Lê Tùng Châu tổng hợp và từ tài liệu riêng, July 3, 2016
$pageIn
In this Post:
- Tin Nhà Văn Dương Nghiễm Mậu Qua Đời Tại Sài Gòn, Thọ 81 Tuổi - Việt báo 03/08/2016
- Sơ Lược Thân thế và Văn nghiệp Dương Nghiễm Mậu by Thụy Khuê.
- Trích văn: ảnh chụp nguyên bản Truyện ngắn “Rượu, Chưa Đủ” của Dương Nghiễm Mậu đầu tiên in trên Tạp chí Sáng Tạo Xuân Kỷ Hợi Saigon 1959 [tài liệu riêng của LTC ==> tôi đang làm và sẽ post nguyên bản Tạp chí Sáng Tạo số Xuân Kỷ Hợi 1959 dưới dạng ảnh trong nay mai, xin bạn đọc đón theo dõi]
- Bài của nhiều văn hữu viết về Dương Nghiễm Mậu [by Mai Thảo (1927-1998) viết năm 1984, Nguyễn Văn Trung 1962, Trần Hoài Thư 2013, Ngô Thế Vinh 2015, Nguyễn Lệ Uyên 2012, Khuất Đẩu 2012].
- Bốn bài bút ký được viết về 4 biến cố lịch sử của miền Nam [nguồn by Trần Hoài Thư]
1) Thời Phật giáo tranh đấu, Nhất Linh tự tử.
2) Mậu Thân 1968
3/ Mùa hè đỏ lửa năm 1972
4/ Bài viết trên báo Thời Tập số cuối cùng (tháng 4.1975).
Chúng tôi tin rằng những bài bút ký này rất hiếm quí, không thể tìm ở trên NET. [trích lời nhà văn Trần Hoài Thư]
- 4 giai đoạn lịch sử dưới ngòi bút của Nhà văn Dương Nghiễm Mậu [by Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo sưu tầm]
* * *
WESTMINSTER - SAIGON (VietBao) -- Nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã qua đời lúc 21 giờ 35 phút tối, giờ VN, ngày 2 tháng 8 năm 2016 (nhằm ngày 30 tháng 6 năm Bính Thân) tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi, theo tin của phu nhân nhà văn Dương Nghiễm Mậu là bà Ngọc Trang điện thư cho nhà văn Nhã Ca, Chủ Nhiệm Sáng Lập Việt Báo, hồi sáng Thứ Ba, 2-8-2016.
Theo bà Ngọc Trang, nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã vào bệnh viện 2 ngày thì mất vì nhồi máu cơ tim. Cũng theo bà Ngọc Trang, trước đó nhà văn Dương Nghiễm Mậu vẫn sống bình thường không có triệu chứng gì.
Nhà văn Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại quê nội làng Mậu Hòa (quê ngoại làng Dương Liễu), huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Từ 12 đến 18 tuổi sống ở Hà Nội. Học tiểu học ở trường Hàng Than, trung học, Chu Văn An, viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. 1954 di cư vào Nam với gia đình, năm đầu ở Huế, năm sau ra Nha Trang, hè 1957 vào sống hẳn Sài Gòn .
Từ 1957 trở đi viết nhiều: tạp văn, tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Tiểu thuyết đầu tay Đầy tuổi tôi đăng trên tạp chí Văn Nghệ từ số 2, tháng 3/1961 (sau in thành sách đổi tên là Tuổi nước độc, Văn, 1966), truyện ngắn Cũng đành in lần đầu trên báo Tân Phong của Trương Bảo Sơn; truyện ngắn Rượu chưa đủ, trên Sáng Tạo (bộ cũ, số 28-29 tháng 1-2/1959) đã xác định phong cách văn chương Dương Nghiễm Mậu. Từ 1962, làm tạp chí Văn Nghệ với Lý Hoàng Phong, đồng thời viết cho Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Tin Sáng, Văn, Văn Học, Bách Khoa, Giao Điểm, Chính Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ, Sóng Thần… Tập truyện ngắn đầu tay Cũng đành do tạp chí Văn Nghệ xuất bản năm 1963. Truyện dài Gia tài người mẹ (Văn Nghệ, 1964), được giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc (miền Nam), 1966.
1966 nhập ngũ. Từ 1967 làm phóng viên quân đội đến 30/4/1975. Lập gia đình năm 1971, với cô Hồ Thị Ngọc Trang, giảng viên Anh ngữ. Sau 30/4/1975 bị bắt giam. 1977 đươc tạm tha. Từ 1977, học nghề sơn mài và sống bằng nghề này tại Sài Gòn.
Tác phẩm đã in:
Truyện ngắn: Cũng đành (Tạp chí Văn Nghệ, Sài Gòn, 1963), Đêm (Giao Điểm, 1965), Đôi mắt trên trời (Giao Điểm, 1966), Sợi tóc tìm thấy (Những tác phẩm hay, 1966), Nhan sắc (An Tiêm, 1966), Kinh cầu nguyện (Văn Xã, 1967), Ngã đạn (Tân Văn, 1970), Cái chết của… (Văn Xã, Sài Gòn, 71; An Tiêm, tái bản, Paris, 2001)…
Truyện dài: Gia tài người mẹ (Tạp chí Văn Nghệ, 1964), Đêm tóc rối (Thời Mới, 1965), Tuổi nước độc (Văn, 1966), Phấn đấu (Văn, 1966), Ngày lạ mặt (Giao Điểm, 1967), Gào thét (Văn Uyển, 1969), Con sâu (Sống Mới, Hoa Kỳ, không đề năm)…
Những tác phẩm khác: Địa ngục có thật (bút ký, Văn Xã, 1969), Quê người (Văn Xã, 1970), Trong hoang vu, Tên bất lực, Kẻ sống đã chết, v.v…
(by Thụy Khuê 2004)$pageOut$pageIn
Truyện ngắn đầu tiên có tựa đề “Rượu, Chưa Đủ” của Dương Nghiễm Mậu xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo Xuân Kỷ Hợi 1959 [tức Sáng Tạo bộ cũ, số 28-29 tháng 1-2/1959]. Nhà văn Mai Thảo, chủ nhiệm Sáng Tạo thời ấy là người chọn đăng “Rượu, Chưa Đủ”, và ông cho biết tại sao ông lại có được truyện ngắn này để đăng trên tạp chí Sáng Tạo do ông chủ trương mặc dù Dương Nghiễm Mậu không gởi cho Sáng Tạo:
Tạp chí Văn - USA, 1984
Khoảng cuối thập niên 50 và bắc cầu sang đầu thập niên 60 – cây cầu đến nay còn soi bóng tuyệt đẹp trên dòng sông đất nước – những tấm lòng đồng chí với những phá vỡ và những làm mới của văn học và cho văn học, đã được liên tiếp chứng kiến gần như trong cùng một thời điểm, hai cuộc lên đường đi về những chân trời phía trước của một thế hệ những người cầm bút ở miền Nam.
Lên đường thứ nhất khởi sự từ Lên Đường Lớn: từ hiệp định chia đôi đất nước, từ Bến Hải và vĩ tuyến 17, theo những bước chân trùng trùng của di cư một triệu. Đội ngũ tiền phong của nó là Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Cung Trầm Tưởng, Hoàng Anh Tuấn và Nguyên Sa, những người trước vào từ miền Bắc, bài thơ thứ nhất viết dưới những mái lều vải tạm trú của sinh viên, hai người sau "viễn phương" hơn, lên khỏi những hầm rượu tả mạn sông Seine, mới từ Pháp về. Những vì sao đầu này của một vòm trời văn chương vừa dựng thoạt đầu là những lấp lánh lẻ tẻ. Trên tờ Dân Chủ của Vũ Ngọc Các, tờ Đời Mới của Nguyễn Đức Quỳnh, Trần Văn Ân, từ Lửa Việt, Người Việt của sinh viên Hà Nội di cư. Rồi sau cùng đến với nhau thành một họp mặt chung trên tờ Sáng Tạo.
Lên đường thứ hai, đã thấp thoáng trong dấu chân lên đường thứ nhất, nên có thể coi như một đồng hành, làm một gờm thành đầy khí thế của những người viết trẻ, tất cả đều ở tuổi hai mươi, và diễn đàn chính của họ là tờ Văn Nghệ, chủ nhiệm Lý Hoàng Phong, anh ruột nhà thơ Quách Thoại. Họ là Viên Linh, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Du Tử Lê, Đỗ Quý Toàn, Trần Đức Uyển, là Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Nghiệp Nhượng. Và một người viết mới, tuy cùng một lên đường với bằng hữu nhưng độc lập, tách biệt, như đi một mình trên con đường riêng. Đó là Dương Nghiễm Mậu.
Những người của hai lên đường làm mới văn học nói trên, đến nay tuy đã mấy chục năm, nhưng với phần lớn tôi đều giữ được những kỷ niệm về lần đầu gặp mặt. Kỷ niệm với mỗi người mỗi khác. Thanh Tâm Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ, hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ. Nguyên Sa cái mũ trắng thầy giáo, lần đầu tới Sáng Tạo, gọi tôi vào phòng trong dậy một điệu nhảy swing. Cái áo thun cũ, cái quần sà lỏn của Doãn Quốc Sĩ, bữa ăn trưa đãi tôi ở Đại Học Xá. Cung Trầm Tưởng, cái cà-vạt đỏ chói, tóc đỏm dáng từng sợi. Viên Linh mặt mày cau có giận dữ vì đến đưa thơ tôi còn ngủ vùi, cửa toà báo treo tấm biển đi vắng. Trần Thanh Hiệp không nhìn lên, vùi đầu vào cuốn tự điển to gấp hai người Hiệp. Quách Thoại, cái anh chàng khả ố ngất ngưởng ở tiệm ăn Thanh Thế, lần gặp đầu đã tự nhận là vua thơ một thời. Nhưng kỷ niệm về lần thấy đầu, biết đầu với Dương Nghiễm Mậu là vô tình và lý thú nhất, sau này tôi kể chuyện lại, anh em còn cười lớn với nhau.
Nhớ đó là một buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé vào thăm một diễn đàn bạn. Người bạn đang cắm cúi làm việc. Tôi kéo ghế ngồi hút thuốc lá, thấy ở cạnh mình một cái sọt rác đựng đầy những bản thảo gởi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt những tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy là một bản thảo truyện ngắn. Tôi đọc mấy dòng đầu, giật mình vì lối vào truyện mạnh dạn, mới lạ, khác biệt hẳn với lối vào truyện vòng vo ngập ngừng thường thấy ở những người viết mới. Đọc tiếp mấy trang nữa; tôi hỏi người bạn: "Bỏ đi tất cả đây à?" Người bạn không ngửng đầu lên: "Ừ, đã đọc rồi bỏ không đăng" "Moi lấy đi được không?" "Để làm gì vậy?" người bạn ngạc nhiên hỏi. "Mặc moi" tôi nói, và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn bạn vào túi áo, trở về đăng ngay nó và nguyên văn không sửa một cái dấu phẩy trên tờ Sáng Tạo số đang làm. Người bạn tôi, chỉ biết thấy giá trị những tác giả đã thành danh, không thấy được những hạt ngọc lóng lánh lăn ra từ những cõi viết còn vô danh chưa tên tuổi đã liệng đi cái hạt ngọc văn xuôi ấy là truyện ngắn Rượu Chưa Đủ, truyện đầu tay của một người trẻ tuổi mới viết văn bấy giờ là Dương Nghiễm Mậu. Hạt ngọc bị vất bỏ ấy và tôi đã tình cờ lượm được, đúng là một hạt ngọc. Bao năm rồi không đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện chỉ nhớ cái chàng nào đó với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở Rượu Chưa Đủ một đoạn văn kết thúc tuyệt hay. Đoạn văn tả người anh đến đón em ở viện mồ côi. Hai anh em cùng mồi côi cha mẹ từ sớm. Hai anh em đi lang thang một ngày trong thành phố, không có một đồng xu nhỏ. Buổi chiều, trước khi đưa em trở về viện, người anh dẫn em vào một công viên, yên lặng lấy đất đắp thành những mô hình sông núi quê hương, thầm nghĩ hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò chơi đắp hình, sông núi với em, để có được cùng em, dù một cách rất tội nghiệp buồn rầu, một ý niệm về điểm tựa, về nguồn gốc. Thật là chửng chạc và cũng thật là cảm động. Đó là truyện ngắn thứ nhất của Dương Nghiễm Mậu.
Sau này, ngắm nhìn một Dương Nghiễm Mậu đã nhanh chóng nổi tiếng, đã có hàng chục tác phẩm được in ra, có được thêm những nhận thức mới về cõi văn sáng rỡ một tâm thức thời đại vô chừng nghiêm chỉnh hiếm thấy ở một người viết trẻ, tôi vẫn mãi mãi nhớ đến hai đứa bé mồ côi đắp hình sông núi quê hương trong sáng tác Rượu Chưa Đủ tôi lượm được trong sọt rác một toà báo của Mậu. Một công viên vắng lặng. Công viên đó chính là hình ảnh con đường văn chương Mậu đã mở ra và đi trên đó, một mình. Những mô hình sông núi quê hương. Đứa nhỏ mồ côi nghiêm chỉnh, sớm hiểu biết, ý thức trong truyện cũng chính là Dương Nghiễm Mậu, đã đắp xong và rất hoàn chỉnh, những mô hình sông núi cho cõi văn, cõi viết của mình.
Tuần lễ trước đây, ở một lá thơ của một người bạn thân gởi sang từ Sàigòn, có một đoạn bạn tôi vắn tắt cho hay về Dương Nghiễm Mậu sau 1975. Dương Nghiễm Mậu không đi năm 1976, phải trình diện học tập cải tạo, bị giam ở trại tập trung Phan Đăng Lưu Gia Định, hơn một năm sau được thả về cùng một đợt với Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Hiệu, Nhã Ca. Thư kể Mậu bây giờ làm việc ở một xưởng sơn mài thành phố, vẫn sống cùng vợ con trong ngôi nhà cũ vùng ngoại ô Trương Minh Ký, một đời sống từ lâu đã biết làm cho đơn giản đến tận cùng khiến nghèo túng đến mức nào cũng không còn là thảm kịch, và dẫu ở cảnh ngộ nào cũng thư thái ung dung. Thư kể Mậu đi bộ khoan thai trên hè phố, cái dù đen nơi tay, cái nhìn hóm hỉnh, nụ cười tươi tắn. Đúng là Dương Nghiễm Mậu, vẫn là Dương Nghiễm Mậu ấy, sau Rượu Chưa Đủ đến tìm tôi và đưa thêm những truyện mới, những sáng tác mở đầu cho sự nghiệp văn chương tốt đẹp này của Mậu đều được trang trọng giới thiệu trên tờ Sáng Tạo Bộ Cũ và Bộ Mới. Nụ cười tươi tắn, cái nhìn hỏm hỉnh. Đúng là Dương Nghiễm Mậu, độc lập một trời riêng, tách biệt một đường riêng, phản chiếu trong văn viết và trong một tấm hình nổi tiếng độc đáo của Trần Cao Lĩnh, Mậu nhắm mắt mĩm cười dưới một mặt kim đồng hồ kim phút kim giờ cùng ngộ nghĩnh rớt xuống.
Sau biến cố 1975, trước khi bị truy nã và do đó đứt hết liên lạc bằng hữu, tôi còn gặp Dương Nghiễm Mậu nhiều lần. Một lần ở cổng xe lửa số 6. Trời râm mát mà tác giả Địa Ngục Có Thật vẫn chiếc dù đen trong tay, như một vật tùy thân. Mừng rỡ đứng lại trò chuyện giữa tan hoang Cộng Sản đã vào. Mậu cười nói với tôi: "Nhiều chuyện lạ lắm sắp xảy ra, đây chỉ là bắt đầu và anh em mình sắp nhìn thấy". Rồi kể là đã sắp đặt tức khắc xong xuôi đời sống. Đã đơn giản còn chỗ đơn giản hơn nữa. Đã thu hẹp còn cho thu hẹp hơn nữa. Để lúc nào phải đi thì đi.
Ít lâu sau, quả nhiên Dương Nghiễm Mậu đã "phải đi", cùng với anh em văn nghệ sĩ miền Nam. Đi thẳng vào trại tập trung Phan Đăng Lưu. Một lần khác, gặp trên hè đường Tự Do, xế cửa nhà sách Xuân Thu. Mậu, một cây dù Tú Xương, tay kia xách một túi giấy, nói ở trong là một cái chăn len, đồ dùng quý nhất còn lại trong nhà, và Mậu đang trên đường ra chợ trời Tôn Thất Đạm bán lấy ít tiền đem về cho vợ mua gạo. Kể chuyện khốn quẫn mà cười thật vui, nét mặt sinh hoạt, ánh mắt riễu cợt. Sau 1975, tôi đã nhìn thấy ở nghệ sĩ ta một số bản lĩnh chói loà. Những phong thái trầm tĩnh, những bản ngã dũng liệt, trong nghịch cảnh mới như một đường kiếm tuốt ra khỏi vỏ, mới lấp lánh hiện hình. Nhưng tươi tắn, vững vàng và trong sự trẻ trung đặc biệt, gần như không có tuổi, thì là Dương Nghiễm Mậu thôi. Chỗ này là chỗ nói đến võ công thâm hậu, đến tư duy đạt thành và kín thầm nhưng đoán thấy, sự kiêu hãnh tuyệt của người nhà văn nơi Dương Nghiễm Mậu.
Lần sau cùng gặp, thời gian này Mậu vừa được trả tự do, là chiếc dù đen hiền triết tôi nhìn thấy ở trước rạp chiếu bóng Trương Minh Giảng. Lần đó, kẻ bên này đường, kẻ bên kia, tôi đang bị truy lùng ráo riết, nên chỉ nhìn nhau gật đầu, vẫy tay chào không ai đứng lại. Khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng tôi nhớ vừa đi vừa còn nhìn lại, nhìn cây dù đen văn chương xa dần, lòng đầy quý mến.
Bạn hữu còn kể ít nhiều chuyện về hơn một năm lao tù của Mậu ở Phan Đăng Lưu. Như về cái thái độ trầm tĩnh của Mậu đã có một ảnh hưởng rất tốt đẹp với anh em cùng tù, đặc biệt là với Nhã Ca, bao nhiêu năm vẫn trước sau kính trọng Dương Nghiễm Mậu như một người anh lớn. Biết Nhã Ca ngạo ngược nóng nảy, Mậu vắn tắt khuyên: "Cô còn phải trở về nuôi tụi nhỏ", và kèm sát Nhã Ca trong những buổi học tập kiểm thảo. Phải nên có thái độ nào cho đúng, kiểm thảo như thế nào mới là khôn ngoan, an toàn, nhất nhất Nhã Ca đều chịu nghe theo những chỉ dẫn của anh "Dương Nghiễm Mậu". Một chuyện ngộ nghĩnh về Phan Đăng Lưu: Buổi sáng hai anh em được trả tự do, Nhã Ca có người đến đón ở cửa trại, Mậu không có ai, Nhã Ca còn 5 đồng trong túi, Mậu không có một đồng nào. Nhã đưa cả 5 đồng cho bạn, để đi xe. Mậu cầm tiền cười lớn: "Anh là ông vua đi bộ ở Sàigòn, cần gì xe cộ nữa" và dùng 5 đồng của Nhã Ca ung dung vào quán uống cà phê. Chi tiết này đủ cho thấy bản lỉnh Dương Nghiễm Mậu trong nghịch cảnh.
Một chuyện ngộ nghĩnh khác, vẫn về Phan Đăng Lưu. Chẳng hiểu vì lý do nào cùng với Lê Xuyên tác giả Chú Tư Cầu, Mậu là một trong hai tù nhân văn nghệ bị quản huấn bỏ quên lâu nhất. Mãi gần nửa năm sau, mới được gọi tên. Cuộc thẩm vấn tức cười không thể tả được:
- Dương Nghiễm Mậu. Tên thật Phí Ích Nghiễm.
- Sao lại những hai tên?
- Một tên cha mẹ đặt. Một tên vì nghề nghiệp.
Quản huấn lắc đầu, Mậu không có một hồ sơ tội phạm. Đành hỏi:
- Anh bị bắt vì tội gì?
- Tôi không biết.
- Vô lý. Phải có tội mới bị bắt. Anh làm nghề gì?
Mậu nửa đùa nửa thật:
- Nghề văn nghệ sĩ.
Tên quản huấn dốt nát chẳng hiểu nghề văn nghệ sĩ là cái nghề quỷ gì, nhưng nét mặt rạng rỡ:
- Có thế chứ. Vậy tôi ghi vào hồ sơ tội trạng anh, anh nhớ kỹ nhé, tội anh là tội văn nghệ sĩ.
Tội văn nghệ sĩ. Tếu thật. Nhưng cũng là sự thật. Tác phẩm Dương Nghiễm Mậu, sau 1975, cũng bị đem ra trưng bày tại phòng Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy như sách của chúng tôi. Nội dung những tác phẩm Dương Nghiểm Mậu cũng bị đem ra mổ xẻ và đả kích thậm tệ ở các lớp học, các buổi họp và trên đài phát thanh Cộng Sản. Cái "tội văn nghệ sĩ" do tên quản huấn dốt nát định cho Mậu ở buổi thẩm vấn Phan Đăng Lưu, tôi biết. Mậu công nhận và còn thầm công nhận mãi. Như một ở cùng cảnh ngộ với bằng hữu. Như một tin tưởng vĩnh viễn ở chính mình, và qua bản thân, ở văn chương. Văn chương với Dương Nghiễm Mậu, mang ý nghĩa tốt đẹp nhất và toàn vẹn nhất của một tự thành. Con đường đi vậy là trước sau thông suốt. Những bước chân đi trên con đường ấy vậy là đã tới. Tôi vẫn nghĩ trở lại cái truyện ngắn đầu tay Rượu Chưa Đủ của Dương Nghiễm Mậu tôi nhặt được trong một cái sọt rác và đăng lên một số Sáng Tạo năm nào. Đứa trẻ mồ côi im lặng đào đất chơi trò đắp hình sông nước quê hương. Trò chơi tuyệt vời ấy đã hoàn tất. Nó cũng là cái trò chơi chúng ta cùng nhìn thấy là tuyệt vời và đã hoàn tất, bằng văn chương của người viết văn đi một mình trên con đường mình là Dương Nghiễm Mậu.
Tin nhà đưa sang cho biết hiện giờ nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã trở thành công nhân một xưởng sơn mài thành phố. Bằng hữu văn nghệ ở Sài Gòn gần như trên hết thảy đã ngừng viết và đã phải đổi nghề. Để sống. Để có lao động, để được yên thân. Nghe nói Nguyễn Thụy Long đi đạp xích lô. Nghe nói Trần Lê Nguyễn bán sách cũ. Nghe nói Nguyễn Đình Toàn nuôi thỏ nuôi gà ở làng Báo Chí cũ. Tất cả đểu dãi dầu, tất cả đều sương nắng. Nghe những tin nhà về bạn bè, thấy lòng xót xa buồn rầu, nhìn thấy những khổ cực đang chồng chất lên những thân thể chữ nghĩa thất thế và đang phải sống giữa chế độ hiện giờ của chúng ta. Riêng nghe tin Dương Nghiễm Mậu bây giờ làm công nhân một xưởng sơn mài thành phố, không hiểu sao tôi lại thấy vui vui và muốn cười. Có lẽ vì Dương Nghiễm Mậu bao giờ cũng đến với tôi bằng khuôn mặt đó. Khuôn mặt một người nhắm cả hai mắt lại, cho cái nhìn trở thành cái nhìn bên trong, cái nhìn tâm hồn, và nụ cười tủm tỉm hóm hỉnh là chân dung Mậu ở tấm hình chân dung ngộ nghĩnh của Trần Cao Lĩnh. Cũng có lẽ vì tôi thấy Mậu vững chãi nhất, chẳng phải buồn phiền và xót xa cho hắn.
Công nhân một xưởng sơn mài thành phố. Cây dù đen Tú Xương. Đúng là cảnh "Sáng vác ô đi tối vác về" rồi nhé. Dương Nghiễm Mậu! Những tấm sơn mài. Cây dù bên cạnh. Tôi đang hình dung ra Dương Nghiễm Mậu ngồi một mình một góc trong một xưởng thợ Cộng Sản, trước những tấm sơn mài ấy. Muốn hỏi Mậu ở Việt Nam nghìn dặm : "Những tấm sơn mài ấy có vẽ hình sông núi quê hương?" Chắc là có. Chắc là có. Không trên tranh thì trong tim, trong hồn, trong thức, trong ý. Và cái nền của sơn thì vẫn là một con đường. Con đường đi qua đời sống. Con đường đi qua văn chương. Con đường đẹp nhất, vì con đường thẳng tắp. Con đường đẹp nhất, vì là con đường một mình. Cuối cùng là đứa trẻ mồ côi trong truyện ngắn đầu tay Rượu Chưa Đủ của Dương Nghiễm Mậu sự thực không bao giờ mồ côi. Mồ côi là những kẻ khác kia.
MAI THẢO
[Nguồn: bài đăng trên trên tạp chí Văn, California, Hoa Kỳ, số ra tháng 12 năm 1984]$pageOut$pageIn
by Nguyễn Văn Trung
Cứ để ý ngay những đầu đề truyện ngắn của một số nhà văn trẻ bây giờ, cũng có thể thấy được sự khác biệt về ý-hướng sáng tác của họ và những người lớp trước.
Tiểu thuyết không phải là tả cảnh, tả tình nhưng là một suy nghĩ. Do đó truyện không còn phải là một giải trí, nhưng là một sự thức tỉnh đưa tới nhận định về cuộc đời.
Sự thay đổi ý-hướng đó có thể làm cho nhà văn không cần bận tâm về cốt truyện hay tình-tiết ly-kỳ, rùng rợn hay phức-tạp bi đát. Cốt truyện hay không phải là chủ-yếu của truyện vì sự suy nghĩ có thể khởi điểm từ bất cứ một sự việc nhỏ mọn, tầm thường nào. Do đó, đọc truyện, không còn đi tìm cốt truyện hay, nhưng là xem sự thức tỉnh đạt tới một chiều sâu đến đâu trong việc tra hỏi về ý nghĩa cuộc đời.
Cốt truyện của Dương-Nghiễm-Mậu không có gì đáng kể, nhưng cái hay của nó chỉ ở những suy tư của nhân vật chính là tác giả.
Tác-giả kể một người thanh niên có cái bướu ở cổ vì thế không đi dự dạ hội được với một người con gái mình yêu. Chính người con gái này cũng không muốn đi với Hạnh, tên người thanh niên. Cái bướu là dịp để Hạnh nhận định về số phận ở đời của mình, và câu chuyện trình bày sự hành-trình nhận thức đó của Hạnh.
Kỹ-thuật diễn tả độc-thoại nội tâm, Hạnh suy nghĩ tự hỏi để dần dần khám phá thấy một ý nghĩa cuộc đời. Rất nhiều đoạn trong truyện là một thứ nói chuyện với chính mình: tự tra hỏi và trả lời,…
Ví dụ: “Sao nó lại có ? Sao nó lại lớn ? Rồi có lớn đến chừng nào ? Trong làn da mỏng này là cái gì ? Cái kiếp trước của mình ư ?”
Hay: “Cái sự thực này làm anh không đến được với em và em run sợ nó. Không tại em, không tại anh, tại cái gì ? Tại người ta ư ? Hay tại cái kiếp trước của anh ?”
Hạnh nhận thấy rằng cái bướu là một sự thừa thãi ở trên thân thể anh, là một quái gở phi lý mà mọi người muốn chối bỏ. Nếu Hạnh sống có một mình ở đời này thì không sao, chàng sẽ nuôi nấng nó, giữ nó lại được.
“Nhưng tôi còn có những ràng buộc vây quanh, nên nó là kẻ xa lạ, một sự quái gở, một hiện tượng quái gở mà mọi người chỉ mặt gọi tên nó”.
Chính vì Hạnh còn có Thúy, người yêu, và xã hội chung quanh mà Hạnh muốn vứt bỏ cái bướu đi. Nhưng có thể vứt bỏ được không? Hạnh đi tìm những lý do có thể đưa tới những giải đáp. Đó có phải là di truyền, do cha mẹ chàng để lại không? Hạnh đi tìm xem lại những ảnh cũ của cha mẹ bây giờ đã mất, không thấy họ có. Hay tại kiếp trước của chàng?
“Anh là kẻ độc ác nham hiểm đã ra cửa này vào cửa kia cho người ta thù ghét và đánh dấu không cho lẩn mặt. Người ta đã điểm danh anh rõ ràng là hiện thân một sự nối tiếp đày ải mà bây giờ anh phải gánh chịu?”
Khoa học bây giờ có thể giải quyết được không? Hạnh đi tìm bác sĩ, nhưng họ xem mà không chữa vì đó là triệu chứng của ung-thư, không nói cho Hạnh biết ; tuy nhiên điều đó cũng làm cho chàng đoán được và buồn rầu bực bội trước một bất lực của khoa học. Hạnh có cảm tưởng đây là một số kiếp, định mệnh không thể tránh được và nhất là không được lựa chọn. “Anh cũng như mọi người không được quyền về sự sinh ra mình”. Nhưng Hạnh cũng nhận thấy: “Anh không thể không được quyền với thực tại”. Hạnh muốn thay đổi số phận, và ít ra, đó cũng là một lựa chọn theo ý muốn của chàng. Hạnh nghĩ đến việc đi tự tử. “Ít nhất ra tôi đã tự chọn cái chết”, tôi đã trách nhiệm một cuộc đời theo ý tôi. Hạnh ra nằm trên đường xe lửa, đợi chờ một chuyến tàu qua sẽ thực hiện sự lựa chọn của chàng. Nhưng chính lúc sắp xảy ra sự thực hiện đó, Hạnh như thấy một tiếng gọi: “Thế chính anh, anh không thể cắt nó đi được ư” làm cho Hạnh nhận ra một sự có thể có một lựa chọn khác, và Hạnh nhỏm dậy, lăn về bên cho chuyến tàu chuyển qua. Chàng về nhà, mua dao cạo, băng, cồn, thuốc đỏ. Thật là giản dị, chỉ cần một chút can đảm là “Tôi tự mang tôi đến đời sống”.
Nhưng Hạnh ngất đi khi cắt cái bướu, người ta đưa vào nhà thương cấp cứu. Khi Hạnh tỉnh lại, viên bác-sĩ đã từ chối chữa chàng mới nói thật cho chàng biết chàng bị ung thư. “Nếu để vậy thì nó phát ra chỗ thừa đó. Cắt nó đi sẽ lan vào trong. Rất khó chữa. Số mệnh của ông không còn bao lâu”.
Bây giờ thì Hạnh nhìn nhận số mệnh. Số mệnh của chàng là một sự cô đơn vì chàng là kẻ xa lạ của mọi người.
“Bao nhiêu năm cô đơn của tuổi trẻ anh đã mang theo – tuổi trẻ của một đứa bé mồ côi lang thang không biết la thét với ai – chỉ biết la thét với những chuyến xe lửa chạy qua mỗi ngày hú còi và phun khói. Chỉ biết mang mình ra khoảng trống đóng lấy những vai trò lừa dối mình. Khoảng trống bao la ấy đau buốt, nhức nhối chích vào thân thể anh… Anh đã đánh lừa và mang anh đến với em – em đã chịu đựng sự có mặt của anh – nhưng đến bây giờ em không còn đủ sức chịu đựng nữa – em lên tiếng, như đám đông lên tiếng cho anh nhận ra anh. Anh hốt hoảng ở giữa khoảng trống vây quanh anh đã lấp liếm che đậy. Nó hiện ra một vực thẳm sâu vắng. Anh la hét cho tiếng anh trả lại. Anh cũng như mọi người không được quyền về sự sinh ra mình. Nhưng anh không thể không được quyền với thực tại. Anh có quyền về anh nên anh đã cầu cứu mọi người giúp anh, nhận anh là một người như họ. Anh đã cắt bỏ cái bướu để tìm về cõi sống, vì đám đông bình thường. Nhưng không được.
… Thân thể anh còn đây, cái bướu đã mất. Anh khước từ sự hiện diện vô ích của nó nên anh trở thành một sự không thực … Anh là một sự không thực nằm đây… Nhưng, từ đó cho anh biết rằng anh là gì? Anh hơn đám đông vây quanh bởi anh ý thức được sự có anh, mọi người coi họ có mặt nhưng là một sự có mặt hư ảo, không thấy mình. Người ta khước từ anh – điều đó không cần thiết khi anh đối với anh đã là sự có mặt hằng cửu”.
Đó là sự khám phá thấy số phận ở đời của Hạnh. Chúng là một quá khứ, một “hải đảo cô đơn ngàn đời, bởi nó công nhận niềm đau buốt của khoảng trống”, nhưng là một cô đơn có ý thức và ý hướng phản kháng. “Từ khước đám đông, thức giác niềm đối kháng với bộ mặt vô hình nhìn xuống đời sống”.
Hạnh vĩnh biệt tình yêu, cuộc đời và lòng kiêu hãnh trước sự vĩnh biệt đó vì thái độ ý thức phản kháng của chàng.
Nguyễn Văn Trung
(trích Xây Dựng Tác Phẩm Tiểu Thuyết, Tự Do 1962)$pageOut$pageIn
Thư Quán Bản Thảo Số 55 tháng 1/2013 Chủ Đề: Nhà Văn Dương Nghiễm Mậu
Từ một nỗi tha thiết ao ước của người bạn văn cùng thời, khi ngỏ ý được thấy Thư Quán Bản Thảo sưu tập lại truyện ngắn Kinh Kha, con chủy thủ và đất Tần bất trắc cũng như tập bút ký Địa Ngục Có Thật của Dương Nghiễm Mậu, tôi lại lên đường. Lần này thay vì Cornell, hướng Tây Bắc, nay là Yale hướng Đông Bắc. Qua Google, tôi được biết cả hai thư viện này đều lưu trữ Địa Ngục Có Thật. Nhưng kỳ này tôi chọn Yale vì Yale cách nhà tôi chỉ khoảng 3 giờ đồng hồ lái xe. Trong khi Cornell phải mất 5 tiếng.
Lên đường kỳ này dù lòng hăm hở nhưng tấm thân không hăm hở chút nào. Tôi đã bước vào tuổi 70, chứ không còn trẻ để có thể nhấn bàn đạp gia tốc. Tuổi tôi bây giờ là: Đi về biết chở gì theo/ Chở theo vạt nắng trên đèo vào xe. Chứ không phải no nê cùng trời mây sông núi. Thị lực mắt kém rõ. Thêm Gout hết hành chân trái qua chân phải, hết bàn chân lên đầu gối. Bởi cái tính vẫn còn khoái khẩu của mình, đau thì kiêng cữ, hết đau thì xả láng bất cần.
Thời tiết đầu tháng 12, hôm nay có vẻ lý tưởng. Khoảng 60 độ F, một nhiệt độ rất hiếm hoi trong tháng cuối năm dương lịch này. Chiếc xe theo xa lộ, phóng hai ngọn đèn giữa trùng trùng điệp điệp đôi mắt sáng lóa xuôi ngược trên một tuyến đường được tiếng là bận rộn nhất của tiểu bang. May mắn lần này, Gout chỉ hành chân trái, lúc này nó được yên nghỉ trong khi cái chân phải thì miệt mài nhấn hoặc giảm bàn đạp gia tốc hay thắng phanh.
Sau ba tiếng đồng hồ, chỉ dừng một trạm nghỉ, gọi cốc cà phê, rồi đi ngay. Trời đã sáng. Xa lộ 95 quen thuộc dạo nào, lần lượt lùi dần, để nhường lại cho con đường College. Nó sẽ dẫn vào khu đại học Yale, với những tòa nhà được xây theo kiểu kiến trúc La Hy.
Sau khi đóng tiền làm thẻ thư viện, ($35) chỉ hiệu lực cho một tuần lễ, tôi nhấn nút cho thang máy lên tận lầu 4. Cả tầng lầu tối om, tôi mò mẫm bật contact điện. Lần mò đến kệ để sách. Nhưng tìm hoài tìm mãi không ra Địa Ngục Có Thật.
Làm sao diễn tả được nỗi buồn của tôi trong lúc này. Có những điều không thể ngờ, nhưng chúng vẫn xảy ra. Tôi xuống quầy phụ trách ở lobby hỏi. Và được biết sách hiện ở tại một thành phố khác. Có người mượn và giao ở một thư viện khác. Chưa hoàn trả về thư viện chánh.
Thôi thì đành trở về. Uổng công, uổng sức, phí tiền, phí bạc vô ích.
Có lẽ tôi sẽ bỏ cuộc. Sẽ không làm ấn bản đặc biệt như dự định nữa. Tôi chẳng có nợ với ai hết. Ngay cả đối với văn chương miền Nam. Ngay cả đối với nhà văn Dương Nghiễm Mậu mà tôi ngưỡng mộ về văn tài cũng như khí phách của ông.
Vậy mà tôi buồn đến rưng rưng. Khi trở về, xe bị kẹt vì một đoạn đường dài bị sửa. Xe nối đuôi xe bò nhích cả mấy dặm.
Hai ngày sau, tôi nhận được email của thư viện Yale cho hay là Địa Ngục Có Thật đã đến thư viện. Email còn cho biết chỉ ưu tiên dành cho tôi 10 ngày.
Sau ngày đó, họ không bảo đảm có sách nếu tôi muốn mượn.
Như vậy, dù muốn dù không, lại thêm một lần nữa lên đường. Lại hai ngọn đèn lẫn vào muôn vàn ánh đèn chiếu sáng, tôi cố mở căng đôi mắt. Lại chiếc xe tôi lạc vào giòng thác cuồn cuộn của xe cộ trên xa lộ Garden State Parkway, và 95. Lại một biển âm động cuồng nộ với những ánh đèn pha chói sáng khi chiếc xe tôi chạy chậm. Lẽ phải và ánh sáng. Địa ngục có thật. Cuốn bút ký có một không hai viết về Tết Mậu Thân ở Huế. Chẳng lẽ để nó ngủ quên im lìm trong một kệ ngăn nào đó của Yale hay sao?
Tôi đến Yale để mở lại ánh điện trong một tầng thư viện tối om, mò mẫm tìm lại cuốn sách mình mong đợi, hay ngồi bệt trên nền, mở từng cuốn tạp chí Văn, Văn Học, Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn Nghệ… Tội nghiệp, những trang giấy của một thời ta muốn yêu ai thì cứ bảo là yêu, ghét ai ta cứ bảo là ghét… Không phải chỉ đọc, mà mang xuống lầu, để chụp lại từng trang bài mình cần giữ. Rồi mang về nhà, đánh máy, layout… Có khi thiếu một trang, ngủ không yên, lại lái xe làm thêm một chuyến…
Đó là cách tôi trả ơn đối với một nhà văn mà tôi ngưỡng phục.
Về lẽ phải và sự thật mà ông đã để lại cho văn chương miền Nam. Và về cách thế sống của ông sau 1975: khi ông quyết định tự chọn cho mình chiếc thập tự giá.
Trần Hoài Thư$pageOut$pageIn
Hợp Lưu
18-2-2015
Sau 30 tháng 4, 1975 các văn nghệ sĩ không đi thoát, hoặc chọn ở lại như Dương Nghiễm Mậu, nếu không phải đám nằm vùng thì ai cũng chờ cái ngày đi vào nhà giam, các trại tù cải tạo. Giữa những ngày căng thẳng và ảm đạm ấy, có một người vẫn nhởn nhơ, đi tìm thăm bạn bè văn nghệ cũ. Không ai khác hơn đó là nhà thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn. Trung niên thi sĩ lúc nào cũng gầy và già hơn tuổi, râu tóc sơ sác như từ bao giờ. Giữa một Sài Gòn thảng thốt, không biết anh đã lượm ở đâu trên đường mà có được bộ quân phục nguỵ với quân hàm Đại tá, Bùi Giáng đem vận ngay vào người, chân thấp chân cao đi nghêu ngao như diễn binh trên hè phố. Có lẽ đây là hình ảnh tuyệt đẹp cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam, với một tân binh tình nguyện gia nhập đạo quân đã hoàn toàn rã ngũ. Rồi Bùi Giáng cũng tới được khu nhà thờ Ba Chuông, nơi có căn nhà Dương Nghiễm Mậu. Bùi Giáng hồn nhiên đi sâu vào con hẻm chật chội ấy đã thấp thoáng màu cờ đỏ. Anh vẫn tỉnh táo nhớ đúng nhà, tới đập cửa rầm rầm đòi vào thăm cho được cố tri. Trầm tĩnh và bản lãnh như Nghiễm, mà trước tình huống ấy cũng vẫn như gái ngồi phải cọc; được cái lúc ấy chòm xóm còn là thân quen, mạng lưới công an chưa đủ dầy đặc để gây nỗi phiền hà. Ra khỏi nhà Dương Nghiễm Mậu, không biết Bùi Giáng còn đi gõ cửa tới thăm những ai khác, hay anh lại ra nơi đầu cầu Trương Minh Giảng như một người tỉnh táo đứng làm cảnh sát công lộ chỉ đường “trên dòng luân lưu hỗn mang của lịch sử” và để rồi sau đó nếu anh không bị đám “cách mạng 30” hay bọn công an đánh tả tơi sưng mặt mũi thì rồi cuối cùng chắc anh cũng lại tìm về với “mẫu hậu” Kim Cương, ngồi trước cửa phóng bút làm thơ tặng nàng.
1975_ Toà Soạn Bách Khoa và anh Lê Ngộ Châu
Tuần lễ trước 30 tháng 4, 1975, nhân viên Đài Mẹ Việt Nam và những cây viết cộng tác đã được Mỹ lên kế hoạch di tản khỏi Việt Nam – để tránh bị trả thù. Trước ngày lên tàu ra đảo Phú Quốc, nhà văn Võ Phiến tới thăm toà soạn Bách Khoa, nơi vùng “xôi đậu” có Võ Phiến Bắt Trẻ Đồng Xanh ngồi chung với Vũ Hạnh Bút Máu; cũng là nơi mà Võ Phiến đã gắn bó suốt 18 năm cùng với tuổi thọ của tờ báo. Anh Lê Ngộ Châu chủ nhiệm Bách Khoa kể lại: Võ Phiến thì phải đi, nhưng linh cảm không có ngày về, vẻ mặt buồn thảm, anh chỉ ngồi khóc lặng lẽ không nói nổi lời giã từ và rồi đứng dậy bước ra khỏi toà soạn.
Trước một ngày mất Sài Gòn, thì hầu như toàn bộ nhân viên Đài Mẹ Việt Nam trong đó có gia đình Võ Phiến Giã Từ, Lê Tất Điều Phá Núi, Viên Linh Hoá Thân, Tuý Hồng Tôi Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường Dài từ Phú Quốc đã được đưa lên con tàu lớn Challenger đậu sẵn ngoài khơi. Khi bờ biển Phú Quốc xa mờ trong tầm mắt, lần này thì Lê Tất Điều thấy Võ Phiến khóc. Cùng với những con tàu thuộc Đệ Thất Hạm đội, họ lênh đênh trên Biển Đông trong cuộc hải trình nhiều ngày để tới đảo Guam. Guam đã từng là căn cứ xuất phát của các đoàn phi cơ B52 trong cuộc chiến tranh Việt Nam với những trận mưa bom trải thảm/ carpet bombing có sức tàn phá của một cơn địa chấn. Đảo Guam chỉ rộng 550 km2 sau tháng Tư 1975, là chặng dừng chân đầu tiên của hàng trăm ngàn người Việt tỵ nạn trước khi vào đất Mỹ. Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người Viễn Khách Thứ 10, Mặc Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm cũng đi thoát và trước sau đặt chân tới các trại tỵ nạn trên đất Mỹ.
Chưa đến một tuần lễ sau, ngày 5 tháng 5, 1975 một trong những cây viết lâu năm của Bách Khoa, Phạm Việt Châu Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh đã tuẫn tiết tại tư gia khi cộng sản hoàn toàn chiếm Miền Nam. Cái chết rất sớm và tức tưởi của một tác giả có viễn kiến về lịch sử dân tộc, sức sáng tạo đang sung mãn mới bước vào tuổi 43, đã như một hồi chuông báo tử cho bao nhiêu tang thương diễn ra sau đó.
1975_ Chiến Dịch Đốt Sách
Những ngày sau 30 tháng 4, 1975, hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ, tới toà báo Bách Khoa cũng là nơi cư ngụ của anh chị Lê Ngộ Châu. Trước khách lạ, đứa con gái nói giọng hãnh tiến: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích tới sáng.” Người dân lành nào vô phước đi lạc trên đường ruộng đêm đó có thể bị tụi nó coi là nguỵ. Những tên nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30” này chỉ như phó bản đám Hồng vệ binh của Mao nhưng lại sau cả thập niên. Cũng chính những đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch lùng và diệt tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng chồng sách rồi tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa hề đọc, trong đó có cả một tủ sách “Học Làm Người”. Sách của những “tên biệt kích văn nghệ” còn được trưng bày trong toà nhà triển lãm Tội ác Mỹ Nguỵ cùng với vũ khí chiến tranh và chuồng cọp, dĩ nhiên có sách của Dương Nghiễm Mậu, có cả cuốn Vòng Đai Xanh của người viết.
Cảm khái với câu thơ Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí: văn chương vô mệnh cũng tro than/ văn chương vô mệnh luỵ phần dư. Hơn hai ngàn năm sau, chẳng ai quên chuyện “đốt sách chôn nho/ phần thư, khanh nho” của Tần Thuỷ Hoàng, nhưng không biết chỉ 100 năm tới đây, các thế hệ tương lai có ai còn giữ được“bộ nhớ” Đã Có Một Thời Như Thế – tên một bài viết của Nhật Tiến, về giai đoạn người Cộng sản Việt Nam đốt sách giam tù cả một thế hệ văn nghệ sĩ của Miền Nam?
1975_ Nhà hàng Givral và Phạm Xuân Ẩn
Trước 1975, La Pagode, Brodard, Givral là nơi tôi, Phạm Đình Vy [chủ nhiệm Tình Thương] và các bạn y khoa thỉnh thoảng có dịp lui tới kể cả khi đã ra trường. Givral cũng là nơi thường gặp gỡ các nhà báo như Phạm Xuân Ẩn, Cao Giao, Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn Tiến... Phạm Xuân Ẩn, là bạn đồng môn với nhà văn Sơn Nam thời trung học Cần Thơ, Ẩn gốc người Nam dáng chân quê mộc mạc. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, Phạm Xuân Ẩn chỉ được biết tới như phóng viên của Reuters, sau đó chuyển sang tuần báo Times, trụ sở trong Continental Palace bên kia đường. Cũng không thể không nhắc tới khách sạn Caravelle, gần toà nhà Quốc hội cũ, nơi tập trung đông đảo nhà báo ngoại quốc, nơi đặt văn phòng của các hãng thông tấn và truyền hình Mỹ như ABC, NBC, CBS... Cũng chính Morley Safer trong một buổi phát hình CBS Evening News ngày 5 tháng 8, 1965 chiếu cảnh lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trong cuộc hành quân xua dân ra khỏi làng và sau đó bật quẹt Zippo đốt nhà của họ, những hình ấy đã làm rúng động Toà Nhà Trắng và cả nước Mỹ như một vết hằn sâu của một cuộc chiến bắt đầu thất nhân tâm. Bảy năm sau, Nick Ut phóng viên AP với bức hình “Napalm Girl” chụp trong trận giao tranh Trảng Bàng Tây Ninh ngày 8 tháng 6, 1972, cũng là thời điểm Quốc Hội Mỹ dứt khoát cắt viện trợ quân sự cho Miền Nam.
Đội quân báo chí hùng hậu ấy, trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, có khả năng điều kiện hoá dư luận với “những tin tức xấu từ một phía”, đủ làm nản lòng dân Mỹ, cùng với đám GI’s đang cầm súng từ phía bên kia nửa vòng trái đất; truyền thông Mỹ có phần công lao không nhỏ gián tiếp đưa tới mất Miền Nam Tự Do và cũng là một thất trận đầu tiên trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ. Và rồi, tất cả bọn họ cũng đã kịp tháo chạy trước khi Sài Gòn đổi chủ.
Và rồi mấy ngày đầu tháng 5, 1975, Givral lại như điểm hẹn của những người bạn còn kẹt lại, tới đó để biết ai ở ai đi và nghe ngóng tin tức. Từ những chiếc bàn nhìn qua khung kính trong suốt ấy, tình cờ gặp lại Phạm Xuân Ẩn. Ẩn cũng đã từng tới thăm toà soạn báo sinh viên Y khoa Tình Thương trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày nào. Vợ con Phạm Xuân Ẩn đã được tuần báo Times cho di tản trước đó nhiều hôm, nhưng Ẩn thì ở lại. Với hơi chút ngạc nhiên và vẻ quan tâm, Ẩn hỏi tôi: “Vinh, tại sao toa không đi?” Lúc đó chỉ như một câu hỏi xã giao, nhưng phải sau này, khi đã ở trong vòng rào các trại tù cải tạo, tôi mới thấm thía vỡ lẽ được câu hỏi ấy của Phạm Xuân Ẩn, nó đã như lời báo bão về những năm tháng tù đầy từ một chính sách mà Ẩn thì biết rất rõ. Trong vỏ bọc của một nhà báo làm cho tuần báo Times danh tiếng của Mỹ, thực chất trước đó nhiều năm Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên chiến lược đơn tuyến của Cộng sản Hà Nội. Sau này cũng chính Phạm Xuân Ẩn tâm sự với Morley Safer chương trình 60 Minutes của CBS rằng khi Sài Gòn xụp đổ không dễ gì để nói với đám “cách mạng 30” đeo súng AK lúc đó rằng, tôi là đại tá quân đội của họ, không phải CIA. Có thể tôi bị tụi nó giết và cả con chó của tôi cũng bị nướng sống.
1975_ Nhà báo Như Phong
Chỉ sau cụ Hoàng Văn Chí Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, người hiểu rõ cộng sản sau này không ai hơn nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Cô Thần cũng là bút hiệu khác của Như Phong Khói Sóng trên nhật báo Tự Do, một chuyên mục viết về cộng sản Miền Bắc. Hiểu cộng sản như vậy, với biết trước những tháng năm tù đầy, vậy mà anh vẫn chọn ở lại. Gặp lại anh tại nhà luật sư Mai Văn Lễ, trước bệnh viện Sùng Chính trên đường Trần Hưng Đạo. Anh Mai Văn Lễ có một thời làm Khoa trưởng Luật khoa Huế thời Phật giáo Tranh đấu, bây giờ chỉ còn lại mình anh, chị và hai con thì đã đi trước đó một tuần lễ.
Trưa ngày 30 tháng Tư, ngay sau khi lệnh đầu hàng được phát đi, có thể thấy từ mấy tầng lầu cao là một cơn mưa confetti, chỉ một màu trắng của những mảnh vụn giấy tờ tuỳ thân của quân cán chính cần được xé huỷ trước khi cộng quân hoàn toàn kiểm soát Sài Gòn. Không kể những giày nón quân phục được cởi bỏ vội vàng vứt tả tơi trên đường phố. Là người đi trước thời cuộc, anh Như Phong tiên đoán đúng những gì sắp diễn ra: chiến dịch đánh tư sản, kế hoạch đổi tiền cho mỗi hộ khẩu và rồi những cuộn giấy bạc sau đó trở thành rẻ rách và rồi sẽ là quần đảo ngục tù / Gulag Archipelago một tên sách của Solzhenitsyn. Dư tiền cũ thiên hạ đổ xô đi mua vàng, đôla chợ đen không dễ gì có trong thời điểm này. Anh Như Phong thì chỉ gợi ý mua những cuộn len quý nhồi trong các bộ nệm sa lông giống như ngoài Bắc, sau này khi cần có thể gỡ dần ra bán để kiếm sống. Nói vậy thôi chứ thái độ của cả mấy anh em vẫn là “chờ xem”.
Và rồi vang lên tiếng xích sắt nghiến trên mặt nhựa, nhìn qua khung cửa là những chiếc tăng T54 treo cờ giải phóng hối hả chạy về phía trung tâm Sài Gòn.
...
1980_ Cũng đừng tới thăm
Ra tù ba năm sau, trở về một Sài Gòn đã đổi khác. Nếu còn chút gì thân quen thì là mấy người bạn, không nhiều còn ở lại. Anh ấy là một trong những cố tri đầu tiên tôi nghĩ tới thăm. Là giáo sư đại học, anh tốt nghiệp ở Mỹ, trở về Việt Nam từ cuối thập niên 1960, đầy lý tưởng, ôm mộng lớn về một cuộc cách mạng xã hội – theo anh công bằng xã hội/ social justice phải là giải pháp rốt ráo cho một cuộc chiến tranh bế tắc đang diễn ra khốc liệt giữa hai miền Bắc Nam. Tôi cũng đã từng gặp anh ở Mỹ và cả những năm sau này ở Việt Nam. Sự xụp đổ mau chóng của Miền Nam với anh là cả một “giấc mộng lỡ”. Tuy không phải chịu những năm tháng tù đầy, nhưng cuộc sống gia đình anh, cũng như cả Miền Nam rõ ràng là khó khăn. Từng bước, anh đã bán những bộ tự điển quý lúc đó rất có giá, cho đám học giả đói sách từ Bắc vào mua; tiếp đến là đồ đạc tranh tượng, cuối cùng là còn lại là một tủ sách khoa-học-xã-hội đồ sộ mà anh đem từ Mỹ về thì nay trở thành vô giá – no value, chỉ có thể đem cân ký bán lạt-son để làm bột giấy. Vợ anh là cô giáo cũng phải ra giữa chốn chợ trời tần tảo kiếm sống. Anh thì quá nhậy cảm để thấy nỗi đau và nhục.
Gặp lại anh, vẫn nét mặt trí thức và đôn hậu như ngày nào, nhưng trong ánh mắt thì lộ rõ vẻ bất an. Thoáng nét vui mừng nhưng anh kịp kìm hãm, vừa nói vừa canh chừng nhìn ra cửa : “Biết toa được ra trại thì mừng nhưng cũng xin toa đừng tới thăm”. Sự thẳng thắn rất trực tiếp của anh, thoáng như một gáo nước lạnh, nhưng tôi cảm thông và vẫn rất thương anh. Gia đình bên vợ anh ở Mỹ đang làm thủ tục bảo lãnh, nghĩ rằng việc có liên hệ với lính nguỵ với tù cải tạo có thể là cản trở cho cuộc hành trình hy vọng của gia đình anh tới bến bờ tự do ấy. Anh phản ứng theo hoàn cảnh, không chút phán đoán tôi vẫn dành cho anh sự kính trọng, và mai mốt đây nếu có ngày gặp lại anh thì chắc chắn phải là trên một lục địa khác. Rất sớm trên toàn Miền Nam đã bắt đầu có một mạng lưới tai mắt tổ dân phố và công an đủ để gây hoài nghi và cả sự sợ hãi.
Ra khỏi nhà anh, có lại được niềm vui ấm lòng khi gặp người bạn tấm cám Nghiêu Đề. Nghiêu Đề cho biết mới gặp Sao Trên Rừng đi xe gắn máy từ Đà Lạt xuống, ngạc nhiên thấy Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên ăn vận đồ lớn complet cravate, hỏi tại sao thì Sơn cười giọng khinh mạn: “có vậy mới khỏi lẫn với tụi nó”.
1980_ Trần Phong Giao ngoài chợ
Trần Phong Giao dáng vạm vỡ, da sậm có vẻ công nhân lao động ngoài nắng hơn là người làm việc chữ nghĩa văn phòng. Nổi tiếng là thư ký toà soạn báo Văn trong 8 năm từ 1963 tới 1971, một tờ báo có vị trí đặc biệt trong sinh hoạt văn học Miền Nam với phát hiện những cây bút mới và không ít sau này đã trở thành những tên tuổi. Sau Văn, anh thử làm nhiều công việc khác cũng trong lãnh vực báo chí, xuất bản, rồi thủ thư nhưng đã không để lại nhiều dấu ấn như ở Văn. Không lâu sau 30 tháng 4, cả hai anh chị đã phải chạy chợ kiếm sống với chiếc xe ba bánh, đậu trên đường Lê Thánh Tôn đứng bán từng bó củi, mấy nải chuối hay những bó rau tươi để nuôi đàn con. Ngày ra tù, tới thăm anh, vẫn ở trong con hẻm gần Cầu Kiệu, bên Tân Định, anh gầy sút đi nhiều hai chân đã rất yếu. Gia tài của anh đáng giá vỏn vẹn còn một tủ sách, quý nhất là trọn bộ báo Văn đóng bìa da, một sự nghiệp của Trần Phong Giao nhưng rồi anh cũng đã không giữ được và phải đem bán cho một Việt kiều từ Mỹ về để có tiền chạy gạo và thuốc men. Trần Phong Giao mất trong sự túng quẫn và bạo bệnh (2005), anh cũng bước qua được ngưỡng tuổi cổ lai hy.
1981_ Và những bữa cơm gia đình
Ngôi nhà Nghiễm trong con hẻm với mặt tiền hẹp nhưng khá sâu. Nghiễm mặc quần soóc, áo thun trắng, đôi mắt rất tinh anh lúc nào cũng như mỉm cười, trông trẻ hơn tuổi của một người sinh năm 1936.
Tuy sống gần khu Chợ Cũ, sẵn những quán ăn vỉa hè và nhà hàng, rất tiện cho nếp sống cơm hàng cháo chợ, nhưng thường sau một ngày làm việc, thay vì về nhà tôi ghé nhà Nghiễm, được chị Trang vợ Nghiễm cho thêm chén thêm đũa với những bữa ăn đạm bạc nhưng ngon miệng vì là bữa cơm hạnh phúc gia đình. Trong tù, tôi và Nghiễm thì đã quen với những bữa ăn đói ngày đêm, ra ngoài tuy rau đậu nhưng cũng là bữa tạm no. Người lớn thì không sao, nhưng với trẻ nhỏ đang tuổi “mau ăn, chóng lớn” thì khẩu phần ấy phải xem là suy dinh dưỡng. Nếu không là ngày phải ra trễ, tôi ghé qua chợ mua một món ăn gì đó, đem tới bày thêm vào mâm cơm gia đình. Có thêm món thịt, thêm chút chất đạm thì hôm đó với hai đứa nhỏ như là bữa tiệc. Những lần gặp nhau, tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình như Nghiễm có viết ở đâu đó là những điều không cần nói ra nhưng cũng đã hiểu nhau rồi. Chỉ có cô giáo Trang vợ Nghiễm sau một ngày dạy học mệt nhọc nhưng lúc nào cũng có đôi chuyện vui từ trường đem về gia đình. Miền Nam tài nguyên thì vẫn nguyên vẹn, nhưng đã có chính sách bần cùng hoá kiểm soát từng bao tử của người dân qua khẩu phần và sổ lương thực của họ.
1982_ Dương Nghiễm Mậu và một Thanh Tâm Tuyền khác
Đã gặp Thanh Tâm Tuyền ở những ngày 30 tháng Tư 1975 nơi một căn nhà nhỏ bên Gia Định. Vợ Tâm lúc đó cũng vừa sinh đứa con trai út trong cảnh tán loạn bệnh viện Nguyễn Văn Học. “Một Chủ Nhật Khác” cuốn tiểu thuyết cuối cùng của “một thời để yêu một thời để chết” cũng vừa mới in xong, chưa kịp phát hành. Ra tù 1982, gặp lại Thanh Tâm Tuyền của Bếp Lửa, bằng tuổi Dương Nghiễm Mậu nhưng trông anh già hơn nhiều, da sậm đen sắc diện của một người bị bệnh sốt rét kinh niên. Khó có thể tưởng tượng với vóc dáng mảnh mai ấy anh sống sót qua suốt bảy năm tù đầy ngày nào cũng đói lạnh nơi những vùng sơn lam chướng khí ấy ở các trại giam Miền Bắc. Bảy năm đốn tre trảy gỗ trên ngàn, bị tre nứa đâm xuyên đùi không giải phẫu thuốc men nhưng anh vẫn sống sót, trong tù chống rét anh tập hút thuốc lào, không giấy bút anh vẫn làm thơ qua trí nhớ nhưng là những bài thơ trở về với các thể thơ truyền thống. Thơ ở Đâu Xa là tập thơ cuối cùng làm trong tù TTT cho xuất bản ở bên Mỹ (1990).
Trong một cuộc phỏng vấn rất hiếm năm 1993, Thanh Tâm Tuyền đã giải thích sự chuyển biến trong thi ca của anh:“Làm thơ trong trại cải tạo, cũng là trở về với thi ca truyền thống dân gian/ Faire de la poésie dans un camp de redressement, c’est aussi retourner à la poésie de tradition populaire.” [Thanh Tam Tuyen, la poésie entre la guerre et le camp; par Le Huu Khoa, Publications de l’Université de Provence]
Trong chỗ rất riêng tư, anh tâm sự: Thái Thanh bạn anh đã dứt khoát không hát từ sau 1975. Khi biết Thanh Tâm Tuyền vừa ra tù đến thăm, cô ấy cầm đàn và hát lại những bài thơ phổ nhạc của anh: Đêm màu hồng, Nửa hồn thương đau, Lệ đá xanh… tuy ấm lòng gặp lại cố tri nhưng rồi anh đã không còn nguyên vẹn cảm xúc để nghe lại những thanh âm ngày cũ. Anh đã nói không với những người mới muốn gặp anh. Anh vẫn giữ thái độ đó khi sang định cư ở Mỹ. Sự khép kín ấy khiến Mai Thảo đôi khi cũng phản ứng giận lẫy.
Rồi cũng có một buổi gặp gỡ cuối 1982, từ nhà Nghiễm có Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và tôi cùng đi bộ tới một quán cóc cũng trên đường Trương Minh Giảng nơi gần đường xe lửa. Thức uống của Nghiễm bao giờ cũng là một chai bia. Nhắc tới Tô Thuỳ Yên Trường Sa Hành thì vẫn còn ở trong tù. Rồi chẳng ai nhắc tới nỗi khổ hiện tại mà câu chuyện lại xoay quanh những người bạn may may mắn ở phương xa. Những người đi thoát trước 1975, vài tên tuổi được nhắc tới: Thanh Nam Tuý Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Viên Linh... Nhưng rồi tên Mai Thảo Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời vẫn như điểm hội tụ của những tin tức. Anh là nhà văn duy nhất hiếm hoi thoát các vụ ruồng bắt của cộng sản trong suốt hai năm sống lẩn lút ở Sài Gòn. Vẫn có nhiều người liều mạng che chở cho anh. Trần Dạ Từ Tỏ Tình Trong Đêm cùng với rất nhiều nhà văn nhà báo thì đang trong tù, Nhã Ca Giải Khăn Sô Cho Huế ra tù sớm phải cưu mang một đàn con nhỏ nhưng cũng chính mấy mẹ con Nhã Ca đã bất chấp hệ luỵ cất dấu bác Mai Thảo trong nhà, một căn phố lầu trên góc đường Tự Do, đây cũng là chặng ẩn náu cuối cùng của Mai Thảo cho đến khi anh vượt biển rất sớm thoát được tới đảo Pulau Besar Mã Lai đầu tháng 12, 1977.
