CHƯƠNG 38
NGƯỜI VÔ HÌNH
NGƯỜI VÔ HÌNH
Thầy lại nằm yên, trông đợi trời sáng. 
Trời  sáng, một ngày tới,   con  người   quanh ta họ lại thức dậy  và làm  những việc thường ngày.   Trong  đó có cái   việc quan trọng nhất mà họ  phải  hoàn thành và hoàn   thành  vượt mức, ấy   là đánh đổ giai cấp địa  chủ, tiêu diệt  bọn Việt   gian  phản động bằng tất   cả ngón  đòn hóc  hiểm, trò chơi man rợ nhất mà   họ  moi tìm, nhào nặn ra   từ trong đầu  óc. Phải giết người làm sao đây    để cho  thoả cái khoái cảm   của lòng  hận thù, ganh ghét giai cấp mà    Trời đã ra lệnh, Đội đã phóng   tay,  ban cho họ cái  quyền tự do vô hạn    độ! 
Nghĩ  tới chuyện vợ chú Lê   Trạch  Đông   tố bà nội con, mà cũng  là mẹ của  thím ấy chứ còn gì, đang   đêm  một mình   mò ra giếng làng, cởi quần,   chổng mông đít, ngồi xổm,   ỉa  phẹt xuống   giếng mấy bãi liền để cho  cả làng phải  uống nước cứt.    Rồi nghĩ sang   chuyện vợ chồng Cò Toe  được y tá Toành mớm cho, tố  thầy    đã nhét cái   lưỡi cưa vào ruột  thằng cu con… để đến nỗi thằng bé lăn    đùng  ra chết   ngay… Thầy phải  lắc đầu bái phục chịu thua cái trí  tưởng   tượng phong    phú cực kỳ  của các ông bà nông dân ta! 
Các  chuyện cổ tích hoang   đường,  tiếu   lâm nực cười xưa nếu đem so sánh  với những chuyện đấu tố   thời  bây  giờ,   nói như chàng Xuân tóc đỏ  của Vũ Trọng Phụng là “chẳng    nước mẹ gì”. 
Không nhịn được, tự nhiên thầy phá lên  cười. 
Tiếng cười vang lên trong phòng giam giữa đêm khuya làm chính thầy cũng giật mình. 
Vỹ ơi! Anh hoá điên rồi sao? Ừ, tôi đang điên đây. Là con người đôi lúc cũng dễ hoá điên lắm, nhất là sinh  ra ở cái đời này! 
Thầy  dỏng tai, rán sức   nghe.  Không ai   hay biết gì cả. Chỉ có tiếng mọt  nghiến từ tấm ván cửa   đàng  sau buồng    giam. Giữa đêm khuya nghe rõ  mồn một, lại có vần có   điệu  như tiếng nhai   rồn  rột, trèo trẹo, vỡ  vụn một khúc xương từ hàm    răng của con chó, con   gấu… Hay chính con  người chúng ta? 
Ngày  mai đây, 27 tháng   Chạp năm  Ất   Mùi  1955… thầy linh cảm rằng Mai Duy  Vỹ sẽ không còn nữa,   hay  nói cho   thật đúng và chính xác  hơn, Mai  Duy Vỹ sẽ chết. Người ta   sẽ  giết hắn để   cho tất cả mọi người ở  quanh đây, khắp cả Nga Sơn   Thanh  Hoá được sống.    Riêng những người  như các ông Đông, Toành, Xoa,    Toe… và mấy ông bà Đội,   đặc  biệt ông  Đội trưởng, người Nam Đàn, nói    tiếng Nghệ thì không chỉ   được sống  thôi  mà còn được giết. Giết!  Giết! 
Ngày  mai đây, tiếng con   mọt nhai    nghiến kia lại vẫn rồn rột, trèo trẹo  vang lên trong đêm   khuya.  Không    chỉ thế thôi đâu, còn nhiều con  khác nữa, chuột, mối, bọ   sẽ  gậm nhấm   khoét đục  Mai Duy Vỹ này, đùn  đất lên, khỏa vùi nỗi đau    một thời của   dòng họ Mai cùng năm tháng.  
Thầy muốn sống, các  con   ơi, thầy  muốn    sống! Ai lại đi bắt một con người vô tội phải  chết ở   tuổi 36!  Trời Đất   ơi! Hãy  cho tôi sống để tôi nuôi các con  nhỏ, báo   hiếu đền  ơn cha mẹ!   Bà con  ơi! Các đồng chí ơi! Tôi vô  tội! Hãy để   cho  Mai  Duy Vỹ được   sống để Vỹ chữa bệnh cho dân  nghèo, báo đền công   ơn các   đấng tiên liệt!   Oan cho con lắm, Bác Hồ  ơi! Oan cho tôi lắm,   anh  Trường Chinh ơi! 
“Vỹ!” 
Một tiếng thét đập vào tai, ngay trước mặt làm thầy giật mình, sững người. 
“Sao đồng chí hèn nhát thế?” 
Thầy  ngước nhìn phía   trước.    Căng mắt tìm xem trên nền tối của màn đêm  có hình bóng ai hiện   lên    không?  Lại cũng muốn ngoái sang bên, quay  ngoặt lại đằng sau…   nhưng  cái   cổ đã cứng ngắc như hoá đá. 
“Đồng  chí Vỹ! Thử nhớ lại    xem    nào…” - Tiếng nói bớt gay gắt, có phần ôn  tồn. - “Thử nhớ lại   xem…  Trần    Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng  Văn Thụ, Lý Tự Trọng… đã   nói  những gì   với kẻ  thù của dân tộc, kẻ  thù của giai cấp trước lúc ra    đi. Ánh mắt   của họ đã nhìn thẳng  vào  Cái Chết như thế nào? Mới đó    thôi, chưa tới 15   năm… Vậy mà sao bây  giờ đồng  chí lại có thể đớn    hèn, tham sống sợ chết    thế nhỉ?” 
Thầy  chới với trước một   đợt    sóng ngầm xô  tới, ào lên, bật ngửa. Là một  tay bơi vào loại khá   thế  mà   mình bỗng nhiên trở  thành người không  biết bơi, cứ thế chìm     xuống,   chìm xuống… 
“Không!  Không mà!… Cho   tôi nói”    - Thầy ú ớ la lên - “Tôi đâu có đứng trước  kẻ thù… Bà con   nông dân,  Đội    Cải cách… các anh em, đồng chí…  những người tôi xin   được cúi  đầu, tuân    thủ, phục vụ. Chính họ coi  tôi, Mai Duy Vỹ, là kẻ   thù của  dân tộc, kẻ   thù của  giai cấp đấy  chứ! Giả dụ đế quốc Pháp có   bắt  được tôi, giam giữ   tra tấn, đem   tôi ra pháp trường xử bắn, như   Trần  Phú, Nguyễn Thị Minh   Khai,  Hoàng Văn thụ…  tôi tin rằng mình cũng    có được sự dũng cảm, kiên    cường… nếu không 10 phần, thì  ít ra cũng    được ba bốn năm phần như  các   đồng chí ấy. Trước lúc ra đi, lòng dẫu    đau đớn thương vợ nhớ  con, tôi   vẫn có  đủ sức mạnh bình tĩnh nhìn vào    Cái Chết! Tôi không  có kẻ thù!   Tôi không phải là kẻ thù!” 
Thầy uất nghẹn, muốn thét lên. 
Một  vệt sáng đi ngang   qua. Hòn    lửa đỏ nhấp nháy chập chờn.  Hình như  Ai đó? Người-vô-hình   nào đang  lởn   vởn mờ tỏ đằng trước mặt? 
“Vậy kẻ thù là ai?” Tiếng  Người-vô-hình đay lại có phần gay gắt không  khoan nhượng. 
“Tôi không phải là kẻ thù! Thế  thôi!” - Thầy lắc đầu, dằn giọng.
“Anh cho rằng mình không phải  là kẻ thù thì… chính anh đã là kẻ thù!”
“Ủa? Sao vậy?”
Người-vô-hình nói thủng thẳng  từng tiếng nghe như đọc bài:
“Lịch sử của loài người từ khi  có giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai  cấp. 
Từ  khi  xã hội loài người   phân    chia ra giai cấp là từ đó sinh ra kẻ  thù. Giai cấp bóc lột là kẻ   thù  của   giai cấp bị bóc lột. Và ngược  lại… Ai cũng trở thành kẻ thù   của  ai hết!    Không ai là không có kẻ  thù, và không ai không phải là kẻ    thù. Và tôi    đây này, tôi cũng là  kẻ thù của chính tôi!  Hiểu chưa?” 
“Vâng.  Nhưng mà…” 
“Nhưng  mà cái chi? Hử? Hạnh phúc là đấu tranh!” 
“Đồng  ý. Có đấu tranh mới có hạnh phúc…” 
“Cho   nên, đấu tranh ban   ngày    chưa đủ, phải đấu tranh cả ban đêm. Làm  ngày chưa đủ, tranh thủ   làm  đêm.   Lao động sản xuất, giết giặc…” 
“Đồng ý”. 
“Ngay cả ban đêm, nhắm mắt rồi  trong giấc ngủ cũng phải… đấu tranh!” 
“Dạ.  Vì sao thế ạ?” 
“Kẻ   thù nó chui vào, ẩn   khuất    ngay trong giấc ngủ, không phải thế  sao? Chẳng hạn,  đồng chí mơ   thấy    mình ăn no mặc ấm, vợ đẹp con  khôn, không phải làm chi cả mà   thóc  lúa   đầy bồ, chết đi rồi còn  được lên Thiên Đàng, về Niết Bàn…   Không  phải  là   kẻ thù nó len vào,  nó xui khiến bậy bạ hay sao? Kẻ thù   nó  xúi mày làm   những  điều ác  hại như cưa tay, chặt chân, bỏ lưỡi cưa    vào bụng, tiêm   thuốc độc  vào  người các ông bà, anh chị nông dân… cho    nên mày là kẻ thù   đứt  đuôi của giai cấp  nông dân, anh em bần cố,  Quân   Chủ lực… rồi  chứ    còn gì! Còn cãi nữa không?”
“Nhưng  mà…” 
“Nhưng… nhưng cái con khỉ! Vẫn chưa thông hả?”
“Nhưng… nhưng cái con khỉ! Vẫn chưa thông hả?”
“Nhưng…  nói như vậy hoá   ra     trước khi xã hội loài người phân chia giai cấp  thì kẻ thù có rất   ít  hoặc   gần  như không có. Còn từ khi phân chia  giai cấp tới nay thì    nẩy sinh   ra không biết  bao nhiêu là kẻ thù!  Con người đang từ chỗ vô    tư, nhân   hậu, bỗng nhiên trở nên  xấu  tính: dòm ngó, xét nét, ganh    ghét, cấu véo,    đâm chọc, đánh lộn,  bắn giết nhau… Có phải thế không    ạ?” 
“Ừ…  thì nói nữa đi”. 
“Con   người mang tính   giai cấp    rồi cũng ảnh hưởng tới loài vật… Chẳng  hạn như con chó. Trước   đây, con    chó nào cũng  là con chó. Nghĩa là,  ở với con người thì  ban   ngày  sủa   gâu gâu để cho chủ biết có người  qua đường hoặc vào nhà, ban   đêm   ăng   ẳng kêu to để chủ hay rằng  trời vẫn còn tối và Ông Trăng   đang  còn mắc   trên  ngọn cây đang chờ  Bà Trời lên gỡ thoát ra… 
Nghĩa  là, cùng với con người, chó ta rất hồn nhiên, vô tư! 
Nhưng  từ khi con người   phân     chia giai cấp rồi, bắt đầu cấu véo, uýnh   lộn, bắn giết nhau thì   loài    chó tự nhiên cũng thay đổi cách nhìn,  lối  sống đối với nhau.   Con  chó   nhà này bắt đầu ganh ghét với con  chó nhà bên kia.  Tại sao   mình  gầy gò,   xấu xí như ri mà hắn ta thì  béo tốt mượt mà như rứa? Vì   cớ   chi mà mình   thì một miếng cơm vãi,  cơm rơi trông chờ mỏi cổ lắm   khi  cũng nỏ có,    còn phải kiếm thêm  bãi phân, cục cứt; tranh nhau đớp    cắn mổ rỉa cùng với   con gà  thằng  mèo… Còn hắn thì sao, cơm thừa canh    cặn chẳng thiếu,   thỉnh thoảng  còn  được bồi dưỡng thêm cục xương  heo,   xương bò to tướng,   gân thịt  còn đeo bám tua  tủa, ngoạm đưa vào  xó   ngồi gặm cả buổi cũng   chưa  hết… 
Bởi thế cho nên,  đôi khi   ta     vẫn thường thấy ngoài ngõ, trên đường có những con chó  đè nhau ra,   cắn    nhau chí  tử. Một hai con cắn nhau đâu đã xong, tự  nhiên nhiều   con  khác   xuất hiện ở đâu  trong các ngõ xóm, hóc hẻm…  chạy ra, chúng    cũng chia   làm hai phe rõ rệt, nhập  vào liên kết với  hai con chó kia,    nhảy chồm    lên nhau, cắn xé nhau cho đến khi nào  tơi tả da thịt, sứt    mõm, long   răng… rồi  mỗi con chạy đi mỗi nơi,  mà vẫn không sao hiểu    được vì đâu   lại xẩy ra  trận đại chiến, cuộc  đấu tranh giai cấp   khủng   khiếp, quyết   liệt như vậy?” 
Thầy dừng lại, giữ ý. Cứ tưởng u mặc (humour) một chút cho vui, có khi chạm nọc hắn lại nổi điên lên, nhưng không, Người-vô-hình lại còn pha trò góp vui thêm.
Thầy dừng lại, giữ ý. Cứ tưởng u mặc (humour) một chút cho vui, có khi chạm nọc hắn lại nổi điên lên, nhưng không, Người-vô-hình lại còn pha trò góp vui thêm.
“Thế   còn trường hợp như   ta vẫn    thường gặp, hắn nói, một con chó và một  con cầy, hai con chổng   đít  lại   nhau,  ngoắc ngoéo đuôi nhau, làm  cái trò gì mà dù  người ta   có  lấy đá   ném vô đầu, dùng gậy nện vào  sống lưng, hoặc cầm dao rựa     chặt một phát   xuống giữa… hai cái nớ,  thì… hai đứa, à hai con, vẫn cứ    đoàn kết, kiên   quyết không chịu ly  khai, buông rời nhau  ra! Theo  đồng   chí, hiện tượng   đó biểu hiện  bản chất gì?” 
“Tôi  chưa dám đánh giá và   cũng     không quen kết luận về cái gọi là bản  chất, tuy nhiên về hiện   tượng,    theo tôi,  ta có thể gọi đó là sự  đồng cảm giai cấp, mối giao   hoà  giai   cấp hoặc khối liên minh giai  cấp…” 
“Chưa  chắc!  Hiện tượng   và bản    chất dù không thể lúc nào cũng đánh đồng lại làm  một, tuy nhiên   vẫn    không thể tách rời hai cái đó ra…  Hai cái con  đó, chúng nó chắc   gì đã    mang bản chất giai cấp giống nhau, thành   phần giai cấp giống   nhau?  Phải   truy tìm cho  ra thành phần giai  cấp, lý lịch ba đời của    chúng…” 
“Ba  đời thôi ư? Theo tôi   vẫn     chưa đủ. Phải bốn năm đời trở lên ta mới  tạm gọi là nắm được bản   chất    giai cấp  của từng người: Lịch sử  nhân loại, lịch sử  đấu tranh   giai  cấp   đã trải qua cả mấy ngàn  triệu năm kia mà!” 
Thầy  khẽ cười. Hắn im lặng. Có vẻ như đồng ý mà lại cảnh giác.
“Đã  nói đi nói lại rồi!   Vấn đề     quan trọng nhất vẫn là giai cấp và đấu  tranh giai cấp.” Giọng   hắn lại    trở nên  khô queo và lạnh lùng.  “Không thể, dù là một phút, mà    buông lơi   quan điểm giai cấp, chao  đảo đứng không vững trên lập     trường giai cấp.   Có đấu tranh giai  cấp thì xã hội mới phát triển được.     Phải đẩy đấu   tranh giai cấp  lên tới đỉnh  tột cùng! Và đây là trận    cuối cùng…” 
Rồi Người-vô-hình nói như hát: 
Đây là trận cuối cùng sẽ thắng
Đè bẹp quân thù đế quốc!
Chúng ta không xa rời!
Quyết không bao giờ xa rời!
Đảng là đội ngũ của giai cấp tiên phong!
…Đây Liềm Búa vung lên nhằm vào đánh cho quân thù nát tan.
Chúng ta bao người quyết không xa rời
Đảng Cộng sản mến yêu.
Đây là trận cuối cùng sẽ thắng
Đè bẹp quân thù đế quốc!
Chúng ta không xa rời!
Quyết không bao giờ xa rời!
Đảng là đội ngũ của giai cấp tiên phong!
…Đây Liềm Búa vung lên nhằm vào đánh cho quân thù nát tan.
Chúng ta bao người quyết không xa rời
Đảng Cộng sản mến yêu.
Ai đi tiên phong giành cơm áo cho dân? 
Ai đứng lên lãnh đạo được toàn dân đấu tranh
Cung sang tang! Củng sản tàng…
Cung sản tàng! Giai cấp tiền phong!
Ai đứng lên lãnh đạo được toàn dân đấu tranh
Cung sang tang! Củng sản tàng…
Cung sản tàng! Giai cấp tiền phong!
Trong  người tự nhiên thấy   phấn    khởi, lâng lâng… thầy cũng hai  ba nào…  vỗ tay lấy nhịp, đệm   theo cho    hắn hát… Hắn dừng lại đột ngột, dò  xét. 
“Trận cuối cùng  này. Hắn   dằn    giọng, nói  to. Dù có phải hy sinh, đổ máu đến một  phần ba nhân   loại    cũng phải quyết tâm chiến đấu và… hoàn thành!” 
“Đồng  ý! Quyết tâm!” Thầy   hùa    theo một  cách chân thành ngây thơ. “Xin  được phép hỏi đồng chí…   Sau    trận cuối cùng sẽ  thắng, và chắn chắn  sẽ thắng cả trăm phần  rồi,   xã    hội loài người sẽ tiến lên… tới  đâu?” 
“Cộng  sản chủ nghĩa, chứ còn gì nữa!?” Hắn nói nghe như gắt.
“Tiến lên Cộng sản chủ nghĩa rồi thì khi ấy… xã hội loài người có còn giai cấp nữa không?” 
“Không! Xoá sạch hết giai cấp!...”
“Thế còn đấu tranh giai cấp?” 
“Hết! Hết giai cấp đấu tranh! Còn giai cấp nào nữa mà đấu với tranh!” 
Thầy cười. Hắn cũng cười. 
“À…  mà vẫn còn đấu tranh   chứ?    Đấu tranh với ai, biết không?  Đấu tranh  với Thiên nhiên. Phải   làm chủ    Thiên nhiên. Bắt Thiên nhiên phải  mưa nắng theo ý của con   người  chúng   ta! Không được  bão lụt, hạn  hán, động đất, sóng thần lung    tung…” 
“Phải  trèo lên đầu, cỡi   lên cổ    Thiên  nhiên… Nhong nhong ngựa ông… Nếu  Thiên nhiên không  chịu   nghe  lời   làm theo thì đè xuống, ngồi lên  lưng, bóp dái… Cấm không   được  kêu. Hà    hà. Nếu mày không chịu làm  theo tao, thì  tạm thời tao   cứ  vắt đất ra   nước thay trời làm mưa,  nghiêng đồng đổ nước  ra sông   cái  đã! Có phải   thế không ạ? Thưa  đồng chí…” 
Người-vô-hình  chững lại.   Hắn    cảm thấy ta và hắn, hắn và ta  hình như cả hai đều  đã ít nhiều   buông  lơi   quan điểm giai cấp, đi chệch ra hơi xa đấu  tranh giai cấp,   bèn   quay   trở về tư thế cũ, lên giọng huấn thị răn  đe ngay:
“Này, ta báo  cho ngươi   hay. Từ    nay cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh  cuối cùng,    giai cấp    vô sản thế giới, quần chúng công nông binh,  nông dân Quân Chủ   lực  chúng   ta… có rất nhiều kẻ thù và phải tiêu  diệt cho kỳ hết những   kẻ  thù  đó!   Giết! Giết! Giết hết!” 
“Đồng chí nói… con số đến cả  một phần ba nhân loại kìa mà!”
“Không  có đùa! Một phần ba chứ hai phần ba cũng phải … giết! Mày nằm trong con số đó…” 
“Nhưng… tôi đâu có phải là kẻ thù!” 
“Đã nói đi nói lại rồi! Ai cho rằng mình không phải là kẻ thù thì chính hắn là kẻ thù!” 
“Sao lại thế?” 
“Ai  tự cho rằng mình   không có    kẻ thù thì chính hắn trở thành kẻ thù  của tất cả mọi người!   Bởi cớ  sao?    Bởi vì cái tên đó, là mày chẳng  hạn, suốt đời có bao giờ   đấu  tranh bảo    vệ cho ai đâu… cho nên cứ  tưởng là mình không có kẻ   thù.  Tại mày ngu   ngơ không biết đó thôi,  chán vạn kẻ căm ghét mày,    coi  mày là kẻ thù của   họ. Có đúng  không?” 
Thầy bắt đầu cảm thấy chờn  chợn, rờn rợn trước cái lý lẽ ghê gớm, chết  người đó. 
“Nhưng… Tôi đã một đời yêu thương, quý  trọng, cứu giúp nhiều người!…” 
“Xì!  Mày đã từng làm công   chức    cho Pháp, ăn lương của Tây… Đế  quốc  thực dân, địa chủ phản   động, công    giáo tay sai của Pháp, Việt gian  bán  nước cho Tây… Mày   cũng thương  yêu,   cứu  chữa, giúp đỡ… chúng  nó? Hử?!” 
“Đâu có!” Thầy cảm thấy đuối hơi, chới  với. 
“Này, hãy nghe ta hát khúc ca này. Nghe! Chúng       ta thề phá tan quân thù: thực  dân, đế quốc, sài lang với phe phản     động   ta đập tan à hoang!… Kết đoàn! Chúng  ta là sức mạnh! Kết  đoàn    chúng ta   là  sắt gang! Đoàn kết ta bền vững! Dù sắt hay là  gang. Dù    sắt hay gang   còn  kém bền vững!… Cái bài ca hay nhất mà Bác Mao và Bác Hồ, cả hai Bác đều rất  thích, mày lại còn không biết hay sao, hở  Vỹ?” 
“Vâng, tôi cũng biết hát và thuộc lòng bài Đoàn Kết đó, nhưng mà…” 
“Chẳng  nhưng chẳng mà cái   gì    hết! Đế  quốc, phản động… Chúng nó là kẻ  thù! Chúng ở đâu mày biết      không? Ở bên Tây, ở ngoài mặt  trận và ở  ngay… trong mỗi một cái   thằng    như mày. Đúng chưa? Mày đã từng học  tập chính trị, chỉnh huấn…   còn  lạ gì   nữa,  biết tỏng tòng tong rồi,  thực dân đế quốc, Việt gian    phản động…   chúng nó nằm trong tư  tưởng, ăn sâu vào tác  phong của    mày!” 
“Vâng,  tôi hiểu, và tôi   đã    thành khẩn bộc lộ ưu khuyết điểm,  phê và tự  phê và tôi đã lột xác   cải    tạo, tẩy rửa… làm theo đúng yêu cầu của   Cách mạng, của Đảng…” 
“Xì!  Mày thì chỉ có   khuyết    điểm, làm chó gì có ưu điểm? Hử?  Đã là địa  chủ phản động thì   chỉ có  cấu   kết làm tay sai cho đế quốc chứ làm  sao  tẩy rửa, cải tạo,   lột  xác nổi!   Hử! Mày là kẻ thù!  Chính mày  là kẻ thù một trăm phần   trăm  của nông   dân, của dân tộc! Hiểu chưa?   Còn chối cãi nữa hay   thôi?” 
Lạ  thật! Tự nhiên thầy   thấy    mình thiểu số, nhỏ bé đến vô cùng tận.  Cái Người-vô-hình này do   Bác  Mao   đẻ ra,  rồi ai đó kéo lôi vào đất  nước mình là hoàn toàn có lý    và đúng   đắn. Thế  gian này ngập ngụa,  chen chúc những kẻ thù.  Con số    một phần   ba là chưa đủ, e chừng có  khi hơn. Thầy đã học lịch sử   Cách   mạng Pháp.   Đâu chỉ có vợ chồng  Louis 16, nhà bác học Lavoisier…  mà   rồi đến cả   Robespierre, người  đã làm cho nhiều cái  đầu rơi  xuống, đến   lượt cuối   cùng là mình rồi  cũng… “porter sa tête sur  l’échafaud”. Rơi   đầu!” Cái   đầu con người  ta quan  trọng là thế rồi  có lúc cũng phập   một phát, sật   một cái…  cắt đi, rời ra,  rớt xuống…  như củ khoai sọ!   Người-vô-hình có   lý  lắm. Mai Duy Vỹ thì đã là cái   gì đâu! 
Thầy ngây thơ hỏi: 
“Dạ, nếu vậy thì… Trong gia đình, cha mẹ, con cái, anh em, bà con… có là kẻ thù của nhau không? Thưa  đồng chí…” 
“Trước  khi trả lời mày,   ta muốn    xác định rõ: Ta không có đồng  chí, đồng  rận gì với mày hết!   Mày là  kẻ   thù kia mà! Đã nói rồi, lại quên  sao?” 
“Nhưng mà…” thầy  nói ngay   để    cho hắn không kịp ngắt lời. “Đồng chí, đồng rận gì gì  nữa, rồi    cũng  có   lúc trở thành kẻ thù của nhau! Điều  ấy có lẽ… là  không sai”. 
“Ừ… ừ…  thì…” Hắn lưỡng   lự. “Thì    cứ gọi  là đồng chí cho nó xong. Cũng  không sao! Đó là cái   lối xưng  hô   tiện lợi nhất  của thời đại chúng  ta!” 
Tự nhiên hắn dịu giọng: 
“Đồng chí nhắc lại câu hỏi vừa nêu ra…” 
“Trong một gia đình thì ông bà, cha mẹ,  anh em, bà con… có là kẻ thù của nhau không?” 
“Sao  lại không nhỉ? Gia   đình là    một xã  hội thu nhỏ. Xã hội có đấu  tranh giai cấp thì gia đình   cũng  có   đấu tranh  giai cấp. Không đấu  tranh thì gia đình làm  sao   củng  cố được   khối đoàn kết liên minh  vững bền? Vợ phải đấu tranh với     chồng. Chồng   phải đấu tranh với  vợ… Con cái phải đấu tranh với cha mẹ!    Ấy là  chuyện   thường ngày  trần tục. Còn trong đấu tranh chính trị  thì   vấn đề giai cấp   được ưu  tiên, đặt lên trên hết!  Lúc bấy giờ,  quan hệ   trong gia đình  là    quan hệ giai cấp. Nghĩa là không phải  chồng bảo gì   vợ cũng phải tuân     theo; cha mẹ nói gì con cái cũng  phải nghe  theo!   Phải đấu tranh  chống   lại tư tưởng phong kiến, tàn  dư bóc lột trong    đầu óc họ. Và  khi cần,   phải tố cáo những hành vi  phản động, chống phá   giai cấp   trước quần   chúng, trước Đảng! Lúc bấy  giờ, dù chồng mình đi   nữa thì  vẫn cứ là  kẻ   thù. Vợ phải đấu tố  chồng! Dù cha mẹ mình đi nữa    cũng vậy thôi, là kẻ   thù, con cái phải  đấu tố cha mẹ! Dĩ nhiên, muốn    đấu  tranh thì phải tố   giác. Nói gọn  và rõ hơn là muốn đấu thì phải    tố! Đấu  tố! Đấu tố! Và…   đấu tố!” 
