải nộp đều do các đảng viên Cộng sản mớm cho các cốt cán bần cố nông “phát giác” để tăng mức thuế lên và gán ép cho chủ ruộng nhắm “đánh” vào lớp người hữu sản ở nông thôn. Trong tác phẩm “Chuyện Làng Ngày Ấy” (xuất bản năm 2006), nhà văn Võ Văn Trực đã mô tả rất rõ nét những cảnh cưỡng bức trắng trợn nông dân đóng thuế hồi đó.
9/ Liên khu Bốn hồi đó có sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Ba tỉnh phía Nam vì hoàn cảnh bị chiếm, hợp thành Phân khu Bình Trị Thiên, ở trong Khu Bốn.
hồ chí minh
Hồ Chí Minh Tội Đồ Số Một,
Thủ Phạm Chủ Yếu
Của Cải Cách Ruộng Đất





No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...