Hai năm sau Mai Thảo 1979, phải kể tới chuyến đi thừa sống thiếu chết của 81 thuyền nhân trong số đó có Nhật Tiến Người Kéo Màn và thầy Từ Mẫn Lá Bối, vợ chồng ký giả Dương Phục Vũ Thanh Thuỷ... và con tàu đã gặp nạn hải tặc Thái Lan trên biển rồi trên đảo Kra, và cũng rất sớm qua ngòi bút của người chứng Nhật Tiến đã ghi lại những thảm cảnh ấy và bắt đầu làm rúng động lương tâm thế giới. Cũng khởi đầu cho phong trào Cứu Người Vượt Biển về sau này.
Sau lần gặp gỡ nơi nhà Nghiễm, Thanh Tâm Tuyền chuẩn bị đi Mỹ theo diện HO, cho dù “tâm thái” – chữ của TTT, vẫn gắn bó với một quê hương mà anh không muốn xa rời, riêng tác giả Ba Sinh Hương Lửa lại vào tù tổng cộng 14 năm trước khi đi định cư 1995 và gặp lại Mai Thảo ở Quận Cam.
Trên đường đi, tôi không thể không có ý nghĩ nếu làm một con toán cộng những năm tù đầy của mỗi văn nghệ sĩ Miền Nam, con số ấy phải vượt trên nhiều thế kỷ. Không phải chỉ có oan nghiệt giam cầm huỷ hoại những thân xác, họ còn giết chết sức sáng tạo của văn nghệ sĩ trong khoảng thời gian sung mãn nhất. Một nỗ lực huỷ diệt cả một nền văn hóa đến tận gốc: trước lịch sử, ai phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội ác thiên thu ấy?
...
2006_ Những Cơn Mưa Sài Gòn
Từ một khách sạn nhỏ gần đường Tự Do, để tới khu nhà thờ Ba Chuông, đi bộ thì quá xa, taxi thì nạn kẹt xe, tôi chọn Honda ôm, nhưng đã không tránh khỏi thót tim vì mấy tay lái xe quá liều mạng: chạy nhanh len lách, ngược dòng xe cộ, cắt cả lên vỉa hè đông người đi bộ mà anh ta cho là an toàn hơn đi theo luật giao thông. Tuy không có mẩu giấy địa chỉ trên tay, nhưng có trí nhớ tốt về hình ảnh / photographic memory, tôi nghĩ vẫn có thể tìm ra nhà Dương Nghiễm Mậu vẫn trong ngõ hẻm ấy cho dù đã nhiều năm không gặp. Nhà đã được xây lại, cất thêm một từng lầu. Nghiễm nay là nghệ nhân sơn mài, chị Trang vợ Nghiễm thì vẫn dạy Anh văn ở Marie Curie, hai con Nghiễm đã trưởng thành tốt nghiệp đại học và đi làm. Cả gia đình đều làm việc cật lực để tạo được một cơ ngơi như hôm nay.
Khi Nhà Văn là Con Bệnh
Tháng 9, 2006 gặp lại Nghiễm sau bao năm, khi anh vừa bước vào ngưỡng tuổi cổ lai hy. Thanh Tâm Tuyền vừa mất trước đó 6 tháng [03/2006]. Như Phong Khói Sóng mất đã 5 năm [12/2001], Mai Thảo Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền cũng mất trước đó 8 năm [01/1998], cùng năm với Nghiêu Đề Ngọn Tóc Trăm Năm [11/1998]. Họ là những nghệ sĩ Việt Nam chọn tự do phải sống lưu vong và vùi thân ở một nơi không phải quê nhà.
Nghiễm thì vừa gặp nạn ở cái tuổi 70, khi đang đi bộ trên lề anh bị một xe gắn máy chắc cũng lại xe ôm leo lên tông gẫy xương cổ chân, phải phẫu thuật bó bột gần 2 tuần lễ rồi mà còn sưng đau, vẫn phải chống nạng. Nghiễm giỏi chịu đựng, không hề than đau chính điều ấy khiến tôi quan tâm. Nghiễm cần được tái khám để có một ý kiến thứ hai / second opinion. Tôi nghĩ tới một bạn đồng môn còn ở lại, chuyên khoa chỉnh trực, giảng dạy ở Y khoa, bạn bè gọi anh là người có bàn tay vàng trong phẫu thuật chấn thương chỉnh hình. Anh cũng có phòng mạch tư ngoài giờ và tôi đề nghị đưa Nghiễm tới đó. Nghiễm thì lưỡng lự không muốn nhưng vì tình bạn anh đã không thể nói không.
Không có địa chỉ, nhưng biết phòng mạch Bs Võ Thành Phụng trên đường Lê Văn Duyệt, đối diện với trụ sở Tổng Liên Đoàn Lao Công cũ. Với một cổ chân bị gẫy còn rất xưng đau, thì lên và xuống taxi lúc này không phải là dễ dàng đối với Nghiễm. Cơn mưa nhiệt đới thì vẫn cứ tầm tã từ nhà cho tới khi Nghiễm bước chân được vào phía trong phòng mạch. Gặp chị Võ Thành Phụng, khi biết người bệnh là nhà văn Dương Nghiễm Mậu, thì tôi hầu như không còn vai trò gì nữa. Chị là độc giả lâu năm và rất quen thuộc với các tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, từ thời báo Văn, Văn Nghệ và cả Sáng Tạo ngày nào, không kể những cuốn sách của Nghiễm mà chị đã đọc. Phòng mạch đông khách, do sắp xếp của chị Phụng, Nghiễm là bệnh nhân mới được ưu tiên khám trước. Anh Phụng cùng tôi đọc những tấm phim chỉ rõ xương cổ chân gẫy chưa lành nhưng không nhiều di lệch nên không cần thêm phẫu thuật mà là điều trị bảo tồn. Quá bận bịu với chuyên môn, anh Phụng có lẽ không là độc giả của Dương Nghiễm Mậu như chị Phụng nhưng Nghiễm đương nhiên trở thành người bệnh đặc biệt của phòng mạch anh chị hôm đó. Trời vẫn không ngớt mưa, trong taxi trên đường về, tôi nói đùa với Nghiễm, trong cuộc đời viết văn, tôi chưa bao giờ có hạnh phúc được gặp được một nữ độc giả tâm đắc và yêu văn chương đến như vậy. Rất ít bày tỏ, như từ bao giờ Nghiễm chỉ đáp lại bằng một nụ cười hiền.
2012_ Từ Hải Ngoại Truyện.
Trước 1975, đọc Kinh Kha với con chủy thủ trên đất Tần bất trắc trong Nhan Sắc để thấy truyện Dương Nghiễm Mậu là những tình huống và thái độ lựa chọn, rất biểu tượng và nhiều ẩn dụ. Nghiễm viết truyện xưa mà nói tới nay. Kinh Kha qua sông Dịch, chàng lọt vào được cung điện, khi đã kề đoản đao vào cổ Tần Vương, nhưng thay vì run sợ, thì Tần Vương lại ngửa mặt cười. Và Kinh Kha chợt hiểu ra tất cả: giết bạo chúa này sẽ lại có một bạo chúa khác… Và hình ảnh Kinh Kha lầm lũi rời khỏi cung điện vẫn là nỗi đau không cùng, như một dự báo oan khiên cho ngày hôm nay.
Từ Hải Ngoại Truyện được Dương Nghiễm Mậu viết khoảng 10 năm sau 1975, [Gia Định, 2005]. Từ Hải là nhân vật được Dương Nghiễm Mậu khá nâng niu. Phí Ích Bành em Nghiễm, trao cho tôi một phong bì với 16 trang chữ có ít dòng thủ bút của Nghiễm. Đọc ngay những trang viết ấy để thấy một Từ Hải Ngoại Truyện nửa anh hùng nửa thảo khấu, rất khác với nhân vật chính truyện khi chọn con đường bổng lộc giam thân về chốn triều đình.
Một trích đoạn về bối cảnh xã hội trong Từ Hải Ngoại Truyện: “một hôm thầy Khổng ngồi xe đi trên đường thì thấy một bô lão bước tới vái chào, thầy Khổng cho dừng xe lại, trong chốc lát cả một đám đông trẻ con gầy còm nhếch nhác vây quanh. Ông lão nói: nghe thiên hạ nói thầy nhiều chữ nên tới xin một ít. Khổng Tử liền mở cái hòm gỗ lấy ra một cuốn sách trao tận tay cụ già. Cụ già cầm lấy ngắm nghía rồi lật những trang sách nhìn trên nhìn dưới rồi gấp lại đứa trả thầy Khổng và nói: tôi không biết dùng cái này để làm gì. Có tiếng cười khả ố vang lên từ một người trung niên ở trần, đóng khố: sách chẳng có giá trị gì đối với những người không có cơm ăn và mù chữ. Ông hãy bước chân xuống ruộng, đi cày trồng lúa rồi lấy thóc mà cho họ thì có ích hơn. Chuyện chỉ kể tới đó không cho biết hành xử của thầy Khổng ra sao”.
Cũng trong Từ Hải Ngoại Truyện, Dương Nghiễm Mậu viết về giới quan lại khoa bảng: “Trong Sưu Tặc Ký những kẻ nổi lên làm giặc thường xuất thân là dân thuyền chài, kẻ cầy ruộng, người chăn trâu, kẻ đốn củi; tuyệt nhiên không thấy có kẻ nào đậu tiến sĩ, trạng nguyên. Không tên giặc nào có làm thơ làm phú, hoặc từng làm quan, làm thầy giáo mà đi làm giặc. Ở những sách khác có viết về kẻ có chữ bất mãn thường chọn cách viết sớ tâu lên: khi thì đòi chém tham quan ô lại, khi kêu ca sưu cao thuế nặng khiền dân đen chết đói, khi kêu oan cho lương dân bị chết chém... Những lá sớ lâm ly thảm thiết này thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ nhiều lần nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ trở lại làm phó thường dân mà vẫn ung ung tại vị hưởng bổng lộc của triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có đôi chút tự trọng thì chọn con đường ở ẩn, không chọn con đường làm giặc nên không có tên trong Sưu Tặc Ký.”
Dương Nghiễm Mậu viết những dòng cuối: “Từ những trang sách tới thực tế của chuyến đi làm ta hoài nghi những ghi chép của người xưa... nhiều sách truyện đã để cho Từ Hải chết đứng giữa trận tiền. Một anh hùng phải có cái chết anh hùng. Trong ngoại truyện Từ Hải, cuối cùng Từ Hải đã chết nhưng chết một cách khác, không phải cách chết đứng giữa trận tiền.”
Rồi từ chuyện xưa mà hóa ra nay, Dương Nghiễm Mậu viết tiếp: “Nhiều sách tạo ra những anh hùng như mô tả kẻ tự biến mình thành cây đuốc sống, lấy thân mình bịt họng súng thần công, ôm bom lao vào quân giặc mà chết. Hầu hết những anh hùng trong sách đó chẳng bao giờ người ta tìm ra tung tích.”
Tưởng cũng nên nói thêm, căn nhà của gia đình Nghiễm không xa cây cầu Nguyễn Văn Trổi trên đường Công Lý thời chống Mỹ, rồi không thể không nhắc tới “cây đuốc sống” Lê Văn Tám đốt kho xăng Thị Nghè 1945 thời chống Pháp: một nhân vật mà sau này Trần Huy Liệu, bộ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào những ngày cuối đời đã trối trăng lại với đám môn sinh: Lê Văn Tám chỉ là sản phẩm của tuyên truyền và không có thật.
Ba mươi hai năm sau 1975, qua liên lạc vận động của nhà thơ Nguyễn Quốc Thái, [cũng là người giới thiệu Phạm Duy đến với Công ty Phương Nam], nhà xuất bản Phương Nam đã tái bản 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi Mắt Trên Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng Sáo Người Em Út), và truyện dài Nguyệt Đồng Xoài của Lê Xuyên. Ngay sau đó, Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80, như một đao phủ đã không nương tay viết bài đấu tố Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, và quy tội Công ty Phương Nam.
Vũ Hạnh viết: “Sách của Dương Nghiễm Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là tính đồi trụy." Vũ Hạnh viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các tác giả Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không hề gặp bất cứ sự quấy phiền nào." [Sài Gòn Giải Phóng, 22/4/2007].
Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trước 1975 đông đảo thế hệ văn nghệ sĩ Miền Nam không thiếu lòng nhân ái đã hơn một lần cùng vận động ký tên yêu cầu thả Vũ Hạnh. Vũ Hạnh cũng được Văn Bút Việt Nam che chở, và khi bị kết án tù thì chính linh mục Thanh Lãng, Chủ tịch Văn Bút đứng ra bảo lãnh, để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công khai ra ngoài họat động.
Sau 1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường... hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu sống bằng nghề sơn mài, Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả kịch Bão Thời Đại thì phải đứng sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường Một Chiều làm công nhân sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm ở tù ra trở thành Người Bán Cà Rem Dạo.
Nghiễm vốn tâm lành, nếu có ai nhắc đến chuyện Vũ Hạnh thì anh chỉ cười, giọng vẫn bao dung, anh tin trên đời người tốt nhiều hơn kẻ xấu, kẻ xấu như vậy rốt cuộc họ cũng tự thấy sai. Nghiễm có lạc quan quá không vì đã hơn 40 năm chịu khổ ải do họ gây ra, nay đã tới tuổi gần đất xa trời mà sao họ vẫn“chưa tự thấy sai” chưa hề biết sám hối. Một người bạn rất quen biết Vũ Hạnh nhận định: sự hung hãn ấy chỉ như tấm bình phong – một thứ raison d’être, biện minh cho sự hiện hữu của Vũ Hạnh còn như một người cộng sản.
“Ngày Xưa Vũ Hạnh” cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh thang, vẫn được đối xử như một nhà văn [Lý Đợi, talawas 10.5.2007] “Ngày Nay Vũ Hạnh” bên thắng cuộc – tên bộ sách của Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là tiếng nói hung hãn nhất trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia. Vẫn một cliché, vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy xuyển: “tác giả là gốc ngụy, nội dung tác phẩm là nô dịch phản động đồi trụy”. Vũ Hạnh xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng ta, chèo lái con thuyền chở đạo” vẫn không ngừng truy đuổi cả những thế hệ nhà văn trẻ nối tiếp có khuynh hướng tự do, điển hình qua bài viết phê phán Nhã Thuyên và Nhóm Mở Miệng với hai cây bút nổi trội là Lý Đợi và Bùi Chát [Thấy gì từ một luận văn sai lạc, Văn Nghệ 29/2013].
Có lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những người cộng sản tha hoá bước vào Thế Kỷ 21 là sự “nguỵ tín/ mauvaise foi” họ sống với hai bộ mặt, vẫn không ngừng hô hào cổ võ cho điều mà họ không còn chút tin tưởng. Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi con cái đi du học rồi trưởng thành sống ở Mỹ; Vũ Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một con người tự do.
Trở lại với Nghiễm, nhiều người vẫn nghĩ rằng, sau 1975, ngoài thời gian bị tù đày, đi làm sơn mài kiếm sống, Dương Nghiễm Mậu không còn viết gì. Điều này có lẽ không đúng. Nghiễm không có sách mới xuất bản trong nước suốt 40 năm từ sau 1975. Nhưng Dương Nghiễm Mậu như tôi biết, anh vẫn viết, trong đó có “Tự Truyện Nguyễn Du” như một tác phẩm lớn mà tôi tin là anh vẫn bền bỉ hoàn tất từng trang sách.
2015_ Mưa California Mưa Sài Gòn
California vẫn khô hạn, nhưng thản hoặc cũng có những cơn mưa đủ tầm tã để gợi nhớ những cơn mưa Sài Gòn, nhớ ngày tới thăm bạn cũng vào một buổi chiều mưa như vậy, với những khúc đường xá thì ngập lụt.
Hạnh phúc ở xa là có được một người bạn như Nghiễm, cho dù ở đâu và bao giờ có biến động ra sao thì vẫn cứ là một Dương Nghiễm Mậu với Nhan Sắc ấy, nhất quán và xác tín như thuở nào: có cái dũng để nói không.
Tôi nghĩ tới Nghiễm, anh đã sống trong dòng chính sinh hoạt Văn Học Miền Nam, từ rất sớm cho tới 1975, và 40 năm sau anh vẫn thăng trầm với vận nước ngay trên quê nhà. Anh là một nhân chứng khả tín cho suốt thời kỳ ấy và điều anh viết ra được mọi người tin.
Lời Cuối Cho Bài Viết
Dự định khởi đầu là một bài viết về cố tri Dương Nghiễm Mậu, với cuộc hành trình 40 năm của anh. Bài viết chỉ với hơn bảy ngàn chữ, nhưng rồi không tránh được, như một flashback, có thêm những khúc phim trắng đen ngắn của hồi tưởng rất chung và cả rất riêng tư, khá rời rạc đổ tràn theo những trang viết.
Vậy mà đã 40 năm qua đi 1975-2015, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở về với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải kể tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ. Nói tới Văn Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng/ livre blanc” về thời kỳ đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
Trong quá trình phục hồi di sản Văn Học Miền Nam, không thể không nhắc tới một tên tuổi: Trần Hoài Thư – Thư Quán Bản Thảo, anh có hùng tâm và đơn độc trong suốt nhiều năm nỗ lực khôi phục lại những văn bản của một thời kỳ văn học bị truy lùng và huỷ diệt.
Không phải là quá sớm để ghi lại một giai đoạn lịch sử trung thực, chứ không phải là “phiên bản” nguỵ tạo mà người cộng sản đã và đang làm. Trước khi lịch sử bước qua một trang khác.
NGÔ THẾ VINH
Sài Gòn 1975 – California 2015$pageOut$pageIn
Báo chí miền Nam viết nhiều, nói nhiều về Dương Nghiễm Mậu và đều dành cho ông những tình cảm đặc biệt và một vị trí xứng đáng trong dòng văn học Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1954 trở lại đây (ngoại trừ thằng Gù bên hông nhà thờ Đức Bà).
Với 21 tác phẩm, gồm truyện ngắn, truyện dài và những đoản văn, bút ký… người đọc đã nhìn thấy trọn vẹn thái độ và trách nhiệm của ông với ngòi bút của chính mình trước người đọc, xã hội và cả một khúc lịch sử ngắn ngủi bị xé toạc, tơi tả.
Trên bán nguyệt san Thời Tập, số cuối cùng, số 23 tháng 4.1975, khi mà ông chủ bút Viên Linh chưa thấy được mặt mũi “đứa con út”, thì ở đó, Dương Nghiễm Mậu đã có bài trả lời ngắn về những lý do tại sao ông không chịu di tản ra nước ngoài: “Có người đến hỏi tôi: Có đi ra ngoại quốc không? Tôi đã trả lời dứt khoát: Tôi sống và chết tại nơi này. Người ấy hỏi: Anh chấp nhận sống chung với người Cộng Sản? Tôi nói: Tôi không phải là một con chó để nay sống với chủ này, mai sống với chủ khác chỉ vì miếng xương chúng liệng ra. Tôi tin tưởng con đường tôi đi. Có một nơi là lẽ phải và ánh sáng. Có một nơi là lẽ trái và bóng tối. Có trắng và đen không thể nhập nhằng được. Nếu tôi có chết chăng nữa, điều ấy tôi không ân hận. Lịch sử đã chứng minh rằng: Nhiều khi cái chết là một điều tốt hơn là sống. Chết đi cho người khác sống, cho lẽ phải và sự thực, sống chết như thế cần thiết. Tôi bình tĩnh với quyết tâm đó”.
Thái độ chọn lựa của Dương Nghiễm Mậu cũng chính là thái độ của chàng Kinh Kha với con chủy thủ trên đất Tần bất trắc, một truyện ngắn mà ông đã rút cả máu, cả ruột gan để viết. Ông để Kinh Kha qua sông Dịch. Ông ném đoản đao vào tay Kinh Kha. Chàng cầm chặt, kề vào cổ Tần Vương, nhưng thay vì run sợ, Tần Vương lại ngửa cổ cười khan, sảng khoái. Và chàng hiểu ra tất cả: Tần Vương này chết sẽ có một Tần Vương khác, vài ba Tần Vương khác… đánh đổ một chế độ độc tài này thì tức khắc sẽ có một chế độ độc tài khác mọc lên.
Đó là sự thất bại cay đắng của trí thức, một thất bại nhục nhã của lòng yêu chuộng tự do, hoà bình. Và hình ảnh chàng Kinh Kha lầm lũi quay lui trong một cung điện nguy nga, tráng lệ tội ác vẫn là nỗi đau đớn không cùng của chính ông, như một dự báo cho ngày hôm nay.
Tại sao như vậy? Những kẻ tọc mạch luôn muốn biết “tại sao” như một căn bệnh sổ mũi kinh niên. Và không để cho những kẻ đó khốn khổ mò mẫm trong bóng đen suy diễn, ông dốc tuột sự thật đang diễn ra từng ngày từng giờ, mà ai cũng nhìn thấy những cảnh tượng đau lòng này nối tiếp những đau thương khác dồn dập đổ ập trên quê hương: “Những chiếc xe như súc vật, những xác nguời nằm như lá khô, pháo kích không ngừng, những bà mẹ, đứa bé bò trên mặt đường và chiếc bình sữa… Trong cồn cào của thời sự, những sự việc làm tôi chóng mặt. Tôi tự hỏi: có phải đã tới lúc mà mình phải cầm lấy mũi nhọn, phải, chỉ có thế trong chọn lựa một khi cơn lốc đến. Tôi không thể có một chọn lựa đầu hàng để sống như trâu chó. Tôi chỉ thương hai tấm con thơ… Có thể một cơ sự như thế sẽ đến không?” (sđd) .
Những cảnh tượng kinh hoàng, xám xịt màu đen tối kia, không phải chỉ đến những ngày cuối cùng chúng ta mới nhìn thấy, ông mới nhìn thấy. Đã từ rất lâu, khi mới là chàng thanh niên ngoài 20, ông đã thấy và hiểu tất cả, tạo thành vật nhọn đâm thẳng vào tâm hồn ông, đau nhói. Ông đã nhìn thấy và ông đã viết ra. Trong bối cảnh xã hội đang vật vã, hấp hối, với tư cách của một phóng viên chiến trường, ông đã lặn lội đến tận nơi các đơn vị hành quân trên khắp 4 vùng chiến thuật, sống dưới đạn bom gào rú trong các trận đánh, những bãi chiến trường xác chết ngổn ngang. Nhưng bi thảm nhất, đọng lại trong tâm trí ông là những cảnh tượng hãi hùng: Đó chính là những xác chết, những nấm mộ lấp vội ven đường, trong vườn nhà của những người dân vô tội, không có lấy một tấc sắt trong tay để tự vệ trong biến cố Mậu Thân ở Huế. Sự điên cuồng dã man đã đẩy hàng ngàn người dân vô tội chết tức tưởi, chết không nhắm mắt mà không hiểu tại sao mình phải chết! Trong bút ký Đi Trên Những Xác Chết đăng trên bán nguyệt san Văn số 104 phát hành ngày 15.4.1968, sau này in lại trong tập Địa Ngục Có Thật , có đoạn ông ghi lại: “Ở trong nhà mọi người vẫn sinh hoạt bỗng nghe tiếng nổ, rồi một người đàn bà kêu lên ở ngoài sân, chạy ra thấy bà ta ngã xuống chết. Hết sức kinh hoàng, cũng như phía sau nhà đó, bảy người cùng chết, những ngày đó chẳng ai chết mà có được quan tài. Người ta lo đào một cái huyệt vùi xuống cho xong. Tội nghiệp, một bà vợ ở xóm trên này, ông chồng bị bắt đi bị bắn chết, bắn chết trước mặt, rồi trận đánh tới, bà vợ chỉ còn đủ thì giờ kéo xác ông chồng về bỏ trong buồng, đóng cửa lại rồi dắt con chạy loạn…”
Một đoạn khác, cũng ở bài bút ký này: “Những ngày đầu tiên, ngay sau khi tiếng súng ngừng nổ, người ta đã đổ xô tới đó nhìn mặt những người chết đã nát, nhiều xác chết để bừa bãi, mặt che bằng những tàu lá chuối, bằng những tờ báo, những con chó quanh quẩn, những người bao khẩu nhìn ngó… Những cái xác nào bị đào lên dập xuống nhiều lần. Những đồng bạc được đếm trên những xác người sình thối… Hai ngàn, rồi năm ngàn… Những xác chết đã thành tiền cho những người nào đó…”.
Đó là những gì ông đã tận mắt nhìn thấy ở khu vực cầu Gia Hội, Huế trong những ngày Mậu Thân.
Vâng, Từ Gia Hội qua Phú Cam, lên Thừa Phủ, đến sân nhà thờ Chánh toà và cả sân trường Đồng Khánh… nơi nào cũng xác chết, cũng tan hoang, cũng thù hận và chém giết và máu và xương trắng và khăn tang... Chính lũ người mọi rợ mang trong đầu cái học thuyết hoang tưởng và ngu xuẩn nhất trần gian đã đẩy cả ngàn người dân vộ tội vào tử lộ. Và, chúng ta hỏi, họ là ai? Không ai cả mà cũng chính là họ, những người trí thức, những kẻ mô phạm, những tên cuồng tín. Ông đã đưa ra hình ảnh một cô gái Huế mỹ miều, mấy năm liền thi rớt y khoa ở Sài Gòn, sau trở về Huế học văn khoa, bỗng dưng một ngày kinh hãi nổ ra, cô ta xuất hiện trên chiếc mobylette như một mụ phù thuỷ gớm ghiếc đu trên chiếc chổi cùn… “Đến lúc biến cố mọi người thấy cô ta mặc quần jean đeo súng và chạy cùng khắp trong thành phố, nhiều người bị cô ta chỉ vào mặt và tất nhiên sau đó nhiều hậu quả đã xảy ra…”.
Không chỉ chừng đó cảnh tan hoang nheo nhóc. Ở tận cùng đất nước: Cà Mau rồi ngược ra Tây Nguyên, những Pleiku, Kontum, Nha Trang, Phan Rang… Quảng Ngãi, Đà Nẵng… đâu đâu, nơi nào cũng có “những anh em du kích lẻn về phá rối đời sống dân chúng”.
Không chỉ nghe. Không chỉ nhìn thấy, tận mắt chứng kiến mà, hơn hết, như ông nói là phải có trách nhiệm với ngòi bút, nên ông đã ghi lại một cách trọn vẹn. Đó cũng là trách nhiệm với bản thân ông, trách nhiệm với xã hội bằng giọng văn đặc hữu: Tỉnh táo đến độ khô khốc như những cơn gió Nam cồ Nam mái trên dãi đất miền Trung, xoáy tung những mái tranh nghèo xơ xác, nhấn chìm những phận người như bọt bèo, nhưng không thấy ở ông, những dòng chữ nơi ông sự bi thiết hay hằn học.
Có lẽ chính điều này đã giữ cho tâm hồn ông được thăng bằng, bởi trong bút kỹ đã dẫn, ông trích lại vài trường canh trong ca khúc của Phạm Duy ẩn hiện đâu đó trong ký ức ông. Đó là những ca từ và giai điệu đẹp để cuộc đời này đẹp hơn chút, trên đống hoang tàn đổ nát: “Buổi sáng nay thức dậy, nghe tin em gục ngã nơi chiến trường, nhưng trong vườn anh, đoá trà mi vẫn nở thêm một đoá, tôi vẫn sống tôi vẫn ăn và tôi vẫn thở… biết bao giờ…”.
Viết về Dương Nghiễm Mậu lúc này giống như đang ngồi trước tủ sách trống rỗng của ông: Một nỗi niềm xót xa cay đắng của một nhà văn luôn đặt trách nhiệm về thiên chức và nhân cách lên hàng đầu, như là điều xác tín: “Với riêng tôi, nhìn lại quá khứ từ 15 năm trở lại đây tôi có thể hài lòng để nghĩ rằng mình đã làm hết, đóng góp hết những gì có thể làm, có thể đóng góp. Lập trường dứt khoát của tôi đã hơn một lần được xác định trên những giòng chữ viết. Ở đó bao hàm một phấn đấu không cùng” (trả lời trên Thời Tập).
Tôi nhớ trên tuần báo Khởi Hành năm 1969, đã đặt câu hỏi về những suy nghĩ của nhà văn về tuổi 20, ông đã nói, đại ý: “Với lương tri… người trẻ tuổi nào cũng mong tìm thấy cho mình và cho mọi người một đời sống đáng sống. Bộ mặt thực của thế hệ 20 ở Việt Nam năm 1969 không phải do cái bề mặt giả hình của nó, mà nhiều người trẻ tuổi khoác lên mình hay người ngoài nhìn vào thấy. Có thể nói bộ mặt đó bi quan nhưng rất tin tưởng”.
Còn trên tuần báo Nghệ Thuật, khi đọc tác phẩm Đêm Tóc Rối, Viên Linh đã có nhận xét: “Nhân vật của Dương Nghiễm Mậu là những người trẻ tuổi bị đè nặng bởi quá khứ về mặt tinh thần, và bởi tương lai về mặt trách nhiệm… Nhân vật Dương Nghiễm Mậu là người tù giam lỏng”.
Khoảng năm 1972, trên tuần báo Khởi Hành có loạt bài thăm dò độc giả bây giờ thích nhà văn nào, tại sao? Và tôi nhớ có một độc giả viết như sau: “Về Dương Nghiễm Mậu, ta bắt gặp hình ảnh của những kẻ sĩ bó tay trong một xã hội băng rã. Phong thái nhân vật của ông nửa anh hùng, nửa ăn cướp. Dương Nghiễm Mậu hiểu được phần nào tâm trạng của những người trẻ tuổi ưa suy nghĩ, thích hành động nhưng sớm chán nản trước thời cuộc”.
Trước 1975, độc giả vẫn đón đợi ở ông những suy tư ray rứt từ những nhân vật. Và bây giờ cũng vậy, đó là lý do tại sao nxb Văn Nghệ (Sài Gòn) và công ty văn hoá Phương Nam cho tái bản 4 tập truyện ngắn của ông (Đôi Mắt Trên Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng Sáo Người Em Út) đã khiến thằng Gù phải dở giọng cay độc như đã từng, hồi đầu những năm 75,76: “Những tác phẩm này giá trị ra sao, đa số bạn đọc sống ở miền Nam trong thời chống Mỹ đều đã biết rõ. Bởi lẽ, những quyển sách này không chỉ là các sản phẩm văn hóa mà vốn là những vũ khí độc hại về mặt tinh thần…
…Hơn ba mươi năm trôi qua, những thứ sản phẩm, gọi rằng văn hóa, rất độc hại ấy đã được xếp xó cùng với bao khối bom, mìn, súng ống đủ loại từng gây chết chóc, thương tật cho những con người yêu nước và tưởng rằng sự yên nghỉ ngàn thu của các sản phẩm như thế là chuyện lịch sử đã an bài rồi. Và các tác giả - là Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên - sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không hề gặp phải bất cứ sự quấy phiền nào. Những nỗi khổ đau và những sai lầm đã được xếp vào dĩ vãng, được khuyên khép lại, quên đi để cùng nhìn vào thực tại, hướng về tương lai…
…Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu. Các bạn đọc này gồm nhiều thành phần: vị tướng đã từng xông pha trên các chiến trường chống Mỹ, nhà giáo dạy văn, một cựu sĩ quan quân đội, nhà thơ, nhà báo... Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước” (SGGP số ngày …/4/2007).
Đọc lại những truyện ngắn trong 4 tập này, không biết thằng Gù tìm ở đâu ra những dòng chữ và các nhân vật lẫn lời thoại trong đó là những vũ khí độc hại về mặt tinh thần… rồi thì: là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước.v.v. Thằng Gù chỉ nói vu vơ mà không chỉ ra được độc hại và xúc phạm danh dự đất nước nằm ở chỗ nào trong 4 tập truyện trên? Có phải vì trước đây, trên tuần báo Nghệ Thuật (hay Khởi Hành?) có loạt bài phỏng vấn Độc gải bây giờ thích nhà văn nào? Và thằng Gù thì không có tên trong những nhà văn được độc giả ưa thích nhất: Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Trùng Dương, Nguyễn Đình Toàn, Viên Linh, Nhã Ca… nên ông cay cú mãi tới tận ngày hôm nay? Hoá ra ông ta chỉ là tay chạy chợ, một kẻ xum xoe theo lối chính trị hoá văn học giảo hoạt không hơn kém!
Trong khi đó, một cách công tâm, nhà phê bình văn học miền Bắc Phạm Xuân Nguyên đã có cái nhìn sắc sảo của một nhà phê bình chính thống, không vị nể, kiêng kỵ: “Đọc văn Dương Nghiễm Mậu là đọc những trăn trở, hoài nghi, lo âu, dằn vặt trước những hoàn cảnh có thể biến con người thành chuột, hạ cấp nhân tính thành thú tính (“Những chuột”), trước sự bạo hành của cái ác có thể khiến con người dửng dưng với nỗi đau của đồng loại (“Lấy máu”). Tính biểu tượng của truyện “Những chuột” buộc người đọc từ hoảng sợ đến thức tỉnh.
Đọc văn Dương Nghiễm Mậu là đọc những day dứt lựa chọn của người trí thức, người sĩ phu trước một hiện tại lịch sử: xuất xử hay hành tàng, hành động hay không hành động, hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào. Cả tập Nhan sắc gần như có thể nói là được viết cho đường hướng tư tưởng này, bằng những truyện dã sử và giả sử. Từ Hải, Kinh Kha, Hồ Quý Ly, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ, Phạm Thái khi trở thành nhân vật của Dương Nghiễm Mậu đã được nhà văn đặt vào những tình thế lựa chọn, và họ đã phải lựa chọn theo cách của con người hiện đại muốn ở họ. Họ phải lựa chọn để không ngừng đi tìm ý nghĩa của cuộc sống. “Phải sống. Sống không phải là nương theo những điều đã được định sẵn. Sống là tìm kiếm, lựa chọn, đương đầu...”, do đó, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về những quyết định của mình
Đọc văn Dương Nghiễm Mậu là đọc những tình cảm bình thường, giản dị, mà chân thành, xúc động, đưa đến những đồng cảm, sẻ chia giữa những con người cùng ở trong một tình thế sống (“Lời chúc cho kẻ phản bội”). Văn đó không hề hạ thấp con người, ngược lại, nó buộc mỗi người phải bận tâm với chính mình trong tư cách con người.
(Phạm Xuân Nguyên, Truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu, Thể Thao & Văn Hoá, số ra ngày 13/4/2007)
Tạm bỏ qua chuyện thằng Gù, chúng ta hãy trở lại câu hỏi: Tại sao độc giả lại thích truyện Dương Nghiễm Mậu? Vì khoảng trước năm 1963, như lời kể của Mai Thảo trên tạp chí Văn, Caliornia số tháng 12 năm 1984 thì thiên truyện đầu tay của Dương Nghiễm Mậu gửi đến toà soạn (không nói rõ tạp chí nào) và bị vất bỏ. Mai Thảo nhặt được, đọc nó và cho đăng (trên Sáng Tạo?). Thiên truyện này được Võ Phiến nhắc lại trong bộ Văn Học Miền Nam có tựa Rượu Chưa Đủ: “Chuyện xảy ra ở một thành phố… Nhân vật chính thường ngày đến công viên, gặp người này người nọ, làm chuyện nọ chuyện kia .v.v., công viên nào vậy? Tác giả không thèm đặt cho những nơi chốn đó lấy một cái tên” (Võ Phiến, VHMN, trg 709).
Cũng theo những tiết lộ của Võ Phiến, trong những truyện ngắn đầu tay và những tập truyện xuất bản đầu tay như Cũng Đành, Gia Tài Người Mẹ… độc giả chừng như không mặn nồng đón đợi gì nhiều ở ông, có lẽ do cách viết “không giống ai” ở ông. Dương Nghiễm Mậu chấp nhận điều này, xem như một lối đi riêng của mình và buộc độc giả phải chấp nhận. Quả vậy, độc giả đã “đầu hàng” và dần hồi tìm thấy ở ngòi bút của ông một phong cách riêng, rất độc đáo, không lẫn với văn phong của ai khác; ngay chính trong nội dung và những vấn đề ông đặt ra cho từng nhân vật nhận lấy trách nhiệm, hành động cùng những suy tư cũng kiến độc giả phải “giật mình”. Nói giật mình, bởi ông đứng hẳn về phía cái mới, từ cấu trúc ngôn ngữ, xây dựng nhân vật để chuyển tải những nội dung ông đặt ra, thường là những câu hỏi “không hỏi”, để cho người đọc tự xoay xuể, tìm câu trả lời theo cách riêng của từng người. Ông chỉ đặt ra các vấn đề mà không giải quyết vấn đề? Về vấn đề này, trên Bách Khoa số 154 ngày 1.6.1963, Đặng Tiến có nhận xét: “Tất cả các nhân vật của Dương Nghiễm Mậu đều nghèo túng. Xã hội của Dương Nghiệm Mậu là xã hội bị chiến tranh tàn phá, ở đâu cũng còn vết tích của rạn vỡ: Trong thành phố, trên cơ thể, trong tâm hồn. Một xã hội con lạc cha, vợ lạc chồng, anh em hầm hè nhau như hổ đói, người với người xem nhau như súc vật. Nhưng truyện của Dương Nghiễm Mậu không phải là truyện xã hội…, Vấn đề đặt ra ở đây, không phải là làm thế nào mang lại cơm áo cho những người đói rách, nhưng vấn đề là tạo ta trong mỗi người đang đói rách một ý thức về những giá trị siêu việt trầm tích trong tâm hồn họ… Vấn đề ở đây là một vấn đề siêu hình, thuộc về định mệnh ” (Võ Phiến, sđd, trg 708).
Điều mà nhà phê bình Đặng Tiến nhìn thấy ở Dương Nghiễm Mậu cách đây non nửa thế kỷ có lẽ khá chính xác đối với toàn bộ tác phẩm của nhà văn Dương Nghiễm Mậu, bởi sau 1975, ngoài thời gian bị tù đày, làm sơn mài kiếm sống, hầu như ông không viết gì, hiếm khi tiếp xúc với những “kẻ lạ mặt”. Duy nhất độc giả chỉ mới được đọc tập truyện vừa ở dạng ebook trên mạng có tựa Lênh Đênh Trên Cửa Thần Phù và ở đó, trong truyện này, ông cũng đã tạo ra trong mỗi người đang đói rách một ý thức về những giá trị siêu việt trầm tích trong tâm hồn họ. Cũng lại là vấn đề siêu hình và thuộc về định mệnh!
Cái định mệnh khốc liệt ấy, không phải do ông tạo ra, ông không có quyền dựng lên. Nó chỉ là cái hiển nhiên của xã hội đã đẻ ra nó, để những đứa con xác xơ Chí Phèo bị quăng ra giữa đời, để những Xuân tóc đỏ, những chị Dậu… buộc phải hiện hữu trong thời hiện đại rất đỗi ma quỷ. Thời đại đang có sự lẫn lộn giữa thiện và ác, giữa quỷ và người. Và ông, với thiên chức của nhà văn đã ghi lại trung thực.
Điều đáng tiếc duy nhất ở phía người đọc trong nước bây giờ, giống như tủ sách trống không của ông, chúng ta không còn có quyền giữ lại một tác phẩm nào của các nhà văn miền Nam để nhẩn nha đọc lại, để có cái nhìn chính xác hơn về nhân vật, về nội dung sau bao nhiêu năm bị đóng kín sau “khung cửa hẹp”. Dẫu không còn tác phẩm trong tay, nhưng những gì chúng ta đã được đọc trong 21 tác phẩm ông để lại cho đời là những dự báo, là những cơn đau quặn thắt cho mỗi chúng ta, những người còn chút lương tri, dẫu ở trong hay ngoài nước, như blog Bút Chì đã viết, được Dân Luận trích đăng và dẫn sau đây:
“Em lớn lên, em nhìn xung quanh, em học và suy nghĩ, có bao giờ em nhìn thấy gì, nghe thấy gì ngoài những băng rôn khẩu hiệu khoa trương trống rỗng, những lời lẽ sáo mòn vô nghĩa, những bài học khô khan buồn ngủ? Em lớn lên, em xem ti-vi và đọc báo, em có bao giờ thấy những con người béo tốt đang tự giao cho mình trọng trách cầm lái cho đất nước dám đứng lên nói một cái gì không cần cầm mảnh giấy, nói một cái gì không làm em buồn ngủ, nói một cái gì mới trong suốt từng ấy năm? Và giả như có lúc nào họ nói không dùng giấy, hoặc thậm chí nói với sự chuẩn bị kĩ lưỡng trước khán giả nước ngoài, có phải em sẽ nhận ra ngay sự ngu dốt, ấu trĩ, độc ác và chết chóc trong từng hơi họ thở? Làm sao em có thể mơ đến việc họ có thể kể cho em nghe về những hy sinh mất mát của tiền nhân, về những khó khăn đau khổ của hiện tại, về việc tiếp nối một truyền thống nào và hướng đến một tương lai ở đâu. Không, họ không kể với em gì cả. Họ luôn xuất hiện chớp nhoáng sau những chiếc mặt nạ rồi nhanh chóng lủi đi mất”
(https://danluan.org/.../but-chi-ke-chuyen-em-nghe-tu-nuoc...).
Tôi không dám chắc chủ blog này đã có đọc Dương Nghiễm Mậu hay chưa? Nhưng hơn hết, có lẽ anh (chị) chủ blog này thuộc thế hệ trẻ, thế hệ có lương tri, có suy nghĩ, thao thức, dằn vặt về vận mệnh dân tộc. Những ray rứt trên kia, có phần nào giống với các nhân vật của Dương Nghiễm Mậu từng băn khoăn, ray rứt và bất lực?
Và, ông Mậu bây giờ cũng có những chiếc mặt nạ ma quỷ, nhưng không phải để treo lên tường như một cách làm dáng thường thấy ở loại nhà văn rởm, cung đình, mà làm ngay trên mặt ghế đẩu, bằng sơn mài để ông ngày ngày kê đít lên, bạn bè tới thăm kê đít lên.
“Dù vũ trụ có đè bẹp con người, con người vẫn lớn hơn những gì đã huỷ diệt nó. Người ta nhớ lại câu nói đó của Pascal khi đọc Dương Nghiễm Mậu” (Đặng Tiến, Vị trí con người dưới mắt Dương Nghiễm Mậu, Bách Khoa số 154).
Những nhân vật của Dương Nghiễm Mậu, kể cả chúng ta đang bị “đè bẹp” và chúng ta “vẫn lớn hơn những gì đã và đang huỷ diệt nó”.
Đó là thái độ của kẻ sĩ.
Sống tự do hay là chết.
Đó là cách chọn lựa của kẻ sĩ bất lực!
NGUYỄN LỆ UYÊN
(Udon Thani tháng 12/2012)$pageOut$pageIn
Viết về Dương Nghiễm Mậu, trước đây, bây giờ và mai sau, nhiều người đã viết, đang viết và sẽ viết. Có nghĩa rằng, dù Vũ Hạnh muốn những đứa con tinh thần của anh “an giấc ngàn thu” [1] qua những trận phần thư sau 75, nhưng chúng vẫn không chết.
Trong một bài trả lời về việc Vũ Hạnh phản đối nhà xuất bản Phương Nam đã tái bản 4 tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, Phạm Xuân Nguyên hiện là chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, đã nhắc khéo người mang tên “thằng gù ở bên hông nhà thờ Đức Bà” rằng, trong tự điển văn học do miền Bắc xuất bản, đã không thể không ghi tên Dương Nghiễm Mậu và dành riêng 4 trang để viết về thân thế và sự nghiệp sáng tác của tác giả.
Cái mà Vũ Hạnh vừa soi mói vừa mỉa mai gọi là dòng chảy âm thầm đó, tức là văn học miền Nam trước 75, thực sự là một dòng sông lớn vẫn miệt mài xuôi chảy không ngừng về đại dương văn học của dân tộc.
Vũ Hạnh chỉ còn là một tên biệt kích già, (chính ông ta nằm vùng ở miền Nam làm biệt kích văn hóa), sau khi chỉ điểm để đưa hàng loạt nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng vào chốn lao tù vẫn không được đảng cho nắm giữ chức gì, bị bỏ rơi như một con mèo ốm, nhân cơ hội tái bản sách của Dương Nghiễm Mậu liền meo meo cho mọi người biết rằng hãy còn có “ta” đang hấp hối trong đống rác của lịch sử.
Trước sự ồn ào thù hận không vì giai cấp mà vì ganh tài, nhà văn một thời thao thức đi tìm con đường dấn thân, “của người trí thức, người sĩ phu trước một hiện tại lịch sử, hành động hay không hành động, hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào”, [2] anh chỉ mỉm cười.
Có người bảo đó là nụ cười an nhiên vì tin ở mình, có người bảo đã đến chỗ tĩnh lặng của chữ Thiền.
Tôi, thì tôi không nghĩ như vậy. Ai mà không đau xót khi thấy những đứa con tinh thần của mình bị vùi dập không thương tiếc. Không chừng nụ cười đó chính là tiếng khóc khô không lệ, như Xuân Diệu từng viết.
Tôi được một lần đến thăm anh cùng với Lữ Kiều.
Chỗ tiếp khách chỉ có mấy chiếc ghế, một cái bàn con và một cái tủ rỗng. Một cái tủ trong ngôi nhà trống tềnh toàng, rộng hơn một thước cao hơn hai thước, không ngăn kệ, không cửa nẻo với 5 mảnh ván cũ xỉn đóng khung cái không gian lạnh lẽo như trong một cái áo quan. Cái tủ ấy đã từng chất đầy sách của chính anh trước tác, của bạn bè và đương nhiên là của các nhà văn lớn đông tây kim cổ. Trước tôi, Trần Vũ một lần ghé thăm anh có viết về cái tủ sách không có sách ấy. Nó là chứng tích của một thời phần thư ô nhục, mà cái chế độ lớn tiếng tự xưng là ưu việt này gây nên.
Không chỉ riêng anh, ở miền Nam này, nhà nào cũng có một tủ sách bị hốt sạch như thế. Nhưng rồi, người ta tìm cách lấp đầy khi cái cơn cuồng nộ ngu muội kia qua đi. Đó là chưa nói tới những tủ sách ở miền Bắc được thay dần toàn những thứ “phản động, đồi trụy”. Việc săn lùng sách miền Nam đã trở thành một mốt mới, một thức tỉnh của những người lâu nay khát gió thèm mây, trong số đó đương nhiên là những nhà văn nhà thơ cuối đời nhận ra những gì mình viết chỉ là một tấm bia mộ, như Nguyễn Khải.
Nhưng với anh, tủ vẫn để trống không, vẫn như một cái huyệt mộ. Tôi tưởng tượng, những đêm mất ngủ, bên tách trà, một mình anh với cái tủ, không biết anh đã nói những gì với nó. Một lời xin lỗi hay một cái nháy mắt rằng, cái ngày ấy không còn xa!
Cái tủ rỗng không ấy, mới nhìn thì thật vô duyên, nhưng ngắm kỹ thì lại hóa hay. Nó như một con mắt trừng trừng nhìn vào quá khứ dù đã bị móc mắt. Nó còn là vết xăm lên trán một nhà văn. Nó cũng còn là một thách đố thầm lặng, là chiếc áo quan mở sẵn để chờ khâm liệm cái thây ma nô dịch kia.
Còn một điều này nữa, khi đứng dậy ra về, tôi nhận ra trên chiếc ghế sơn mài mình vừa ngồi là khuôn mặt cách điệu của một trong những kẻ gieo tai ách lên đất nước này. Sơn mài là một nghề kiếm cơm của anh sau 75, khi được cụ Nguyễn Gia Trí chỉ vẽ cho một vài thủ thuật. Anh đã tỉ mẩn đem những khuôn mặt của quỷ bày lên đó cho mọi người đặt đít ngồi xuống.
Hóa ra anh lại còn thâm hơn các cụ thâm nho ngày xưa.
Khuất Đẩu
29/11/2012
[1] Chữ dùng của Vũ Hạnh
[2] Phạm Xuân Nguyên
$pageOut$pageIn
Bài bút ký thứ nhất (biến cố 1963, Nhất Linh tự vẫn)
[nguồn by Trần Hoài Thư]
30-5-63
Xe ngang qua Xá-Lợi thấy có nhiều xe đò đậu phía sau trường Gia-Long cùng với một số cảnh sát có xe jeep. Tôi linh cảm có chuyện gì đây. Lên tới chợ Bến Thành thì đã rõ: các nhà sư biểu tình trước trụ sở Quốc Hội. Đi men lên chỗ Thông Tin Mỹ thì bị chặn lại, tôi trông thấy một số biểu ngữ, nhiều chữ nhỏ đứng xa đọc không được ngoài chữ NHỊN ĐÓI lớn. Ghé nhà in, gặp ai cũng bàn tán. Sự thực ở Huế ra sao? Tôi nói với anh T.: Sự việc này chưa thể lường được, nhất nữa nó đã trở thành công khai.
2-6
Được T. báo: anh T. chết ở Pleiku. Tôi ghé lại Xóm Chùa. Tiếng mõ tụng kinh. Bà mẹ khóc. Người vợ có mang ngất đi mê sảng. T. nói hồn anh ấy nhập vào. Xác vẫn chưa đưa về. Hai đứa đứng dưới chân cầu thang nói chuyện. Anh T. chết về mìn. T. kết luận: vô lý, sao lại chết. Mọi người chết ở mặt trận để làm gì? Chết cho ai. T. nói về thằng N.Q. bây giờ cạo trọc đầu đi làm cho H. hắn bảo: làm vậy vì muốn cho anh em có xe hơi đi. T. nói chở nó đằng sau xe khi ngang qua đường xe lửa khi muốn hắn rớt xuống cho chuyến tàu chạy ngang, thật là thời quỷ vương.
4-6
Chiều cùng anh T. lên đưa đám. Hạnh Thông Tây. Những chiếc huyệt đào sẵn, tôi đã lảng xa lúc hạ huyệt.
Tin tức về những cuộc tuyệt thực ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Quảng Trị… Biểu tình ở Huế làm 54 sinh viên bị thương báo chí loan tin dè dặt.
8-6
Gặp S.N. Tôi gặp Th. đi café nói về một Thượng Đế Ba Ngôi. Đọc cho Th. nghe một đoạn vừa viết. Th. kêu: bi quan, cô đơn, quá nhiều mâu thuẫn và nghi ngờ cả chính mình. Mình đã nói: không có gì khủng khiếp cho bằng khi biết không có một tương lai được phác lược.
11-6
Đang ngồi ở nhà in H. chạy về mồ hôi mồ kê nhễ nhại nói không ra hơi: tự thiêu ở ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt, tôi bỏ ra phố, chỗ nào cũng nói, cũng bàn và tên một người rất lạ được nhắc đến: Thích Quảng-Đức, và hình ảnh bi hùng được vẽ ra… không thể nghĩ hay tưởng tượng được… Tu sĩ chết vì tôn giáo bị kỳ thị. Tại sao đã bao nhiêu năm nay bị đàn áp, bị tước đoạt tự do, bị treo bút mà chúng ta chịu im, ôi hèn!
12-6
Cảnh sát và lính đầy phố. Không khí hoang mang chán nản. Lo âu.
Chiều ra phố, café… những lo âu kéo lên những chán nản nằm đó. Không thể viết, đọc, hay nằm im. Quy có lại sao anh buồn? anh buồn thì làm sao em hiểu, làm sao nói ra? làm sao? làm sao?
5-7
Cuốn sách xong hôm nay. Đi coi Ngã rẽ tâm tình ở rạp Hưng Đạo. Lúc về gặp lính soi đèn pin vào mặt hỏi giấy.
8-7
Chiều đọc báo được tin Nhất-Linh chết. Tự tử bằng thuốc véronal. Báo chí chỉ viết vắn tắt, nhiều chỗ bị đục trắng. Tối T. mang tới cho mấy lời di chúc của Nhất-Linh đánh máy nhoè nhoẹt. T. hỏi: Phải làm gì? Tôi nói: muộn mất rồi, đến khi hỏi nhau như thế thì đã muộn, chúng ta đã làm gì trong mấy năm qua, chúng ta đã sửa soạn gì đâu mà nói đến làm. Người ta đã chửi tôi khi nghĩ rằng phải có một ý thức hệ, khi tôi viết về xã hội, về một ý thức tranh đấu… Bây giờ làm gì? tôi không biết nữa. Làm gì khi chúng ta tay không với khối óc tan loãng, không mục đích, không tin tưởng.
Sự thật bày ra làm chúng ta thức tỉnh, nhưng đã tỉnh thật chưa?
Người ta bảo Phật giáo bi quan, yếm thế. Nhìn ngó và nghĩ xem có thực vậy không? Chúng ta mất gốc thật sự. Chúng ta theo Tây phương. Chúng ta biết gì, hiểu gì về Phật, Lão, Khổng? Dân tộc tính là gì? Truyền thống là gì? Thiên chúa giáo mang đến đây những gì? Tôi nói: Thiên chúa giáo gặp hai trong những trường hợp bất hạnh ở Việt-Nam: Pháp đã lợi dụng, người Việt nhiều nơi cho rằng người theo đạo Thiên chúa là theo Tây và bây giờ lại đang gặp một hoàn cảnh ngộ nhận như thế nữa. Thế lực chính trị và tôn giáo? Chế độ Franco ở Tây Ban Nha nhân danh gì? Nhân cái chết của N.L. tôi có viết một bài có mấy đoạn:
Tại sao Nhất-Linh đã không còn là thần tượng của tôi và của những người trẻ tuổi khác khi ông bước trở ra sân khấu cuộc sống, sự từ chối của tôi, của người hai mươi tuổi không hề toa rập với sự từ chối của những người thuộc thế hệ Nhất-Linh và những thế hệ tiếp như thế hệ 40, 30, bởi vì trước đó khi Nhất-Linh còn là thần tượng tôi đã từ chối họ rồi, bởi vì trong dĩ vãng cũng như hiện tại họ đã chẳng có gì để tôi nhìn vào đó. Tôi gọi đó là một thế hệ đã bị bôi nhem, họ đã chẳng là thần tượng mà còn là kẻ có tội với thế hệ tôi và tôi chờ đợi Nhất-Linh, nhưng khi Nhất-Linh trở lại thì chúng tôi cũng thấy Nhất-Linh đã không còn là của thời đại chúng tôi nữa, ông là của dĩ vãng, ký ức, ông là người của một thời đã qua, ông không sống trong, không nói được, không làm ra những gì chúng tôi đang sống, cần nói, phải làm… Trong một bài báo viết từ năm 1861 về vấn đề văn nghệ Dostoïevski đã đưa ra một ví dụ lý thú. Ông nhắc lại một trận động đất ở thành Lisbonne vào cuối thế kỷ thứ 18. Trận động đất hết sức dữ dội: nhà cửa, lâu đài tan nát, phân nửa dân chúng tử nạn hoặc bị thương, con khóc cha, vợ khóc chồng, cảnh tượng hết sức thê thảm.
Sáng hôm sau tờ báo Mercure de Lisbonne phát hành như thường lệ. Những nạn nhân sống sót, tuy không còn thời giờ và trí óc nào để đọc báo, cũng tò mò muốn biết các nhà văn nghệ đã viết những gì về thiên tai vừa qua. Ngay nơi trang đầu, vào chỗ danh dự, có bài thơ của thi sĩ trứ danh thời đó. Và bài thơ tạm dịch như thế nầy:
Thì thầm, hơi thở âm thầm,
Tiếng hát run run chim sơn ca.
Lóng lánh bạc
Giấc mơ giòng suối.
Ánh sáng đêm trường, bóng tối đêm trường,
Bóng tối vô tận:
Biến chuyển nhiệm mầu
Của gương mặt Thượng-Đế
Hôn, mơn trớn lệ,
Ôi! Bình mình! Bình minh!
Dostoïevski không rõ số phận của thi sĩ như thế nào, khi dân chúng Lisbonne đã đọc bài thơ ấy. Nhưng ông phỏng đoán rằng họ đã đem chàng ra phân thây hay treo cổ giữa chợ cho hả giận. Mà họ giận chàng không phải vì bài thơ từ đầu tới cuối không có đến một động tự, hay là vì nó phạm đến thuần phong mỹ tục. Họ giận là vì bài thơ trong hoàn cảnh đó, có ý nghĩa bỡn cợt quái gở, bỡn cợt sự đau khổ của ta”(1). Vậy từ 1954 đến nay, những nhà văn của chúng ta đã làm gì? viết gì? có phải chúng ta đã đùa cợt, đã mơ mộng, đã xa lánh cuộc sống, đã bỏ chạy, đã quên mất thiên chức của người cầm bút? Chúng ta đã ca hát giữa một xã hội bưng bít, giữa sự chết chóc bi thảm, giữa những áp bức đè nặng, chúng ta bỏ quên sự thật như thế mà những nhà văn của chúng ta chưa bị treo cổ lên thì kể dân chúng Việt-Nam cũng hiếu hoà lắm. Hay họ đã khinh chúng ta quá lắm, họ không còn muốn biết đến nữa. Bởi vì rõ ra đó, những thảm khốc đầy rẫy mà chúng ta im lặng, có kẻ hoan hô, ghi ơn. Kẻ sĩ đã chết hết thật rồi sao? Rõ ràng rằng xã hội đang đàn áp cả những người tu hành, nhân danh tự do, dân chủ, độc lập, dân tộc, yêu nước để buôn xương máu của chính anh em, bà con, dân chúng Việt mà sao chúng ta lại im.
Ngọn lửa Nhất-Linh sáng lên. Điều mà tôi không hề chờ đợi. Ngọn lửa một chiến sĩ, cộng vào ngọn lửa của một tu sĩ đã làm sáng lên trong tôi rằng: Giữa đêm tối bưng bít của lịch sử đã có ánh sáng mở đường, và thần tượng Nhất-Linh trở lại ngự trị trong tôi.
Tôi chia văn học Việt-Nam theo hai giòng chính: Giòng tâm linh Lý Trần. Giòng tình cảm từ Nguyễn Du tới nay.
Có một sự kiện trên thế giới: sau thử thách Mác-xít, nhiều người đã từ chối cực tả để trở về cực hữu.
Ở Việt-Nam cũng có những trường hợp như thế nhưng lại quay về hai nhánh ngách khác nhau, sau khi tôn thờ khoa học Tây Phương, sau thử thách cách mạng và Mác-xít thế hệ đó: một là lui vào vỏ cá nhân vị kỷ tìm lấy tự do trong cô đơn và phủ nhận tất cả; hai là trở về nguồn chấp nhận và muốn phục hưng một thời xưa cũ: áo dài, khăn đóng, đi cày, thắp đèn dầu, tiêu cực khước từ xã hội đương thời. Đó là một sự thật cay đắng. Đó là hậu quả những hành động tùy thuộc tình cảm: Thấy nước nô lệ thì tìm cách giải phóng, thấy cộng-sản ác độc thì chống đối. Không bao giờ hành động trên một căn bản tư tưởng cho nên giải phóng được đất nước chúng ta không giữ được độc lập và trong khi chiến đấu chống cộng-sản, nhìn thấy những nhầm lẫn phi nhân tàn bạo của chủ nghĩa Mác-xít mà chúng ta vẫn chưa có một hệ thống tư tưởng để phủ nhận nó và xây dựng một xã hội mới.
Phảng phất đâu đây tư tưởng tổng hợp manh nha một viễn tượng. Đó là một con đường, đó là con đường độc đạo khó khăn. Ở đó văn hóa nắm vai chủ yếu. Tôi nghĩ một nền văn hóa tiến bộ của thế giới và Việt-Nam phải là một nền văn hóa hướng về viễn tượng đó.
Sự cô đơn của thế hệ chúng tôi mỗi lúc một lớn. Thế hệ tôi đứng ở một ghềnh đá cheo leo, chiếc cầu tre mong manh của hai ba thế hệ trước đã bị chặt đứt, chúng tôi mất chỗ lùi chân lấy đà để vượt qua những khó khăn sừng sững. Sự vinh dự rất lớn mà sự nhục nhã cũng rất lớn. Chúng tôi vừa phải tiến bước vừa phải kiếm tìm khó khăn những giá trị tinh thần cũ làm vốn liếng mà không có người giúp đỡ, đó là trách nhiệm những thế hệ cha chú mình. Cuộc phiêu du của một giai đoạn lịch sử sắp chấm dứt? Nhất-Linh đã nói với chúng ta rất nhiều, và nhiều điều chưa nói…
Nói đến tiền chiến là nói đến lạc hậu, thoái trào, nói đến văn nghệ tiền chiến với bây giờ cũng thế. Nhưng có người đã nói: các anh chê họ thì các anh đã làm gì cho thời hậu chiến của mình chưa? anh kể tôi nghe. Các anh bảo họ là ảnh hưởng Tây Phương, bây giờ các anh ảnh hưởng gì, các anh đã phản ảnh được thực trạng xã hội ngày nay bằng họ ở thời họ không? Trước câu hỏi ấy, chúng ta không trả lời được. Đó là một câu hỏi rất đúng. Đó là điều đặt ra cho người cầm bút ở đây. Chúng ta có một căn bản tư tưởng nào? Tại sao chúng ta chưa nói được những điều của thời đại chúng ta?
Là một nhà văn trẻ tôi vẫn đinh ninh rằng: chúng ta có một nền tư tưởng Việt Nam, giá trị tinh thần ấy do sự kết hợp của nhiều nguồn tư tưởng mang đến trong giòng lịch sử. Hơn một thế kỷ nay nền tư tưởng đó đang được bồi đắp bởi nền tư tưởng Tây Phương. Không thể nói rằng chúng ta không có tư tưởng, không thể nói rằng chúng ta chỉ chịu ảnh hưởng cái này hay cái khác. Đã là tác phẩm của một nhà văn Việt Nam thì ở đó có hơi thở của một tinh thần Việt Nam. Tôi quả quyết điều đó. Văn chương của chúng ta hiện tại chưa hay không phản ảnh được thời đại chúng ta lỗi đó không riêng cho nhà văn, tôi không có ý muốn bào chữa giảm khinh cho trách nhiệm của họ. Tại sao? Tôi mong mọi người dành một chút suy nghĩ về những khía cạnh của nguyên do đó. Trước khi kết tội nhà văn.