“Đồng  chí nghĩ gì khi dân   gian    người ta nói: “Công cha như  núi Thái  sơn, nghĩa mẹ như nước   trong  nguồn   chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính  cha,  cho tròn chữ Hiếu mới   là  đạo con!…   Anh em,  như thể tay  chân…” 
“Xì! Chuyện cũ  xưa rồi!   Cha mẹ    sinh chúng ta ư? Đúng vậy. Nhưng khi họ nuôi chúng  ta lớn lên   rồi,  chúng    ta lại thuộc về Giai cấp, về Đảng. Tổ quốc,  Đồng bào là   trên  hết! Cha   mẹ  sinh con ra, nuôi dạy đến khi chúng  nó lập  gia   đình,  sinh con cái…   rồi chúng nó cũng thành cha mẹ. Nếu  nói cha mẹ là   trên   hết thì ông bà   là bố mẹ đẻ ra cha mẹ, lại còn  phải đặt lên trên    nữa, rồi  còn cố kí, cụ   kị đẻ ra ông bà… thì sao?  Cái này trên cái nọ,    cái nọ trên cái  kia,   cái kia trên cái nớ,  cái nớ trên cái í… Cái    kiểu sắp xếp ngôi thứ như   thế  chính là mầm  mống sinh ra, nền nếp tạo    dựng thành chế độ phong   kiến! Cực kỳ   nguy hiểm! Trung với Nước  hiếu   với Dân, thế  là quá đủ!   Khỏi phải  khen chê, trách móc nhau. Đó  là   tiêu chuẩn sáng giá  nhất để   xếp  loại Đạo đức của con người!” 
Hắn lại cao giọng ngân nga như hát: 
“Vợ  chồng lấy nhau ư? Thì   đó là    sự kết hợp tự nhiên giữa hai  Cái Con,  hai giống Đực Cái. Cũng   tốt    thôi! Chẳng có vấn đề gì! Tuy nhiên  cũng phải điều tra lại ba đời,    đánh    giá bản chất, đề ra phương án  hành động cho từng trường hợp    theo quan    điểm giai cấp đúng đắn. 
Chẳng  hạn, nếu hai vợ   chồng    cùng xuất thân từ tầng lớp nghèo  khổ bần cố  thì vấn đề đấu   tranh giai    cấp chỉ còn là củng cố, xây dựng khối  đoàn  kết liên minh,   vậy  thôi.   Nhưng nếu xuất thân từ hai thành  phần khác nhau, thì  phải    cương quyết   đấu tranh giai cấp đến cùng  để phân loại nhau, và nếu cần    thì…  loại bỏ   nhau! Lấy ví dụ, vợ  xuất thân từ  thành phần bần nông,    trung nông lớp   dưới mà chồng là  địa chủ phong kiến  thì dứt khoát  vợ   phải đấu tố chồng   đến cùng! 
Nếu  đồng chí lấy vợ lẽ,   thì con    vợ hai, vợ ba của đồng chí thực chất  chỉ là đứa ở cho hai vợ   chồng  đồng   chí,  bởi họ đã bị đè nén, chịu  áp bức đến hai ba tầng! Cho    nên, hai mụ   vợ  hai, vợ ba phải đoàn  kết thành một khối liên  minh    công nông, vùng   lên đấu tố mụ vợ cả  và thằng chồng (tức là vợ chồng    đồng  chí)!” 
Phải bấm bụng, thót hốc đít để khỏi vãi ra cười, thầy nói  ngay: 
“Thưa  đồng chí! Chẳng cứ   gì    phải lấy tới  hai ba vợ, chỉ cần một vợ duy  nhất thôi, đàn ông   chúng  ta   cũng đã thường  xuyên phạm tội áp bức,  bóc lột đàn bà rồi!   Cho  nên tôi   đề nghị, phải phóng tay  phát động  tất cả chị em phụ nữ,   đàn  bà vùng   lên! Và mỗi gia đình, phải để cho   các bà vợ được đấu tố    chồng! Chẳng   phải họ  đều là tầng lớp bị áp  bức bóc lột cả hay sao?” 
Người-vô-hình  dừng lại, ý   tứ.    Có thể hắn chưa quen mà cũng  chẳng ưa lối đùa của  bọn tiểu tư   sản trí    thức, cái bọn mà Bác Mao vẫn đánh giá  xếp  loại là chưa bằng   cục  cứt.   Hắn xẵng giọng: 
“Mày định nói gì? Ám chỉ ai thế, Vỹ?” 
Thầy bình tĩnh trả lời với một sự tự tin  rằng mình đang áp đảo Cái Chết. 
“Tôi đang biện luận về sự áp bức giai  cấp đúng như quan điểm hận thù giai cấp của đồng chí”. 
Thầy  nhìn hắn tần ngần và   lấy    làm lạ về  sự lựa chọn ngôi nhân xưng:  Đồng chí! Hai tiếng “Đồng   chí”    vốn có từ  bên Tàu, không phải, có  lẽ từ bên Liên Xô  qua Tàu,   dịch    nghĩa biến âm rồi lưu truyền sang  ta. Hai tiếng đó cào  bằng, xoá    sạch,   thay thế vào tất cả các ngôi   thứ. Hãy coi chừng và cảnh giác!    Đồng chí… 
“Được rồi. Cho đồng chí phát biểu ý  kiến!” 
“Tôi  nghĩ rằng, dù ai đi   nữa,    đã là một  đồng chí chồng thì đêm tới  thường hay giở trò áp  bức   bóc  lột   đồng chí vợ. Cái lề thói cũ xưa  bắt  đàn bà nằm dưới để đàn   ông  chồm đè   lên trên là bắt nguồn từ   bản chất, xuất phát từ quan điểm    phong kiến   mà ra. Ngay cái chuyện  đó thôi đã  nảy sinh mối thù mang    tính giai cấp   rồi. 
Nói  như vậy có nghĩa là   tất cả    các đồng chí từ Mao Chủ tịch  vĩ đại  trở xuống đều gây ra mối   thù giai    cấp, mâu thuẫn đối kháng. Cho  nên, bây  giờ ta phóng tay phát   động  cho   các đồng chí đàn bà vùng  lên, đảo ngược trở lại,  để họ nằm   lên  trên,   bắt các đồng chí đàn  ông nằm xuống dưới. Như thế may ra mới     xoá bỏ được   phần nào ách áp  bức phong kiến,  mối hận thù giai cấp. Có    phải không    ạ?” 
Người-vô-hình  im lặng,   không    thấy phản ứng gì. Cuối cùng hắn  nói: “Giai cấp tư  sản, bọn tư   bản    Phương Tây vẫn ưa làm cái trò đảo ngược đó.  Chúng  cho đàn bà nằm   lên    trên, đàn ông nằm  ở dưới… Nhưng xét cho cùng,  đó chỉ là trò cải    lương   giả hiệu, không phải  là Cách mạng, chẳng  giải quyết được yêu    cầu cấp   thiết gì của quần chúng Công  Nông  Binh…” 
“Nếu vậy thì…  hay là… ta   sắp    xếp lại hai lực lượng cách mạng  này cho nó ổn thoả  hơn: Không nằm   nữa    mà cùng đứng, mặt đối mặt, áp sát vào  nhau! Thế  là, hết áp bức   bất    công, hết hận thù giai cấp! Ha! Ha! Ha!” 
“Cười  cái gì?” -   Người-vô-hình    hét lên - “Toàn là những trò  Cách mạng  giả hiệu cả. Đâu   phải là Cách    mạng thật sự, Cách mạng chân chính!   Phải tiếp tục làm   Cách mạng vô  sản!   Phải chuyên  chính đến tận  cùng! Sau cuộc Cách mạng    trời long  đất lở   này phải tiếp tục  làm  cuộc Cách mạng đất lở trời   long  khác!  Cách mạng   không ngừng!” 
“Nếu vậy thì đến khi nào mới thôi Cách…  cái mạng?” 
Thầy  hỏi lại, dẫu rằng có   hơi    vui đùa, mà sao lòng thầy đầy xúc động  hân hoan. Hình như cảm   nhận  được   sự  băn khoăn chân thật đó,  Người-vô-hình cũng đắc ý và hào    hứng: 
“Đến  khi nào trên toàn   thế giới    xây dựng xong chủ nghĩa Cộng  sản, xoá  bỏ hết giai cấp… Đã   nói từ lúc    nãy. Quên rồi à? Khi nào tất cả các   nước đều nhổ vứt hết   các cột  mốc   biên giới, chẳng ai thèm lấn  chiếm của ai một  tấc đất;   tất cả  đều là   của chung, của anh cũng là  của tôi. Bốn phương vô sản    đều là  anh em.   Đất nước Việt Nam là  của  Trung Quốc… Và… Tổ quốc Trung   Hoa  là Mẹ chung   của tất cả chúng  ta! Bác  Mao nào phải đâu xa, Bác Hồ    ta đó chính là Bác   Mao! Ha  ha!” 
“Có nghĩa là… đến cái ngày con anh cũng là con tôi, vợ của anh cũng là vợ… của tôi!…” 
“Vỹ!” - Hắn hét to - “A? Thằng này láo nhỉ? Mày đã nhận ra  cái tội lỗi của mày chưa?”
Sự  chuyển đổi đột ngột   trong    giọng điệu thái độ của  Người-vô-hình  khiến thầy hụt hẫng loạng    choạng.   Mối thù giai cấp, mâu thuẫn đối   kháng giữa người với người,    giữa hai   cái giống đực cái theo kiểu  này thì đời  đời kiếp kiếp e  cũng   không thể   nào hết được. Mà có lên  tới chủ nghĩa Cộng sản  đi  nữa, có   khi đã không   giảm bớt lại còn  gia tăng rắc rối, ác nghiệt  hơn!
Thầy ấp úng: 
“Tôi  thừa nhận rằng tôi   có bóc    lột bà  con nông dân, đúng thế, nhưng  tôi không có áp bức  gì   ai cả,    ngoài vợ tôi… Đó là theo quan điểm  đấu tranh giai cấp của  đồng   chí  mà   tôi suy diễn, chứ thực ra hai   chúng tôi xuất thân cùng một   giai  cấp. Có   khác chăng tôi là địa chủ   phong kiến, còn vợ tôi là địa    chủ… nông dân.   Cùng một bản chất  giai cấp giống  nhau làm sao có mâu    thuẫn đối kháng?   Tôi  thương  yêu vợ con tôi, tôi chẳng thù ghét ai    trên đời này cả. Tôi   chưa hề  làm hại ai, trái lại…” 
“Vỹ!”  - Người-vô-hình gằn      giọng, nghe  còn rõ và dữ dằn hơn gầm thét. -  “Giờ tận số đến rồi  mà      mày vẫn còn ngoan cố hử? Tao nhắc lại cho  mày nghe. Mày là tên  địa    chủ   cường hào gian ác, phản động bán   nước; vợ mày là con mẹ địa chủ    bóc   lột, hà hiếp, áp bức bà con nông  dân.  Mày phải khép vào tội chết    và   chịu án tử hình! Còn vợ mày,  con cái mày thì cho  sống để lao  động   cải   tạo, trả nợ đền ơn bà con  nông dân bần cố cho đến tàn đời,   hết   kiếp   nghe chưa?” 
Người-vô-hình vụt biến sau cánh cửa khoá hai vòng xích sắt.
Vệt sáng đỏ từ tay hắn vừa phóng ra nhắm  thẳng vào đầu thầy. Một tiếng nổ không to lắm nhưng  rất chói và đau xé. 
Thầy ngật người ra sau, đổ  vật xuống nền nhà.
CHƯƠNG 39
ĐỒNG HỒ SỐNG. SỰ SỐNG TRONG
SIÊU NHÀ TÙ, SIÊU ĐỊA NGỤC
Trời vẫn tối! Không hiểu bây giờ là mấy  giờ? 
Đã lâu rồi thầy mất thói quen xem đồng hồ, coi giờ. Tự nhiên nhớ lại hai cái đồng hồ mình đã dùng trong  đời. 
Cái đồng hồ quả quít Thụy Sĩ thầy mua vào những năm 40 ở hiệu Tàu có sợi dây bạc đeo cất, bỏ túi… rất tốt. Dạo ấy Lệ Uyên chưa sinh. Một lần thầy bỏ quên, đánh mất nó ở đâu cũng không biết. Bà nội có ý ngờ cho anh Nuôi. Mẹ thì lại nghi chú Đông. Cũng chỉ vì vậy mà anh Nuôi khóc lóc, thề thốt, doạ nhảy xuống giếng tự tử. Mẹ chồng con dâu cãi lộn. Bà vẫn thường bênh che cho chú Đông, kể cũng lạ, và có phần khắt khe với con đẻ, con dâu!
Cái đồng hồ quả quít Thụy Sĩ thầy mua vào những năm 40 ở hiệu Tàu có sợi dây bạc đeo cất, bỏ túi… rất tốt. Dạo ấy Lệ Uyên chưa sinh. Một lần thầy bỏ quên, đánh mất nó ở đâu cũng không biết. Bà nội có ý ngờ cho anh Nuôi. Mẹ thì lại nghi chú Đông. Cũng chỉ vì vậy mà anh Nuôi khóc lóc, thề thốt, doạ nhảy xuống giếng tự tử. Mẹ chồng con dâu cãi lộn. Bà vẫn thường bênh che cho chú Đông, kể cũng lạ, và có phần khắt khe với con đẻ, con dâu!
Cái đồng hồ thứ hai đeo tay nhãn hiệu Niklès - Made in France là của một đồng chí tặng. 
Tiểu  đoàn trưởng Lê Hải   Ba được  thầy   mổ ruột thừa, sau khi  lành đã cởi  tháo đồng hồ đặt vào   tay  thầy. “Tôi   tặng anh vật này làm kỷ niệm.  Có thể một ngày nào đó   chỉ  còn  lại nó   trên đời này và… anh sẽ nhớ  đến tôi…” Đồng chí ấy nói   mà  rưng  rưng nước   mắt. Thầy từ chối  không nhận. 
Hồi ấy  đồng hồ là vật quý   hiếm.  Cái   Nikles lên dây cót đó  phải mua ở Hà  Nội hoặc vùng tề đưa   ra.  Dẫu rằng   một mạng sống được cứu sinh là   chuyện ân nghĩa khó quên,    thầy cũng   không nỡ  nhận món quà quý của  bệnh nhân mà bệnh nhân đó là    một đồng   chí, một người lính  Cụ Hồ. 
“Người thầy thuốc rất cần đồng hồ, cần hơn ai hết, anh giữ lấy nó…  cho tôi vui lòng.” Tiểu đoàn trưởng nài nỉ. 
Bây  giờ nhớ lại, nghĩ tới   câu nói  của   đồng chí ấy mà thấy như điềm  gở... “Chỉ còn lại nó trên   đời  này”. Quả   đúng thế. Tiểu đoàn trưởng  pháo binh đã hy sinh ở mặt   trận  Điện  Biên,   còn Mai Duy Vỹ này  mạng sống đang được đếm từng giây,    từng phút… 
Đột  nhiên, thầy đặt tay   lên phía  trái   ngực và kinh ngạc cho  trái tim  mình. Tic tac! Tic tac!   Nó vẫn  còn đập?   Thật kỳ lạ. Tic tac tic  tac…  Đã bao năm rồi, mỗi lần   cầm  ống lắng đặt   lên ngực  bệnh nhân,  dùng ngón tay bắt mạch bệnh nhân    mà sao y sĩ Mai   Duy Vỹ lại không  cảm nhận được trái tim con  người    mới là cái đồng hồ   đích thực. Cái  đồng hồ đếm đo mạch sống của con     người vô tư, hào phóng,   kỳ diệu  phi thường! Ôi trái tim con người    chúng ta! 
Quả tim Mai Duy Vỹ vẫn còn đập! Thầy  muốn la to lên cho mọi người nghe, cho cả nhân  loại biết. 
Nhịp  đập đầu tiên của nó   là lúc  còn   nằm trong thai mẹ! Mẹ ơi! Mẹ đã cho  con một sinh mệnh, một   đời  sống.    Vậy mà bây giờ người ta lại nỡ  cướp nó, giết nó đi! Con có    tội tình chi!    Đã không được sống để  báo đền ơn sinh thành  của thầy    mẹ, lại còn để   người ta giết mẹ  mình đi! Làm con mà không cứu  sống    được mẹ sao còn có   thể gọi là  con, là  mang tội bất hiếu bất nghĩa    biết mấy  lần! Trời đất   ơi! 
Thầy  bưng mặt khóc. Khóc   không  thành   tiếng. Và ngạc nhiên sao mình vẫn  còn nước mắt để mà khóc?    Điều  kỳ lạ!   Vậy là sự sống trong con  người mình vẫn còn? Lần này,    nếu họ  không giết   thầy, cho thầy ra  khỏi nhà tù, chắc thầy lại sống,    tiếp tục sống như   mọi người được  tha khác. Nhưng cái buồng  giam  trong   đình làng này nghĩ   cho cùng  không thể gọi là nhà tù được. Nó   đâu có   giống Hoả Lò, Lao Bảo,    Kontum, Côn Đảo… Nó là Siêu nhà tù!  Siêu địa   ngục! 
Con  người là một động vật   kỳ lạ!  Thầy   nghĩ ngợi miên man. Nếu mình là  con chó, con mèo, con   trâu, con   bò… ừ   cứ cho là con cọp đi nữa, mà  bị ngược đãi hành hạ như   thế  này chắc  chắn   là nó đã chết trong  một thời gian  ngắn, vài ngày,    dăm mười ngày!… Vậy   mà Mai Duy Vỹ  này vẫn còn sống, vẫn  chịu đựng    được mọi ngón đòn hiểm   hóc, tai   ác, chết người! 
Sự  chịu đựng, sức sống   này có từ  đâu?   Có phải từ trong bào  thai mẹ  sinh ra? Có đấy. Nhưng   chỉ một  phần thôi.   Sức đề kháng, thích nghi  kỳ lạ này lại chính là do   nhà tù  sinh ra. Ai   có ở tù mới hiểu được  điều này. Hơn hết mọi nhà tù   trên  thế gian này là   nhà tù Cải cách  Ruộng đất! Nhà tù  Siêu phong   kiến!  Nhà tù Siêu đế quốc! 
Cảm thấy mình như vừa khám phá ra được điều gì mới lạ, một phát minh trong Y học, thầy nở một nụ cười ngây thơ…
Cảm thấy mình như vừa khám phá ra được điều gì mới lạ, một phát minh trong Y học, thầy nở một nụ cười ngây thơ…
Nụ cười chợt tắt. Dòng lệ từ trong hai  hốc mắt lại ứa ra. 
Nước mắt mình vẫn còn? Vậy là mình vẫn sống. Câu hỏi, câu trả  lời cứ lặp đi, lặp lại. 
Mai  Duy Vỹ này đã tận mắt   thấy  con   người ta lúc lọt lòng mẹ,  cất  tiếng khóc. Chính bàn tay Vỹ   đỡ  đẻ và   không ít người đã ngợi khen  là khéo  tay mát tay hơn cả các   cô  đỡ   Sage-femme. Nghiên,  Hoà,  Lan… các cô đều mê Vỹ! 
Vỹ  đã thấy dòng lệ người   mẹ trào  lên   má, giọt nước mắt trẻ sơ sinh  hiện ra cùng tiếng khóc: Tôi   đã  sinh  ra   một con người cho đời! Tôi  là một  con người đây! 
Mà  đâu chỉ con người, Vỹ   đã từng  thấy   con chó Vện khóc, con  trâu cái  nhà mình khóc… lúc chúng   nó  chết. Thế   đấy! Vậy mà bây giờ những  giọt  nước mắt của Mai Duy Vỹ    đang trào ra đây   lại  không có một  con người nào trông thấy cả. Có ai    thương xót Mai Duy   Vỹ này   không? 
“Không!” 
Tiếng búa nện. Phát súng nổ. Chát chúa lỗ tai. Buốt nhói cả  tim óc. 
Thầy gục xuống. Chẳng cần tới một nhát búa, một phát súng  mình cũng đã chết. Và đang chết đây!... Thầy nằm yên không động cựa.
CHƯƠNG 40
QUỶ NGƯỜI - NGƯỜI QUỶ
QUỶ NGƯỜI - NGƯỜI QUỶ
Có  tới bảy tám con quỷ…   Thầy đoán    chừng vậy. Bởi vì nhìn toàn thân  thì có vẻ giống giống con   người,  cũng   hai chân hai tay, nhưng cái  mặt thì khang khác, là lạ… 
Nếu  là con trâu, con chó,   con  cọp…   thì cái sừng, cái mõm,  móng móng  vuốt của chúng đều biểu   thị  cái gì đó   thuộc về nòi giống của chúng.   Đằng này… đít giống như    mặt, mặt na ná   như đít? Mắt và mồm là hai  cái lỗ - mồm  ở trên, mắt ở    dưới. Và hình   như… chúng có đuôi? Cái  đuôi thay cho cái tay,  ngoắc    ngoéo, móc nối   nhau biểu thị sự đồng  cảm, đồng tình. Đặc biệt hai  cái   tay  xoè cụp,   rung rinh… rất nhạy  bén trước mọi tiếng động,  trạng   huống. Chúng nói    với nhau những gì  thầy không nghe rõ. Ao áo,   nháo   nháo… báo cáo… láo   nháo… xạo xạo…  đả… ảo… đảo … đảo… í í… lí  bí… chí   chí…  đồng ý… 
Hồi  nhỏ, mình cứ suy từ   loài vật  mà   hình  dung ra con quỷ. Đầu trâu  mặt ngựa có gì đáng xấu   đâu. Thật  sai   lầm! Hình như  đoán ra được ý  nghĩ của thầy, bọn quỷ   biến hình  trở thành   những bóng đen. Trông   chúng lại có vẻ giống con   người  hơn. Thầy  bắt   đầu so sánh phân  loại bằng cách lặp đi lặp lại   hai  mệnh đề tương  phản   nhau: con  người là con quỷ - con quỷ là con    người. Rồi, người là quỷ -   quỷ   là người. Rồi người-quỷ, quỷ-người…     quỷ-người, người-quỷ!… 
Thầy lặp đi lặp lại như một trò chơi lúc còn học lớp đồng ấu, tiểu học. 
Hồi  ấy, thầy và chú Đông   ngồi đối  mặt   với nhau, giơ tay ra vỗ  chéo  vào bàn tay nhau, miệng thì   kêu:  chó,   mèo… mèo chó… Cứ thế tranh  nhau nói; cho đến khi nào mỏi   mồm,  rã mép,   răng lưỡi  va cắn vào  nhau… Rồi cuối cùng, dừng lại. Một   tay  anh này chỉ   vào mặt anh kia  la lên: “Chó!” 
Con  chó, con mèo biết con   nào xấu  hơn   con nào? Con chó có gì là xấu  đâu!  Vậy mà chú Đông vùng   vằng,  ấm ức   đến phát  khóc; lại chạy vào  mách với bà nội là anh Vỹ anh   ấy  bảo con là   con chó!  Và bà thì  lúc nào chả thế, lại bênh thằng   Đông,  đe mắng thằng   Vỹ! 
Bây   giờ thầy đang thử cố   sức lặp  đi   lặp lại hai tiếng người-quỷ,  quỷ-người… và định bụng đến   một lúc  nào đó,    hết hơi rồi, hoặc lý  trí không còn kiểm soát,  chế   ngự  được đầu óc nữa   thì… cái tiếng  cuối cùng ấy là một phán quyết đúng    đắn  nhất. 
Người… quỷ! 
À  ra vậy. Con người chính   là  con    quỷ! Ông Pasteur khi tìm ra vi  trùng bệnh chó dại - khám phá   ấy  cũng   chưa  quan trọng bằng phát  minh này của Mai Duy  Vỹ! Phát minh    này sẽ mở   ra con đường mới,  tránh cho nhân loại bao thảm họa tai     ương. 
Hình  như bọn quỷ này đã   nhận ra  mưu   đồ, biết được tư  tưởng, nắm chắc  quan điểm chính trị của   Mai  Duy Vỹ… Cả   lũ xúm lại, vật ngửa, chận  đè lên người thầy: 
-  Không cho nó ngóc đầu dậy! 
Một  con kêu lên. Mấy con   kia   chồm   tới, bóp cổ thầy một lúc cho đến  nghẹt thở rồi từ từ buông   ra.  Con lớn    nhất, cũng là đầu đàn, lãnh  đạo cả lũ, dựng  thầy ngồi   dậy,  dùng tay bịt   mồm. Con nhỏ hơn, cũng  thuộc hàng lãnh đạo,  chổng   đít  lại, lấy cái   đuôi ngắn ngủn ngoáy   ngoáy chọc chọc vào hai lỗ mũi    thầy… 
- Mặc  quần áo liệm vào cho nó! Mau lên, Quân Chủ lực! 
Hai  ba con cùng “dô nào”   bắt  tay    ngay vào việc. Chúng làm nhanh đến  nỗi mình chưa kịp vùng   vẫy, đã  mặc   gọn  vào người một bộ áo bằng  vải xô trắng, thứ  vải thô   tháp mà  người   ta thường khâm liệm khi  đặt tử thi vào quan tài… 
Thầy   hoảng sợ, kinh hãi   định la  thét   lên thì lạ chưa, lũ quỷ bỗng chốc  biến đi đâu hết?… Chỉ   còn một  mình   Mai Duy Vỹ, thầy  của mẹ và các  con giữa cõi Trần gian.
CHƯƠNG 41
ĐẤNG CHÍ TÔN, CHÍ THÁNH, CHÍ THẦN…
ĐẤNG CHÍ TÔN, CHÍ THÁNH, CHÍ THẦN…
Thầy  đang đứng ở một con đường. 
Nhìn quanh chẳng thấy cái   gì   hết.   Không một mái nhà, không một con người, con vật, không một   bóng  cây. Màu    trắng đục bao quanh, không phải mây, chẳng là sương mù.    Chẳng có hình   bóng gì  cả. Sắc sắc không không. Bỗng nhiên thầy nhớ    tới bốn tiếng   trùng âm ông nội con  nói ngày xưa… Sắc sắc không không…    Có lần thằng cò   Vỹ ở truồng, chẳng mặc quần  áo, từ ngoài giếng vừa    tắm xong, chạy vào   nhà la lên: “Không không sắc sắc giơ cặc lòi cu…    mình mẩy thu lu, ai cho    thì… đút!” Chẳng hiểu ai bày cho thầy, anh    Nuôi thì phải, cứ thế mà ca    mà hát… Từ dưới bếp tới trên nhà, ai  nấy    được một mẻ cười no nê. 
Hôm đó, ông Cử Mai, ông   nội  con  đang   tiếp ông Cử Hồ bên Hà Trung sang chơi. Mỗi lần gặp nhau   ngồi  bên ghế    trường kỷ hai ông Cử thường hay nói chữ.  Ngoài “sắc sắc    không không”   lại còn “vô vi”, “tri túc”… thầy chẳng hiểu  ý nghĩa của    những cái đó là   gì? 
Thấy mọi người vui cười   hoan  hỉ,  lại   bắt gặp con mình đang nồng nỗng ngoài sân trông như   thằng ngộ,  trước    mặt khách, bậc túc nho tri kỷ, ông nội con bất bình   đứng dậy,  bước ra   sân, hỏi chuyện đầu đuôi rồi nắm tay thầy lôi  vào   nhà bắt  nằm sấp xuống   phản, thong thả hỏi tội, quất cho hai roi vào    mông  đít… 
Chữ nghĩa thánh hiền, chuyện  thần thánh, sao lại dám đem ra đùa cợt? Đứa  nào xui? Đứa nào bày? Nhớ lấy! 
Bây giờ cái sắc sắc không không ấy đang vây quanh thầy.
Bây giờ cái sắc sắc không không ấy đang vây quanh thầy.
Thầy chợt nghĩ, đã sinh   ra con   đường   là để cho người ta đi; mình phải đi,  không thể cứ đứng   mãi ở  đây được.   Thế là thầy cất bước. Vừa bước đi dăm  chục bước, chưa   gì  đã dừng chân.   Ngoái lại  nhìn, thì lạ chưa, đoạn đường phía sau   lưng  mình không thấy   nữa, biến đi  đâu mất? Sắc sắc không không. Thầy    suy lí: Vậy là con   đường này chỉ có mà đi  tới, đi tiếp, muốn dừng    chân để quay trở lại   cũng không được. Con đường gì mà  lạ nhỉ? Nhưng    ta đang đi đâu, đi để   làm gì? 
- Mai  Duy Vỹ! 
Một  tiếng kêu từ trên cao vọng xuống. 
Thầy sững sờ ngước nhìn.   Tia   chớp   lửa loằng ngoằng vẽ một con đường giữa  trời như con rắn đỏ.    Tiếp liền,   tiếng sét nổ không to lắm mà sao chói tai, buốt  óc, rợn    cả người. 
- Mai  Duy Vỹ! 
Thầy  giật mình đứng sững   nhìn  cảnh   tượng lạ lùng. Trước mắt bây giờ chẳng còn sắc  sắc không   không  nữa mà   da trời phía Đông, thầy  tin là phía Đông, có lẽ ma xui   quỷ  khiến như   vậy chăng, đang ửng lên một màu  hồng sáng. Con rắn khi    nãy bây giờ biến   thành con rồng lửa uốn lượn, khép vòng.  Ô kìa! Một    cái ngai màu đỏ.   Những tia vàng  loé ra từ Ngai Đỏ và một vị Vua, chỉ    có thể là một Hoàng   Đế thôi, đang ngự trên  đó. 
Theo thói quen, tính cố   hữu   trong   khí huyết, cân não của một người dân  nô lệ Á Châu, đầu gối    chưa gì đã   rã khớp, hai ống chân nhũn mềm ra như bún,  thầy vội vàng    quỳ xuống… 
- Mai  Duy Vỹ! 
Âm  giọng rền vang nghe như lưỡi gươm khua, viên đạn rít trên đầu.     Thầy vội vàng lắp bắp: 
-  Muôn tâu Bệ hạ! 
- Ta không phải là Vua, chẳng  phải Tổng Thống. Hãy nhìn lên đây! 
Thầy  ngửa cổ, rướn đầu cao hơn: 
- Ta là Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí  Thánh, Chí Thần, Chí… 
Vừa sợ hãi lại tò mò,   thầy trố   mắt   nhìn. Một mái đầu tóc trắng như mây,  vuốt ngược, loà   xoà hai  bên vầng   trán rộng… Đôi mắt ánh lên tinh thần  của khoái lạc   và thủ  đoạn, hoà   điệu theo miệng cười giả trá, hơi tuồng kịch…  Cái   mặt vừa  giả lại vừa   thật có một sức hấp dẫn đến nỗi thầy ngây dại nhìn   và   môi nở nụ cười. 
- Mai  Duy Vỹ! 
Âm giọng nghe rõ ràng, đanh  rắn từ trên cao vọng xuống.
- Ta đây! Ta là người nô bộc  trung thành của muôn dân. Hãy nghe và trả lời những câu hỏi của ta!
- Dạ. Con cũng là… - Thầy lắp  bắp - đầy tớ của nhân dân…
- Xì!  Mi là thằng địa chủ phản động, bán nước hại dân… lại không tự biết mình hay sao? 
- Dạ, tôi là địa chủ -   Thầy  ngập    ngừng suy tính. Đang từ con chuyển sang tôi, thầy bỗng hốt   và sợ,  như   hai  lần đấu quỳ trước các ông bà nông dân. Trót đã lỡ lời…   -  Nói cho   thật đúng, cha  đẻ ra con mới thật là địa chủ, con là công    chức, cán bộ…   Nhưng chối cãi điều  đó, con lại là một đứa con bất hiếu    với cha mẹ…   Vâng, con là địa chủ. Nhưng con  đâu có phản động, bán    nước, hại dân! 
Im lặng một lúc. Hoàng   Thượng   ngự   trên Ngai Rồng Đỏ hình như ít nhiều có phân vân. Người   thong thả  điệu   nghệ  vuốt chòm râu bạc… 
-  Không ai tin điều mày nói cả. 
- Dạ, làm sao vậy? Kính   thưa….   Muôn   tâu… Dân người ta không tin hoặc phủ nhận cố tình, điều   đó có  thể hiểu    được, bởi họ bị vây bọc, đè nén trong vòng  ngu muội,   bùa  mê, tăm tối,   dốt nát… nhưng còn Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí    Thánh…  Người thấu suốt   cả sáu cõi… 
Đấng  Tối Cao cười, lấp lửng. 
-  Ngươi quên rằng… Ta cũng chỉ là kẻ nô bộc trung thành của muôn dân thôi hay sao? 
Thầy  gân cổ, cãi lý: 
- Con cũng là đầy tớ… của dân. Vào Đảng năm 1948, cho đến nay tính ra đã 7 năm vì nhân dân phục vụ, quên mình hy sinh…
- Con cũng là đầy tớ… của dân. Vào Đảng năm 1948, cho đến nay tính ra đã 7 năm vì nhân dân phục vụ, quên mình hy sinh…
Đấng  Tối Cao cau mày, ra chiều lưỡng lự, cân nhắc: 
-  Biết vậy. Nhưng mà… 
-  Nhưng mà sao ạ? 
Thầy  chắp hai tay trước ngực, chờ đợi, cầu khẩn. 
Có tiếng súng nổ vọng lên đâu  đó, nghe xa mà lại gần. Thầy rùng mình cố  giữ hai đầu gối sao cho vững, tì trên đất. 
- Đồng chí Vỹ! Nghe đây -   tiếng   sấm   truyền từ trời cao xuống - Ta biết anh vô tội, lòng anh   trong  trắng.   Nhưng…  ta không thể cứu anh được. Mà cho dù ta có muốn   cứu  anh, ban   lệnh xuống thì đã  chắc gì quần chúng nhân dân người ta    nghe cho? Cải cở   thủ ti - Cải cách Ruộng  đất là cuộc Cách mạng lớn    nhất trong lịch sử   đấu tranh giai cấp của dân tộc,  mang tầm cỡ nhân    loại… Trong cơn trời   long đất lở này, sóng thần Cách mạng đang  ào ào    dâng cao, cuộn tới,   bánh xe lịch sử đang lăn đi... Ai người bị cuốn    trôi, nghiến nát âu cũng   là lẽ thường tình. Miễn  sao Cách mạng Thế    giới đạt được thắng lợi cuối   cùng! 
Có một  người phụ nữ lòng   dạ còn    trong trắng tốt đẹp hơn anh, còn đáng thương, đáng quý hơn anh   ở  cách   đây không xa lắm… Một người đàn bà! Ta đau lòng nhắc lại: Một     người đàn   bà! Anh đã nghe rõ chưa? Vậy mà ta cũng không cứu được!    Mong anh thông   cảm cho ta… 
Đấng Chí Tôn vụt biến. Trong  mây mù còn vọng lại tiếng sấm rền xa xa. 
-  Ta... không… thể… cứu anh được! 
Thầy  đổ vật người xuống, nằm lăn ra giữa đường. 
CHƯƠNG 42
PHÚT GIÂY… VĨNH BIỆT!
PHÚT GIÂY… VĨNH BIỆT!
Mở mắt… Thầy thấy mẹ đang ngồi  ở cái ghế nhỏ trước mặt. 
Vẫn  chưa tin đó là mẹ của các con.      Trời ơi, mẹ gầy ốm sút đi đến không thể nhận ra.  Có ai tin được  rằng vợ     của Mai Duy Vỹ, bà y  sĩ ngày xưa mà bây giờ còn thảm hại  hơn mụ ăn   mày   năm đói Ất Dậu 45! Làm gì  được là đứa ở, con nuôi,  đầy tớ nhà họ   Mai! 
Mẹ nói, ông Đội trưởng người  Nghệ  An     cho phép vợ Mai Duy Vỹ được vào  thăm chồng… Nói xong, hai tay ôm  mặt     khóc. Thầy bảo, đời người sớm muộn  rồi ai cũng một lần ra đi.  Anh sắp     được gặp lại thầy mẹ, ông bà, tổ tiên… Mình  em khóc thế đủ  rồi, khóc     nữa kiệt sức, dành  sức ở lại mà nuôi con… Mẹ nói, mình cứ  yên lòng mà     ra đi. Một phần đời  em đã để dành ra phụng thờ ông bà,  tổ tiên, thì   nay   phần còn lại, xin trọn đời thờ chồng! Anh đừng quá  lo mà tâm linh    làm   bối rối, xao xuyến người ở lại. Trời sinh voi  sinh cỏ. Các cụ đã   dạy    rồi. Mẹ con nhà Vỹ sẽ vượt qua cơn hoạn nạn  này. Người ta không   cho mình   ăn cơm  thì mình ăn rau, ăn cỏ.
Cùng đường thì ăn cóc, ăn nhái, ăn châu chấu… miễn là sống được! 
Thầy bảo, nếu còn sống sót, em   gắng     nuôi dạy các con nên người. Đói cho sạch, rách cho thơm. Dù  trời long     đất  lở, xã hội loạn lạc, nhân tình đảo điên, vợ  con cũng  phải cố mà     giữ lấy phẩm  chất, danh dự, đức hạnh của dòng họ Mai… 
Thanh Tâm, Lệ Uyên dẫu là con  gái,      chúng nó vẫn đại diện cho nòi giống, phẩm tiết của dòng họ Mai. Đầu      tháng  này, Lệ Uyên bị ngộ độc sắn, không ai vào  báo cho thầy  biết,     chẳng ai cứu chữa cho con tôi cả, quằn quại ôm bụng  suốt cả  một đêm,     may mà qua khỏi. Phúc phận nhà họ Mai vậy là vẫn còn. Ôi,  Thanh Tâm, Lệ     Uyên, các con của tôi, nỗi đau lớn  nhất của thầy  trước lúc ra đi là      không được ôm các con vào lòng!
Câu chuyện trao đổi tới đó thì  anh    dân   quân vào báo Đội bảo hết giờ rồi, vợ  thằng Vỹ phải ra ngay! Ừ  thì     nhờ ơn Đội mà vợ chồng Vỹ, thầy mẹ các con,  còn được gặp nhau.  Đội mà     không cho thì  cũng đành chịu! 
Mẹ nhìn thầy: Vĩnh biệt! Nói được hai tiếng rồi quay ra, nón rách úp vào mặt, nức nở. Vĩnh biệt! 
Đất  trời sụp đổ. Trần gian tan nát… 
CHƯƠNG 43
NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG.
ÁN TỬ HÌNH
NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG.
ÁN TỬ HÌNH
- Vỹ! 
Thầy hơi giật mình, mở mắt ra.  Họ vào khi nào mà mình chẳng biết? 
Gần  cả chục người đứng   trong  gian   buồng chật, quần nâu áo nâu, đi chân đất, thật khó phân   biệt.  Định thần   một lúc thầy mới dần  dần nhận ra. Bốn người cầm gậy,   quấn  dây thừng.   Một người vai mang khẩu súng  trường mut-ca-tông. Một    người có vẻ khác   lạ  bởi đôi dép lốp dưới cái xà cột bên  hông, chắc    là ông Đội trưởng.   Từ khi bị bắt, sau hai lần đấu, có điều lạ  là  thầy   vẫn chưa tận mắt   nhận rõ mặt được ông Đội này.
Nghe giọng nói, biết người Nghệ An,  là bộ đội Cụ Hồ… 
-  Tháo cùm ra, bắt ló đứng dậy! 
Y tá  Toành nói, vung   văng tay  chân,   điệu bộ ra vẻ chỉ huy. Họ xúm nhau lại tháo cùm. Ổ khoá   ngoắc  nối dây   xích cũ rỉ rét lâu ngày  khiến họ loay hoay, ngắc ngứ   mãi  với chìa khoá   xoay vặn, kéo đi lôi lại làm vết loét hai cổ chân   như  bị cưa, bị cắt.    Thầy kêu rên. Họ càng mạnh tay hơn. 
Cùm lim vừa được tháo gỡ,   lôi  nhấc   hai ống chân  trầy trụa máu mủ, mụn nhọt ra… họ để thầy ngồi    yên một   lúc. Hai anh dân quân xốc nách thầy đứng lên. Thầy  đổ vật    xuống khiến   hai chàng gầy ốm loạng choạng cũng muốn ngã theo. 
- Ló  đói đấy. Ló chưa chết đâu mà no! 
Vẫn  giọng Toành, khó lẫn vào đâu được. 
- Để cho ló thông cảm với cái  khổ của bà con lông dân bị dòng họ Mai nhà  ló bóc nột đè lén hằng mấy mươi lăm lay.
Không thấy những người   kia nói   gì.   Họ đưa thầy ra ngoài cửa buồng giam, nói cho đúng hơn,   cái buồng  ngủ của    ông từ canh giữ ngôi đình làng ta bao đời  nay. 
Ra trước sân đình, cái   hơi khí   tự   nhiên của Đất Trời làm mình như được sống lại. Quên cả rét   tháng  chạp,   phong  phanh quần áo nâu rách, thầy ngước nhìn bầu  trời   xám:  lớp lớp   mây ùn ùn đang theo gió mùa đông bắc tràn về. Cảm tạ  Đất    Trời! Thầy   muốn kêu lên. Lạy tạ Nga Sơn, Mẹ quê hương đã sinh ra con!    Không  nỡ tâm   để Mai Duy Vỹ, đứa con tội nghiệp oan khốc phải chết    trong buồng giam,    nơi xó đình mà được chết ở ngoài Đất Trời  này!    Chưa kịp chắp tay cúi   đầu, quên mất rằng mình đang bị trói trật  cánh    khuỷu hai tay sau lưng,   xương khớp hai ống chân như đã gẫy rã ra,  thầy    khuỵu gục xuống sân   đình. 
“Thằng  Vỹ đói! Phải cho nó ăn cái gì để nó tỉnh dậy rồi mới dẫn nó ra ngoài trường đấu  được…” 
Có  người đưa ra ý kiến như vậy. Giọng nói của một người xa lạ không phải người trong làng này. Một người  đàn bà! 
Một người nữa lôi chiếc   chiếu   rách   từ trong đình ra trải phủ lên người  thầy. Khoảng dăm mười   phút  sau, họ   kiếm đâu ra được một khúc sắn luộc đã  nguội lạnh, gại   gại  cọ cọ mồm   thầy, bảo ăn đi… Sực nhớ tới lời các cụ năm xưa,  ai đi   về  Bên Ấy mà   không có cái gì lót dạ, người ấy sẽ trở thành con ma đói,     lang thang   vật vờ khắp Âm phủ… Đã bao lần  trong nhà thương, chứng    kiến cảnh người   bệnh lúc sắp chết, cố gượng dậy  để người nhà đút vào    mồm thìa cháo,   miếng cơm, ngậm cả thịt gà, thịt lợn… thầy cũng cố  ngậm   lấy khúc sắn và   nhai… để  còn kịp nhận ra quanh mình hiện tại  là   những con người chứ   không phải  những con quỷ. 
Lạy  trời! Lạy người! Con   xin cắn  cỏ   ngậm vành cái ơn sâu người đàn bà nào đã động lòng nghĩ   tới  chuyện cho   Mai Duy Vỹ ăn cái gì đó  trước khi chết! 
Thầy mở mắt… Bây giờ là mấy  giờ? Buổi sáng hay buổi chiều?
Đột nhiên, một con quạ   đen nãy   giờ   đậu trên nóc đình rướn mình, đập cánh rồi lao thẳng vào   bầu trời  như quả    đạn moóc-chi-ê… Quạ… ạ! Qu… ạ! Nó kêu lên. Tưởng đâu   nó  biến mất, ai   ngờ một  lúc sau lại quay trở lại, bay một vòng trên    đầu mọi người. Quạ…   ạ! Quạ… ạ! Họa!  Họa!… Từ mỏ nó như vừa rớt ra một    cái gì  không phải   con mồi mà là vệt máu!
Rồi, thật trùng hợp kỳ lạ! Một  bầy ong vỡ tổ, vù vù bay qua, cứ như một  đám người chạy loạn, chạy giặc. 
Họ lại dựng thầy lên. Hai    người  xốc   nách hai bên. Kéo lê lết đi được chừng mười bước, họ phải   dừng  lại.  Hai   chân thầy như đã gẫy đôi không thể nào đặt bước lên   đất.  Từ đây ra tới   đấu  trường-bãi bắn còn cả một đoạn đường không   phải  ngắn. Chỉ còn cách   là đặt thằng  Vỹ lên xe bò rồi cho trâu kéo.   Họ  bàn nhau…  Con trâu thì   có thôi nhưng xe bò kéo thì kiếm đâu ra. Họ    lại đưa ra sáng  kiến cho Vỹ   ngồi vào cái thúng, đặt vô quang gánh,     rồi dùng đòn càn lồng vào quang   gánh để hai người khiêng đi. Người đề     xướng ra cách lối tiện lợi này   là cò Toe, từ nãy giờ đứng khuất ở    phía sau,  nhưng lập tức bị y tá   Toành phản đối. “Nàm như thế hoá ra    nà mình hầu hạ địa  chủ, khiêng cáng   ló như ngày xưa khiêng  võng  cáng   quan huyện, như thế nà lô nệ…” 
Ý kiến của hĩm Xoa đưa ra xem chừng được hơn cả, tức là, trói chân trói tay thằng Vỹ lại rồi buộc nó vào cây luồng, thay nhau khiêng đi. Như thế, vừa nhanh chóng thuận lợi, đỡ mệt nhọc, mà lại còn hạ được uy thế của giai cấp địa chủ bóc lột, phản động…
Ý kiến của hĩm Xoa đưa ra xem chừng được hơn cả, tức là, trói chân trói tay thằng Vỹ lại rồi buộc nó vào cây luồng, thay nhau khiêng đi. Như thế, vừa nhanh chóng thuận lợi, đỡ mệt nhọc, mà lại còn hạ được uy thế của giai cấp địa chủ bóc lột, phản động…
Rồi  mặc cho thầy đau đớn kêu rên, họ làm xong công việc đó chẳng mấy khó khăn. 
- Đồng  bào, đồng chí chú ý! 
Từ ngọn cây xoan gần trụ   sở Uỷ   ban   cũ, một người ngồi trên hai chạc cây tay  cầm cái loa sắt   tây,  mồm áp   sát… đang đọc theo lời một người ngồi bên  tay cầm tờ giấy   có  ghi những   dòng chữ… 
- Đồng bào, đồng chí chú   ý!  Đúng  hai   giờ chiều nay xin mời tất cả bà con  ta, bần cố nông,   Quân Chủ  lực Nông   dân, trung nông lớp dưới… không kể trung  nông cứng,   phú  nông… trẻ già   lớn bé, tập  trung trước trụ sở Uỷ ban cũ, xếp hàng    theo tổ chức đoàn   thể… sau đó, chúng ta sẽ kéo quân ra trường  đấu để    tham gia đấu tranh,   đấu gục tên địa chủ bóc lột phản động, thằng  Việt    gian bán nước Mai Duy   Vỹ...! 
Hôm nay là 27 tháng Chạp,   Đội  sẽ  thi   hành bản án, tuyên án tử hình tên  địa chủ phản động,   thằng  Việt gian   bán nước Mai Duy Vỹ để bà con nông  dân ta, các đồng   chí  chúng ta được   ăn một cái Tết Nguyên Đán cho thêm phần vui  vẻ,   phấn  khởi! A lố! A lồ! 
Như vậy là mình sắp chết rồi.  Họ giết mình thật sự chứ không phải đem  mình ra đấu như hai lần trước đây. 
Cái Chết đến thật rồi mà sao Mai Duy Vỹ còn trông chờ… Trông chờ cái gì nữa! Mai Duy Vỹ vẫn còn ngây thơ, ngây thơ suốt cả một đời ư? Thậm chí, Vỹ còn nhìn lên mấy cành xoan trụi lá mùa đông và nhớ tới ngày nào!
Cái Chết đến thật rồi mà sao Mai Duy Vỹ còn trông chờ… Trông chờ cái gì nữa! Mai Duy Vỹ vẫn còn ngây thơ, ngây thơ suốt cả một đời ư? Thậm chí, Vỹ còn nhìn lên mấy cành xoan trụi lá mùa đông và nhớ tới ngày nào!
Lệ Uyên ơi! Ngày nào, năm   nào   đây   thầy còn cõng con trên vai. Con nhong  nhong ngồi trên đôi   vai  thầy, hai   chân thõng xuống. Cha con mình đi dạo  mát buổi chiều,   qua  chỗ này đây…   Mảnh trăng rằm hôm ấy hiện ra sau rặng cây  xoan này,    tròn to và sáng   đến nỗi khi thầy  giơ tay chỉ cho con xem Ông Trăng    kìa, Ông Trăng đang   đậu trên cành xoan, thì bé Uyên cứ đòi thầy, thầy    ơi,  cho con Mặt   Trăng! Đòi cho bằng được Mặt Trăng, dẫy nẫy lên,  hai   chân đạp đạp  vào   ngực thầy! Về tới nhà rồi mà vẫn còn đòi, còn  khóc,   chướng ách là thế…   đến  nỗi bà nội phải kêu lên: Anh Vỹ ơi!  Anh  nuông   chiều con quá đấy,   rồi anh làm hư con mất thôi! Phải  nghiêm khắc với   con… 
Ừ, thế  đấy… Hoá ra một   đời Mai  Duy   Vỹ cho tiền, cho gạo, cho thuốc men, cho cả bàn tay  mổ   xẻ, hiến  cả   xương máu… Cho không thiên hạ hết mọi thứ! Vậy mà rồi, có   cái  Mặt Trăng   kia vẫn không làm sao lấy cho con gái mình được. Đời vô    lý, bất  công là   thế đấy! 
Chuyện  tự nhiên, dễ hiểu   thế mà  sao   Vỹ không thấy được! Vỹ không biết thương cho chính bản   thân hắn,  vợ con   hắn, thì bây giờ đến lúc cơ nhỡ này đây, còn ai vào   đó mà   cứu hắn được   nữa! Hắn phải tội chết là… đáng đời! 
“Không có cái gì lạ dưới   ánh   sáng   mặt trời!” Thầy chợt nhớ tới câu nói không biết ở đâu, của   ai  mà ông bác    sĩ người Pháp ở nhà thương Thanh Hoá vẫn hay nhắc tới    những lần gặp   gỡ, mỗi khi  bắt tay vào việc. 
Và bây giờ kìa, mặt trời   đang mờ  mờ   rọi ánh qua đám mây ngầu đục trên đầu mình kia cũng nhắc   lại cho  mình   biết cái Chân  lý đó. Phải rồi, tất cả đều đảo điên, giả   trá và  lừa dối   hết, chỉ còn lại đôi  mắt của con tôi, đôi mắt của Lệ   Uyên  đang nhìn cha   nó, đôi mắt ấy là thật. Thầy đang đếm từng phút,   từng  giây cuộc  sống   để tính xem mình còn được sống với đôi mắt con   hiện  ra được bao  lâu?   Ôi! Con gái thương của thầy mẹ! Mai sau lớn lên    xin con đừng oán trách   cha! 
- Đặt  nó xuống đây thôi! 
Người  khiêng đằng trước bỗng thốt lên. 
- Tôi  cũng gãy cả xương bả vai ra. 
Người  khiêng đằng sau   phụ họa  theo.   Thầy không biết hai người này là ai, ở đâu trong xã này.   Vừa  nói xong cả   hai đã quẳng vứt  “thằng Vỹ” xuống bên đường. Họ làm    nhanh đến nỗi thầy   tưởng cột xương sống mình gẫy đôi một cái rụp. 
Y tá Toành lên giọng cha bố: 
- Ló chỉ còn xương với da,  lặng gì mà lặng đến lỗi phải bỏ ló nại đây  hử? 
Hai  người vặc lại: 
- Nặng chứ sao không nặng? Sao  đồng chí không ghé vai vào mà lại bắt bọn  này khiêng? 
- Từ sáng tới giờ bầy choa  cũng chỉ được hớp cháo vào bụng… 
Y tá  Toành vênh váo: 
- Tao  ấy à? Đời lào tao khiêng! Cả một đời tao hầu hạ ló, ló áp bức đè lén tao chưa  đủ sao hử? 
Ông  Đội cất giọng Nghệ An phân xử: 
- Thôi  mà, các đồng chí!   Gắng  thêm   một đoạn nữa, đến lối rẽ vào đấu trường ta sẽ dừng lại, bắt   nó  đứng dậy,   đưa dẫn nó vào. Các đồng chí có phải khiêng nó vào tận     trường đấu đâu   mà sợ! Thôi đừng cãi  nhau nữa! Gắng lên! Nào… 
Hai người dân quân lại đặt đòn  ống lên vai. Nhất Đội nhì Trời! Đội đã nói  là họ phải nghe thôi. 
Ông  Đội lý giải thêm: 
- Đến đó rồi, dù hắn có   nằm  liệt  đi   nữa, các đồng chí cũng dựng cổ dậy, kéo lết nó vô… để cho   đồng  bào,    đồng chí tận mắt nhận dạng vạch mặt chỉ tên hắn… có như   thế  mới cổ vũ   được tinh thần, nâng cao được sức mạnh đấu tranh! 
Quả nhiên, Đội khiến Trời   xui   thế   nào mà họ khiêng vác thầy tới cái chỗ rẽ vào trường đấu rồi   đặt  xuống   một  cách nhẹ nhàng hơn, không đến nỗi dữ dằn như quăng tảng    đá, ném con   chó lúc  nãy. Tháo dây trói ra khỏi cây luồng, đòn    khiêng, rồi để   “thằng Vỹ” nằm trên  bãi cỏ một lúc, chính họ cũng ngạc    nhiên thấy thầy   chẳng những chưa liệt bại,  chết ngắc mà còn cụ cựa    rồi mở mắt ra nhìn.   Thầy bắt đầu cảm nhận, hiểu ra,  chính cái  không   khí tự nhiên ngoài trời   đã làm cho mình tươi tỉnh, khoẻ khoắn  cho dù   bị trói cột khiêng đi như   con lợn,  con chó. 
Ôi! Cái buồng giam khủng  khiếp! Cái nhà tù kỳ quái rùng rợn đã giết  dần giết mòn mình cả mấy tháng nay! 
Biển động. Ồ biển động. Rõ ràng thầy đang nghe tiếng sóng ầm ì, theo gió rì rào ngoài biển từ Hòn Nẹ lùa vào đồng cói. Biển động. Gió thổi. Hơi thở của Đất Mẹ Nga Sơn lay động những cành cây ngọn cỏ, đang mơn man hai bên má thầy!
Biển động. Ồ biển động. Rõ ràng thầy đang nghe tiếng sóng ầm ì, theo gió rì rào ngoài biển từ Hòn Nẹ lùa vào đồng cói. Biển động. Gió thổi. Hơi thở của Đất Mẹ Nga Sơn lay động những cành cây ngọn cỏ, đang mơn man hai bên má thầy!
Nhưng có một cái biển khác,  biển người trên đấu trường đang ầm ào gào thét bên tai thầy, không thể lầm lẫn  vào đâu được. 
- Đả  đảo Mai Duy Vỹ, tên địa chủ cường hào áp bức bóc lột nông dân, thằng Việt gian  phản động bán nước! 
- Đả đảo! 
- Đả đảo! 
Cái âm tiếng “đảo” kéo dài ra nghe ảo ảo, ào ào, rạo rạo như gươm đao cọ  xát. 
- Có  khổ nói khổ nông dân vùng lên! 
-  Vùng lên! 
-  Vùng lên! 
- Đảng  Lao động Việt Nam muôn năm! 
-  Muôn năm! 
- Hồ  Chủ tịch muôn năm! 
-  Muôn năm! 
Lặng  đi một lúc lại ầm ầm vang dội: 
- Đại  nguyên soái Xiết-Ta-Liên muôn năm! 
- Mao  Chủ tịch vĩ đại muôn năm! 
-  Muôn năm! Muôn năm! 
-  Hoan hô Người Anh Cả Trường Chinh! 
-  Hoan hô đồng chí Hồ Viết Thắng! 
-  Hoan hô! Hoan hô! 