13-7
Sáng đi cùng anh T. lên Grall đưa đám N.L. Khi trên xe trở về một người đàn bà nói: Thấy buồn về cái chết của anh Tam chẳng đi tới đâu. Người ta hèn quá. Mọi người đã im lặng. Im lặng vì thấy rằng bà ta có lý: đại diện của cái hội văn hóa mà N.L. sáng lập, làm chủ tịch rồi làm cố vấn chỉ ấp úng mấy câu ai điếu vào phút chót, sau nhà chính trị chiến hữu của N.L., sau nhà văn trẻ N.T. đã nói nghẹn ngào như muốn khóc lên tất cả nỗi nhục của người cầm bút bị tước đoạt tự do.
16-7
Lên nhà in, nói chuyện với S.G. về không khí khó thở như một bình hơi đã đầy, nói đến sức mạnh của Một vầng mặt trời cần thiết cho đời sống mọi người, mây mù vẫn phủ, trên nền khói nhân tạo những mặt trời giả được phóng ra nhoè nhoẹt, nhem nhuốc… mình trôi lờ đờ. Chiều gặp một người bạn: sao đã nói tự do thì phải để cho tôi tự do chứ, phải để cho tôi ghi lại những cái gì đang có đây chứ nếu không 10 hay 20 năm nữa người ta sẽ cho chúng tôi là hạng người nào? nếu không thì hãy câm hết đi. Ngoài đường, ngoài chợ kia những gì đang được nói đến sao bắt người cầm bút không được viết.
Đọc thư của N.N. một lá thư dài, bây giờ cảm thấy phải làm một cái gì đó. Mình xúc động về lời trong thư. Mình vẫn nghĩ rằng mỗi người hiện nay đang có những khó khăn về sứ mệnh mà nó phải thực hiện, nó không thể đừng được trong cuộc thử thách, nếu nó không ý thức được điều đó nó sẽ bị phá hủy. Đọc phần cuối của cuốn Tiểu thuyết hiện đại, T.T. viết về NỔI LOẠN, và cho rằng: những Sartre, Camus… nổi loạn ở Tây Phương là hợp lý, còn ở V.N. thì có gì mà cũng nổi loạn. Quả thực như vậy sao? Quả thực trong hiện đại lịch sử của xứ mình không có đối tượng gì để cho nhà văn mình phải nổi loạn nữa sao? Người ta chết ngoài mặt trận để làm gì? Tại sao phải tự thiêu? Tại sao N.L. phải tự tử?
17-7
Sáng nay lúc 9 giờ khi đi xe từ Chợ Lớn về đến Ngã Sáu thì bị kẹt. Dọc đường Lê Văn Duyệt từng đoàn các vị sư tất tả chạy lên phía chợ Bến Thành. Cảnh sát ngăn không nổi. Mình nhảy xuống xe chạy theo. Tới cửa chợ toán sư bị ngăn lại ngồi tụ vào một chỗ và cảnh sát giữ tay nhau vây chặt lại làm thành một vòng tròn. Cảnh sát xô kéo bắt từng người vứt lên xe, có người chui đầu vào bánh xe ngăn không cho chạy, có người bị đánh chảy máu đầu. Rất lâu sau cảnh sát bắt hết đoàn sư lên xe rú còi chạy về đường Trần Hưng Đạo. Số phận họ?
19-7
Nói chuyện rất lâu với anh T. về hiện tình lịch sử, hiện tình xã hội và đều đồng ý rằng đây là hiện tình nhiều bi đát. Không thể nào có cách mạng được. Vấn đề Phật giáo đặt ra một hiện tình, đánh thức lương tâm, soi sáng sự bi đát. Quần chúng ít ý thức ngay giới trí thức, thanh niên cũng lụn bại, họ du nhập nhầm lẫn những tư tưởng Tây phương. Thiếu hẳn một ý thức với chính ngay cuộc sống thực tế. Thanh niên đã hèn đi nhiều vì trong chín năm qua đã bị hoàn cảnh thái bình và sung túc giả tạo đầu độc, làm nhu nhược, làm hèn, không có lý tưởng, buông trôi… nhắc đến trường hợp Đại Hàn dân quốc… Mình nghĩ thời đại này là thời đại NGỜ VỰC. Xét lại chính rằng: cũng hèn. Đã làm được gì? viết được gì? có ý thức nhưng lúng túng không biết làm thế nào. Tương lai sẽ đen tối hàng 10 hay 20 năm nữa khởi từ lúc ngọn lửa được đốt lên…
7-8
Tính sổ, mình không ngạc nhiên vì sao báo không có người đọc. Vì người viết bị tước đoạt tự do, người đọc không đọc vì không có gì can dự đến họ. Mình bàn dẹp bỏ tờ báo, người viết không viết được ra những điều hắn muốn viết, mà viết những điều đâu đâu thì thành ra lố bịch và trong hiện tình này thì là một trò hề. Sao không được nói ra: mất tự do? sao không gác bút?
Trên ván bài không còn một cây tẩy nữa? Những thay đổi đến từ bên ngoài, không từ bên trong. Mọi người ở tình trạng thụ động không có hành động, chủ động: Hèn!
Gặp Y. Tại sao chưa XUỐNG PHỐ? Sao lại đòi Phật tử xuống phố. Đáng ra bây giờ mình phải xuống phố chứ? Phải chăng đã khôn quá, ngoan quá, cẩn thận quá, không còn cái liều? Tôi muốn kiếm tìm một ngọn cờ… Thất nghiệp, đói nghèo… T. cho một bài thơ đánh máy. Mình ở thế hệ bị hy sinh, biến động này có hai điều trông thấy rõ ràng: Phật giáo sẽ phát triển, chúng ta thấy sự mất gốc của chúng ta. Gây một ý thức cho thanh niên.
Người Tây phương không thể hiểu được về một người ngồi như tượng và lửa đỏ bốc cháy…
17-8
Tân Xuân Thu, không có lãnh tụ… Tại sao? Dân bất lực cư, sĩ vô định chí? Bây giờ là Tân Xuân Thu? Bao nhiêu ngọn lửa sẽ được đốt lên nữa?…
21-8
Sáng thức dậy nghe ra-dô tuyên bố tình trạng giới nghiêm. Việc phải đến đã đến. Mình hoang mang, mọi người hoang mang về số phận các nhà sư và số phận chính họ…
23-8
Sinh viên bãi khóa. Dân chúng lo âu, bỏ làm ăn. Biến cố này sẽ mang nhiều ảnh hưởng về tinh thần. Thiên chúa giáo ở Đông phương sẽ gặp sự thờ ơ của dân chúng và người Đông Phương sẽ tự ý phục hưng các giá trị tinh thần của họ theo với những kiến thức mới. Xã hội sẽ thêm phân tán, ảnh hưởng tinh thần Tây phương sẽ bị giảm sút.
Tất cả các trường học đã đóng cửa. Nói về thái độ của một người trí thức trong chính quyền vừa từ chức. Mình cho là một hành động xu thời… 8, 9 năm nay làm gì? Bây giờ bỏ trách nhiệm cho ai để làm anh hùng?…
25-8
Súng đã nổ ở cửa Chợ Bến Thành, có sinh viên đã chết. Ngọn lửa đã lan rộng từ giới Phật tử sang giới sinh viên, học sinh… mối lo âu khắc khoải trên khắp các bộ mặt. Bao nhiêu người đã bị bắt. Giam vào đâu cho hết.
4-10
Sau những T., Q., N…. ai sẽ bị bắt nữa… muốn quên, muốn quên.
Anh Giao,
Anh hỏi tôi trong thời gian xảy ra vụ Phật giáo tôi có viết được gì không? Không, tôi chẳng viết được gì suốt trong thời gian ấy, và tôi cũng không làm được gì cả. Giai đoạn ấy mang đến cho tôi một số vấn đề phải suy nghĩ, nhất là những vấn đề buộc người viết văn phải biết đến, ở hoàn cảnh một đất nước Việt Nam như hiện nay. Có nhiều vấn đề vẫn còn nguyên vẹn. Một chế độ đã bị thay thế nhưng xã hội chúng ta có thay đổi gì không, cuộc sống có tươi sáng hơn không? Chúng ta phải làm gì? Chép lại nơi đây những mảnh vụn của một thời gian để anh tuỳ nghi sử dụng, tôi chỉ có ý muốn gợi một số thắc mắc, băn khoăn, lo âu của mình với những người trẻ đồng lứa. Bởi vì tôi và họ còn phải sống…
Dương Nghiễm Mậu
(trích tạp chí Văn số 10 ra ngày 15 tháng 5 năm 1964: Văn Hóa Phật Giáo)$pageOut$pageIn
Bài bút ký thứ nhì
[nguồn by Trần Hoài Thư]
Cây số 17 tối 29-4-68: Bốn giờ chiều đường dây từ Huế gọi ra: trở về gấp. Anh Hạnh kêu chiếc xe đổ thêm xăng, coi lại máy rồi tiễn tôi ra khỏi La Vang. Người tài xế nói với tôi: anh giữ chắc súng nghe, tôi phóng đó, hồi này cũng khá rồi. Quốc lộ mở rộng, những ngọn đồi cỏ thấp phía tây, xa những ngọn núi giấu đỉnh trong mây. Mé biển những lượn đất cát trắng khô khan, thỉnh thoảng mấy ngọn dương xơ xác… Cây số 27, Lê Hằng Minh của Trâu Điên đã chết, cột cây số bị bắn nát. Tới Huế trời đã hơi tối. Người bạn trong bộ tư lệnh nói: xe chở anh ra cây số 17, họ đợi anh ngoài đó, có lẽ sớm mai, phải ra đó ngay… Không kịp làm gì ngoài việc đổi xe trở lại cây số 17, người tài xế già lo ngại khi cho xe quay lại thị trấn, tôi trấn an: chết có số.
Khung cảnh trơ trụi, một bồn nước cao giữa những ngọn cây khô, hàng kẽm gai dày cỏ bị đốt cháy nhem nhuốc. Người tôi trở thành một chiếc xe vận tải: máy móc, mũ sắt, áo giáp, chiếc áo khoác trở thành chiếc va-ly với đầy đủ những vật dụng, từ viên thuốc đau bụng tới que tăm, bàn chải và thuốc đánh răng. Gặp Khải, gặp Đính… Bính nói: ngủ hầm hay ngủ trên, pháo kích ghê lắm. Bính chỉ ra những bức tường đổ, những hầm hố chung quanh. Tôi nói: ngủ ở trên, pháo kích chạy. Yên chí có chỗ nằm, liên lạc để sớm mai nhảy xong mình đi ra ngoài, vòng qua những hậu cứ, ra quán bên quốc lộ kêu một chai bia. Mấy người lính mua theo những thứ cần thiết. Không thể thiếu đế, trong đó mưa và lạnh lắm. Buổi chiều bỗng nhiên có lúc sáng rực với nắng quái, con đường bụi và mấy chiếc xe chạy hết tốc lực thi đua với thời gian… Chợt nhớ nhà… Anh Đính nằm trên chiếc võng treo vào hai thân cây ổi nhỏ, chiếc máy truyền tin ở bên, anh hút từng hơi thuốc ngắn kể lại cho tôi nghe ngày dẫn tiểu đoàn vào Ngọ Môn… anh nói: mai vào trong chắc đụng lớn. Anh cười.
Khoảng nửa đêm trời đổ mưa, tôi thức dậy nghe tiếng động của im lặng. Người lính đều đã ngủ và những chiếc ba-lô đã gọn gàng. Trong rừng núi thâm u của Trường Sơn kia những ai đang thức?…
Tà Bạc 30-5-1968. Năm giờ sáng tiếng còi réo tập họp. Tôi nhớ tới những sớm tinh mơ trong quân trường ngày nào. Dế kêu, cả lũ thức dậy nhanh nhẹn thu xếp, tập họp… Đã hai năm. Những người lính trở dậy, đeo ba-lô lên vai thầm thì trở ra bãi đáp, chỉ có những tiếng ho, những tiếng nói nhỏ, tiếng bùn lép nhép dưới đế giầy, những đốm lửa trên đầu điếu thuốc lập lòe trong đêm tối. Từng người nối đuôi nhau, những chiếc mũ sắt, áo mưa phủ kín, đoàn người như một dòng những khối bóng tối di động. Quân đưa cho tôi chiếc lon nhỏ với chút cà phê bột nóng bỏng: như vậy là hiếm lắm đó, vào trong đó còn nhỏ rãi ra nữa… Con đường nhỏ đầy những vũng nước của trận mưa đêm qua. Băng qua những thửa ruộng còn chân rạ chúng tôi tới bãi đáp là một triền đồi thấp có cỏ. Quân nói: mình nhảy Tà Bạc, Lương, Bình ở trong đó từ chiều hôm qua, chuyến này đi e lâu mới về. Từng đơn vị nhỏ tập họp nơi hai bên sườn đồi cách xa nhau. Người đứng ngồi lóng ngóng, những bóng người di động không rõ nét, những người đứng xa nhau hai thước không rõ mặt. Từng nhóm người tụ lại, từng cơn gió lạnh buốt ẩm nước. 9 giờ một đoàn trực thăng xuất hiện và thấp dần đổ xuống ở giữa ngọn đồi. Đếm được 30 cái. Từng tiểu đội nhanh nhẹn lên trực thăng. Thời gian chờ đợi kéo dài. Mây vẫn chưa tan trên những đỉnh núi phải vượt qua trước khi vào thung lũng. Những chiếc trực thăng nằm im với những cánh quạt rũ như những con chuồn chuồn gặp nước. Khi đọt nắng đầu tiên chiếu xuống những lá cỏ long lanh nước thì những chiếc cánh quạt bắt đầu quay nhanh. Trong giây phút cả đoàn trực thăng nhấc mình lên khỏi mặt đất, tôi bám chặt tay vào chiếc dây nơi ghế ngồi. Chúng tôi lên cao, lên cao mãi. Những ngọn đồi thấp, những ngọn núi không cây, màu cỏ thay đổi từng vùng. Gió lạnh thốc trong lòng máy bay. Trực thăng lên cao mãi, có những khoảng mây đục thấp, đoàn trực thăng nối đuôi nhau theo những khoảng trời xanh, len giữa những đám mây, len giữa những ngọn núi đồi trùng điệp… Cho tới khi máy bay bắt đầu xuống thấp, tôi nhận thấy phía trước mặt một thung lũng, hai chiếc trực thăng võ trang đang nhả đạn, đường bay nhanh và những chao lượn ngoạn mục. Thung lũng có một chiều ngang khá rộng, kéo dài về phía nam, mấy ngọn đồi thấp trơ vơ mấy ngọn cây khô. Mầu đất phơi đỏ ở dưới, từng hố bom nối tiếp với nhau chạy dài ngút mắt, đất nứt làm cho những hố bom sâu có hình thù của những chiếc lá sen già đã tàn, những chiếc lá sen khổng lồ, đó là dấu tích của những trận mưa bom hồi đầu mùa xuân trước khi những trận mưa lớn đổ xuống… Từng chiếc đáp xuống nhanh nhẹn, từng người lính nhảy vội tóe sang hai bên, trực thăng bốc lên nhanh…
Tà Bạc, trung tâm của Ashau, phía Bắc là A Lưới giáp ranh với Quảng Trị, phía cực nam là Ashau thông vào Quảng Nam có con đường vào vùng công trường 6, tức Khe Tre. Từ Tà Bạc có con đường 547 qua Ba Hi Vũng Chậu để tới Huế, con đường mòn ấy trong những năm yên bình cũ đã đưa nhiều người vào trong Tà Bạc trong ý định thiết lập một vùng định cư mới, nhưng nay đã không có dấu vết gì về những cố gắng của một thời. Trên con đường 547 hiện có một đơn vị Mũ Đỏ hành quân. Trời bắt đầu đổ mưa nhỏ hạt, số quân còn lại không thể đổ tiếp. Anh Đính cố gắng bắt liên lạc với một tiểu đoàn ở hướng Nam. Chúng tôi rẽ cỏ làm đường, những ngọn cỏ lau sắc như dao cao hơn đầu người. Một người lính đi trước đập tay lên cổ vuốt xuống một con vắt, máu đầy trong lòng tay, anh ta nhăn mặt chùi tay vào một nắm lá cỏ. Tất cả chúng tôi được báo động coi chừng những con vắt nhỏ như sợi chỉ, màu xanh, nhảy tanh tách từ những lá cỏ bám vào cổ, vào tay, những người lính vội tụt tay áo, kéo cao cổ áo… Những thân cỏ lau ngã xuống, những bước chân đạp lên tạo thành một con đường mới, con đường đưa chúng tôi lên ngọn đồi lớn nhất nằm trong thung lũng. Lên tới lưng chừng đồi thì tôi gặp anh Lương đang đứng bên một chiếc hầm đang được đào dở. Từ Mậu Thân bây giờ chúng tôi mới gặp lại nhau. Trực thăng đang thả trọng pháo xuống, những người lính pháo binh vội vã thiết trí và ngay sau đó đã hướng về phía nam, hướng lên những ngọn núi phía tây nhả đạn. Anh Lương liên lạc với Mẫn ở một ngọn đồi phía Nam báo tin tôi đã xuống. Niệm đang dẫn đại đội vào những sườn núi thăm dò. Ngọn đồi đang bị tràn ngập những người lính. Những ngọn cỏ cao đang được đạp nằm xuống, thật nhanh chóng những chiếc hầm đã hoàn thành và những ngọn khói xanh đã un lên: những người lính nhặt củi đốt lửa nấu cơm trong khi chờ đợi… Cho tới giữa trưa, tất cả đơn vị của Trung đoàn 3 đã xuống hết thung lũng. Tiếng trọng pháo nổ đều đều…
Ăn một miếng cơm đựng trong chiếc hộp sắt. Người thượng sĩ già cầm chiếc bi-đông đưa về phía tôi, miệng hơi mỉm cười: uống miếng nước anh. Tôi nói cám ơn và cầm lấy bi-đông đưa lên uống. Tôi suýt bị sặc vì ngụm rượu đầy, tôi mỉm cười không nói, rượu đế có mùi vỏ quýt thơm nồng. Đây đó những người lính chụm lại với nhau ăn cho qua bữa, có người mở ra những thức ăn mang sẵn, có người nướng cá khô, có người bẻ lấy mấy tàu bắp cải bỏ ra ăn sống. Theo chân những đơn vị bộ binh bao giờ tôi cũng thấy hiện ra những gian khổ. Những gian khổ không phải chỉ trong những bữa ăn, nó hiện ra nơi những bộ quần áo sứt chỉ, đôi giày vẹt đế, dáng vẻ nhẫn nhục, họ thường có mặt trong những vùng đất có giới hạn, họ bám giữ lấy đất trong những điều kiện khó khăn và phương tiện tiếp trợ ít oi, khác hẳn với những người lính ở đơn vị tổng trừ bị… Họ đi hành quân mang theo gạo, rau, nước mắm, tàu vị yểu… họ không thích hợp với đồ hộp. Họ cần gạo hơn là bánh khô…
Tới quá trưa tôi theo một tiểu đội đi về những sườn núi phía tây, Niệm báo về khám phá được những hầm của địch. Con đường mòn nhỏ có nhiều hố bom, chúng tôi thấy những ổ súng phòng không của địch bỏ lại, chúng tôi gặp những mảnh vỡ của xe vận tải bị phá. Lách qua những quãng đường mòn, qua những lùm cây, chúng tôi lọt vào trong một khu rừng rậm, không có chút ánh sáng nào, chừng như lá ở trên đầu chúng tôi có nhiều lớp khác nhau, thỉnh thoảng một vùng ánh sáng hiện ra, nơi đó là những hố bom đào sâu dưới đất và những ngọn cây phía trên đã bị đốt cháy. Qua một con suối nhỏ chúng tôi tới một sườn núi, ở đây có những ngọn cây cao và gốc lớn, dưới đất không có cỏ, chỉ có lá khô nhiều lớp và những khoảng đất nhẵn, đây là nơi cộng quân đào nhiều hầm kiên cố bám vào sườn núi. Những căn hầm ngang cỡ nhau bỏ trống, mỗi chiều khoảng ba thước, ở dưới làm một lớp sàn bằng cây nhỏ cách đất khoảng ba mươi phân, trên hầm can những thân cây từng lớp xen với những lớp đất dày đến ba thước và trên cùng lợp cỏ tranh. Không thấy có hầm nào trúng bom. Chúng tôi dừng lại lâu ở một cái hầm lớn mà chúng tôi cho là của một người chỉ huy, phía trên, nơi gần miệng hầm là một khoảng đất bằng phẳng, có một cái bàn nhỏ, hoàn toàn được làm bằng những cành cây nhỏ, bốn chân đóng xuống đất, trên là những cành cây được cột lại với nhau bằng mây, những băng ghế dài bao quanh và tản mát cũng được làm như thế. Quân nói: chỗ này mà ngồi đánh cờ thì tuyệt. Sau đó Quân rủ tôi đi sâu vào trong, vừa đi Quân vừa ngước nhìn lên những ngọn cây, Quân nói: tôi mới phát giác ra, ở trong này có lan… Khi tới một ngọn cây cao, Quân ngừng lại và bỏ giày trèo lên, Quân mang xuống một cụm lan lớn, một chùm lan trắng muốt rũ dài, Quân nâng niu hài lòng. Trở lại chỗ đóng quân, Quân treo cụm lan nơi đầu lều vải.
Buổi chiều xuống thật nhanh, mây đục xuống vây kín thung lũng như một cái vung, những ngọn núi chung quanh khuất kín ngọn trong mây mù. Cơn mưa lớn đổ xuống khi trời bắt đầu tối, nước đổ như thác, lều chúng tôi ở sườn đồi, nước đục ngầu từ trên chảy ào ào. Chúng tôi cuốn mình trong những áo mưa ngồi dựa lưng vào nhau, nước ngập vào những chiếc hầm, chảy dưới lớp cỏ còn tươi. Chúng tôi tằn tiện với những mẩu thuốc được đốt lên. Mưa đổ xuống khoảng hơn một giờ thì tạnh, Quân cố gắng gây chút lửa đun nước trong chiếc ống bơ, chiếc bếp bằng đèn cầy là một sáng kiến lạ mắt đối với tôi. Nước sôi, Quân mở những gói cà phê bột thả vào chiếc lon. Tôi hỏi: kiếm đâu ra vậy. Quân cười hắc hắc: bọn nó mới xuống dưới kia kiếm được một mớ, đồ thả dù từ hồi trước bị mắc trên cây. Trong mưa lạnh chúng tôi chuyền nhau lon cà phê chua và chát xen vào những khói thuốc… Mưa kéo dài suốt đêm, chúng tôi ngồi bó gối dựa lưng vào nhau.
Tà Bạc ngày 2-5-68. Những cánh quân đi sâu xuống phía nam, những đụng độ nhỏ, nhiều hầm vũ khí…
Tà Bạc đêm 4-5-68. Những ngày ngắn và những đêm mưa dài, mặt trận yên tĩnh. Quân có thêm mấy cụm lan. Mình nhớ nhà. Không có hy vọng một trận lớn. Trong lúc sửa soạn đi ngủ, Quân kêu lên: xong rồi. Tôi ngạc nhiên, Quân vẫn ôm lấy chiếc máy thu thanh nhỏ úp lên tai, chiếc máy gần hết pin nghe nhỏ. Lúc sau Quân hơi phác một nụ cười: xong rồi, tin cho biết Mỹ và Bắc Việt hẹn gặp nhau ở Ba Lê vào ngày 10-5. Xong rồi, xong rồi… Một anh lính ngồi bên: liệu có hòa bình không?
Tôi thấy phải trở về gấp.
Huế 5-5-68. Trực thăng đã đưa tôi trở lại cây số 17. Bùi ngùi chia tay những người bạn. Huế kinh hoàng những cuộc pháo kích. Đêm qua nhiều hỏa tiễn 120 rơi xuống Mang Cá, khu An Hòa… Tin tức dồn dập từ Sàigòn. Lưu Kim Cương đã chết. Tướng Loan bị thương nặng. Đàm Quang Quý chết. Các chuyến bay bị hủy. Làm sao về. Ở Sàigòn giới nghiêm 7 giờ tối.
Huế 7-5-68. Sáng vào sư đoàn gặp tướng Trưởng. Một người có nét mặt khắc khổ, rất thận trọng. Ông hỏi tình hình. Tôi nói: lính cần gạo, ăn đồ hộp Mỹ lính đi kiết chịu không được. Ông là người ở trên trời gần hết thời gian của một ngày. Chỗ nào ông cũng có mặt. Một người lính kể: tôi lái xe ra Quảng Trị, lúc bấy giờ quốc lộ còn nhiều mìn, xe đang chạy tôi bỗng nghe nổ lớn phía sau xe, ngừng xe lại coi tôi biết một trái mìn đã nổ sau khi xe tôi vượt qua. Sao lại có sự may mắn đó. Tôi nghĩ mãi mới nhớ, buổi sáng trước khi lên đường chúng tôi đã thấy tướng Trưởng cười. Câu chuyện này tôi đã nghe nói tới nhiều lần, thực giả không rõ nhưng có điều chừng như biểu lộ một cá tính của tướng Trưởng qua cái nhìn của người lính. Tướng Trưởng không vắng mặt trong mọi trận đánh, buổi sáng vừa thức dậy tôi đã thấy ông ở La Vang. Buổi trưa sau cuộc hành quân khai diễn được ba tiếng ông đáp xuống ngay bộ chỉ huy nhẹ ở Gia Đẳng, Trung đoàn 3 xuống Tà Bạc không đầy ba tiếng ông đã đứng trên đồi cao… ông xuất thân từ nhảy dù, con rể một nhà văn tiền chiến: Thạch Lam… 17 giờ, chuyến trực thăng độc nhất có được ở Huế đưa tôi vào Đà Nẵng.
Sàigòn ngày 8-5-68. Chuyến bay quân sự hiếm hoi đưa tôi trở lại Sàigòn. Đà Nẵng trong đêm bị pháo kích. Máy bay trở lại lượn trên Sàigòn với những vòng lửa và khói ở gần sân bay. Đợt tổng tấn công mới đã khởi đầu.
Sàigòn ngày 11-6-68. 6 giờ sáng hàng loạt hỏa tiễn rơi xuống Sàigòn. Nhiều nhà cửa bị sập ở khu Gia Long. Nhiều người chết… Mai đi Cà Mâu… Chuyến đi không mấy yên tâm…
Cà Mâu 12-6-68. Chiếc phi cơ nhỏ đáp xuống một sân bay hẹp nằm giữa đồng lúa xanh. Con đường nhỏ vào thị trấn, những dấu tích tàn phá trong Tết vẫn còn nguyên vẹn. Không nơi nào thiếu vắng những dấu tích của cuộc chiến… Con đường ven sông, tôm khô phơi đầy một màu đỏ óng. Miền Nam của cá và tôm… Gặp Nhân hẹn mai đi Hòa Thành.
Cà Mâu 13-6-68. Nhân dẫn đi ăn sáng, hẹn chiều về ăn canh chua lươn của bà Sáu Mập. Ai tới Cà Mâu phải biết tới điều đó. Xuống thuyền đi Hòa Thành. Dòng sông nước đục. Chiếc ghe máy chạy nhanh. Một người đứng bên bờ sông tay trái vẫy. Thằng nhỏ hỏi: ghé được không thầy Hai. Nhân nói được, nhưng mé bên này thì không. Tôi hỏi sao vậy. Nhân nói: bên này mấy bố du kích ra hoài. Gần trưa chúng tôi tới Hòa Thành. Một ấp lớn…
Suốt từ ngoài đầu ấp suốt dọc con đường tôi không nhìn thấy một điều nào cho thấy rằng ở đây – trên một khoảnh đất nhỏ của quê hương – có chiến tranh, nhưng sự thật cũng không lâu những anh em du kích vẫn lẻn về phá rối đời sống dân chúng. Nhưng không vì thế mà họ khiến cho dân chúng không sống được. Dân chúng vẫn cầm súng và cầm cày. Mãi cho tới khi tới cuối ấp Tân Phong tôi mới nhận thấy những hàng rào kẽm gai và những chướng ngại vật chung quanh ngôi giáo đường, lúc bấy giờ những học sinh của ấp đang tập hát theo với mấy cô giáo, gác chuông làm bằng cây, phía trên lợp tôn mới trông như một vọng gác, trên đó cũng gắn những máy phóng thanh… Tôi đặc biệt chú ý tới vòng đất bao quanh một khẩu súng, mới nhìn tôi nghĩ là súng cối 82 ly, nhưng nhìn lại tôi thấy nó hết sức đơn sơ. Chừng như đoán được ý tôi, Nhân bước vào trong vòng đất, nhấc cái nắp đậy miệng súng ra nói:
– Đây là một khẩu súng cối nội hóa.
– Người mình làm lấy được?
– Của một ông thợ rèn, súng mình làm nhưng bắn bằng đạn Mỹ.
– Bắn được?
– Sao lại không, bắn nhiều rồi là khác…
Tôi cũng bước vào trong, tôi nhận thấy ống sắt được ráp lại bằng nhiều đoạn ngắn, vết hàn còn hằn rõ, súng không có máy nhắm, nhưng cũng có trục quay sang ngang, và lên cao xuống thấp được, bàn là một miếng sắt rộng mỗi chiều khoảng 20 phân, nòng súng được chống xuống đất bằng ba cẳng sắt, bên cạnh đó còn có một cái bùi nhùi dùng thông nòng súng, lúc mở miệng ra xem tôi thấy nòng súng đã rỉ sét, tôi nói:
– Lâu nay không bắn nữa sao?
Một anh dân vệ đứng bên nói:
– Lâu rồi không dùng đến, nhất nữa người bắn chuyên môn hôm nay cũng không còn ở trong ấp…
– Thế còn ông thợ rèn?
– Ông ấy chết lâu rồi…
– Không có máy nhắm thế này rồi làm sao?
Nhân cười, những người đứng chung quanh tôi lúc đó cũng cười:
– Không có máy nhắm, vô phúc bắn nó nổ ngay khi ra khỏi nòng thì làm sao? hoặc tới chỗ không phải là mục tiêu… Nguy hiểm quá.
– Có người đã bắn rồi, bắn nhiều rồi, bắn theo kinh nghiệm, vậy mà hay lắm đó. Nếu không bắn được thì để đây làm gì… Ở đây có hai khẩu chứ không phải một.
Tôi theo người dân vệ đi ra đằng sau, ở đó cũng có một khẩu như vậy nữa.
– Vậy cái người làm cũng tài lắm đâu phải vừa gì, vậy ông ta còn làm được những khẩu nào khác không?
– Nghe nói có một khẩu để đâu trên quận, và ông ta còn làm thử một khẩu 105 ly nữa nhưng khi bắn thử thì đạn nổ trong nòng, chính lần thử này khiến ông ta thiệt mạng.
– Vậy ông ta là người thế nào?
– Bọn tôi ở đây không ai biết rõ về ông hết, những người già thì biết, ông ta chết đã lâu chỉ nghe nói lại. Sau này chỉ có một người bắn được hai khẩu này, rồi về sau chưa ai dám thử bắn hết, nhưng cũng không có dịp để dùng đến nữa… Bọn tôi định hôm nào lau chùi rồi bắn thử xem sao…
Tôi nghĩ tới một người thợ rèn vô danh, một người nào đó có lẽ chúng ta đã gặp, người ấy đã cặm cụi với những khẩu sắt lớn nhỏ kỳ cục bên cái lò lửa của mình và hoàn thành một khẩu súng bằng chính những sáng kiến của mình… Rồi một hôm chết đi mang theo những điều mình đã có, không để lại dấu vết nào… Tôi nghĩ khẩu súng trong cánh đồng lầy này tự nó biểu trưng cho một sắc thái, tự nó nói lên một sức sống và niềm bí ẩn nào đó. Sức sống và niềm bí ẩn vẫn thường có mặt trong khắp xứ sở này…
Đức Hòa 28-6-1968. Vị sĩ quan giới thiệu qua về trái hỏa tiễn 120 ly vừa bắt được. Nó được đưa từ vùng mật khu Ba Thu tới đây để bắn vào Sàigòn, đây là những trái hỏa tiễn đầu tiên tịch thu được. Tôi nghĩ tới hành trình của nó từ Liên Sô…
Nha Trang 6-7-1968. Chuyến bay đi Pleiku ngừng lại ở đây. Biển xanh ơi, nhớ năm học cũ. Những người bạn thân thiết. Đi lại trên những con đường xưa…
Pleiku 13-8-1968. Chuyến bay đưa tôi tới Cao Nguyên lần thứ nhất. Đường lầy bùn, những cơn mưa lạnh. Thị trấn dơ bẩn với sinh hoạt thời chiến. Tôi nhớ tới ông tướng đã thành lập nơi giải trí cho lính: Trung tâm khang lạc, một thứ nhà điếm công khai dành cho lính. Bây giờ nó không còn, nhưng bây giờ nó có hình thức mới: con đường Hoàng Diệu và lính Mỹ. Những con lốc lầy bùn đỏ, lính Mỹ với súng đeo vai xuất hiện từ 11 giờ tới 4 giờ chiều…
Tuấn cho một chiếc áo khoác. Hoàng cho chiếc áo giáp còn mới. Tôi nói đùa: mong cho mau không phải dùng tới những thứ này. Những ly đế trong buổi chiều nơi quán nhậu. Tuấn cười khật khưỡng. Thuyên bình lặng. Hoàng huyên thuyên. Chúng tôi nói tới ngày hòa bình. Chợt tôi nói: ngày hòa bình nào.
Pleiku 14-8-1968. Buổi sáng sớm Nho đến, xe đợi ngoài đường, chúng tôi dời thị trấn lên quốc lộ 14, nơi buổi chiều qua vừa có cuộc giao tranh.
Nho móc trong túi ra cho tôi coi chiếc huy chương, trên một miếng đồng tròn có khắc hai chữ Cách Mạng, đó là một trong những chiếc gắn trên những xác chết nơi quốc lộ 14 nối liền Pleiku với Kontum. Nho kể lại trận đánh vào buổi chiều Chủ Nhật cho tôi nghe, khi một đoàn xe tiếp tế dời Pleiku đi Kontum khi tới gần ngã ba Dakdoa, cách Pleiku 13 cây số thì bộ đội Cộng sản từ hai bên tấn công, trước nhất là những trái đạn 75, 60 rồi từng đoàn người dời khỏi sườn núi và rừng cây xông ra. Ngay khi nghe thấy tiếng súng nổ, đơn vị thiết vận xa bảo vệ quốc lộ từ hai đầu kéo xuống vừa đủ thuận lợi để chống những bộ đội cảm tử từ trong bìa rừng vượt ra tới khoảng đất trống cách đường nhựa khoảng một trăm thước, cuộc giao tranh diễn ra không đầy nửa tiếng, đoàn xe và những thiết vận xa hoàn toàn vô sự, địch bỏ lại trên 30 xác chết. Trong những xác chết đó có kẻ ra đã được gắn huy chương cách mạng. Bầu trời buổi sáng ngày thứ hai có một lúc không mưa, trời quang, dù vậy vẫn còn nguyên bầu không khí rét mướt của rừng. Tôi lên xe theo Nho tới thăm nơi xẩy ra cuộc chiến ngày hôm trước. Trên đường chúng tôi ghé thăm căn cứ của đoàn thiết vận xa có nhiệm vụ bảo vệ quốc lộ. Thiếu tá D. cho chúng tôi thấy những vũ khí đã tịch thu được vào buổi chiều hôm trước. Trên một khẩu B40 máu còn đọng lại trên thân gỗ… Thiếu tá D. cho tôi biết tinh thần của những bộ đội miền Bắc, nhiều cuộc tấn công đã diễn ra trên quốc lộ 14 khiến cho con đường này có lúc rất nguy hiểm, ở xa tới người ta e ngại khi phải vượt qua, nhất là khoảng ngã ba Dakdoa, cũng như khoảng đường 19 gần nơi Suối Đôi, hai địa điểm này dù ở trên hai quốc lộ khác nhau nhưng chung một khoảng rừng mà trong nhiều năm cộng quân vẫn trú ẩn. Cộng quân khống chế một thời gian dài trên quốc lộ 14 nhưng nay thì điều đó đã không còn nữa. Quốc lộ đã được mở rộng và trải nhựa như một xa lộ dù công tác chưa hoàn thành hết. Thiếu tá D. nói với tôi: bộ đội miền Bắc tấn công trên quốc lộ mục tiêu chính được nhắm tới là cướp lương thực, các tù binh và hồi chánh đã nói điều này, họ thiếu lương thực, điều ấy đã được kiểm chứng bởi những cuộc tấn công nhắm vào các đoàn xe tiếp tế. Vị chỉ huy thiết vận xa có một vẻ cởi mở và đầy tin tưởng, ông còn cho tôi được thấy một sáng kiến của anh em thiết vận xa trong việc làm một màng lưới sắt che chở cho thiết vận xa chống lại B40, một võ khí lợi hại đối với xe bọc sắt.
Quốc lộ 14 mở ra trước mặt, những con dốc dựng đứng, lớp bùn đỏ dày trên mặt nhựa khiến cho những bánh xe gần như vượt ra ngoài ý muốn của người cầm lái, đoàn xe nối đuôi nhau nhẹ nhàng, chậm chạp di chuyển.
Bây giờ thì chúng tôi đang ở trên một con đường hai bên không một bóng nhà: khoảng đất trống những cây thấp, rồi rừng cây rậm kéo mãi cho tới chân núi phía xa, trong đó những con mắt thù hận chờ đợi. Quốc lộ thực sự chưa được hoàn tất, nhựa chỉ mới được trải một nửa bên đường, bên kia còn lại đất và đá. Những đường vòng nguy hiểm, những chiếc xe nhà binh Mỹ phóng hết tốc lực… Một xác chết, hai, ba, bốn… những xác chết nằm ngay nơi mép đường nhựa. Chúng tôi ngừng lại giữa đường, những xác chết nằm rải rác cô quạnh, một vài chiếc xe ngang qua chạy chậm lại, có những chiếc máy ảnh được đưa ra, bên những xác chết đã trương, mặt tái nhợt, quần áo rách tôi thấy rải rác những vỏ đạn. Chiều hôm qua cuộc giao tranh đã diễn ra ở đó. Bây giờ thì còn lại những xác chết, những vỏ đạn, những vết bánh sắt chằng chịt trong khoảng đất trống… Với một địa thế thật trống trải, với khoảng cách khá xa từ lề đường tới ven bìa rừng, tôi thấy quả những người cộng sản đã liều lĩnh để vượt ra phơi mình trên khoảng cách đó… Ngã ba Dakdoa, anh bạn nói mình có thể đi thẳng Kontum. Nhưng chúng tôi đã không tiếp tục đi, chúng tôi quay trở lại. Bây giờ tôi mới nhận thấy trong bìa rừng cách từng khoảng xa những thiết vận xa đã bố trí ở đó… Tôi hiểu vì sao những mưu toan cướp lương thực cùng cắt đứt quốc lộ đã không thực hiện được.
Cơn mưa nặng hạt lại đổ xuống cùng với gió lộng, vào tới ranh thị trấn chúng tôi ngừng. Anh bạn chỉ cho thấy bên kia đường, mé tay trái, những người đàn bà và trẻ con co ro trong những chiếc áo mưa đứng hoặc ngồi lóng ngóng. Có người tay không, có người xách theo những chiếc giỏ. Người bạn nói: những người chờ đứng bán những lon bia, bán thân và chờ rửa xe cho Mỹ… Vào những buổi sớm nhiều chuyến xe phải ngừng lại đó chờ mở đường, những anh lính Mỹ phải chờ đợi và đó là thời gian làm ăn cho nhiều người. Tôi biết có một người trở thành giàu rất mau, anh ta không ở Pleiku mà ở Kontum, anh ta có một cái xe gắn máy nhắm chở những cô gái chơi tới quốc lộ, chỉ cần chở ra theo với những toán công-voa, bỏ họ đấy, mỗi cô một ngàn, mà đâu phải chỉ có một cô, những cô này mang theo một tấm vải nhựa, thế là xong, buổi chiều anh chàng kia lại tìm nhặt những cô đó trên quốc lộ đưa trở về – Người bạn nói với tôi và cười – Nói ra nghe mà thảm, chiến tranh đưa dân mình tới những hoàn cảnh kỳ cục không thể tưởng được. Anh cứ ngó những người đứng lóng ngóng kia thì đủ rõ, ở đây có một đơn vị lớn của bộ binh Mỹ, họ nhiều khi ở trong rừng cả tháng mới trở ra, như vậy anh đủ hiểu… Có một số người mình thì có một quan niệm rất rõ ràng: bằng bất cứ cách nào kiếm được nhiều tiền, ăn cắp được nhiều, họ dùng mọi phương tiện. Ăn cắp ở đây không phải là ăn cắp nữa. Tôi đã vào nhà một người, bà ta làm lao công trong một sở Mỹ, trong nhà có nhiều thứ lắm, từ cái gạt tàn thuốc, những bộ tách uống nước, thôi thì đủ thứ… không phải bà ta mua đâu, bà ta ăn cắp dần dần mỗi lần một cái cốc, một cái dĩa, bà ta còn lấy được mùng màn, áo mưa, giấy lau… đủ thứ hết. Quả thật tôi không thể tưởng tượng được rằng làm cách nào mà bà ta mang được những cái rất cồng kềnh ra khỏi sự khám xét ngặt nghèo của những cơ sở Mỹ. Nhưng rồi tôi cũng được giải thích một phần nào, một phần thôi khi tôi tới cửa một cơ sở Mỹ vào lúc tan sở, những toán người ở trong đi ra đều bị khám xét bởi những lính Mỹ to lớn. Chừng như anh ta đã được huấn luyện một cách kỹ càng về những mánh lới của những người nhắm ăn cắp, anh ta lôi từ trong bụng chửa một người đàn bà ra một cái khăn tắm lớn, lôi từ trong quần một người đàn ông ra một cuộn giấy đi cầu, lôi từ trong búi tóc một bà già ra một cái ly… lôi từ trong đế giày ra một số dao cạo… Vậy đó, như vậy thì làm sao được. Nhưng người ta đâu chịu bó tay, một cô gái vừa tiến tới với anh Mỹ đã cười ngặt nghẽo, cô ta sát vào, ôm lấy eo, nhanh nhẹn hôn lên má anh ta một cái, thế là xong, anh lính Mỹ cười giơ tay vỗ vào mông cô gái một cái như tống đi, thế là cô gái không bị khám gì hết, và anh hiểu rằng trong người cô ta, cùng cái xách chắc chắn sẽ có gì trong đó, một chai rượu là đủ rồi… Nhưng trông cảnh một bà già Tàu từ trong ra cũng ôm lấy anh lính Mỹ mà hôn thì tôi chịu không nổi tức cười… Để cho hôn, cho sờ, nhưng lấy được đồ là nhất rồi…
Cơn mưa đã ngớt hơn, người bạn cho xe leo dần lên dốc với tất cả thận trọng, mặt đường bùn đỏ trơn như mỡ… Bao nhiêu điều tôi đã thấy, đã nghe, những điều đó liên kết với nhau tôi có thể nhìn thấy một sự thật, nỗi cay đắng. Trở lại câu lạc bộ, đứng từ trong cửa sổ nhìn ra những ngọn đồi nối tiếp nhau, những núi, những con đường, màn mưa mỏng tôi thấy mình như lạnh đi…
Kontum 19-8-1968. Vượt qua quốc lộ 14, hơn bốn mươi cây số. Rừng xanh. Thiếu tá Báu ngần ngại khi nghe tôi nói muốn tới Dakseang, nơi đang diễn ra trận đánh. Ông ngại ngần vì hơn một tháng nay trực thăng không đáp xuống được. Ông nói: tôi có mấy đứa con đi ngủ ở trong đó vẫn chưa lấy ra được… Một người bạn nói cho tôi biết tình trạng ở trong đó. Những người lính biên phòng có khi cả năm không ra khỏi đồn. Nơi đó chứa lương ăn, đạn và quan tài bọc kẽm. Một ông bố tới trại đưa xác con, đường bay bị cắt, ông bố ngồi đánh bạc hơn một tháng lúc ra được ông mang theo gần một triệu bạc về cùng với xác đứa con trai… Không có trực thăng. Tôi lang thang trong thị trấn với những giáo đường cổ kính, những con đường có cây cao xanh…
Phan Rang 15-10-1968. Tôi muốn thực hiện một chuyến đi dài. Khởi hành từ Sàigòn, qua Phan Thiết, ngừng lại Phan Rang. Mưa bão ập xuống. Bó người trong nhà.
Nha Trang 21-10-1968. Tôi đã tới Nha Trang được ba ngày, mưa bão tiếp tục đổ xuống vùng duyên hải, không thể tiếp tục đi Qui Nhơn như dự định… Mai trở lại Sàigòn…
Anh Q. Lần trở lại này tôi đã không được gặp anh, không được cùng nhau lặng lẽ bên những ly rượu, và sau đó phá lên cười… anh đang ở Sước Rũ, Khe Tre, Công trường 6, A Shau… còn nhớ không những câu thơ của Quang Dũng chúng ta đã đọc cho nhau nghe, nhớ không: Đêm đêm mơ chuyện làm khăn gói, để sớm mai rồi lại quẩn quanh… chính là thế, chúng ta đã quanh quẩn với những mộng tưởng, những phân vân giữa suy tưởng và hành động, chúng ta đã khôn quá, bịn rịn quá. Chúng ta đang đi, cũng khăn gói đó nhưng thực sự chúng ta không đi, không đi như điều chúng ta nghĩ phải làm. Chắc Q. còn nhớ hôm nào, một người đã chỉ vào mặt chúng ta: bọn chui vào vỏ ốc. Chúng ta chỉ biết cười chua xót. Chúng ta không chối được sự thực đó, chúng ta chỉ còn mỗi một cách thế, tự chúng ta trong những cố gắng cá nhân, chúng ta chỉ còn tư thế khiêm tốn trên điều mà tôi nói với anh: phục hưng lại một phẩm cách người… Phải giết đi bao nhiêu kẻ phải phá hủy đi bao nhiêu… những dơ dáy ngập lên tận mũi chúng ta phải chịu đựng, bao nhiêu nhược điểm chúng ta nhìn thấy. Chúng ta chỉ có thể làm trong hai điều, một là không làm gì hết, hai là xóa sạch đi rồi bắt đầu lại từ không có gì đó. Chỉ có thể, không thể làm khác… Thôi hãy uống đi, uống nhưng không được say. Nhớ anh vô cùng, những tan hoang còn đó…
Hôm nay anh ở đây nhưng anh nghĩ tới em những ngày đầu tiên sống trong quân trường, anh muốn có mặt ở Sàigòn để xuống thăm em trong những ngày đầu tiên sống với đời quân ngũ và để nhắc lại điều anh vẫn nói với em: bạn bè anh và bạn bè em đã có những người chết, hai anh em cách nhau mười năm của đời sống nhưng rồi chúng ta cùng ở trong một cuộc, chúng ta phải cùng nhau gánh chịu một thực tại chúng ta không mong ước, chúng ta đều không có tuổi thơ, không được sống trong thái bình yên vui, không được biết gì là hạnh phúc gia đình… Chúng ta chỉ còn lại một đời sống nhỏ bé… Chúng ta sống trong sự bất công, cùng mọi người chúng ta gánh chịu những bất công đó một cách đồng đều, trong bất công đó chúng ta hãy cố gắng làm cho bất công giảm đi, em nhớ không, như anh D. đã nói trước khi lên đường: mình ra mặt trận, phải ra vì sợ sau này khi hòa bình trở lại chỉ còn một mình sống sót, sự sống sót vô ích và buồn bã. Mong em vui với những bầu bạn mới, những người cùng chung cảnh ngộ như chúng ta, hãy nhớ một điều: ai sao ta vậy, việc người khác làm được thì chúng ta làm được, chỉ khác một điều: chúng ta chọn điều nào mà chúng ta cho là phải thì chúng ta làm. Khi trở về anh sẽ xuống thăm em…
Anh C. Tôi thông cảm những phân vân của anh, đời sống những người thân yêu, sự minh bạch ngay thẳng, trách nhiệm. Chắc anh còn nhớ một lá thư nào của T.: ta không biết làm chi hết, to be or not to be thì cũng ẩu như nhau. Nói vỡ nợ trước cuộc sống này. Chính trị bẩn thỉu, nghệ thuật phù phiếm, yên ổn thì tồi tàn, chiến tranh thì phi lý hơn… Cho nên ta không biết xoay sở thế nào cả. Nghệ thuật có là một giải thoát không? Nghệ thuật chỉ cho ta và cho người yêu ta thôi. Sáng tác vẫn chưa chắc đã yên ổn trong tâm hồn khi nghĩ đến cái chết của bạn bè, của những thằng em và của những thằng học trò ngoài bãi chiến. Có lẽ ta chỉ còn cái chết để dâng hiến cho đời thôi, cho cả cái đám quần chúng vô ơn mà ta và cậu vẫn ghét cay ghét đắng. Những ngày rảnh rỗi đi chơi với những bạn bè để rồi mỗi chiều trở về nhìn nhau cười ngao ngán… Tôi nhắc lại về người đã vắng mặt, hay đã chết đó. Có điều tôi không đồng ý với một lựa chọn nào đó, nhưng như tôi đã nói với anh: tôi kính trọng thái độ đó, con người đó… Nỗi cay đắng khốn khổ của chung chúng ta…
Anh T. Tôi đã được thư của anh, thành thật xin lỗi anh chị, xin hứa sẽ ghé lại thăm, như anh đã biết công việc và những dời đổi không ngừng khiến tôi đã không ghé lại dự sinh nhật của cháu bé, đứa con nuôi của tôi, tôi cũng đã không có quà cho nó, nhưng tôi nhớ nó… Điều anh hỏi khiến tôi chẳng biết nói sao, có điều những gì xưa kia tôi đã nói với anh nay tôi vẫn tiếp tục, tôi không thể từ bỏ được. Buồn là nhiều lúc nhìn lại thấy những cố gắng của mình cũng trở thành vô ích, nhưng không phải vì sự vô ích hay hơn nữa vì vô vọng mà chúng ta không làm điều chúng ta nghĩ phải làm. Tôi chép lại đây điều mà Arthur Koestler đã viết: nhà văn có bổn phận xã hội, một công việc rõ ràng phải làm. Mỗi khi hắn viết một tác phẩm hắn như một người thuyền trưởng thực hiện một hành trình với những mệnh lệnh được niêm phong cất trong túi áo, khi hắn mở phong bì ra ở giữa biển cả, hắn nhận thấy những mệnh lệnh đều được viết bằng một thứ mực trông không thấy được. Không thể đọc được những mệnh lệnh đó, tuy nhiên hắn vẫn luôn luôn ý thức một bổn phận phải hoàn tất – bởi vì hắn đương chỉ huy một chiến thuyền chứ không phải một thuyền du lịch. Những mệnh lệnh trong túi áo hắn có thể không đọc được nhưng vẫn có tính cách sai truyền cấp bách đem đến một ý thức trách nhiệm của hắn. Trong sứ mạng nhà văn ở đó sự lớn lao và cũng ở đó chướng ngại…
Anh K. Có thể anh đã không bằng lòng tôi, dù anh không nói ra, có điều về phần tôi thì tôi đã nói hết cùng anh: tôi dứt khoát với sự lựa chọn của tôi, tôi cố gắng sống như tôi mong ước. Tôi không có một ảo tưởng, một mặc cảm nào. Nào phải cho riêng ai. Tôi chịu ơn những người đã chết đi, hiện đang cố gắng để cho tôi còn được sống, và như thế tôi phải làm điều tôi nghĩ, tôi muốn được chia sẻ, tôi mong anh sống trọn được như điều anh nghĩ, không lừa dối mình và người khác…
Ng… dù ở đâu anh cũng chỉ nhìn thấy một cuộc sống gian nguy phải chấp nhận, chịu đựng, những cay đắng buồn phiền… chúng ta, nào đâu phải riêng chúng ta, cả dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường này, đã buộc chặt vào một định mệnh khắt khe… Trên quê hương ấy, trong cuộc sống ấy chúng ta gắn bó với nhau tình cờ… Anh đã đi trên những con đường chia cách, gian nan, hiểm nguy… những con đường đưa chúng ta đến những gặp gỡ bàng hoàng… Anh vẫn tự hỏi, con đường vô hình nào đã đưa anh đến bên em. Xưa kia mẹ anh dặn anh: con trai không được khóc, và em thì nói với anh một câu thơ: em sẽ không bao giờ để anh nhìn thấy em khóc đâu… chúng ta cùng giấu nhau những ngậm ngùi nào đó, những ngậm ngùi không bày tỏ nhưng chúng ta đều cảm thông… Có bao nhiêu điều anh không nói với em nhưng anh nghĩ em nghe thấy những tiếng nói đó…
Anh M. Tôi đã nhận được thư báo tin mừng của anh, tôi không biết có lời nào hơn là gửi lời chúc anh chị những ngày tới sống ở xứ người như sống trên quê hương thân yêu những ngày thơ ấu. Không, tôi nghĩ anh không phân trần một điều nào, với bất cứ ai… Riêng phần tôi, tôi không thể làm điều gì khác, tôi tự gắn đời sống mình với quê hương với những người thân yêu, ở đó những bất hạnh và những vui tươi đằm thắm, những cay đắng ngọt ngào cùng với niềm kiêu hãnh chất ngất… Quê hương này là đất hứa, chúng tôi tự cắm thập tự trên đó cho chính mình… Sau này, tôi mong ước thế, thời gian địa ngục đã qua, anh sẽ trở về, nhưng tôi hỏi anh chắc lúc đó anh sẽ thấy sao mình không được sống như mọi người, những khổ đau làm thành hạnh phúc cho kẻ sống sót…
Sàigòn ngày 25-5-1972. Tờ sự vụ lệnh trong túi đợi chuyến bay đi Đà Nẵng và Huế… Lương đã mất một chân ở Đức Dục năm trước. Bình về Thủ Đức. Đính, Mẫn bị bắt ở Tân Lâm và Khe Gió. Quân đi Ban Mê Thuột. Hạnh đã dời khỏi Quảng Trị… Bây giờ những ai còn ai mất. Tôi nói với một người bạn: tôi chịu ơn quân đội, nói thế chỉ để nói: tôi chịu ơn những bạn hữu, suốt trong 5 năm trong quân ngũ đã giúp tôi có được hoàn cảnh để di chuyển không ngừng. Tôi nhớ đời những người bạn và những ân tình…
Dương Nghiễm Mậu
(Văn số 204 ngày 15/6/1972)
$pageOut$pageIn
Bài bút ký thứ ba
Mỗi lần trước khi trở lại miền Trung, điều tôi thường hỏi: ngoài đó bây giờ mưa hay nắng. Lần này cũng thế, người em tôi vừa từ Huế trở về sau hai mươi ngày công tác nói: trời đang nắng và thành phố đầy hoa phượng, hoa sen. Bây giờ ngoài đó đang mùa hè và tôi nhớ tới không khí oi bức trong những chuyến đi cũ vào những thời gian đầu mùa hè: hoa phượng đỏ trên những ngọn cây, hoa sen nở đầy trong hồ Tĩnh Tâm, chung quanh trường thành, những trái nhãn nhỏ sai trên những ngọn cây trong Thành nội… Nhưng khi tôi đặt chân tới Đà Nẵng, buổi chiều mây thấp và mưa nhỏ hạt. Người bạn nói với tôi trời mới đổ mưa từ buổi sáng. Tôi nhìn thấy mây thấp trên phía đèo Hải Vân. Đà Nẵng mưa thì chắc Huế mưa. Tôi hỏi về con đường qua đèo, người bạn nói: đi được như thường, hôm qua hơi bị kẹt vì cầu Nam Ô bị gẫy. Tôi hỏi cây cầu nào. Anh bạn nhắc lại: cầu Nam Ô. Tôi nói không phải, tôi biết ở đó có hai cây cầu, tôi muốn biết cầu nào vì trong chuyến đi trước, cây cầu mới xây cất, thứ cầu cho những xa lộ chưa dùng được, hôm trước đã có tin cho biết cầu Nam Ô bị sập, nhưng là cây cầu cũ, cầu xe lửa, người bạn nói, bây giờ thì cả hai nhưng đang được sửa chữa. Trời mây thấp, mưa nhỏ hạt, những di chuyển ướt át khiến cho thị trấn có một khung cảnh đìu hiu.
Tôi gởi hành lý lại nhà người bạn rồi chạy quanh, vẫn khung cảnh quen thuộc, thêm một vài ngôi cao ốc đang được xây cất nhưng chừng như công việc đã ngừng lại, những trường học trở thành trại tạm cư. Tại trường nữ, tôi thấy những nữ học sinh ngồi gác cổng ra vào trong khi đó có một gia đình đã chất hành lý lên hai chiếc xích lô, tôi hỏi và được biết: họ dời ra trại Hòa Khánh. Trại tạm cư Nguyễn Thượng Hiền cũng đã đóng cửa với tấm vải lớn kẻ những hàng chữ cho thấy những người tị nạn đã ra sống ở trại tạm cư Hòa Khánh. Đi bộ trên đường phố tôi thấy số xe ôm gia tăng với những lời mời cùng với những chiếc xe ghé lại lề đường. Buổi chiều báo từ Sàigòn ra trễ và những nhà sách đông người ghé lại đợi chờ những tờ báo phát hành từ chiều hôm trước tại Sàigòn… Tôi ghé lại nhà những người quen, nơi nào cũng có những người thân từ Quảng Trị, từ Huế vào tạm trú, một vài người đã trở lại Huế, hoặc đi Sàigòn, tôi được nghe nói về những người tị nạn đã vào Chu Lai, đã đi Long Khánh. Một gia đình trong khi chạy khỏi Quảng Trị đã bị thất tán, một nửa vào được Đà Nẵng, còn một nửa không biết ở đâu, những người thân đang đi tìm kiếm nhau. Đài phát thanh Đà Nẵng với mục nhắn tin, đài của những người ở Quảng trị tìm tin cha, tin mẹ, tin chồng con thất lạc. Có những đứa trẻ tám chín tuổi bị lạc gia đình trên đường chạy giặc. Theo dõi mục nhắn tin tôi thấy nỗi tan hoang đối với hơn ba trăm ngàn dân chúng vùng giới tuyến.
Trại tạm cư lớn nhứt ở Đà Nẵng dành cho Quảng Trị nằm ở Hòa Khánh, một quận ngoài thị xã, nằm ở phía nam đèo Hải Vân, ngay ven quốc lộ Một. Tôi ngạc nhiên khi vừa từ thị xã tới đây lúc đứng trước một ngã ba đường có tấm bảng lớn sơn xanh, kẻ chữ trắng hàng chữ: QUẬN GIO LINH. Quận Gio Linh, tôi nói với người bạn: quận Gio Linh ở Đà Nẵng! Tôi nhớ tới nơi tôi đã từng ghé lại trong những năm trước trên đường công tác. Ngày ấy tôi theo quốc lộ Một vượt Đông Hà ra tới đồn A2 nằm ngoài cùng giáp với vùng phi quân sự sau khi quân đội ta đã bỏ chân cầu Hiền Lương trở vào trấn đóng phía trong gần với quận Gio Linh. Trên con đường đầy những bom đạn tôi chỉ thấy những cánh đồng hoang vu không bóng người, dân chúng đã phải bỏ làng mạc trở vào sống trong khu định cư Hà Thanh, còn lại chăng một số thôn ấp nhỏ bé nằm ở giữa quốc lộ với bờ biển, còn lại phía tây quốc lộ thì coi như bình địa với vùng oanh kích tự do. Nay Gio Linh chỉ còn là tên gọi của một vùng đất. Hai tiếng Gio Linh đã đi theo dân chúng vào Đà Nẵng. Bỏ quốc lộ đi sâu vào gần bờ biển, nơi đây có hàng trăm lều vải mới được dựng lên cho dân chúng tạm trú. Người trưởng trại ngày nay là ông quận trưởng của vùng đất cũ. Vị thiếu tá này người nhỏ bé trong bộ đồ đen nói cho tôi biết qua tình hình dân chúng, ông không thể đoán chắc về số dân chúng tại Gio Linh đã ra đi, vì hiện dân chúng không những chỉ sống tại Đà Nẵng, họ còn vào Chu Lai và nhiều nơi khác nữa, con số phỏng chừng khoảng 28 ngàn người ra đi so với dân hơn ba chục ngàn người. Ông kể lại cho tôi nghe những ngày kinh hoàng ở Quảng Trị khi đoàn người rời khỏi đây để vào Huế: cả đoàn xe bị mìn và pháo kích, nhiều người bị thương phải nằm lại với tiếng kêu la thảm thiết…
– Ông thấy dân chúng có muốn đi vào lập nghiệp ở trong Nam không?
– Phần lớn dân chúng không muốn đi, họ mong trở lại Gio Linh.
Khi tôi từ trong lều đi ra thì có một người đàn ông giữ tôi lại và hỏi tôi có phải nhà báo không? Tôi nói không phải. Ông ta nói điều muốn nhờ. Tôi nói cho tôi biết. Sau đó ông ta giới thiệu là một người thuộc làng Gia Hải, một làng phần lớn sống bằng nghề chài lưới tại Cửa Việt, tôi ngạc nhiên khi biết dân chúng tại làng này đã cùng nhau xuống thuyền đi về phía Nam bằng những chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé của họ. Điều mà người này muốn nhờ tôi là: tranh đấu cho họ được ở lại Đà Nẵng sinh sống, họ chỉ cần giúp đỡ lương thực một tháng đầu rồi sẽ tự túc bằng nghề đánh cá của mình. Sau đó ông ta cho tôi thấy, dân chúng tại Gia Hải đưa được vào Đà Nẵng 150 chiếc thuyền, chuyến ra đi của họ hết sức gian khổ, trước hết khi ra khỏi Cửa Việt họ đã bị cộng quân ngăn cản, súng đã nổ vào đoàn thuyền, một số dân chúng đã không ra đi được vì những làn đạn này, nhiều người đã bị thương và chết trong chuyến ra đi, trước hết họ tới được cửa Thuận An. Sau đó rời Thuận An vào trong bãi biển Đa Phước. Khi nói tới chuyện đi vào miền Nam ông ta nói chính phủ có thể mang được người đi nhưng còn thuyền bè của chúng tôi thì sao, chúng tôi sống bằng nghề biển như vậy làm sao để thích ứng với nghề nông trong khu vực khai hoang? Chung quanh tôi mỗi lúc một đông người, mỗi người góp một câu chuyện, ai cũng trông được sống ở Đà Nẵng và chờ ngày trở lại quê hương của họ, tôi cũng đã được nghe câu chuyện thương tâm của một người mẹ kể lại cái chết của con mình trên chuyến đi Nam, đứa con đã chết trên chiếc thuyền của gia đình trong khi vượt biển vào cửa Thuận. Tôi mường tượng thấy cảnh tượng bi hùng của chuyến ra đi, cảnh tượng giống như những người dân miền Bắc trong vụ Trà Lý, những người đã chọn để được sống tự do hoặc là chết… Gần hai mươi năm sau, cảnh tượng đó lại tái diễn một lần nữa.
Câu hỏi mà tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần với những người đã gặp là: tại sao không nghĩ tới việc vào các vùng đất an ninh, phì nhiêu ở Nam lập nghiệp? Tất cả đều nói: chúng tôi chờ đợi trở về. Trở về, họ như gắn liền với đất đai khô khan cực nhọc, họ không muốn rời khỏi quê hương nơi có những mái tranh nghèo, những mồ mả tổ tiên, nơi họ đã sinh ra lớn lên trong nhọc nhằn. Trước đây, ngay từ thời Đệ nhất Cộng hòa, công việc di dân lập ấp được đặt ra, dân chúng tại đây cũng đã từ khước ra đi, ngày nay họ vẫn không thay đổi ý muốn đó. Chừng như quê hương càng đau khổ, đời sống càng nhọc nhằn người dân càng gắn bó keo sơn với nó. Vùng Gia Đẳng, Gia Hải… những vùng cát trắng khô khan kia vẫn còn lại những gì mà người dân thấy không thể bỏ nó mà ra đi được cho dù họ biết chắc rằng ra đi họ sẽ có một đời sống sung sướng hơn, đầy đủ hơn.
Những gia đình với hành lý nghèo nàn người dân ở trong trại tạm cư chia nhau những diện tích nhỏ hẹp để sống, những trẻ con vẫn nô giỡn trên bãi cát, những bà mẹ vẫn nhẫn nại nhóm những bếp lửa nhỏ lo bữa ăn đạm bạc hàng ngày. Tôi thấy chiếc áo màu của một sinh viên ra đây lo cứu trợ như lạc lõng với khung cảnh.
Trại tạm cư Hòa Khánh lớn lao hơn nhiều trại tạm cư dành cho người thuộc quận Gio Linh. Nơi đây bao gồm dân chúng thuộc nhiều quận, phần lớn họ được sống trong những ngôi nhà tôn của một trại binh Mỹ. Những con đường trong trại tráng nhựa phẳng lì còn tốt nguyên vẹn, nhưng những ngôi nhà thì phần lớn đã hư vì thời gian, nhiều vách gỗ đã bị gỡ, những bao cát phần lớn đã mục khiến cho khung cảnh có vẻ điêu tàn. Ngay trong những ngã tư đã có những hàng quán trong trại dựng lên, cũng có ngay những tiệm hớt tóc, những quán giải khát, dân chúng như đã thấy phải bắt tay ngay vào việc tìm sống. Nhiều người lo đi tìm kiếm những người quen, người ra kẻ vào tấp nập. Đại tá Hòa, người tôi gặp lúc cầm một đoàn, là vị tỉnh trưởng Quảng Trị. Ông mới về làm tỉnh trưởng được ba tháng, nay ông đã ở Đà Nẵng với những người tị nạn. Trông ông tôi thấy phảng phất một vẻ buồn. Dân số Quảng Trị có hơn ba trăm ngàn, con số còn bị kẹt lại khoảng 50 ngàn, tôi thấy số dân chúng ra đi thật lớn lao và thực sự là một mối lo không nhỏ cho chính phủ và nó cũng là con số đau đầu với chính người cộng sản khi tới chiếm Quảng Trị. Họ phải nói thế nào với quốc tế về điều họ vẫn nói: dân chúng ủng hộ họ và về chiêu bài giải phóng vẫn không ngớt được nói đến. Không, dân chúng đã ra đi khi bom đạn và người cộng sản đến. Không có dân, đất đai còn có nghĩa gì nữa?
Người thanh niên ấy có nước da ngăm đen, vẻ ngơ ngác trên mắt nhìn, gò má cao, cằm vuông, anh hơi chút mỉm cười ngậm ngùi khi tôi hỏi anh về chuyến hành trình đã trải qua. Anh lặng đi rất lâu, giọng anh trầm xuống, có lúc tôi chỉ thấy môi anh mấp máy và như tiếng nói biến mất: trước hết chúng tôi về Quảng Trị, thực chúng tôi không nghĩ có lúc sẽ ở đây, nếu biết vậy chúng tôi đã đi thẳng tới đây, chúng tôi không ai nghĩ thế cả, nhưng rồi chúng tôi phải đi khỏi Quảng Trị, ngày đó là ngày mấy nhỉ, không rõ là 28 hay 29 gì đó, mà chừng như… phải rồi, pháo kích, rồi mìn anh ạ, rồi cả một cuộc giao tranh nữa, những chiếc xe nổ tung, những thân người văng lên tan tác, những tiếng kêu khóc thảm thiết, mạnh ai nấy chạy, không còn ai nghĩ tới chuyện cứu ai nữa… Chúng tôi chạy, chỉ biết chạy thế thôi… với hai bàn chân chúng tôi tiếp tục đi, trước hết là Huế, sau tiếp tục đi nữa, không, anh không thể hiểu được nếu anh không cùng chúng tôi ở trong chuyến ra đi ấy, chúng tôi có cảm tưởng như ngay sau chân chúng tôi cộng sản bén gót. Chúng tôi như tranh nhau lấn bước về phía trước, người ta có phương tiện để đi, chúng tôi thì không, quốc lộ như thế mà bốn hàng xe chạy thì anh thử hỏi làm sao để chúng tôi len chân, và trên dọc đường ấy người ta như đứng lại với nhau, không còn trật tự nữa, thỉnh thoảng súng lại nổ và người nháo nhác… Tôi đã thấy ngay trước mắt tôi chiếc xe lật xuống đèo và những người chết, tôi đã thấy những bà mẹ kêu gào tìm đứa con thất lạc… Tôi không hiểu tại sao sự việc lại xảy ra như thế, bây giờ nhìn lại tôi càng thấy vô lý, bọn nó chưa tới được vòng đai mà sao mình đã bỏ chạy, người ta bỏ lại hết để chạy… Tôi lạc mất một người em gái, cho đến hôm nay tôi vẫn không hiểu nó còn sống hay đã chết phơi xác dọc theo quốc lộ…
Người thanh niên lặng đi, đôi mắt nhìn xuống trũng bóng tối. Tôi không biết có lời nào để nói với anh. Tôi nhớ lời anh Cường kể lại chuyến đi của chính anh, thực anh chưa muốn đi nhưng sau nhìn lại thấy mọi người đi hết thì anh sợ, người anh nghĩ chưa đi là anh Du thì anh đã thấy lên trực thăng đi rồi, cuối cùng anh phải đi chiếc xe cũ đưa anh lên đèo nhích từng chút, có lúc xe không đứng lại được mà tụt xuống, đi từ sáng cho mãi tới 9 giờ tối mới vào tới Đà Nẵng, trên đường anh đã thấy những người lính nổ súng bắt xe cho họ lên, anh đã thấy một bà cụ già ngồi trên một tấm gỗ có gắn bánh xe tay bám lấy chiếc dây thừng buộc vào chiếc xe đạp của người con đạp phía trước… Mường tượng tới cảnh ra đi, quãng đường Quảng Trị – Huế – Đà Nẵng trở thành một cuộc trường chinh cho người dân Trị Thiên, tôi nghĩ nếu con đường đèo bị cắt, hay một cuộc phục kích xảy ra thì họ sẽ ra sao, lúc bấy giờ những người có trách nhiệm họ ở đâu, họ trên sân quần vợt, trong một tiệc rượu vui mừng nào?
Trời mưa nhỏ hạt suốt đêm, sáng hôm sau trời vẫn thấp mây, tôi mang theo hành lý để tới Huế như dự định, trước khi đi tôi ghé lại thăm anh Lam, tôi nghĩ anh nắm được nhiều dữ kiện về những sự việc đã xảy ra. Tôi thấy anh hết sức bình tĩnh và nói với tôi về công việc anh đang làm, giúp vào công việc đưa dân chúng Quảng Trị vào miền Nam theo chương trình di dân khẩn hoang của chính phủ, anh cho thấy dân chúng không muốn đi riêng, họ muốn đi cả quận, cả làng. Anh cũng nói tới hoạt động của các đảng phái một cách lạc quan. Khi hỏi anh: ai ra lệnh rút khỏi Quảng Trị, anh nói không phải Tướng Lãm ra lệnh. Anh cười khi đặt với tôi một vài vấn đề sau khi rút khỏi vùng đất này, việc oanh tạc Bắc Việt, việc thả thủy lôi xuống các cửa biển và sông ngòi miền Bắc…
Tôi ra bến xe, trời mưa nhỏ, tôi chờ cho những chuyến xe đầu tiên từ Huế vào tới nơi thì leo xe trở ra. Tôi thường theo cách đó để có thể yên tâm lên đường mỗi khi ra đây công tác. Chuyến xe quen thuộc màu đen với mười chỗ ngồi, số người trở ra Huế chờ đợi từng chuyến xe đến và trong chốc lát lên đường trở ra. Đường ra khỏi thị xã xe cộ đủ loại nối đuôi nhau, có hàng trăm xe vận tải đưa đạn dược qua đèo. Trước khi tới cầu Nam Ô xe bị đọng lại với sự chờ đợi oi bức, xe nhích từng khoảng ngắn. Khi ngang qua tôi thấy cây cầu sắt cũ đã bị gãy một chân, hai nhịp cầu chúc xuống dòng sông rộng. Cây cầu xi măng bị hư một nhịp đang được sửa chữa và hiện có một cầu tạm bắc lên cho xe cộ lưu thông. Cầu Nam Ô là cây cầu xa lộ độc nhất được hãng thầu Mỹ làm cho suốt dọc quốc lộ từ Đà Nẵng tới Huế, cầu Lăng Cô là cầu cũ được sửa lại, còn hầu hết những cây cầu khác được làm bằng gỗ. Trước khi lên đèo xe bị chận lại, một cây cầu gỗ ở đây đã bị phá sập, những chiến sĩ công binh đang lo đắp một con đường vòng và sửa lại cây cầu. Chiếc xe tôi đi chạy hơi ra ngoài bị chận lại, như một hình phạt không được qua, người tài xế bứt đầu bứt tai nhìn những chiếc xe chạy sau vượt lên phía trước, tôi thấy nhiều xe chở hàng không có mui chở đầy người, đó là những gia đình ở Huế trở lại nhà, họ mang những hành lý. Có những chiếc xe có mui thì người ngồi cả trên mui cao, trên quãng đường này tôi cũng thấy nhiều xe chạy đường xuyên Việt, từ Quảng Trị tới Sàigòn, nhưng vì biến cố trong những ngày qua đã khiến cho những chuyến xe này không thể trở lại Sàigòn được. Những chuyến xe sẽ thương nhớ đường dài… Mưa vẫn đổ mau hạt trong khi xe qua đèo, con đường rộng, nhựa phẳng trở thành nguy hiểm, tôi nghĩ tới những ngày tháng trước khi đoàn người tỵ nạn phải ngang qua đây. Một trăm cây số của đường dài những lo âu chất ngất và nỗi kinh hoàng nhìn về ngày mai… Vùng biển Lăng Cô làm tôi nhớ lại mộng ước được trở về sống trong một xóm dân chài của Ninh Hòa, hai tiếng Hòn Khói vẫn còn ghi nhớ với những cồn cát trắng như tuyết và những ngọn dương cao cùng với biển xanh bao la phía trước… Quê hương ta những vùng đất hứa có thật vẫn còn đó nhưng chừng như lúc nào cũng ở ngoài tầm tay với…
Cầu Phú Lưu bị sập nhưng vẫn di chuyển một chiều, khoảng đường từ phía chân đèo trở lại Huế tôi thấy nhiều binh sĩ thuộc Sư đoàn 3, họ có mặt nơi những chiếc cầu còn lại. Trên một thành cầu sắt của đường xe lửa tôi nhìn thấy hàng chữ: bảo vệ cây cầu tới giọt máu cuối cùng. Tôi buồn rầu nghĩ tới những cây cầu đã gẫy. Tôi nghĩ tới những cây cầu gỗ trên quốc lộ 9 nối Đông Hà tới biên giới và trên quốc lộ 1 từ Gio Linh tới Đà Nẵng.
Năm 1968, khi tôi theo quốc lộ 9 lên Cam Lộ, nơi có trên 6 ngàn dân chúng quận Hướng Hóa từ trong núi về tị nạn, trong số này phần lớn là sắc tộc Bru. Bấy giờ trận chiến ác liệt ở Khe Sanh, trong khi xe ủi đất của Mỹ làm việc không ngừng, họ mở rộng đường trải đá, trải nhựa và làm cầu. Tôi tự hỏi như vậy có phải con đường sẽ được dùng để sang Lào không? Năm 1970 trở lại, cả vùng đã hết lính Mỹ, chúng tôi dùng xe jeep chạy từ Quảng Trị lên Cam Lộ uống cà phê và nói chuyện hòa bình, ngày lên xin đất mở đồn điền trên Khe Sanh… Tôi nghĩ tới những cây cầu và hỏi: những cây cầu bằng gỗ này chịu đựng được bao nhiêu năm? Tại sao không phải là cầu xi-măng? Không ai trả lời. Và tôi cũng đã hỏi: sao Mỹ làm con đường này tốt vậy mà không dùng? Và câu trả lời này mãi tới khi có cuộc hành quân sang Hạ Lào tôi mới thấy, mỗi ngày hàng trăm xe đạn dược theo đó mà tới Khe Sanh. Nói tiếp về những cây cầu tôi cũng thấy từ Gio Linh vào Huế chỉ mới có một cây cầu mới đúc, còn hầu hết là cầu gỗ. Và bây giờ tôi lặp lại câu hỏi: những cây cầu gỗ chưa bị phá sẽ còn chịu đựng được bao nhiêu lâu?
Phú Lộc, La Sơn, Phú Bài, Phú Lương, Dạ Lê, An Cựu… và cầu Trường Tiền. Huế vẫn còn đó, một sinh hoạt lặng lẽ, nhiều căn nhà cửa đóng nhưng có toán công nhân sửa đường vẫn làm việc, những người thợ nề vẫn tiếp tục trát vôi nơi bệnh viện trung ương đang xây cất… Hoa phượng đỏ như máu trên những con đường hai bên bờ sông, trong Thành nội, ghe thuyền đầy trong lòng sông nhà bè và vùng Bao Vinh không khí một thuở thanh bình, tôi nghe thấy một không khí chìm chìm lặng lẽ nhưng đầy đe dọa. Tôi tìm gặp lại những người bạn cũ, gần hết đã ra đi. Anh Tấn bây giờ nuôi râu dài như một đạo sĩ, anh Du như già hơn mấy tuổi, anh nói lại một ngày từ sở làm ra đường tìm xe về nhà, phố vắng tanh, không một chuyến xe khiến anh ngao ngán thấy mình như con chó hoang, và mắt anh như rưng rưng khi kể lại chuyến bay đưa anh khỏi Thành nội trong không khí nháo nhác tan vỡ. Bây giờ thì anh đã trở về một mình sống như mình muốn sống. Thục nói: ở lại với ý nghĩ ngông cuồng làm kẻ tuẫn đạo… Liệu có mất Huế không?
Cộng sản có đánh Huế không? Tại sao Huế không bị pháo kích? Những câu hỏi đặt ra mà không ai dám trả lời khẳng định, ai cũng có ý kiến nhưng sau đó là cái mỉm cười ngụ ý… Thành phố đầy những lính, đủ màu áo, hình như không thiếu một binh chủng nào, ít hoặc nhiều họ đều có mặt. Tôi gặp lại những người bạn trong quân đội những ngày cũ. Những hàn huyên không hết về kẻ sống người chết, những ngày ở An Hậu, những ngày ở Phú Thứ, những ngày trong Dãy Phố Buồn Hiu, những ngày ở Khe Sanh, những ngày rong chơi yên bình trong những làng xóm ở Triệu Phong nói chuyện về những nàng cung phi sinh trưởng ở Sịa, và vẻ đẹp tây phương của những cô gái ở Mỹ Chánh, dòng sông mà người bạn tôi nói nửa đục nửa xanh, nơi những thuyền bè tây phương từ thế kỷ trước đã vào đó…
Người bạn nói: chính tôi cũng không hiểu được tại sao mất Quảng Trị. Anh bạn nói tiếp: không giữ được Tân Lâm Bắc thì phải mất Tân Lâm (Carroll), mất Carroll thì tất nhiên khó giữ Đông Hà và các căn cứ A1, A2, C1… Nhưng tôi không hiểu tại sao bộ chỉ huy nặng của SĐ3 còn ở Ái Tử mà bộ chỉ huy chiến thuật của tướng Giai lại rời vào La Vang rồi Quảng Trị? Tại sao vòng đai của Quảng Trị chưa lâm nguy mà tướng Giai lại bay vào Huế? Tôi được biết cho tới trưa ngày 1 tháng 5 tướng Lãm còn ra lệnh tử thủ Quảng Trị mà sau đó không đầy 30 phút tất cả mọi liên lạc với SĐ3 đều bị cắt đứt, các máy truyền tin của mặt trận không liên lạc với hậu cứ nữa? Trên máy bay nhìn xuống quốc lộ 1 chỉ thấy một dòng xuôi về Nam hỗn độn…
Buổi chiều mưa thật lớn, người bạn nói với tôi về cơn bão đang tiến tới. Một người bạn nói với tôi về Huế: đất gì lạ, một năm ở đây thì có ba tháng để tranh đấu, ba tháng để chịu tai ương, ba tháng để cứu trợ, còn ba tháng để làm thơ. Điều người bạn nói thực đúng với thời gian 10 năm trở lại đây, Huế đầy những tai ương và đau khổ, cơn ác mộng Mậu Thân với hàng ngàn người bị chôn sống vẫn còn ám ảnh tới những người sống sót, đó là một trong những điều giải thích vì sao họ đã lũ lượt kéo nhau ra khỏi Huế dù thực sự chiến tranh chưa đến.
Tôi theo xe người bạn ra khỏi Huế, hiện đang có những cuộc chuyển quân vào phía Tây và phía Bắc, những chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến đã đột kích ba lần vào vùng đất Quảng Trị, nhưng sông Mỹ Chánh vẫn là chiến tuyến. Quốc lộ 1 chạy về phía Bắc vắng hoe, chỉ có những xe nhà binh di chuyển với vận tốc nhanh hơn thường ngày, những cánh đồng ở Hương Điền vẫn có bóng người nông phu, thiên nhiên vẫn như một ngày thanh bình cũ. Trong phòng tuyến, tôi hỏi một anh bạn: bao giờ qua bên kia? Người bạn cười, định qua rồi nhưng mưa nên ngừng. Sao vậy? Hết mùi thối rồi… Tôi không hiểu. Người bạn nói: Mấy hôm trời nắng, gió Nam thổi hôi quá chịu không nổi tính hành quân để chôn xác chết của mấy trận, nhưng mưa rồi nên đỡ.
Tôi rùng người và thấy như đầy mùi tử khí. Tôi mường tượng tới khoảng đường còn lại để tới Quảng Trị, những làng mạc và đồng ruộng ngày nay còn ngổn ngang những xác người đã nằm xuống trong những ngày trước, nắng lửa làm cho những tử thi trương lên và bây giờ những cơn mưa làm cho tan rã… Đêm lại cơn mưa lớn. Tôi cùng người bạn ngồi trong quán cà phê, chút rượu khiến cho chúng tôi ngây ngất. Trên chiếc xe nhỏ chúng tôi đi trên những con đường vắng không có bóng người, chỉ có những tàn cây và bóng tối, thỉnh thoảng mới gặp những người lính ướt nước. Tường thành lầm lì, những bãi cỏ tranh cao với bông trắng, tất cả như thầm thì một tâm sự. Không khí lặng như một cõi chết nào. Thiên nhiên kia nào còn nghĩa gì khi không còn những mắt nhìn chan chứa, không còn nhịp tim rộn ràng? Tôi như nghe thấy tiếng thở dài của những cánh sen hồng về nỗi tàn tạ. Mùa hè đã đến rồi đấy nhưng như đã mất vì không có tiếng guốc khuya trên cầu, hoa phượng đã nở đỏ nhưng không còn là màu của nắng lửa, nó trở thành những vũng máu đọng chờ khô của một cái chết.
Người bạn nói: Tôi ở lại đây và tôi chờ ngày vào Quảng Trị.
Tôi nhìn người bạn.
Dương Nghiễm Mậu
Nguồn: Tạp chí Chính văn số 1, tháng 2.1972$pageOut$pageInBài bút ký thứ tư
[nguồn by Trần Hoài Thư]
Ngày lên đường ra đi, nơi phi trường, trước khi lên máy bay, người bạn tiễn chân nét mặt ưu tư cho tôi biết: giặc đã vào Ban Mê Thuột, trận đánh còn ở đó… lòng dạ không yên, những tin tức trên màn ảnh nhỏ, trên mặt báo nơi nước ngoài càng làm cho tôi lo âu hơn. Kontum, Pleiku… những nơi tôi đã từng sống. Lòng cồn cào nghĩ về quê hương, nơi những người thân yêu đang sống. Đoàn người lên đường với khoảng tới trên 200 cây s … tôi lo âu nghĩ, rồi mình có dịp trở về để chết nữa không? Chín ngày đi, đáng lẽ là một chuyến đi đáng ghi nhớ, thì cuối cùng với tôi là những ngày buồn. Ngày trở về, tôi không ngồi yên được, chỉ mong sao đặt chân trở về quê nhà. Lúc phi cơ đáp xuống Tân Sơn Nhất, đặt chân xuống mặt đất tôi chảy nước mắt với bao nôn nao. Ôm lấy con thơ vào lòng, giữ lấy tay vợ, tôi tưởng như mình vừa trải qua một biến động. Tôi thấu hiểu rằng, chẳng bao giờ tôi muốn rời xa quê hương mình, gia đình mình. Nơi đây tôi đã chọn lựa và tôi sẽ chẳng thể đi đâu.
Những bản tin, những trang báo mỗi ngày, mỗi giờ cho tôi thấy những bi thảm và những hào hùng. Hàng trăm ngàn người với đôi bàn tay trắng đã lên đường trong một ý thức chọn lựa. Ở đây, dù xấu xa bẩn thỉu, nhưng nó vẫn còn hơn phải sống dưới chế dộ Cộng Sản. Những bước chân đi tới phía đông, băng rừng, vượt núi, cái chết khít khao đã nói lên khẳng định đó. Nhưng vì đâu mà phải sống trong cơ sự này? lỗi vì ai? ai phải chịu trách nhiệm?
Không phải chỉ có Phước Long, Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum mà bây giờ còn cả Quảng Ngãi, Quảng Tín, Trị Thiên, Bình Long… Người anh từ Huế vào, người còn ngẩn ngơ. Người chị bàng hoàng nói tới đoạn đường vượt Hải Vân vào Đà Nẵng… Những chiếc xe như súc vật, những xác nguời nằm như lá khô, pháo kích không ngừng, những bà mẹ, đứa bé bò trên mặt đường và chiếc bình sữa… Trong cồn cào của thời sự, những sự việc làm tôi chóng mặt. Tôi tự hỏi: có phải đã tới lúc mà mình phải cầm lấy mũi nhọn, phải, chỉ có thế trong chọn lựa một khi cơn lốc đến. Tôi không thể có một chọn lựa đầu hàng để sống như trâu chó. Tôi chỉ thương hai tấm con thơ… Có thể một cơ sự như thế sẽ đến không?
2- Phải làm gì bây giờ? một người hỏi tôi thế, rồi hai người hỏi tôi thế. Bây giờ không phải là để hỏi như thế. Câu hỏi là: từ trước tới nay anh đã làm những gì? Anh có trách nhiệm gì với hiện tại này không?
Với riêng tôi, nhìn lại quá khứ từ 15 năm trở lại đây tôi có thể hài lòng để nghĩ rằng mình đã làm hết, đóng góp hết những gì có thể làm, có thể đóng góp. Lập trường dứt khoát của tôi đã hơn một lần được xác định trên những giòng chữ viết. Ở đó bao hàm một phấn đấu không cùng.
Nhập ngũ, rồi lên đường tới những vùng trận địa, nay nơi này, mai nơi khác kéo dài trong nhiều năm, nhận trách nhiệm.
Tôi đã lên tiếng về những gì tôi thấy, tôi nghe, tôi nghĩ, ở đó là cuộc chiến đấu của những chiến sĩ, là tiếng kêu thất thanh của người dân trong lửa đỏ, là cảnh điêu tàn của quê hương. Hơn ai hết, tôi mong ước một hòa bình trở lại. Bao nhiêu người khác cũng đã làm thế, hoặc hơn thế. Với thực tại này, khi truy nguyên tìm câu trả lời về trách nhiệm, nó không thuộc về tôi nữa. Và hiển nhiên, con đường lựa chọn, tôi tiếp tục. Phải làm gì bây giờ, câu hỏi ấy không còn ý nghĩa với tôi. Và tôi trả câu hỏi lại cho người khác, cho những người khác.
3- Văn chương có thể làm được gì trong tình thế này? Hãy gạt câu hỏi sang một bên. Hãy tưởng tượng tới một cảnh, người cầm bút ra nơi tuyến đầu, bên kia là giặc với những họng súng, rồi ở đó, người cầm bút lên tiếng: hỡi quân giặc, hãy đầu hàng và bỏ súng xuống… Với tiếng hô thật lớn, liệu giặc kia có đầu hàng, bỏ súng xuống hay cút đi không? Hay nói chưa hết câu, người cầm bút đã bị bắn gục? hoặc bằng một cách khác, những thơ truyện được đưa tới mặt trận… Đặt người cầm bút và văn chương vào một cảnh huống như thế là một sai lầm quá lớn. Đặt vấn đề như thế tức là phủ nhận văn chương và sức mạnh của nó. Bắn gục giặc cướp, bắt giặc đầu hàng, đuổi giặc đi xa, đó việc của những chiến sĩ nơi tuyến đầu. Nó không phải việc của người cầm bút, của văn chương. Mà văn chương thiết lập sức mạnh, cho những chiến sĩ, không phải trong một lúc, trong một giờ. Và như thế câu hỏi được đặt ngược trở lại: trong quá khứ, người cầm bút cũng như văn chương của ta đã làm được gì?
4- Cha tôi nói: hồi này thầy không ngủ được. Tôi không biết nói sao. Nhìn lại, trên 60 tuổi, bao nhiêu thăng trầm, những bôn trải từ 1945, để rồi năm 1954 ra đi với bao nhiêu ngậm ngùi. Lên đường, cha tôi vẫn nghĩ tới ngày trở lại, một hai năm nữa. Nhưng rồi không phải là một hai năm, hôm nay đã qua hai mươi năm, đứa em ngày lên đường mới 20 ngày hôm nay đã đến tuổi nhập ngũ… Rồi giặc nó vào tận đây sao? Tôi hiểu những gì cha tôi đang nghĩ, cũng như bao nhiêu người khác đã từng lựa chọn và tin tưởng. Ba mươi năm một cuộc chiến chưa ngừng lại và những tan nát còn không ngừng đổ tới… Năm 1954 gần một triệu người đã ra đi, bây giờ lại thêm một triệu người khác lên tiếng bằng chọn lựa. Có những người trong hai mươi năm đã phải phấn đấu để lập lại đời sống của mình không biết bao nhiêu lần. Tôi chưa thấy có một dân tộc nào lại phải sống trong kinh hoàng như thế. Dù phải chịu đựng, nhưng tất cả một đời sống lúc nào cũng là một phấn đấu. Có dân tộc nào bền bỉ và dũng mãnh như thế. Vậy thì tại sao cả khối dân tộc ta phải sống trong nhục nhằn, đau khổ chừng ấy. Bằng một cách nói tiêu cực: vận nước ta như thế sao? Hay nói với bằng chứng của lịch sử: chúng ta phải trả cái nợ máu của cha ông ta?
Có người đến hỏi tôi: có đi ra ngoại quốc không? Tôi đã trả lời dứt khoát: Tôi sống và chết tại nơi này. Người ấy hỏi: anh chấp nhận sống chung với người Cộng Sản? Tôi nói: tôi không phải là một con chó để nay sống với chủ này, mai sống với chủ khác chỉ vì miếng xương chúng liệng ra. Tôi tin tưởng con đường tôi đi. Có một nơi là lẽ phải và ánh sáng. Có một nơi là lẽ trái và bóng tối. Có trắng và đen không thể nhập nhằng được. Nếu tôi có chết chăng nữa, điều ấy tôi không ân hận. Lịch sử đã chứng minh rằng: nhiều khi cái chết là một điều tốt hơn là sống. Chết đi cho người khác sống, cho lẽ phải và sự thực, sống chết như thế cần thiết. Tôi bình tĩnh với quyết tâm đó.
Này những tên bất lương, hãy vơ vét, hãy chạy đi cho mau tiếp tục sống làm đầy tớ cho những tên chủ, và hãy đừng bao giờ ngửng mặt lên, hãy quên đi, đừng bao giờ nhắc đến hai tiếng Việt Nam.
5- Người phi công nói: chuyến bay đã không còn chỗ, nhưng người mẹ đã cố gắng đẩy đứa con lên, rồi người mẹ đứng lại, một tay đưa lên vẫy. Chiếc trực thăng bay lên và tôi nhìn thấy người mẹ quì xuống như cầu nguyện. Đẩy đứa con lên, tôi không quên được hình ảnh ấy. Có một nơi được gọi là hy vọng và cõi sống. Và một nơi là cõi chết. Có phải người mẹ kia đã muốn gửi đi đứa con trong hy vọng không? Khi trở lại, chúng tôi không còn thấy người mẹ đâu nữa. Dù sao tôi cũng còn hy vọng và cầu nguyện cho đứa trẻ kia gặp lại người mẹ thân yêu…
Sống tự do hay là chết. Điều đó được viết bằng xương và máu. Tôi mong ước mọi người cùng tôi góp lời cầu nguyện: cho chúng ta được sống làm người và thoát qua cơn thử thách này. Tương lai tùy nơi chúng ta với niềm tin đã có.
(trích trong Thời Tập số ra ngày 23 tháng 4-1975)
[nguồn by Trần Hoài Thư]$pageOut$pageIn
MỘT
(thời kháng chiến chống Pháp)
…Vì sự xa cách đã quá lâu của chàng với gia đình, nhưng hình ảnh một người nằm chết cong queo với con mã tấu nơi ngực thì chừng như rất rõ ràng, rất bi thảm, một hình ảnh như nằm kề ngay bên, nhắm mắt lại chàng vẫn thấy hiện ra. Bao nhiêu người đã chết như thế. Chàng không thể biết nhưng chắc chắn rất nhiều, những người cha, những người mẹ và cùng lúc những kẻ chết nằm ngoài bãi không ai nhận, không ai chôn cất … Bao nhiêu trẻ con bà già chết oan trong lằn đạn vô tình tàn ác… Đó là thực tế mà nay hiện rõ trong óc và chung quanh Thạch.
Hiền nói:
– Ở quê bây giờ như trạch bỏ giỏ cua chẳng biết chạy đi đâu. Chết lúc nào không biết. Vua Bảo Đại đã về rồi nhưng không biết rồi ra sao? Có điều dân quê chỉ biết làm mà ăn, không biết làm gì hơn, ai muốn làm sao thì làm, họ chỉ chịu đựng. Riêng em, em phải lánh đi, ở nhà không thể được.
Hiền muốn nói cho em tất cả những lo âu của mình, nhưng Hiền cũng muốn có em ở bên. Không phải chàng muốn em khổ, mà muốn có người để san sẻ những lo âu của mình. Ngay lúc đó Hiền lại muốn Thạch không phải khổ như mình, muốn Thạch sung sướng.
Hiền nói:
– Chú Hoành cũng đã ra tỉnh, em biết không?
– Nghe bác nói, nhưng em chưa gặp.
– Mai em phải đi, không thể ở nhà được.
Thạch im. Mẹ và chị Hiền đã vào nhà, bóng hai người đi lui cui trong bóng tối.
Thạch nói:
– Liệu bọn du kích còn trở lại.
– Bây giờ một thì bọn nó qua sông, hoặc đã xuống hầm rồi, lo là lo sớm mai Tây nó về lục soát, lại mất ít gà, lợn, hoặc bò, sớm mai anh sẽ đi với em lên huyện.
Hiền đứng lên:
– Thôi mình vào nhà, sương nhiều thế này dễ ốm lắm. Em thấy đó, đêm người dân cũng không được yên nữa huống chi là ban ngày. Và như thế làm sao để yên tâm làm ăn, ruộng vườn bỏ bê và đói. Nhà mình còn ít ruộng đó mà cày được cho có ăn đâu phải dễ gì, mà bán thì ai có tiền để mua.
Trở vào ngang sân, đưa mắt vào trong nhà bỗng Thạch chú ý tới một vật gì đen ở trên nền đất, chàng đi vào và nhặt lên tay một khẩu súng lục nhỏ, Hiền ngạc nhiên:
– Súng ở đâu đó, em có súng sao?
Thạch giữ khẩu súng trên tay:
– Lúc nãy có một cặp trai gái vào đây. Nếu không nhầm, qua lời họ nói, anh đàn ông là một du kích, còn ả đàn bà là vợ một anh chàng đi lính Ba-ti-giăng đóng ở ngoài quận…
– Chết cha, thật sao.
– Họ kéo nhau vào ân ái ở đây, lúc có hai người vào nhà họ im lặng và ẩn, trong khi vội vàng tên kia đã bỏ quên khẩu súng.
– Thế thì hắn sắp trở lại, nếu không mai cũng trở lại. Em nên bỏ vào đó, nếu mai họ mới lại thì sớm mình hãy cất… Anh biết là của ai rồi, không ngờ chuyện đó có thực.
– Ai vậy?
– Thằng Trạch và vợ thằng Tích ở cùng xóm. Không ngờ con nhỏ đó lại đến thế. Như thế chưa biết nó giết thằng chồng lúc nào. Chồng nó đâu đến nỗi.
Hiền và Thạch bước lên hiên nhà. Tiếng chị Hiền nói từ trong nhà ra:
– Cháy ở đâu vậy mình? Em sợ cháy dưới phía nhà bác Lĩnh quá.
Tiếng của chị Hiền run vẻ xúc động. Cháy dưới nhà bác Lĩnh, trong trí óc chất phác của chị Hiền hiện ra hình ảnh một căn nhà đổ nát. Gia đình bác Lĩnh vắng mặt. Đã chạy đâu? Hay đã chết? Tình nghĩa với một gia đình mà chị đã mang ơn trong thời gian tản cư khiến chị lo ăn không được. Anh Hiền trả lời:
– Không rõ lắm, nhưng có lẽ không phải nhà bác Lĩnh, vì nhà bác Lĩnh ở về phía sau cây đa, mà vừa xong anh nhìn thấy đám cháy ở mãi phía đầu chùa tay phải.
Tiếng đứa nhỏ khóc, chị Hiền vỗ về và ru. Mẹ Thạch nói run run:
– Đó, con thấy chưa, ở quê nào có yên gì, mẹ muốn con ở nhà cũng không được… Có đêm nào được ngủ yên đâu. Sống chết như trứng để đầu ngọn tre… Một hôm nào đại bác rơi vào nhà này chẳng hạn. Nói dại dột nếu vậy…
– Sao mẹ lại nghĩ thế?
– Thì có bao nhiêu chuyện đâu mình có thể nghĩ mà vẫn đến, nào loạn, nào giặc nào chuyện cha các con.
Chừng như bà mẹ lại bắt đầu khóc. Anh Hiền đã ngồi lên bộ ngựa đang xoa hai chân vào nhau cho đất bột rụng xuống.
-. Mẹ nghĩ quẩn làm gì, có số cả. Chẳng lẽ trời bắt người ta chết hết sao, mà chết hết thì trời ở với ai.
Anh Hiền nằm xuống mệt mỏi. Thạch cũng leo lên và nằm xuống bên:
– Em có thấy sợ không. Chỉ có cách nhau vài chục cây số mà đã thế đó, rồi ở đây qua một dòng sông lại khác nữa…
– Em có mấy đứa bạn nó rủ ra khu. Em hỏi: ra khu làm gì. Chúng bảo đi tranh đấu. Như vậy là thế nào. Tranh đấu cho ai. Em bảo không biết gì hết. Bọn nó la: đồ nô lệ chỉ muốn ăn cứt Tây. Em nghĩ tức mình quá. Sao đơn giản như vậy. Ra xem để rồi trở về làm du kích như họ đó sao. Mà nào phải mình theo Tây gì.
– Nếu em ở đây, em rõ dân chẳng phải không đánh Tây, không đuổi giặc, nhưng họ cần sống, họ lại thấy Việt Minh cũng chẳng thương dân gì. Những gì xưa kia có, họ cũng lặp lại như thế, chỉ khác người. Bây giờ đêm du kích về cũng bắt gà, bắt lợn, lấy tiền, thu thóc cũng đánh đập, bắt bớ phần nhiều vì tư thù, xem ra còn ác hơn cả Tây cả Nhật. Và Tây cũng diễn trò ấy. Thằng dân è cổ ra chịu mọi nhục hình, cắn răng nuốt hận, hé miệng ra có khi toi mạng. Cũng tại dân chẳng theo ai. Nhiều lúc anh nghĩ, hay dân ta quen nô lệ rồi. Chẳng lẽ… có điều, nắm được địa vị, quyền lực ai cũng thành bần, thành ác… Thôi ngủ đi, mai em nên đi sớm… Ở nhà cũng chẳng ích gì.
Anh Hiền trở mình nằm ngoảnh mặt vào phía trong. Thạch cũng xoay nghiêng ra phía ngoài. Đêm tối bít bùng lặng lẽ. Một không khí bít bùng che giấu những cơn sóng ngầm vận chuyển trong cuộc sống. Trong cả vùng Đoài giờ này chắc mọi người vẫn chưa nhắm mắt, hoặc có chăng cũng chỉ thiếp đi vì mệt nhọc.
Nằm đây nghe ngóng, bóng tối vây lấy, như cuộc sống, chàng mới thấu hiểu những đe dọa mà người dân phải chịu đựng, nhất nữa chừng như những đe dọa đến ngay với chính đời sống bản thân và người ruột thịt của chàng. Trong mỗi gia đình đều đã có những người chết, những người chết ở mọi nơi, trong nhiều năm. Mỗi giờ phút đang, hay sắp tới bất cứ ai, một lúc nào đó nhắm mắt chết đi, hoặc mỏi mắt giẫy giụa với cái chết… những gì được học, được nghe nơi nhà trường đã hoàn toàn trái với những gì chàng phải chứng kiến, phải sống trong thực tế. Luật pháp, nhân phẩm, tự do… tất cả những gì chàng đã suy nghĩ đó đều vô lý trước chiến tranh, không cần luật pháp sinh mạng người ta được xét xử một cách mau chóng tàn nhẫn, có chăng nhân phẩm của những người có sức mạnh, đơn giản hơn, của người có một mẩu khí giới cầm tay, con dao nhọn, hay khẩu súng. Chính nghĩa thắng, bao giờ chính nghĩa cũng thắng, những bậc thầy khả kính của Thạch đã nhắc đến nó từ bao lâu nay, nhắc đi nhắc lại… nhưng sao người Việt, với chính nghĩa là đời sống, là dân tộc mình, mà vẫn phải thua dưới sức tấn công xâm lăng của Pháp, của Tàu, những người không có chính nghĩa… cũng như chiến tranh hiện đại, dân chúng có muốn đâu vẫn bị xô đẩy vào các cuộc tàn sát bi đát thảm khốc không sao thoát ra được.
Căn nhà này, xóm làng này, từ bao nhiêu năm trước chàng vẫn hình dung ra một nơi êm đẹp, bình yên cho chàng có thể nương náu, nhờ cậy… như những kỷ niệm trong những mùa hạ đã trải qua, bây giờ… thiên đường đó đã bị tàn phá, tan hoang, và như thế tất cả những gì đã có trong quá khứ sẽ chẳng bao giờ còn trở lại nữa, như những căn nhà chung quanh đã cháy, đã đổ nát, như cha chàng đã chết. Chiến tranh vẫn chưa biết đến bao giờ mới chấm dứt…
Rất lâu trong đêm Thạch mới ngủ được.
Đoài là một làng nằm trong vùng ngay bên hữu ngạn sông Đáy, ngay bên đường quốc lộ chính Sơn Tây, Hà Nội, và cùng với con đường dọc theo xuống mãi Thanh Quang, Ngã ba Thá…
Làng Đoài nằm sát ngay bên bờ đê, con đê được coi như vòng đai phân ranh giữa hai vùng chiếm đóng của Việt Minh và Pháp. Đồn chính của vùng đóng ngay nơi chợ Đại Phùng, và dọc theo bờ đê nhiều đồn bót nhỏ tại Quế Lương, Yên Sở… Có thể thấy ở vùng đất đai đặc biệt đó một đời sống điển hình, những điển hình đau khổ, tranh chấp bi đát của cuộc sống dân quê. Trong khi đó chiến tranh vây phủ trên khắp đất nước với sự có mặt của quân đội Pháp bên một chính quyền bù nhìn của Bảo Đại. Đứng về phía Pháp để chiến đấu tự nhận là có chánh nghĩa được sao? Đứng về Việt Minh, nhưng Việt Minh là Cộng Sản… chắc chắn sẽ lựa chọn đứng về phía Việt Minh dù không phải là Cộng Sản… Nhưng tại sao không có một lựa chọn cho một con đường thứ ba…? Điều này Thạch không thể tìm kiếm vì Thạch là thanh niên còn ở tuổi hành động, ở tuổi những cảm tính còn mạnh. Đó là thực tế chua xót nhất.
Qua một đêm ngủ chập chờn những đe dọa không yên, Thạch thức dậy, không khí im lặng và êm mát, không khí mà đã bao lâu nay chàng không được biết đến, được sống và thở với nó. Tại sao lại có chiến tranh, Thạch vẫn tự hỏi một cách vô lý như thế, hỏi để không trả lời. Mà dù có trả lời cũng không thể dứt khoát được. Còn biết làm sao?
(trích Gào Thét của Dương Nghiễm Mậu, Văn Uyển xb Saigon 1968, từ trang 52-58)$pageOut$pageIn
HAI
(biến cố Mậu Thân)
Năm giờ sáng ngày ba mươi Tết tôi thức dậy trong thành phố Huế, trời lạnh buốt, sương muối đọng trên những lá cây rơi xuống mặt, xuống cổ buốt như những mũi kim nhọn chích vào da thịt. Những người bạn mới thân và những người bạn cũ đã đến, chúng tôi hẹn nhau đi ăn sáng trước khi trở về Sài Gòn sau một tuần lễ ở lại cố đô, người bạn hơn tôi hai tuổi vừa ở trong quân ngũ bốn năm ra nói với tôi: đã thay đổi ý định chưa. Tôi cười nói chưa, tôi đã nói tôi cũng muốn ở lại, câu chuyện còn dài lắm, nhưng tôi nghĩ có những điều mình không phải nói với nhau mà đã hiểu rồi, tôi trở về vì ở trong đó còn cha già và những người thân yêu, tôi vẫn không ngừng cố gắng để làm những gì tôi có thể làm được, dù đó là một việc nhỏ nhưng tôi không nghĩ việc có mặt của người con cả trong một gia đình trong đêm giao thừa là một việc nhỏ. Anh bạn nhìn tôi. Khu Thành Nội vẫn còn yên ngủ, những đêm liên tiếp không nhắm mắt với tiếng đại bác nổ từ xa, những tiếng súng nhỏ đơn lẻ, tiếng máy bay tản thương đậu xuống trong khu bệnh viện dã chiến khiến cho người tôi khô đi tỉnh táo theo với những ly rượu mạnh và những điếu thuốc đốt không ngừng cháy trên môi. Tôi leo lên sau chiếc xe gắn máy của người bạn, hành lý không có gì ngoài mấy gói kẹo mè xửng, mấy quả nem chua, trong đó còn có quà của một người bạn gửi cho cha mẹ hiện sống ở Sài Gòn. Con đường Hòa-Bình, Hiền Nhơn, Đông Ba còn mù trong sương sớm, chưa có một cánh cửa nào mở, thành phố chừng như vẫn chập chờn trong giấc ngủ cổ tích của mình, giấu hơi ấm và nhịp thở sau những tường gạch sâu mốc ẩm rêu phong, dưới những mái ngói nâu cũ và những tàn cây thấp xanh đen. Cửa thành Đông Ba còn lẩn trong nền trời tối, mấy ngọn điện sáng lên đơn lẻ. Con đường Gia Long những cửa phố đóng kín, một vài người đi xuôi ra phía chợ trong đó có người vác theo một cây mai lớn, vài quán ăn đã mở cửa, trên cầu Gia Hội đã đông người đi lại, trong bến xe, nơi hiên chợ, dưới những quán nhỏ thấp thoáng bóng người qua lại rộn rịp, bến sông những chiếc thuyền chúc đầu vào bờ im lìm với những ngọn đèn nhỏ leo lét không rõ những khuôn mặt qua lại. Bọn chúng tôi, sáu người ghé vào một quán ăn nơi phía ngoài chợ, quán đông người, không còn một ghế trống, những ly cà phê , người bạn nói phải tiễn anh bằng một chầu bún bò Huế mới được. Nhưng hàng bún mọi ngày chưa có, chúng tôi quay xe chạy qua cầu sang nhà ga, trạm xe lên phi trường đặt ở đó, tôi coi đồng hồ: sáu giờ ba mươi, tôi lo trễ, gió thổi ngược lạnh buốt trên da mặt, cây cầu chừng như dài hơn mỗi ngày, dòng sông đen sâu phía dưới, lấp lánh những ngọn đèn ẩn hiện nơi những lùm cây xa trên hai mạn bờ. Khu bến phà sáng chói, ánh sáng làm bật rõ khu đại học màu vôi trắng mỏng. Đài phát thanh, khu đại học, trường Đồng Khánh, trường Quốc học… Nhà ga hiện ra trong bóng tối nhòa nhập, những ngọn đèn xanh, những chiếc xe ca nằm ngổn ngang ngoài khoảng sân trống rộng. Trong nhà những hành khách lặng lẽ trên những băng ghế, chuyến xe chưa bắt đầu, những người tài xế còn đang hí hoáy coi lại máy, bánh xe, chúng tôi vào trong quán gọi mỗi người một ly cà phế sữa, những hơi thuốc đều tiên trong ngày, những lời dặn dò sau chót, những cái bắt tay thắm thiết… Ngồi trên băng ghế lạnh trống, trong xe chỉ có bốn người, một người đàm bà ngồi thu mình im lặng, hai người đàn ông ngồi đối diện nói không ngừng những câu chuyện riêng không rõ ràng. Chuyến xe lăn bánh, tôi vẫy tay từ biệt những người bạn, từ biệt Huế sau những ngày gặp lại cách nhau hơn mười ba năm. Chuyến xe chạy nhanh trên những con đường vắng, dưới những lùm cây mù sương. An Cựu, Gia Lễ, Phú Bài, con đường đá nhỏ chạy giữa những lùm tre xanh lả ngọn, giữa những ruộng lúa xanh trĩu ngọn vì sương mai còn đọng óng ánh. Buổi sáng chạng vạng, những cơn gió lạnh thổi đẩy vào lòng xe, dưới chân những ngọn núi phía xa sương còn đục lờ như những đợt mây thấp. Cánh đồng lúa, những cơn gió lạnh khiến tôi nghĩ tới quê hương miền Bắc. Ở ngoài đó, rất xa, những năm thơ ấu, mưa phùn gió bấc căm căm… Từ biệt Huế sau mười ba năm gặp trở lại, từ biệt bạn hữu, từ biệt căn nhà có vườn cây xanh, có bể nước, có giếng gạch sâu, có tiếng nói một người: bây chừ anh đã thay đổi những ý kiến về Huế chưa…
*
Khi tôi viết những dòng này là ngày mồng bốn Tết, buổi tối trong căn nhà im lặng của những con đường, khu phố chung quanh. Cơn choáng váng của biến cố còn làm tôi vật vờ. Những lo âu, uất ức như còn ứ nghẹn trong lòng ngực. Đêm giao thừa cùng với tiếng pháo nổ thì cũng là tiếng súng của những người cộng sản nổ vào bảy thị trấn miền Trung, trong đó có Huế, chưa trọn một ngày tôi dời khỏi, lo âu về những người thân ở lại đó còn thắc thỏm trong lòng, thì khuya đêm mồng một tết, những tiếng nổ từ xa cùng với trái sáng đầy trên bầu trời Sài Gòn khiến tôi lo âu. Bọn họ cũng trở về đây nữa sao, biến cố đã xảy ra như thế nào sau bức màn của hậu trường chính trị, của những mưu toan, những tham vọng chót ngất… Chỉ có ba mươi sáu giờ hưu chiến cũng không thể có được sao? Sao nói tới những một tuần? Không thể quên đi súng đạn, giết chóc, tàn sát, chất nổ trong một ít giờ sao? Không thể ngồi yên lặng, bên một ly rượu suông, một chén trà nhạt nghĩ tới những ngày đã qua sao? Không muốn nhớ tới những người đã chết, những người thân yêu xa cách mong chờ sao? Không muốn gợi lại một vài kỷ niệm vui buồn, đắng cay trong đời sao? Người ta đã quên hết, quên hết, như một người con gái đã mất hết, quên cả tiếng người như trong một bài hát của Sơn sao? Tôi không muốn nghĩ như vậy, tôi không muốn tin như vậy. Cuộc chiến này chúng ta đều không mong muốn có phải vậy không các người anh em của tôi, những người đã sinh ra lớn lên trong đất nước này, trong cuộc chiến không nguôi này? Mở cửa ra đứng ngoài con đường ngơ ngác ngó lên những trái hỏa châu chói sáng, lòng nghi hoặc, biết hỏi ai, ai biết, bao nhiêu người đã thức dậy trong đêm đó ở thủ đô nhìn nhau tự hỏi với những giả thiết mơ hồ, trong đêm đó những ai còn say mê bên bàn bạc, còn ngủ trong hơi rượu, còn thiếp đi hạnh phúc trong chiếu chăn nồng ấm của vợ trẻ con thơ… Có điều nhiều người đã nghe thấy tiếng súng nổ tưởng như tiếng pháo của những người nào ngái ngủ thức dậy trong đêm nhìn thấy còn phong pháo trong nhà… Nhưng sự thật thì súng đã nổ, nhưng sự thật thì có những người anh em đã ôm lấy súng vượt những quãng đường xa lạ, lặng lẽ tiến tới những mục tiêu giữa lúc mọi người tưởng như ngày xuân còn dài với những hy vọng… Không bao giờ những người cộng sản muốn chúng ta hy vọng, những cầm cầm súng từ khu trở về muốn chúng ta sống với thực tại: một cuộc chiến không trận tuyến, một cuộc chiến như định mệnh khắc nghiệt ôm khít lấy thân thể và số phận chúng ta… Đó là điều chúng ta không mong muốn, nhưng đó là điều chúng ta phải biết nếu muốn còn được sống, dù sống khổ đau…
*
Tiếng đài phát thanh mất hút trong đêm, tiếng nói ấy nhiều khi là giá trị của thực tại, của một hiện diện, tiếng nói ấy mất đi như bằng cớ của một sự hoang vắng, của sự vô danh. Tôi nghĩ thầm: lại những biến cố nào đây? Buổi sáng ngơ ngác trên những con ngõ còn ngập xác pháo hồng, những thùng rác để ngổn ngang tràn đầy, tiếng nói từ đài phát thanh, lệnh thiết quân luật 24 trên 24 được ban bố, cộng sản quấy phá tại đô thành và nhiều tỉnh, kêu gọi dân chúng bình tĩnh ở lại trong nhà, một vài mẫu tin không rõ ràng: cộng sản tấn công dinh Độc lập qua ngả cổng đường Nguyễn Du, bắn hai phát 57 ly, một xe cam nhông chất nổ, mười tên bị chết tại bộ tư lệnh hải quân, hai tên bị bắt sống, mười bốn tên chết tại đài phát thanh, đài phát thanh hư hại không xử dụng được, tiếng nói nhiều lúc tắt nghẽn, tiếng kêu gọi dân chúng dời khỏi vùng Bà Quẹo trước mười tám giờ, một số người nóng ruột, hiếu kỳ túa ra đường, những tin truyền miệng không rõ ràng: một người làm cảnh sát trong xóm chết tại ngã tư Yên Đổ – Trương Minh Giảng, một người nói người ta chạy từ những Phú Thọ, Bà Quẹo vào Sài Gòn. Một bà nói: họ đông quá trời, họ ùa vào nhà tôi đòi nấu cơm cho ăn, giọng nói nghe không được. Một thanh niên nói: họ đi ngang qua cửa hỏi đường vào khám Chí Hòa phần lớn họ đi chân không, có mang ở tay hoặc ở cổ một miếng vải đỏ… Một người ở Cổng-xe-lửa số 10 chạy xuống nói: giữa đêm có ba người gõ cửa vào nhà, bắt trong nhà ở im, nấu cơm cho ăn… Lệnh cấm đốt pháo được loan truyền, nhưng sau đó một nhà chừng như còn tiếc bánh pháo còn lại mang đốt, tiếng nổ khiến mọi người giật mình chửi lớn… Những lời bàn tán, những dự đoán… Nhưng tất cả đều không biết gì, máy thu thanh tại tất cả mọi nhà đều mở thường trực, tiếng hát có những mấp lại, những tin tức về những vùng đang đánh nhau: trường nữ quân nhân, Ngã tư Xa lộ – Hàng Xanh Việt cộng bị thương chạy ra khu chợ Bến Thành bị bắt, tại khắp các thị trấn đều có cuộc tấn công, đài phát thanh Hà Nội loan báo về sự thừa thắng… Tôi cố gắng phát họa trong đầu về cuộc tấn công với hai mặt chính: một từ phía Quang Trung, Bà Quẹo xâm nhập xuống Ngã tư Bảy Hiền, Phú Thọ: một từ mạn Thủ Đức xâm nhập vào Xa lộ, vào Phú Nhuận, Đa Kao… Tôi cũng chỉ nghĩ tới một số những toán cảm tử, vào để chết, xâm nhập nhân dịp hưu chiến, lợi dụng giới nghiêm được hủy bỏ, chắc họ đã vào từ đêm giao thừa giữa lúc Sài Gòn ngập tiếng pháo… Chúng ta có dự liệu những trường hợp này không, chúng ta có nghĩ tới những người không lúc nào ngủ, lúc nào cũng cầm chắc súng trong tay không?
Buổi sáng tan dần, buổi trưa nắng lên nhàn nhạt, nền trời nhiều mây thấp u ám. Máy bay lượn trên bầu trời, máy thu thanh vẫn những đĩa nhạc cũ chạy rè rè thỉnh thoảng một vài lời nói về tin tức, nhắc nhở, thông điệp thứ hai đầu năm của Tổng thống, buổi trưa trôi qua, buổi chiều âm u thêm, những chiếc máy bay chúc xuống mạn Gò Vấp, Bà Quẹo, những tiếng nổ lớn vang động, đêm xuống, hỏa châu sáng cả một vùng trời, cột khói bốc cao mạn Xa lộ, một vài tiếng nhỏ lẻ tẻ… Đài phát thanh liên tiếp những nguồn tin không rõ ràng, đêm trôi qua nặng nhọc… Những bản tin trên các đài phát thanh nói về những trận đánh ở Nha Trang, Qui Nhơn, Kontum, Đà Nẵng, Huế bị tràn ngập và đang chiến đấy gay go. Tôi nghĩ tới những người bạn mới chia tay nhau hôm ba mươi tết, người bạn hỏi tôi: chúng ta phải làm gì? Tôi nói tôi không bao giờ chấp nhận cộng sản, người bạn đưa cho tôi một lời kêu gọi in ronéo với tiếng Việt và tiếng Anh, đó là lời kêu gọi của các phe tham chiến kéo dài hưu chiến vô hạn định, tiến tới hòa đàm, dưới đó ký tên những giáo sư khoa bảng, một số có những tiếng tăm nào đó, một số đã từng được ưu đãi và thường tự nhận như những phần tử tiến bộ trong giới giáo sư khoa bảng. Người bạn hỏi: nghĩ sao, tôi cười nói ai có việc của người đó, nhưng đừng mặc cảm, tôi lựa chọn sự minh bạch, đừng ai quên bài học liên hiệp trước đây của cha chú mình, tôi không bao giờ tin cộng sản có nhân đạo, họ chỉ có cứu cánh, chỉ có một sự thật, chúng ta có nhiều sự thật, chúng ta yếu trên một phương diện nào đó, yếu vì nắm giữ nhiều sự thật nhưng đó là mối hy vọng để chúng ta thoát ra, sống sót và phục hưng.
*
Sáng mồng ba, những tin tức vẫn mù mờ. Tôi ra đường đi ngược lên phố, mọi con đường vào trung tâm đều bị phong tỏa, hai bên đường cờ treo trong dịp tết vẫn phấp phới, trời âm u không có nắng, những người mang theo bị, va ly đi hớt hải trên đường phố, những chiếc xe nhà binh, binh sĩ cầm súng ngang chạy qua vun vút, những xe cứu thương còi réo hối hả, người ta tụ lại những góc đường, cửa nhà hỏi thăm tin tức. Ông bà ở đâu tới – Dạ trên Phú Nhuận – Tôi ở trên Cây Thị – Nghe nói chúng vào trong bệnh viện Cộng Hòa lấy hết máu, thuốc men và bắt đi những bác sĩ và y tá trực… Gặp một người bạn đi tìm tin tức của vợ chưa cưới, anh nói: nhà phía trong đường Ngô Tùng Châu, Gia Định, bây giờ chỉ có người chạy ra, không ai được vào nghe nói bọn nó kéo vào đó sau khi bị dồn từ khu Tổng tham mưu sang. Có người còn nói chúng đang đào hầm ở trong khu đó nữa, có lẽ chúng tìm đường chạy về phía Gò Vấp cũng như cánh quân ở khu Hàng Xanh, Cầu Sơn đang chạy về phía Thủ Đức. Tôi không biết gia đình cô ấy chạy đi đâu hay vẫn còn mắc kẹt trong đó, đi hỏi thăm những người quen nhưng vẫn không tin tức gì. Trông anh bạn phờ phạc lo âu. Tôi nói sau đây mấy ngày chắc một số người phải chịu tang những người thân, một cái tết người ta sẽ không quên được.
Buổi chiều một ông bạn của cha tôi ghé lại chơi, ông đi chúc tết, ông nói: ở nhà buồn quá không có ai tới chơi, mà mình cũng không dám đi đâu, loanh quanh tôi đi liều, ra ngõ thì gặp một người bị chết ở đó, người ta nói đừng đi nhưng tôi cứ đi, ông mừng tuổi cho mấy đứa nhỏ, ông ăn mặt cẩn thận như ngày tết mà sao trông lạc lõng, đó cũng là hình ảnh tôi gặp ngoài đường, nhiều người vẫn như tiếc rẻ về bộ đồ tết của mình chưa được dùng đến, ông nói vùng Ngã Bảy người ta chạy lên nhiều quá, bọn họ giữ cả một khu lớn từ Ngã Bảy xuống tận Phú Thọ, bọn nó chết đầy trên đường Nguyễn Tri Phương, nhiều nhà bị đốt… Những nhân viên chính phủ không chạy kịp bị bắt và bị giết, chúng dùng từng đoàn trẻ con làm bia đỡ đạn để di chuyển, bởi vậy nhiều đàn bà và trẻ con chết một cách oan uổng… Thằng con tôi đi xuống mạn Nguyễn Văn Thoại về nói trông những xác chết cháy còn lại một chút, những xác chết không toàn thây ở dọc đường… Ngồi nói chuyện một lúc ông nói: bây giờ nghĩ tới đường về tôi thấy lo. Nhà ông ở mãi dưới Phan Thanh Giản.
Mới chiều xuống những con đường đã vắng ngắt, người ta rút vào trong nhà đóng kín cửa. Tôi ngồi im nghe hết đài phát thanh này tới đài phát thanh khác. Trận chiến vẫn tiếp diễn nặng tại nhiều nơi như Huế, Đà Lạt, Bến Tre…
*
Bây giờ Huế ra sao trong cơn lửa đạn này. Tôi nghĩ tới những người bạn, đêm nào Sơn hát một bài còn dở dang, Nhân danh ai anh bắn vào người đồng loại… bài hát viết cho một người đã bị bắn vào bụng, người đó là Ngô Vương Toại, trong buổi Sơn hát cho các sinh viên nghe tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Bây giờ Sơn ra sao? Căn nhà vườn cây xanh trong Thành nội, vợ chồng Cường, đứa con nhỏ, cô bé Trang ra sao? Quân có còn cơn say không bao giờ dứt, tài thiện xạ của anh có được dùng đến? Những cô gái Huế mái tóc dài, đôi mắt đen lánh quyến rũ sớm mai thức dậy có còn ngồi trước bàn phấn? Bẽ bàng soi sắc gương Tư Mã. Ai điểm trang mà em phấn son… Kha có còn nhớ lời tôi vặn hỏi: tôi mong cho tới khi Kha có một đứa con, đứa con đó một tuổi mà vẫn không thay đổi, khi đó tôi sẽ đợi thêm hai mươi năm để… Những cậu con trai mang mốt Sài Gòn về đi bát trên con đường Trần Hưng Đạo bây giờ làm gì… Những khoang thuyền trống bây giờ chờ đợi ai?… Kha có còn nhớ tôi nói về một bài thơ của Nguyễn Văn Phụng, những hình ảnh không thể quên, những điều phải nhớ như: tình yêu thì bị gậm mòn như đôi guốc mộc, em kéo trên con đường…; và phi lý vô cùng, phi lý không chịu nổi, khi những bạn bè thân tôi vì chủ nghĩa. Nhưng không bao giờ đồng ý hay chịu được những điều khác, quê hương ta thì nghèo, điều đó đúng, nhưng nhất định không bao giờ người dân ngu dốt, người ngoại quốc có thể nhầm để nói như thế, dân ta không ngu, mà dân ta không được học. Nhưng Phụng đã nhận thấy đúng, đúng một cách chua chát khi nghĩ và viết:
Này các anh,
khi các anh bàn với tôi về quê hương đất nước
bàn với tôi về vai trò trí thức
tôi thấy các anh hút thuốc lá Mỹ khi ăn những
chiếc bánh Tàu-chợ-lớn thứ chính cống
Này các anh,
khi các anh nói với tôi về chiến tranh
bàn với tôi về bổn phận
và yêu cầu tôi đọc thơ giữa đám đông
tôi thấy các anh mặc veston thắt cravate
leo lên một ngôi nhà ba từng làm trường học
đổ thơ ra trên những bánh ngọt
đổ thơ ra trên những ly cá phế thủy tinh
tôi đã thấy các anh xưng tụng những bài thơ phản chiến nhất
với những đứa con gái đánh phấn và để móng tay dài
với những đứa con gái thích dự bal và yêu nhạc kích động (1)
Mười ba năm xa cách trở lại Huế, tôi thấy thành phố vẫn như xưa, có chăng một vài thay đổi nhỏ trên những khu thương mãi, và tôi nhớ những điều khi xưa viết về Huế. Sao lại chọn đất này để làm vua? Tôi muốn một ông vua nào đó của nhà Nguyễn thức dậy nơi những lăng tẩm nguy nga cổ kính trả lời cho mình: sao lại chọn đất này để làm vua? Vẫn những con đường năm xưa, những ngôi nhà năm xưa, khác chăng nhiều con đường đã được mang tên mới như Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Hiệu, Mai Thúc Loan, Tăng Bạt Hổ, Đoàn Thị Điểm thay cho những Hộ Thành, Âm Hồn, Đông Ba, Mã Khái, Hiền Nhơn… Không còn muốn cho Huế sống với lịch sử của nó sao? Hãy để cho những thị trấn, những làng mạc giữ lại lịch sử của mình, chính lịch sử nó làm nên tinh thần yêu nước. Những danh nhân chẳng bao giờ muốn mình xóa đi những gì mà người dân sống đã quen thuộc với nó… Tôi nghĩ thế. Bây giờ Huế ra sao? Những cành mai vàng, những chậu cúc, thược dược, những bông hải đường vẫn trổ bông đón chào một mùa xuân không đến với người?