Rồi  ào ào tiếng kêu la lẫn tiếng gào thét hổ lốn, lẫn lộn: 
- Hoan hô các đồng chí Cố vấn  Trung Quốc sang giúp ta đánh bại kẻ thù giai cấp, đấu gục bọn địa chủ ngoan cố  phản động! 
-  Hoan hô! Hoan hô! 
- Cải cách Ruộng đất long trời  lở đất thắng lợi và thành công muôn năm! 
-  Muôn năm! Muôn năm! 
Tiếng  vỗ tay đồng loạt nhịp nhàng hoà theo tiếng hát của thiếu nhi lẫn thanh niên, xoay đi vần lại: 
Mí đồ đồ đồ phá mí rê 
Rế đô xì đô rế xồn xồn
Đồ mí! Rề phá!
Mí rê đô xồn đô đô đô…
Rế đô xì đô rế xồn xồn
Đồ mí! Rề phá!
Mí rê đô xồn đô đô đô…
Lại tiếp theo bài hát khác, có  tiếng trống đệm nghe như tiếng súng, đứng  tim dựng óc người ta lên: 
Chúng ta cùng nói vì chúng ta căm thù 
Cùng tố rằng địa chủ giết người
Loài rắn độc thâm hiểm nhất đời
Nhớ lấy từng lời bần cố nông ơi!
Chúng ta thề đánh vào đầu đế quốc!
Nó thông đồng với địa chủ thu tô.
Cùng tiến lên xây đời Tự do...!
Cùng tố rằng địa chủ giết người
Loài rắn độc thâm hiểm nhất đời
Nhớ lấy từng lời bần cố nông ơi!
Chúng ta thề đánh vào đầu đế quốc!
Nó thông đồng với địa chủ thu tô.
Cùng tiến lên xây đời Tự do...!
Rồi biển người lại cùng tấu lên, không ra hát cũng chẳng ra nói: 
-  Liên Xô ngày nay là Trung Quốc ngày mai! 
-  Trung Quốc hôm nay là Việt Nam ngày mai! 
-  Ngày mai! Ngày mai! 
- Đời  đời nhớ ơn Đảng ta vĩ đại! 
- Đời  đời nhớ ơn Bác Hồ!… 
- Đời đời! Đời đời! 
-  Nhớ! Nhớ! 
- Ời  ời! 
- Ớ ớ! 
Long trời lở đất một lúc. Biển  người Quân Chủ lực Nông dân lại im lặng. Im lặng lần này lạ lùng và khó hiểu.
Cái bẫy đang rình chờ con thú mồi… Nhưng bẫy hay không bẫy thì còn để làm gì  nữa, Vỹ ơi! Đời anh cũng đã sập xuống rồi! 
Tùng!  Tùng! Tùng! Tùng! 
Một hồi trống vang lên   nghe  như  nòng   súng bắn cách quãng rồi nhanh dần.  Một hồi trống nữa   tiếp  liền. Tiếng   vọng từ Âm phủ về, từ Địa ngục lên. Thầy giật mình.   Cả  lũ cũng mất bình   tĩnh. 
Ông  Đội trưởng nói: 
- Các  đồng chí dẫn Mai Duy Vỹ vào! 
Y tá  Toành đứng gần bên, đế theo: 
-  Thằng Vỹ đứng nên! Anh em ta dẫn ló đi! 
Hai anh dân quân cúi xuống,  thò tay qua nách, xốc thầy ngồi dậy. 
Họ định lôi đi, kéo lê   cái xác  chết   Mai Duy Vỹ vào  trong bãi bắn như thế này hay sao? Một ý   nghĩ   thoáng   qua. Tia chớp loé trong đầu. Cụ Cử Mai Duy Hiển, thân phụ   ông  Cử Mai Duy    Hoà, người mà Mai Duy Vỹ gọi bằng ông nội,  Mai Lệ   Uyên  gọi bằng cố   nội… hiện ra? Cổ đeo gông, tay khoá, chân xiềng xích…     Cố đang lê bước   giữa hai hàng lính bảo hộ. Vừa là bạn, vừa là đồng    chí của Đinh Công   Tráng, cụ Cử họ Mai bị Pháp giết  trong khởi nghĩa    Ba Đình. Dòng họ Mai   chúng ta dẫu thế nào, cũng không  chịu mang khí    huyết nô lệ trong người… 
Thầy  khẽ gạt tay hai người dân quân: 
- Xin các ông cho tôi… 
Họ ngạc nhiên, dừng lại. 
- Cho tôi được đứng lên, tự đi… 
Thầy từ từ đứng lên, loạng choạng. Đất dưới chân như sụt lở… 
Y tá Toành lải nhải: 
- Ló giả vờ đấy. Ló đi được.  Cái đồ địa chủ bóc nột, phản động, bán lước hại lòi, đụng vào ló nàm chi cho  bẩn nhớp tay chân… 
Thầy quay sang nhìn thẳng vào  mặt hắn. Con rắn độc ngóc đầu trân trân  nhìn lại rồi không hiểu sao cụp mặt xuống. 
Ông  Đội trưởng sốt ruột, nói như gắt: 
-  Đồng chí Toành! Đủ rồi, thôi đừng nói nữa! Khổ quá! Dẫn nó đi ngay! 
Thầy loạng choạng bước. Đã  xuýt ngã chúi xuống, may có hai anh dân  quân đưa tay ra đỡ… 
- Cảm  ơn… 
Thầy nói lắp. Rét run và    xúc  động.   Cảm ơn… Hai tiếng “merci”… cảm ơn  đã phát ra thành thói   quen  suốt một   quãng đời sống và làm việc ở nhà thương Thanh Hoá, không    hiểu bây giờ là   lần thứ  mấy, có lẽ là lần cuối cùng!
Cảm ơn. Thầy gắng sức đặt   từng  bước    chân… Cảm ơn Đất Mẹ Nga Sơn đã cho con khí huyết, dòng   sống họ  Mai, từ   khi  người con đầu tiên của dòng họ - Mai An Tiêm - bị   vua  Hùng Vương   thứ 4 phạt tội  đày ra đảo xa ngoài biển này. Cảm ơn   Đất  Mẹ Nga Sơn lần   cuối cùng lại cho con  vùi xác vào trong lòng Mẹ…   Cảm  ơn! 
Thầy đi. Nhích chân từng bước. Từng bước  của Con Người.
- Đả đảo thằng Vỹ địa chủ bóc nột, cường hào áp bức, cướp thóc núa, nhai xương uống máu bà con lông  dân! 
- Đả đảo! Đả đảo! 
- Đã đảo thằng Vỹ, tên Việt gian bán lước, hại lòi, con chó săn đắc nực của đế quốc phong kiến! 
- Đả đảo! Đả đảo! 
Y tá Toành bước vội lên   trước,  đầu   ngoái sang trái rồi quay  sang phải, tay vung lên hô la.   Hắn ta  hét đến   vỡ họng, giọng khản đặc. Cái  giọng thuốc lào Thái Bình   (hay  Nam Định?)   của Toành  dù có sang tới Bên Ấy thầy cũng không   quên. 
Trời rét. Rét đến nỗi hai   bàn  chân   nứt nẻ, ống chân khô cứng  co rút, lại thêm hai tay bị trói    trật cánh   khuỷu ra sau lưng, mấy lần dúi dụi  ngã xuống mặt đất. Vậy    mà, Lệ Uyên   ơi, thầy  cảm nhận cái giá rét của Đất Mẹ Nga Sơn một  cách   dễ chịu, gần   như sung  sướng. Cảm tạ mùa đông Xứ Bắc! Không có  cái    lạnh của Đất Mẹ   làm sao con được hưởng hơi ấm ngọn lửa thiêng  của hạnh   phúc sum  vầy   dòng họ, tổ tiên, gia đình… nhất là vào những  ngày giáp   Tết, chuẩn  bị   đón xuân như hôm nay: 27 tháng Chạp - Ất  Mùi - 1955! 
Ôi! Cái thời đại loạn lạc, đảo điên, băng hoại, vô đạo, vô  luân!
Con người muốn tồn tại,   muốn  sống,   dẫu đã giả ngu, hoá hèn,  trở thành con vật rồi vẫn cứ bị   giết  chết!   Phải làm ma, làm quỷ kia thì không  chỉ sống thôi đâu, mà   còn  được hiển   vinh cao sang nữa! Mai Duy Vỹ ơi! Anh đã…  ăn hết Quả   Lừa  chưa? 
Gió thổi lao xao chen   sóng biển  rì   rào…  Âm thanh hoà trộn mà rành rọt đáng yêu sao từ xa   khơi vào,  lượn   vòng dãy núi  Tam Lênh, qua những rặng vẹt, đồng cói   mênh mông u   buồn;   lại hoà điệu cùng lời ca, tiếng vọng của ai  xưa…   lênh đênh  qua cửa Thần   Phù, khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm… vừa đến   bên   tai thầy u u ư ư…   một hồi dài. Làn sóng âm  thanh đó tự nhiên   lại  tách bạch, rõ rệt, rành   rọt: 
“Ngu! Ngu! Còn ngu! Còn ngu lâu! Chưa  hết đâu!” 
Rồi loé chói lên trong đầu nghe như  tiếng sét đánh: 
“Ai bảo khôn cũng chết,   dại cũng    chết, biết… thì tưởng rằng  khỏi chết hay sao? Xì! Thôi đi!   Cái điều  cũ   kỹ mấy ngàn năm nghe đi nghe lại,  cứ tưởng là mới mẻ hay   ho  lắm! Biết   rồi cũng  chết! Chỉ có chết rồi mới hết… Hết mà vẫn   …còn.”  
Vâng! Con biết con ngu, con ngu mà! Con có nói gì nữa đâu!
Con ngu vậy là còn ít, Vỹ   ơi,   bởi   con ngây thơ và thật thà. Thánh thần, vĩ nhân kia cái bọn   ranh  ma độc ác   đó  mới thật là ngu, ngu hết chỗ nói… 
Và  Cái Chết! Cái Chết đã hiện ra trước mắt con kìa! 
Cái  Chết… 
Vẫn là cái bãi tha ma ấy…   Ngày  xưa,    có lần thầy theo anh Nuôi, hai anh em cùng cỡi trâu  ra   đây  cho trâu ăn   cỏ, ngồi thả diều, đánh  khăng… 
Ngày ấy, cỏ mọc xanh lút   mồm trâu  bò,   bây giờ  hoang sơ cằn cỗi. Nơi đây, bây giờ là chỗ tập    trung  người để   mít tinh, biểu tình của làng  xã. Bước chân người giẫm   đạp,  tiếng người   vỗ tay, thét loa, hò la… từ  ngày Khởi nghĩa tới nay,    làm cho cỏ cũng sợ   hãi mọc ít đi, không lớn nổi, trâu  bò cũng ít    tới… Một phần rẻo đất   bên kia  nay đã lô nhô hiu hắt những nấm mồ. 
Vẫn là cái “khán đài”    dựng lên  trên   mô đất cao gồm mấy bộ bàn dài bằng gỗ kê sát nhau. Ghế   ngồi là   mấy cây   tre giằng, cây luồng ghép, đặt buộc  lên những cọc   gỗ… 
Cũng như hai lần đấu   trước,   ngước   nhìn lên thầy đã thấy những khuôn mặt cũ, ông Đội trưởng   Đội  Cải cách    Ruộng đất ngồi trên đó, còn một bà Đội nữa  đang đứng   lẫn  trong đám quần   chúng, Quân Chủ lực Nông dân. Tám chín “cốt  cán”   Đội  đã “xâu chuỗi bắt   rễ” tách ra đứng một chỗ phía dưới “khán đài”,     mấy người dễ dàng nhận   ra: vợ chồng Cò Toe, Hĩm Xoa, thím Đông, y tá    Toành… Còn mấy người nữa   trông quen quen  nhưng không nhớ tên, hình    như Đội mới xâu chỗi bắt rễ   thêm?…  Không thấy mặt  chú Đông!
Y tá Toành sau một lúc   lăng  xăng  đi   lui đi tới dưới “khán đài”, cũng đã thấy leo lên ngồi   trên hàng  ghế    lãnh đạo, Chủ tịch đoàn… 
Trên đầu những người này   là ba   bức   ảnh treo khung gỗ: chân dung Bác Hồ, Bác Mao và đồng chí    Malencốp. Ngọn   cờ  đỏ sao vàng buông rũ, khẽ dật dờ trong gió.  Hai    bên, hai băng khẩu   hiệu bằng cót, quét vôi trắng, nền chữ đen đỏ:     Đảng Lao động Việt Nam   muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Toàn dân đoàn    kết, quyết tâm đấu gục tên   địa chủ phản động bán  nước Mai Duy Vỹ!…    Vẫn là mấy câu khẩu hiệu của   hai lần đấu trước, đem ra  treo dựng  lại,   nhưng hôm nay có một cái bảng   cót trông không lớn lắm, chữ viết     nguệch ngoạc, lại được cắm ngay dưới   chân “khán  đài” trước mặt  Quần   chúng Nông dân Chủ lực: “Lợ máu phải đền   lợ máu!” 
Thầy chưa kịp nghĩ gì về mấy chữ “máu” này thì bàn chân đã dừng lại trước cái hố hình chữ nhật đào sâu khoảng hai gang tay…
Thầy chưa kịp nghĩ gì về mấy chữ “máu” này thì bàn chân đã dừng lại trước cái hố hình chữ nhật đào sâu khoảng hai gang tay…
Hai lần đấu trước thầy đã   phải   quỳ   trong cái hố này, cúi đầu xuống, cấm  không được ngẩng mặt   lên,  để cho   các đồng chí cốt cán bần cố nông được  Đội xâu chuỗi bắt   rễ  đứng ngay   trên miệng  hố gào thét, xỉa xói, tố hết nỗi khổ đau của    họ, tội ác trời   không dung  đất không tha của thầy… Họ đứng trên cao,    trước miệng hố   mới nổi bật lên được uy thế bần cố, xưa là nô lệ nay  là   Ông  Bà Chủ; còn   mình quỳ ở dưới hố bây giờ không được là cái con    chó, con sâu bọ… 
“Vỹ  ơi! Anh đang nhìn cái gì đấy?” 
Lạ thật. Có tiếng ai đang   thủ   thỉ   bên tai mình? Vẫn là cái hố hôm trước, có gì lạ đâu. Lại   nghe  tiếng ai   kêu  đến lạc cả giọng: 
“Nhìn  về bên trái! Mắt với mũi! Phía tả! Cánh tả!” 
Thầy chợt nhận ra cây cột    người  ta   mới đào đất chôn từ sáng nay. Một đoạn luồng ngâm dài đã   cắm sâu  dưới    đất để họ trói đứng mình vào cột rồi vẫn  còn dôi ra một   khúc,  nhô lên   trên đầu chừng 20 phân. 
“Lùi lại sau lưng dăm   bước  chân    thôi, cái huyệt người ta đào sẵn, đất  cát ùn chất lên cả   đống kìa!  Anh   không thấy à? Lúc nào anh cũng thật  thà, ngây thơ đến   dại dột!  Cái   huyệt ấy, ngôi nhà  Vĩnh cữu, Cách mạng ruộng đất chia   phần cho  anh… Đã   thấy chưa?” 
Thầy  đang định ngoái cổ   lại nhìn  thì   bóng hình ai kia trông quen quá đã hiện ra ngay trước   mặt, một  nụ cười    nhân hậu buồn buồn… 
“Đồng chí Mai Duy Vỹ! Anh   Vỹ…  Tôi,   Trần Vĩnh Quyền, chủ tịch Uỷ ban Kháng  chiến Hành chính xã   Nga  Phú… bạn   học cũ, bệnh nhân của anh đây. Tôi đi trước  anh… Họ vừa    mới tử hình   tôi ngay dưới chân núi An Tiêm. Sáu viên đạn súng  trường    vào người. Một   viên đạn súng lục vào thái dương bên trái. Một đầu  đạn   còn mắc ở trong   ngực, chếch lên phía bả vai  trái… Chào Vĩnh  biệt!” 
“Vĩnh biệt!” Thầy vừa định kêu  lên thì bác Quyền, Trần Vĩnh Quyền chứ  không thể là ai khác lại hiện ra… 
“Anh Vỹ! Xin báo cho bạn   của  tôi    biết một tin mới. Có thể đây là thông điệp của Yavê Thiên   Chúa?  Trên   đường  tôi trở về Nước Chúa thì ngược đường Bên Ấy  có một    người chạy bộ   từ thị xã Thanh Hoá về tới Nga Sơn mang theo mệnh  lệnh    của Đoàn Cải   cách Ruộng Đất, coi như Bộ Tổng Chỉ huy hoặc Toà án Tối    cao, tạm hiểu   như thế nhé… Cái lệnh truyền mồm ấy là “Huỷ bỏ bản án  tử   hình  có chữ ký   của bà Đội Lê Thị Choét!  Tha chết cho Trần Vĩnh    Quyền!” 
Cảm  ơn người anh em đồng   chí tôi    không được biết tên đã lập một kỷ lục chạy bộ ma-ra-tông mới   cho  nước   nhà trên đoạn đường dài 40  ki-lô-mét.. khi bàn chân đất   không  dày dép,   toạc da, toé máu vừa tới chân núi  An Tiêm, truyền được    khẩu lệnh mồm   thì anh  này đã gục xuống bất tỉnh! 
“Huỷ bỏ án tử hình có chữ ký  của bà Đội Lê Thị Choét! Tha chết cho Trần  Vĩnh Quyền!” 
Trần Vĩnh Quyền đây! Tôi   đã  nghe    rồi! Lạy tạ Đất Mẹ Nga Sơn! Vĩnh biệt bà  con Nga An! Tôi   đang trên    đường về Nước Chúa mang theo 40 tuổi đời, bốn ngàn  năm tuổi   nước…  Mình   đi trước nhé, Mai Duy  Vỹ ơi! Vĩnh biệt!” 
“Vĩnh  biệt!” Môi thầy   mấp máy,  lặp   lại. Thầy chỉ muốn kêu to lên… nhưng bàn tay ai từ  phía   sau đã  chụp lấy   vai phải, lôi lại, ấn xuống. 
- Vỹ! Đứng lại!
Thầy dừng lại. 
- Quỳ  xuống! 
Chưa kịp quỳ xuống, hai   người   hai   bên đã kéo lôi, đẩy thầy xuống hố cạn trước mặt. Sợi dây   thừng  trói cột   hai  tay làm thầy loạng choạng ngã chúi. Đầu đập  vào   cạnh  hố, môi răng   dính đầy đất cát, mông đít chổng lên… Họ phải thò    tay  xuống vực dậy, để   thằng Vỹ có thể co  duỗi quỳ dưới hố. 
Trận  mưa đêm qua làm lớp   đất mùn  bên   trên còn ướt dính nhoe nhoét. Một con nhái bén nhảy lên   đậu vào  vành   tai thầy, vừa rớt xuống  dưới bụng lại bò lên đầu gối…   Kìa, nó  nhìn   thầy! Ôi! Con vật đáng yêu! Chẳng cứ  gì mày mới có vẻ   đẹp tự  nhiên,   hiền hoà, mà  rồi đây, cả đến dòi bọ, mối, đục khoét   thân thể  ta… cũng   chẳng có gì đáng gọi là xấu! Chỉ có con  người! Con   người!  Giống loài   hung dữ độc ác nhất trên Trái Đất, thứ  khổng trùng   dịch  bệnh khủng   khiếp mà Louis  Pasteur, Robert Koch, Alexandre Yersin    cũng không ngờ   tới, hình dung nổi! 
Tiếng  loa ọ ẹ cất lên. 
Ông Đội nói tiếng Nghệ An    thông  báo   cho bà con nông dân buổi đấu tố lần thứ 3, lần cuối cùng   hôm nay  bắt    đầu. Để đảm bảo thắng lợi to lớn của cuộc Cách mạng long   trời  lở đất,   Ông Đội đề nghị tất cả mọi người có mặt hôm nay,  Quân   Chủ  lực Cách mạng   phải ra sức phát huy cho kỳ hết lòng căm thù giai     cấp, tinh thần đấu   tranh kiên cường bất  khuất để đấu gục tên địa chủ    ngoan cố nham hiểm,   thằng Việt gian phản  động, bán nước Mai Duy Vỹ!  
“Thành tích cách mạng hôm    nay…” -    ông Đội la to - “chúng ta sẽ dâng lên Bác, Trung ương Đảng   và Chính     phủ, làm tấm gương sáng cho cuộc đấu tố điển  hình không chỉ   toàn  huyện   Nga Sơn mà toàn tỉnh Thanh Hoá chúng ta!”
Tiếng trống đánh điểm   nhịp cho   tiếng   hoan hô nổi lên nghe như tiếng súng. Trong rừng cánh   tay vung  lên có    chừng dăm bảy khẩu súng trường, mấy chục  cây gậy,   còn lại  là thuổng,   cuốc, mã tấu, dao… Cũng như hai lần trước,  thầy dễ   dàng  nhận thấy có   những cánh tay giơ lên nửa chừng cùng những tiếng   hô   rụt rè, phải phép,   những ánh mắt sợ sệt… Ai đó? Ai mà không sợ ông    Đội hơn sợ Trời, sợ   người… sợ cả chính mình? 
- Vỹ! 
Thầy ngước đầu nhìn, ngạc    nhiên  hơn   là… sợ hãi. Chú Đông, Mai Duy Đông nhà ta đang đứng trước   mặt,  giơ  ngón   tay trỏ xỉa vào mặt thầy. 
- Cúi  đầu xuống! Mi có biết tao là ai không? Thầy cúi đầu, nói nhỏ: 
- Dạ,  tôi không biết. 
-  Láo! Biết chứ răng lại không biết! Thằng này… 
- Dạ.  Vì tôi phải cúi đầu xuống, có được ngẩng đầu lên đâu mà bảo tôi nhìn ra ông là  ai? 
Thầy  ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mặt chú Đông. 
Có tiếng ồn ào ở phía dưới.  Trong đám đông hình như có tiếng ai cười.  Vài tiếng la, hô “đả đảo”. 
- Phải bắt thằng Vỹ ló xưng nà  con, thưa với bà con lông dân nà ông bà  lông dân… không được phép gọi mình nà tôi! 
Y tá  Toành đứng ra để nhắc nhở Lê Trạch Đông, còn là để lấy oai. 
Được  tiếp sức, Đông chồm lên hét to: 
- Nói  đi! Tao là ai, mi có biết không? 
- Dạ, thưa ông - thầy điềm đạm  từ tốn - ông là Mai Duy Đông, em của tôi… 
- Láo! Tao không có anh   em gì   với   mi! Tao là… là... Lê Trạch Đông, là đứa ở của nhà mi. Cha   mẹ mi,  hai đứa    bóc lột tao, đè nén áp bức tao suốt ba mươi năm, bắt   tao  ăn đói nhịn   khát, cực khổ còn hơn con chó… để còn hầu hạ vợ  chồng    mi… 
- Dạ thưa ông Ma… à quên   (xuýt   nữa   thì thầy gọi “Mao” cũng bởi dòng họ nhà  ta là Mai, tự   nhiên  mình lú   lẫn)… ông Trạch Đông, ông không muốn nhận mình là con   cái  nhà họ Mai   nữa, cái đó là quyền của ông. Còn đối với tôi thì trước     sau ông vẫn là   Mai Duy Đông, cha mẹ tôi nuôi nấng ông từ lúc ông mới     sinh ra, tìm thấy   ông nằm trong cái tã váy  rách ở bụi xương rồng    trước cổng nhà vào một   sáng mùa đông… Tôi không muốn nhắc  lại làm gì    bởi vì ở Nga Sơn này   nhiều người còn nhớ và… chắc ông cũng biết! 
- Mi nói láo! Mả bố mả mẹ   mi,   tao   nói cho mi biết, tao có cha, có mẹ hẳn  hoi. Tao con nhà cố    nông, vì   nghèo khổ quá, cha mẹ tao bắt tao đi ở cho  nhà mi để gán nợ…    ba đời!   Cái dòng họ Mai bẩn thỉu chó má của mi tao thèm vào!  Tao  là   con của   nông dân, sinh ra trong thành phần bần cố nông nghèo khổ.  Đội    Cải cách   đã cứu sống tao. Đảng cho tao làm người. Mi hiểu  chưa? Vỹ! 
- Dạ,  thưa ông Đông, tôi hiểu… 
- Đã nói rồi! Không được xưng  với tao (chú Đông vỗ ngực) là tôi, mi phải xưng mi là con chó, con lợn… 
- Dạ,  con chó con lợn này xin… 
Quả thật, thầy cũng thấy   lúng   túng   cứ phải xưng hô theo kiểu con chó con lợn này… May mà con   chó  nó chỉ   biết  sủa, con lợn nó chỉ biết ụt ịt chứ không  thì… Ôi,   khốn  khổ cho   cái kiếp con người ta! 
Thầy im lặng. Chú Đông dừng  lại, thở hổn hển. Đột nhiên, chú hét rất to như có ai bày cách cho phải làm như  thế. 
- Vỹ!  Mi có biết không?   Cách đây  mấy   năm rồi… vào cái Tết năm… năm… (chú chắc lưỡi, ngọng   nghịu) nhà  mi tụ   tập toàn bọn Quốc Dân  Đảng… Mi giơ tay xin thề trung   thành  với chúng nó   đến hơi thở cúi còng, thề diệt hết… kẻ thù Cách   mạng và  bán nước cho    Tây, rồi… thì… là… 
Thầy ngạc nhiên, hoảng   sợ. Hai   lần   đấu trước cái chuyện “Quốc Dân Đảng” này không thấy có?   Chắc là  Đội   trưởng  hay Toành đã bày trò cho Đông? Cái đầu chú  ấy thì   biết  gì tới   chuyện chính trị, Việt Quốc, Việt Cách… Đến nước này  thì   Mai  Duy Vỹ có   một cái đầu chứ có hai cái đầu người ta cũng chặt cho    bằng được! 
Thừa lúc chú Đông ngẩn   người  để  nhớ   ra những điều đã học thuộc lòng mấy hôm nay, bây giờ lú   lẫn quên  mất,    thầy đột nhiên dứng dậy trong hố. Như có bàn tay vô   hình nào  lôi thầy   dậy, vươn mình đứng thẳng; thầy định giơ cánh tay    phải về  phía lá cờ đỏ   sao vàng và chân dung Bác Hồ ở trước mặt, trên   đầu,  nhưng  khốn nỗi hai   tay bị trói chặt, toàn thân run rẩy loạng    choạng… 
- Thưa bà con nông dân!   Thưa các  đồng   chí! Tôi,  Mai Duy Vỹ, đảng viên Đảng Lao động Việt Nam,    tiền  thân là   Đảng Cộng sản Đông Dương… Ông  Lê Trạch Đông đã dựng   chuyện,  bịa đặt,   xuyên tạc… Tôi là một người Cộng  sản. Đảng Cộng sản   kết  nạp tôi ở ngoài   Mặt trận năm 1948 chứ không phải tại nhà  tôi. Các    đồng chí của tôi,   một số là thầy  thuốc, một số người ở trên Tỉnh uỷ,    Uỷ ban có lúc đến   thăm tôi, gặp gỡ tại nhà  tôi. Chuyện ấy là có  thật   nhưng họ là những   đảng viên Cộng sản chứ không  phải Quốc Dân  đảng.   Quốc Dân đảng chúng nó   theo Tưởng Giới Thạch, Nguyễn Hải Thần  về bên   Tàu từ lâu. Mà bên  Tàu   bây giờ có thằng nào là Quốc Dân đảng  thì Bác   Mao và Đảng Cộng sản Trung   Quốc cũng đã bắt nhốt hoặc làm  thịt hết    rồi! 
Như  một đứa con bị đòn   oan, cậu  học   trò bị xử phạt vô lý, thầy ngước nhìn ảnh Bác Hồ và ngọn   cờ đỏ  sao vàng,   hai mắt trào lệ… Thầy uất ức, dằn từng tiếng, rõ từng     lời: 
“Bác Hồ là lãnh tụ tối   cao của   toàn   dân Việt Nam, là người thầy tôn kính  nhất của tôi. Tôi   làm  theo lời dạy   của Bác, đi theo con đường của Đảng.  Tôi nguyện   trung  thành với Đảng,   hy sinh cho Cách mạng đến giọt máu cuối cùng.    Có…  Có…! Có lần tôi đã   nói như vậy… 
Hồ  Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! 
Đảng  Lao động Việt Nam muôn năm!” 
Thầy ngẩng cao đầu, lấy hết  hơi sức la to. Rồi ứa trào nước mắt, nghẹn  nấc. 
Y tá  Toành đang ngồi trên “khán đài” đứng dậy, giơ ngón tay xỉa xuống dưới đấu trường. 
- Thằng Vỹ ló lói náo đấy   bà  con  ạ.   Ló nà tên Quốc Dân đảng chính cống nhưng nại đội nốt chui   vào,  trá hình    nàm đảng viên Đảng Nao động để phá hoại Đảng ta! Cộng   sản  đâu đến phần   ló! Ló  nà tên Việt gian phản động bán lước! Các đồng    chí! Bịt mồm thằng   Vỹ nại! Không cho ló lói lữa! Thằng Vỹ phản bội    nại dân  tộc lòi giống   Việt Lam! Ló phải chết! Đả đảo thằng Vỹ! 
Vài  tiếng hô “đả đảo” rời rạc tiếp theo. 
Cả  đấu trường lặng đi. Ngay cả ông Đội trưởng đang méo mồm trợn mắt rít điếu thuốc  lào cũng dừng lại bối rối. 
- Bắt  ló câm mồm ngay! Không cho ló lói lữa! 
Toành  rít lên. 
Thầy đứng thẳng như cây   cột  chôn    trước mặt. Cây cột như cũng sửng sốt nhìn thầy, ngạc nhiên   sao một  con    người lại có thể đứng yên được trước sự xúc phạm, vu oan   giá  họa đến   thế. 
Ông  Đội quát tháo ra lệnh cho du kích, dân quân bắt thầy phải quỳ xuống. 
Tiếp theo, đến lượt Hĩm Xoa,  vợ chồng Cò Toe bước lên đấu tố. 
Vẫn những chuyện cũ lặp   lại  hai  lần   đấu trước: cướp ruộng, tiêm thuốc độc cho vợ Xoa chết,   nhét lưỡi  cưa    vào ruột thằng cu con Cò Toe. Lưỡi cưa đó rành rành là   của y  tá Toành   mớm cho  Cò Toe. Khi nói ra chi tiết này, Cò Toe hơi   lúng  túng quay sang   nhìn Toành lúc  đó đã từ “khán đài” xuống chầu   chực  sẵn bên… 
Một điều lạ, có thể người   ta   không   tin được, thầy không có ghét bỏ căm  thù gì những người   nghèo  khổ tăm   tối đó. Họ là người làng nước, bà con xóm giềng thân   thuộc  của mình bao   đời nay  bây giờ trở thành nạn nhân, con tốt trên   bàn  cờ đen tối và độc   ác của Đội Cải  cách. Giả sử, nếu Trời thương   Đội  cho thầy thoát  khỏi   án tử hình, Mai Duy Vỹ lại sẵn sàng cầm túi    thuốc nửa đêm lên đường, khi    họ lâm bệnh đến nhà mình cầu cứu. 
Ôi!  Chữ Tâm của Mai Duy Vỹ, Lòng Nhân của dòng họ Mai xứ Nga Sơn - Thanh Hoá! 
Dẫu rằng không theo Phật   Giáo  và    Công Giáo, đôi lúc thầy vẫn nghĩ đã là con người thì không ai   tránh  khỏi   tội  lỗi. Đó là lẽ tự nhiên… Mình sinh ra trong gia đình   sung  sướng ắt   phải mang nợ  với những kẻ tật nguyền, nghèo khổ. Và, đi    theo Đảng, làm   đầy tớ cho dân, san bằng cái hố giàu nghèo để khắp     thế giới này chẳng   còn người bị đói khổ áp bức, ai ai cũng bình đẳng     sung sướng… đó chính   là mơ ước của thầy… 
Trong Chỉnh huấn khi viết   tự kiểm    điểm, thầy cũng đã thành khẩn bộc lộ, kê khai những sai lầm   tội lỗi   của   mình đối với bà con nông dân nghèo khổ và thấy mình trở   nên  trong  sạch   khoẻ khoắn như một con bệnh được chữa  lành cứu sống. 
Nghe bạn kể, ông Karl   Marx  nghèo    túng đến nỗi không còn đồng nào trong túi để trả tiền thuê   nhà trọ,  cuối    tháng phải trèo tường chạy trốn chủ nhà; Bác Hồ giản   dị tiết  kiệm chỉ   mặc bộ  quần áo nâu, đi dép cao su, quanh năm ăn cơm   muối  khoai lang cà   pháo… thầy rưng rưng nước mắt. 
Thầy  đã kể lại những mẩu chuyện này cho cả nhà nghe để răn đe, giáo dục mọi người. 
Con ạ, thầy chẳng ưa gì   lối  sống  tu   hành của các nhà sư và cha cố; nhưng sao mình lại mang   một đức  tin ngây    thơ rằng hình như chỉ sống trong nghèo khổ  con   người ta  mới có đạo đức   và, mọi tội ác trên đời này đều bắt nguồn từ    cuộc  sống giàu sang, thừa   mứa? 
Và  người Cộng sản xuất hiện! 
Người  Cộng sản sinh ra trên Trái Đất này là để hoàn thiện ước mơ cao đẹp nhất của con người! 
Đến nước này rồi mà Mai Duy Vỹ  cẫn còn nghĩ ngợi lan man như thế đấy, thử  hỏi có dở hơi không? 
Và  kìa, Lệ Uyên ơi, Thần   Chết đã  đến   lạnh lùng đứng bên “khán đài” cách một quãng trước mặt   thầy.  Bên tai    thầy có ai nói thầm thì: 
“Vỹ ơi! Tội ác trên thế   gian  này  lũ   lụt kéo đến từ hai phía, phía người giàu và cả phía người   nghèo.  Đừng    lầm tưởng rằng chỉ có phía người giàu thôi đâu, và hình   như…  con ơi,   điều trái  với mong muốn của tất cả chúng ta là, cái phía    người nghèo ấy   xem ra lại nhiều và… nhiều hơn! Ôi! Tai họa! 
- Vỹ! 
Tiếng người hét trước mặt   gần   đến   nỗi thầy váng cả đầu óc, chưa nhận ra  được ai kia, Thần   Chết  hay y tá   Toành, vừa đè dí ngón tray trỏ vào trán làm mình xuýt   ngã  ngửa. 
- Mi  có biết tao nà ai không? 
- Dạ,  biết… 
- Lói to nên cho bà con lông  dân, quần chúng nao động Quân chủ nực Cách  mạng người ta nghe! Hử! Mi có biết tao nà ai không? 
- Dạ,  thưa… Ông là ông Toành,  y tá… 
- Ái chà! Mi tưởng mi nà y   sĩ  nà  ghê   gớm nắm hả? - Toành dừng lại cười gằn - mi nà cái cục cứt,   con  chó, con    nợn mà thằng Pháp ló lặn ra… Có phải bọn  Tây, mấy   thằng  đốc tờ Pháp,   chúng ló dạy mày cưa chân, chặt tay bộ đội,  mổ   bụng  người ra nhét nưỡi   cưa vào ruột gan họ rồi khâu chỉ nại rồi thì…   mi  còn  pha chế tẩm chất   độc vào những viên thuốc  của Tây rồi đưa cho    anh em chiến sĩ, bà con   lông dân uống để người ta  năn đùng ra chết.    Có đúng như thế không? 
Thầy im lặng. Cố nhớ lại   và  hơi  ngạc   nhiên. Thật ra mình đâu có biết gì  nhiều về cái anh   Toành này.  Cò Toe,   Hĩm Xoa… bà con trong làng thì mình  biết, bởi họ   cùng quê,  thậm chí   cùng họ…  Còn Toành? Họ tên hắn là gì, quê quán ở   đâu?  Hình như có ai   nói hắn từ  Thái Bình vào Nga Sơn năm đói Ất Dậu   45;  lại có người nói   hắn chạy loạn từ Ý  Yên Nam Định vào đây năm   1947?…  
- Vỹ!  Mi giết tất cả anh em bộ đội, bà con lông dân, trẻ già nớn bé nà… nà… hai trăm mạng người có đúng không?  Hử! 
Thầy ngước mắt nhìn   Toành,  ngạc    nhiên về sự bịa đặt tưởng tượng của con người - động vật   tàn ác nguy    hiểm  nhất trên Trái Đất. Con số 200 mà Toành vừa công bố   đã được  Đội   Cải cách thống  kê ghi vào biên bản lần đấu thứ hai. Hôm   đó,  chẳng hiểu   vì đầu óc đã điên loạn  hay bởi cái bản chất nghịch   ngợm,  hài hước từ   thuở còn là học trò, thầy đã xin  phép Đội được sửa   con  số 200 thành   1955… Vậy  mà sao hôm nay hắn vẫn còn nhắc lại? 
Thầy  nói nhanh để hắn không kịp ngăn lại: 
- Thưa ông Toành. Con đã   nói lần    trước rồi sao ông vẫn  không nhớ? Không phải chỉ 200 đâu! Con   đã  giết   tất cả là một ngàn chín trăm năm mươi lăm mạng người!
Toành ngớ người. Hình như hắn chưa hiểu ra. 
- Thưa ông Toành. Năm nay   là  năm    1955. Tính từ khi con cầm xê ranh, dao  mổ cho đến nay, con   đã giết  tất   tần tật là một ngàn chín trăm năm mươi lăm mạng người chứ   còn  sao nữa?   Chỉ hai trăm  thôi à? Ít quá! Một lần nữa… Con xin nhắc    lại! 
Đám đông Quân Chủ lực Cách  mạng ồn ào, sôi động. Có tiếng ai cười khẽ. 
Toành  chợt hiểu, cười găm lại trong mồm: 
- Mi nếu náo hả Vỹ? Đến chết rồi mà  vẫn còn dám đùa cợt, chế nhạo  các ông bà lông dân chúng tao. 
Rồi  vụt đứng thẳng người, tay vung nắm đấm lên hô: 
- Đả đảo thằng Vỹ náo xược,  ngoan cố, coi thường quần chúng, Quân Chủ nực Cách mạng, chế nhạo bà con bần cố  lông dân! 
- Đả đảo! 
- Đả đảo! 
Biển  người đả đảo ào ào cuộn dâng lên. Toành càng  hét to hơn: 
- Kiên quyết đấu gục Mai   Duy Vỹ,    thằng địa chủ bóc nột gian  ác, thằng thầy thuốc giết người   cưa  chân,   chặt tay bộ đội, uống máu lông dân, bỏ thuốc độc cho bệnh   nhân   uống… 
- Đả đảo! Đả đảo! 
- Có khổ nói khổ nông dân vùng lên! 
- Vùng lên! Vùng lên! 
Mắt Toành đỏ nọc như vừa bật máu. Hắn  dừng lại lấy sức, dồn hơi để hét: 
- Vỹ! 
- Dạ. 
- Mi đã cắt dây điện để cho quân ta  không nhận được nệnh của Bộ Tư nệnh mặt trận ở trên đánh Móc về! Có phải không? 
- Dạ. 
- Vỹ! Chính mi ở Nho Quan đã bấm đèn bim  nên trời để gọi máy bay Pháp tới bỏ bom. Đúng không? 
- Dạ 
- Có đúng không? Dạ nghĩa nà nàm sao? 
- Dạ! 
- Vỹ! Có phải mi đã niên nạc với Nê Hữu Từ ở Phát Diệm không? 
- Dạ. Không. Thưa ông Toành. Con đâu phải người Công Giáo. Con theo đạo Cộng sản, làm sao quen biết  được Giám mục Lê Hữu Từ? 
- Mi lói náo! Mi với hắn là hai thằng  phản động cấu kết với nhau, niếm gót giày cho Pháp, chống phá Cách mạng! 
- Dạ. Kính thưa Đội! Kính   thưa  các   ông  bà Nông dân - Thầy nói chậm rãi - Con không có quen   biết gì  với cha   Lê  Hữu Từ cả. Nhưng Bác Hồ, năm 1947, theo lời mấy   ông  trên Tỉnh nói   cho con biết,  Bác có vào thăm Thanh Hoá, lúc về Bác    đã ghé qua Phát   Diệm gặp Lê Hữu Từ khuyên  bảo ông ấy nên đoàn kết    Lương Giáo chống    Pháp… 
Ông Đội trưởng đặt điếu cày xuống, đập bàn, đứng dậy, xỉa ngón tay trỏ xuống phía thầy, thét lên: 
- Vỹ! Mi toàn bịa đặt,   nói láo!   Bác   Hồ sao lại đến gặp Lê Hữu Từ? Nó là thằng cha cố phản   động bán  nước buôn    dân. Mi cả gan dựng chuyện cho Bác Hồ, định hạ uy   tín  lãnh tụ tối cao   của toàn  dân phải không? A! Thằng này… ghê gớm    thật. Tự lột trần rành   rành chân tướng  của một tên Việt gian bán    nước… Đáng tội  chê… ết! 
Toành chồm tới nhổ một bãi  nước bọt vào mặt thầy, xỉa xói theo: 
- Vỹ! Chính mi đã cứu   sống  thằng  Tây   Giắc, thằng Pháp cướp lước. Sau đó, một thời gian dài   mi nàm  gián  điệp   cho ló, cho tới Hiệp định Giơnevơ khi  ló về lước.   Thưa  bà con Lông   dân, Quân Chủ nực… các đồng chí ạ, thằng Vỹ với    thằng  Giắc, hai đứa   suốt thời gian ở mặt trận cứ lói chuyện với nhau    bằng  tiếng Tây xì nà   xì nồ… Ló lói gì, chỉ chúng ló mới hiểu được   thôi.  Nhưng  anh em, đồng   chí trong quân đội hồi ấy, rồi người ta cũng    biết, biết hết… Chẳng hạn,   thằng Giắc giơ tay nên quay  vòng nà ra    cái ý máy bay Pháp ló nượn vòng,   còn thằng Vỹ thì… cũng giơ  tay nên    nhưng nại đâm thọc xuống rồi kêu   đùng một cái, tức nà ra hiệu cho phi     công Tây ló lém bom chứ còn gì   lữa! Có phải thế không hở bà con,  các   đồng chí? 
Ông Đội trưởng hô to: 
- Đả đảo thằng Việt gian Mai Duy Vỹ liếm gót Tây, cấu kết với Pháp, âm mưu bán rẻ nước ta cho bọn thực dân đế quốc!
- Đả đảo thằng Việt gian Mai Duy Vỹ liếm gót Tây, cấu kết với Pháp, âm mưu bán rẻ nước ta cho bọn thực dân đế quốc!
- Đả đảo! 
- Đả đảo! 
- Thằng Vỹ đáng tội chết! 
- Phải tử hình Mai Duy Vỹ! 
- Tử  hình! Tử hình! 
Mặt  trời bỗng nhiên ló   ra khỏi  đám   mây đen. Ánh nắng lấp loáng trên “khán đài”. Thầy nheo mắt   cảm  nhận đây   là tia nắng  cuối cùng của Trái Đất. Vầng mặt trời quang    minh chính đại   thênh thang đi vòng trên đầu thế gian từ khi Mai  Duy    Vỹ mở mắt chào đời   cho đến nay. Mặt trời đỏ lửa thần diệu ấy bây giờ     không còn nguyên   hình nữa, chỉ là một đám cháy… Đám cháy cũng sắp  tắt.   Quả  nhiên đám mây   đen khác đùn tới, che lấp. Bóng tối sa sầm.  Một   giọt mưa trên cao  ấy   rơi nghiêng xuống đúng vào giữa trán   thầy. 
Ông Đội trưởng đọc to,   dằn  nặng  từng   tiếng Nghệ An những dòng chữ trên tờ giấy trong lòng   hai bàn  tay run    run… Bản án tử hình Mai Duy Vỹ đã được Đoàn Cải cách -   Cấp  trên ký   duyệt. 
“Việt  Nam Dân chủ Cộng hoà - Độc lập Tự do Hạnh phúc” 
Thầy  chỉ nghe được ngần   ấy chữ.  Cái   đoạn kể tội, luận tội vu vơ, lảm nhảm cứ như lời trẻ con   chơi  bịt mắt   bắt dê; và cả  cái phán quyết giết người rùng rợn cũng   như   trò đùa,   tuồng diễn trên sân khấu:  Tên địa chủ phản động Mai Duy   Vỹ  phải chịu án   tử hình! 
Thần  Chết đã tới, đứng gần cây cột chôn trước mặt. 
Lời  ai đây nghe rành rọt bên tai thầy: 
“Người  ta bảo Cách mạng   là ngày  hội   của quần chúng. Mai Duy Vỹ ơi, anh đã mải mê đi trong đám   quần  chúng. Và   tới bây giờ, trên sân  khấu của Ngày Hội anh cũng phải    tham gia đóng   nốt vở tuồng. Khốn nạn thân anh,  vai diễn này lại đẫm    máu và nước mắt!” 
Họ  dựng thầy dậy, lôi ra khỏi cái hố cạn, đẩy kéo sang tới cây cột dựng đứng kia. 
Thoạt  tiên, họ định cởi   tháo dây    trói trật cánh khuỷu ở sau lưng thầy nhưng y tá Toành không   chịu.  Theo ý   Toành, cứ để như thế rồi trói  luôn vào cây cột. Cò Toe,   rồi  cả Hĩm Xoa   không tán thành bởi lẽ, nếu để vướng  hai tay trật sau    lưng thì làm sao   mà trói  được, đã vừa cấn cái… lại không chắc chắn.    Phải tháo ra rồi   cũng trói hai tay  sau cây cột thì tiện lợi hơn. Ba    tên cãi nhau. Ông   Đội trưởng lại đứng ra phân  xử. 
- Sau trước gì rồi cũng   phải   tháo   dây thừng, cởi trói ra - Ông ta nói - Bắn xong rồi, còn   phải  cho nó   xuống  huyệt nằm để mà lấp đất chứ!
Toành  vẫn còn cay cú: 
- Để ló chết trong tư thế   bị   trói mà   chôn nại không hơn à? Như thế mới  đúng cách. Sang tới   Bên  Ấy ló có   muốn ngửa tay đi ăn xin bà con lông dân cũng  không được.    Phải thế chứ! 
Cò Toe, Hĩm Xoa lặng lẽ   làm  theo    phán quyết của Đội. Thoáng chốc, họ đã cởi tháo hai tay thầy   rồi  trói    ngoặt ra phía sau cây cột; một cuộn thừng  quấn năm sáu   vòng  từ ngang   ngực xuống bụng. Một đoạn thừng buộc hai ống chân  vào   cột…  
Trói  rất chắc, thở cũng đã khó, chứ chưa nói đến muốn cụ cựa… 
Ông  Đội khẽ ra lệnh: 
- Bịt  mắt nó lại. Miếng giẻ đâu rồi? 
- Dạ.  Có… có đây… 
Toành nói sau lưng thầy.   Vội   bước   lên, lôi trong túi áo ra một đoạn vải  dài đã buộc nối, rộng    bản chừng   ba ngón tay chập lại, hắn làm một vòng quanh đầu thầy rồi    buộc thắt phía   sau gáy. Đoạn vải đen đã cũ, khăm khắm mùi mồ hôi nước    tiểu  Toành đặt   để chưa đúng cách, trước lỏng sau chặt, hơi tụt  xuống   sống mũi… Thằng   hậu đậu! Chứng nào vẫn tật ấy. Y hệt  như năm  xưa buộc   ga-rô, quấn bông   băng cho anh em thương binh. 
- Đồng chí Đông đâu rồi? 
Ông  Đội nói nghe khản cả tiếng. 
- Dạ  thưa Đội, có… có tôi. 
- Từ  nãy giờ đi đâu, sao chưa đứng vào hàng ngũ? 
- Dạ…  dạ… 
Thật lạ lùng. Lệ Uyên ơi!   Nói  ra  hẳn   không ai tin: thầy muốn gặp lại, thấy mặt chú Đông! Cả   nhà ta  không có    ai được đến đây để… tiễn đưa thầy. Dòng họ Mai vắng   mặt,  diệt vong hết   rồi sao?  Thôi thì, dù chú ấy có thay lòng đổi dạ   đi  nữa vẫn còn là con   nuôi của ông bà,  vẫn là dấu vết, hơi hướng của    dòng họ Mai chúng ta! Sự   ngu dốt kém cỏi của con  người hoá ra đôi lúc    cũng cần thiết: thầy  vẫn   thấy được mờ mờ qua băng giẻ buộc che hai    con mắt. Kìa! Chú Đông  đang   nhìn thầy, hố mắt hoảng loạn, tay run     run giơ ra cầm lấy khẩu súng   trường. 
Ông Đội điểm danh đủ 6 tên:  Toành, Cò Toe, Hĩm Xoan hai anh dân quân và Lê Trạch Đông. Sáu người đứng dàn  thành hàng ngang. 
- Chú  ý! Tất cả làm theo lệnh tôi! 
Ông Đội vừa nói dứt câu   thì ai   kia   từ đám đông xô đẩy, chen lấn người bước ra… Người đàn bà   này đâu  phải ai   xa  lạ, thím Đông, vợ Mai Duy Đông, tóc tai loà  xoà,   miệng  chửi bới,   hai tay vùng vẫy  giằng lấy khẩu súng của chồng làm   chú  Đông loạng   choạng để mũi súng quệt xuống đất. 
- Anh hèn nhát, anh sợ… anh  không dám bắn nó hả? - Thím Đông hét lên - Đưa súng đây, tôi bắn cho! Thằng Vỹ  phải đền nợ máu! 
Cả đấu trường nhốn nháo.   Thần   Chết   cũng sững lại, đưa mắt nhìn về phía người đàn bà lạ lùng   đó.  Thím Đông   nhà  ta, không phải là ai khác, đã xô chồng ngã  dúi dụi    lăn quay trên   đất, hùng hổ cầm khẩu súng trường đứng vào vị trí của     chồng. 
Vĩnh  biệt! 
Vĩnh  biệt Nga Sơn quê   hương ngàn    đời! Vĩnh biệt dòng họ Mai! Vĩnh biệt Thầy Mẹ kính yêu!   Vĩnh biệt  vợ   hiền  thương! Vĩnh biệt Thanh  Tâm, Lệ Uyên, các con yêu   quý… Mai  Duy Vỹ   đi đây! 
Trước mắt thầy lần lượt hiện  ra từng khuôn mặt thân thương yêu dấu. Lệ Uyên ơi! Con gái yêu của thầy!
Đừng  nhìn thầy như thế! Đừng buồn! Đừng khóc! Đừng oán trách thầy để con côi cút giữa Trần gian! 
- Tất cả các đồng chí làm theo  lệnh tôi! - tiếng ông Đội nhắc lại - Bồng  súng lên! 
Sáu cây súng cùng giương lên  nhằm về một phía - Mai Duy Vỹ! 
CHƯƠNG 44
CHÔN SỐNG
CHÔN SỐNG
-  Bắn! 
Năm  viên đạn nổ cùng một   lúc.  Một   viên đạn nổ tiếp theo. Viên đạn chính xác hơn cả của y tá   Toành  trúng   vào  ngực phải, xuyên qua phổi. Bốn viên kia vào  bụng,   cổ,  tay, chân.   Và viên sau cùng, có  lẽ của thím Đông, bay sượt qua   đầu  thầy. Một tràng   vỗ tay nghe rời rạc  đứt quãng. Toành chống súng    xuống đất, nhe răng   cười. Nghĩ ngợi thế nào, hắn  lại quay đầu lại đám    đông quần chúng -   Quân  Chủ lực Cách mạng la lên:
- Sao vỗ tay ít thế? Chỉ vỗ  vậy thôi à? Ơi bà con ơi! Vỗ tay nên! Vỗ  mạnh nên! Lào lào!… 
Im  lặng. 
Ông Đội bước tới, nhìn hai con  mắt thầy vẫn còn mở, toàn thân run giật,  nói: 
-  Thằng Vỹ còn sống hả? 
Họ  xúm nhau lại, từng người cúi đầu xuống nhìn. 
- Dạ,  còn sống… 
Y Tá Toành cúi đầu sát xuống  nhìn vào mắt thầy, lùi lại nói với ông Đội: 
- Xin đề nghị đồng chí… bắn thêm cho ló một phát  lữa vào đầu, thế nà chắc  ăn. 
Ông Đội  ngần ngừ. Toành vẫn bám dai: 
-  Theo đúng nuật quốc tế mà! Các lơi đều nàm thế… 
Ông  Đội lầm bầm: 
- Sáu người bắn vào một   cái  xác    không hồn mà rồi cũng không xong! Các đồng chí làm ăn như   cứt! Bộ  đội   ngoài  chiến trường mà như thế ni có mà thằng Pháp nó chịu   giơ  tay đầu   hàng cho! 
Toành  đế theo: 
- Thôi, các đồng chí ạ. Nần  lày ta rút kinh nghiệm cho những nần sau… 
Ông  Đội lừ lừ nhìn hắn, hự một tiếng: 
- Lần  sau là thế quái nào? Đồng chí nói năng gì lạ. Lần nào nữa?
Đám đông quần chúng, Quân   Chủ   lực   Cách mạng đang nhốn nháo hoảng loạn. Cái  đê người vỡ dưới   kia  ầm ào   tiếng kêu la lẫn tiếng khóc… Những bàn tay  bưng che… Những    chiếc nón   rách úp trùm mặt. 
Ông  Đội bối rối nói: 
- Các đồng chí! Đằng nào   nữa,   sớm   muộn trước sau gì thằng Vỹ cũng chết. Chỉ lát nữa thôi. Chi   bằng  lôi cổ   nó  xuống huyệt chôn quách đi cho rồi! Tôi ra  lệnh: Chôn!    Chôn ngay! 
Họ xúm nhau lại quanh cây   cột,   tháo   gỡ dây thừng giằng buộc thi thể tội nhân. Cò Toe càu nhàu   rằng  Hĩm Xoa    buộc quá chặt bây giờ khó gỡ nút. Hĩm Xoa gọi thêm mấy   dân  quân nữa tới   giúp  việc. Họ dùng liềm giật, lấy dao cứa đứt. Thầy    tụt xuống, tụt   xuống… cho tới  khi hai đoạn dây cuối cùng buộc hai ống    chân đứt sổ thì   thầy đổ xuống, lăn ra  đất… 
Bỗng nhiên, sự Sống từ   Trời  cao    xuống, từ dưới Đất lên, hay từ dòng  giống họ Mai xưa mấy   ngàn năm  Hùng   Vương dựng nước trở về làm thầy hồi  tỉnh. Nhịp đập trở   lại  trái tim,   hơi thở mở  hai buồng phổi, óc não phát sáng. 
Chẳng biết thần linh nào hiện  ra sai khiến, bảo thầy chắp hai tay, run rẩy đưa lên trước ngực… Thầy nói: 
- Tôi  lạy các ông… đừng chôn sống tôi… cho tôi sống… để tôi chữa bệnh cho dân… 
Ông  Đội ngẩn người ra chốc lát, cau mày, hình như không hiểu ý nghĩa câu nói của  thầy. 
Thầy  lặp lại: 
- Cho  tôi sống… tôi chữa bệnh cho dân… 
Rồi đuối hơi, lịm ngất đi. Máu  từ đâu lại ứa ra, kéo màn che cả bầu trời  trước mắt. 
Y tá  Toành rít răng, giọng khàn đục nghe vẳng bên tai: 
-  Chữa bệnh cái gì! Có   mà mày  nại   giết hại bà con lông dân ấy chứ. Lợ máu phải đền lợ máu!   Thằng  Vỹ, mày   phải chết! Lào, lào… các đồng chí, mỗi người lắm một   tay,  một  chân cùng   tôi… 
Hắn cùng cò Toe, Hĩm Xoa, thím  Đông - bốn tên nắm hai tay hai chân thầy  lôi kéo đến huyệt chôn. 