*
Buổi sáng, những cơn thiếp ngủ chập chờn trong đêm khiến người mệt mỏi, tôi vòng lên phía Tân Sơn Nhất, đường vắng tanh, chỉ có những binh sĩ vác súng đứng nơi dọc đường hoặc di chuyển, loáng thoáng một vài người qua lại. Những hàng rào kẽm gai giăng ngang đường, gần các cơ sở, bót cảnh sát, nơi những ngõ vào Sài Gòn, nơi những đầu cầu từng đám người tụ lại vì không được qua, nhiều những phát súng chỉ thiên bắn lên khiến những người tụ lại tản ra. Những xe cứu thương, xe tuần tiễu chạy không ngừng. Những lời nói qua lại về những cuộc lùng kiếm, bắn nhau tại vùng Ngã Năm Bình Hòa, Phú Nhuận, Nguyễn Tri Phương, Sư Vạn Hạnh, Chuồng Bò, Ngã Bảy. Buổi trưa những cột khói cao trên bầu trời xám. Mặt trời úa đỏ. Cháy ở Cầu Sơn, Hành Xanh, Ngã Bảy. Những khuôn mặt hốc hác trên đường phố…
*
Đài phát thanh liên tiếp những thông cáo, kêu gọi và những bản nhạc đủ loại lộn xộn. Theo những lời khuyên tôi không trở về nhà, ngủ trên một chiếc bàn. Tin cho thấy trận chiến đã lắng xuống, cộng quân hoặc tìm cách bám sát vào những khu đông dân chúng, luồn sâu vào trung tâm, tìm cách lẩn ra ngoài hoặc đầu hàng, trái sáng thả đầy trên nền trời cùng những chiếc máy bay đủ loại, tiếng súng nổ ngoài Xa Lộ, khu Cầu Sơn, những con phố vắng hoe không một bóng người. Tin Huế vẫn hoàn toàn đen tối: hai bên vẫn đánh, những cánh quân tìm cách bám lấy những cứ điểm then chốt nơi hai đầu những cây cầu, trong khu Thành nội. Những họng súng nào đang hờm ở Tây Lộc, Kim Long, An Cựu, Bến Ngự… Tới Huế trong những ngày cuối năm, Huế không phải nơi tôi muốn dừng chân lâu, tôi muốn đến một vài nơi khác như Quảng Trị, La Vang, Bến Hải… nhưng tôi không tới được những nơi dự định đó, cuộc chiến đang diễn ra ác liệt ở Đồng Hà, Khe Sanh… Dự đám tang ông thân một người bạn cũ, người bạn mắt đỏ hoe, giọng nghẹn ngào: về tới nơi thì ba em đã mê đi rồi, không nói được nữa, như khi tới nơi ông biết, mở mắt nhìn, miệng mấp máy và ôm lấy đầu… chừng như ba em chờ các con trở về… Nhưng chỉ có người con gái có mặt bên người cha khi hấp hối, còn con trai đi lính trình diện nhập ngũ không trở về kịp, cùng những đứa cháu. Cuộc chiến ở nhiều khuôn mặt tĩnh vẻ đau đớn nhiều hơn, một người cha, người mẹ chết không có một người con ở bên vuốt mắt, chúng đang học ở xa, đang chiến đấu ở mặt trận, ở một tiền đồn nào. Người bạn nói về cái chết của một giáo sư có nhiều con, ông chết ngồi trên ghế một mình… Phần mộ nằm trên một sườn núi cao ngó ra phía cửa biển Thuận An, những viên đá xám tím, đám tang đi trên một con đường gập ghềnh bánh xe tăng, trên sườn đồi không lâu còn là chiến trường, một người kêu đám trẻ không đuợc lên cao, trên đó có đồn binh, một trái mìn nào đó còn quanh đây, chiếc quan tài mệt nhọc trên tay những phu đám leo lên theo những con đường mòn nhỏ một cách khó khăn. Chiếc quan tài trong lòng huyệt, những nắm đất ném xuống, giọng hò nện buồn buồn vang lên trong không khí tịch mịch: còn vài ba bữa nữa, sao đã vội ra đi, bỏ lại con thơ vợ dại, sao không ở lại vui cùng các bạn thân quen, bây giờ chia tay đôi ngả, cách biệt nghìn trùng… Những tiếng khóc nghẹn ngào… Sao không vui cho người đã chết, quên đi cuộc sống này, chết yên lành và được nằm xuống một nấm mồ riêng? Bao nhiêu người chết phơi thây trong những khu rừng hoang vu, bao nhiêu người chết tan xác trong lửa đạn… bây giờ chiến tranh đã ở Sài Gòn, Huế, những thị trấn, chiến tranh một cách thực sự, nhưng không có nghĩa trước đó chiến tranh không có mặt ở Huế. Chiến tranh có mặt ở Huế với tiếng súng vọng vào mỗi đêm, là những bao cát chất trên những cỗ ngựa láng bóng trong những gnôi nhà cổ kính, là những thùng dầu hôi cất dấu trong những hóc tối cùng với những gạo Mỹ. Và trên đường phố đông đặc những người lam lũ không sinh trưởng ở Huế và những khuôn mặt bảnh bao làm lạ với Huế, bên đó là những người hành khất chen nhau nơi các quán ăn. Tôi đã rùng mình khi thấy một bàn tay đen bẩn từ phía sau đưa tới cầm lấy miếng thịt chân giò trong tô bún tôi vừa để xuống bàn. Tôi lánh mình ra bên, một đứa nhỏ và một bà già… Chiến tranh vẽ ra trên khuôn mặt Huế những nét đó, những nét xưa kia không có, có thể ngày nay còn nhiều khía cạnh khác…
Nhưng rồi sau biến cố này Huế có thay đổi gì không? Chắc là không trên những con đường, những căn nhà, những nếp sống như lăng tẩm cổ thành, nhưng chắc sẽ có những biến đổi nơi hành động, những bàn tay lật đi lật lại, những đổi trắng thay đen, những giao động, những lựa chọn? phải thế không? Người ta sẽ không sống được như gỗ đá. Chắc Sơn hiểu, điều tôi đã nói: vì sao mình lại viết? dù nhiều khi cũng trông thấy những bất lực ngay trong những hành động. Nhưng không bao giờ tôi chấp nhận một thái độ hư vô, tôi cố gắng trong phạm vi nào mà tôi có thể cố gắng được, cố gắng từ cái nhỏ nhất, trong công việc, trong đời sống, bởi tôi nghĩ những cái không đáng gì (hay rất thiết thân) đó đang là những mầm mống chính nếu như chúng ta còn muốn thoát ra, muốn mưu đồ, gây dựng lại một cái gì, tôi nói với các anh về một cách phục hưng phẩm cách, một làm lại, mà đầu tiên khởi từ trong mỗi chúng ta. Chỉ có thể bắt đầu từ đó…
*
Những tin tức mơ hồ, những lời truyền miệng không rõ ràng khiến tôi lo âu hơn, tôi muốn trở về nhà, hôm nay là mồng bốn tết, công chức vẫn được lệnh ở lại nhà, giờ giới nghiêm vẫn như cũ nhưng người ta vẫn tìm cách ra đường được tới mức có thể đi, những tiếng súng vẫn nổ ở khu Gò Vấp, Gia Định, Hành Xanh, và mạn dưới là Ngã Bảy, Sư Vạn Hạnh, Minh Mạng, Phú Thọ, Phú Lâm…Người ta nói về những toán cộng quân tìm cách chạy theo những toán người tị nạn, trước đó chúng đã xé nhiều sổ gia đình, căn cước của dân chúng, chúng đột nhập nhà thương Nhi Đồng, một vài toán nhỏ xâm nhập khu Bàn Cờ tuyên truyền, với những lời nhắc đi nhắc lại giống nhau khoảng mươi dòng được học thuộc, đó là những cán bộ khoảng mười bốn , mười lăm tuổi gồm cả phụ nữ. Tin về một vài cán bộ tại Bàn Cờ, Cầu Ông Lãnh bị dân chúng bắt sống đánh chết. Buổi trưa nắng đục, những ngọn khói cao phía Ngã Bảy, Gò Vấp khiến nóng ruột lo âu, nhà mình, nhà những người thân có thoát ngọn lửa hung tàn không. Nhiều vùng ngoại ô vẫn hoàn toàn mất liên lạc. Buổi chiều tôi trở về nhà theo đường Đakao, nơi cầu Bông từng đoàn người từ phía Gia Định chạy sang, nơi cửa một tiệm bánh mì người ta bu quanh tranh nhau mua. Một vài cửa tiệm hủ tiếu mở cửa, giá cắt cổ với tô hủ tiếu lỏng bỏng những nước trong veo. Đường Trần Quang Khải bị cô lập nơi bót cảnh sát, trên các cửa rạp chớp bóng vẫn còn những quảng cáo cho các phim đầu năm với những dòng chữ chúc tết. Tôi quay trở lại đường Hiền Vương, rẽ xuống Hai Bà Trưng, Cầu Kiệu bị chận lại, tôi rẽ Yên Đổ, không có lối sang, tôi rẽ Công Lý trở về Trương Minh Giảng, những con đường vắng hoe, những chuyến xe tuần tiễu, xe cứu thương và xe nhặt xác chạy trên những con đường không người, trên lề đường nơi nào cũng còn vương đầy xác pháo hồng, cùng đó những đống rác cao nghệu hôi thối, trước những cửa nhà, bên những đống rác nhiều khóm hoa cúc vàng, thược dược héo rũ. Đó là những tặng vật của ngày tết để lại trên đường phố hoang vu. Thất lạc, chết chóc, nhà cháy, đói… những người từ ngoại ô trở vào hỏi nơi tạm trú và trạm tiếp tế. Một người đàn ông đứng tuổi nói tới cảnh trở về khu nhà mình ở gần Cầu Sơn: thúi quá, cách xa tôi đã thấy thúi, không về được, người vật chết trong những căn nhà đổ, cháy… Một người nói, ở Phú Nhuận dọc theo đường rầy xác chết ngổn ngang, đường rầy bật tung… Một người nói, ở dưới nghĩa trang Đô Thành người ta đào những hố lớn lấp nhiều người xuống bằng xe ủi đất. Xóm tôi ở đêm trước chúng về tuyên truyền dân chúng khua thùng sắt tây, bắn bị thương một tên, chúng rút chạy xuống phía lạch bỏ lại hai chiếc xuồng, nhiều con ngõ được rào bít lại. Nhiều nhà đông nghịt vì những người ở những vùng lửa đạn chạy về tá túc. Những bà nội trợ kiểm điểm lại, gạo, dầu, nước mắm… Trong hơn hai mươi năm trời nay lúc nào người dân Việt cũng sống trong thắc thỏm, lo âu, sửa soạn… những biến cố rồn rập trong một tình cảnh kinh hoàng, nghẹt thở cho nên chừng như ai cũng phòng bị, sống như trong những truyện trinh thám nghẹt thở có lẽ vì vậy những người Việt không còn thích đọc truyện trinh thám nữa vì đã sống hơn cả trinh thám: tình, tiền, máu, nước mắt, đàn bà những cái đó làm thành những chất liệu trinh thám. Ngoài cái đó người Việt còn phải sống với những chất liệu khác nữa: tham vọng, quyền lực, những chất liệu cao độ nghẹt thở, chết chóc… Trong lúc tôi cũng như bao nhiêu người khác với những lo âu chồng chất, nhìn đứa trẻ tha thủi hất chân trong những đống xác pháo tìm kiếm, chắc nó muốn tìm những chiếc pháo xịt, tôi thấy như mình đã mất đi một cái gì, những đứa trẻ ấy rồi đây nó có quên đi được nó đã lớn lên trong một tình cảnh như thế nào không? Và đến khi nó lớn cuộc chiến này đã hết chưa? Tôi mong cho tới lúc nó lớn sẽ còn đi tìm những chiếc pháo như hiện nay thay vì phải chơi với súng đạn, nghe những tiếng nổ chát chúa…
Nước Việt ta rồi đây phải xây dựng như thế nào? Sơn nhắc tôi ở Huế khi về hãy viết về quê hương ngày mai đó: nhà ở, vườn cây, lối đi, y phục trong một nước Việt tương lai phải như thế nào? Một đền thờ Việt Nam phải sao? Có phải chúng ta muốn mang đến một hy vọng trong tình cảnh đen tối hiện tại? có phải chúng ta tự tìm cách an ủi chúng ta không? Còn thực tại thì sao? Đó là điều tôi muốn được hỏi những người anh em. Cho tới khi tôi viết những dòng này vẫn còn những người đang chết, súng vẫn nổ…
K. thân mến, khi tôi viết cho anh những dòng này thì trên tờ lịch ghi ngày mồng mười Tết, chúng ta chia tay vừa đúng 11 ngày, sáng sớm tinh mơ, sương muối lạnh buốt, trời chạn vạng ở Huế chúng đã uống những cà phê sữa trong sân ga chia tay nhau, mới đây mà tưởng như đã xa lắm, có lẽ vì chúng ta cũng như mọi người đã phải sống những giờ phút dài nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, bao nhiêu biến cố đã xảy ra, bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu viên đạn đã nổ thay cho những tiếng pháo đầu xuân, và tôi đang cố hình dung, tự hỏi: Huế bây giờ ra sao, các bạn hữu mình ra sao? Những trận chiến đã diễn ra trên đường Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, cầu Trường Tiền, cửa Thượng Tứ, Đông Ba… những nơi mà mấy ngày trước chúng ta đã từng đi dạo, từng ngồi uống cà phê nói những chuyện nghiêm trọng và nhiều chuyện tầm phào khác? Trận chiến cũng đã tới con đường Hòa Bình có căn nhà êm ấm của gia đình Cường, lan tới quán cà phê Cô Dung, quán cà phê Mợ Tôn, quán bún bò mà nhiều người biết tiếng dưới hầm nhà xẹc? Những gói thuốc nổ đã làm sập cầu Trường Tiền những nhịp cong trắng soi mình xuống dòng Hương giang, làm gục cầu Bạch Hổ trên đó có con đường sắt xuyên Việt? Tôi cố nhớ, cố hình dung xem với trận chiến đang diễn ra đó đã làm khuôn mặt Huế hôm nay như thế nào nhưng quả thật tôi không thể hình dung ra được. Có điều chắc chắn trong vòng mười ngày qua lửa đạn đã trở lại Huế…
*
K. còn nhớ không, trong những ngày cuối năm ngắn ngủi, ngồi giữa những bạn bè tôi đã nói với anh tất cả những gì tôi nghĩ một cách thiết tha. Tôi cũng xác nhận với K. rằng: tôi không chấp nhận cộng sản, tôi cũng không có một ảo tưởng gì về nó. Tôi phải nói trước như vậy với K. để sau đó chúng ta có thể nói với nhau một cách rõ ràng. Điều này K. cũng xác nhận với tôi. Con người cọng sản cho tới nay đã trở thành một con người lạc hậu, nó không còn là giai đoạn của những Gorki, Lỗ Tấn… của những ngày khởi đầu cách mạng, chúng ta cũng xác nhận kinh nghiệm mà cách mạng vô sản đã mang đến cho chúng ta. Chúng ta bằng năng lực và sáng suốt của tuổi trẻ đã nhìn thấy những khuyết điểm, những tệ trạng ở phần đất và xã hội chúng ta đang sống, chính trong môi trường đó chúng ta tin rằng chúng ta có thể làm được một cái gì. Có thể tôi là một người lạc quan, như K. đã thấy, nhất là khi tôi nói với K.: những người quốc gia ở miền Nam, chúng ta là hy vọng của thế giới này, chúng ta đang phải chịu những thử thách, hy sinh lớn lao nhất, chúng ta kinh nghiệm qua cả con đường hư hỏng , chúng ta, mỗi người đều cầm nắm nhiều sự thật trong tay, chính điều đó khiến chúng ta yếu, nhưng cũng chính điều đó khiến chúng ta giữ được chúng ta không lao vào vực thẳm để sau đó có thể phục hưng, sống lại… những anh em miền Bắc của chúng ta cùng những người cộng sản khác tại miền Nam chỉ có trong tay một sự thật, chỉ nhìn thấy một con đường, bởi vậy lúc này họ khỏe hơn chúng ta, nhưng chính con đường độc nhất đó, sự thật độc nhất đó đang đưa họ tới vực thẳm vì đó là sức khỏe của cuồng tín… Tôi thành thật tin như vậy. Anh đã đọc cho tôi nghe những bài thơ phản chiến, tôi cùng K. đã nghe những bài hát phản chiến, tôi và K. đã cùng đọc những lời kêu gọi của những giáo sư khoa bảng về việc kéo dài hưu chiến vô hạn định… Chúng ta đã nói về cảnh huống dân tộc ta trong cuộc chiến tàn khốc này. Tôi cũng đã nói với K. hãy giữ những ý kiến riêng của mình nếu tin đó là đúng, nhưng không được ngụy biện, không bao giờ đòi người khác phải chấp nhận ý kiến của mình… Những điều đó liên hệ với nhau nói lên một sự thật. Nhưng để được sống chúng ta buộc phải chấp nhận, như K. đã chấp nhận bốn năm hơn trong quân ngũ, chấp nhận cuộc chiến, chiến đấu và phấn đấu trong bao dung, với con tim và khối óc của một người.
*
K. thân mến, cuộc chiến đã không chỉ diễn ra trong những đồng ruộng núi đồi, cuộc chiến đã diễn ra ngay trên những đường phố quen thuộc, sự thật nói lên đây là một cuộc chiến không có trận tuyến, bao nhiêu bế tắc, bao nhiêu mâu thuẫn, bao nhiêu quyền lợi, bao nhiêu tranh chấp đang dồn chứa trên quê hương này. Sức chúng ta có hạn, trong tầm sức có được chúng ta làm việc. Nếu mỗi người chúng ta đều như thế chúng ta sẽ làm thành một sức mạnh lớn. Điều đó chắc K. đồng ý với tôi. Tôi mong mỏi cho tới khi những dòng chữ này đến được với K. cuộc chiến đã đến những giai đoạn khác, K. vẫn không thay đổi, K. vẫn còn là những người sống sót cùng với những bạn hữu khác. Chúng ta phải sống, sống cho tới lúc chúng ta có thể vừa làm việc, vừa có thời giờ nghỉ ngơi dẫn người vợ hiền, đàn con nhỏ đi dạo trên những bến sông và nhìn thấy cuộc chiến này như một dĩ vãng không bao giờ muốn nhắc lại, đó là niềm mong ước của tôi và chắc cũng là miền mong ước của K. và những người Việt khác…
(VĂN số 100 & 101 tháng 2-1968)
(2-68)
(1): Trích 10 năm Giáo Dục Đại Học Huế. Đặc san 1968
$pageOut$pageIn
BA
(tháng 4-1975, khi miền Nam Việt Nam hấp hối)
==> xin đọc lại ở "phần 12" (kéo xuống chân bài và click vào Phần 12$pageOut$pageIn
BỐN
(viết sau 1975)
Bài thứ bốn là 2 đoạn ngắn trong một truyện vừa gồm 22 đọan nhan đề “Về Nhà” được viết sau 1975 giữa lúc chúng ta nghĩ là sẽ vĩnh viễn không bao giờ được đọc văn ông nữa.
Bài này được trích từ tập truyện ”Lênh đênh qua Cửa Thần Phù” do Văn Mới xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2009.
Liên lạc nhà xuất bản: P.O Box 287 Gardena, CA 90248
DƯƠNG NGHIỄM MẬU
17.
Con đường đưa lên cổng trại đã hiện ra trước mắt. Người trẻ nhìn người tóc bạc. Người tóc bạc mỉm cười vẻ cam chịu. Một toán người đang từ con đường nhỏ đi lên. Một bà già, một cô gái, hai thanh niên thấp nhỏ, rớt lại phía sau một bé trai gầy ốm, bụng ỏng, da vàng, khuôn mặt già khô, kẻ mang người vác, hẳn đây là những cư dân trong vùng. Người đàn ông tóc bạc lên tiếng hỏi:
– Cụ ơi, chỉ giúp cho cháu đường ra bến sông…
Bà cụ đứng lại lặng im một lúc rồi mới trả lời như cố gắng để hiểu những âm thanh nghe được :
– Đi theo tôi…
Toán người đi trước, hai người đàn ông lặng lẽ theo
sau. Không một lời trao đổi. Tới chỗ ngã ba, bà cụ già ngừng lại chỉ tay về phía trước:
– Đi thẳng đây tới bến sông.
– Cám ơn cụ.
Chưa kịp nghe hết lời cám ơn bà cụ và toán người đã rẽ vào con đường nhỏ phía tay trái, đằng xa, thấp thoáng sau những ngọn cây mấy mái nhà nhỏ. Người trẻ tuổi thốt thành lời: – Về nhà.
Người tóc bạc nhìn sang người bạn đồng hành:
– Về nhà?
– Tôi nói về toán người chúng ta vừa gặp. Họ trở về nhà với con đường quen thuộc. Tôi với anh cùng tìm đường trở về nhưng sự trở về của anh khác với chuyến trở về của tôi: những gì đang đợi?
Tiếng thở dài nghe lạnh buốt. Hai người cất bước mà trước mặt là một con đường thẳng. Người tóc bạc quay lại nhìn quãng đường phía sau:
– Từ đây đi ngược lên là trở lại trại 7. Nếu biết trước mình đi ngay từ đầu có khi đã tới bến sông. Cái cổng trại xa hút thế kia…
Người trẻ như nghe thấy tiếng ai nói trong đầu: đã ra khỏi cổng thì đừng nhìn lại nếu không muốn trở lại đó. Đi và không nhìn lại. Người thanh niên với những bước đi dài hơn, nhanh hơn…
18.
Từ đâu? Câu chuyện bắt đầu từ đâu? Tại sao lại như thế? Tại sao hàng triệu người nối nhau bước chân vào những nơi giam hãm? Tội gì? Mình có tội ư? Tiếng kẻng khua. Những củ sắn. Những đêm tối. Những ngày nắng lửa. Những đêm lạnh cóng run rẩy. Phảng phất những mảng nhỏ sáng tối nhòe nhoẹt. Những vạt màu chàm. Màu trắng nhoa nhuếch. Tiếng giọt nước rơi chậm đều trên tấm tôn han rỉ. Những chuyển đổi không ngừng. Đây là đâu? Vẫn là đất quê hương mình đó chứ? Không lẽ? Không nhìn để khỏi trở lại nơi ấy. Những người nơi khác cũng giống như thế? Những nơi khác. Những tên gọi khác. Trở về. Chuyến đi ngày nào còn ghi khắc…
Tiếng bước chân, tiếng mở khóa, tiếng cửa sắt kêu nghiến, tiếng xích sắt va đập vào nhau. Không khí khô đặc lặng câm. Từng bóng người rời khỏi những khuôn cửa sắt. Từng bước chân thoát nhanh khỏi những hành lang mờ tối. Nền xi măng cứng nham nhở. Những nét mặt như tượng đá. Hình như không có một cử động nào. Hình như hơi thở cũng được giữ lại…
Khoảng sân rộng, ánh sáng ngọn đèn vàng nhòe nhoẹt làm cho những khuôn mặt như giống nhau với chiều ánh sáng, chẳng thể phân biệt ai già, ai trẻ, ai trắng ai đen. Tất cả chỉ có một màu và những độ đậm nhạt khác nhau của ánh sáng…
Một giọng nói khô lạnh cất lên:
– Nguyễn Văn K … Nguyễn Văn X… ra ngoài, mang theo đồ…
Câu nói như ngắn lại. Đám đông lặng câm như bắt đầu cựa quậy. Vài bóng người di chuyển, ít tiếng nói không rõ, rì rào những âm thanh côn trùng. Không nghe thấy một lời trao đổi. Mấy bóng người di chuyển chậm chạp với bị cói trên tay…Tiếng cửa sắt rú buốt, tiếng xích sắt va đập, tiếng khóa…Những bước chân xa dần rồi mất hút. Những con mắt nào nhìn ra cửa theo những gót chân khuất ngoài hành lang. Ở xa, nơi cuối dãy nhà là khoảng sân xi măng. Bao nhiêu mắt đã nhìn và cố gắng ghi nhớ: mấy bóng người đã đi qua, ngoài những K. những X. là những ai đó đã từng gặp chưa hay chưa bao giờ gặp? Một giọng nói rõ, tỉnh táo: Chuyển trại, sắp thêm đợt mới.
Những tiếng động vang lên trên những hành lang trong khoảng thời gian ngắn rồi lặng im trở lại. Nghe như có tìếng một cành khô rơi gãy trên một mái tôn nào. Tất cả như khóa chặt, như vùi sâu, như hàn kín…
Trong khoảng sân xi măng từng người một lặng lẽ tập trung người trước người sau lần lượt xếp thành hàng. Đêm và những ngọn đèn vàng từ trên cao chiếu xuống. Trên mái nhà, trên những ban công những bóng đen với súng chĩa xuổng. Tiếng ho vang lên từ một người tượng nào?
– Nguyễn Văn K.
– Có mặt.
– Tên cha tên mẹ?
– Nguyễn Văn Q. Trần Thị L.
– Lê Văn Đ.
– Có mặt. Cha vô danh. Mẹ Nguyễn Thị B.
– Đặng Đình H.
– Có mặt. Cha vô danh, mẹ vô danh…
Tiếng gọi tên khô lạnh. Những giọng nói khác nhau. Có nhiều Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Tư… Thêm tên cha mẹ như một xác minh. Người ta phát hiện ra trong đám có cả trường hợp hai anh em ruột cùng đang ở đây. Có những người cha vô danh và những bà mẹ vô danh…
Khoảng sân đặc kín người. Có mấy tiếng ho. Có tiếng động như một cái lon sắt rơi xuống mặt sân cứng. Những người mặc đồng phục vây quanh không nghe một tiếng người.
Người đứng trên cao gọi tên với cuốn sổ cầm tay sau cùng đi xuống chỉ tay đếm từng hàng người, rồi những chiếc còng được mang tới, hai người chung một còng. Tiếng sắt, tiếng khóa liên tiếp vang lên. Người cầm cuốn sổ trở lại chỗ cũ, trong yên lặng tiếng nói vang lên rõ từng tiếng:
– Có ai hỏi gì không?
– Thưa cán bộ…
Một giọng nói yếu và hiền vang lên từ phía góc sân. Có một vài cái đầu động đậy như muốn nhìn về phía tiếng nói:
– Cái gì?
Im lặng một lúc, một cơn ho từ đâu đó.
– Tôi chưa có còng.
Người cầm cuốn sổ đi xuống, mấy người mặc đồng phục chụm đầu vào nhau. Trong đám người nghe như có tiếng cười ở chỗ nào đó.
– Yên lặng. Trật tự.
Tôi chưa có còng. Tôi không có còng. Tôi mất còng. Mọi người đều có còng sao mình lại không có còng. Lẻ loi quá, không có tình bầy đàn. Tôi không có còng, tôi không ở trong đám đông này, tôi bị gạt ra, loại ra khỏi đám đông này. Tôi phải có còng. Tôi ở trong đám đông này. Tiềm thức hoang dã bầy đàn? Tôi chưa có còng? Sao thế. Bao nhiêu nhà máy sản xuất súng đạn, bom mìn, xích còng đã được xây dựng? Phải xây thêm bao nhiêu nữa, sản xuất thêm bao nhiêu nữa cho ai cũng có còng? Chưa hay là không nhận ra một cái còng hay nhiều còng đã được đeo lên người, từ chân tới tay, từ đầu tới cổ. Bao nhiêu cái ách đã khoác lên vai như những con trâu con bò đang phải bước đi trên đường bùn lầy lội với cái cày nặng kéo theo. Tôi chưa có còng. Và khi nào: Chúng tôi chưa có còng? Cho tới lúc ai cũng có một cái còng, khi đó còng để làm gì? Một vật trang sức?
Lần lượt từng hai người chung nhau một cái còng kẻ tay trái, người tay phải bước lên xe. Thế là hai con người bổng trở thành cai tù của nhau. Một thằng muốn bỏ chạy ư . Làm sao chạy, cả hai cùng lòng chạy, nhưng kẻ cao người thấp, kẻ chân ngắn, người chân dài? Đâu phải chỉ những cái còng không bao giờ bị rỉ sét? Còn bao nhiêu sợi dây thừng, bao nhiêu sợi dây điện không hư được dùng để trói kẻ này với kẻ khác, thành một dây, thành một chùm.
Từng hai người một chung một còng bước lên rồi cùng ngồi xuống, sát bên nhau. Tất cả lặng lẽ, trật tự. Những cánh cửa sắt trên xe đóng lại. Sát cửa, hai người đồng phục súng cầm tay ngồi ngoài cùng với đôi mắt như không động đậy và da mặt khô cứng. Tấm bạt nhựa kéo lên phủ kín. Kẻ không có còng lặng lẽ và chậm một mình bước lên xe sau chót. Tiếng còi ré lên, đoàn xe nổ máy rời khu trại lao vào đêm tối…
(Gia Định năm 1994)$pageOut
các Phần tiếp theo ==>
In this Post:
- Tin Nhà Văn Dương Nghiễm Mậu Qua Đời Tại Sài Gòn, Thọ 81 Tuổi - Việt báo 03/08/2016
- Sơ Lược Thân thế và Văn nghiệp Dương Nghiễm Mậu by Thụy Khuê.
- Trích văn: ảnh chụp nguyên bản Truyện ngắn “Rượu, Chưa Đủ” của Dương Nghiễm Mậu đầu tiên in trên Tạp chí Sáng Tạo Xuân Kỷ Hợi Saigon 1959 [tài liệu riêng của LTC ==> tôi đang làm và sẽ post nguyên bản Tạp chí Sáng Tạo số Xuân Kỷ Hợi 1959 dưới dạng ảnh trong nay mai, xin bạn đọc đón theo dõi]
- Bài của nhiều văn hữu viết về Dương Nghiễm Mậu [by Mai Thảo (1927-1998) viết năm 1984, Nguyễn Văn Trung 1962, Trần Hoài Thư 2013, Ngô Thế Vinh 2015, Nguyễn Lệ Uyên 2012, Khuất Đẩu 2012].
- Bốn bài bút ký được viết về 4 biến cố lịch sử của miền Nam [nguồn by Trần Hoài Thư]
1) Thời Phật giáo tranh đấu, Nhất Linh tự tử.
2) Mậu Thân 1968
3/ Mùa hè đỏ lửa năm 1972
4/ Bài viết trên báo Thời Tập số cuối cùng (tháng 4.1975).
Chúng tôi tin rằng những bài bút ký này rất hiếm quí, không thể tìm ở trên NET. [trích lời nhà văn Trần Hoài Thư]
- 4 giai đoạn lịch sử dưới ngòi bút của Nhà văn Dương Nghiễm Mậu [by Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo sưu tầm]
WESTMINSTER - SAIGON (VietBao) -- Nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã qua đời lúc 21 giờ 35 phút tối, giờ VN, ngày 2 tháng 8 năm 2016 (nhằm ngày 30 tháng 6 năm Bính Thân) tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi, theo tin của phu nhân nhà văn Dương Nghiễm Mậu là bà Ngọc Trang điện thư cho nhà văn Nhã Ca, Chủ Nhiệm Sáng Lập Việt Báo, hồi sáng Thứ Ba, 2-8-2016.
Theo bà Ngọc Trang, nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã vào bệnh viện 2 ngày thì mất vì nhồi máu cơ tim. Cũng theo bà Ngọc Trang, trước đó nhà văn Dương Nghiễm Mậu vẫn sống bình thường không có triệu chứng gì.
Sơ Lược Thân thế và Văn nghiệp
Nhà văn Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại quê nội làng Mậu Hòa (quê ngoại làng Dương Liễu), huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Từ 12 đến 18 tuổi sống ở Hà Nội. Học tiểu học ở trường Hàng Than, trung học, Chu Văn An, viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. 1954 di cư vào Nam với gia đình, năm đầu ở Huế, năm sau ra Nha Trang, hè 1957 vào sống hẳn Sài Gòn .
Từ 1957 trở đi viết nhiều: tạp văn, tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Tiểu thuyết đầu tay Đầy tuổi tôi đăng trên tạp chí Văn Nghệ từ số 2, tháng 3/1961 (sau in thành sách đổi tên là Tuổi nước độc, Văn, 1966), truyện ngắn Cũng đành in lần đầu trên báo Tân Phong của Trương Bảo Sơn; truyện ngắn Rượu chưa đủ, trên Sáng Tạo (bộ cũ, số 28-29 tháng 1-2/1959) đã xác định phong cách văn chương Dương Nghiễm Mậu. Từ 1962, làm tạp chí Văn Nghệ với Lý Hoàng Phong, đồng thời viết cho Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Tin Sáng, Văn, Văn Học, Bách Khoa, Giao Điểm, Chính Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ, Sóng Thần… Tập truyện ngắn đầu tay Cũng đành do tạp chí Văn Nghệ xuất bản năm 1963. Truyện dài Gia tài người mẹ (Văn Nghệ, 1964), được giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc (miền Nam), 1966.
1966 nhập ngũ. Từ 1967 làm phóng viên quân đội đến 30/4/1975. Lập gia đình năm 1971, với cô Hồ Thị Ngọc Trang, giảng viên Anh ngữ. Sau 30/4/1975 bị bắt giam. 1977 đươc tạm tha. Từ 1977, học nghề sơn mài và sống bằng nghề này tại Sài Gòn.
Tác phẩm đã in:
Truyện ngắn: Cũng đành (Tạp chí Văn Nghệ, Sài Gòn, 1963), Đêm (Giao Điểm, 1965), Đôi mắt trên trời (Giao Điểm, 1966), Sợi tóc tìm thấy (Những tác phẩm hay, 1966), Nhan sắc (An Tiêm, 1966), Kinh cầu nguyện (Văn Xã, 1967), Ngã đạn (Tân Văn, 1970), Cái chết của… (Văn Xã, Sài Gòn, 71; An Tiêm, tái bản, Paris, 2001)…
Truyện dài: Gia tài người mẹ (Tạp chí Văn Nghệ, 1964), Đêm tóc rối (Thời Mới, 1965), Tuổi nước độc (Văn, 1966), Phấn đấu (Văn, 1966), Ngày lạ mặt (Giao Điểm, 1967), Gào thét (Văn Uyển, 1969), Con sâu (Sống Mới, Hoa Kỳ, không đề năm)…
Những tác phẩm khác: Địa ngục có thật (bút ký, Văn Xã, 1969), Quê người (Văn Xã, 1970), Trong hoang vu, Tên bất lực, Kẻ sống đã chết, v.v…
(by Thụy Khuê 2004)$pageOut$pageIn
Rượu, Chưa Đủ”
Dương Nghiễm MậuTruyện ngắn đầu tiên có tựa đề “Rượu, Chưa Đủ” của Dương Nghiễm Mậu xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo Xuân Kỷ Hợi 1959 [tức Sáng Tạo bộ cũ, số 28-29 tháng 1-2/1959]. Nhà văn Mai Thảo, chủ nhiệm Sáng Tạo thời ấy là người chọn đăng “Rượu, Chưa Đủ”, và ông cho biết tại sao ông lại có được truyện ngắn này để đăng trên tạp chí Sáng Tạo do ông chủ trương mặc dù Dương Nghiễm Mậu không gởi cho Sáng Tạo:
“…Nhớ đó là một buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé vào thăm một diễn đàn bạn. Người bạn đang cắm cúi làm việc. Tôi kéo ghế ngồi hút thuốc lá, thấy ở cạnh mình một cái sọt rác đựng đầy những bản thảo gởi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt những tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy là một bản thảo truyện ngắn. Tôi đọc mấy dòng đầu, giật mình vì lối vào truyện mạnh dạn, mới lạ, khác biệt hẳn với lối vào truyện vòng vo ngập ngừng thường thấy ở những người viết mới. Đọc tiếp mấy trang nữa; tôi hỏi người bạn: “Bỏ đi tất cả đây à?” Người bạn không ngửng đầu lên: “Ừ, đã đọc rồi bỏ không đăng” “Moi lấy đi được không?” “Để làm gì vậy?” người bạn ngạc nhiên hỏi. “Mặc moi” tôi nói, và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn bạn vào túi áo, trở về đăng ngay nó và nguyên văn không sửa một cái dấu phẩy trên tờ Sáng Tạo số đang làm. Người bạn tôi, chỉ biết thấy giá trị những tác giả đã thành danh, không thấy được những hạt ngọc lóng lánh lăn ra từ những cõi viết còn vô danh chưa tên tuổi đã liệng đi cái hạt ngọc văn xuôi ấy là truyện ngắn Rượu Chưa Đủ, truyện đầu tay của một người trẻ tuổi mới viết văn bấy giờ là Dương Nghiễm Mậu. Hạt ngọc bị vất bỏ ấy và tôi đã tình cờ lượm được, đúng là một hạt ngọc.”$pageOut$pageIn
(trích trong "Con đường Dương Nghiễm Mậu" by Mai Thảo, bài đăng trên trên tạp chí Văn, California, Hoa Kỳ, số ra tháng 12 năm 1984, xin click vào "phần 3" bên dưới để xem toàn bài)
Con Đường Dương Nghiễm Mậu
Mai ThảoTạp chí Văn - USA, 1984
Khoảng cuối thập niên 50 và bắc cầu sang đầu thập niên 60 – cây cầu đến nay còn soi bóng tuyệt đẹp trên dòng sông đất nước – những tấm lòng đồng chí với những phá vỡ và những làm mới của văn học và cho văn học, đã được liên tiếp chứng kiến gần như trong cùng một thời điểm, hai cuộc lên đường đi về những chân trời phía trước của một thế hệ những người cầm bút ở miền Nam.
Lên đường thứ nhất khởi sự từ Lên Đường Lớn: từ hiệp định chia đôi đất nước, từ Bến Hải và vĩ tuyến 17, theo những bước chân trùng trùng của di cư một triệu. Đội ngũ tiền phong của nó là Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Cung Trầm Tưởng, Hoàng Anh Tuấn và Nguyên Sa, những người trước vào từ miền Bắc, bài thơ thứ nhất viết dưới những mái lều vải tạm trú của sinh viên, hai người sau "viễn phương" hơn, lên khỏi những hầm rượu tả mạn sông Seine, mới từ Pháp về. Những vì sao đầu này của một vòm trời văn chương vừa dựng thoạt đầu là những lấp lánh lẻ tẻ. Trên tờ Dân Chủ của Vũ Ngọc Các, tờ Đời Mới của Nguyễn Đức Quỳnh, Trần Văn Ân, từ Lửa Việt, Người Việt của sinh viên Hà Nội di cư. Rồi sau cùng đến với nhau thành một họp mặt chung trên tờ Sáng Tạo.
Lên đường thứ hai, đã thấp thoáng trong dấu chân lên đường thứ nhất, nên có thể coi như một đồng hành, làm một gờm thành đầy khí thế của những người viết trẻ, tất cả đều ở tuổi hai mươi, và diễn đàn chính của họ là tờ Văn Nghệ, chủ nhiệm Lý Hoàng Phong, anh ruột nhà thơ Quách Thoại. Họ là Viên Linh, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Du Tử Lê, Đỗ Quý Toàn, Trần Đức Uyển, là Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Nghiệp Nhượng. Và một người viết mới, tuy cùng một lên đường với bằng hữu nhưng độc lập, tách biệt, như đi một mình trên con đường riêng. Đó là Dương Nghiễm Mậu.
Những người của hai lên đường làm mới văn học nói trên, đến nay tuy đã mấy chục năm, nhưng với phần lớn tôi đều giữ được những kỷ niệm về lần đầu gặp mặt. Kỷ niệm với mỗi người mỗi khác. Thanh Tâm Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ, hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ. Nguyên Sa cái mũ trắng thầy giáo, lần đầu tới Sáng Tạo, gọi tôi vào phòng trong dậy một điệu nhảy swing. Cái áo thun cũ, cái quần sà lỏn của Doãn Quốc Sĩ, bữa ăn trưa đãi tôi ở Đại Học Xá. Cung Trầm Tưởng, cái cà-vạt đỏ chói, tóc đỏm dáng từng sợi. Viên Linh mặt mày cau có giận dữ vì đến đưa thơ tôi còn ngủ vùi, cửa toà báo treo tấm biển đi vắng. Trần Thanh Hiệp không nhìn lên, vùi đầu vào cuốn tự điển to gấp hai người Hiệp. Quách Thoại, cái anh chàng khả ố ngất ngưởng ở tiệm ăn Thanh Thế, lần gặp đầu đã tự nhận là vua thơ một thời. Nhưng kỷ niệm về lần thấy đầu, biết đầu với Dương Nghiễm Mậu là vô tình và lý thú nhất, sau này tôi kể chuyện lại, anh em còn cười lớn với nhau.
Nhớ đó là một buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé vào thăm một diễn đàn bạn. Người bạn đang cắm cúi làm việc. Tôi kéo ghế ngồi hút thuốc lá, thấy ở cạnh mình một cái sọt rác đựng đầy những bản thảo gởi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt những tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy là một bản thảo truyện ngắn. Tôi đọc mấy dòng đầu, giật mình vì lối vào truyện mạnh dạn, mới lạ, khác biệt hẳn với lối vào truyện vòng vo ngập ngừng thường thấy ở những người viết mới. Đọc tiếp mấy trang nữa; tôi hỏi người bạn: "Bỏ đi tất cả đây à?" Người bạn không ngửng đầu lên: "Ừ, đã đọc rồi bỏ không đăng" "Moi lấy đi được không?" "Để làm gì vậy?" người bạn ngạc nhiên hỏi. "Mặc moi" tôi nói, và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn bạn vào túi áo, trở về đăng ngay nó và nguyên văn không sửa một cái dấu phẩy trên tờ Sáng Tạo số đang làm. Người bạn tôi, chỉ biết thấy giá trị những tác giả đã thành danh, không thấy được những hạt ngọc lóng lánh lăn ra từ những cõi viết còn vô danh chưa tên tuổi đã liệng đi cái hạt ngọc văn xuôi ấy là truyện ngắn Rượu Chưa Đủ, truyện đầu tay của một người trẻ tuổi mới viết văn bấy giờ là Dương Nghiễm Mậu. Hạt ngọc bị vất bỏ ấy và tôi đã tình cờ lượm được, đúng là một hạt ngọc. Bao năm rồi không đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện chỉ nhớ cái chàng nào đó với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở Rượu Chưa Đủ một đoạn văn kết thúc tuyệt hay. Đoạn văn tả người anh đến đón em ở viện mồ côi. Hai anh em cùng mồi côi cha mẹ từ sớm. Hai anh em đi lang thang một ngày trong thành phố, không có một đồng xu nhỏ. Buổi chiều, trước khi đưa em trở về viện, người anh dẫn em vào một công viên, yên lặng lấy đất đắp thành những mô hình sông núi quê hương, thầm nghĩ hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò chơi đắp hình, sông núi với em, để có được cùng em, dù một cách rất tội nghiệp buồn rầu, một ý niệm về điểm tựa, về nguồn gốc. Thật là chửng chạc và cũng thật là cảm động. Đó là truyện ngắn thứ nhất của Dương Nghiễm Mậu.
Sau này, ngắm nhìn một Dương Nghiễm Mậu đã nhanh chóng nổi tiếng, đã có hàng chục tác phẩm được in ra, có được thêm những nhận thức mới về cõi văn sáng rỡ một tâm thức thời đại vô chừng nghiêm chỉnh hiếm thấy ở một người viết trẻ, tôi vẫn mãi mãi nhớ đến hai đứa bé mồ côi đắp hình sông núi quê hương trong sáng tác Rượu Chưa Đủ tôi lượm được trong sọt rác một toà báo của Mậu. Một công viên vắng lặng. Công viên đó chính là hình ảnh con đường văn chương Mậu đã mở ra và đi trên đó, một mình. Những mô hình sông núi quê hương. Đứa nhỏ mồ côi nghiêm chỉnh, sớm hiểu biết, ý thức trong truyện cũng chính là Dương Nghiễm Mậu, đã đắp xong và rất hoàn chỉnh, những mô hình sông núi cho cõi văn, cõi viết của mình.
Tuần lễ trước đây, ở một lá thơ của một người bạn thân gởi sang từ Sàigòn, có một đoạn bạn tôi vắn tắt cho hay về Dương Nghiễm Mậu sau 1975. Dương Nghiễm Mậu không đi năm 1976, phải trình diện học tập cải tạo, bị giam ở trại tập trung Phan Đăng Lưu Gia Định, hơn một năm sau được thả về cùng một đợt với Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Hiệu, Nhã Ca. Thư kể Mậu bây giờ làm việc ở một xưởng sơn mài thành phố, vẫn sống cùng vợ con trong ngôi nhà cũ vùng ngoại ô Trương Minh Ký, một đời sống từ lâu đã biết làm cho đơn giản đến tận cùng khiến nghèo túng đến mức nào cũng không còn là thảm kịch, và dẫu ở cảnh ngộ nào cũng thư thái ung dung. Thư kể Mậu đi bộ khoan thai trên hè phố, cái dù đen nơi tay, cái nhìn hóm hỉnh, nụ cười tươi tắn. Đúng là Dương Nghiễm Mậu, vẫn là Dương Nghiễm Mậu ấy, sau Rượu Chưa Đủ đến tìm tôi và đưa thêm những truyện mới, những sáng tác mở đầu cho sự nghiệp văn chương tốt đẹp này của Mậu đều được trang trọng giới thiệu trên tờ Sáng Tạo Bộ Cũ và Bộ Mới. Nụ cười tươi tắn, cái nhìn hỏm hỉnh. Đúng là Dương Nghiễm Mậu, độc lập một trời riêng, tách biệt một đường riêng, phản chiếu trong văn viết và trong một tấm hình nổi tiếng độc đáo của Trần Cao Lĩnh, Mậu nhắm mắt mĩm cười dưới một mặt kim đồng hồ kim phút kim giờ cùng ngộ nghĩnh rớt xuống.
Sau biến cố 1975, trước khi bị truy nã và do đó đứt hết liên lạc bằng hữu, tôi còn gặp Dương Nghiễm Mậu nhiều lần. Một lần ở cổng xe lửa số 6. Trời râm mát mà tác giả Địa Ngục Có Thật vẫn chiếc dù đen trong tay, như một vật tùy thân. Mừng rỡ đứng lại trò chuyện giữa tan hoang Cộng Sản đã vào. Mậu cười nói với tôi: "Nhiều chuyện lạ lắm sắp xảy ra, đây chỉ là bắt đầu và anh em mình sắp nhìn thấy". Rồi kể là đã sắp đặt tức khắc xong xuôi đời sống. Đã đơn giản còn chỗ đơn giản hơn nữa. Đã thu hẹp còn cho thu hẹp hơn nữa. Để lúc nào phải đi thì đi.
Ít lâu sau, quả nhiên Dương Nghiễm Mậu đã "phải đi", cùng với anh em văn nghệ sĩ miền Nam. Đi thẳng vào trại tập trung Phan Đăng Lưu. Một lần khác, gặp trên hè đường Tự Do, xế cửa nhà sách Xuân Thu. Mậu, một cây dù Tú Xương, tay kia xách một túi giấy, nói ở trong là một cái chăn len, đồ dùng quý nhất còn lại trong nhà, và Mậu đang trên đường ra chợ trời Tôn Thất Đạm bán lấy ít tiền đem về cho vợ mua gạo. Kể chuyện khốn quẫn mà cười thật vui, nét mặt sinh hoạt, ánh mắt riễu cợt. Sau 1975, tôi đã nhìn thấy ở nghệ sĩ ta một số bản lĩnh chói loà. Những phong thái trầm tĩnh, những bản ngã dũng liệt, trong nghịch cảnh mới như một đường kiếm tuốt ra khỏi vỏ, mới lấp lánh hiện hình. Nhưng tươi tắn, vững vàng và trong sự trẻ trung đặc biệt, gần như không có tuổi, thì là Dương Nghiễm Mậu thôi. Chỗ này là chỗ nói đến võ công thâm hậu, đến tư duy đạt thành và kín thầm nhưng đoán thấy, sự kiêu hãnh tuyệt của người nhà văn nơi Dương Nghiễm Mậu.
Lần sau cùng gặp, thời gian này Mậu vừa được trả tự do, là chiếc dù đen hiền triết tôi nhìn thấy ở trước rạp chiếu bóng Trương Minh Giảng. Lần đó, kẻ bên này đường, kẻ bên kia, tôi đang bị truy lùng ráo riết, nên chỉ nhìn nhau gật đầu, vẫy tay chào không ai đứng lại. Khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng tôi nhớ vừa đi vừa còn nhìn lại, nhìn cây dù đen văn chương xa dần, lòng đầy quý mến.
Bạn hữu còn kể ít nhiều chuyện về hơn một năm lao tù của Mậu ở Phan Đăng Lưu. Như về cái thái độ trầm tĩnh của Mậu đã có một ảnh hưởng rất tốt đẹp với anh em cùng tù, đặc biệt là với Nhã Ca, bao nhiêu năm vẫn trước sau kính trọng Dương Nghiễm Mậu như một người anh lớn. Biết Nhã Ca ngạo ngược nóng nảy, Mậu vắn tắt khuyên: "Cô còn phải trở về nuôi tụi nhỏ", và kèm sát Nhã Ca trong những buổi học tập kiểm thảo. Phải nên có thái độ nào cho đúng, kiểm thảo như thế nào mới là khôn ngoan, an toàn, nhất nhất Nhã Ca đều chịu nghe theo những chỉ dẫn của anh "Dương Nghiễm Mậu". Một chuyện ngộ nghĩnh về Phan Đăng Lưu: Buổi sáng hai anh em được trả tự do, Nhã Ca có người đến đón ở cửa trại, Mậu không có ai, Nhã Ca còn 5 đồng trong túi, Mậu không có một đồng nào. Nhã đưa cả 5 đồng cho bạn, để đi xe. Mậu cầm tiền cười lớn: "Anh là ông vua đi bộ ở Sàigòn, cần gì xe cộ nữa" và dùng 5 đồng của Nhã Ca ung dung vào quán uống cà phê. Chi tiết này đủ cho thấy bản lỉnh Dương Nghiễm Mậu trong nghịch cảnh.
Một chuyện ngộ nghĩnh khác, vẫn về Phan Đăng Lưu. Chẳng hiểu vì lý do nào cùng với Lê Xuyên tác giả Chú Tư Cầu, Mậu là một trong hai tù nhân văn nghệ bị quản huấn bỏ quên lâu nhất. Mãi gần nửa năm sau, mới được gọi tên. Cuộc thẩm vấn tức cười không thể tả được:
- Dương Nghiễm Mậu. Tên thật Phí Ích Nghiễm.
- Sao lại những hai tên?
- Một tên cha mẹ đặt. Một tên vì nghề nghiệp.
Quản huấn lắc đầu, Mậu không có một hồ sơ tội phạm. Đành hỏi:
- Anh bị bắt vì tội gì?
- Tôi không biết.
- Vô lý. Phải có tội mới bị bắt. Anh làm nghề gì?
Mậu nửa đùa nửa thật:
- Nghề văn nghệ sĩ.
Tên quản huấn dốt nát chẳng hiểu nghề văn nghệ sĩ là cái nghề quỷ gì, nhưng nét mặt rạng rỡ:
- Có thế chứ. Vậy tôi ghi vào hồ sơ tội trạng anh, anh nhớ kỹ nhé, tội anh là tội văn nghệ sĩ.
Tội văn nghệ sĩ. Tếu thật. Nhưng cũng là sự thật. Tác phẩm Dương Nghiễm Mậu, sau 1975, cũng bị đem ra trưng bày tại phòng Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy như sách của chúng tôi. Nội dung những tác phẩm Dương Nghiểm Mậu cũng bị đem ra mổ xẻ và đả kích thậm tệ ở các lớp học, các buổi họp và trên đài phát thanh Cộng Sản. Cái "tội văn nghệ sĩ" do tên quản huấn dốt nát định cho Mậu ở buổi thẩm vấn Phan Đăng Lưu, tôi biết. Mậu công nhận và còn thầm công nhận mãi. Như một ở cùng cảnh ngộ với bằng hữu. Như một tin tưởng vĩnh viễn ở chính mình, và qua bản thân, ở văn chương. Văn chương với Dương Nghiễm Mậu, mang ý nghĩa tốt đẹp nhất và toàn vẹn nhất của một tự thành. Con đường đi vậy là trước sau thông suốt. Những bước chân đi trên con đường ấy vậy là đã tới. Tôi vẫn nghĩ trở lại cái truyện ngắn đầu tay Rượu Chưa Đủ của Dương Nghiễm Mậu tôi nhặt được trong một cái sọt rác và đăng lên một số Sáng Tạo năm nào. Đứa trẻ mồ côi im lặng đào đất chơi trò đắp hình sông nước quê hương. Trò chơi tuyệt vời ấy đã hoàn tất. Nó cũng là cái trò chơi chúng ta cùng nhìn thấy là tuyệt vời và đã hoàn tất, bằng văn chương của người viết văn đi một mình trên con đường mình là Dương Nghiễm Mậu.
Tin nhà đưa sang cho biết hiện giờ nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã trở thành công nhân một xưởng sơn mài thành phố. Bằng hữu văn nghệ ở Sài Gòn gần như trên hết thảy đã ngừng viết và đã phải đổi nghề. Để sống. Để có lao động, để được yên thân. Nghe nói Nguyễn Thụy Long đi đạp xích lô. Nghe nói Trần Lê Nguyễn bán sách cũ. Nghe nói Nguyễn Đình Toàn nuôi thỏ nuôi gà ở làng Báo Chí cũ. Tất cả đểu dãi dầu, tất cả đều sương nắng. Nghe những tin nhà về bạn bè, thấy lòng xót xa buồn rầu, nhìn thấy những khổ cực đang chồng chất lên những thân thể chữ nghĩa thất thế và đang phải sống giữa chế độ hiện giờ của chúng ta. Riêng nghe tin Dương Nghiễm Mậu bây giờ làm công nhân một xưởng sơn mài thành phố, không hiểu sao tôi lại thấy vui vui và muốn cười. Có lẽ vì Dương Nghiễm Mậu bao giờ cũng đến với tôi bằng khuôn mặt đó. Khuôn mặt một người nhắm cả hai mắt lại, cho cái nhìn trở thành cái nhìn bên trong, cái nhìn tâm hồn, và nụ cười tủm tỉm hóm hỉnh là chân dung Mậu ở tấm hình chân dung ngộ nghĩnh của Trần Cao Lĩnh. Cũng có lẽ vì tôi thấy Mậu vững chãi nhất, chẳng phải buồn phiền và xót xa cho hắn.
Công nhân một xưởng sơn mài thành phố. Cây dù đen Tú Xương. Đúng là cảnh "Sáng vác ô đi tối vác về" rồi nhé. Dương Nghiễm Mậu! Những tấm sơn mài. Cây dù bên cạnh. Tôi đang hình dung ra Dương Nghiễm Mậu ngồi một mình một góc trong một xưởng thợ Cộng Sản, trước những tấm sơn mài ấy. Muốn hỏi Mậu ở Việt Nam nghìn dặm : "Những tấm sơn mài ấy có vẽ hình sông núi quê hương?" Chắc là có. Chắc là có. Không trên tranh thì trong tim, trong hồn, trong thức, trong ý. Và cái nền của sơn thì vẫn là một con đường. Con đường đi qua đời sống. Con đường đi qua văn chương. Con đường đẹp nhất, vì con đường thẳng tắp. Con đường đẹp nhất, vì là con đường một mình. Cuối cùng là đứa trẻ mồ côi trong truyện ngắn đầu tay Rượu Chưa Đủ của Dương Nghiễm Mậu sự thực không bao giờ mồ côi. Mồ côi là những kẻ khác kia.
MAI THẢO
[Nguồn: bài đăng trên trên tạp chí Văn, California, Hoa Kỳ, số ra tháng 12 năm 1984]$pageOut$pageIn
“Niềm đau nhức của khoảng trống”
(Của DƯƠNG-NGHIỄM-MẬU, Thế-kỷ 20, số 4)by Nguyễn Văn Trung
Cứ để ý ngay những đầu đề truyện ngắn của một số nhà văn trẻ bây giờ, cũng có thể thấy được sự khác biệt về ý-hướng sáng tác của họ và những người lớp trước.
Tiểu thuyết không phải là tả cảnh, tả tình nhưng là một suy nghĩ. Do đó truyện không còn phải là một giải trí, nhưng là một sự thức tỉnh đưa tới nhận định về cuộc đời.
Sự thay đổi ý-hướng đó có thể làm cho nhà văn không cần bận tâm về cốt truyện hay tình-tiết ly-kỳ, rùng rợn hay phức-tạp bi đát. Cốt truyện hay không phải là chủ-yếu của truyện vì sự suy nghĩ có thể khởi điểm từ bất cứ một sự việc nhỏ mọn, tầm thường nào. Do đó, đọc truyện, không còn đi tìm cốt truyện hay, nhưng là xem sự thức tỉnh đạt tới một chiều sâu đến đâu trong việc tra hỏi về ý nghĩa cuộc đời.
Cốt truyện của Dương-Nghiễm-Mậu không có gì đáng kể, nhưng cái hay của nó chỉ ở những suy tư của nhân vật chính là tác giả.
Tác-giả kể một người thanh niên có cái bướu ở cổ vì thế không đi dự dạ hội được với một người con gái mình yêu. Chính người con gái này cũng không muốn đi với Hạnh, tên người thanh niên. Cái bướu là dịp để Hạnh nhận định về số phận ở đời của mình, và câu chuyện trình bày sự hành-trình nhận thức đó của Hạnh.
Kỹ-thuật diễn tả độc-thoại nội tâm, Hạnh suy nghĩ tự hỏi để dần dần khám phá thấy một ý nghĩa cuộc đời. Rất nhiều đoạn trong truyện là một thứ nói chuyện với chính mình: tự tra hỏi và trả lời,…
Ví dụ: “Sao nó lại có ? Sao nó lại lớn ? Rồi có lớn đến chừng nào ? Trong làn da mỏng này là cái gì ? Cái kiếp trước của mình ư ?”
Hay: “Cái sự thực này làm anh không đến được với em và em run sợ nó. Không tại em, không tại anh, tại cái gì ? Tại người ta ư ? Hay tại cái kiếp trước của anh ?”
Hạnh nhận thấy rằng cái bướu là một sự thừa thãi ở trên thân thể anh, là một quái gở phi lý mà mọi người muốn chối bỏ. Nếu Hạnh sống có một mình ở đời này thì không sao, chàng sẽ nuôi nấng nó, giữ nó lại được.
“Nhưng tôi còn có những ràng buộc vây quanh, nên nó là kẻ xa lạ, một sự quái gở, một hiện tượng quái gở mà mọi người chỉ mặt gọi tên nó”.
Chính vì Hạnh còn có Thúy, người yêu, và xã hội chung quanh mà Hạnh muốn vứt bỏ cái bướu đi. Nhưng có thể vứt bỏ được không? Hạnh đi tìm những lý do có thể đưa tới những giải đáp. Đó có phải là di truyền, do cha mẹ chàng để lại không? Hạnh đi tìm xem lại những ảnh cũ của cha mẹ bây giờ đã mất, không thấy họ có. Hay tại kiếp trước của chàng?
“Anh là kẻ độc ác nham hiểm đã ra cửa này vào cửa kia cho người ta thù ghét và đánh dấu không cho lẩn mặt. Người ta đã điểm danh anh rõ ràng là hiện thân một sự nối tiếp đày ải mà bây giờ anh phải gánh chịu?”
Khoa học bây giờ có thể giải quyết được không? Hạnh đi tìm bác sĩ, nhưng họ xem mà không chữa vì đó là triệu chứng của ung-thư, không nói cho Hạnh biết ; tuy nhiên điều đó cũng làm cho chàng đoán được và buồn rầu bực bội trước một bất lực của khoa học. Hạnh có cảm tưởng đây là một số kiếp, định mệnh không thể tránh được và nhất là không được lựa chọn. “Anh cũng như mọi người không được quyền về sự sinh ra mình”. Nhưng Hạnh cũng nhận thấy: “Anh không thể không được quyền với thực tại”. Hạnh muốn thay đổi số phận, và ít ra, đó cũng là một lựa chọn theo ý muốn của chàng. Hạnh nghĩ đến việc đi tự tử. “Ít nhất ra tôi đã tự chọn cái chết”, tôi đã trách nhiệm một cuộc đời theo ý tôi. Hạnh ra nằm trên đường xe lửa, đợi chờ một chuyến tàu qua sẽ thực hiện sự lựa chọn của chàng. Nhưng chính lúc sắp xảy ra sự thực hiện đó, Hạnh như thấy một tiếng gọi: “Thế chính anh, anh không thể cắt nó đi được ư” làm cho Hạnh nhận ra một sự có thể có một lựa chọn khác, và Hạnh nhỏm dậy, lăn về bên cho chuyến tàu chuyển qua. Chàng về nhà, mua dao cạo, băng, cồn, thuốc đỏ. Thật là giản dị, chỉ cần một chút can đảm là “Tôi tự mang tôi đến đời sống”.
Nhưng Hạnh ngất đi khi cắt cái bướu, người ta đưa vào nhà thương cấp cứu. Khi Hạnh tỉnh lại, viên bác-sĩ đã từ chối chữa chàng mới nói thật cho chàng biết chàng bị ung thư. “Nếu để vậy thì nó phát ra chỗ thừa đó. Cắt nó đi sẽ lan vào trong. Rất khó chữa. Số mệnh của ông không còn bao lâu”.
Bây giờ thì Hạnh nhìn nhận số mệnh. Số mệnh của chàng là một sự cô đơn vì chàng là kẻ xa lạ của mọi người.
“Bao nhiêu năm cô đơn của tuổi trẻ anh đã mang theo – tuổi trẻ của một đứa bé mồ côi lang thang không biết la thét với ai – chỉ biết la thét với những chuyến xe lửa chạy qua mỗi ngày hú còi và phun khói. Chỉ biết mang mình ra khoảng trống đóng lấy những vai trò lừa dối mình. Khoảng trống bao la ấy đau buốt, nhức nhối chích vào thân thể anh… Anh đã đánh lừa và mang anh đến với em – em đã chịu đựng sự có mặt của anh – nhưng đến bây giờ em không còn đủ sức chịu đựng nữa – em lên tiếng, như đám đông lên tiếng cho anh nhận ra anh. Anh hốt hoảng ở giữa khoảng trống vây quanh anh đã lấp liếm che đậy. Nó hiện ra một vực thẳm sâu vắng. Anh la hét cho tiếng anh trả lại. Anh cũng như mọi người không được quyền về sự sinh ra mình. Nhưng anh không thể không được quyền với thực tại. Anh có quyền về anh nên anh đã cầu cứu mọi người giúp anh, nhận anh là một người như họ. Anh đã cắt bỏ cái bướu để tìm về cõi sống, vì đám đông bình thường. Nhưng không được.
… Thân thể anh còn đây, cái bướu đã mất. Anh khước từ sự hiện diện vô ích của nó nên anh trở thành một sự không thực … Anh là một sự không thực nằm đây… Nhưng, từ đó cho anh biết rằng anh là gì? Anh hơn đám đông vây quanh bởi anh ý thức được sự có anh, mọi người coi họ có mặt nhưng là một sự có mặt hư ảo, không thấy mình. Người ta khước từ anh – điều đó không cần thiết khi anh đối với anh đã là sự có mặt hằng cửu”.
Đó là sự khám phá thấy số phận ở đời của Hạnh. Chúng là một quá khứ, một “hải đảo cô đơn ngàn đời, bởi nó công nhận niềm đau buốt của khoảng trống”, nhưng là một cô đơn có ý thức và ý hướng phản kháng. “Từ khước đám đông, thức giác niềm đối kháng với bộ mặt vô hình nhìn xuống đời sống”.
Hạnh vĩnh biệt tình yêu, cuộc đời và lòng kiêu hãnh trước sự vĩnh biệt đó vì thái độ ý thức phản kháng của chàng.
Nguyễn Văn Trung
(trích Xây Dựng Tác Phẩm Tiểu Thuyết, Tự Do 1962)$pageOut$pageIn
Đi tìm Địa ngục có thật
Trần Hoài ThưThư Quán Bản Thảo Số 55 tháng 1/2013 Chủ Đề: Nhà Văn Dương Nghiễm Mậu
Từ một nỗi tha thiết ao ước của người bạn văn cùng thời, khi ngỏ ý được thấy Thư Quán Bản Thảo sưu tập lại truyện ngắn Kinh Kha, con chủy thủ và đất Tần bất trắc cũng như tập bút ký Địa Ngục Có Thật của Dương Nghiễm Mậu, tôi lại lên đường. Lần này thay vì Cornell, hướng Tây Bắc, nay là Yale hướng Đông Bắc. Qua Google, tôi được biết cả hai thư viện này đều lưu trữ Địa Ngục Có Thật. Nhưng kỳ này tôi chọn Yale vì Yale cách nhà tôi chỉ khoảng 3 giờ đồng hồ lái xe. Trong khi Cornell phải mất 5 tiếng.
Lên đường kỳ này dù lòng hăm hở nhưng tấm thân không hăm hở chút nào. Tôi đã bước vào tuổi 70, chứ không còn trẻ để có thể nhấn bàn đạp gia tốc. Tuổi tôi bây giờ là: Đi về biết chở gì theo/ Chở theo vạt nắng trên đèo vào xe. Chứ không phải no nê cùng trời mây sông núi. Thị lực mắt kém rõ. Thêm Gout hết hành chân trái qua chân phải, hết bàn chân lên đầu gối. Bởi cái tính vẫn còn khoái khẩu của mình, đau thì kiêng cữ, hết đau thì xả láng bất cần.
Thời tiết đầu tháng 12, hôm nay có vẻ lý tưởng. Khoảng 60 độ F, một nhiệt độ rất hiếm hoi trong tháng cuối năm dương lịch này. Chiếc xe theo xa lộ, phóng hai ngọn đèn giữa trùng trùng điệp điệp đôi mắt sáng lóa xuôi ngược trên một tuyến đường được tiếng là bận rộn nhất của tiểu bang. May mắn lần này, Gout chỉ hành chân trái, lúc này nó được yên nghỉ trong khi cái chân phải thì miệt mài nhấn hoặc giảm bàn đạp gia tốc hay thắng phanh.
Sau ba tiếng đồng hồ, chỉ dừng một trạm nghỉ, gọi cốc cà phê, rồi đi ngay. Trời đã sáng. Xa lộ 95 quen thuộc dạo nào, lần lượt lùi dần, để nhường lại cho con đường College. Nó sẽ dẫn vào khu đại học Yale, với những tòa nhà được xây theo kiểu kiến trúc La Hy.
Sau khi đóng tiền làm thẻ thư viện, ($35) chỉ hiệu lực cho một tuần lễ, tôi nhấn nút cho thang máy lên tận lầu 4. Cả tầng lầu tối om, tôi mò mẫm bật contact điện. Lần mò đến kệ để sách. Nhưng tìm hoài tìm mãi không ra Địa Ngục Có Thật.
Làm sao diễn tả được nỗi buồn của tôi trong lúc này. Có những điều không thể ngờ, nhưng chúng vẫn xảy ra. Tôi xuống quầy phụ trách ở lobby hỏi. Và được biết sách hiện ở tại một thành phố khác. Có người mượn và giao ở một thư viện khác. Chưa hoàn trả về thư viện chánh.
Thôi thì đành trở về. Uổng công, uổng sức, phí tiền, phí bạc vô ích.
Có lẽ tôi sẽ bỏ cuộc. Sẽ không làm ấn bản đặc biệt như dự định nữa. Tôi chẳng có nợ với ai hết. Ngay cả đối với văn chương miền Nam. Ngay cả đối với nhà văn Dương Nghiễm Mậu mà tôi ngưỡng mộ về văn tài cũng như khí phách của ông.
Vậy mà tôi buồn đến rưng rưng. Khi trở về, xe bị kẹt vì một đoạn đường dài bị sửa. Xe nối đuôi xe bò nhích cả mấy dặm.
Hai ngày sau, tôi nhận được email của thư viện Yale cho hay là Địa Ngục Có Thật đã đến thư viện. Email còn cho biết chỉ ưu tiên dành cho tôi 10 ngày.
Sau ngày đó, họ không bảo đảm có sách nếu tôi muốn mượn.
Như vậy, dù muốn dù không, lại thêm một lần nữa lên đường. Lại hai ngọn đèn lẫn vào muôn vàn ánh đèn chiếu sáng, tôi cố mở căng đôi mắt. Lại chiếc xe tôi lạc vào giòng thác cuồn cuộn của xe cộ trên xa lộ Garden State Parkway, và 95. Lại một biển âm động cuồng nộ với những ánh đèn pha chói sáng khi chiếc xe tôi chạy chậm. Lẽ phải và ánh sáng. Địa ngục có thật. Cuốn bút ký có một không hai viết về Tết Mậu Thân ở Huế. Chẳng lẽ để nó ngủ quên im lìm trong một kệ ngăn nào đó của Yale hay sao?
Tôi đến Yale để mở lại ánh điện trong một tầng thư viện tối om, mò mẫm tìm lại cuốn sách mình mong đợi, hay ngồi bệt trên nền, mở từng cuốn tạp chí Văn, Văn Học, Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn Nghệ… Tội nghiệp, những trang giấy của một thời ta muốn yêu ai thì cứ bảo là yêu, ghét ai ta cứ bảo là ghét… Không phải chỉ đọc, mà mang xuống lầu, để chụp lại từng trang bài mình cần giữ. Rồi mang về nhà, đánh máy, layout… Có khi thiếu một trang, ngủ không yên, lại lái xe làm thêm một chuyến…
Đó là cách tôi trả ơn đối với một nhà văn mà tôi ngưỡng phục.
Về lẽ phải và sự thật mà ông đã để lại cho văn chương miền Nam. Và về cách thế sống của ông sau 1975: khi ông quyết định tự chọn cho mình chiếc thập tự giá.
Trần Hoài Thư$pageOut$pageIn
BỐN MƯƠI NĂM DƯƠNG NGHIỄM MẬU VÀ TỰ TRUYỆN NGUYỄN DU
Ngô Thế VinhHợp Lưu
18-2-2015
... Kẻ có chữ bất mãn thường chọn cách viết sớ tâu lên... Những lá sớ lâm ly thảm thiết này thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ nhiều lần nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ trở lại làm phó thường dân mà vẫn ung ung tại vị hưởng bổng lộc của triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có đôi chút tự trọng thì chọn con đường ở ẩn, không chọn con đường làm giặc nên không có tên trong Sưu Tặc Ký.” Từ Hải Ngoại Truyện, Dương Nghiễm Mậu, 2005.1975_ Bùi Giáng và Dương Nghiễm Mậu
Sau 30 tháng 4, 1975 các văn nghệ sĩ không đi thoát, hoặc chọn ở lại như Dương Nghiễm Mậu, nếu không phải đám nằm vùng thì ai cũng chờ cái ngày đi vào nhà giam, các trại tù cải tạo. Giữa những ngày căng thẳng và ảm đạm ấy, có một người vẫn nhởn nhơ, đi tìm thăm bạn bè văn nghệ cũ. Không ai khác hơn đó là nhà thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn. Trung niên thi sĩ lúc nào cũng gầy và già hơn tuổi, râu tóc sơ sác như từ bao giờ. Giữa một Sài Gòn thảng thốt, không biết anh đã lượm ở đâu trên đường mà có được bộ quân phục nguỵ với quân hàm Đại tá, Bùi Giáng đem vận ngay vào người, chân thấp chân cao đi nghêu ngao như diễn binh trên hè phố. Có lẽ đây là hình ảnh tuyệt đẹp cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam, với một tân binh tình nguyện gia nhập đạo quân đã hoàn toàn rã ngũ. Rồi Bùi Giáng cũng tới được khu nhà thờ Ba Chuông, nơi có căn nhà Dương Nghiễm Mậu. Bùi Giáng hồn nhiên đi sâu vào con hẻm chật chội ấy đã thấp thoáng màu cờ đỏ. Anh vẫn tỉnh táo nhớ đúng nhà, tới đập cửa rầm rầm đòi vào thăm cho được cố tri. Trầm tĩnh và bản lãnh như Nghiễm, mà trước tình huống ấy cũng vẫn như gái ngồi phải cọc; được cái lúc ấy chòm xóm còn là thân quen, mạng lưới công an chưa đủ dầy đặc để gây nỗi phiền hà. Ra khỏi nhà Dương Nghiễm Mậu, không biết Bùi Giáng còn đi gõ cửa tới thăm những ai khác, hay anh lại ra nơi đầu cầu Trương Minh Giảng như một người tỉnh táo đứng làm cảnh sát công lộ chỉ đường “trên dòng luân lưu hỗn mang của lịch sử” và để rồi sau đó nếu anh không bị đám “cách mạng 30” hay bọn công an đánh tả tơi sưng mặt mũi thì rồi cuối cùng chắc anh cũng lại tìm về với “mẫu hậu” Kim Cương, ngồi trước cửa phóng bút làm thơ tặng nàng.
1975_ Toà Soạn Bách Khoa và anh Lê Ngộ Châu
Tuần lễ trước 30 tháng 4, 1975, nhân viên Đài Mẹ Việt Nam và những cây viết cộng tác đã được Mỹ lên kế hoạch di tản khỏi Việt Nam – để tránh bị trả thù. Trước ngày lên tàu ra đảo Phú Quốc, nhà văn Võ Phiến tới thăm toà soạn Bách Khoa, nơi vùng “xôi đậu” có Võ Phiến Bắt Trẻ Đồng Xanh ngồi chung với Vũ Hạnh Bút Máu; cũng là nơi mà Võ Phiến đã gắn bó suốt 18 năm cùng với tuổi thọ của tờ báo. Anh Lê Ngộ Châu chủ nhiệm Bách Khoa kể lại: Võ Phiến thì phải đi, nhưng linh cảm không có ngày về, vẻ mặt buồn thảm, anh chỉ ngồi khóc lặng lẽ không nói nổi lời giã từ và rồi đứng dậy bước ra khỏi toà soạn.
Trước một ngày mất Sài Gòn, thì hầu như toàn bộ nhân viên Đài Mẹ Việt Nam trong đó có gia đình Võ Phiến Giã Từ, Lê Tất Điều Phá Núi, Viên Linh Hoá Thân, Tuý Hồng Tôi Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường Dài từ Phú Quốc đã được đưa lên con tàu lớn Challenger đậu sẵn ngoài khơi. Khi bờ biển Phú Quốc xa mờ trong tầm mắt, lần này thì Lê Tất Điều thấy Võ Phiến khóc. Cùng với những con tàu thuộc Đệ Thất Hạm đội, họ lênh đênh trên Biển Đông trong cuộc hải trình nhiều ngày để tới đảo Guam. Guam đã từng là căn cứ xuất phát của các đoàn phi cơ B52 trong cuộc chiến tranh Việt Nam với những trận mưa bom trải thảm/ carpet bombing có sức tàn phá của một cơn địa chấn. Đảo Guam chỉ rộng 550 km2 sau tháng Tư 1975, là chặng dừng chân đầu tiên của hàng trăm ngàn người Việt tỵ nạn trước khi vào đất Mỹ. Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người Viễn Khách Thứ 10, Mặc Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm cũng đi thoát và trước sau đặt chân tới các trại tỵ nạn trên đất Mỹ.
Chưa đến một tuần lễ sau, ngày 5 tháng 5, 1975 một trong những cây viết lâu năm của Bách Khoa, Phạm Việt Châu Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh đã tuẫn tiết tại tư gia khi cộng sản hoàn toàn chiếm Miền Nam. Cái chết rất sớm và tức tưởi của một tác giả có viễn kiến về lịch sử dân tộc, sức sáng tạo đang sung mãn mới bước vào tuổi 43, đã như một hồi chuông báo tử cho bao nhiêu tang thương diễn ra sau đó.
1975_ Chiến Dịch Đốt Sách
Những ngày sau 30 tháng 4, 1975, hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ, tới toà báo Bách Khoa cũng là nơi cư ngụ của anh chị Lê Ngộ Châu. Trước khách lạ, đứa con gái nói giọng hãnh tiến: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích tới sáng.” Người dân lành nào vô phước đi lạc trên đường ruộng đêm đó có thể bị tụi nó coi là nguỵ. Những tên nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30” này chỉ như phó bản đám Hồng vệ binh của Mao nhưng lại sau cả thập niên. Cũng chính những đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch lùng và diệt tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng chồng sách rồi tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa hề đọc, trong đó có cả một tủ sách “Học Làm Người”. Sách của những “tên biệt kích văn nghệ” còn được trưng bày trong toà nhà triển lãm Tội ác Mỹ Nguỵ cùng với vũ khí chiến tranh và chuồng cọp, dĩ nhiên có sách của Dương Nghiễm Mậu, có cả cuốn Vòng Đai Xanh của người viết.
Cảm khái với câu thơ Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí: văn chương vô mệnh cũng tro than/ văn chương vô mệnh luỵ phần dư. Hơn hai ngàn năm sau, chẳng ai quên chuyện “đốt sách chôn nho/ phần thư, khanh nho” của Tần Thuỷ Hoàng, nhưng không biết chỉ 100 năm tới đây, các thế hệ tương lai có ai còn giữ được“bộ nhớ” Đã Có Một Thời Như Thế – tên một bài viết của Nhật Tiến, về giai đoạn người Cộng sản Việt Nam đốt sách giam tù cả một thế hệ văn nghệ sĩ của Miền Nam?
1975_ Nhà hàng Givral và Phạm Xuân Ẩn
Trước 1975, La Pagode, Brodard, Givral là nơi tôi, Phạm Đình Vy [chủ nhiệm Tình Thương] và các bạn y khoa thỉnh thoảng có dịp lui tới kể cả khi đã ra trường. Givral cũng là nơi thường gặp gỡ các nhà báo như Phạm Xuân Ẩn, Cao Giao, Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn Tiến... Phạm Xuân Ẩn, là bạn đồng môn với nhà văn Sơn Nam thời trung học Cần Thơ, Ẩn gốc người Nam dáng chân quê mộc mạc. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, Phạm Xuân Ẩn chỉ được biết tới như phóng viên của Reuters, sau đó chuyển sang tuần báo Times, trụ sở trong Continental Palace bên kia đường. Cũng không thể không nhắc tới khách sạn Caravelle, gần toà nhà Quốc hội cũ, nơi tập trung đông đảo nhà báo ngoại quốc, nơi đặt văn phòng của các hãng thông tấn và truyền hình Mỹ như ABC, NBC, CBS... Cũng chính Morley Safer trong một buổi phát hình CBS Evening News ngày 5 tháng 8, 1965 chiếu cảnh lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trong cuộc hành quân xua dân ra khỏi làng và sau đó bật quẹt Zippo đốt nhà của họ, những hình ấy đã làm rúng động Toà Nhà Trắng và cả nước Mỹ như một vết hằn sâu của một cuộc chiến bắt đầu thất nhân tâm. Bảy năm sau, Nick Ut phóng viên AP với bức hình “Napalm Girl” chụp trong trận giao tranh Trảng Bàng Tây Ninh ngày 8 tháng 6, 1972, cũng là thời điểm Quốc Hội Mỹ dứt khoát cắt viện trợ quân sự cho Miền Nam.
Đội quân báo chí hùng hậu ấy, trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, có khả năng điều kiện hoá dư luận với “những tin tức xấu từ một phía”, đủ làm nản lòng dân Mỹ, cùng với đám GI’s đang cầm súng từ phía bên kia nửa vòng trái đất; truyền thông Mỹ có phần công lao không nhỏ gián tiếp đưa tới mất Miền Nam Tự Do và cũng là một thất trận đầu tiên trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ. Và rồi, tất cả bọn họ cũng đã kịp tháo chạy trước khi Sài Gòn đổi chủ.
Và rồi mấy ngày đầu tháng 5, 1975, Givral lại như điểm hẹn của những người bạn còn kẹt lại, tới đó để biết ai ở ai đi và nghe ngóng tin tức. Từ những chiếc bàn nhìn qua khung kính trong suốt ấy, tình cờ gặp lại Phạm Xuân Ẩn. Ẩn cũng đã từng tới thăm toà soạn báo sinh viên Y khoa Tình Thương trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày nào. Vợ con Phạm Xuân Ẩn đã được tuần báo Times cho di tản trước đó nhiều hôm, nhưng Ẩn thì ở lại. Với hơi chút ngạc nhiên và vẻ quan tâm, Ẩn hỏi tôi: “Vinh, tại sao toa không đi?” Lúc đó chỉ như một câu hỏi xã giao, nhưng phải sau này, khi đã ở trong vòng rào các trại tù cải tạo, tôi mới thấm thía vỡ lẽ được câu hỏi ấy của Phạm Xuân Ẩn, nó đã như lời báo bão về những năm tháng tù đầy từ một chính sách mà Ẩn thì biết rất rõ. Trong vỏ bọc của một nhà báo làm cho tuần báo Times danh tiếng của Mỹ, thực chất trước đó nhiều năm Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên chiến lược đơn tuyến của Cộng sản Hà Nội. Sau này cũng chính Phạm Xuân Ẩn tâm sự với Morley Safer chương trình 60 Minutes của CBS rằng khi Sài Gòn xụp đổ không dễ gì để nói với đám “cách mạng 30” đeo súng AK lúc đó rằng, tôi là đại tá quân đội của họ, không phải CIA. Có thể tôi bị tụi nó giết và cả con chó của tôi cũng bị nướng sống.
1975_ Nhà báo Như Phong
Chỉ sau cụ Hoàng Văn Chí Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, người hiểu rõ cộng sản sau này không ai hơn nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Cô Thần cũng là bút hiệu khác của Như Phong Khói Sóng trên nhật báo Tự Do, một chuyên mục viết về cộng sản Miền Bắc. Hiểu cộng sản như vậy, với biết trước những tháng năm tù đầy, vậy mà anh vẫn chọn ở lại. Gặp lại anh tại nhà luật sư Mai Văn Lễ, trước bệnh viện Sùng Chính trên đường Trần Hưng Đạo. Anh Mai Văn Lễ có một thời làm Khoa trưởng Luật khoa Huế thời Phật giáo Tranh đấu, bây giờ chỉ còn lại mình anh, chị và hai con thì đã đi trước đó một tuần lễ.
Trưa ngày 30 tháng Tư, ngay sau khi lệnh đầu hàng được phát đi, có thể thấy từ mấy tầng lầu cao là một cơn mưa confetti, chỉ một màu trắng của những mảnh vụn giấy tờ tuỳ thân của quân cán chính cần được xé huỷ trước khi cộng quân hoàn toàn kiểm soát Sài Gòn. Không kể những giày nón quân phục được cởi bỏ vội vàng vứt tả tơi trên đường phố. Là người đi trước thời cuộc, anh Như Phong tiên đoán đúng những gì sắp diễn ra: chiến dịch đánh tư sản, kế hoạch đổi tiền cho mỗi hộ khẩu và rồi những cuộn giấy bạc sau đó trở thành rẻ rách và rồi sẽ là quần đảo ngục tù / Gulag Archipelago một tên sách của Solzhenitsyn. Dư tiền cũ thiên hạ đổ xô đi mua vàng, đôla chợ đen không dễ gì có trong thời điểm này. Anh Như Phong thì chỉ gợi ý mua những cuộn len quý nhồi trong các bộ nệm sa lông giống như ngoài Bắc, sau này khi cần có thể gỡ dần ra bán để kiếm sống. Nói vậy thôi chứ thái độ của cả mấy anh em vẫn là “chờ xem”.
Và rồi vang lên tiếng xích sắt nghiến trên mặt nhựa, nhìn qua khung cửa là những chiếc tăng T54 treo cờ giải phóng hối hả chạy về phía trung tâm Sài Gòn.
...
1980_ Cũng đừng tới thăm
Ra tù ba năm sau, trở về một Sài Gòn đã đổi khác. Nếu còn chút gì thân quen thì là mấy người bạn, không nhiều còn ở lại. Anh ấy là một trong những cố tri đầu tiên tôi nghĩ tới thăm. Là giáo sư đại học, anh tốt nghiệp ở Mỹ, trở về Việt Nam từ cuối thập niên 1960, đầy lý tưởng, ôm mộng lớn về một cuộc cách mạng xã hội – theo anh công bằng xã hội/ social justice phải là giải pháp rốt ráo cho một cuộc chiến tranh bế tắc đang diễn ra khốc liệt giữa hai miền Bắc Nam. Tôi cũng đã từng gặp anh ở Mỹ và cả những năm sau này ở Việt Nam. Sự xụp đổ mau chóng của Miền Nam với anh là cả một “giấc mộng lỡ”. Tuy không phải chịu những năm tháng tù đầy, nhưng cuộc sống gia đình anh, cũng như cả Miền Nam rõ ràng là khó khăn. Từng bước, anh đã bán những bộ tự điển quý lúc đó rất có giá, cho đám học giả đói sách từ Bắc vào mua; tiếp đến là đồ đạc tranh tượng, cuối cùng là còn lại là một tủ sách khoa-học-xã-hội đồ sộ mà anh đem từ Mỹ về thì nay trở thành vô giá – no value, chỉ có thể đem cân ký bán lạt-son để làm bột giấy. Vợ anh là cô giáo cũng phải ra giữa chốn chợ trời tần tảo kiếm sống. Anh thì quá nhậy cảm để thấy nỗi đau và nhục.
Gặp lại anh, vẫn nét mặt trí thức và đôn hậu như ngày nào, nhưng trong ánh mắt thì lộ rõ vẻ bất an. Thoáng nét vui mừng nhưng anh kịp kìm hãm, vừa nói vừa canh chừng nhìn ra cửa : “Biết toa được ra trại thì mừng nhưng cũng xin toa đừng tới thăm”. Sự thẳng thắn rất trực tiếp của anh, thoáng như một gáo nước lạnh, nhưng tôi cảm thông và vẫn rất thương anh. Gia đình bên vợ anh ở Mỹ đang làm thủ tục bảo lãnh, nghĩ rằng việc có liên hệ với lính nguỵ với tù cải tạo có thể là cản trở cho cuộc hành trình hy vọng của gia đình anh tới bến bờ tự do ấy. Anh phản ứng theo hoàn cảnh, không chút phán đoán tôi vẫn dành cho anh sự kính trọng, và mai mốt đây nếu có ngày gặp lại anh thì chắc chắn phải là trên một lục địa khác. Rất sớm trên toàn Miền Nam đã bắt đầu có một mạng lưới tai mắt tổ dân phố và công an đủ để gây hoài nghi và cả sự sợ hãi.
Ra khỏi nhà anh, có lại được niềm vui ấm lòng khi gặp người bạn tấm cám Nghiêu Đề. Nghiêu Đề cho biết mới gặp Sao Trên Rừng đi xe gắn máy từ Đà Lạt xuống, ngạc nhiên thấy Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên ăn vận đồ lớn complet cravate, hỏi tại sao thì Sơn cười giọng khinh mạn: “có vậy mới khỏi lẫn với tụi nó”.
1980_ Trần Phong Giao ngoài chợ
Trần Phong Giao dáng vạm vỡ, da sậm có vẻ công nhân lao động ngoài nắng hơn là người làm việc chữ nghĩa văn phòng. Nổi tiếng là thư ký toà soạn báo Văn trong 8 năm từ 1963 tới 1971, một tờ báo có vị trí đặc biệt trong sinh hoạt văn học Miền Nam với phát hiện những cây bút mới và không ít sau này đã trở thành những tên tuổi. Sau Văn, anh thử làm nhiều công việc khác cũng trong lãnh vực báo chí, xuất bản, rồi thủ thư nhưng đã không để lại nhiều dấu ấn như ở Văn. Không lâu sau 30 tháng 4, cả hai anh chị đã phải chạy chợ kiếm sống với chiếc xe ba bánh, đậu trên đường Lê Thánh Tôn đứng bán từng bó củi, mấy nải chuối hay những bó rau tươi để nuôi đàn con. Ngày ra tù, tới thăm anh, vẫn ở trong con hẻm gần Cầu Kiệu, bên Tân Định, anh gầy sút đi nhiều hai chân đã rất yếu. Gia tài của anh đáng giá vỏn vẹn còn một tủ sách, quý nhất là trọn bộ báo Văn đóng bìa da, một sự nghiệp của Trần Phong Giao nhưng rồi anh cũng đã không giữ được và phải đem bán cho một Việt kiều từ Mỹ về để có tiền chạy gạo và thuốc men. Trần Phong Giao mất trong sự túng quẫn và bạo bệnh (2005), anh cũng bước qua được ngưỡng tuổi cổ lai hy.
1981_ Và những bữa cơm gia đình
Ngôi nhà Nghiễm trong con hẻm với mặt tiền hẹp nhưng khá sâu. Nghiễm mặc quần soóc, áo thun trắng, đôi mắt rất tinh anh lúc nào cũng như mỉm cười, trông trẻ hơn tuổi của một người sinh năm 1936.
Tuy sống gần khu Chợ Cũ, sẵn những quán ăn vỉa hè và nhà hàng, rất tiện cho nếp sống cơm hàng cháo chợ, nhưng thường sau một ngày làm việc, thay vì về nhà tôi ghé nhà Nghiễm, được chị Trang vợ Nghiễm cho thêm chén thêm đũa với những bữa ăn đạm bạc nhưng ngon miệng vì là bữa cơm hạnh phúc gia đình. Trong tù, tôi và Nghiễm thì đã quen với những bữa ăn đói ngày đêm, ra ngoài tuy rau đậu nhưng cũng là bữa tạm no. Người lớn thì không sao, nhưng với trẻ nhỏ đang tuổi “mau ăn, chóng lớn” thì khẩu phần ấy phải xem là suy dinh dưỡng. Nếu không là ngày phải ra trễ, tôi ghé qua chợ mua một món ăn gì đó, đem tới bày thêm vào mâm cơm gia đình. Có thêm món thịt, thêm chút chất đạm thì hôm đó với hai đứa nhỏ như là bữa tiệc. Những lần gặp nhau, tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình như Nghiễm có viết ở đâu đó là những điều không cần nói ra nhưng cũng đã hiểu nhau rồi. Chỉ có cô giáo Trang vợ Nghiễm sau một ngày dạy học mệt nhọc nhưng lúc nào cũng có đôi chuyện vui từ trường đem về gia đình. Miền Nam tài nguyên thì vẫn nguyên vẹn, nhưng đã có chính sách bần cùng hoá kiểm soát từng bao tử của người dân qua khẩu phần và sổ lương thực của họ.
1982_ Dương Nghiễm Mậu và một Thanh Tâm Tuyền khác
Đã gặp Thanh Tâm Tuyền ở những ngày 30 tháng Tư 1975 nơi một căn nhà nhỏ bên Gia Định. Vợ Tâm lúc đó cũng vừa sinh đứa con trai út trong cảnh tán loạn bệnh viện Nguyễn Văn Học. “Một Chủ Nhật Khác” cuốn tiểu thuyết cuối cùng của “một thời để yêu một thời để chết” cũng vừa mới in xong, chưa kịp phát hành. Ra tù 1982, gặp lại Thanh Tâm Tuyền của Bếp Lửa, bằng tuổi Dương Nghiễm Mậu nhưng trông anh già hơn nhiều, da sậm đen sắc diện của một người bị bệnh sốt rét kinh niên. Khó có thể tưởng tượng với vóc dáng mảnh mai ấy anh sống sót qua suốt bảy năm tù đầy ngày nào cũng đói lạnh nơi những vùng sơn lam chướng khí ấy ở các trại giam Miền Bắc. Bảy năm đốn tre trảy gỗ trên ngàn, bị tre nứa đâm xuyên đùi không giải phẫu thuốc men nhưng anh vẫn sống sót, trong tù chống rét anh tập hút thuốc lào, không giấy bút anh vẫn làm thơ qua trí nhớ nhưng là những bài thơ trở về với các thể thơ truyền thống. Thơ ở Đâu Xa là tập thơ cuối cùng làm trong tù TTT cho xuất bản ở bên Mỹ (1990).
Trong một cuộc phỏng vấn rất hiếm năm 1993, Thanh Tâm Tuyền đã giải thích sự chuyển biến trong thi ca của anh:“Làm thơ trong trại cải tạo, cũng là trở về với thi ca truyền thống dân gian/ Faire de la poésie dans un camp de redressement, c’est aussi retourner à la poésie de tradition populaire.” [Thanh Tam Tuyen, la poésie entre la guerre et le camp; par Le Huu Khoa, Publications de l’Université de Provence]
Trong chỗ rất riêng tư, anh tâm sự: Thái Thanh bạn anh đã dứt khoát không hát từ sau 1975. Khi biết Thanh Tâm Tuyền vừa ra tù đến thăm, cô ấy cầm đàn và hát lại những bài thơ phổ nhạc của anh: Đêm màu hồng, Nửa hồn thương đau, Lệ đá xanh… tuy ấm lòng gặp lại cố tri nhưng rồi anh đã không còn nguyên vẹn cảm xúc để nghe lại những thanh âm ngày cũ. Anh đã nói không với những người mới muốn gặp anh. Anh vẫn giữ thái độ đó khi sang định cư ở Mỹ. Sự khép kín ấy khiến Mai Thảo đôi khi cũng phản ứng giận lẫy.
Rồi cũng có một buổi gặp gỡ cuối 1982, từ nhà Nghiễm có Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và tôi cùng đi bộ tới một quán cóc cũng trên đường Trương Minh Giảng nơi gần đường xe lửa. Thức uống của Nghiễm bao giờ cũng là một chai bia. Nhắc tới Tô Thuỳ Yên Trường Sa Hành thì vẫn còn ở trong tù. Rồi chẳng ai nhắc tới nỗi khổ hiện tại mà câu chuyện lại xoay quanh những người bạn may may mắn ở phương xa. Những người đi thoát trước 1975, vài tên tuổi được nhắc tới: Thanh Nam Tuý Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Viên Linh... Nhưng rồi tên Mai Thảo Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời vẫn như điểm hội tụ của những tin tức. Anh là nhà văn duy nhất hiếm hoi thoát các vụ ruồng bắt của cộng sản trong suốt hai năm sống lẩn lút ở Sài Gòn. Vẫn có nhiều người liều mạng che chở cho anh. Trần Dạ Từ Tỏ Tình Trong Đêm cùng với rất nhiều nhà văn nhà báo thì đang trong tù, Nhã Ca Giải Khăn Sô Cho Huế ra tù sớm phải cưu mang một đàn con nhỏ nhưng cũng chính mấy mẹ con Nhã Ca đã bất chấp hệ luỵ cất dấu bác Mai Thảo trong nhà, một căn phố lầu trên góc đường Tự Do, đây cũng là chặng ẩn náu cuối cùng của Mai Thảo cho đến khi anh vượt biển rất sớm thoát được tới đảo Pulau Besar Mã Lai đầu tháng 12, 1977.
Hai năm sau Mai Thảo 1979, phải kể tới chuyến đi thừa sống thiếu chết của 81 thuyền nhân trong số đó có Nhật Tiến Người Kéo Màn và thầy Từ Mẫn Lá Bối, vợ chồng ký giả Dương Phục Vũ Thanh Thuỷ... và con tàu đã gặp nạn hải tặc Thái Lan trên biển rồi trên đảo Kra, và cũng rất sớm qua ngòi bút của người chứng Nhật Tiến đã ghi lại những thảm cảnh ấy và bắt đầu làm rúng động lương tâm thế giới. Cũng khởi đầu cho phong trào Cứu Người Vượt Biển về sau này.
Sau lần gặp gỡ nơi nhà Nghiễm, Thanh Tâm Tuyền chuẩn bị đi Mỹ theo diện HO, cho dù “tâm thái” – chữ của TTT, vẫn gắn bó với một quê hương mà anh không muốn xa rời, riêng tác giả Ba Sinh Hương Lửa lại vào tù tổng cộng 14 năm trước khi đi định cư 1995 và gặp lại Mai Thảo ở Quận Cam.
Trên đường đi, tôi không thể không có ý nghĩ nếu làm một con toán cộng những năm tù đầy của mỗi văn nghệ sĩ Miền Nam, con số ấy phải vượt trên nhiều thế kỷ. Không phải chỉ có oan nghiệt giam cầm huỷ hoại những thân xác, họ còn giết chết sức sáng tạo của văn nghệ sĩ trong khoảng thời gian sung mãn nhất. Một nỗ lực huỷ diệt cả một nền văn hóa đến tận gốc: trước lịch sử, ai phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội ác thiên thu ấy?
...
2006_ Những Cơn Mưa Sài Gòn
Từ một khách sạn nhỏ gần đường Tự Do, để tới khu nhà thờ Ba Chuông, đi bộ thì quá xa, taxi thì nạn kẹt xe, tôi chọn Honda ôm, nhưng đã không tránh khỏi thót tim vì mấy tay lái xe quá liều mạng: chạy nhanh len lách, ngược dòng xe cộ, cắt cả lên vỉa hè đông người đi bộ mà anh ta cho là an toàn hơn đi theo luật giao thông. Tuy không có mẩu giấy địa chỉ trên tay, nhưng có trí nhớ tốt về hình ảnh / photographic memory, tôi nghĩ vẫn có thể tìm ra nhà Dương Nghiễm Mậu vẫn trong ngõ hẻm ấy cho dù đã nhiều năm không gặp. Nhà đã được xây lại, cất thêm một từng lầu. Nghiễm nay là nghệ nhân sơn mài, chị Trang vợ Nghiễm thì vẫn dạy Anh văn ở Marie Curie, hai con Nghiễm đã trưởng thành tốt nghiệp đại học và đi làm. Cả gia đình đều làm việc cật lực để tạo được một cơ ngơi như hôm nay.
Khi Nhà Văn là Con Bệnh
Tháng 9, 2006 gặp lại Nghiễm sau bao năm, khi anh vừa bước vào ngưỡng tuổi cổ lai hy. Thanh Tâm Tuyền vừa mất trước đó 6 tháng [03/2006]. Như Phong Khói Sóng mất đã 5 năm [12/2001], Mai Thảo Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền cũng mất trước đó 8 năm [01/1998], cùng năm với Nghiêu Đề Ngọn Tóc Trăm Năm [11/1998]. Họ là những nghệ sĩ Việt Nam chọn tự do phải sống lưu vong và vùi thân ở một nơi không phải quê nhà.
Nghiễm thì vừa gặp nạn ở cái tuổi 70, khi đang đi bộ trên lề anh bị một xe gắn máy chắc cũng lại xe ôm leo lên tông gẫy xương cổ chân, phải phẫu thuật bó bột gần 2 tuần lễ rồi mà còn sưng đau, vẫn phải chống nạng. Nghiễm giỏi chịu đựng, không hề than đau chính điều ấy khiến tôi quan tâm. Nghiễm cần được tái khám để có một ý kiến thứ hai / second opinion. Tôi nghĩ tới một bạn đồng môn còn ở lại, chuyên khoa chỉnh trực, giảng dạy ở Y khoa, bạn bè gọi anh là người có bàn tay vàng trong phẫu thuật chấn thương chỉnh hình. Anh cũng có phòng mạch tư ngoài giờ và tôi đề nghị đưa Nghiễm tới đó. Nghiễm thì lưỡng lự không muốn nhưng vì tình bạn anh đã không thể nói không.
Không có địa chỉ, nhưng biết phòng mạch Bs Võ Thành Phụng trên đường Lê Văn Duyệt, đối diện với trụ sở Tổng Liên Đoàn Lao Công cũ. Với một cổ chân bị gẫy còn rất xưng đau, thì lên và xuống taxi lúc này không phải là dễ dàng đối với Nghiễm. Cơn mưa nhiệt đới thì vẫn cứ tầm tã từ nhà cho tới khi Nghiễm bước chân được vào phía trong phòng mạch. Gặp chị Võ Thành Phụng, khi biết người bệnh là nhà văn Dương Nghiễm Mậu, thì tôi hầu như không còn vai trò gì nữa. Chị là độc giả lâu năm và rất quen thuộc với các tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, từ thời báo Văn, Văn Nghệ và cả Sáng Tạo ngày nào, không kể những cuốn sách của Nghiễm mà chị đã đọc. Phòng mạch đông khách, do sắp xếp của chị Phụng, Nghiễm là bệnh nhân mới được ưu tiên khám trước. Anh Phụng cùng tôi đọc những tấm phim chỉ rõ xương cổ chân gẫy chưa lành nhưng không nhiều di lệch nên không cần thêm phẫu thuật mà là điều trị bảo tồn. Quá bận bịu với chuyên môn, anh Phụng có lẽ không là độc giả của Dương Nghiễm Mậu như chị Phụng nhưng Nghiễm đương nhiên trở thành người bệnh đặc biệt của phòng mạch anh chị hôm đó. Trời vẫn không ngớt mưa, trong taxi trên đường về, tôi nói đùa với Nghiễm, trong cuộc đời viết văn, tôi chưa bao giờ có hạnh phúc được gặp được một nữ độc giả tâm đắc và yêu văn chương đến như vậy. Rất ít bày tỏ, như từ bao giờ Nghiễm chỉ đáp lại bằng một nụ cười hiền.
2012_ Từ Hải Ngoại Truyện.
Trước 1975, đọc Kinh Kha với con chủy thủ trên đất Tần bất trắc trong Nhan Sắc để thấy truyện Dương Nghiễm Mậu là những tình huống và thái độ lựa chọn, rất biểu tượng và nhiều ẩn dụ. Nghiễm viết truyện xưa mà nói tới nay. Kinh Kha qua sông Dịch, chàng lọt vào được cung điện, khi đã kề đoản đao vào cổ Tần Vương, nhưng thay vì run sợ, thì Tần Vương lại ngửa mặt cười. Và Kinh Kha chợt hiểu ra tất cả: giết bạo chúa này sẽ lại có một bạo chúa khác… Và hình ảnh Kinh Kha lầm lũi rời khỏi cung điện vẫn là nỗi đau không cùng, như một dự báo oan khiên cho ngày hôm nay.
Từ Hải Ngoại Truyện được Dương Nghiễm Mậu viết khoảng 10 năm sau 1975, [Gia Định, 2005]. Từ Hải là nhân vật được Dương Nghiễm Mậu khá nâng niu. Phí Ích Bành em Nghiễm, trao cho tôi một phong bì với 16 trang chữ có ít dòng thủ bút của Nghiễm. Đọc ngay những trang viết ấy để thấy một Từ Hải Ngoại Truyện nửa anh hùng nửa thảo khấu, rất khác với nhân vật chính truyện khi chọn con đường bổng lộc giam thân về chốn triều đình.
Một trích đoạn về bối cảnh xã hội trong Từ Hải Ngoại Truyện: “một hôm thầy Khổng ngồi xe đi trên đường thì thấy một bô lão bước tới vái chào, thầy Khổng cho dừng xe lại, trong chốc lát cả một đám đông trẻ con gầy còm nhếch nhác vây quanh. Ông lão nói: nghe thiên hạ nói thầy nhiều chữ nên tới xin một ít. Khổng Tử liền mở cái hòm gỗ lấy ra một cuốn sách trao tận tay cụ già. Cụ già cầm lấy ngắm nghía rồi lật những trang sách nhìn trên nhìn dưới rồi gấp lại đứa trả thầy Khổng và nói: tôi không biết dùng cái này để làm gì. Có tiếng cười khả ố vang lên từ một người trung niên ở trần, đóng khố: sách chẳng có giá trị gì đối với những người không có cơm ăn và mù chữ. Ông hãy bước chân xuống ruộng, đi cày trồng lúa rồi lấy thóc mà cho họ thì có ích hơn. Chuyện chỉ kể tới đó không cho biết hành xử của thầy Khổng ra sao”.
Cũng trong Từ Hải Ngoại Truyện, Dương Nghiễm Mậu viết về giới quan lại khoa bảng: “Trong Sưu Tặc Ký những kẻ nổi lên làm giặc thường xuất thân là dân thuyền chài, kẻ cầy ruộng, người chăn trâu, kẻ đốn củi; tuyệt nhiên không thấy có kẻ nào đậu tiến sĩ, trạng nguyên. Không tên giặc nào có làm thơ làm phú, hoặc từng làm quan, làm thầy giáo mà đi làm giặc. Ở những sách khác có viết về kẻ có chữ bất mãn thường chọn cách viết sớ tâu lên: khi thì đòi chém tham quan ô lại, khi kêu ca sưu cao thuế nặng khiền dân đen chết đói, khi kêu oan cho lương dân bị chết chém... Những lá sớ lâm ly thảm thiết này thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ nhiều lần nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ trở lại làm phó thường dân mà vẫn ung ung tại vị hưởng bổng lộc của triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có đôi chút tự trọng thì chọn con đường ở ẩn, không chọn con đường làm giặc nên không có tên trong Sưu Tặc Ký.”
Dương Nghiễm Mậu viết những dòng cuối: “Từ những trang sách tới thực tế của chuyến đi làm ta hoài nghi những ghi chép của người xưa... nhiều sách truyện đã để cho Từ Hải chết đứng giữa trận tiền. Một anh hùng phải có cái chết anh hùng. Trong ngoại truyện Từ Hải, cuối cùng Từ Hải đã chết nhưng chết một cách khác, không phải cách chết đứng giữa trận tiền.”
Rồi từ chuyện xưa mà hóa ra nay, Dương Nghiễm Mậu viết tiếp: “Nhiều sách tạo ra những anh hùng như mô tả kẻ tự biến mình thành cây đuốc sống, lấy thân mình bịt họng súng thần công, ôm bom lao vào quân giặc mà chết. Hầu hết những anh hùng trong sách đó chẳng bao giờ người ta tìm ra tung tích.”
Tưởng cũng nên nói thêm, căn nhà của gia đình Nghiễm không xa cây cầu Nguyễn Văn Trổi trên đường Công Lý thời chống Mỹ, rồi không thể không nhắc tới “cây đuốc sống” Lê Văn Tám đốt kho xăng Thị Nghè 1945 thời chống Pháp: một nhân vật mà sau này Trần Huy Liệu, bộ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào những ngày cuối đời đã trối trăng lại với đám môn sinh: Lê Văn Tám chỉ là sản phẩm của tuyên truyền và không có thật.
Ba mươi hai năm sau 1975, qua liên lạc vận động của nhà thơ Nguyễn Quốc Thái, [cũng là người giới thiệu Phạm Duy đến với Công ty Phương Nam], nhà xuất bản Phương Nam đã tái bản 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi Mắt Trên Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng Sáo Người Em Út), và truyện dài Nguyệt Đồng Xoài của Lê Xuyên. Ngay sau đó, Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80, như một đao phủ đã không nương tay viết bài đấu tố Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, và quy tội Công ty Phương Nam.
Vũ Hạnh viết: “Sách của Dương Nghiễm Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là tính đồi trụy." Vũ Hạnh viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các tác giả Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không hề gặp bất cứ sự quấy phiền nào." [Sài Gòn Giải Phóng, 22/4/2007].
Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trước 1975 đông đảo thế hệ văn nghệ sĩ Miền Nam không thiếu lòng nhân ái đã hơn một lần cùng vận động ký tên yêu cầu thả Vũ Hạnh. Vũ Hạnh cũng được Văn Bút Việt Nam che chở, và khi bị kết án tù thì chính linh mục Thanh Lãng, Chủ tịch Văn Bút đứng ra bảo lãnh, để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công khai ra ngoài họat động.
Sau 1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường... hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu sống bằng nghề sơn mài, Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả kịch Bão Thời Đại thì phải đứng sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường Một Chiều làm công nhân sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm ở tù ra trở thành Người Bán Cà Rem Dạo.
Nghiễm vốn tâm lành, nếu có ai nhắc đến chuyện Vũ Hạnh thì anh chỉ cười, giọng vẫn bao dung, anh tin trên đời người tốt nhiều hơn kẻ xấu, kẻ xấu như vậy rốt cuộc họ cũng tự thấy sai. Nghiễm có lạc quan quá không vì đã hơn 40 năm chịu khổ ải do họ gây ra, nay đã tới tuổi gần đất xa trời mà sao họ vẫn“chưa tự thấy sai” chưa hề biết sám hối. Một người bạn rất quen biết Vũ Hạnh nhận định: sự hung hãn ấy chỉ như tấm bình phong – một thứ raison d’être, biện minh cho sự hiện hữu của Vũ Hạnh còn như một người cộng sản.
“Ngày Xưa Vũ Hạnh” cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh thang, vẫn được đối xử như một nhà văn [Lý Đợi, talawas 10.5.2007] “Ngày Nay Vũ Hạnh” bên thắng cuộc – tên bộ sách của Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là tiếng nói hung hãn nhất trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia. Vẫn một cliché, vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy xuyển: “tác giả là gốc ngụy, nội dung tác phẩm là nô dịch phản động đồi trụy”. Vũ Hạnh xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng ta, chèo lái con thuyền chở đạo” vẫn không ngừng truy đuổi cả những thế hệ nhà văn trẻ nối tiếp có khuynh hướng tự do, điển hình qua bài viết phê phán Nhã Thuyên và Nhóm Mở Miệng với hai cây bút nổi trội là Lý Đợi và Bùi Chát [Thấy gì từ một luận văn sai lạc, Văn Nghệ 29/2013].
Có lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những người cộng sản tha hoá bước vào Thế Kỷ 21 là sự “nguỵ tín/ mauvaise foi” họ sống với hai bộ mặt, vẫn không ngừng hô hào cổ võ cho điều mà họ không còn chút tin tưởng. Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi con cái đi du học rồi trưởng thành sống ở Mỹ; Vũ Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một con người tự do.
Trở lại với Nghiễm, nhiều người vẫn nghĩ rằng, sau 1975, ngoài thời gian bị tù đày, đi làm sơn mài kiếm sống, Dương Nghiễm Mậu không còn viết gì. Điều này có lẽ không đúng. Nghiễm không có sách mới xuất bản trong nước suốt 40 năm từ sau 1975. Nhưng Dương Nghiễm Mậu như tôi biết, anh vẫn viết, trong đó có “Tự Truyện Nguyễn Du” như một tác phẩm lớn mà tôi tin là anh vẫn bền bỉ hoàn tất từng trang sách.
2015_ Mưa California Mưa Sài Gòn
California vẫn khô hạn, nhưng thản hoặc cũng có những cơn mưa đủ tầm tã để gợi nhớ những cơn mưa Sài Gòn, nhớ ngày tới thăm bạn cũng vào một buổi chiều mưa như vậy, với những khúc đường xá thì ngập lụt.
Hạnh phúc ở xa là có được một người bạn như Nghiễm, cho dù ở đâu và bao giờ có biến động ra sao thì vẫn cứ là một Dương Nghiễm Mậu với Nhan Sắc ấy, nhất quán và xác tín như thuở nào: có cái dũng để nói không.
Tôi nghĩ tới Nghiễm, anh đã sống trong dòng chính sinh hoạt Văn Học Miền Nam, từ rất sớm cho tới 1975, và 40 năm sau anh vẫn thăng trầm với vận nước ngay trên quê nhà. Anh là một nhân chứng khả tín cho suốt thời kỳ ấy và điều anh viết ra được mọi người tin.
Lời Cuối Cho Bài Viết
Dự định khởi đầu là một bài viết về cố tri Dương Nghiễm Mậu, với cuộc hành trình 40 năm của anh. Bài viết chỉ với hơn bảy ngàn chữ, nhưng rồi không tránh được, như một flashback, có thêm những khúc phim trắng đen ngắn của hồi tưởng rất chung và cả rất riêng tư, khá rời rạc đổ tràn theo những trang viết.
Vậy mà đã 40 năm qua đi 1975-2015, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở về với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải kể tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ. Nói tới Văn Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng/ livre blanc” về thời kỳ đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
Trong quá trình phục hồi di sản Văn Học Miền Nam, không thể không nhắc tới một tên tuổi: Trần Hoài Thư – Thư Quán Bản Thảo, anh có hùng tâm và đơn độc trong suốt nhiều năm nỗ lực khôi phục lại những văn bản của một thời kỳ văn học bị truy lùng và huỷ diệt.
Không phải là quá sớm để ghi lại một giai đoạn lịch sử trung thực, chứ không phải là “phiên bản” nguỵ tạo mà người cộng sản đã và đang làm. Trước khi lịch sử bước qua một trang khác.
NGÔ THẾ VINH
Sài Gòn 1975 – California 2015$pageOut$pageIn
Dương Nghiễm Mậu, “Sống Tự Do hay là Chết”
NGUYỄN LỆ UYÊNBáo chí miền Nam viết nhiều, nói nhiều về Dương Nghiễm Mậu và đều dành cho ông những tình cảm đặc biệt và một vị trí xứng đáng trong dòng văn học Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1954 trở lại đây (ngoại trừ thằng Gù bên hông nhà thờ Đức Bà).
Với 21 tác phẩm, gồm truyện ngắn, truyện dài và những đoản văn, bút ký… người đọc đã nhìn thấy trọn vẹn thái độ và trách nhiệm của ông với ngòi bút của chính mình trước người đọc, xã hội và cả một khúc lịch sử ngắn ngủi bị xé toạc, tơi tả.
Trên bán nguyệt san Thời Tập, số cuối cùng, số 23 tháng 4.1975, khi mà ông chủ bút Viên Linh chưa thấy được mặt mũi “đứa con út”, thì ở đó, Dương Nghiễm Mậu đã có bài trả lời ngắn về những lý do tại sao ông không chịu di tản ra nước ngoài: “Có người đến hỏi tôi: Có đi ra ngoại quốc không? Tôi đã trả lời dứt khoát: Tôi sống và chết tại nơi này. Người ấy hỏi: Anh chấp nhận sống chung với người Cộng Sản? Tôi nói: Tôi không phải là một con chó để nay sống với chủ này, mai sống với chủ khác chỉ vì miếng xương chúng liệng ra. Tôi tin tưởng con đường tôi đi. Có một nơi là lẽ phải và ánh sáng. Có một nơi là lẽ trái và bóng tối. Có trắng và đen không thể nhập nhằng được. Nếu tôi có chết chăng nữa, điều ấy tôi không ân hận. Lịch sử đã chứng minh rằng: Nhiều khi cái chết là một điều tốt hơn là sống. Chết đi cho người khác sống, cho lẽ phải và sự thực, sống chết như thế cần thiết. Tôi bình tĩnh với quyết tâm đó”.
Thái độ chọn lựa của Dương Nghiễm Mậu cũng chính là thái độ của chàng Kinh Kha với con chủy thủ trên đất Tần bất trắc, một truyện ngắn mà ông đã rút cả máu, cả ruột gan để viết. Ông để Kinh Kha qua sông Dịch. Ông ném đoản đao vào tay Kinh Kha. Chàng cầm chặt, kề vào cổ Tần Vương, nhưng thay vì run sợ, Tần Vương lại ngửa cổ cười khan, sảng khoái. Và chàng hiểu ra tất cả: Tần Vương này chết sẽ có một Tần Vương khác, vài ba Tần Vương khác… đánh đổ một chế độ độc tài này thì tức khắc sẽ có một chế độ độc tài khác mọc lên.
Đó là sự thất bại cay đắng của trí thức, một thất bại nhục nhã của lòng yêu chuộng tự do, hoà bình. Và hình ảnh chàng Kinh Kha lầm lũi quay lui trong một cung điện nguy nga, tráng lệ tội ác vẫn là nỗi đau đớn không cùng của chính ông, như một dự báo cho ngày hôm nay.
Tại sao như vậy? Những kẻ tọc mạch luôn muốn biết “tại sao” như một căn bệnh sổ mũi kinh niên. Và không để cho những kẻ đó khốn khổ mò mẫm trong bóng đen suy diễn, ông dốc tuột sự thật đang diễn ra từng ngày từng giờ, mà ai cũng nhìn thấy những cảnh tượng đau lòng này nối tiếp những đau thương khác dồn dập đổ ập trên quê hương: “Những chiếc xe như súc vật, những xác nguời nằm như lá khô, pháo kích không ngừng, những bà mẹ, đứa bé bò trên mặt đường và chiếc bình sữa… Trong cồn cào của thời sự, những sự việc làm tôi chóng mặt. Tôi tự hỏi: có phải đã tới lúc mà mình phải cầm lấy mũi nhọn, phải, chỉ có thế trong chọn lựa một khi cơn lốc đến. Tôi không thể có một chọn lựa đầu hàng để sống như trâu chó. Tôi chỉ thương hai tấm con thơ… Có thể một cơ sự như thế sẽ đến không?” (sđd) .
Những cảnh tượng kinh hoàng, xám xịt màu đen tối kia, không phải chỉ đến những ngày cuối cùng chúng ta mới nhìn thấy, ông mới nhìn thấy. Đã từ rất lâu, khi mới là chàng thanh niên ngoài 20, ông đã thấy và hiểu tất cả, tạo thành vật nhọn đâm thẳng vào tâm hồn ông, đau nhói. Ông đã nhìn thấy và ông đã viết ra. Trong bối cảnh xã hội đang vật vã, hấp hối, với tư cách của một phóng viên chiến trường, ông đã lặn lội đến tận nơi các đơn vị hành quân trên khắp 4 vùng chiến thuật, sống dưới đạn bom gào rú trong các trận đánh, những bãi chiến trường xác chết ngổn ngang. Nhưng bi thảm nhất, đọng lại trong tâm trí ông là những cảnh tượng hãi hùng: Đó chính là những xác chết, những nấm mộ lấp vội ven đường, trong vườn nhà của những người dân vô tội, không có lấy một tấc sắt trong tay để tự vệ trong biến cố Mậu Thân ở Huế. Sự điên cuồng dã man đã đẩy hàng ngàn người dân vô tội chết tức tưởi, chết không nhắm mắt mà không hiểu tại sao mình phải chết! Trong bút ký Đi Trên Những Xác Chết đăng trên bán nguyệt san Văn số 104 phát hành ngày 15.4.1968, sau này in lại trong tập Địa Ngục Có Thật , có đoạn ông ghi lại: “Ở trong nhà mọi người vẫn sinh hoạt bỗng nghe tiếng nổ, rồi một người đàn bà kêu lên ở ngoài sân, chạy ra thấy bà ta ngã xuống chết. Hết sức kinh hoàng, cũng như phía sau nhà đó, bảy người cùng chết, những ngày đó chẳng ai chết mà có được quan tài. Người ta lo đào một cái huyệt vùi xuống cho xong. Tội nghiệp, một bà vợ ở xóm trên này, ông chồng bị bắt đi bị bắn chết, bắn chết trước mặt, rồi trận đánh tới, bà vợ chỉ còn đủ thì giờ kéo xác ông chồng về bỏ trong buồng, đóng cửa lại rồi dắt con chạy loạn…”
Một đoạn khác, cũng ở bài bút ký này: “Những ngày đầu tiên, ngay sau khi tiếng súng ngừng nổ, người ta đã đổ xô tới đó nhìn mặt những người chết đã nát, nhiều xác chết để bừa bãi, mặt che bằng những tàu lá chuối, bằng những tờ báo, những con chó quanh quẩn, những người bao khẩu nhìn ngó… Những cái xác nào bị đào lên dập xuống nhiều lần. Những đồng bạc được đếm trên những xác người sình thối… Hai ngàn, rồi năm ngàn… Những xác chết đã thành tiền cho những người nào đó…”.
Đó là những gì ông đã tận mắt nhìn thấy ở khu vực cầu Gia Hội, Huế trong những ngày Mậu Thân.
Vâng, Từ Gia Hội qua Phú Cam, lên Thừa Phủ, đến sân nhà thờ Chánh toà và cả sân trường Đồng Khánh… nơi nào cũng xác chết, cũng tan hoang, cũng thù hận và chém giết và máu và xương trắng và khăn tang... Chính lũ người mọi rợ mang trong đầu cái học thuyết hoang tưởng và ngu xuẩn nhất trần gian đã đẩy cả ngàn người dân vộ tội vào tử lộ. Và, chúng ta hỏi, họ là ai? Không ai cả mà cũng chính là họ, những người trí thức, những kẻ mô phạm, những tên cuồng tín. Ông đã đưa ra hình ảnh một cô gái Huế mỹ miều, mấy năm liền thi rớt y khoa ở Sài Gòn, sau trở về Huế học văn khoa, bỗng dưng một ngày kinh hãi nổ ra, cô ta xuất hiện trên chiếc mobylette như một mụ phù thuỷ gớm ghiếc đu trên chiếc chổi cùn… “Đến lúc biến cố mọi người thấy cô ta mặc quần jean đeo súng và chạy cùng khắp trong thành phố, nhiều người bị cô ta chỉ vào mặt và tất nhiên sau đó nhiều hậu quả đã xảy ra…”.
Không chỉ chừng đó cảnh tan hoang nheo nhóc. Ở tận cùng đất nước: Cà Mau rồi ngược ra Tây Nguyên, những Pleiku, Kontum, Nha Trang, Phan Rang… Quảng Ngãi, Đà Nẵng… đâu đâu, nơi nào cũng có “những anh em du kích lẻn về phá rối đời sống dân chúng”.
Không chỉ nghe. Không chỉ nhìn thấy, tận mắt chứng kiến mà, hơn hết, như ông nói là phải có trách nhiệm với ngòi bút, nên ông đã ghi lại một cách trọn vẹn. Đó cũng là trách nhiệm với bản thân ông, trách nhiệm với xã hội bằng giọng văn đặc hữu: Tỉnh táo đến độ khô khốc như những cơn gió Nam cồ Nam mái trên dãi đất miền Trung, xoáy tung những mái tranh nghèo xơ xác, nhấn chìm những phận người như bọt bèo, nhưng không thấy ở ông, những dòng chữ nơi ông sự bi thiết hay hằn học.
Có lẽ chính điều này đã giữ cho tâm hồn ông được thăng bằng, bởi trong bút kỹ đã dẫn, ông trích lại vài trường canh trong ca khúc của Phạm Duy ẩn hiện đâu đó trong ký ức ông. Đó là những ca từ và giai điệu đẹp để cuộc đời này đẹp hơn chút, trên đống hoang tàn đổ nát: “Buổi sáng nay thức dậy, nghe tin em gục ngã nơi chiến trường, nhưng trong vườn anh, đoá trà mi vẫn nở thêm một đoá, tôi vẫn sống tôi vẫn ăn và tôi vẫn thở… biết bao giờ…”.
Viết về Dương Nghiễm Mậu lúc này giống như đang ngồi trước tủ sách trống rỗng của ông: Một nỗi niềm xót xa cay đắng của một nhà văn luôn đặt trách nhiệm về thiên chức và nhân cách lên hàng đầu, như là điều xác tín: “Với riêng tôi, nhìn lại quá khứ từ 15 năm trở lại đây tôi có thể hài lòng để nghĩ rằng mình đã làm hết, đóng góp hết những gì có thể làm, có thể đóng góp. Lập trường dứt khoát của tôi đã hơn một lần được xác định trên những giòng chữ viết. Ở đó bao hàm một phấn đấu không cùng” (trả lời trên Thời Tập).
Tôi nhớ trên tuần báo Khởi Hành năm 1969, đã đặt câu hỏi về những suy nghĩ của nhà văn về tuổi 20, ông đã nói, đại ý: “Với lương tri… người trẻ tuổi nào cũng mong tìm thấy cho mình và cho mọi người một đời sống đáng sống. Bộ mặt thực của thế hệ 20 ở Việt Nam năm 1969 không phải do cái bề mặt giả hình của nó, mà nhiều người trẻ tuổi khoác lên mình hay người ngoài nhìn vào thấy. Có thể nói bộ mặt đó bi quan nhưng rất tin tưởng”.
Còn trên tuần báo Nghệ Thuật, khi đọc tác phẩm Đêm Tóc Rối, Viên Linh đã có nhận xét: “Nhân vật của Dương Nghiễm Mậu là những người trẻ tuổi bị đè nặng bởi quá khứ về mặt tinh thần, và bởi tương lai về mặt trách nhiệm… Nhân vật Dương Nghiễm Mậu là người tù giam lỏng”.