Máu  ộc ra từ người Mai   Duy Vỹ,  rớt   chảy trên đất cát một vệt dài. Ném thầy xuống huyệt rồi,   tay  chân họ đều   dính máu. Cò Toe, thím  Đông vừa đưa tay lau quệt vào    ống quần vừa nhổ   nước bọt. 
Cái  huyệt vừa hẹp lại   vừa ngắn.  Vùng   đất này cát pha, có cứng lắm đâu mà sáng nay họ đào qua   loa  chiếu lệ.   Mai Duy Vỹ chỉ cao mét  sáu dư vài phân thôi mà họ   không  để cho hắn được   nằm duỗi thẳng tay chân trong huyệt. Lại phải   kéo  hai chân, nhô đầu gối    lên, co hai ống sậy. Đã vậy, chiều sâu cũng    chỉ bằng nửa cây gậy   chống,  chắc hồn ma Vỹ có thể đêm đêm giơ tay    lên chỉ trỏ, trò chuyện   với các vì sao! Mà biết đâu đấy, chỉ một hai    trận mưa xuống, đất trôi đi   hết là xương thịt hắn lại  lòi ra cho quạ    rỉa, chó tha… 
Nga Sơn ơi! Đất Mẹ mênh   mang  sâu  dày   cho cói mọc người sinh, sao nỡ để đứa con bất hạnh của   mình  phải nằm    xuống trong cái nhà mồ theo kiểu chuột chui dế đùn thế    này! Luật nhân   quả bù  trừ bao trùm khắp thế gian. Ai bảo ông bà tổ    tiên họ Mai xưa   khai phá đất hoang  rừng thiêng làm gì, ôm cho lắm    vườn ruộng vào mình,   để vạ Cải cách Ruộng đất  bây giờ lại cho con    cháu, bắt Mai Duy Vỹ  phải   độc đắc trúng cái án tử hình này! 
Lệ Uyên ơi! Thảo nào ông   nội  con  lúc   hấp hối đã sấm truyền lại: sau khi tôi chết rồi, con cháu   có  chôn tôi    thì khỏi cần tới hòm ván, nhưng nhớ đào huyệt thật sâu,    chôn thật sâu;   dẫu thân  xác có làm mồi cho giun dế cũng được, miễn    sao đừng để người   đời đụng tới, moi tìm ra!… 
“Anh  Vỹ!” 
Có  tiếng ai vừa gọi thầy? 
“Đồng  chí Mai Duy Vỹ!”
“Có  tôi! Ai gọi tôi đó?” 
“Cao  Hữu Hiến đây…” 
“Cao Hữu Hiến, Ty trưởng Ty  Lao động Thanh Hoá phải không?” 
“Vâng.  Chính tôi!” 
Giữa trời mây u ám, tia   chớp  loé    hiện ra một khuôn mặt thân thương quen thuộc. Kém thầy một   tuổi,  con   người  mới 35 xuân nở một nụ cười tươi, hàm răng sáng tuyệt   đẹp…  Cái đẹp   của một thời  hăng say bốc lửa, dâng trọn cuộc đời cho lý    tưởng Cộng   sản mà Paul Vaillant  Couturier gọi là “Mùa xuân của nhân    loại”. 
“Vĩnh  biệt Mai Duy Vỹ! Tôi đi trước anh nhé!” 
“Ơ kìa! Sao vội vàng thế? Lại  không nói với nhau được một lời hay sao?  Hiến ơi!” 
“Biết nói gì bây giờ? Vỹ ơi! Ở  đời chẳng có cái gì bất biến vĩnh cữu, kể cả chủ nghĩa Cộng sản. Tôi vào Đảng
Cộng sản từ thời bí mật,   trước  anh 5   năm. Vậy mà bây giờ, cũng như anh, bọn côn  đồ, lưu manh,   cơ  hội chúng   nó dám gán cho mình cái nhãn hiệu là Quốc Dân Đảng.  Đồng    chí Vỹ à, thời   nay chúng nó cũng chẳng  biết Mác Ăngghen là ai đâu;    toàn nói mép cả   thôi, và dĩ nhiên cái đầu  Nguyễn Thái Học cùng với 11    cái đầu đồng chí   của ông ấy rơi xuống trong khởi  nghĩa Yên bái,  thậm   chí cả đầu của   Nguyễn Thị Minh Khai trong khởi nghĩa Nam Kỳ   chúng   cũng chẳng quan tâm… 
Tôi  không có được sự   kiềm chế  như   anh. Chữ Nhẫn trong tôi yếu lắm. Sáng hôm qua, nhân lúc   người  gác ngục   đi ra ngoài đánh  rớt cái gương con trước cửa, tôi vội   nhặt  lấy. Thừa   biết sớm muộn gì cũng chỉ  vài hôm nữa chúng nó sẽ tới    dẫn mình đi cho   “ăn  kẹo đồng” theo lối nói đùa cợt mất dạy của tụi    này, đồng chí Vỹ ạ,   tôi quyết  định tự tử! Trọn đời, tôi chỉ chấp nhận    một toà án duy nhất -   đó là Đảng Cộng  sản của tôi. 
Vì vậy, tôi đã đập vỡ cái   gương  tròn   vừa bằng lòng bàn tay ra làm hai mảnh.  Chọn cái mảnh có   mũi  nhọn sắc   hơn, tôi rạch  thẳng một đường từ cổ họng chạy xuống tới    bụng dưới; rồi   thọc tay vào trong sâu  lôi rút hết tất cả ruột non    ruột già ra… Máu   chảy lai láng từ trong nhà tù, ngoằn ngoèo tới ngoài    cửa, bò ra tới    sân…
Bọn  chúng trông thấy, hốt hoảng chạy vào. Tôi giơ tay chỉ đống ruột bầy nhầy, lòng  thòng trước bụng nói:
“Xin  nhờ các ông báo cáo   lên  trên…   để cho Bác Hồ và Anh Trường Chinh biết ruột gan  lòng dạ   của  Cao Hữu   Hiến, đảng viên Cộng sản trong trắng như thế này đây!”… 
Nói  vừa hết câu, tôi tắt thở. 
Vợ con tôi ở xa. Các con còn nhỏ. 
Chỉ có  hai cháu Duy và   Sơn, con  của   hai ông anh ruột, may vừa tới kịp. Các cháu dùng một cái   đọi  lớn, loại   bát múc canh,  úp vào trước bụng, che lại để cho mớ gan    ruột  khỏi sổ ra   lòng thòng; đoạn lấy dây chuối  buộc chận vòng từ    bụng xuống dưới lưng,   rồi đặt tôi lên võng cáng đưa về nhà. 
Tôi quê ở Thừa Thiên -   Huế. Vì   tham   gia Cách mạng nên xa nhà từ nhỏ, không  được như anh nằm   trong  lòng Đất   Mẹ Nga Sơn  - Thanh Hoá. Cũng như anh, tôi chết chôn   không  ván không   hòm, bó cuốn  manh chiếu rách; chỉ hơn anh mỗi một   điều là  cái huyệt của   tôi các cháu đào rất  sâu, nằm ở dưới này duỗi   thẳng  chân tay  rộng rãi   và thoải mái! 
Vĩnh biệt nhé, bạn thân yêu  Mai Duy Vỹ! Tôi về trước anh đây! Hẹn gặp  lại!” 
Tia chớp lại loé sáng. Con  Rồng Đỏ hiện lên. Cao Hữu Hiến vụt biến. 
Ông Đội vai mang xà cột, đi lại  quanh huyệt tỏ vẻ bực bội: 
- Có mỗi cái hố chôn cỏn   con  này  mà   đào cũng không xong! Từ sáng tới giờ, mấy cậu dân quân làm   chi,  ngồi tán    phét hả? Mần ăn như cứt! Đồng chí Toành! Tôi đã phân   công  đồng chí… 
Toành  lý sự, phân bua: 
- Báo cáo anh… có sao đâu   ạ.  Bà  con   lông dân ta chôn ló thế lày nà phúc  cho ló nắm rồi. Chôn   thằng  Vỹ thì   cũng như chôn con chó, con nợn… Tôi có cách  lày, giải   quyết  nà xong   ngay! 
Vừa  dứt câu hắn đã vớ   lấy cái  cuốc,   đứng dạng háng trên huyệt, quay ngược lưỡi cuốc, trở cán   giơ  lên cao bặm   môi méo mồm nện hai  cái thật mạnh xuống hai đầu gối    thầy. 
Rắc!  Rắc! 
- Như  thế lày đã được chưa, các đồng chí? 
Hắn quay lại nhìn mọi   người  mắt  long   lên, miệng cười cười. Sự sống trong người thầy như   dòng điện  giật run,    bật lên, co duỗi. Và hai con mắt lại tự nhiên mở   ra trừng  trừng nhìn   những con  quỷ, không phải đâu, những con người!   Thanh  Tâm, Lệ Uyên, ơi   các con yêu  thương, thầy vẫn còn sống mà. 
Cò Toe cầm thuổng, Hĩm Xoa cầm  mai, hai tên vọt lên đứng hai bên. 
- Vỹ!  Cho mày về chầu tiên tổ họ Mai nhà mày! 
Toe  vừa nói vừa nghiến   răng giơ  cao   cây thuổng, giộng một nhát xuống đầu thầy. Xoa méo mồm   trợn mắt  giơ cao   cán mai làm tiếp một nhát vào ngay mắt bên phải thầy. 
- Vỹ ơi! Cho mày về chơi   Âm  phủ  để   mày chữa bệnh cho thằng cha sinh ra mày, con mẹ đẻ ra mày,   chữa  cho cái    lũ địa chủ bóc lột, bọn Việt gian bán nước… 
Thím  Đông cũng cầm cuốc chen vào, cuốc lấy cuốc để lên đầu “Thằng Vỹ”. 
- Tiên sư cha thằng Vỹ! Mả mẹ  thằng Vỹ! - Tay cuốc mồm la - Tiệt nòi tiệt giống họ Mai nhà mi nhé. 
Xem ra thím Đông đã thoả   mãn  bần  cố,   toại nguyện trăm phần trăm: vừa trút khỏi thân mình của   nợ  thành phần    địa chủ, lại được mang cái lý lịch cao sang bần cố,   đứng  vào hàng ngũ   các đồng  chí. Cũng như mấy người kia, trên tay thím    nhầy nhụa những máu   và óc của Mai  Duy Vỹ… 
Lưỡi  mai, lưỡi cuốc cứ va chạm nhau chan chát, rào rạo… Từng mảng óc hoà lẫn máu  văng ra, phọt lên tung toé… 
Lê Trạch Đông lùi lại sau…  Tuân lệnh ông Đội chú ấy cũng cầm xẻng xúc đất đổ xuống huyệt, làm theo những  người kia. 
Chỉ trong thoáng chốc đất cát  đã chồng chất lấp đầy xác Mai Duy Vỹ - nấm mồ của đứa con dòng họ Mai ở xứ Nga  Sơn - Thanh Hoá. 
Một ngọn Tam Lênh bé tí trong  cõi người ngập tràn máu và nước mắt
CHƯƠNG 45
CHA ĐI TRƯỚC, CON VỀ SAU…
BÂY GIỜ CON LẠI ĐI TRƯỚC…
CHA ĐI TRƯỚC, CON VỀ SAU…
BÂY GIỜ CON LẠI ĐI TRƯỚC…
-  Thầy ơi! Thầy ở đâu rồi? 
Lệ  Uyên hoảng hốt kêu lên, hai tay quờ quạng… 
- Đây, đây… thầy của con   đây.  -    Tiếng ông Vỹ nghe từ đâu xa xăm, vẫn trìu mến dịu dàng - Thầy   kể  xong   rồi  đấy. Những điều con muốn biết mà gần nửa thế  kỷ nay thời    gian còn   kéo màn che kín, phủ đầy cả một biển máu và nước mắt. Thôi    nhé, thầy đi… 
- Một  lần nữa thầy lại bỏ rơi đứa con côi cút tội nghiệp của thầy ư? 
Lệ  Uyên bật khóc. Ông Vỹ cười không thành tiếng; nụ cười còn nguyên nỗi buồn đau… lại hiện ra trước  mặt hai chị em. 
-  Thầy chúc mừng các con đã được Siêu thoát … 
Thùy  Dương cũng ngỡ ngàng bối rối: 
- Bác bỏ chúng con đi thật à?  Bao giờ thì bác mới được Siêu thoát? 
Ông  Vỹ ngập ngừng, đắn đo: 
- Bác  còn phải chờ… 
- Bác  đã gặp Tiến sĩ Võ Ngọc Châu chưa? 
- Có. Gặp rồi. Tiến sĩ Châu  bảo tôi phải chờ tới năm hai ngàn lẻ 19… 
- Sao  phải tới 2000 lẻ 19, thưa bác? 
- Năm đó, Bên Này sẽ có   một  biến  cố   trọng đại. Ông Châu cũng chờ… tới 2019 mới có người ở Bên   Này  sang Bên    Ấy giữ Sổ Siêu Thoát thay phiên cho Tiến  sĩ… Các con   ạ,  loài người ở   Bên Này do đa phần không nắm được Thuyết  Tương Đối,    lại luôn bị nhốt tù   trong Bể Khổ  nên họ mỗi ngày một thêm nhỏ nhoi,    tham lam, đố kị. Vì bị   ép buộc sống  bên nhau, lại chịu một Trời độc    đoán đè nén nên càng ngày   họ càng hèn hạ, càng  hiểm độc tàn ác hơn.    Cái mối dây ràng buộc liên    hệ đó tệ hại khủng khiếp đến nỗi sang  tới   Bên Ấy rồi không phải ai cũng    dễ dàng được Siêu thoát cả… 
Những kẻ độc ác một cách   hồn   nhiên   đó, cháu Thùy Dương ạ, hầu hết đều mắc tội và phạm tội. Họ   vừa  là nạn    nhân lại vừa là phạm nhân… Làm sao chúng ta dễ dàng thoát    ra khỏi mối   liên hệ ấy? Bác đã nói rồi… Còn trường hợp  bác thì… 
- Cháu hiểu. - Thùy Dương   bồng   bột -   Ôi bác! Trong gia đình Nhân loại ai cũng chỉ mong có được   một  người cha    như bác; và cũng… mong sinh ra được một  người con như    bác.. 
- Cháu không quá lời đấy chứ?  Bác đã gặp cha của cháu… Ông ấy là một  người rất đáng mến… 
- Bác  ơi! Hồi còn ở Bên   Này, dẫu    nhiều khi sống lăng nhăng bậy bạ, cháu vẫn ăn nói thật lòng   không  chút   giả trá. Chị Uyên không am  hiểu đời sống xã hội bằng cháu   đâu.  Cháu   biết rõ, cái lũ tự phong ta đây là  thần thánh, chẳng có đứa    nào đáng   được gọi  là người, toàn một bọn chó má, quỷ sứ, đồ ba que    xỏ lá cả! 
Ông  Vỹ ngần ngừ, phân vân. 
Thùy  Dương càng hăng: 
- Nếu bác theo đạo Ki-tô, chắc  Toà thánh La Mã đã phong Thánh cho bác! 
Ông Vỹ cười, vẫn nụ cười không  thành tiếng, êm sâu như một vết thương. 
- Không dám đâu, cháu! Bác nào  có mơ ước làm một Jeanne d’ Arc? 
- Thế  thì… chắc bác phải là một vị Bồ Tát? 
Ông  Vỹ lại cười: 
-  Càng không dám… hai   chữ Bồ Tát    theo giáo lý Nhà Phật mà có lần bác tìm hiểu, có nghĩa là   “chúng  sinh đã   giải ngộ”. Phải không cháu? Giải ngộ cho mình chưa đủ,   còn   phải giải   ngộ cho người khác  nữa! Thùy Dương ơi, bác Vỹ của   cháu,  nếu tính tuổi   từ lúc mới sinh ra đến bây  giờ cũng đã gần cả   trăm  năm trong cõi    người… Vậy mà, bác vẫn chưa hiểu được mình là ai;   vì  sao mình lại sinh   ra vào  đúng cái thời khốc hại, ê chề, độc địa,    tối tăm có một không hai   này? Và  cái vòng luân hồi sinh tử, tử sinh    này đến bao giờ mới ngừng   quay?
Ngậm ngùi một lúc, ông nói  thêm như để cho riêng mình nghe:
- Tôi theo Đạo Con Người,   đạo   của   chính tôi. Lúc ở Bên Này sang Bên Ấy, tôi đã nhận biết: có   Trời ở  trên   đầu,  có Đất ở dưới chân, có cha mẹ ông bà tổ tiên họ Mai   sinh  ra mình.   Đạo của tôi là Đạo Ông Bà Tổ Tiên, Đạo ở quanh mình,    khắp  nơi khắp   chốn… 
Rồi quay sang Lệ Uyên: 
- Con gái yêu của thầy mẹ…  Thầy đã kể hết rồi. Toại nguyện chưa? Chúc  mừng các con được Siêu thoát.
Thôi, để thầy đi! 
Lệ  Uyên hờn dỗi, vùng vằng: 
- Chúng con không thể chờ thầy  được sao? Thầy khoan hẵng đi! 
Ông  Vỹ chăm chú nhìn Lệ Uyên: 
- Lạ thật! Con không có   thay  đổi  bao   nhiêu. Từ hồi ấy cho đến nay, 45 năm  rồi, làn môi con   gái họ  Mai tôi   vẫn thế, dỗi hờn, phụng phịu, thấm mọng nước  mắt… 
Đột  nhiên ông thoáng giật mình, sửng sốt: 
-  Thôi, thầy phải đi… 
Lệ  Uyên hốt hoảng: 
-  Không! Không! Thầy cho con đi với! Biết thế này thì… thà con đừng có Siêu thoát  nữa! 
Ông  Vỹ giơ tay ngăn lại: 
-  Đừng! Đừng! Con người   ta có  mệnh   hệ, con ơi! Mệnh hệ con từ lúc mới sinh ra là để gắn với   thầy.  45 năm   qua, cha con mình chỉ  nghĩ tới nhau. Thầy mong gặp lại   con ở  Bên Này để   kể lại đầu đuôi câu chuyện  cho con nghe. Nếu chỉ   riêng  có hai cha con    mình thôi thì như vậy e rằng chưa đủ. Bởi Nhân    loại-Lớn cần có một   người  thứ ba nữa xác nhận, chứng kiến, đó là Thùy    Dương, em kết nghĩa   của con. Thùy Dương cũng là con của thầy mẹ.  Các   con cứ  yên tâm mà Siêu   thoát. Thôi nhé, thầy đi…
Ông Vỹ lùi lại. Hình bóng ông  nhỏ dần… Chỉ còn một đốm sáng loé lên. 
Rồi  tắt. 
Biến… 
CHƯƠNG 46
ĐOẠN KẾT (EPILOGUE)
SIÊU THOÁT
ĐOẠN KẾT (EPILOGUE)
SIÊU THOÁT
Lại  trở về Bên Ấy… 
Họ  ngồi bên nhau im lặng. 
Họ  biết cái câu mình   hoặc người  kia   sẽ nói lên, chỉ câu ấy thôi, hễ đã nói xong là  một đột   biến sẽ  xẩy ra.   Đột biến này xem ra rồi quá sức chịu đựng! 
Lúc còn ở Dương gian, như   mọi   con   người, cả hai đều sợ Chết, bây giờ một nỗi sợ khác xem ra   còn  lớn hơn,    chiếm đoạt, ngự trị hình hài họ, thứ hình hài mảnh hơn   ánh  sáng, nhẹ hơn   không khí cả siêu lần: nỗi sợ phải xa nhau! 
Lệ  Uyên chăm chú nhìn cô em kết nghĩa. 
Cái đầu hơi nhỏ, mái tóc   uốn   kiểu   con trai úp lên như chiếc súp lơ Đà Lạt nhuộm màu hoe khiến   cho  ả có vẻ    ngây thơ dễ thương của một cô bé lai Tây, góp phần xoá    bớt, mờ nhạt đi   những nét chưa hoàn hảo của cánh mũi hếch, vầng  trán    hơi cao mà hẹp,   hai con mắt hơi  lồi bộc lộ sự lì lợm ham hố lắm khi    nóng nảy đến dại   dột… 
Để bù trừ lại cái “trôốc”   chưa   lấy   gì làm hoàn mỹ lắm, Bà Mụ đã nặn cho cô em một cặp môi phải   nói  rất chi   là  đáng kể, dẫu rằng có hơi mỏng một chút nhưng lại rất    tươi. Màu tươi   tự nhiên như cánh sen, nụ hồng lẽ ra chẳng cần tới mỹ     phẩm (Thùy Dương   đã hối hận vì đua đòi lây nhiễm phải thói quen dại    dột  thời hiện đại),   mỗi khi cần mở ra hay khép lại để trình diễn  hai   hàm răng sáng  bóng đều   đặn không thể chê vào đâu được, đến nỗi  Lệ   Uyên đôi lúc cũng phải thầm    so sánh tự thấy hàm răng của mình  đúng là   chưa đạt được điểm 10 như   vậy, Hàm  răng ấy khi phát ra, dù  là âm   điệu chọ chẹ  của xứ “cà cuống   có đuôi” vẫn đầy ma lực cuốn  hút lòng   hảo tâm, hào hiệp của  phái mạnh! 
Có lẽ chàng Lê Vĩnh thuở   hoa   niên đã   đắm say một trong hai cái “góc” của nàng Phan Thị Thùy   Dương  thuở ban    đầu gặp gỡ làm chi; sau này thì kể sao cho  hết những    đấng mày râu thời   Đổi mới Tư duy lần lượt xếp hàng đứng sau,  thế chân    cho Lê Vĩnh, kẻ đã   có tội phản bội và cũng góp công đột phá đổi mới    nàng… 
Nổi  trội hơn cả có lẽ là Lão Hướn và kết thúc là đại tá Mai Đắc Xuân, người tình lý tưởng của nàng! 
Biết kể sao cho hết bao   kẻ  không  tên   và có tên đã tự nguyện xung phong  hoàn thành nhiệm vụ   để làm  thoả mãn   khát vọng đổi đời của cô gái núi Hồng sông Lam! 
Không ai đáng yêu dễ   thương  hơn  cô   em kết nghĩa của mình. Lệ Uyên thầm  nghĩ. Mọi tiêu   chuẩn về đạo  đức,   thẩm mỹ ở Bên Ấy, qua bao đời tưởng đã  thành khuôn   mẫu cho mọi  người   noi theo làm  theo, bây giờ trở nên mớ bòng bong phế   thải  những lầm lẫn   và ngu dốt! 
Trong khi đó, Thùy Dương   đã  ngả    người vào lòng chị kết nghĩa, mắt nhắm tay ôm ghì… Lệ Uyên khẽ   kéo  cái   váy  đầm bó xuống, phủ che đầu gối và cặp giò hơi nhỏ nhưng   rất  thẳng   của cô em. Cử chỉ này làm Thùy Dương thoáng mỉm nụ  cười   biết  ơn. Nụ   cười dễ thương đến nỗi không kiềm chế được, Lệ Uyên  phải   cúi  xuống đặt   một cái hôn lên cặp môi hồng thắm, quên mất mình đang    luyến  ái đồng   tính, điều mà nhân loại vẫn còn tranh cãi,  rào cản… 
Thùy Dương mở mắt ra. Ả   cười.   Trong   mắt ả, người chị hiền thục và xinh  đẹp, gần như trái   ngược  hoàn toàn   với hình thể tư chất con người ả một  thời, tưởng   chừng  như mâu thuẫn   đến chối bỏ, phủ nhận thì nay đã gắn bó đến hài    hoà:  Chị của em, em yêu   chị biết bao! Em  chẳng bao giờ muốn xa chị!… 
Lệ Uyên đọc được ý nghĩ   ấy. Lẽ   ra   chị phải đặt ngay một cái hôn tiếp lên  đôi mắt kia, nhưng   đã  ngập ngừng   khiến cặp môi yếu đuối của ả phải run lên, mấp  máy… 
- Chị  em mình… 
Lệ Uyên vội vàng đặt bàn   tay  lên    miệng Thùy Dương nhưng đâu còn kịp nữa,  một phần nửa câu còn   lại  của cô   em đã lọt  qua kẽ tay chị, dẫu hơi lệch pha nhưng vẫn rành    rọt: 
- …  Rồi sẽ ra sao đây? 
Đột nhiên cả hai cùng   rùng lên   một   cái, buông rời… Họ đều cố cưỡng lại,  chới với, xáp vào   nhau.  Nhưng một   lực kéo đến từ đâu hai phía, giữ họ lại, lôi họ ra   khiến  họ cảm thấy   mình mỗi lúc  một đuối sức và sự gắng sức của cả hai   trở  nên vô nghĩa.   Người nọ thấy người  kia cứ như giật lùi, trôi đi…    mỗi lúc một cách  xa   nhau hơn. 
- Lệ  Uyên ơi! 
Thùy  Dương kêu lên rồi bật khóc. 
-  Thùy Dương! Chị đây mà…
Lệ Uyên nghẹn ngào, giơ tay vẫy… 
-  Chị… 
- Em… 
- Ơ kìa! Chúng ta mãi mãi xa nhau hay sao?
- Ơ kìa! Chúng ta mãi mãi xa nhau hay sao?
- Chị  em mình rồi sẽ… lại gặp nhau… 
- Gặp  nhau ở đâu? 
-  Chưa rõ. Nhưng chắc rồi sẽ… gặp lại nhau. Em cứ tin đi! 
- Biết  thế này thì chị   em mình  thôi   đừng có Siêu thoát nữa! Siêu thoát nỏ làm cái chi! Lệ   Uyên ơi,  em có mơ   chi Thiên Đường, Niết Bàn  như người ta đâu! Mà   Thiên  Đường, Niết Bàn dù   có thật đi nữa rồi cũng chỉ nên  hiện hữu,   tồn  tại ngay trong hiện tại   của  Cõi Trần chúng ta… Kiếp trước đã qua    rồi, kiếp sau còn nói làm quái   gì! Cứ ngồi  đó mà chờ ngày mai tươi    đẹp, mà đợi kiếp sau đàng hoàng!   Chị em mình thà  bị nhốt giam đời    đời, muôn năm trong cái nhà tù đoạn   trường, Bể Khổ   Trần gian… còn     hơn là Siêu thoát như thế này!
Tiếng  nấc. 
Tiếng  khóc.
Hai  đốm sáng nhỏ dần. 
Tắt. 
Biến.
Đầu  năm 2002 - Noel 2005
Hoàn chỉnh năm 2009
TRẦN THẾ NHÂN
 --------------------
BẠT
Thưa Quý độc giả!
Đến đây Quý vị đã đọc xong  cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”.
Với   những vị đã cao   niên, từng   kinh qua thực trạng xã hội Miền Bắc Việt   Nam trong những   năm 50 của  thế kỷ  trước, đều biết chắc chắn rằng cuốn   tiểu thuyết   “Ngày Long  Trời Đêm Lở Đất”  không khác gì một bộ phim phóng   sự với độ   xác thực  100% từ A tới Z.
Nhưng   với những bạn   sinh sau   đẻ muộn, lại đang được sống trong một xã hội tự   do dân chủ,   rất có  thể sẽ cảm  thấy khó tin rằng ở quê hương chúng ta   lại có một   thời  kỳ khủng khiếp hơn cả cảnh  cuối tầng Địa ngục như vậy.   Thật là    ngoài sức tưởng tượng có phải không?! Nếu  các bạn phân vân như   vậy,    thay vì tôi lớn tiếng dõng dạc tuyên bố: xin đem trọn  cái mạng của      mình ra đảm bảo cho cái điều không thể tin được đó là SỰ THẬT, thì  tôi      chỉ xin mời quý bạn hãy ghé về Việt Nam lúc này – thời kỳ những năm    đầu    thiên niên kỷ thứ ba – mà sống và chiêm nghiệm, dù chỉ một  ngày   thôi –   cũng đủ  để bạn nếm trải những gì đã được “Ngày Long  Trời Đêm   Lở Đất”   ghi lại. Cảnh ấy,  người ấy, không khí xã hội ấy,  bạn tưởng   chỉ là một   quá khứ ngắn ngủi bi thảm  của dân tộc ư? Không  đâu! Thảm   trạng ấy vẫn   đang tiếp diễn nhãn tiền.