Khoảng năm 1972, trên tuần báo Khởi Hành có loạt bài thăm dò độc giả bây giờ thích nhà văn nào, tại sao? Và tôi nhớ có một độc giả viết như sau: “Về Dương Nghiễm Mậu, ta bắt gặp hình ảnh của những kẻ sĩ bó tay trong một xã hội băng rã. Phong thái nhân vật của ông nửa anh hùng, nửa ăn cướp. Dương Nghiễm Mậu hiểu được phần nào tâm trạng của những người trẻ tuổi ưa suy nghĩ, thích hành động nhưng sớm chán nản trước thời cuộc”.
screenshot từ bài "Dương Nghiễm Mậu và tự truyện Nguyễn Du" của Ngô Thế Vinh viết 2015, đăng trên báo Người Việt August 3, 2016 |
Trước 1975, độc giả vẫn đón đợi ở ông những suy tư ray rứt từ những nhân vật. Và bây giờ cũng vậy, đó là lý do tại sao nxb Văn Nghệ (Sài Gòn) và công ty văn hoá Phương Nam cho tái bản 4 tập truyện ngắn của ông (Đôi Mắt Trên Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng Sáo Người Em Út) đã khiến thằng Gù phải dở giọng cay độc như đã từng, hồi đầu những năm 75,76: “Những tác phẩm này giá trị ra sao, đa số bạn đọc sống ở miền Nam trong thời chống Mỹ đều đã biết rõ. Bởi lẽ, những quyển sách này không chỉ là các sản phẩm văn hóa mà vốn là những vũ khí độc hại về mặt tinh thần…
…Hơn ba mươi năm trôi qua, những thứ sản phẩm, gọi rằng văn hóa, rất độc hại ấy đã được xếp xó cùng với bao khối bom, mìn, súng ống đủ loại từng gây chết chóc, thương tật cho những con người yêu nước và tưởng rằng sự yên nghỉ ngàn thu của các sản phẩm như thế là chuyện lịch sử đã an bài rồi. Và các tác giả - là Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên - sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không hề gặp phải bất cứ sự quấy phiền nào. Những nỗi khổ đau và những sai lầm đã được xếp vào dĩ vãng, được khuyên khép lại, quên đi để cùng nhìn vào thực tại, hướng về tương lai…
…Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu. Các bạn đọc này gồm nhiều thành phần: vị tướng đã từng xông pha trên các chiến trường chống Mỹ, nhà giáo dạy văn, một cựu sĩ quan quân đội, nhà thơ, nhà báo... Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước” (SGGP số ngày …/4/2007).
Đọc lại những truyện ngắn trong 4 tập này, không biết thằng Gù tìm ở đâu ra những dòng chữ và các nhân vật lẫn lời thoại trong đó là những vũ khí độc hại về mặt tinh thần… rồi thì: là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước.v.v. Thằng Gù chỉ nói vu vơ mà không chỉ ra được độc hại và xúc phạm danh dự đất nước nằm ở chỗ nào trong 4 tập truyện trên? Có phải vì trước đây, trên tuần báo Nghệ Thuật (hay Khởi Hành?) có loạt bài phỏng vấn Độc gải bây giờ thích nhà văn nào? Và thằng Gù thì không có tên trong những nhà văn được độc giả ưa thích nhất: Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Trùng Dương, Nguyễn Đình Toàn, Viên Linh, Nhã Ca… nên ông cay cú mãi tới tận ngày hôm nay? Hoá ra ông ta chỉ là tay chạy chợ, một kẻ xum xoe theo lối chính trị hoá văn học giảo hoạt không hơn kém!
Trong khi đó, một cách công tâm, nhà phê bình văn học miền Bắc Phạm Xuân Nguyên đã có cái nhìn sắc sảo của một nhà phê bình chính thống, không vị nể, kiêng kỵ: “Đọc văn Dương Nghiễm Mậu là đọc những trăn trở, hoài nghi, lo âu, dằn vặt trước những hoàn cảnh có thể biến con người thành chuột, hạ cấp nhân tính thành thú tính (“Những chuột”), trước sự bạo hành của cái ác có thể khiến con người dửng dưng với nỗi đau của đồng loại (“Lấy máu”). Tính biểu tượng của truyện “Những chuột” buộc người đọc từ hoảng sợ đến thức tỉnh.
Đọc văn Dương Nghiễm Mậu là đọc những day dứt lựa chọn của người trí thức, người sĩ phu trước một hiện tại lịch sử: xuất xử hay hành tàng, hành động hay không hành động, hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào. Cả tập Nhan sắc gần như có thể nói là được viết cho đường hướng tư tưởng này, bằng những truyện dã sử và giả sử. Từ Hải, Kinh Kha, Hồ Quý Ly, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ, Phạm Thái khi trở thành nhân vật của Dương Nghiễm Mậu đã được nhà văn đặt vào những tình thế lựa chọn, và họ đã phải lựa chọn theo cách của con người hiện đại muốn ở họ. Họ phải lựa chọn để không ngừng đi tìm ý nghĩa của cuộc sống. “Phải sống. Sống không phải là nương theo những điều đã được định sẵn. Sống là tìm kiếm, lựa chọn, đương đầu...”, do đó, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về những quyết định của mình
Đọc văn Dương Nghiễm Mậu là đọc những tình cảm bình thường, giản dị, mà chân thành, xúc động, đưa đến những đồng cảm, sẻ chia giữa những con người cùng ở trong một tình thế sống (“Lời chúc cho kẻ phản bội”). Văn đó không hề hạ thấp con người, ngược lại, nó buộc mỗi người phải bận tâm với chính mình trong tư cách con người.
(Phạm Xuân Nguyên, Truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu, Thể Thao & Văn Hoá, số ra ngày 13/4/2007)
Tạm bỏ qua chuyện thằng Gù, chúng ta hãy trở lại câu hỏi: Tại sao độc giả lại thích truyện Dương Nghiễm Mậu? Vì khoảng trước năm 1963, như lời kể của Mai Thảo trên tạp chí Văn, Caliornia số tháng 12 năm 1984 thì thiên truyện đầu tay của Dương Nghiễm Mậu gửi đến toà soạn (không nói rõ tạp chí nào) và bị vất bỏ. Mai Thảo nhặt được, đọc nó và cho đăng (trên Sáng Tạo?). Thiên truyện này được Võ Phiến nhắc lại trong bộ Văn Học Miền Nam có tựa Rượu Chưa Đủ: “Chuyện xảy ra ở một thành phố… Nhân vật chính thường ngày đến công viên, gặp người này người nọ, làm chuyện nọ chuyện kia .v.v., công viên nào vậy? Tác giả không thèm đặt cho những nơi chốn đó lấy một cái tên” (Võ Phiến, VHMN, trg 709).
Cũng theo những tiết lộ của Võ Phiến, trong những truyện ngắn đầu tay và những tập truyện xuất bản đầu tay như Cũng Đành, Gia Tài Người Mẹ… độc giả chừng như không mặn nồng đón đợi gì nhiều ở ông, có lẽ do cách viết “không giống ai” ở ông. Dương Nghiễm Mậu chấp nhận điều này, xem như một lối đi riêng của mình và buộc độc giả phải chấp nhận. Quả vậy, độc giả đã “đầu hàng” và dần hồi tìm thấy ở ngòi bút của ông một phong cách riêng, rất độc đáo, không lẫn với văn phong của ai khác; ngay chính trong nội dung và những vấn đề ông đặt ra cho từng nhân vật nhận lấy trách nhiệm, hành động cùng những suy tư cũng kiến độc giả phải “giật mình”. Nói giật mình, bởi ông đứng hẳn về phía cái mới, từ cấu trúc ngôn ngữ, xây dựng nhân vật để chuyển tải những nội dung ông đặt ra, thường là những câu hỏi “không hỏi”, để cho người đọc tự xoay xuể, tìm câu trả lời theo cách riêng của từng người. Ông chỉ đặt ra các vấn đề mà không giải quyết vấn đề? Về vấn đề này, trên Bách Khoa số 154 ngày 1.6.1963, Đặng Tiến có nhận xét: “Tất cả các nhân vật của Dương Nghiễm Mậu đều nghèo túng. Xã hội của Dương Nghiệm Mậu là xã hội bị chiến tranh tàn phá, ở đâu cũng còn vết tích của rạn vỡ: Trong thành phố, trên cơ thể, trong tâm hồn. Một xã hội con lạc cha, vợ lạc chồng, anh em hầm hè nhau như hổ đói, người với người xem nhau như súc vật. Nhưng truyện của Dương Nghiễm Mậu không phải là truyện xã hội…, Vấn đề đặt ra ở đây, không phải là làm thế nào mang lại cơm áo cho những người đói rách, nhưng vấn đề là tạo ta trong mỗi người đang đói rách một ý thức về những giá trị siêu việt trầm tích trong tâm hồn họ… Vấn đề ở đây là một vấn đề siêu hình, thuộc về định mệnh ” (Võ Phiến, sđd, trg 708).
Điều mà nhà phê bình Đặng Tiến nhìn thấy ở Dương Nghiễm Mậu cách đây non nửa thế kỷ có lẽ khá chính xác đối với toàn bộ tác phẩm của nhà văn Dương Nghiễm Mậu, bởi sau 1975, ngoài thời gian bị tù đày, làm sơn mài kiếm sống, hầu như ông không viết gì, hiếm khi tiếp xúc với những “kẻ lạ mặt”. Duy nhất độc giả chỉ mới được đọc tập truyện vừa ở dạng ebook trên mạng có tựa Lênh Đênh Trên Cửa Thần Phù và ở đó, trong truyện này, ông cũng đã tạo ra trong mỗi người đang đói rách một ý thức về những giá trị siêu việt trầm tích trong tâm hồn họ. Cũng lại là vấn đề siêu hình và thuộc về định mệnh!
Cái định mệnh khốc liệt ấy, không phải do ông tạo ra, ông không có quyền dựng lên. Nó chỉ là cái hiển nhiên của xã hội đã đẻ ra nó, để những đứa con xác xơ Chí Phèo bị quăng ra giữa đời, để những Xuân tóc đỏ, những chị Dậu… buộc phải hiện hữu trong thời hiện đại rất đỗi ma quỷ. Thời đại đang có sự lẫn lộn giữa thiện và ác, giữa quỷ và người. Và ông, với thiên chức của nhà văn đã ghi lại trung thực.
Điều đáng tiếc duy nhất ở phía người đọc trong nước bây giờ, giống như tủ sách trống không của ông, chúng ta không còn có quyền giữ lại một tác phẩm nào của các nhà văn miền Nam để nhẩn nha đọc lại, để có cái nhìn chính xác hơn về nhân vật, về nội dung sau bao nhiêu năm bị đóng kín sau “khung cửa hẹp”. Dẫu không còn tác phẩm trong tay, nhưng những gì chúng ta đã được đọc trong 21 tác phẩm ông để lại cho đời là những dự báo, là những cơn đau quặn thắt cho mỗi chúng ta, những người còn chút lương tri, dẫu ở trong hay ngoài nước, như blog Bút Chì đã viết, được Dân Luận trích đăng và dẫn sau đây:
“Em lớn lên, em nhìn xung quanh, em học và suy nghĩ, có bao giờ em nhìn thấy gì, nghe thấy gì ngoài những băng rôn khẩu hiệu khoa trương trống rỗng, những lời lẽ sáo mòn vô nghĩa, những bài học khô khan buồn ngủ? Em lớn lên, em xem ti-vi và đọc báo, em có bao giờ thấy những con người béo tốt đang tự giao cho mình trọng trách cầm lái cho đất nước dám đứng lên nói một cái gì không cần cầm mảnh giấy, nói một cái gì không làm em buồn ngủ, nói một cái gì mới trong suốt từng ấy năm? Và giả như có lúc nào họ nói không dùng giấy, hoặc thậm chí nói với sự chuẩn bị kĩ lưỡng trước khán giả nước ngoài, có phải em sẽ nhận ra ngay sự ngu dốt, ấu trĩ, độc ác và chết chóc trong từng hơi họ thở? Làm sao em có thể mơ đến việc họ có thể kể cho em nghe về những hy sinh mất mát của tiền nhân, về những khó khăn đau khổ của hiện tại, về việc tiếp nối một truyền thống nào và hướng đến một tương lai ở đâu. Không, họ không kể với em gì cả. Họ luôn xuất hiện chớp nhoáng sau những chiếc mặt nạ rồi nhanh chóng lủi đi mất”
(https://danluan.org/.../but-chi-ke-chuyen-em-nghe-tu-nuoc...).
Tôi không dám chắc chủ blog này đã có đọc Dương Nghiễm Mậu hay chưa? Nhưng hơn hết, có lẽ anh (chị) chủ blog này thuộc thế hệ trẻ, thế hệ có lương tri, có suy nghĩ, thao thức, dằn vặt về vận mệnh dân tộc. Những ray rứt trên kia, có phần nào giống với các nhân vật của Dương Nghiễm Mậu từng băn khoăn, ray rứt và bất lực?
Và, ông Mậu bây giờ cũng có những chiếc mặt nạ ma quỷ, nhưng không phải để treo lên tường như một cách làm dáng thường thấy ở loại nhà văn rởm, cung đình, mà làm ngay trên mặt ghế đẩu, bằng sơn mài để ông ngày ngày kê đít lên, bạn bè tới thăm kê đít lên.
“Dù vũ trụ có đè bẹp con người, con người vẫn lớn hơn những gì đã huỷ diệt nó. Người ta nhớ lại câu nói đó của Pascal khi đọc Dương Nghiễm Mậu” (Đặng Tiến, Vị trí con người dưới mắt Dương Nghiễm Mậu, Bách Khoa số 154).
Những nhân vật của Dương Nghiễm Mậu, kể cả chúng ta đang bị “đè bẹp” và chúng ta “vẫn lớn hơn những gì đã và đang huỷ diệt nó”.
Đó là thái độ của kẻ sĩ.
Sống tự do hay là chết.
Đó là cách chọn lựa của kẻ sĩ bất lực!
NGUYỄN LỆ UYÊN
(Udon Thani tháng 12/2012)$pageOut$pageIn
DƯƠNG NGHIỄM MẬU và TỦ ĐỰNG SÁCH RỖNG KHÔNG
Tùy bút của Khuất ĐẩuViết về Dương Nghiễm Mậu, trước đây, bây giờ và mai sau, nhiều người đã viết, đang viết và sẽ viết. Có nghĩa rằng, dù Vũ Hạnh muốn những đứa con tinh thần của anh “an giấc ngàn thu” [1] qua những trận phần thư sau 75, nhưng chúng vẫn không chết.
Trong một bài trả lời về việc Vũ Hạnh phản đối nhà xuất bản Phương Nam đã tái bản 4 tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, Phạm Xuân Nguyên hiện là chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, đã nhắc khéo người mang tên “thằng gù ở bên hông nhà thờ Đức Bà” rằng, trong tự điển văn học do miền Bắc xuất bản, đã không thể không ghi tên Dương Nghiễm Mậu và dành riêng 4 trang để viết về thân thế và sự nghiệp sáng tác của tác giả.
Cái mà Vũ Hạnh vừa soi mói vừa mỉa mai gọi là dòng chảy âm thầm đó, tức là văn học miền Nam trước 75, thực sự là một dòng sông lớn vẫn miệt mài xuôi chảy không ngừng về đại dương văn học của dân tộc.
Vũ Hạnh chỉ còn là một tên biệt kích già, (chính ông ta nằm vùng ở miền Nam làm biệt kích văn hóa), sau khi chỉ điểm để đưa hàng loạt nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng vào chốn lao tù vẫn không được đảng cho nắm giữ chức gì, bị bỏ rơi như một con mèo ốm, nhân cơ hội tái bản sách của Dương Nghiễm Mậu liền meo meo cho mọi người biết rằng hãy còn có “ta” đang hấp hối trong đống rác của lịch sử.
Trước sự ồn ào thù hận không vì giai cấp mà vì ganh tài, nhà văn một thời thao thức đi tìm con đường dấn thân, “của người trí thức, người sĩ phu trước một hiện tại lịch sử, hành động hay không hành động, hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào”, [2] anh chỉ mỉm cười.
Có người bảo đó là nụ cười an nhiên vì tin ở mình, có người bảo đã đến chỗ tĩnh lặng của chữ Thiền.
Tôi, thì tôi không nghĩ như vậy. Ai mà không đau xót khi thấy những đứa con tinh thần của mình bị vùi dập không thương tiếc. Không chừng nụ cười đó chính là tiếng khóc khô không lệ, như Xuân Diệu từng viết.
Tôi được một lần đến thăm anh cùng với Lữ Kiều.
Chỗ tiếp khách chỉ có mấy chiếc ghế, một cái bàn con và một cái tủ rỗng. Một cái tủ trong ngôi nhà trống tềnh toàng, rộng hơn một thước cao hơn hai thước, không ngăn kệ, không cửa nẻo với 5 mảnh ván cũ xỉn đóng khung cái không gian lạnh lẽo như trong một cái áo quan. Cái tủ ấy đã từng chất đầy sách của chính anh trước tác, của bạn bè và đương nhiên là của các nhà văn lớn đông tây kim cổ. Trước tôi, Trần Vũ một lần ghé thăm anh có viết về cái tủ sách không có sách ấy. Nó là chứng tích của một thời phần thư ô nhục, mà cái chế độ lớn tiếng tự xưng là ưu việt này gây nên.
Không chỉ riêng anh, ở miền Nam này, nhà nào cũng có một tủ sách bị hốt sạch như thế. Nhưng rồi, người ta tìm cách lấp đầy khi cái cơn cuồng nộ ngu muội kia qua đi. Đó là chưa nói tới những tủ sách ở miền Bắc được thay dần toàn những thứ “phản động, đồi trụy”. Việc săn lùng sách miền Nam đã trở thành một mốt mới, một thức tỉnh của những người lâu nay khát gió thèm mây, trong số đó đương nhiên là những nhà văn nhà thơ cuối đời nhận ra những gì mình viết chỉ là một tấm bia mộ, như Nguyễn Khải.
Nhưng với anh, tủ vẫn để trống không, vẫn như một cái huyệt mộ. Tôi tưởng tượng, những đêm mất ngủ, bên tách trà, một mình anh với cái tủ, không biết anh đã nói những gì với nó. Một lời xin lỗi hay một cái nháy mắt rằng, cái ngày ấy không còn xa!
Cái tủ rỗng không ấy, mới nhìn thì thật vô duyên, nhưng ngắm kỹ thì lại hóa hay. Nó như một con mắt trừng trừng nhìn vào quá khứ dù đã bị móc mắt. Nó còn là vết xăm lên trán một nhà văn. Nó cũng còn là một thách đố thầm lặng, là chiếc áo quan mở sẵn để chờ khâm liệm cái thây ma nô dịch kia.
Còn một điều này nữa, khi đứng dậy ra về, tôi nhận ra trên chiếc ghế sơn mài mình vừa ngồi là khuôn mặt cách điệu của một trong những kẻ gieo tai ách lên đất nước này. Sơn mài là một nghề kiếm cơm của anh sau 75, khi được cụ Nguyễn Gia Trí chỉ vẽ cho một vài thủ thuật. Anh đã tỉ mẩn đem những khuôn mặt của quỷ bày lên đó cho mọi người đặt đít ngồi xuống.
Hóa ra anh lại còn thâm hơn các cụ thâm nho ngày xưa.
Khuất Đẩu
29/11/2012
[1] Chữ dùng của Vũ Hạnh
[2] Phạm Xuân Nguyên
$pageOut$pageIn
Bốn bài bút ký
Bài bút ký thứ nhất (biến cố 1963, Nhất Linh tự vẫn)
[nguồn by Trần Hoài Thư]
Ngày tháng rời
nhật ký của Dương Nghiễm Mậu - Văn số 10 ra ngày 15 tháng 5 năm 1964: Văn Hóa Phật Giáo30-5-63
Xe ngang qua Xá-Lợi thấy có nhiều xe đò đậu phía sau trường Gia-Long cùng với một số cảnh sát có xe jeep. Tôi linh cảm có chuyện gì đây. Lên tới chợ Bến Thành thì đã rõ: các nhà sư biểu tình trước trụ sở Quốc Hội. Đi men lên chỗ Thông Tin Mỹ thì bị chặn lại, tôi trông thấy một số biểu ngữ, nhiều chữ nhỏ đứng xa đọc không được ngoài chữ NHỊN ĐÓI lớn. Ghé nhà in, gặp ai cũng bàn tán. Sự thực ở Huế ra sao? Tôi nói với anh T.: Sự việc này chưa thể lường được, nhất nữa nó đã trở thành công khai.
2-6
Được T. báo: anh T. chết ở Pleiku. Tôi ghé lại Xóm Chùa. Tiếng mõ tụng kinh. Bà mẹ khóc. Người vợ có mang ngất đi mê sảng. T. nói hồn anh ấy nhập vào. Xác vẫn chưa đưa về. Hai đứa đứng dưới chân cầu thang nói chuyện. Anh T. chết về mìn. T. kết luận: vô lý, sao lại chết. Mọi người chết ở mặt trận để làm gì? Chết cho ai. T. nói về thằng N.Q. bây giờ cạo trọc đầu đi làm cho H. hắn bảo: làm vậy vì muốn cho anh em có xe hơi đi. T. nói chở nó đằng sau xe khi ngang qua đường xe lửa khi muốn hắn rớt xuống cho chuyến tàu chạy ngang, thật là thời quỷ vương.
4-6
Chiều cùng anh T. lên đưa đám. Hạnh Thông Tây. Những chiếc huyệt đào sẵn, tôi đã lảng xa lúc hạ huyệt.
Tin tức về những cuộc tuyệt thực ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Quảng Trị… Biểu tình ở Huế làm 54 sinh viên bị thương báo chí loan tin dè dặt.
8-6
Gặp S.N. Tôi gặp Th. đi café nói về một Thượng Đế Ba Ngôi. Đọc cho Th. nghe một đoạn vừa viết. Th. kêu: bi quan, cô đơn, quá nhiều mâu thuẫn và nghi ngờ cả chính mình. Mình đã nói: không có gì khủng khiếp cho bằng khi biết không có một tương lai được phác lược.
11-6
Đang ngồi ở nhà in H. chạy về mồ hôi mồ kê nhễ nhại nói không ra hơi: tự thiêu ở ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt, tôi bỏ ra phố, chỗ nào cũng nói, cũng bàn và tên một người rất lạ được nhắc đến: Thích Quảng-Đức, và hình ảnh bi hùng được vẽ ra… không thể nghĩ hay tưởng tượng được… Tu sĩ chết vì tôn giáo bị kỳ thị. Tại sao đã bao nhiêu năm nay bị đàn áp, bị tước đoạt tự do, bị treo bút mà chúng ta chịu im, ôi hèn!
12-6
Cảnh sát và lính đầy phố. Không khí hoang mang chán nản. Lo âu.
Chiều ra phố, café… những lo âu kéo lên những chán nản nằm đó. Không thể viết, đọc, hay nằm im. Quy có lại sao anh buồn? anh buồn thì làm sao em hiểu, làm sao nói ra? làm sao? làm sao?
5-7
Cuốn sách xong hôm nay. Đi coi Ngã rẽ tâm tình ở rạp Hưng Đạo. Lúc về gặp lính soi đèn pin vào mặt hỏi giấy.
8-7
Chiều đọc báo được tin Nhất-Linh chết. Tự tử bằng thuốc véronal. Báo chí chỉ viết vắn tắt, nhiều chỗ bị đục trắng. Tối T. mang tới cho mấy lời di chúc của Nhất-Linh đánh máy nhoè nhoẹt. T. hỏi: Phải làm gì? Tôi nói: muộn mất rồi, đến khi hỏi nhau như thế thì đã muộn, chúng ta đã làm gì trong mấy năm qua, chúng ta đã sửa soạn gì đâu mà nói đến làm. Người ta đã chửi tôi khi nghĩ rằng phải có một ý thức hệ, khi tôi viết về xã hội, về một ý thức tranh đấu… Bây giờ làm gì? tôi không biết nữa. Làm gì khi chúng ta tay không với khối óc tan loãng, không mục đích, không tin tưởng.
Sự thật bày ra làm chúng ta thức tỉnh, nhưng đã tỉnh thật chưa?
Người ta bảo Phật giáo bi quan, yếm thế. Nhìn ngó và nghĩ xem có thực vậy không? Chúng ta mất gốc thật sự. Chúng ta theo Tây phương. Chúng ta biết gì, hiểu gì về Phật, Lão, Khổng? Dân tộc tính là gì? Truyền thống là gì? Thiên chúa giáo mang đến đây những gì? Tôi nói: Thiên chúa giáo gặp hai trong những trường hợp bất hạnh ở Việt-Nam: Pháp đã lợi dụng, người Việt nhiều nơi cho rằng người theo đạo Thiên chúa là theo Tây và bây giờ lại đang gặp một hoàn cảnh ngộ nhận như thế nữa. Thế lực chính trị và tôn giáo? Chế độ Franco ở Tây Ban Nha nhân danh gì? Nhân cái chết của N.L. tôi có viết một bài có mấy đoạn:
“Bây giờ Nhất-Linh đã chết thật rồi, nghe tin ông chết tôi nôn nao khó nói, nắp quan tài đã đậy lại, bây giờ đã là lúc đủ điều kiện để phê phán nhận định về tư tưởng và hành động của Nhất-Linh chưa?"
Tại sao Nhất-Linh đã không còn là thần tượng của tôi và của những người trẻ tuổi khác khi ông bước trở ra sân khấu cuộc sống, sự từ chối của tôi, của người hai mươi tuổi không hề toa rập với sự từ chối của những người thuộc thế hệ Nhất-Linh và những thế hệ tiếp như thế hệ 40, 30, bởi vì trước đó khi Nhất-Linh còn là thần tượng tôi đã từ chối họ rồi, bởi vì trong dĩ vãng cũng như hiện tại họ đã chẳng có gì để tôi nhìn vào đó. Tôi gọi đó là một thế hệ đã bị bôi nhem, họ đã chẳng là thần tượng mà còn là kẻ có tội với thế hệ tôi và tôi chờ đợi Nhất-Linh, nhưng khi Nhất-Linh trở lại thì chúng tôi cũng thấy Nhất-Linh đã không còn là của thời đại chúng tôi nữa, ông là của dĩ vãng, ký ức, ông là người của một thời đã qua, ông không sống trong, không nói được, không làm ra những gì chúng tôi đang sống, cần nói, phải làm… Trong một bài báo viết từ năm 1861 về vấn đề văn nghệ Dostoïevski đã đưa ra một ví dụ lý thú. Ông nhắc lại một trận động đất ở thành Lisbonne vào cuối thế kỷ thứ 18. Trận động đất hết sức dữ dội: nhà cửa, lâu đài tan nát, phân nửa dân chúng tử nạn hoặc bị thương, con khóc cha, vợ khóc chồng, cảnh tượng hết sức thê thảm.
Sáng hôm sau tờ báo Mercure de Lisbonne phát hành như thường lệ. Những nạn nhân sống sót, tuy không còn thời giờ và trí óc nào để đọc báo, cũng tò mò muốn biết các nhà văn nghệ đã viết những gì về thiên tai vừa qua. Ngay nơi trang đầu, vào chỗ danh dự, có bài thơ của thi sĩ trứ danh thời đó. Và bài thơ tạm dịch như thế nầy:
Thì thầm, hơi thở âm thầm,
Tiếng hát run run chim sơn ca.
Lóng lánh bạc
Giấc mơ giòng suối.
Ánh sáng đêm trường, bóng tối đêm trường,
Bóng tối vô tận:
Biến chuyển nhiệm mầu
Của gương mặt Thượng-Đế
Hôn, mơn trớn lệ,
Ôi! Bình mình! Bình minh!
Dostoïevski không rõ số phận của thi sĩ như thế nào, khi dân chúng Lisbonne đã đọc bài thơ ấy. Nhưng ông phỏng đoán rằng họ đã đem chàng ra phân thây hay treo cổ giữa chợ cho hả giận. Mà họ giận chàng không phải vì bài thơ từ đầu tới cuối không có đến một động tự, hay là vì nó phạm đến thuần phong mỹ tục. Họ giận là vì bài thơ trong hoàn cảnh đó, có ý nghĩa bỡn cợt quái gở, bỡn cợt sự đau khổ của ta”(1). Vậy từ 1954 đến nay, những nhà văn của chúng ta đã làm gì? viết gì? có phải chúng ta đã đùa cợt, đã mơ mộng, đã xa lánh cuộc sống, đã bỏ chạy, đã quên mất thiên chức của người cầm bút? Chúng ta đã ca hát giữa một xã hội bưng bít, giữa sự chết chóc bi thảm, giữa những áp bức đè nặng, chúng ta bỏ quên sự thật như thế mà những nhà văn của chúng ta chưa bị treo cổ lên thì kể dân chúng Việt-Nam cũng hiếu hoà lắm. Hay họ đã khinh chúng ta quá lắm, họ không còn muốn biết đến nữa. Bởi vì rõ ra đó, những thảm khốc đầy rẫy mà chúng ta im lặng, có kẻ hoan hô, ghi ơn. Kẻ sĩ đã chết hết thật rồi sao? Rõ ràng rằng xã hội đang đàn áp cả những người tu hành, nhân danh tự do, dân chủ, độc lập, dân tộc, yêu nước để buôn xương máu của chính anh em, bà con, dân chúng Việt mà sao chúng ta lại im.
Ngọn lửa Nhất-Linh sáng lên. Điều mà tôi không hề chờ đợi. Ngọn lửa một chiến sĩ, cộng vào ngọn lửa của một tu sĩ đã làm sáng lên trong tôi rằng: Giữa đêm tối bưng bít của lịch sử đã có ánh sáng mở đường, và thần tượng Nhất-Linh trở lại ngự trị trong tôi.
Tôi chia văn học Việt-Nam theo hai giòng chính: Giòng tâm linh Lý Trần. Giòng tình cảm từ Nguyễn Du tới nay.
Có một sự kiện trên thế giới: sau thử thách Mác-xít, nhiều người đã từ chối cực tả để trở về cực hữu.
Ở Việt-Nam cũng có những trường hợp như thế nhưng lại quay về hai nhánh ngách khác nhau, sau khi tôn thờ khoa học Tây Phương, sau thử thách cách mạng và Mác-xít thế hệ đó: một là lui vào vỏ cá nhân vị kỷ tìm lấy tự do trong cô đơn và phủ nhận tất cả; hai là trở về nguồn chấp nhận và muốn phục hưng một thời xưa cũ: áo dài, khăn đóng, đi cày, thắp đèn dầu, tiêu cực khước từ xã hội đương thời. Đó là một sự thật cay đắng. Đó là hậu quả những hành động tùy thuộc tình cảm: Thấy nước nô lệ thì tìm cách giải phóng, thấy cộng-sản ác độc thì chống đối. Không bao giờ hành động trên một căn bản tư tưởng cho nên giải phóng được đất nước chúng ta không giữ được độc lập và trong khi chiến đấu chống cộng-sản, nhìn thấy những nhầm lẫn phi nhân tàn bạo của chủ nghĩa Mác-xít mà chúng ta vẫn chưa có một hệ thống tư tưởng để phủ nhận nó và xây dựng một xã hội mới.
Phảng phất đâu đây tư tưởng tổng hợp manh nha một viễn tượng. Đó là một con đường, đó là con đường độc đạo khó khăn. Ở đó văn hóa nắm vai chủ yếu. Tôi nghĩ một nền văn hóa tiến bộ của thế giới và Việt-Nam phải là một nền văn hóa hướng về viễn tượng đó.
Sự cô đơn của thế hệ chúng tôi mỗi lúc một lớn. Thế hệ tôi đứng ở một ghềnh đá cheo leo, chiếc cầu tre mong manh của hai ba thế hệ trước đã bị chặt đứt, chúng tôi mất chỗ lùi chân lấy đà để vượt qua những khó khăn sừng sững. Sự vinh dự rất lớn mà sự nhục nhã cũng rất lớn. Chúng tôi vừa phải tiến bước vừa phải kiếm tìm khó khăn những giá trị tinh thần cũ làm vốn liếng mà không có người giúp đỡ, đó là trách nhiệm những thế hệ cha chú mình. Cuộc phiêu du của một giai đoạn lịch sử sắp chấm dứt? Nhất-Linh đã nói với chúng ta rất nhiều, và nhiều điều chưa nói…
Nói đến tiền chiến là nói đến lạc hậu, thoái trào, nói đến văn nghệ tiền chiến với bây giờ cũng thế. Nhưng có người đã nói: các anh chê họ thì các anh đã làm gì cho thời hậu chiến của mình chưa? anh kể tôi nghe. Các anh bảo họ là ảnh hưởng Tây Phương, bây giờ các anh ảnh hưởng gì, các anh đã phản ảnh được thực trạng xã hội ngày nay bằng họ ở thời họ không? Trước câu hỏi ấy, chúng ta không trả lời được. Đó là một câu hỏi rất đúng. Đó là điều đặt ra cho người cầm bút ở đây. Chúng ta có một căn bản tư tưởng nào? Tại sao chúng ta chưa nói được những điều của thời đại chúng ta?
Là một nhà văn trẻ tôi vẫn đinh ninh rằng: chúng ta có một nền tư tưởng Việt Nam, giá trị tinh thần ấy do sự kết hợp của nhiều nguồn tư tưởng mang đến trong giòng lịch sử. Hơn một thế kỷ nay nền tư tưởng đó đang được bồi đắp bởi nền tư tưởng Tây Phương. Không thể nói rằng chúng ta không có tư tưởng, không thể nói rằng chúng ta chỉ chịu ảnh hưởng cái này hay cái khác. Đã là tác phẩm của một nhà văn Việt Nam thì ở đó có hơi thở của một tinh thần Việt Nam. Tôi quả quyết điều đó. Văn chương của chúng ta hiện tại chưa hay không phản ảnh được thời đại chúng ta lỗi đó không riêng cho nhà văn, tôi không có ý muốn bào chữa giảm khinh cho trách nhiệm của họ. Tại sao? Tôi mong mọi người dành một chút suy nghĩ về những khía cạnh của nguyên do đó. Trước khi kết tội nhà văn.
13-7
Sáng đi cùng anh T. lên Grall đưa đám N.L. Khi trên xe trở về một người đàn bà nói: Thấy buồn về cái chết của anh Tam chẳng đi tới đâu. Người ta hèn quá. Mọi người đã im lặng. Im lặng vì thấy rằng bà ta có lý: đại diện của cái hội văn hóa mà N.L. sáng lập, làm chủ tịch rồi làm cố vấn chỉ ấp úng mấy câu ai điếu vào phút chót, sau nhà chính trị chiến hữu của N.L., sau nhà văn trẻ N.T. đã nói nghẹn ngào như muốn khóc lên tất cả nỗi nhục của người cầm bút bị tước đoạt tự do.
16-7
Lên nhà in, nói chuyện với S.G. về không khí khó thở như một bình hơi đã đầy, nói đến sức mạnh của Một vầng mặt trời cần thiết cho đời sống mọi người, mây mù vẫn phủ, trên nền khói nhân tạo những mặt trời giả được phóng ra nhoè nhoẹt, nhem nhuốc… mình trôi lờ đờ. Chiều gặp một người bạn: sao đã nói tự do thì phải để cho tôi tự do chứ, phải để cho tôi ghi lại những cái gì đang có đây chứ nếu không 10 hay 20 năm nữa người ta sẽ cho chúng tôi là hạng người nào? nếu không thì hãy câm hết đi. Ngoài đường, ngoài chợ kia những gì đang được nói đến sao bắt người cầm bút không được viết.
Đọc thư của N.N. một lá thư dài, bây giờ cảm thấy phải làm một cái gì đó. Mình xúc động về lời trong thư. Mình vẫn nghĩ rằng mỗi người hiện nay đang có những khó khăn về sứ mệnh mà nó phải thực hiện, nó không thể đừng được trong cuộc thử thách, nếu nó không ý thức được điều đó nó sẽ bị phá hủy. Đọc phần cuối của cuốn Tiểu thuyết hiện đại, T.T. viết về NỔI LOẠN, và cho rằng: những Sartre, Camus… nổi loạn ở Tây Phương là hợp lý, còn ở V.N. thì có gì mà cũng nổi loạn. Quả thực như vậy sao? Quả thực trong hiện đại lịch sử của xứ mình không có đối tượng gì để cho nhà văn mình phải nổi loạn nữa sao? Người ta chết ngoài mặt trận để làm gì? Tại sao phải tự thiêu? Tại sao N.L. phải tự tử?
17-7
Sáng nay lúc 9 giờ khi đi xe từ Chợ Lớn về đến Ngã Sáu thì bị kẹt. Dọc đường Lê Văn Duyệt từng đoàn các vị sư tất tả chạy lên phía chợ Bến Thành. Cảnh sát ngăn không nổi. Mình nhảy xuống xe chạy theo. Tới cửa chợ toán sư bị ngăn lại ngồi tụ vào một chỗ và cảnh sát giữ tay nhau vây chặt lại làm thành một vòng tròn. Cảnh sát xô kéo bắt từng người vứt lên xe, có người chui đầu vào bánh xe ngăn không cho chạy, có người bị đánh chảy máu đầu. Rất lâu sau cảnh sát bắt hết đoàn sư lên xe rú còi chạy về đường Trần Hưng Đạo. Số phận họ?
19-7
Nói chuyện rất lâu với anh T. về hiện tình lịch sử, hiện tình xã hội và đều đồng ý rằng đây là hiện tình nhiều bi đát. Không thể nào có cách mạng được. Vấn đề Phật giáo đặt ra một hiện tình, đánh thức lương tâm, soi sáng sự bi đát. Quần chúng ít ý thức ngay giới trí thức, thanh niên cũng lụn bại, họ du nhập nhầm lẫn những tư tưởng Tây phương. Thiếu hẳn một ý thức với chính ngay cuộc sống thực tế. Thanh niên đã hèn đi nhiều vì trong chín năm qua đã bị hoàn cảnh thái bình và sung túc giả tạo đầu độc, làm nhu nhược, làm hèn, không có lý tưởng, buông trôi… nhắc đến trường hợp Đại Hàn dân quốc… Mình nghĩ thời đại này là thời đại NGỜ VỰC. Xét lại chính rằng: cũng hèn. Đã làm được gì? viết được gì? có ý thức nhưng lúng túng không biết làm thế nào. Tương lai sẽ đen tối hàng 10 hay 20 năm nữa khởi từ lúc ngọn lửa được đốt lên…
7-8
Tính sổ, mình không ngạc nhiên vì sao báo không có người đọc. Vì người viết bị tước đoạt tự do, người đọc không đọc vì không có gì can dự đến họ. Mình bàn dẹp bỏ tờ báo, người viết không viết được ra những điều hắn muốn viết, mà viết những điều đâu đâu thì thành ra lố bịch và trong hiện tình này thì là một trò hề. Sao không được nói ra: mất tự do? sao không gác bút?
Trên ván bài không còn một cây tẩy nữa? Những thay đổi đến từ bên ngoài, không từ bên trong. Mọi người ở tình trạng thụ động không có hành động, chủ động: Hèn!
Gặp Y. Tại sao chưa XUỐNG PHỐ? Sao lại đòi Phật tử xuống phố. Đáng ra bây giờ mình phải xuống phố chứ? Phải chăng đã khôn quá, ngoan quá, cẩn thận quá, không còn cái liều? Tôi muốn kiếm tìm một ngọn cờ… Thất nghiệp, đói nghèo… T. cho một bài thơ đánh máy. Mình ở thế hệ bị hy sinh, biến động này có hai điều trông thấy rõ ràng: Phật giáo sẽ phát triển, chúng ta thấy sự mất gốc của chúng ta. Gây một ý thức cho thanh niên.
Người Tây phương không thể hiểu được về một người ngồi như tượng và lửa đỏ bốc cháy…
17-8
Tân Xuân Thu, không có lãnh tụ… Tại sao? Dân bất lực cư, sĩ vô định chí? Bây giờ là Tân Xuân Thu? Bao nhiêu ngọn lửa sẽ được đốt lên nữa?…
21-8
Sáng thức dậy nghe ra-dô tuyên bố tình trạng giới nghiêm. Việc phải đến đã đến. Mình hoang mang, mọi người hoang mang về số phận các nhà sư và số phận chính họ…
23-8
Sinh viên bãi khóa. Dân chúng lo âu, bỏ làm ăn. Biến cố này sẽ mang nhiều ảnh hưởng về tinh thần. Thiên chúa giáo ở Đông phương sẽ gặp sự thờ ơ của dân chúng và người Đông Phương sẽ tự ý phục hưng các giá trị tinh thần của họ theo với những kiến thức mới. Xã hội sẽ thêm phân tán, ảnh hưởng tinh thần Tây phương sẽ bị giảm sút.
Tất cả các trường học đã đóng cửa. Nói về thái độ của một người trí thức trong chính quyền vừa từ chức. Mình cho là một hành động xu thời… 8, 9 năm nay làm gì? Bây giờ bỏ trách nhiệm cho ai để làm anh hùng?…
25-8
Súng đã nổ ở cửa Chợ Bến Thành, có sinh viên đã chết. Ngọn lửa đã lan rộng từ giới Phật tử sang giới sinh viên, học sinh… mối lo âu khắc khoải trên khắp các bộ mặt. Bao nhiêu người đã bị bắt. Giam vào đâu cho hết.
4-10
Sau những T., Q., N…. ai sẽ bị bắt nữa… muốn quên, muốn quên.
Anh Giao,
Anh hỏi tôi trong thời gian xảy ra vụ Phật giáo tôi có viết được gì không? Không, tôi chẳng viết được gì suốt trong thời gian ấy, và tôi cũng không làm được gì cả. Giai đoạn ấy mang đến cho tôi một số vấn đề phải suy nghĩ, nhất là những vấn đề buộc người viết văn phải biết đến, ở hoàn cảnh một đất nước Việt Nam như hiện nay. Có nhiều vấn đề vẫn còn nguyên vẹn. Một chế độ đã bị thay thế nhưng xã hội chúng ta có thay đổi gì không, cuộc sống có tươi sáng hơn không? Chúng ta phải làm gì? Chép lại nơi đây những mảnh vụn của một thời gian để anh tuỳ nghi sử dụng, tôi chỉ có ý muốn gợi một số thắc mắc, băn khoăn, lo âu của mình với những người trẻ đồng lứa. Bởi vì tôi và họ còn phải sống…
Dương Nghiễm Mậu
(trích tạp chí Văn số 10 ra ngày 15 tháng 5 năm 1964: Văn Hóa Phật Giáo)$pageOut$pageIn
Bài bút ký thứ nhì
[nguồn by Trần Hoài Thư]
NHỮNG VÙNG ĐẤT VÀ NGÀY THÁNG RỜI
Cây số 17 tối 29-4-68: Bốn giờ chiều đường dây từ Huế gọi ra: trở về gấp. Anh Hạnh kêu chiếc xe đổ thêm xăng, coi lại máy rồi tiễn tôi ra khỏi La Vang. Người tài xế nói với tôi: anh giữ chắc súng nghe, tôi phóng đó, hồi này cũng khá rồi. Quốc lộ mở rộng, những ngọn đồi cỏ thấp phía tây, xa những ngọn núi giấu đỉnh trong mây. Mé biển những lượn đất cát trắng khô khan, thỉnh thoảng mấy ngọn dương xơ xác… Cây số 27, Lê Hằng Minh của Trâu Điên đã chết, cột cây số bị bắn nát. Tới Huế trời đã hơi tối. Người bạn trong bộ tư lệnh nói: xe chở anh ra cây số 17, họ đợi anh ngoài đó, có lẽ sớm mai, phải ra đó ngay… Không kịp làm gì ngoài việc đổi xe trở lại cây số 17, người tài xế già lo ngại khi cho xe quay lại thị trấn, tôi trấn an: chết có số.
Khung cảnh trơ trụi, một bồn nước cao giữa những ngọn cây khô, hàng kẽm gai dày cỏ bị đốt cháy nhem nhuốc. Người tôi trở thành một chiếc xe vận tải: máy móc, mũ sắt, áo giáp, chiếc áo khoác trở thành chiếc va-ly với đầy đủ những vật dụng, từ viên thuốc đau bụng tới que tăm, bàn chải và thuốc đánh răng. Gặp Khải, gặp Đính… Bính nói: ngủ hầm hay ngủ trên, pháo kích ghê lắm. Bính chỉ ra những bức tường đổ, những hầm hố chung quanh. Tôi nói: ngủ ở trên, pháo kích chạy. Yên chí có chỗ nằm, liên lạc để sớm mai nhảy xong mình đi ra ngoài, vòng qua những hậu cứ, ra quán bên quốc lộ kêu một chai bia. Mấy người lính mua theo những thứ cần thiết. Không thể thiếu đế, trong đó mưa và lạnh lắm. Buổi chiều bỗng nhiên có lúc sáng rực với nắng quái, con đường bụi và mấy chiếc xe chạy hết tốc lực thi đua với thời gian… Chợt nhớ nhà… Anh Đính nằm trên chiếc võng treo vào hai thân cây ổi nhỏ, chiếc máy truyền tin ở bên, anh hút từng hơi thuốc ngắn kể lại cho tôi nghe ngày dẫn tiểu đoàn vào Ngọ Môn… anh nói: mai vào trong chắc đụng lớn. Anh cười.
Khoảng nửa đêm trời đổ mưa, tôi thức dậy nghe tiếng động của im lặng. Người lính đều đã ngủ và những chiếc ba-lô đã gọn gàng. Trong rừng núi thâm u của Trường Sơn kia những ai đang thức?…
Tà Bạc 30-5-1968. Năm giờ sáng tiếng còi réo tập họp. Tôi nhớ tới những sớm tinh mơ trong quân trường ngày nào. Dế kêu, cả lũ thức dậy nhanh nhẹn thu xếp, tập họp… Đã hai năm. Những người lính trở dậy, đeo ba-lô lên vai thầm thì trở ra bãi đáp, chỉ có những tiếng ho, những tiếng nói nhỏ, tiếng bùn lép nhép dưới đế giầy, những đốm lửa trên đầu điếu thuốc lập lòe trong đêm tối. Từng người nối đuôi nhau, những chiếc mũ sắt, áo mưa phủ kín, đoàn người như một dòng những khối bóng tối di động. Quân đưa cho tôi chiếc lon nhỏ với chút cà phê bột nóng bỏng: như vậy là hiếm lắm đó, vào trong đó còn nhỏ rãi ra nữa… Con đường nhỏ đầy những vũng nước của trận mưa đêm qua. Băng qua những thửa ruộng còn chân rạ chúng tôi tới bãi đáp là một triền đồi thấp có cỏ. Quân nói: mình nhảy Tà Bạc, Lương, Bình ở trong đó từ chiều hôm qua, chuyến này đi e lâu mới về. Từng đơn vị nhỏ tập họp nơi hai bên sườn đồi cách xa nhau. Người đứng ngồi lóng ngóng, những bóng người di động không rõ nét, những người đứng xa nhau hai thước không rõ mặt. Từng nhóm người tụ lại, từng cơn gió lạnh buốt ẩm nước. 9 giờ một đoàn trực thăng xuất hiện và thấp dần đổ xuống ở giữa ngọn đồi. Đếm được 30 cái. Từng tiểu đội nhanh nhẹn lên trực thăng. Thời gian chờ đợi kéo dài. Mây vẫn chưa tan trên những đỉnh núi phải vượt qua trước khi vào thung lũng. Những chiếc trực thăng nằm im với những cánh quạt rũ như những con chuồn chuồn gặp nước. Khi đọt nắng đầu tiên chiếu xuống những lá cỏ long lanh nước thì những chiếc cánh quạt bắt đầu quay nhanh. Trong giây phút cả đoàn trực thăng nhấc mình lên khỏi mặt đất, tôi bám chặt tay vào chiếc dây nơi ghế ngồi. Chúng tôi lên cao, lên cao mãi. Những ngọn đồi thấp, những ngọn núi không cây, màu cỏ thay đổi từng vùng. Gió lạnh thốc trong lòng máy bay. Trực thăng lên cao mãi, có những khoảng mây đục thấp, đoàn trực thăng nối đuôi nhau theo những khoảng trời xanh, len giữa những đám mây, len giữa những ngọn núi đồi trùng điệp… Cho tới khi máy bay bắt đầu xuống thấp, tôi nhận thấy phía trước mặt một thung lũng, hai chiếc trực thăng võ trang đang nhả đạn, đường bay nhanh và những chao lượn ngoạn mục. Thung lũng có một chiều ngang khá rộng, kéo dài về phía nam, mấy ngọn đồi thấp trơ vơ mấy ngọn cây khô. Mầu đất phơi đỏ ở dưới, từng hố bom nối tiếp với nhau chạy dài ngút mắt, đất nứt làm cho những hố bom sâu có hình thù của những chiếc lá sen già đã tàn, những chiếc lá sen khổng lồ, đó là dấu tích của những trận mưa bom hồi đầu mùa xuân trước khi những trận mưa lớn đổ xuống… Từng chiếc đáp xuống nhanh nhẹn, từng người lính nhảy vội tóe sang hai bên, trực thăng bốc lên nhanh…
Tà Bạc, trung tâm của Ashau, phía Bắc là A Lưới giáp ranh với Quảng Trị, phía cực nam là Ashau thông vào Quảng Nam có con đường vào vùng công trường 6, tức Khe Tre. Từ Tà Bạc có con đường 547 qua Ba Hi Vũng Chậu để tới Huế, con đường mòn ấy trong những năm yên bình cũ đã đưa nhiều người vào trong Tà Bạc trong ý định thiết lập một vùng định cư mới, nhưng nay đã không có dấu vết gì về những cố gắng của một thời. Trên con đường 547 hiện có một đơn vị Mũ Đỏ hành quân. Trời bắt đầu đổ mưa nhỏ hạt, số quân còn lại không thể đổ tiếp. Anh Đính cố gắng bắt liên lạc với một tiểu đoàn ở hướng Nam. Chúng tôi rẽ cỏ làm đường, những ngọn cỏ lau sắc như dao cao hơn đầu người. Một người lính đi trước đập tay lên cổ vuốt xuống một con vắt, máu đầy trong lòng tay, anh ta nhăn mặt chùi tay vào một nắm lá cỏ. Tất cả chúng tôi được báo động coi chừng những con vắt nhỏ như sợi chỉ, màu xanh, nhảy tanh tách từ những lá cỏ bám vào cổ, vào tay, những người lính vội tụt tay áo, kéo cao cổ áo… Những thân cỏ lau ngã xuống, những bước chân đạp lên tạo thành một con đường mới, con đường đưa chúng tôi lên ngọn đồi lớn nhất nằm trong thung lũng. Lên tới lưng chừng đồi thì tôi gặp anh Lương đang đứng bên một chiếc hầm đang được đào dở. Từ Mậu Thân bây giờ chúng tôi mới gặp lại nhau. Trực thăng đang thả trọng pháo xuống, những người lính pháo binh vội vã thiết trí và ngay sau đó đã hướng về phía nam, hướng lên những ngọn núi phía tây nhả đạn. Anh Lương liên lạc với Mẫn ở một ngọn đồi phía Nam báo tin tôi đã xuống. Niệm đang dẫn đại đội vào những sườn núi thăm dò. Ngọn đồi đang bị tràn ngập những người lính. Những ngọn cỏ cao đang được đạp nằm xuống, thật nhanh chóng những chiếc hầm đã hoàn thành và những ngọn khói xanh đã un lên: những người lính nhặt củi đốt lửa nấu cơm trong khi chờ đợi… Cho tới giữa trưa, tất cả đơn vị của Trung đoàn 3 đã xuống hết thung lũng. Tiếng trọng pháo nổ đều đều…
Ăn một miếng cơm đựng trong chiếc hộp sắt. Người thượng sĩ già cầm chiếc bi-đông đưa về phía tôi, miệng hơi mỉm cười: uống miếng nước anh. Tôi nói cám ơn và cầm lấy bi-đông đưa lên uống. Tôi suýt bị sặc vì ngụm rượu đầy, tôi mỉm cười không nói, rượu đế có mùi vỏ quýt thơm nồng. Đây đó những người lính chụm lại với nhau ăn cho qua bữa, có người mở ra những thức ăn mang sẵn, có người nướng cá khô, có người bẻ lấy mấy tàu bắp cải bỏ ra ăn sống. Theo chân những đơn vị bộ binh bao giờ tôi cũng thấy hiện ra những gian khổ. Những gian khổ không phải chỉ trong những bữa ăn, nó hiện ra nơi những bộ quần áo sứt chỉ, đôi giày vẹt đế, dáng vẻ nhẫn nhục, họ thường có mặt trong những vùng đất có giới hạn, họ bám giữ lấy đất trong những điều kiện khó khăn và phương tiện tiếp trợ ít oi, khác hẳn với những người lính ở đơn vị tổng trừ bị… Họ đi hành quân mang theo gạo, rau, nước mắm, tàu vị yểu… họ không thích hợp với đồ hộp. Họ cần gạo hơn là bánh khô…
Tới quá trưa tôi theo một tiểu đội đi về những sườn núi phía tây, Niệm báo về khám phá được những hầm của địch. Con đường mòn nhỏ có nhiều hố bom, chúng tôi thấy những ổ súng phòng không của địch bỏ lại, chúng tôi gặp những mảnh vỡ của xe vận tải bị phá. Lách qua những quãng đường mòn, qua những lùm cây, chúng tôi lọt vào trong một khu rừng rậm, không có chút ánh sáng nào, chừng như lá ở trên đầu chúng tôi có nhiều lớp khác nhau, thỉnh thoảng một vùng ánh sáng hiện ra, nơi đó là những hố bom đào sâu dưới đất và những ngọn cây phía trên đã bị đốt cháy. Qua một con suối nhỏ chúng tôi tới một sườn núi, ở đây có những ngọn cây cao và gốc lớn, dưới đất không có cỏ, chỉ có lá khô nhiều lớp và những khoảng đất nhẵn, đây là nơi cộng quân đào nhiều hầm kiên cố bám vào sườn núi. Những căn hầm ngang cỡ nhau bỏ trống, mỗi chiều khoảng ba thước, ở dưới làm một lớp sàn bằng cây nhỏ cách đất khoảng ba mươi phân, trên hầm can những thân cây từng lớp xen với những lớp đất dày đến ba thước và trên cùng lợp cỏ tranh. Không thấy có hầm nào trúng bom. Chúng tôi dừng lại lâu ở một cái hầm lớn mà chúng tôi cho là của một người chỉ huy, phía trên, nơi gần miệng hầm là một khoảng đất bằng phẳng, có một cái bàn nhỏ, hoàn toàn được làm bằng những cành cây nhỏ, bốn chân đóng xuống đất, trên là những cành cây được cột lại với nhau bằng mây, những băng ghế dài bao quanh và tản mát cũng được làm như thế. Quân nói: chỗ này mà ngồi đánh cờ thì tuyệt. Sau đó Quân rủ tôi đi sâu vào trong, vừa đi Quân vừa ngước nhìn lên những ngọn cây, Quân nói: tôi mới phát giác ra, ở trong này có lan… Khi tới một ngọn cây cao, Quân ngừng lại và bỏ giày trèo lên, Quân mang xuống một cụm lan lớn, một chùm lan trắng muốt rũ dài, Quân nâng niu hài lòng. Trở lại chỗ đóng quân, Quân treo cụm lan nơi đầu lều vải.
Buổi chiều xuống thật nhanh, mây đục xuống vây kín thung lũng như một cái vung, những ngọn núi chung quanh khuất kín ngọn trong mây mù. Cơn mưa lớn đổ xuống khi trời bắt đầu tối, nước đổ như thác, lều chúng tôi ở sườn đồi, nước đục ngầu từ trên chảy ào ào. Chúng tôi cuốn mình trong những áo mưa ngồi dựa lưng vào nhau, nước ngập vào những chiếc hầm, chảy dưới lớp cỏ còn tươi. Chúng tôi tằn tiện với những mẩu thuốc được đốt lên. Mưa đổ xuống khoảng hơn một giờ thì tạnh, Quân cố gắng gây chút lửa đun nước trong chiếc ống bơ, chiếc bếp bằng đèn cầy là một sáng kiến lạ mắt đối với tôi. Nước sôi, Quân mở những gói cà phê bột thả vào chiếc lon. Tôi hỏi: kiếm đâu ra vậy. Quân cười hắc hắc: bọn nó mới xuống dưới kia kiếm được một mớ, đồ thả dù từ hồi trước bị mắc trên cây. Trong mưa lạnh chúng tôi chuyền nhau lon cà phê chua và chát xen vào những khói thuốc… Mưa kéo dài suốt đêm, chúng tôi ngồi bó gối dựa lưng vào nhau.
Tà Bạc ngày 2-5-68. Những cánh quân đi sâu xuống phía nam, những đụng độ nhỏ, nhiều hầm vũ khí…
Tà Bạc đêm 4-5-68. Những ngày ngắn và những đêm mưa dài, mặt trận yên tĩnh. Quân có thêm mấy cụm lan. Mình nhớ nhà. Không có hy vọng một trận lớn. Trong lúc sửa soạn đi ngủ, Quân kêu lên: xong rồi. Tôi ngạc nhiên, Quân vẫn ôm lấy chiếc máy thu thanh nhỏ úp lên tai, chiếc máy gần hết pin nghe nhỏ. Lúc sau Quân hơi phác một nụ cười: xong rồi, tin cho biết Mỹ và Bắc Việt hẹn gặp nhau ở Ba Lê vào ngày 10-5. Xong rồi, xong rồi… Một anh lính ngồi bên: liệu có hòa bình không?
Tôi thấy phải trở về gấp.
Huế 5-5-68. Trực thăng đã đưa tôi trở lại cây số 17. Bùi ngùi chia tay những người bạn. Huế kinh hoàng những cuộc pháo kích. Đêm qua nhiều hỏa tiễn 120 rơi xuống Mang Cá, khu An Hòa… Tin tức dồn dập từ Sàigòn. Lưu Kim Cương đã chết. Tướng Loan bị thương nặng. Đàm Quang Quý chết. Các chuyến bay bị hủy. Làm sao về. Ở Sàigòn giới nghiêm 7 giờ tối.
Huế 7-5-68. Sáng vào sư đoàn gặp tướng Trưởng. Một người có nét mặt khắc khổ, rất thận trọng. Ông hỏi tình hình. Tôi nói: lính cần gạo, ăn đồ hộp Mỹ lính đi kiết chịu không được. Ông là người ở trên trời gần hết thời gian của một ngày. Chỗ nào ông cũng có mặt. Một người lính kể: tôi lái xe ra Quảng Trị, lúc bấy giờ quốc lộ còn nhiều mìn, xe đang chạy tôi bỗng nghe nổ lớn phía sau xe, ngừng xe lại coi tôi biết một trái mìn đã nổ sau khi xe tôi vượt qua. Sao lại có sự may mắn đó. Tôi nghĩ mãi mới nhớ, buổi sáng trước khi lên đường chúng tôi đã thấy tướng Trưởng cười. Câu chuyện này tôi đã nghe nói tới nhiều lần, thực giả không rõ nhưng có điều chừng như biểu lộ một cá tính của tướng Trưởng qua cái nhìn của người lính. Tướng Trưởng không vắng mặt trong mọi trận đánh, buổi sáng vừa thức dậy tôi đã thấy ông ở La Vang. Buổi trưa sau cuộc hành quân khai diễn được ba tiếng ông đáp xuống ngay bộ chỉ huy nhẹ ở Gia Đẳng, Trung đoàn 3 xuống Tà Bạc không đầy ba tiếng ông đã đứng trên đồi cao… ông xuất thân từ nhảy dù, con rể một nhà văn tiền chiến: Thạch Lam… 17 giờ, chuyến trực thăng độc nhất có được ở Huế đưa tôi vào Đà Nẵng.
Sàigòn ngày 8-5-68. Chuyến bay quân sự hiếm hoi đưa tôi trở lại Sàigòn. Đà Nẵng trong đêm bị pháo kích. Máy bay trở lại lượn trên Sàigòn với những vòng lửa và khói ở gần sân bay. Đợt tổng tấn công mới đã khởi đầu.
Sàigòn ngày 11-6-68. 6 giờ sáng hàng loạt hỏa tiễn rơi xuống Sàigòn. Nhiều nhà cửa bị sập ở khu Gia Long. Nhiều người chết… Mai đi Cà Mâu… Chuyến đi không mấy yên tâm…
Cà Mâu 12-6-68. Chiếc phi cơ nhỏ đáp xuống một sân bay hẹp nằm giữa đồng lúa xanh. Con đường nhỏ vào thị trấn, những dấu tích tàn phá trong Tết vẫn còn nguyên vẹn. Không nơi nào thiếu vắng những dấu tích của cuộc chiến… Con đường ven sông, tôm khô phơi đầy một màu đỏ óng. Miền Nam của cá và tôm… Gặp Nhân hẹn mai đi Hòa Thành.
Cà Mâu 13-6-68. Nhân dẫn đi ăn sáng, hẹn chiều về ăn canh chua lươn của bà Sáu Mập. Ai tới Cà Mâu phải biết tới điều đó. Xuống thuyền đi Hòa Thành. Dòng sông nước đục. Chiếc ghe máy chạy nhanh. Một người đứng bên bờ sông tay trái vẫy. Thằng nhỏ hỏi: ghé được không thầy Hai. Nhân nói được, nhưng mé bên này thì không. Tôi hỏi sao vậy. Nhân nói: bên này mấy bố du kích ra hoài. Gần trưa chúng tôi tới Hòa Thành. Một ấp lớn…
Suốt từ ngoài đầu ấp suốt dọc con đường tôi không nhìn thấy một điều nào cho thấy rằng ở đây – trên một khoảnh đất nhỏ của quê hương – có chiến tranh, nhưng sự thật cũng không lâu những anh em du kích vẫn lẻn về phá rối đời sống dân chúng. Nhưng không vì thế mà họ khiến cho dân chúng không sống được. Dân chúng vẫn cầm súng và cầm cày. Mãi cho tới khi tới cuối ấp Tân Phong tôi mới nhận thấy những hàng rào kẽm gai và những chướng ngại vật chung quanh ngôi giáo đường, lúc bấy giờ những học sinh của ấp đang tập hát theo với mấy cô giáo, gác chuông làm bằng cây, phía trên lợp tôn mới trông như một vọng gác, trên đó cũng gắn những máy phóng thanh… Tôi đặc biệt chú ý tới vòng đất bao quanh một khẩu súng, mới nhìn tôi nghĩ là súng cối 82 ly, nhưng nhìn lại tôi thấy nó hết sức đơn sơ. Chừng như đoán được ý tôi, Nhân bước vào trong vòng đất, nhấc cái nắp đậy miệng súng ra nói:
– Đây là một khẩu súng cối nội hóa.
– Người mình làm lấy được?
– Của một ông thợ rèn, súng mình làm nhưng bắn bằng đạn Mỹ.
– Bắn được?