Quái   thai độc tài đảng   trị đã  và vẫn đang ở cao trào đào huyệt nhằm chôn    sống cả Dân Tộc.   Hãy làm  những gì trong khả năng của bạn để mỗi người và   mọi  người   thấy,  biết và hiểu rõ được điều này, cho bây giờ và cho cả   mai sau./.
Nguyễn Quảng  Tâm.
SUY NGẪM
KHI ĐỌC “NGÀY LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT”
CỦA TRẦN THẾ NHÂN
KHI ĐỌC “NGÀY LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT”
CỦA TRẦN THẾ NHÂN
… Ôi ! quê hương
Hỡi những ngày xưa !
Thủy chung - nhân ái
Tất cả chìm-ngâm
Trong lừa dối cuồng điên…
Hỡi những ngày xưa !
Thủy chung - nhân ái
Tất cả chìm-ngâm
Trong lừa dối cuồng điên…
Phùng Cung (1965)
Trong suốt chiều dài lịch   sử  mấy    ngàn năm của Dân Tộc ta, chưa từng có một trận thảm sát nào   mà  người   Việt  lại giết hại người Việt khủng khiếp như trong cuộc Cải    cách Ruộng   đất (CCRĐ)  dưới “thời đại Hồ Chí Minh” hồi giữa thập niên    50 thế kỷ 20!   Đó là trận thảm  sát dân lành cực kỳ man rợ do đầu óc  kỳ   thị giai cấp,   do ý thức hệ Cộng sản của  tập đoàn cầm quyền gây  nên!
Trên thế giới đã từng có   nhiều   nước   làm CCRĐ. Phần đông người ta làm một cách ôn hoà bằng cách   Nhà  nước mua    lại số ruộng đất chủ sở hữu có trên tiêu chuẩn do NN   quy  định, hoặc cho   phép họ  được hiến tặng. Nhờ đó, các nước ấy đã nhẹ    nhàng xoá bỏ quan   hệ sản xuất phong  kiến, tạo điều kiện cho nền kinh    tế phát triển mạnh,   đồng thời giữ được hoà khí  và ổn định xã hội,    tránh những đảo lộn nguy   hại. 
Thế nhưng, các “lãnh tụ”   Cộng   sản   thì cho đó là con đường “thoả hiệp giai cấp”, không đúng   đường  lối chủ    nghĩa Marx-Lenin, không thể hiện tinh thần “đấu tranh   giai  cấp”, không   phát  động được lòng “căm thù giai cấp”, không mang   tính  “cách mạng   triệt để”… Theo  họ, CCRĐ phải là một “cuộc cách mạng    long trời lở đất”.   Phải “phóng tay phát  động quần chúng”, nghĩa là    làm hết sức mãnh liệt,   thẳng tay, không khoan  nhượng, không thương    xót, có thế mới dấy lên   lòng căm thù giai cấp cao độ trong  quần chúng    bần cố nông mà họ coi là   “quân chủ lực cách mạng” để đánh gục giai     cấp địa chủ. 
Đảng Cộng Sản dõng dạc   tuyên  bố  CCRĐ   là để thực hiện “người cày có ruộng”, ước mơ ngàn đời   của nông  dân. (1)   Nhưng, đó chỉ là trên lời nói! Còn trong thâm tâm,   các  “lãnh tụ” Cộng   sản  có một ý đồ khác hẳn, nhắm những mục tiêu khác    hẳn. Họ dùng khẩu   hiệu “người  cày có ruộng” làm “con mồi” nhử nông    dân mà họ coi là “đồng   minh chiến lược”  (2) đi theo họ thực hiện    những mục đích xa hơn, độc   địa hơn. Họ dùng CCRĐ để  tiêu diệt giới    hữu sản bị họ coi là “giai cấp   bóc lột” ở nông thôn, để truy  quét các    thành phần mà họ cho là “phản   động”, quét sạch các tư tưởng và hệ     thống giá trị đạo lý cổ truyền nặng   về quyền tư hữu, loại bỏ cuộc  sống   tâm linh  trái với chủ nghĩa vô thần   của họ, xoá bỏ đạo đức  truyền   thống của gia đình,  thôn xóm mà nền văn   hoá làng xã lâu đời ở  nước ta   đã để lại. Chủ ý của họ còn  là khủng bố   tinh thần nhân  dân, gây ra   nỗi khiếp sợ triền miên trong người dân  nhằm   triệt tiêu  mọi mầm mống   chống đối họ. Họ ra sức xúi giục, kích động   lòng  hận  thù, gieo rắc   tính độc ác, tham lam, dối trá, đểu cáng… vào   lòng  người nông  dân vốn   chất phác, hiền lành… Tất cả những điều đó nhằm    mở đường thực hiện   cuộc  cách mạng XHCN và huy động “quân chủ lực cách    mạng” xông vào   trận chiến đánh  chiếm miền Nam. 
Chính với ý đồ đó, các   “lãnh  tụ”    Cộng sản đã gây ra những tội ác tày trời đối với Dân Tộc:   họ đã  biến   CCRĐ  và Chỉnh đốn Tổ chức thành một cuộc đày đọa, tàn sát   dân  lành và   cả các cán bộ  đã từng đứng dưới lá cờ của họ. Trong lúc    nhân dân đang   sống yên lành thì bỗng  dưng Đảng phái những “Đội cải    cách” về làng xã   khép “tội” địa chủ cho nửa triệu  người trong nước VN    Dân Chủ Cộng Hoà   (với dân số nông thôn hồi đó trên 10  triệu) (3),  và   số người này ngay   lập tức bị hành hạ, bị đọa đày, bị giày xéo   tận   bùn đen! Hơn nữa, trên   172 ngàn sinh mạng vô tội đã gục xuống  dưới   lưỡi  gươm “chuyên chính vô   sản” vì bị quy oan là địa chủ cường  hào   gian ác, Việt  gian, phản động,   gián điệp, Quốc Dân Đảng! (4)  Những   cuộc “đấu tố” với cảnh con  đấu cha,   vợ tố chồng, con dâu vu  oan cho   bố chồng, con rể giá họa cho mẹ vợ, bà    con, hàng xóm, láng  giềng tố   điêu lẫn nhau… đã đảo lộn đạo đức thông   thường,  giày xéo  lên nền văn   hiến lâu đời của người Việt, phá hoại   truyền thống hoà   hiếu, “lá lành   đùm lá rách”, “tối lửa tắt đèn có nhau”   của cư dân  làng xã nước  ta.   Còn điều các “lãnh tụ” Cộng sản không   ngừng rao  giảng: “xây dựng con   người  mới” theo “đạo đức mới”, tức là   “đạo đức  Cộng sản” và “tư tưởng   Hồ Chí Minh”,  thì… than ôi, ngày nay,   nhân  dân ta đã thấy quá rõ   “kết quả” thực tế rồi: đạo  đức băng hoại, xã    hội sa đọa, nạn tham   nhũng tràn lan, nạn mua quan bán chức  phổ biến,    tệ nạn lừa dối, đảo   điên, đểu cáng, độc ác… nhan nhản khắp nơi trong     nước. 
Còn câu chuyện hoang   đường   “người   cày có ruộng” hoá ra là… một “quả lừa vĩ đại” mà Đảng   Cộng  Sản đã cho    nông dân “xơi” đến bội thực! Vì CCRĐ vừa xong hồi   cuối  năm 1956, một số   nông  dân vừa mới hí hửng “cắm thẻ nhận ruộng”   để  Đảng chụp ảnh quay   phim tuyên  truyền thì đến năm 1957-1958, họ đã    bị Đảng lùa vào hợp tác   xã để “tiến nhanh,  tiến mạnh lên chủ nghĩa xã    hội”. Thế là ruộng đất   của nông dân biến thành của  hợp tác xã, còn    người nông dân thì hoàn   toàn lệ thuộc vào ban chủ nhiệm hợp tác   xã,   vào đảng uỷ và uỷ ban xã   như những nông nô! Đến khi Việt Nam Dân  Chủ   Cộng Hoà  “được” Đảng chuyển   thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa  Việt Nam   thì… chỉ bằng một  câu ngắn   gọn trong Điều 19 của Hiến pháp  năm 1980   “Đất đai, rừng núi, sông hồ…    đều thuộc sở hữu toàn dân”,  Đảng đã tịch   thu một cách ngon ơ toàn bộ   ruộng đất  của nông dân,  đất đai của toàn   dân! Nông dân và nhân dân bị   Đảng tước đoạt  quyền  sở hữu về ruộng   đất, nói chung về đất đai, trong   nháy mắt! Thế là  ước mơ  ngàn đời của   nông dân mãi mãi vẫn chỉ là… “ước”   và “mơ”! 
“Quả lừa vĩ đại” này của   Đảng   chẳng   phải một mình nông dân bị mà cả đại bộ phận nhân dân nước   ta  cũng bị.    Thậm chí nhiều nạn nhân, khi đã “dựa cọc” rồi, sắp bị   hành  quyết mà vẫn   chưa  tỉnh, cứ nghĩ rằng tai họa của họ là do mấy   “ông  bà Đội” gây ra,   nên trước khi  chết có người vẫn gắng gượng kêu   lên  mấy tiếng “Hồ Chí   Minh muôn năm!”. Con cái  của họ, kể cả nhiều    người có học thức mà vẫn   cứ bị lừa cho đến… hơi thở cuối  cùng! Mà    chẳng những nhân dân ta, ngay   cả một phần dư luận thế giới, một số nhà     đại trí thức nổi tiếng cũng bị   đánh lừa! Cố nhiên, đến bây giờ thì    thế giới  người ta tỉnh rồi, chỉ có   một số khá đông người Việt Nam  ta   vẫn còn mê muội  hoặc… giả vờ mê   muội.
Mỉa mai thay, nửa thế kỷ   sau   cuộc   “cách mạng long trời lở đất”, dường như Lịch sử Việt Nam lại    trôi theo    dòng chảy ngược! CCRĐ (1953-1956) “đã đánh đổ giai cấp địa    chủ” thì giờ   đây, ở  nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cuối  thế   kỷ 20 đầu thế   kỷ 21, lại xuất  hiện những địa chủ mới mà dân ta  gọi   là bọn “cường hào   đỏ”, vì chúng là những  cán bộ Cộng sản lợi  dụng   chức quyền chiếm dụng   đất đai (là sở hữu toàn dân!)  phát canh,  thu   tô, cho vay nặng lãi ở   nông thôn để bóc lột chẳng khác gì địa   chủ   thời xưa. Giáo sư Viện sĩ   Đào Thế Tuấn đã phải nói thẳng  thừng:    “Không có nước nào (như ở nước   ta) người nông dân bị bạc đãi, bóc  lột,    hiếp đáp bởi bọn cường hào mới,   đa số là đảng viên trong các  đảng ủy   điạ phương  được cấp trên thông   đồng che chở. Không ở đâu,  chưa bao   giờ nông dân bị tước  đoạt đất ruộng   qua “thu hồi” kiểu  cưỡng bức và   tùy tiện, với chính sách “đền  bù” nhảm   nhí, “bèo bọt”  chỉ bằng một   phần 10, có khi chỉ một phần 20 của giá    trị thực!” Giờ  đây lại xuất   hiện cảnh nông  dân cầm cố ruộng đất mà họ   được phép  sử dụng để đi làm   thuê làm mướn hoặc đi  tha phương cầu thực,   các  nhà khoa học xã hội   gọi đó là “tình trạng ly nông”.  Giờ đây xuất    hiện thêm một lớp người   “mới” có tên gọi là “dân oan”, tức là gần  một    triệu nông dân và người   lao động bị chiếm đoạt đất đai, bị cướp  đoạt nhà    cửa đi “kêu oan”,   thậm chí đi biểu tình, ở các “cửa quan”  Cộng sản   hàng chục  năm trời   mà vẫn “không đi đến đâu cả”! Giờ đây  còn xuất hiện   thêm những cảnh    tượng nhục nhã chưa từng thấy trong  lịch sử nước nhà:   “nhà nước xã hội   chủ  nghĩa” đem trên nửa triệu  nam nữ nông dân, lao   động “xuất khẩu”   ra nước ngoài  bán cơ bắp, mồ  hôi, nước mắt và cả máu   nữa để nhà nước   thu về hàng nhiều triệu  đô  la (5); “nhà nước xã hội chủ   nghĩa” cho   phép các dịch vụ “buôn  người” dưới  dạng “lấy chồng ngoại   quốc” đưa   hàng mấy trăm ngàn cô  gái nông thôn vì nghèo  đói phải bỏ mẹ   cha, bỏ   anh chị em, bỏ quê  hương làng xóm để… bán mình cho các  “ông…   chồng”   Hàn Quốc, Đài  Loan, Trung Quốc…, thực chất là đi làm nô lệ, kể cả    nô   lệ tình dục!  (6) Nhiều nhà nghiên cứu và nhà báo trung thực trong   nước   đã mô  tả  cuộc sống của người nông dân Việt Nam ngày nay còn lầm     than, khổ ải  hơn hồi  trước “cách mạng”, hơn trước ngày “thống nhất đất     nước”!  Đó là sự thật hết sức  phũ phàng mà nông dân Việt Nam đang phải     ngậm  đắng nuốt cay cúi đầu chịu đựng! 
CCRĐ “long trời lở đất” như vậy, một      sự kiện lịch sử lớn lao như vậy, thế  mà đã trên nửa thế kỷ qua,  chưa   có   một công trình nghiên cứu chân thật, khách  quan nào của các  nhà   khoa   học trong nước được công bố! Chưa có một tác phẩm  nghệ  thuật,   văn   chương nào của các nhạc sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà  văn, nhà    thơ…   trong nước diễn tả lại tấn thảm kịch đầy đau thương  của Dân Tộc!   Chẳng    phải vì giới trí thức sáng tạo nước ta thiếu  người có tài, có   tâm, mà   chỉ vì  ngay sau CCRĐ các “lãnh tụ” Cộng  sản đã coi đó là một   trong   những đề tài cấm kỵ  không ai được đụng  đến. Cái tabou khắc   nghiệt này   thì đám quan chức của chế độ  cực  quyền ngày đêm canh giữ   nghiêm ngặt   mãi cho đến ngày nay! 
Hồi đầu cuộc “đổi mới”,   cuốn  “Ác    Mộng” của Ngô Ngọc Bội chỉ mới dám lướt nhẹ qua chuyện “cải   cách”…  Mãi   đến  gần đây, đầu thế kỷ 21, mới lác đác xuất hiện vài cuốn   tiểu  thuyết   đề cập thẳng  đến đề tài cấm kỵ đó. Cuốn “Ba Người Khác”   của  Tô Hoài,   hoàn thành từ năm 1992  nhưng chật vật mãi đến năm 2006    mới được xuất   bản. Cuốn “Nước Mắt Một Thời” của  Nguyễn Khoa Đăng sắp    xuất bản thì bị   cấm ngay tức thì và cuốn “Thời Của Thánh  Thần” của    Hoàng Minh Tường vừa   in xong, chưa kịp phát hành thì số sách in đã  bị    Đảng ra lệnh thu hồi   để nghiền làm bột giấy!! Một hành động man  rợ,   phản văn  hoá của bọn Tần   Thủy Hoàng thời nay!
Người viết những dòng này   đã   phải   sống suốt quãng thời gian “long trời lở đất” rất kinh hoàng,    đầy bi    thương, đầy máu lệ, đầy chết chóc, đầy tàn phá, đầy “lừa dối    cuồng   điên”... Đã  nhiều lần dự hội nghị về CCRĐ, được nghe “Bác Hồ  vĩ   đại” và   “Anh Cả Trường  Chinh” huấn thị về “CCRĐ”, “Chỉnh đốn Tổ    chức”, về   “phóng tay phát động quần chúng”...  Đã từng chứng kiến    nhiều cuộc đấu   “địa chủ cường hào ác bá” ở Bắc Ninh, Hưng  Yên, Hà    Đông. Cũng đã từng   đi làm nửa đợt “cải cách” ở Thái Bình, giữa chừng     thì Thành uỷ xin về   Hà Nội để nhận trách nhiệm lãnh đạo công tác  “sửa   sai cải  cách” ở Ngoại   Thành Hà Nội. CCRĐ quả là một cú đẩy  mạnh làm   người viết thức  tỉnh,   đánh giá lại Đảng Cộng Sản và các  “lãnh tụ” của   Đảng, cũng như nhìn lại    con đường mình đã đi… Đó là  khởi đầu cho một   quá trình đấu tranh, dằn   vặt, đau  đớn để có được  một nhãn quan mới,   tư duy mới, cuối cùng dẫn   đến việc rời bỏ  Đảng  Cộng Sản. Chính vì   thế, người viết biết rõ nỗi đau   khổ của bà con  nông  dân, vô cùng   thông cảm với các nạn nhân của CCRĐ   và nóng lòng  mong mỏi được  thấy   những tác phẩm văn học nghệ thuật chân   thật mô  tả về sự kiện lịch sử   đau  thương này. 
Thế rồi, hồi năm 1996,   tôi đặc   biệt   cảm động khi lần đầu tiên được cầm trong tay tập copy   bản thảo  tiểu   thuyết  “Ba Người Khác” của Tô Hoài. Tôi thầm cảm ơn nhà   văn Tô  Hoài đã   giáng một đòn  mạnh vào cái tabou kỳ quái của Đảng để   hé ra  cho độc giả   biết được phần nào sự  thật về Cải cách RĐ. Ông là   nhà  văn lão thành có   tên tuổi ở nước ta nên cái  gương sáng của ông sẽ    cổ vũ nhiều người khác   noi theo.
Đọc xong, tôi đưa “Ba   Người   Khác”   cho một ông bạn già xem. Ông ta đọc kỹ lắm rồi gặp tôi,   ông  bực bội   phán:  “Viết về CCRĐ mà Tô Hoài chỉ kể về ba thằng Đội ba    lăng nhăng ấy   thì không  được! Phải nói đến “Ba Người Khác” cơ!” Tôi    hỏi lại: “Là ai?”   Ông đáp: “Ai nữa?  Là Bác Hồ vĩ đại, Bác Mao cũng  vĩ   đại và Cụ Xít càng   vĩ đại! Chính ba ông đầu  nậu ấy đã bày ra cái    chuyện “cải cách” ở nước   ta”. Tôi nói: “Anh nói cũng đúng  thôi!  Không   có Cụ Hồ và Đảng Cộng   Sản, và Cụ Hồ không đi xin “chỉ thị” Cụ  Xít,    không xin phép Cụ Mao cho   rước đoàn cố vấn Tàu sang thì chẳng  có   chuyện “cải  cách” khủng khiếp   này”. Anh ta hăng lên: “Đó là nói  hàng   trên. Còn dưới một bậc  thì “Ba   Người Khác” là “Anh Thận”  (Trường   Chinh), sau đổi là Năm để nhún nhường    đứng sau Ba Duẩn, rồi  đến thằng   cha Hồ Viết Thắng và “Anh Lành” (Tố   Hữu) “nhưng  dạ chẳng  lành” (7).   Tôi hỏi: “Tố Hữu thì có liên quan gì   đến? Lão ta không  có  chân trong   Uỷ ban CCRĐ Trung ương mà”. Anh ta đáp:   “Thế anh  không biết à, y là    kẻ “gác cổng” tư tưởng của Đảng ta. Y phụ   trách  công tác tuyên truyền   cho chiến  dịch “cải cách” đấy. Chính y đã    đánh tơi bời Trần Bá Xá chỉ   vì cái truyện ngắn  chân thật “Anh Cò Lấm”    đăng trên tạp chí “Tổ   Quốc” hồi tháng 1 năm 1956, y buộc  cho tác  giả   những tội “chết   người”, như có tư tưởng phản động của giai cấp  địa  chủ,   chống phá   chính sách CCRĐ! Ban biên tập “Tổ Quốc” cũng  điêu đứng vì y.   Rồi  đến   khi Hà Minh Tuân cho ra cuốn “Vào Đời” có  đụng chi mấy đến   chuyện “cải    cách” đâu mà y và lão (Nguyễn Chí)  Thanh xúm vào đánh cho   tơi bời,   kỷ luật tùm  lum. Cũng chính y đã  tung ra những câu thơ sặc mùi   đao   phủ để kích thêm đầu óc  hiếu sát  của các Đội cải cách. Anh còn nhớ     không?” Rồi anh ta đọc vanh vách:
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế (8) mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt”…
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế (8) mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt”…
Chuyện phiếm đàm của hai   ông  bạn  già   chúng tôi còn dài. Nhưng, nói chuyện nghiêm chỉnh thì   phải công  nhận là    Tô Hoài đã bất chấp tabou, đề cập đến một đề tài   “rất nhạy  cảm”, và   với văn tài  của mình ông đã tạo nên một cuốn tiểu   thuyết  khá hấp dẫn.   Ông đã vẽ lên rất rõ  nét hình ảnh ba “anh Đội”   cải  cách – đội trưởng   Cự, đội phó Bối kiêm chánh án  và một cán bộ Đội    tên Đình. Cả ba gã này   mỗi tên một vẻ nhưng đều có tính lưu  manh,    đều hám quyền lực, đều dối   trá, ham gái, dâm đãng và không gờm tay    trước  tội ác. Tác giả đã mô tả   rất “ấn tượng” những cảnh hoang dâm,    quần dâm của ba  “anh Đội” với các   cô “rễ chuỗi” bần cố, với các nàng    dân quân… tạo nên một cảm  giác tởm   lợm của người đọc đối với mấy  tên   này. Tuy nhiên, người đọc tinh ý  thấy   rõ rằng Tô Hoài dù đã  đụng đến   đề tài CCRĐ nhưng lại tránh né, không   dám  phơi bày thực  chất và nguồn   cơn tấn thảm kịch của Dân Tộc đã diễn   ra trong lịch   sử. Độc giả chờ   đợi rất nhiều ở một nhà văn có tầm cỡ như   Tô Hoài,  nhà văn đã  từng   tham gia hai đợt CCRĐ, làm đội phó lại kiêm   chánh  án Đội cải cách, họ   hy  vọng được thấy từ ngòi bút của ông hiện   lên  một bức tranh toàn   cảnh đồ sộ, chân  thật về cuộc đảo lộn khủng    khiếp này. Nhưng, đọc   xong “Ba Người Khác”, độc giả  vẫn chưa thấy  được   toàn bộ sự thật, “sự   thật trần truồng” không che đậy. Người   đọc bàng   hoàng nghĩ rằng lẽ   nào chỉ vì ba cái thằng khốn nạn này mà  mọi sự  trong   xã hội dưới thời   “dân chủ cộng hoà” lại đảo lộn tùng  phèo đến như thế   ư?  Thế thì ai   cho chúng nó cái quyền “nhất Đội nhì  Trời” để chúng nó   tác oai tác    quái làm những chuyện “long trời lở  đất” như vậy? Ai đã   vạch đường chỉ   lối cho  chúng, ai đã “phóng tay”  cho chúng làm “cách   mạng long trời   lở đất”, làm loạn  xị cả một  vùng nông thôn như vậy? Ai   đã đã kích   động chúng “Giết, giết nữa,  bàn  tay không phút nghỉ” để cho   chúng   thẳng tay tàn sát dân lành  không chút xót  thương? Ai? Ai?? Nhiều     người cho rằng Tô Hoài là  đảng viên Cộng sản, một cán bộ  quan trọng của     Đảng trong lĩnh vực  văn học, một nhà văn-con cưng của chế độ,  ông   muốn   sống “tròn” với  Đảng nên dù có đề cập đến CCRĐ, nhưng ông đã hết   sức   gượng  nhẹ, cố  lái câu chuyện sang một hướng khác. Đoạn kết của   tiểu   thuyết, tác  giả  “cho” Đội trưởng Cự chạy vào Nam đầu hàng địch   và bị   “quân ta”  giết… thì càng  làm cho người đọc lạc hướng hơn nữa,   dường như   “Mỹ  Nguỵ” có dính líu gì đến  những chuyện xấu xa, những   điều man rợ,    những đảo lộn xã hội khủng khiếp hồi  CCRĐ. Cố nhiên,   cách kết cấu cốt    truyện, hư cấu tình tiết là quyền của tác giả,  nhưng   độc giả có  quyền   đòi hỏi tác giả phải làm sáng tỏ sự thật của những   tội  ác tày  trời. 
Cuốn “Nước Mắt Một Thời”   của   Nguyễn   Khoa Đăng và cuốn “Thời Của Thánh Thần” của Hoàng Minh   Tường  tôi cũng    được đọc khá sớm bản photocopy từ trong nước gửi ra.   Sau  đó ít lâu, một   người  bạn thân trong nước gửi cho cuốn “Thời Của    Thánh Thần” còn thơm   mùi mực. Đó là  một trong những cuốn may mắn “lọt    lưới” thu hồi của nhà   nước!
Điều đáng nêu lên ở đây   là cả   hai   nhà văn Nguyễn Khoa Đăng và Hoàng Minh Tường đều rất can   đảm  “xông xáo”   vào  đề tài cấm kỵ này. Họ không ngần ngại mô tả rõ nét    thảm cảnh kinh   hoàng của  nông thôn trong thời kỳ “cải cách”. Tuy    nhiên, độc giả vẫn   cảm thấy đôi chỗ còn  gượng nhẹ, tránh né, dè dặt,    mà đó là điều dễ   hiểu, vì các tác giả đang sống  dưới chế độ cực  quyền   khắc nghiệt, lưỡi   gươm “chuyên chính” luôn luôn lơ lửng  trên  đầu…   Hơn nữa, những ai đã   từng sống trong thời kỳ “cách mạng long  trời lở    đất” cũng dễ nhận thấy   là hai tác giả chủ yếu chỉ được nghe  kể lại   những cảnh  khủng khiếp thời   “cải cách” chứ chưa thật sự  sống trong   đó, nên có những chỗ  phản ánh   không thật sát thực tế,  dùng lời ăn   tiếng nói không phải thuộc về thời    ấy. Riêng Hoàng Minh  Tường còn đi   xa hơn thời “cải cách”, ông đã mở rộng   khung  cảnh xã  hội ra cả giai   đoạn sau này, muốn giúp độc giả thấy rõ   tính liên tục   của cả một thời   đại lịch sử. Đó là một ý định rất tốt,   nhưng vì mở  rộng quá nên  phần   sau của tiểu thuyết “Thời Của Thánh Thần”   hơi bị  loãng.
Còn tiểu thuyết sắp ra   mắt  người  đọc   nay mai, cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” của Trần Thế   Nhân mà  tôi  vừa   được xem bản thảo mới từ trong nước “vượt biên” ra   ngoài  thì chủ yếu   tập  trung phản ánh cuộc CCRĐ ở một vùng thuộc tỉnh    Thanh Hoá. Nhưng qua   những màn  “cải cách”, qua chuyện kể của các nhân    vật, đôi lúc tác giả   cũng nhẹ nhàng đụng  đến những chuyện về sau,    chuyện “hậu cải cách”.
Tác giả là một người đã   sống   trong   cuộc, cảm nhận sâu sắc nỗi đau của nhân dân và dũng cảm   phơi  bày sự thật    kinh hoàng trên những trang viết. Tôi vốn là “dân”   Khu  Bốn (9), có dịp   qua lại,  quen biết vùng được mô tả trong truyện,    biết rõ các “vị” mà   dân địa phương coi  là “hung thần cải cách”, như    Hồ Viết Thắng, Đặng   Thí, Chu Văn Biên… Ngay cả vài  nạn nhân trong    truyện tôi cũng đã từng   nghe tên, vì tác giả giữ tên thật. Còn  một số    nhân vật khác tôi hơi ngờ   ngợ là mình đã nghe đâu đấy, có lẽ vì lý  do   tế  nhị nào đó tác giả đã   đổi tên chút ít chăng. Cho nên tôi rất  xúc   động khi đọc  những trang   viết đượm đầy nước mắt trong “Ngày  Long Trời   Đêm Lở Đất”. Tôi có  thể   khẳng định rằng cuốn tiểu thuyết  này của nhà   văn Trần Thế Nhân đã dựa   trên  “người thật việc thật” mô  tả sự kiện   kinh hoàng đúng như nó đã   diễn ra, không  chút dè dặt, e  ngại, không   chút gượng nhẹ. Có thể độc   giả trẻ tuổi ngày nay khi   đọc nhiều cảnh   tượng hết sức lạ lùng, kỳ dị,   quái đản, rùng rợn quá  sức tưởng  tượng,   thì không thể nào hiểu nổi làm   sao trong cuộc sống  đã có thể diễn ra    những điều như thế được, đâm ra   nghi ngờ tính  chân thật của truyện.   Nhưng, than  ôi, những chuyện quái   đản như thế  hồi đó thật sự đã diễn   ra và diễn ra ở nhiều  nơi! 
Cố nhiên, đã là tiểu   thuyết  thì  tác   giả phải hư cấu. Điều hư cấu nổi bật nhất là Trần Thế   Nhân đã  dùng    “những người âm” của thế giới Bên Ấy để kể chuyện thật,   rất  thật của thế   giới  Bên Này. Tác giả dùng lối hư cấu đó vì… “Chết    thật rồi/ mới dám   nói/ Và Nói  Thật!” (Khúc Dạo Đầu). Lối hư cấu này    gần với tín ngưỡng   dân gian, gần với đạo  Phật, dễ được đại chúng  chấp   nhận. Có lẽ lối hư   cấu này cũng không xa khoa học  lắm khi gần  đây   các nhà vật lý học hiện   đại đã phát hiện ra “vật chất đen”…   Nhưng,   điều quan trọng đáng nói là   tác giả sử dụng lối hư cấu này  thật nhuần    nhuyễn đến mức người đọc thấy   mọi sự kiện, mọi tình tiết  trôi chảy   rất tự nhiên,  và câu chuyện rất   đau thương lại cuốn hút  mạnh tâm trí   người đọc từ đầu đến  cuối sách.   Chính nhờ lối hư cấu  này tác giả đã   mô tả được rất chân thật nội tâm    các nạn nhân của  những “Ngày Long   Trời Đêm Lở Đất” nửa thế kỷ trước.   Trong một  lá  thư gửi bạn, tác giả   tâm sự: khi viết tiểu thuyết này, tác   giả có  cảm giác  rất thật rằng   mọi lời nói, mọi sự kiện… trong tác phẩm   là  do chính người âm  đồng   hành, nhập vào tác giả mà kể lại.
Đọc “Ngày Long Trời Đêm Lở  Đất”, tôi      cảm nhận rằng Trần Thế Nhân đã thực hiện đúng thiên chức cao quý  của      người cầm bút để không tự nhốt mình trong cái “chuồng văn” tù  túng,   ngột   ngạt  với đủ loại ý thức hệ Mác-Lê, đảng tính, chủ nghĩa  hiện   thực xã   hội chủ nghĩa…  vớ vẩn, nhảm nhí, không tự ép mình phải  đi   theo “lề   phải” của kẻ cầm quyền, ông  mới có thể sáng tạo nên  một   thiên tiểu   thuyết – nói theo từ ngữ thời thượng  trong nước –  sáng giá   như vậy.   Sáng giá cả về tính chân thật, cả về mặt văn   chương. 
Bút pháp của tác giả bình   dị  mà  táo   bạo, trầm tĩnh, nhẹ nhàng mà da diết, xoáy sâu vào lòng   người  đọc. Lối    viết hình ảnh, bóng bẩy, ẩn dụ đôi khi xen vào những   triết  lý sâu xa.   Giọng văn  hóm hỉnh, châm biếm, hài hước, trào lộng   gây  hứng thú dù bức   tranh toàn cảnh  thật vô cùng ảm đạm. 
Có những câu nói thật   thà, thơ   ngây   của nhân vật lại rất thâm thuý, nêu lên được thực chất   của  những vấn đề    lớn. Chẳng hạn, câu nói mộc mạc của Thùy Dương, một    nhân vật nữ: “Ông   chồng yêu  quý của em có lần bảo Bác Mao viết kịch    bản. Nhà Hát tuồng   Thiên An Môn diễn  trước, rồi đưa sang Ba Đình Hà    Nội… Ta cứ thế mà làm   theo Tàu…”. Suy cho cùng,  câu nói đó phản ánh    sự thật nửa thế kỷ trước   và cả sự thật ngày nay, và cả  những gì  rất   đắng cay cho Đất Nước, cho   Dân Tộc ta nằm đằng sau sự thật khốn   nạn   đó nữa! Đúng thế, như chúng ta   đều biết, chính sự thần phục,  quỵ luỵ   đớn  hèn và sự lệ thuộc nhục nhã   của kẻ cầm quyền CS đối với  “Thiên   triều Đỏ” nửa  thế kỷ trước và cả   ngày nay đã gây cho Đất  Nước ta biết   bao tai ách, kể cả việc  mất đất,   mất biển, và hiện  đang đặt Dân Tộc   ta trước hiểm họa mất nước rành    rành!!
Cái nhìn của tác giả đối   với   nông   dân trong truyện rất công bằng: trong khi mô tả những “rễ    chuỗi” gọi là    “bần cố” có tính lưu manh, tham lam, độc ác, vô ơn vô    nghì, gieo oan   giá họa  cho người ngay, ông lại đưa lên hình ảnh  những   người nông dân   hiền lành bị Đội  ép buộc phải miễn cưỡng “tố  điêu” ở   “đấu trường” theo   lời mớm của Đội, nhưng  sau lưng Đội họ  vẫn lén lút,   thầm lặng giúp đỡ   cho người bị oan. Hồi đó mà dám  làm  như vậy thì   thật là liều lĩnh,   nhưng lương tâm thôi thúc họ phải  hành động  theo   tính người, theo tình   người, bất chấp hiểm nguy. 
Khác với mấy cuốn tiểu   thuyết  viết về   CCRĐ mà nhiều người  đã biết, như “Ba Người Khác” của   Tô  Hoài, “Nước   Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa  Đăng, “Thời Của Thánh    Thần” của Hoàng   Minh Tường, cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở  Đất” của Trần    Thế Nhân không   chỉ phơi bày rất rõ nét những tội ác tày trời  trong    CCRĐ, mà còn khéo   léo vẽ lên bằng những đường nét ẩn dụ để người  đọc   tinh  ý có thể liên   tưởng nhận ra được bộ mặt thật của những thủ  phạm   chính đã gây ra  tội   ác.
Nhà văn mở đầu thiên tiểu thuyết của mình bằng mấy chương kể lại câu chuyện bi thảm của nàng cung phi thời xưa. Nhưng chuyện xưa lại phảng phất bóng dáng một nàng “cung nữ” thời nay - thời “dân chủ cộng hoà” - cùng với “Đức Vua” và viên “Thượng Thư” đầy quyền lực cũng thời nay… Hoá ra, “khúc cung oán” thời nay lại ngậm ngùi, ai oán, bi thương, thê thảm hơn nhiều so với “Cung oán Ngâm Khúc” thời cụ Ôn Như Hầu Ng. Gia Thiều! Lối mở đầu như vậy làm người đọc cảm thấy dường như tấn thảm kịch đầy máu lệ của một con người bé nhỏ, yếu ớt lại mở đầu cho cả một loạt thảm kịch triền miên của nhân dân…
Chẳng phải ngẫu nhiên mà   trong     truyện tác giả đã nói rõ tuổi tác của “Đức Vua” «triều nhà   Nguyễn»:    «Năm ấy  Người đã 66 xuân». Nếu lấy năm 1955 là năm  xảy ra   cuộc CCRĐ  ở   huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá để tính, thì năm sinh của   “Đức Vua”  thời   nay nhằm đúng vào năm 1890. Một chi tiết khác –  «Sáu   năm  trước, Triều   đình đã xử chém  ngang lưng một viên quan tổng kho.   Dẫu  y là công thần,   đã từng theo gót chân Thiên Tử xông pha nơi lam    chướng ngàn trùng, vào    ra trong máu lửa, tên khuyển nho đầy tớ hoang    dâm vô độ này đã biển thủ    công quỹ và xài phí tài sản vương quốc để    cung phụng tiệc cưới xa hoa   của hắn….» – hoàn toàn ăn khớp với sự  kiện   ngày 5 tháng 9 năm  1950,   viên Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng  Cục   quân nhu của Quân đội Việt Nam    Dân chủ Cộng hoà bị xử tử theo  lệnh   của “Đức Vua”, vì tên này đã phạm   tội tham ô lãng phí, lấy của  công để   tổ chức đám cưới xa  hoa của y. Vụ   án này xảy ra đúng sáu  năm trước   cuộc CCRĐ ở Thanh Hoá hồi  năm 1955 mà   tác giả đã mô tả. 
Giọng  lưỡi của “Đức Vua”      «triều nhà Nguyễn» nói về mình với nàng cung nữ – “Lòng Trẫm nặng một      nỗi thương đau. Khanh  có biết chăng? Trẫm thương những con dân cơm    chưa   đủ no, áo chưa đủ ấm, bầy trẻ lớn lên chưa được cắp sách tới     trường…   Đất nước ngàn năm loạn lạc chinh chiến; may Trời cho còn lại    được ít    ngày thái bình yên vui… Vậy mà nay ngoại bang quay trở lại    xâm chiếm,    cắt chia. Chiến tranh lại tiếp nối chiến tranh. Nghe  tiếng   suối khóc,   lắng  tiếng gió than, lòng Trẫm càng não nề xót xa.  Trăng   càng sáng,   nước non xinh  đẹp càng tang thương, lòng Trẫm  càng nặng   nỗi lo cho dân,   chua xót niềm đau cho  xứ sở. Trẫm làm sao  nhắm mắt   ngủ yên?...” –  sao   mà giông giống giọng văn trong «Những   Mẩu Chuyện   Về Đời Hoạt Động… »   của… Trần Dân Tiên đến thế! 
Đó là  vài chi tiết về   “Đức    Vua”. Còn về nàng cung nữ thời xưa thì những nét chấm phá rất   nhỏ, như    «cái  áo màu xanh chàm kiểu bà ba không có túi,  cái váy dệt   thổ  cẩm dài   sát đất», «vẻ  đẹp sơn dã thâm u», «giọng nói của  đàn bà    phương Bắc»…   làm người đọc dễ  nhận ra đây chính là cô thôn nữ miền    núi, một đoá hoa   rừng Việt Bắc, thậm chí người am hiểu có thể đoán    được cả  họ tên cô   «cung nữ» bất hạnh thời nay. Ngay cả cái kết cục    đầy bi thương của  nàng   trong truyện không thể không làm cho ta liên    tưởng đến cái chết tức   tưởi  đầy oan nghiệt của người «cung nữ» thời    «dân chủ cộng hoà» mà cô   em của nàng đã  kể lại cho người chồng chưa    cưới của cô… 
Người viết những dòng này   cảm     thấy dường như những chữ, những câu sau đây  trong truyện cũng   nhắm  vào   một hay những đối tượng cụ thể nào đó: …“Tội  ác bọn Quỷ Thần    vòi   vọi/chồng chất đỉnh Muôn Năm!”...“Những cái gì trái phản  với Tự      Nhiên/dù bay có cố công vẽ tô xây đắp/thành đầu lâu Núi Tháp/rồi cũng    có    ngày rã tan đổ sập!/Chỉ cần nỗi oan khốc của một người đàn  bà/ngây   thơ   chân  thật/cũng đủ góp phần vào tiêu tan cả Ác  Nghiệp/của một Quỷ   Vương   Chí Linh Chí  Thánh Chí Thần!” (Khúc Dạo  Đầu),… hay… «Im  lặng.   Bỗng   nhiên họ nghe tiếng ai đó vọng lên: “Đời  là sân khấu của  những   tấn bi   hài kịch. Bốn ngàn năm lịch sử,  cái  người đóng kịch tài ba   điệu nghệ   nhất là ai các con có biết không?   Nó kia kìa! Các con không   thấy sao?   Khi phải  cười, nó cười; lúc cần  khóc, nó khóc. Cứ y như   thật. Và sân   khấu ngập  tràn máu, nước mắt.  Nó là người, chỉ là người   thôi. Vậy mà ma   xui quỷ khiến thế nào, ai  cũng coi nó là Chí Thần, Chí   Thánh?...”   (Chương 5)… hay lời của  Thùy Dương nói với Mai  Duy Vỹ:   «Bác ơi! Hồi còn   ở Bên Này, dẫu  nhiều khi sống lăng nhăng bậy bạ, cháu    vẫn ăn nói thật   lòng không  chút giả trá. Chị Uyên không am hiểu đời   sống xã hội    bằng cháu đâu.  Cháu biết rõ, cái lũ tự phong ta đây là   thần thánh, chẳng    có đứa  nào đáng được gọi là người, toàn một bọn chó   má, quỷ sứ, đồ ba   que  xỏ lá  cả!» (Chương 45). 
Đặc biệt là tác giả đã   giành     cả chương 41 để mô tả cuộc hội ngộ kỳ lạ như trong giấc mơ của   Mai Duy    Vỹ,  người tử tù của cuộc CCRĐ, với «Hoàng Thượng ngự trên   Ngai  Rồng   Đỏ» : «Muôn tâu Bệ hạ!...» - «Ta không phải là  Vua, chẳng   phải  Tổng   Thống… Ta là Đấng Chí  Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần,    Chí… (Đức Vua   kịp dừng lại,  suýt nữa thì Người nói thêm một chữ có    thể làm lộ mình   ra – người viết ghi  thêm). Ta đây! Ta là người nô bộc    trung thành của   muôn dân. Hãy nghe và trả lời  những câu hỏi của  ta!» 
Và cuộc đối thoại bắt đầu      giữa Mai Duy Vỹ, người tử tù, với «Đấng Chí Tôn». Sau khi buộc  tội    cho   Mai Duy Vỹ «Mi là thằng địa chủ phản  động, bán nước hại dân… » và    bị   người tử tù này khéo léo, lễ phép phản bác lại, cuối cùng «Đấng     Chí   Tôn» đuối lý đã phải nói: «…Ta biết anh vô tội, lòng anh trong    trắng.    Nhưng… ta không thể cứu anh được. Mà cho dù ta có muốn cứu    anh, ban lệnh   xuống  thì đã chắc gì quần chúng nhân dân người ta nghe    cho? Cải cở thủ   ti - CCRĐ là  cuộc Cách mạng lớn nhất trong lịch sử    đấu tranh giai cấp   của dân tộc, mang tầm  cỡ nhân loại… Trong cơn  trời   long đất lở này,   sóng thần Cách mạng đang ào ào  dâng cao, cuộn  tới,   bánh xe lịch sử đang   lăn đi...  Ai người bị cuốn trôi, nghiến  nát âu   cũng là lẽ thường tình.   Miễn sao Cách mạng  Thế giới đạt được  thắng   lợi cuối cùng! (Chữ đậm do   người viết nhấn mạnh). Có một  người phụ nữ   lòng dạ còn trong trắng tốt    đẹp hơn anh, còn đáng  thương, đáng quý   hơn anh ở cách đây không xa lắm…   Một người đàn bà!  Ta đau lòng nhắc   lại: Một  người đàn bà! (Ý nói bà   Nguyễn Thị Năm  chăng ?! – người viết   ghi  thêm) Anh đã nghe rõ chưa? Vậy   mà ta   cũng không cứu được! Mong   anh thông cảm cho  ta… » 
Nói xong, «Đấng Chí Tôn vụt biến. Trong mây mù còn vọng lại tiếng sấm rền  xa xa : Ta... không… thể… cứu anh  được!»…
Đoạn  trích trên đây nêu bật ý đồ sâu xa   của Đảng    Cộng sản khi làm CCRĐ không phải để  cho «người  cày có   ruộng» mà  chính   là để chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi trên toàn Thế giới,    đồng  thời nó   vạch trần cái nhẫn tâm, lòng tàn ác cũng như sự dối trá   của  các  «lãnh   tụ» Cộng sản. 
Có  thể nói, trong văn   chương  đương   đại thật là hiếm thấy ở các văn nghệ sĩ trong  nước ta   cái  thái độ dũng   cảm, thẳng thắn phê phán như vậy đối với kẻ cầm quyền     toàn trị. 
*
Xin nói thêm rằng, trong   thư  gửi    bạn, tác giả cho biết cuốn tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở   Đất”  đã   được  hình thành cách đây 10 năm, được tác giả chỉnh sửa   nhiều  lần, nay   coi như đã  xong. Vì lường trước được rằng khó có một   nhà  xuất bản nào ở   Việt Nam nhận in  tác phẩm này mà không phải gánh    chịu những rủi ro,   nên tác giả đã có ý định “bỏ  tủ khoá lại”. Nhưng,    sau khi vượt qua nỗi   sợ chính mình, lại gặp được “thiện  duyên”, tác    giả đã quyết định cho   “đứa con tinh thần” của mình xuất ngoại tìm     đường tự do để kể lại cho   đồng bào trong và ngoài nước, cũng như cho    toàn Nhân  Loại biết những   chuyện hãi hùng, khủng khiếp khôn cùng,    những đau thương, khổ  nhục ê   chề nơi Địa Ngục trần gian mà người  dân   Việt Nam đã và đang chịu đựng.
Cũng có thể ai đó nghĩ   rằng   chuyện   CCRĐ xảy ra đã hơn nửa thế kỷ rồi, kể lại làm chi cho   thêm  đau lòng, nên    quên đi thì hơn. Còn tập đoàn Cộng sản cầm quyền    đương thời thì luôn   miệng hô  hào nhân dân “quên quá khứ, hướng tới    tương lại”. Đó là một   thủ đoạn bịp bợm,  một chính sách ngu dân thực    thụ của kẻ cầm quyền xảo   quyệt. Vì một dân tộc quên  quá khứ thì  không   bao giờ có tương lai tốt   đẹp cả! 
Vả lại, quên làm sao được   khi   nỗi   oan khốc của hàng triệu con người không hề được giải toả, nó    ngấm sâu   vào  tiềm thức của Dân Tộc đã trên nửa thế kỷ rồi? Quên làm    sao được khi   những thủ  phạm chính gây ra tội ác không bị đưa ra ánh    sáng, khi cái   Đảng gây ra tội ác  không bị vạch trần, và Đảng ấy lại    không hề sám hối   và thề sẽ không tái phạm  nữa? Quên làm sao được  khi   ngày nay giữa thanh   thiên bạch nhật tập đoàn Cộng  sản cầm quyền  vẫn   ngang nhiên tiếp tục   dùng những thủ đoạn tàn bạo thời CCRĐ để   đối xử   với nhân dân? Những vụ   cướp đoạt ruộng đất, nhà cửa trắng  trợn, những    cuộc “đấu tố” các nhà   dân chủ ở phường, ở làng, những  cuộc “làm việc”   của công  an với tính   cách sách nhiễu, nhục mạ, hành  hạ đối với các   nhà trí thức dân chủ  bất   đồng chính kiến, việc sử  dụng bọn cặn bã xã   hội, bọn “xã hội đen”, giống    như “rẽ chuỗi” hồi  “cải cách”, để cùng   với công an “nhân dân” đánh đập   dã man  các nhà  tu hành, các giáo dân,   Phật tử, tín đồ Hoà Hảo, Tin   Lành, Cao Đài,  phá  chùa, phá nhà thờ,   đập nát Thánh giá, xúc phạm tượng   thờ, bao  vây suốt ngày đêm  nhà cửa   các chiến sĩ dân chủ không cho họ   đi lại  làm ăn, bao vây kinh tế không    cho họ sinh sống bình thường, ném   đồ  dơ bẩn thối tha vào nhà người   dân… tất cả  những chiêu thức độc ác,    đê tiện đó có khác chi thời   CCRĐ? Thậm chí, lối xét xử  của các toà án    “nhân dân” ngày nay đối với   các chiến sĩ dân chủ, đối với thanh   niên,   trí thức yêu nước dám lên   tiếng bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc  thì có khác    chi lối xét xử của các   toà án “nhân dân đặc biệt” đối  với các người bị   quy là  “địa chủ,   cường hào” hồi “cải cách”? Vẫn  cái lối buộc tội vu   khống, oan uổng,    vẫn cái cách xử độc đoán, độc  tài của “quan” toà, cố   tình trấn áp   không cho bị  cáo được nói, thậm  chí công nhiên bịt miệng   bị cáo trước   toà, cái lối xử mà bắt  bị  cáo chỉ được phép cúi đầu nhận   tội, không   cho tranh cãi, còn ai dám  phản bác  cáo trạng thì “quan” toà   hèn hạ   trả thù bằng cách tăng mức  án thêm nhiều năm  tù! Chính vì thế   chúng   ta không có quyền quên,  mà phải nhớ, nhớ mãi cái bài học  đắng cay   của   thời CCRĐ đã qua. Nhớ  không phải để trả thù ai mà để cho chính    mình   bớt ngu dại, bớt  ngây thơ, để khôn thêm, cảnh giác hơn, dũng cảm   hơn   và để  không còn  bị đánh lừa, không còn bị đè đầu cưỡi cổ nữa.
Tiểu thuyết “Ngày Long   Trời  Đêm  Lở   Đất” chắc sẽ giúp cho những ai đọc nó sẽ không quên mà   nhớ mãi  những    ngày đen tối, khủng khiếp của thời qua để tăng thêm   nghị lực  và quyết   tâm đấu  tranh cho một tương lai tươi sáng hơn,   không còn  bóng dáng   những kẻ nhân danh  chủ thuyết này, chủ nghĩa nọ,   tư tưởng  kia để đè   nén, áp chế, hành hạ, thậm chí  giết hại dân lành. 
Có thể coi cuốn tiểu   thuyết  này  là   một đài tưởng niệm không gì phá vỡ nổi, một nén tâm   hương thơm  ngát của    tác giả Trần Thế Nhân thắp cho vong linh các nạn   nhân của  chế độ Cộng   sản cực  quyền toàn trị ở nước ta! Đài tưởng niệm   và nén  tâm hương đó   làm ấm lòng người  Bến Ấy cũng như Bên Này!
Moskva, ngày 23 tháng 1 năm 2010,
nhân dịp kỷ niệm Ngàn Năm Thăng Long
Viết thêm vài đoạn ngày 31 tháng 5 năm 2010.
NGUYỄN  MINH CẦNnhân dịp kỷ niệm Ngàn Năm Thăng Long
Viết thêm vài đoạn ngày 31 tháng 5 năm 2010.
GHI CHÚ: 
1/   Tại kỳ họp thứ   ba của  Quốc Hội Việt Nam Dân Chủ Cộng  Hoà khoá 1 (tháng   12 năm 1953),   để  thông qua Luật CCRĐ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dõng dạc   khẳng định một    lần nữa khẩu  hiệu “người cày có ruộng” và tính chí nhân,   chí  nghĩa,    hợp lí hợp tình của cuộc CCRĐ. Ông nói: "Luật CCRĐ của ta   chí nhân,    chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là  làm cho cố nông,   bần  nông,   trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời  chiếu cố đồng    bào   phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ" (nguyên văn). Ngày    nay,   mọi người đều thấy rõ lời nói của “lãnh  tụ” Cộng sản kiêm Chủ  tịch     Nước khác nhau một trời một vực so với thực tế và việc làm của  những     người  Cộng sản! Thật đúng là “nói dzậy mà không phải dzậy”!
2/ Hồi đó, nông dân chiếm đến trên 90%  dân số của nước ta.
3/    Trong báo cáo   của Chủ  tịch Hồ Chí Minh trước Quốc Hội đã nói rõ địa   chủ chỉ có  5%   dân số  mà chiếm phần lớn ruộng đất ở nông thôn. Vì thế,   trong CCRĐ,   Đảng   chính thức quy định tỷ lệ địa chủ trong dân số nông   thôn là 5%.   Tỷ  lệ 5% đó dựa  trên cơ sở nào không ai biết, vì hồi đó   không hề có    một cuộc điều tra nào về  tình hình kinh tế, xã hội và ruộng   đất ở    miền Bắc Việt Nam. Nhiều nhà phân tích  cho rằng đó là nhận định   chủ    quan của các “lãnh tụ” Cộng sản theo kiểu  volontarisme (duy ý chí).      Cái tỷ lệ 5% này đã gây ra biết bao oan khốc cho  người dân, vì các  Đội     Cải cách phải cố sức “đôn” nhiều người lên “thành phần  địa chủ”  cho   đủ   số tỷ lệ!
4/    Số liệu này   trích từ bộ  “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” gồm 3   tập, do Viện   Kinh tế  Việt  Nam xuất bản tại Hà Nội – xem tập 2.
5/    Theo báo cáo   Cục quản  lý Lao động nước ngoài của VN, năm 2008 có trên   500 ngàn    người Việt  đang lao động tại hơn 30 nước trên thế giới. Từ năm   2005,   Đài Loan,   Nhật Bản, Hàn Quốc và Mã Lai bắt đầu nhận người Việt   “xuất   khẩu  lao động”. Báo  cáo còn cho biết trong vài năm tới, số lao   động    “xuất khẩu” có thể sẽ tăng lên  đến một triệu. 
6/    Theo tài liệu   năm 2008  từ Văn phòng Kinh tế Văn hoá Đài Bắc tại Việt   Nam, có  khoảng   770  ngàn cô gái Việt Nam sang Đài Loan “làm… dâu”! Đáng   chú ý là   trong   số đó, phụ nữ miền Tây Nam Bộ (vốn là vùng có cuộc sống   trước   năm  1975 tương  đối sung túc) bị bán qua Đài Loan chiếm tỷ lệ cao   nhất    so với các tỉnh thành  trong nước. Báo chí ở một vài nước sở tại   cho    biết nhiều côbị đánh đập, bị bỏ đói, bị buộc  phục vụ sinh lý cho cả      gia đình hoặc bị bán cho các “động” mãi dâm. Một số cô  không chịu  được     nhục nhã đã tự tử, hoặc phản ứng lại và bị đánh chết! 
7/    “Anh Lành nhưng   dạ  chẳng lành” là một câu vè về Tố Hữu lưu truyền   trong giới  văn   nghệ  sĩ hồi ông ta còn sống, ám chỉ những vụ đàn áp tàn   nhẫn trí thức,    văn  nghệ sĩ dưới thời ông. 
8/    Ý nói thuế nông   nghiệp  là nguồn thu chính của chính quyền, được áp   dụng hồi đó  (từ   năm  1951) ở nông thôn miền Bắc Việt Nam. Đây cũng là   một cơn ác mộng   nữa   đối với nông dân, vì thuế đánh theo lối lũy tiến,   nghĩa là thu    hoạch được nhiều  thì phải nộp thuế cao hơn gấp bội. Nếu   không nộp đủ    thuế thì người nông dân bị  đày đọa đủ cách, thậm chí bị bỏ   tù. Và  nếu   không  muốn bị ở tù thì nông dân đành  phải mang trâu bò ra   bán,  hết   trâu bò thì phải bán đến nữ trang, đồ vật trong  nhà, thậm chí    cả   những đồ tế tự trên bàn thờ, v.v… để nộp thuế. Những cuộc “bình  diện     tích” và “bình sản  lượng” nhằm tính số lượng thu hoạch để định  mức thuế     chủ ruộng phải nộp đều do  các đảng viên Cộng sản mớm cho  các cốt cán     bần cố nông “phát giác” để tăng mức  thuế lên và gán ép  cho chủ ruộng     nhắm “đánh” vào lớp người hữu sản ở nông thôn.  Trong  tác phẩm   “Chuyện   Làng Ngày Ấy” (xuất bản năm 2006), nhà văn Võ Văn  Trực  đã mô   tả rất rõ   nét những cảnh cưỡng bức trắng trợn nông dân  đóng thuế hồi   đó.
9/ Liên khu Bốn hồi đó có   sáu    tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An,  Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa      Thiên-Huế. Ba tỉnh phía Nam vì hoàn cảnh  bị chiếm, hợp thành Phân khu      Bình Trị Thiên, ở trong Khu Bốn.

Hồ Chí Minh Tội Đồ Số Một, 
Thủ Phạm  Chủ Yếu 
Của Cải Cách Ruộng Đất
Của Cải Cách Ruộng Đất
 

 
 
 
 
 
 
 
 
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...