– Sao lại không, bắn nhiều rồi là khác…
Tôi cũng bước vào trong, tôi nhận thấy ống sắt được ráp lại bằng nhiều đoạn ngắn, vết hàn còn hằn rõ, súng không có máy nhắm, nhưng cũng có trục quay sang ngang, và lên cao xuống thấp được, bàn là một miếng sắt rộng mỗi chiều khoảng 20 phân, nòng súng được chống xuống đất bằng ba cẳng sắt, bên cạnh đó còn có một cái bùi nhùi dùng thông nòng súng, lúc mở miệng ra xem tôi thấy nòng súng đã rỉ sét, tôi nói:
– Lâu nay không bắn nữa sao?
Một anh dân vệ đứng bên nói:
– Lâu rồi không dùng đến, nhất nữa người bắn chuyên môn hôm nay cũng không còn ở trong ấp…
– Thế còn ông thợ rèn?
– Ông ấy chết lâu rồi…
– Không có máy nhắm thế này rồi làm sao?
Nhân cười, những người đứng chung quanh tôi lúc đó cũng cười:
– Không có máy nhắm, vô phúc bắn nó nổ ngay khi ra khỏi nòng thì làm sao? hoặc tới chỗ không phải là mục tiêu… Nguy hiểm quá.
– Có người đã bắn rồi, bắn nhiều rồi, bắn theo kinh nghiệm, vậy mà hay lắm đó. Nếu không bắn được thì để đây làm gì… Ở đây có hai khẩu chứ không phải một.
Tôi theo người dân vệ đi ra đằng sau, ở đó cũng có một khẩu như vậy nữa.
– Vậy cái người làm cũng tài lắm đâu phải vừa gì, vậy ông ta còn làm được những khẩu nào khác không?
– Nghe nói có một khẩu để đâu trên quận, và ông ta còn làm thử một khẩu 105 ly nữa nhưng khi bắn thử thì đạn nổ trong nòng, chính lần thử này khiến ông ta thiệt mạng.
– Vậy ông ta là người thế nào?
– Bọn tôi ở đây không ai biết rõ về ông hết, những người già thì biết, ông ta chết đã lâu chỉ nghe nói lại. Sau này chỉ có một người bắn được hai khẩu này, rồi về sau chưa ai dám thử bắn hết, nhưng cũng không có dịp để dùng đến nữa… Bọn tôi định hôm nào lau chùi rồi bắn thử xem sao…
Tôi nghĩ tới một người thợ rèn vô danh, một người nào đó có lẽ chúng ta đã gặp, người ấy đã cặm cụi với những khẩu sắt lớn nhỏ kỳ cục bên cái lò lửa của mình và hoàn thành một khẩu súng bằng chính những sáng kiến của mình… Rồi một hôm chết đi mang theo những điều mình đã có, không để lại dấu vết nào… Tôi nghĩ khẩu súng trong cánh đồng lầy này tự nó biểu trưng cho một sắc thái, tự nó nói lên một sức sống và niềm bí ẩn nào đó. Sức sống và niềm bí ẩn vẫn thường có mặt trong khắp xứ sở này…
Đức Hòa 28-6-1968. Vị sĩ quan giới thiệu qua về trái hỏa tiễn 120 ly vừa bắt được. Nó được đưa từ vùng mật khu Ba Thu tới đây để bắn vào Sàigòn, đây là những trái hỏa tiễn đầu tiên tịch thu được. Tôi nghĩ tới hành trình của nó từ Liên Sô…
Nha Trang 6-7-1968. Chuyến bay đi Pleiku ngừng lại ở đây. Biển xanh ơi, nhớ năm học cũ. Những người bạn thân thiết. Đi lại trên những con đường xưa…
Pleiku 13-8-1968. Chuyến bay đưa tôi tới Cao Nguyên lần thứ nhất. Đường lầy bùn, những cơn mưa lạnh. Thị trấn dơ bẩn với sinh hoạt thời chiến. Tôi nhớ tới ông tướng đã thành lập nơi giải trí cho lính: Trung tâm khang lạc, một thứ nhà điếm công khai dành cho lính. Bây giờ nó không còn, nhưng bây giờ nó có hình thức mới: con đường Hoàng Diệu và lính Mỹ. Những con lốc lầy bùn đỏ, lính Mỹ với súng đeo vai xuất hiện từ 11 giờ tới 4 giờ chiều…
Tuấn cho một chiếc áo khoác. Hoàng cho chiếc áo giáp còn mới. Tôi nói đùa: mong cho mau không phải dùng tới những thứ này. Những ly đế trong buổi chiều nơi quán nhậu. Tuấn cười khật khưỡng. Thuyên bình lặng. Hoàng huyên thuyên. Chúng tôi nói tới ngày hòa bình. Chợt tôi nói: ngày hòa bình nào.
Pleiku 14-8-1968. Buổi sáng sớm Nho đến, xe đợi ngoài đường, chúng tôi dời thị trấn lên quốc lộ 14, nơi buổi chiều qua vừa có cuộc giao tranh.
Nho móc trong túi ra cho tôi coi chiếc huy chương, trên một miếng đồng tròn có khắc hai chữ Cách Mạng, đó là một trong những chiếc gắn trên những xác chết nơi quốc lộ 14 nối liền Pleiku với Kontum. Nho kể lại trận đánh vào buổi chiều Chủ Nhật cho tôi nghe, khi một đoàn xe tiếp tế dời Pleiku đi Kontum khi tới gần ngã ba Dakdoa, cách Pleiku 13 cây số thì bộ đội Cộng sản từ hai bên tấn công, trước nhất là những trái đạn 75, 60 rồi từng đoàn người dời khỏi sườn núi và rừng cây xông ra. Ngay khi nghe thấy tiếng súng nổ, đơn vị thiết vận xa bảo vệ quốc lộ từ hai đầu kéo xuống vừa đủ thuận lợi để chống những bộ đội cảm tử từ trong bìa rừng vượt ra tới khoảng đất trống cách đường nhựa khoảng một trăm thước, cuộc giao tranh diễn ra không đầy nửa tiếng, đoàn xe và những thiết vận xa hoàn toàn vô sự, địch bỏ lại trên 30 xác chết. Trong những xác chết đó có kẻ ra đã được gắn huy chương cách mạng. Bầu trời buổi sáng ngày thứ hai có một lúc không mưa, trời quang, dù vậy vẫn còn nguyên bầu không khí rét mướt của rừng. Tôi lên xe theo Nho tới thăm nơi xẩy ra cuộc chiến ngày hôm trước. Trên đường chúng tôi ghé thăm căn cứ của đoàn thiết vận xa có nhiệm vụ bảo vệ quốc lộ. Thiếu tá D. cho chúng tôi thấy những vũ khí đã tịch thu được vào buổi chiều hôm trước. Trên một khẩu B40 máu còn đọng lại trên thân gỗ… Thiếu tá D. cho tôi biết tinh thần của những bộ đội miền Bắc, nhiều cuộc tấn công đã diễn ra trên quốc lộ 14 khiến cho con đường này có lúc rất nguy hiểm, ở xa tới người ta e ngại khi phải vượt qua, nhất là khoảng ngã ba Dakdoa, cũng như khoảng đường 19 gần nơi Suối Đôi, hai địa điểm này dù ở trên hai quốc lộ khác nhau nhưng chung một khoảng rừng mà trong nhiều năm cộng quân vẫn trú ẩn. Cộng quân khống chế một thời gian dài trên quốc lộ 14 nhưng nay thì điều đó đã không còn nữa. Quốc lộ đã được mở rộng và trải nhựa như một xa lộ dù công tác chưa hoàn thành hết. Thiếu tá D. nói với tôi: bộ đội miền Bắc tấn công trên quốc lộ mục tiêu chính được nhắm tới là cướp lương thực, các tù binh và hồi chánh đã nói điều này, họ thiếu lương thực, điều ấy đã được kiểm chứng bởi những cuộc tấn công nhắm vào các đoàn xe tiếp tế. Vị chỉ huy thiết vận xa có một vẻ cởi mở và đầy tin tưởng, ông còn cho tôi được thấy một sáng kiến của anh em thiết vận xa trong việc làm một màng lưới sắt che chở cho thiết vận xa chống lại B40, một võ khí lợi hại đối với xe bọc sắt.
Quốc lộ 14 mở ra trước mặt, những con dốc dựng đứng, lớp bùn đỏ dày trên mặt nhựa khiến cho những bánh xe gần như vượt ra ngoài ý muốn của người cầm lái, đoàn xe nối đuôi nhau nhẹ nhàng, chậm chạp di chuyển.
Bây giờ thì chúng tôi đang ở trên một con đường hai bên không một bóng nhà: khoảng đất trống những cây thấp, rồi rừng cây rậm kéo mãi cho tới chân núi phía xa, trong đó những con mắt thù hận chờ đợi. Quốc lộ thực sự chưa được hoàn tất, nhựa chỉ mới được trải một nửa bên đường, bên kia còn lại đất và đá. Những đường vòng nguy hiểm, những chiếc xe nhà binh Mỹ phóng hết tốc lực… Một xác chết, hai, ba, bốn… những xác chết nằm ngay nơi mép đường nhựa. Chúng tôi ngừng lại giữa đường, những xác chết nằm rải rác cô quạnh, một vài chiếc xe ngang qua chạy chậm lại, có những chiếc máy ảnh được đưa ra, bên những xác chết đã trương, mặt tái nhợt, quần áo rách tôi thấy rải rác những vỏ đạn. Chiều hôm qua cuộc giao tranh đã diễn ra ở đó. Bây giờ thì còn lại những xác chết, những vỏ đạn, những vết bánh sắt chằng chịt trong khoảng đất trống… Với một địa thế thật trống trải, với khoảng cách khá xa từ lề đường tới ven bìa rừng, tôi thấy quả những người cộng sản đã liều lĩnh để vượt ra phơi mình trên khoảng cách đó… Ngã ba Dakdoa, anh bạn nói mình có thể đi thẳng Kontum. Nhưng chúng tôi đã không tiếp tục đi, chúng tôi quay trở lại. Bây giờ tôi mới nhận thấy trong bìa rừng cách từng khoảng xa những thiết vận xa đã bố trí ở đó… Tôi hiểu vì sao những mưu toan cướp lương thực cùng cắt đứt quốc lộ đã không thực hiện được.
Cơn mưa nặng hạt lại đổ xuống cùng với gió lộng, vào tới ranh thị trấn chúng tôi ngừng. Anh bạn chỉ cho thấy bên kia đường, mé tay trái, những người đàn bà và trẻ con co ro trong những chiếc áo mưa đứng hoặc ngồi lóng ngóng. Có người tay không, có người xách theo những chiếc giỏ. Người bạn nói: những người chờ đứng bán những lon bia, bán thân và chờ rửa xe cho Mỹ… Vào những buổi sớm nhiều chuyến xe phải ngừng lại đó chờ mở đường, những anh lính Mỹ phải chờ đợi và đó là thời gian làm ăn cho nhiều người. Tôi biết có một người trở thành giàu rất mau, anh ta không ở Pleiku mà ở Kontum, anh ta có một cái xe gắn máy nhắm chở những cô gái chơi tới quốc lộ, chỉ cần chở ra theo với những toán công-voa, bỏ họ đấy, mỗi cô một ngàn, mà đâu phải chỉ có một cô, những cô này mang theo một tấm vải nhựa, thế là xong, buổi chiều anh chàng kia lại tìm nhặt những cô đó trên quốc lộ đưa trở về – Người bạn nói với tôi và cười – Nói ra nghe mà thảm, chiến tranh đưa dân mình tới những hoàn cảnh kỳ cục không thể tưởng được. Anh cứ ngó những người đứng lóng ngóng kia thì đủ rõ, ở đây có một đơn vị lớn của bộ binh Mỹ, họ nhiều khi ở trong rừng cả tháng mới trở ra, như vậy anh đủ hiểu… Có một số người mình thì có một quan niệm rất rõ ràng: bằng bất cứ cách nào kiếm được nhiều tiền, ăn cắp được nhiều, họ dùng mọi phương tiện. Ăn cắp ở đây không phải là ăn cắp nữa. Tôi đã vào nhà một người, bà ta làm lao công trong một sở Mỹ, trong nhà có nhiều thứ lắm, từ cái gạt tàn thuốc, những bộ tách uống nước, thôi thì đủ thứ… không phải bà ta mua đâu, bà ta ăn cắp dần dần mỗi lần một cái cốc, một cái dĩa, bà ta còn lấy được mùng màn, áo mưa, giấy lau… đủ thứ hết. Quả thật tôi không thể tưởng tượng được rằng làm cách nào mà bà ta mang được những cái rất cồng kềnh ra khỏi sự khám xét ngặt nghèo của những cơ sở Mỹ. Nhưng rồi tôi cũng được giải thích một phần nào, một phần thôi khi tôi tới cửa một cơ sở Mỹ vào lúc tan sở, những toán người ở trong đi ra đều bị khám xét bởi những lính Mỹ to lớn. Chừng như anh ta đã được huấn luyện một cách kỹ càng về những mánh lới của những người nhắm ăn cắp, anh ta lôi từ trong bụng chửa một người đàn bà ra một cái khăn tắm lớn, lôi từ trong quần một người đàn ông ra một cuộn giấy đi cầu, lôi từ trong búi tóc một bà già ra một cái ly… lôi từ trong đế giày ra một số dao cạo… Vậy đó, như vậy thì làm sao được. Nhưng người ta đâu chịu bó tay, một cô gái vừa tiến tới với anh Mỹ đã cười ngặt nghẽo, cô ta sát vào, ôm lấy eo, nhanh nhẹn hôn lên má anh ta một cái, thế là xong, anh lính Mỹ cười giơ tay vỗ vào mông cô gái một cái như tống đi, thế là cô gái không bị khám gì hết, và anh hiểu rằng trong người cô ta, cùng cái xách chắc chắn sẽ có gì trong đó, một chai rượu là đủ rồi… Nhưng trông cảnh một bà già Tàu từ trong ra cũng ôm lấy anh lính Mỹ mà hôn thì tôi chịu không nổi tức cười… Để cho hôn, cho sờ, nhưng lấy được đồ là nhất rồi…
Cơn mưa đã ngớt hơn, người bạn cho xe leo dần lên dốc với tất cả thận trọng, mặt đường bùn đỏ trơn như mỡ… Bao nhiêu điều tôi đã thấy, đã nghe, những điều đó liên kết với nhau tôi có thể nhìn thấy một sự thật, nỗi cay đắng. Trở lại câu lạc bộ, đứng từ trong cửa sổ nhìn ra những ngọn đồi nối tiếp nhau, những núi, những con đường, màn mưa mỏng tôi thấy mình như lạnh đi…
Kontum 19-8-1968. Vượt qua quốc lộ 14, hơn bốn mươi cây số. Rừng xanh. Thiếu tá Báu ngần ngại khi nghe tôi nói muốn tới Dakseang, nơi đang diễn ra trận đánh. Ông ngại ngần vì hơn một tháng nay trực thăng không đáp xuống được. Ông nói: tôi có mấy đứa con đi ngủ ở trong đó vẫn chưa lấy ra được… Một người bạn nói cho tôi biết tình trạng ở trong đó. Những người lính biên phòng có khi cả năm không ra khỏi đồn. Nơi đó chứa lương ăn, đạn và quan tài bọc kẽm. Một ông bố tới trại đưa xác con, đường bay bị cắt, ông bố ngồi đánh bạc hơn một tháng lúc ra được ông mang theo gần một triệu bạc về cùng với xác đứa con trai… Không có trực thăng. Tôi lang thang trong thị trấn với những giáo đường cổ kính, những con đường có cây cao xanh…
Phan Rang 15-10-1968. Tôi muốn thực hiện một chuyến đi dài. Khởi hành từ Sàigòn, qua Phan Thiết, ngừng lại Phan Rang. Mưa bão ập xuống. Bó người trong nhà.
Nha Trang 21-10-1968. Tôi đã tới Nha Trang được ba ngày, mưa bão tiếp tục đổ xuống vùng duyên hải, không thể tiếp tục đi Qui Nhơn như dự định… Mai trở lại Sàigòn…
Anh Q. Lần trở lại này tôi đã không được gặp anh, không được cùng nhau lặng lẽ bên những ly rượu, và sau đó phá lên cười… anh đang ở Sước Rũ, Khe Tre, Công trường 6, A Shau… còn nhớ không những câu thơ của Quang Dũng chúng ta đã đọc cho nhau nghe, nhớ không: Đêm đêm mơ chuyện làm khăn gói, để sớm mai rồi lại quẩn quanh… chính là thế, chúng ta đã quanh quẩn với những mộng tưởng, những phân vân giữa suy tưởng và hành động, chúng ta đã khôn quá, bịn rịn quá. Chúng ta đang đi, cũng khăn gói đó nhưng thực sự chúng ta không đi, không đi như điều chúng ta nghĩ phải làm. Chắc Q. còn nhớ hôm nào, một người đã chỉ vào mặt chúng ta: bọn chui vào vỏ ốc. Chúng ta chỉ biết cười chua xót. Chúng ta không chối được sự thực đó, chúng ta chỉ còn mỗi một cách thế, tự chúng ta trong những cố gắng cá nhân, chúng ta chỉ còn tư thế khiêm tốn trên điều mà tôi nói với anh: phục hưng lại một phẩm cách người… Phải giết đi bao nhiêu kẻ phải phá hủy đi bao nhiêu… những dơ dáy ngập lên tận mũi chúng ta phải chịu đựng, bao nhiêu nhược điểm chúng ta nhìn thấy. Chúng ta chỉ có thể làm trong hai điều, một là không làm gì hết, hai là xóa sạch đi rồi bắt đầu lại từ không có gì đó. Chỉ có thể, không thể làm khác… Thôi hãy uống đi, uống nhưng không được say. Nhớ anh vô cùng, những tan hoang còn đó…
Hôm nay anh ở đây nhưng anh nghĩ tới em những ngày đầu tiên sống trong quân trường, anh muốn có mặt ở Sàigòn để xuống thăm em trong những ngày đầu tiên sống với đời quân ngũ và để nhắc lại điều anh vẫn nói với em: bạn bè anh và bạn bè em đã có những người chết, hai anh em cách nhau mười năm của đời sống nhưng rồi chúng ta cùng ở trong một cuộc, chúng ta phải cùng nhau gánh chịu một thực tại chúng ta không mong ước, chúng ta đều không có tuổi thơ, không được sống trong thái bình yên vui, không được biết gì là hạnh phúc gia đình… Chúng ta chỉ còn lại một đời sống nhỏ bé… Chúng ta sống trong sự bất công, cùng mọi người chúng ta gánh chịu những bất công đó một cách đồng đều, trong bất công đó chúng ta hãy cố gắng làm cho bất công giảm đi, em nhớ không, như anh D. đã nói trước khi lên đường: mình ra mặt trận, phải ra vì sợ sau này khi hòa bình trở lại chỉ còn một mình sống sót, sự sống sót vô ích và buồn bã. Mong em vui với những bầu bạn mới, những người cùng chung cảnh ngộ như chúng ta, hãy nhớ một điều: ai sao ta vậy, việc người khác làm được thì chúng ta làm được, chỉ khác một điều: chúng ta chọn điều nào mà chúng ta cho là phải thì chúng ta làm. Khi trở về anh sẽ xuống thăm em…
Anh C. Tôi thông cảm những phân vân của anh, đời sống những người thân yêu, sự minh bạch ngay thẳng, trách nhiệm. Chắc anh còn nhớ một lá thư nào của T.: ta không biết làm chi hết, to be or not to be thì cũng ẩu như nhau. Nói vỡ nợ trước cuộc sống này. Chính trị bẩn thỉu, nghệ thuật phù phiếm, yên ổn thì tồi tàn, chiến tranh thì phi lý hơn… Cho nên ta không biết xoay sở thế nào cả. Nghệ thuật có là một giải thoát không? Nghệ thuật chỉ cho ta và cho người yêu ta thôi. Sáng tác vẫn chưa chắc đã yên ổn trong tâm hồn khi nghĩ đến cái chết của bạn bè, của những thằng em và của những thằng học trò ngoài bãi chiến. Có lẽ ta chỉ còn cái chết để dâng hiến cho đời thôi, cho cả cái đám quần chúng vô ơn mà ta và cậu vẫn ghét cay ghét đắng. Những ngày rảnh rỗi đi chơi với những bạn bè để rồi mỗi chiều trở về nhìn nhau cười ngao ngán… Tôi nhắc lại về người đã vắng mặt, hay đã chết đó. Có điều tôi không đồng ý với một lựa chọn nào đó, nhưng như tôi đã nói với anh: tôi kính trọng thái độ đó, con người đó… Nỗi cay đắng khốn khổ của chung chúng ta…
Anh T. Tôi đã được thư của anh, thành thật xin lỗi anh chị, xin hứa sẽ ghé lại thăm, như anh đã biết công việc và những dời đổi không ngừng khiến tôi đã không ghé lại dự sinh nhật của cháu bé, đứa con nuôi của tôi, tôi cũng đã không có quà cho nó, nhưng tôi nhớ nó… Điều anh hỏi khiến tôi chẳng biết nói sao, có điều những gì xưa kia tôi đã nói với anh nay tôi vẫn tiếp tục, tôi không thể từ bỏ được. Buồn là nhiều lúc nhìn lại thấy những cố gắng của mình cũng trở thành vô ích, nhưng không phải vì sự vô ích hay hơn nữa vì vô vọng mà chúng ta không làm điều chúng ta nghĩ phải làm. Tôi chép lại đây điều mà Arthur Koestler đã viết: nhà văn có bổn phận xã hội, một công việc rõ ràng phải làm. Mỗi khi hắn viết một tác phẩm hắn như một người thuyền trưởng thực hiện một hành trình với những mệnh lệnh được niêm phong cất trong túi áo, khi hắn mở phong bì ra ở giữa biển cả, hắn nhận thấy những mệnh lệnh đều được viết bằng một thứ mực trông không thấy được. Không thể đọc được những mệnh lệnh đó, tuy nhiên hắn vẫn luôn luôn ý thức một bổn phận phải hoàn tất – bởi vì hắn đương chỉ huy một chiến thuyền chứ không phải một thuyền du lịch. Những mệnh lệnh trong túi áo hắn có thể không đọc được nhưng vẫn có tính cách sai truyền cấp bách đem đến một ý thức trách nhiệm của hắn. Trong sứ mạng nhà văn ở đó sự lớn lao và cũng ở đó chướng ngại…
Anh K. Có thể anh đã không bằng lòng tôi, dù anh không nói ra, có điều về phần tôi thì tôi đã nói hết cùng anh: tôi dứt khoát với sự lựa chọn của tôi, tôi cố gắng sống như tôi mong ước. Tôi không có một ảo tưởng, một mặc cảm nào. Nào phải cho riêng ai. Tôi chịu ơn những người đã chết đi, hiện đang cố gắng để cho tôi còn được sống, và như thế tôi phải làm điều tôi nghĩ, tôi muốn được chia sẻ, tôi mong anh sống trọn được như điều anh nghĩ, không lừa dối mình và người khác…
Ng… dù ở đâu anh cũng chỉ nhìn thấy một cuộc sống gian nguy phải chấp nhận, chịu đựng, những cay đắng buồn phiền… chúng ta, nào đâu phải riêng chúng ta, cả dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường này, đã buộc chặt vào một định mệnh khắt khe… Trên quê hương ấy, trong cuộc sống ấy chúng ta gắn bó với nhau tình cờ… Anh đã đi trên những con đường chia cách, gian nan, hiểm nguy… những con đường đưa chúng ta đến những gặp gỡ bàng hoàng… Anh vẫn tự hỏi, con đường vô hình nào đã đưa anh đến bên em. Xưa kia mẹ anh dặn anh: con trai không được khóc, và em thì nói với anh một câu thơ: em sẽ không bao giờ để anh nhìn thấy em khóc đâu… chúng ta cùng giấu nhau những ngậm ngùi nào đó, những ngậm ngùi không bày tỏ nhưng chúng ta đều cảm thông… Có bao nhiêu điều anh không nói với em nhưng anh nghĩ em nghe thấy những tiếng nói đó…
Anh M. Tôi đã nhận được thư báo tin mừng của anh, tôi không biết có lời nào hơn là gửi lời chúc anh chị những ngày tới sống ở xứ người như sống trên quê hương thân yêu những ngày thơ ấu. Không, tôi nghĩ anh không phân trần một điều nào, với bất cứ ai… Riêng phần tôi, tôi không thể làm điều gì khác, tôi tự gắn đời sống mình với quê hương với những người thân yêu, ở đó những bất hạnh và những vui tươi đằm thắm, những cay đắng ngọt ngào cùng với niềm kiêu hãnh chất ngất… Quê hương này là đất hứa, chúng tôi tự cắm thập tự trên đó cho chính mình… Sau này, tôi mong ước thế, thời gian địa ngục đã qua, anh sẽ trở về, nhưng tôi hỏi anh chắc lúc đó anh sẽ thấy sao mình không được sống như mọi người, những khổ đau làm thành hạnh phúc cho kẻ sống sót…
Sàigòn ngày 25-5-1972. Tờ sự vụ lệnh trong túi đợi chuyến bay đi Đà Nẵng và Huế… Lương đã mất một chân ở Đức Dục năm trước. Bình về Thủ Đức. Đính, Mẫn bị bắt ở Tân Lâm và Khe Gió. Quân đi Ban Mê Thuột. Hạnh đã dời khỏi Quảng Trị… Bây giờ những ai còn ai mất. Tôi nói với một người bạn: tôi chịu ơn quân đội, nói thế chỉ để nói: tôi chịu ơn những bạn hữu, suốt trong 5 năm trong quân ngũ đã giúp tôi có được hoàn cảnh để di chuyển không ngừng. Tôi nhớ đời những người bạn và những ân tình…
Dương Nghiễm Mậu
(Văn số 204 ngày 15/6/1972)
$pageOut$pageIn
Bài bút ký thứ ba
Quảng Trị, đất đợi về
Mỗi lần trước khi trở lại miền Trung, điều tôi thường hỏi: ngoài đó bây giờ mưa hay nắng. Lần này cũng thế, người em tôi vừa từ Huế trở về sau hai mươi ngày công tác nói: trời đang nắng và thành phố đầy hoa phượng, hoa sen. Bây giờ ngoài đó đang mùa hè và tôi nhớ tới không khí oi bức trong những chuyến đi cũ vào những thời gian đầu mùa hè: hoa phượng đỏ trên những ngọn cây, hoa sen nở đầy trong hồ Tĩnh Tâm, chung quanh trường thành, những trái nhãn nhỏ sai trên những ngọn cây trong Thành nội… Nhưng khi tôi đặt chân tới Đà Nẵng, buổi chiều mây thấp và mưa nhỏ hạt. Người bạn nói với tôi trời mới đổ mưa từ buổi sáng. Tôi nhìn thấy mây thấp trên phía đèo Hải Vân. Đà Nẵng mưa thì chắc Huế mưa. Tôi hỏi về con đường qua đèo, người bạn nói: đi được như thường, hôm qua hơi bị kẹt vì cầu Nam Ô bị gẫy. Tôi hỏi cây cầu nào. Anh bạn nhắc lại: cầu Nam Ô. Tôi nói không phải, tôi biết ở đó có hai cây cầu, tôi muốn biết cầu nào vì trong chuyến đi trước, cây cầu mới xây cất, thứ cầu cho những xa lộ chưa dùng được, hôm trước đã có tin cho biết cầu Nam Ô bị sập, nhưng là cây cầu cũ, cầu xe lửa, người bạn nói, bây giờ thì cả hai nhưng đang được sửa chữa. Trời mây thấp, mưa nhỏ hạt, những di chuyển ướt át khiến cho thị trấn có một khung cảnh đìu hiu.
Tôi gởi hành lý lại nhà người bạn rồi chạy quanh, vẫn khung cảnh quen thuộc, thêm một vài ngôi cao ốc đang được xây cất nhưng chừng như công việc đã ngừng lại, những trường học trở thành trại tạm cư. Tại trường nữ, tôi thấy những nữ học sinh ngồi gác cổng ra vào trong khi đó có một gia đình đã chất hành lý lên hai chiếc xích lô, tôi hỏi và được biết: họ dời ra trại Hòa Khánh. Trại tạm cư Nguyễn Thượng Hiền cũng đã đóng cửa với tấm vải lớn kẻ những hàng chữ cho thấy những người tị nạn đã ra sống ở trại tạm cư Hòa Khánh. Đi bộ trên đường phố tôi thấy số xe ôm gia tăng với những lời mời cùng với những chiếc xe ghé lại lề đường. Buổi chiều báo từ Sàigòn ra trễ và những nhà sách đông người ghé lại đợi chờ những tờ báo phát hành từ chiều hôm trước tại Sàigòn… Tôi ghé lại nhà những người quen, nơi nào cũng có những người thân từ Quảng Trị, từ Huế vào tạm trú, một vài người đã trở lại Huế, hoặc đi Sàigòn, tôi được nghe nói về những người tị nạn đã vào Chu Lai, đã đi Long Khánh. Một gia đình trong khi chạy khỏi Quảng Trị đã bị thất tán, một nửa vào được Đà Nẵng, còn một nửa không biết ở đâu, những người thân đang đi tìm kiếm nhau. Đài phát thanh Đà Nẵng với mục nhắn tin, đài của những người ở Quảng trị tìm tin cha, tin mẹ, tin chồng con thất lạc. Có những đứa trẻ tám chín tuổi bị lạc gia đình trên đường chạy giặc. Theo dõi mục nhắn tin tôi thấy nỗi tan hoang đối với hơn ba trăm ngàn dân chúng vùng giới tuyến.
Trại tạm cư lớn nhứt ở Đà Nẵng dành cho Quảng Trị nằm ở Hòa Khánh, một quận ngoài thị xã, nằm ở phía nam đèo Hải Vân, ngay ven quốc lộ Một. Tôi ngạc nhiên khi vừa từ thị xã tới đây lúc đứng trước một ngã ba đường có tấm bảng lớn sơn xanh, kẻ chữ trắng hàng chữ: QUẬN GIO LINH. Quận Gio Linh, tôi nói với người bạn: quận Gio Linh ở Đà Nẵng! Tôi nhớ tới nơi tôi đã từng ghé lại trong những năm trước trên đường công tác. Ngày ấy tôi theo quốc lộ Một vượt Đông Hà ra tới đồn A2 nằm ngoài cùng giáp với vùng phi quân sự sau khi quân đội ta đã bỏ chân cầu Hiền Lương trở vào trấn đóng phía trong gần với quận Gio Linh. Trên con đường đầy những bom đạn tôi chỉ thấy những cánh đồng hoang vu không bóng người, dân chúng đã phải bỏ làng mạc trở vào sống trong khu định cư Hà Thanh, còn lại chăng một số thôn ấp nhỏ bé nằm ở giữa quốc lộ với bờ biển, còn lại phía tây quốc lộ thì coi như bình địa với vùng oanh kích tự do. Nay Gio Linh chỉ còn là tên gọi của một vùng đất. Hai tiếng Gio Linh đã đi theo dân chúng vào Đà Nẵng. Bỏ quốc lộ đi sâu vào gần bờ biển, nơi đây có hàng trăm lều vải mới được dựng lên cho dân chúng tạm trú. Người trưởng trại ngày nay là ông quận trưởng của vùng đất cũ. Vị thiếu tá này người nhỏ bé trong bộ đồ đen nói cho tôi biết qua tình hình dân chúng, ông không thể đoán chắc về số dân chúng tại Gio Linh đã ra đi, vì hiện dân chúng không những chỉ sống tại Đà Nẵng, họ còn vào Chu Lai và nhiều nơi khác nữa, con số phỏng chừng khoảng 28 ngàn người ra đi so với dân hơn ba chục ngàn người. Ông kể lại cho tôi nghe những ngày kinh hoàng ở Quảng Trị khi đoàn người rời khỏi đây để vào Huế: cả đoàn xe bị mìn và pháo kích, nhiều người bị thương phải nằm lại với tiếng kêu la thảm thiết…
– Ông thấy dân chúng có muốn đi vào lập nghiệp ở trong Nam không?
– Phần lớn dân chúng không muốn đi, họ mong trở lại Gio Linh.
Khi tôi từ trong lều đi ra thì có một người đàn ông giữ tôi lại và hỏi tôi có phải nhà báo không? Tôi nói không phải. Ông ta nói điều muốn nhờ. Tôi nói cho tôi biết. Sau đó ông ta giới thiệu là một người thuộc làng Gia Hải, một làng phần lớn sống bằng nghề chài lưới tại Cửa Việt, tôi ngạc nhiên khi biết dân chúng tại làng này đã cùng nhau xuống thuyền đi về phía Nam bằng những chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé của họ. Điều mà người này muốn nhờ tôi là: tranh đấu cho họ được ở lại Đà Nẵng sinh sống, họ chỉ cần giúp đỡ lương thực một tháng đầu rồi sẽ tự túc bằng nghề đánh cá của mình. Sau đó ông ta cho tôi thấy, dân chúng tại Gia Hải đưa được vào Đà Nẵng 150 chiếc thuyền, chuyến ra đi của họ hết sức gian khổ, trước hết khi ra khỏi Cửa Việt họ đã bị cộng quân ngăn cản, súng đã nổ vào đoàn thuyền, một số dân chúng đã không ra đi được vì những làn đạn này, nhiều người đã bị thương và chết trong chuyến ra đi, trước hết họ tới được cửa Thuận An. Sau đó rời Thuận An vào trong bãi biển Đa Phước. Khi nói tới chuyện đi vào miền Nam ông ta nói chính phủ có thể mang được người đi nhưng còn thuyền bè của chúng tôi thì sao, chúng tôi sống bằng nghề biển như vậy làm sao để thích ứng với nghề nông trong khu vực khai hoang? Chung quanh tôi mỗi lúc một đông người, mỗi người góp một câu chuyện, ai cũng trông được sống ở Đà Nẵng và chờ ngày trở lại quê hương của họ, tôi cũng đã được nghe câu chuyện thương tâm của một người mẹ kể lại cái chết của con mình trên chuyến đi Nam, đứa con đã chết trên chiếc thuyền của gia đình trong khi vượt biển vào cửa Thuận. Tôi mường tượng thấy cảnh tượng bi hùng của chuyến ra đi, cảnh tượng giống như những người dân miền Bắc trong vụ Trà Lý, những người đã chọn để được sống tự do hoặc là chết… Gần hai mươi năm sau, cảnh tượng đó lại tái diễn một lần nữa.
Câu hỏi mà tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần với những người đã gặp là: tại sao không nghĩ tới việc vào các vùng đất an ninh, phì nhiêu ở Nam lập nghiệp? Tất cả đều nói: chúng tôi chờ đợi trở về. Trở về, họ như gắn liền với đất đai khô khan cực nhọc, họ không muốn rời khỏi quê hương nơi có những mái tranh nghèo, những mồ mả tổ tiên, nơi họ đã sinh ra lớn lên trong nhọc nhằn. Trước đây, ngay từ thời Đệ nhất Cộng hòa, công việc di dân lập ấp được đặt ra, dân chúng tại đây cũng đã từ khước ra đi, ngày nay họ vẫn không thay đổi ý muốn đó. Chừng như quê hương càng đau khổ, đời sống càng nhọc nhằn người dân càng gắn bó keo sơn với nó. Vùng Gia Đẳng, Gia Hải… những vùng cát trắng khô khan kia vẫn còn lại những gì mà người dân thấy không thể bỏ nó mà ra đi được cho dù họ biết chắc rằng ra đi họ sẽ có một đời sống sung sướng hơn, đầy đủ hơn.
Những gia đình với hành lý nghèo nàn người dân ở trong trại tạm cư chia nhau những diện tích nhỏ hẹp để sống, những trẻ con vẫn nô giỡn trên bãi cát, những bà mẹ vẫn nhẫn nại nhóm những bếp lửa nhỏ lo bữa ăn đạm bạc hàng ngày. Tôi thấy chiếc áo màu của một sinh viên ra đây lo cứu trợ như lạc lõng với khung cảnh.
Trại tạm cư Hòa Khánh lớn lao hơn nhiều trại tạm cư dành cho người thuộc quận Gio Linh. Nơi đây bao gồm dân chúng thuộc nhiều quận, phần lớn họ được sống trong những ngôi nhà tôn của một trại binh Mỹ. Những con đường trong trại tráng nhựa phẳng lì còn tốt nguyên vẹn, nhưng những ngôi nhà thì phần lớn đã hư vì thời gian, nhiều vách gỗ đã bị gỡ, những bao cát phần lớn đã mục khiến cho khung cảnh có vẻ điêu tàn. Ngay trong những ngã tư đã có những hàng quán trong trại dựng lên, cũng có ngay những tiệm hớt tóc, những quán giải khát, dân chúng như đã thấy phải bắt tay ngay vào việc tìm sống. Nhiều người lo đi tìm kiếm những người quen, người ra kẻ vào tấp nập. Đại tá Hòa, người tôi gặp lúc cầm một đoàn, là vị tỉnh trưởng Quảng Trị. Ông mới về làm tỉnh trưởng được ba tháng, nay ông đã ở Đà Nẵng với những người tị nạn. Trông ông tôi thấy phảng phất một vẻ buồn. Dân số Quảng Trị có hơn ba trăm ngàn, con số còn bị kẹt lại khoảng 50 ngàn, tôi thấy số dân chúng ra đi thật lớn lao và thực sự là một mối lo không nhỏ cho chính phủ và nó cũng là con số đau đầu với chính người cộng sản khi tới chiếm Quảng Trị. Họ phải nói thế nào với quốc tế về điều họ vẫn nói: dân chúng ủng hộ họ và về chiêu bài giải phóng vẫn không ngớt được nói đến. Không, dân chúng đã ra đi khi bom đạn và người cộng sản đến. Không có dân, đất đai còn có nghĩa gì nữa?
Người thanh niên ấy có nước da ngăm đen, vẻ ngơ ngác trên mắt nhìn, gò má cao, cằm vuông, anh hơi chút mỉm cười ngậm ngùi khi tôi hỏi anh về chuyến hành trình đã trải qua. Anh lặng đi rất lâu, giọng anh trầm xuống, có lúc tôi chỉ thấy môi anh mấp máy và như tiếng nói biến mất: trước hết chúng tôi về Quảng Trị, thực chúng tôi không nghĩ có lúc sẽ ở đây, nếu biết vậy chúng tôi đã đi thẳng tới đây, chúng tôi không ai nghĩ thế cả, nhưng rồi chúng tôi phải đi khỏi Quảng Trị, ngày đó là ngày mấy nhỉ, không rõ là 28 hay 29 gì đó, mà chừng như… phải rồi, pháo kích, rồi mìn anh ạ, rồi cả một cuộc giao tranh nữa, những chiếc xe nổ tung, những thân người văng lên tan tác, những tiếng kêu khóc thảm thiết, mạnh ai nấy chạy, không còn ai nghĩ tới chuyện cứu ai nữa… Chúng tôi chạy, chỉ biết chạy thế thôi… với hai bàn chân chúng tôi tiếp tục đi, trước hết là Huế, sau tiếp tục đi nữa, không, anh không thể hiểu được nếu anh không cùng chúng tôi ở trong chuyến ra đi ấy, chúng tôi có cảm tưởng như ngay sau chân chúng tôi cộng sản bén gót. Chúng tôi như tranh nhau lấn bước về phía trước, người ta có phương tiện để đi, chúng tôi thì không, quốc lộ như thế mà bốn hàng xe chạy thì anh thử hỏi làm sao để chúng tôi len chân, và trên dọc đường ấy người ta như đứng lại với nhau, không còn trật tự nữa, thỉnh thoảng súng lại nổ và người nháo nhác… Tôi đã thấy ngay trước mắt tôi chiếc xe lật xuống đèo và những người chết, tôi đã thấy những bà mẹ kêu gào tìm đứa con thất lạc… Tôi không hiểu tại sao sự việc lại xảy ra như thế, bây giờ nhìn lại tôi càng thấy vô lý, bọn nó chưa tới được vòng đai mà sao mình đã bỏ chạy, người ta bỏ lại hết để chạy… Tôi lạc mất một người em gái, cho đến hôm nay tôi vẫn không hiểu nó còn sống hay đã chết phơi xác dọc theo quốc lộ…
Người thanh niên lặng đi, đôi mắt nhìn xuống trũng bóng tối. Tôi không biết có lời nào để nói với anh. Tôi nhớ lời anh Cường kể lại chuyến đi của chính anh, thực anh chưa muốn đi nhưng sau nhìn lại thấy mọi người đi hết thì anh sợ, người anh nghĩ chưa đi là anh Du thì anh đã thấy lên trực thăng đi rồi, cuối cùng anh phải đi chiếc xe cũ đưa anh lên đèo nhích từng chút, có lúc xe không đứng lại được mà tụt xuống, đi từ sáng cho mãi tới 9 giờ tối mới vào tới Đà Nẵng, trên đường anh đã thấy những người lính nổ súng bắt xe cho họ lên, anh đã thấy một bà cụ già ngồi trên một tấm gỗ có gắn bánh xe tay bám lấy chiếc dây thừng buộc vào chiếc xe đạp của người con đạp phía trước… Mường tượng tới cảnh ra đi, quãng đường Quảng Trị – Huế – Đà Nẵng trở thành một cuộc trường chinh cho người dân Trị Thiên, tôi nghĩ nếu con đường đèo bị cắt, hay một cuộc phục kích xảy ra thì họ sẽ ra sao, lúc bấy giờ những người có trách nhiệm họ ở đâu, họ trên sân quần vợt, trong một tiệc rượu vui mừng nào?
Trời mưa nhỏ hạt suốt đêm, sáng hôm sau trời vẫn thấp mây, tôi mang theo hành lý để tới Huế như dự định, trước khi đi tôi ghé lại thăm anh Lam, tôi nghĩ anh nắm được nhiều dữ kiện về những sự việc đã xảy ra. Tôi thấy anh hết sức bình tĩnh và nói với tôi về công việc anh đang làm, giúp vào công việc đưa dân chúng Quảng Trị vào miền Nam theo chương trình di dân khẩn hoang của chính phủ, anh cho thấy dân chúng không muốn đi riêng, họ muốn đi cả quận, cả làng. Anh cũng nói tới hoạt động của các đảng phái một cách lạc quan. Khi hỏi anh: ai ra lệnh rút khỏi Quảng Trị, anh nói không phải Tướng Lãm ra lệnh. Anh cười khi đặt với tôi một vài vấn đề sau khi rút khỏi vùng đất này, việc oanh tạc Bắc Việt, việc thả thủy lôi xuống các cửa biển và sông ngòi miền Bắc…
Tôi ra bến xe, trời mưa nhỏ, tôi chờ cho những chuyến xe đầu tiên từ Huế vào tới nơi thì leo xe trở ra. Tôi thường theo cách đó để có thể yên tâm lên đường mỗi khi ra đây công tác. Chuyến xe quen thuộc màu đen với mười chỗ ngồi, số người trở ra Huế chờ đợi từng chuyến xe đến và trong chốc lát lên đường trở ra. Đường ra khỏi thị xã xe cộ đủ loại nối đuôi nhau, có hàng trăm xe vận tải đưa đạn dược qua đèo. Trước khi tới cầu Nam Ô xe bị đọng lại với sự chờ đợi oi bức, xe nhích từng khoảng ngắn. Khi ngang qua tôi thấy cây cầu sắt cũ đã bị gãy một chân, hai nhịp cầu chúc xuống dòng sông rộng. Cây cầu xi măng bị hư một nhịp đang được sửa chữa và hiện có một cầu tạm bắc lên cho xe cộ lưu thông. Cầu Nam Ô là cây cầu xa lộ độc nhất được hãng thầu Mỹ làm cho suốt dọc quốc lộ từ Đà Nẵng tới Huế, cầu Lăng Cô là cầu cũ được sửa lại, còn hầu hết những cây cầu khác được làm bằng gỗ. Trước khi lên đèo xe bị chận lại, một cây cầu gỗ ở đây đã bị phá sập, những chiến sĩ công binh đang lo đắp một con đường vòng và sửa lại cây cầu. Chiếc xe tôi đi chạy hơi ra ngoài bị chận lại, như một hình phạt không được qua, người tài xế bứt đầu bứt tai nhìn những chiếc xe chạy sau vượt lên phía trước, tôi thấy nhiều xe chở hàng không có mui chở đầy người, đó là những gia đình ở Huế trở lại nhà, họ mang những hành lý. Có những chiếc xe có mui thì người ngồi cả trên mui cao, trên quãng đường này tôi cũng thấy nhiều xe chạy đường xuyên Việt, từ Quảng Trị tới Sàigòn, nhưng vì biến cố trong những ngày qua đã khiến cho những chuyến xe này không thể trở lại Sàigòn được. Những chuyến xe sẽ thương nhớ đường dài… Mưa vẫn đổ mau hạt trong khi xe qua đèo, con đường rộng, nhựa phẳng trở thành nguy hiểm, tôi nghĩ tới những ngày tháng trước khi đoàn người tỵ nạn phải ngang qua đây. Một trăm cây số của đường dài những lo âu chất ngất và nỗi kinh hoàng nhìn về ngày mai… Vùng biển Lăng Cô làm tôi nhớ lại mộng ước được trở về sống trong một xóm dân chài của Ninh Hòa, hai tiếng Hòn Khói vẫn còn ghi nhớ với những cồn cát trắng như tuyết và những ngọn dương cao cùng với biển xanh bao la phía trước… Quê hương ta những vùng đất hứa có thật vẫn còn đó nhưng chừng như lúc nào cũng ở ngoài tầm tay với…
Cầu Phú Lưu bị sập nhưng vẫn di chuyển một chiều, khoảng đường từ phía chân đèo trở lại Huế tôi thấy nhiều binh sĩ thuộc Sư đoàn 3, họ có mặt nơi những chiếc cầu còn lại. Trên một thành cầu sắt của đường xe lửa tôi nhìn thấy hàng chữ: bảo vệ cây cầu tới giọt máu cuối cùng. Tôi buồn rầu nghĩ tới những cây cầu đã gẫy. Tôi nghĩ tới những cây cầu gỗ trên quốc lộ 9 nối Đông Hà tới biên giới và trên quốc lộ 1 từ Gio Linh tới Đà Nẵng.
Năm 1968, khi tôi theo quốc lộ 9 lên Cam Lộ, nơi có trên 6 ngàn dân chúng quận Hướng Hóa từ trong núi về tị nạn, trong số này phần lớn là sắc tộc Bru. Bấy giờ trận chiến ác liệt ở Khe Sanh, trong khi xe ủi đất của Mỹ làm việc không ngừng, họ mở rộng đường trải đá, trải nhựa và làm cầu. Tôi tự hỏi như vậy có phải con đường sẽ được dùng để sang Lào không? Năm 1970 trở lại, cả vùng đã hết lính Mỹ, chúng tôi dùng xe jeep chạy từ Quảng Trị lên Cam Lộ uống cà phê và nói chuyện hòa bình, ngày lên xin đất mở đồn điền trên Khe Sanh… Tôi nghĩ tới những cây cầu và hỏi: những cây cầu bằng gỗ này chịu đựng được bao nhiêu năm? Tại sao không phải là cầu xi-măng? Không ai trả lời. Và tôi cũng đã hỏi: sao Mỹ làm con đường này tốt vậy mà không dùng? Và câu trả lời này mãi tới khi có cuộc hành quân sang Hạ Lào tôi mới thấy, mỗi ngày hàng trăm xe đạn dược theo đó mà tới Khe Sanh. Nói tiếp về những cây cầu tôi cũng thấy từ Gio Linh vào Huế chỉ mới có một cây cầu mới đúc, còn hầu hết là cầu gỗ. Và bây giờ tôi lặp lại câu hỏi: những cây cầu gỗ chưa bị phá sẽ còn chịu đựng được bao nhiêu lâu?
Phú Lộc, La Sơn, Phú Bài, Phú Lương, Dạ Lê, An Cựu… và cầu Trường Tiền. Huế vẫn còn đó, một sinh hoạt lặng lẽ, nhiều căn nhà cửa đóng nhưng có toán công nhân sửa đường vẫn làm việc, những người thợ nề vẫn tiếp tục trát vôi nơi bệnh viện trung ương đang xây cất… Hoa phượng đỏ như máu trên những con đường hai bên bờ sông, trong Thành nội, ghe thuyền đầy trong lòng sông nhà bè và vùng Bao Vinh không khí một thuở thanh bình, tôi nghe thấy một không khí chìm chìm lặng lẽ nhưng đầy đe dọa. Tôi tìm gặp lại những người bạn cũ, gần hết đã ra đi. Anh Tấn bây giờ nuôi râu dài như một đạo sĩ, anh Du như già hơn mấy tuổi, anh nói lại một ngày từ sở làm ra đường tìm xe về nhà, phố vắng tanh, không một chuyến xe khiến anh ngao ngán thấy mình như con chó hoang, và mắt anh như rưng rưng khi kể lại chuyến bay đưa anh khỏi Thành nội trong không khí nháo nhác tan vỡ. Bây giờ thì anh đã trở về một mình sống như mình muốn sống. Thục nói: ở lại với ý nghĩ ngông cuồng làm kẻ tuẫn đạo… Liệu có mất Huế không?
Cộng sản có đánh Huế không? Tại sao Huế không bị pháo kích? Những câu hỏi đặt ra mà không ai dám trả lời khẳng định, ai cũng có ý kiến nhưng sau đó là cái mỉm cười ngụ ý… Thành phố đầy những lính, đủ màu áo, hình như không thiếu một binh chủng nào, ít hoặc nhiều họ đều có mặt. Tôi gặp lại những người bạn trong quân đội những ngày cũ. Những hàn huyên không hết về kẻ sống người chết, những ngày ở An Hậu, những ngày ở Phú Thứ, những ngày trong Dãy Phố Buồn Hiu, những ngày ở Khe Sanh, những ngày rong chơi yên bình trong những làng xóm ở Triệu Phong nói chuyện về những nàng cung phi sinh trưởng ở Sịa, và vẻ đẹp tây phương của những cô gái ở Mỹ Chánh, dòng sông mà người bạn tôi nói nửa đục nửa xanh, nơi những thuyền bè tây phương từ thế kỷ trước đã vào đó…
Người bạn nói: chính tôi cũng không hiểu được tại sao mất Quảng Trị. Anh bạn nói tiếp: không giữ được Tân Lâm Bắc thì phải mất Tân Lâm (Carroll), mất Carroll thì tất nhiên khó giữ Đông Hà và các căn cứ A1, A2, C1… Nhưng tôi không hiểu tại sao bộ chỉ huy nặng của SĐ3 còn ở Ái Tử mà bộ chỉ huy chiến thuật của tướng Giai lại rời vào La Vang rồi Quảng Trị? Tại sao vòng đai của Quảng Trị chưa lâm nguy mà tướng Giai lại bay vào Huế? Tôi được biết cho tới trưa ngày 1 tháng 5 tướng Lãm còn ra lệnh tử thủ Quảng Trị mà sau đó không đầy 30 phút tất cả mọi liên lạc với SĐ3 đều bị cắt đứt, các máy truyền tin của mặt trận không liên lạc với hậu cứ nữa? Trên máy bay nhìn xuống quốc lộ 1 chỉ thấy một dòng xuôi về Nam hỗn độn…
Buổi chiều mưa thật lớn, người bạn nói với tôi về cơn bão đang tiến tới. Một người bạn nói với tôi về Huế: đất gì lạ, một năm ở đây thì có ba tháng để tranh đấu, ba tháng để chịu tai ương, ba tháng để cứu trợ, còn ba tháng để làm thơ. Điều người bạn nói thực đúng với thời gian 10 năm trở lại đây, Huế đầy những tai ương và đau khổ, cơn ác mộng Mậu Thân với hàng ngàn người bị chôn sống vẫn còn ám ảnh tới những người sống sót, đó là một trong những điều giải thích vì sao họ đã lũ lượt kéo nhau ra khỏi Huế dù thực sự chiến tranh chưa đến.
Tôi theo xe người bạn ra khỏi Huế, hiện đang có những cuộc chuyển quân vào phía Tây và phía Bắc, những chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến đã đột kích ba lần vào vùng đất Quảng Trị, nhưng sông Mỹ Chánh vẫn là chiến tuyến. Quốc lộ 1 chạy về phía Bắc vắng hoe, chỉ có những xe nhà binh di chuyển với vận tốc nhanh hơn thường ngày, những cánh đồng ở Hương Điền vẫn có bóng người nông phu, thiên nhiên vẫn như một ngày thanh bình cũ. Trong phòng tuyến, tôi hỏi một anh bạn: bao giờ qua bên kia? Người bạn cười, định qua rồi nhưng mưa nên ngừng. Sao vậy? Hết mùi thối rồi… Tôi không hiểu. Người bạn nói: Mấy hôm trời nắng, gió Nam thổi hôi quá chịu không nổi tính hành quân để chôn xác chết của mấy trận, nhưng mưa rồi nên đỡ.
Tôi rùng người và thấy như đầy mùi tử khí. Tôi mường tượng tới khoảng đường còn lại để tới Quảng Trị, những làng mạc và đồng ruộng ngày nay còn ngổn ngang những xác người đã nằm xuống trong những ngày trước, nắng lửa làm cho những tử thi trương lên và bây giờ những cơn mưa làm cho tan rã… Đêm lại cơn mưa lớn. Tôi cùng người bạn ngồi trong quán cà phê, chút rượu khiến cho chúng tôi ngây ngất. Trên chiếc xe nhỏ chúng tôi đi trên những con đường vắng không có bóng người, chỉ có những tàn cây và bóng tối, thỉnh thoảng mới gặp những người lính ướt nước. Tường thành lầm lì, những bãi cỏ tranh cao với bông trắng, tất cả như thầm thì một tâm sự. Không khí lặng như một cõi chết nào. Thiên nhiên kia nào còn nghĩa gì khi không còn những mắt nhìn chan chứa, không còn nhịp tim rộn ràng? Tôi như nghe thấy tiếng thở dài của những cánh sen hồng về nỗi tàn tạ. Mùa hè đã đến rồi đấy nhưng như đã mất vì không có tiếng guốc khuya trên cầu, hoa phượng đã nở đỏ nhưng không còn là màu của nắng lửa, nó trở thành những vũng máu đọng chờ khô của một cái chết.
Người bạn nói: Tôi ở lại đây và tôi chờ ngày vào Quảng Trị.
Tôi nhìn người bạn.
Dương Nghiễm Mậu
Nguồn: Tạp chí Chính văn số 1, tháng 2.1972$pageOut$pageInBài bút ký thứ tư
[nguồn by Trần Hoài Thư]
MỘT LỜI
Ngày lên đường ra đi, nơi phi trường, trước khi lên máy bay, người bạn tiễn chân nét mặt ưu tư cho tôi biết: giặc đã vào Ban Mê Thuột, trận đánh còn ở đó… lòng dạ không yên, những tin tức trên màn ảnh nhỏ, trên mặt báo nơi nước ngoài càng làm cho tôi lo âu hơn. Kontum, Pleiku… những nơi tôi đã từng sống. Lòng cồn cào nghĩ về quê hương, nơi những người thân yêu đang sống. Đoàn người lên đường với khoảng tới trên 200 cây s … tôi lo âu nghĩ, rồi mình có dịp trở về để chết nữa không? Chín ngày đi, đáng lẽ là một chuyến đi đáng ghi nhớ, thì cuối cùng với tôi là những ngày buồn. Ngày trở về, tôi không ngồi yên được, chỉ mong sao đặt chân trở về quê nhà. Lúc phi cơ đáp xuống Tân Sơn Nhất, đặt chân xuống mặt đất tôi chảy nước mắt với bao nôn nao. Ôm lấy con thơ vào lòng, giữ lấy tay vợ, tôi tưởng như mình vừa trải qua một biến động. Tôi thấu hiểu rằng, chẳng bao giờ tôi muốn rời xa quê hương mình, gia đình mình. Nơi đây tôi đã chọn lựa và tôi sẽ chẳng thể đi đâu.
Những bản tin, những trang báo mỗi ngày, mỗi giờ cho tôi thấy những bi thảm và những hào hùng. Hàng trăm ngàn người với đôi bàn tay trắng đã lên đường trong một ý thức chọn lựa. Ở đây, dù xấu xa bẩn thỉu, nhưng nó vẫn còn hơn phải sống dưới chế dộ Cộng Sản. Những bước chân đi tới phía đông, băng rừng, vượt núi, cái chết khít khao đã nói lên khẳng định đó. Nhưng vì đâu mà phải sống trong cơ sự này? lỗi vì ai? ai phải chịu trách nhiệm?
Không phải chỉ có Phước Long, Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum mà bây giờ còn cả Quảng Ngãi, Quảng Tín, Trị Thiên, Bình Long… Người anh từ Huế vào, người còn ngẩn ngơ. Người chị bàng hoàng nói tới đoạn đường vượt Hải Vân vào Đà Nẵng… Những chiếc xe như súc vật, những xác nguời nằm như lá khô, pháo kích không ngừng, những bà mẹ, đứa bé bò trên mặt đường và chiếc bình sữa… Trong cồn cào của thời sự, những sự việc làm tôi chóng mặt. Tôi tự hỏi: có phải đã tới lúc mà mình phải cầm lấy mũi nhọn, phải, chỉ có thế trong chọn lựa một khi cơn lốc đến. Tôi không thể có một chọn lựa đầu hàng để sống như trâu chó. Tôi chỉ thương hai tấm con thơ… Có thể một cơ sự như thế sẽ đến không?
2- Phải làm gì bây giờ? một người hỏi tôi thế, rồi hai người hỏi tôi thế. Bây giờ không phải là để hỏi như thế. Câu hỏi là: từ trước tới nay anh đã làm những gì? Anh có trách nhiệm gì với hiện tại này không?
Với riêng tôi, nhìn lại quá khứ từ 15 năm trở lại đây tôi có thể hài lòng để nghĩ rằng mình đã làm hết, đóng góp hết những gì có thể làm, có thể đóng góp. Lập trường dứt khoát của tôi đã hơn một lần được xác định trên những giòng chữ viết. Ở đó bao hàm một phấn đấu không cùng.
Nhập ngũ, rồi lên đường tới những vùng trận địa, nay nơi này, mai nơi khác kéo dài trong nhiều năm, nhận trách nhiệm.
Tôi đã lên tiếng về những gì tôi thấy, tôi nghe, tôi nghĩ, ở đó là cuộc chiến đấu của những chiến sĩ, là tiếng kêu thất thanh của người dân trong lửa đỏ, là cảnh điêu tàn của quê hương. Hơn ai hết, tôi mong ước một hòa bình trở lại. Bao nhiêu người khác cũng đã làm thế, hoặc hơn thế. Với thực tại này, khi truy nguyên tìm câu trả lời về trách nhiệm, nó không thuộc về tôi nữa. Và hiển nhiên, con đường lựa chọn, tôi tiếp tục. Phải làm gì bây giờ, câu hỏi ấy không còn ý nghĩa với tôi. Và tôi trả câu hỏi lại cho người khác, cho những người khác.
3- Văn chương có thể làm được gì trong tình thế này? Hãy gạt câu hỏi sang một bên. Hãy tưởng tượng tới một cảnh, người cầm bút ra nơi tuyến đầu, bên kia là giặc với những họng súng, rồi ở đó, người cầm bút lên tiếng: hỡi quân giặc, hãy đầu hàng và bỏ súng xuống… Với tiếng hô thật lớn, liệu giặc kia có đầu hàng, bỏ súng xuống hay cút đi không? Hay nói chưa hết câu, người cầm bút đã bị bắn gục? hoặc bằng một cách khác, những thơ truyện được đưa tới mặt trận… Đặt người cầm bút và văn chương vào một cảnh huống như thế là một sai lầm quá lớn. Đặt vấn đề như thế tức là phủ nhận văn chương và sức mạnh của nó. Bắn gục giặc cướp, bắt giặc đầu hàng, đuổi giặc đi xa, đó việc của những chiến sĩ nơi tuyến đầu. Nó không phải việc của người cầm bút, của văn chương. Mà văn chương thiết lập sức mạnh, cho những chiến sĩ, không phải trong một lúc, trong một giờ. Và như thế câu hỏi được đặt ngược trở lại: trong quá khứ, người cầm bút cũng như văn chương của ta đã làm được gì?
4- Cha tôi nói: hồi này thầy không ngủ được. Tôi không biết nói sao. Nhìn lại, trên 60 tuổi, bao nhiêu thăng trầm, những bôn trải từ 1945, để rồi năm 1954 ra đi với bao nhiêu ngậm ngùi. Lên đường, cha tôi vẫn nghĩ tới ngày trở lại, một hai năm nữa. Nhưng rồi không phải là một hai năm, hôm nay đã qua hai mươi năm, đứa em ngày lên đường mới 20 ngày hôm nay đã đến tuổi nhập ngũ… Rồi giặc nó vào tận đây sao? Tôi hiểu những gì cha tôi đang nghĩ, cũng như bao nhiêu người khác đã từng lựa chọn và tin tưởng. Ba mươi năm một cuộc chiến chưa ngừng lại và những tan nát còn không ngừng đổ tới… Năm 1954 gần một triệu người đã ra đi, bây giờ lại thêm một triệu người khác lên tiếng bằng chọn lựa. Có những người trong hai mươi năm đã phải phấn đấu để lập lại đời sống của mình không biết bao nhiêu lần. Tôi chưa thấy có một dân tộc nào lại phải sống trong kinh hoàng như thế. Dù phải chịu đựng, nhưng tất cả một đời sống lúc nào cũng là một phấn đấu. Có dân tộc nào bền bỉ và dũng mãnh như thế. Vậy thì tại sao cả khối dân tộc ta phải sống trong nhục nhằn, đau khổ chừng ấy. Bằng một cách nói tiêu cực: vận nước ta như thế sao? Hay nói với bằng chứng của lịch sử: chúng ta phải trả cái nợ máu của cha ông ta?
Có người đến hỏi tôi: có đi ra ngoại quốc không? Tôi đã trả lời dứt khoát: Tôi sống và chết tại nơi này. Người ấy hỏi: anh chấp nhận sống chung với người Cộng Sản? Tôi nói: tôi không phải là một con chó để nay sống với chủ này, mai sống với chủ khác chỉ vì miếng xương chúng liệng ra. Tôi tin tưởng con đường tôi đi. Có một nơi là lẽ phải và ánh sáng. Có một nơi là lẽ trái và bóng tối. Có trắng và đen không thể nhập nhằng được. Nếu tôi có chết chăng nữa, điều ấy tôi không ân hận. Lịch sử đã chứng minh rằng: nhiều khi cái chết là một điều tốt hơn là sống. Chết đi cho người khác sống, cho lẽ phải và sự thực, sống chết như thế cần thiết. Tôi bình tĩnh với quyết tâm đó.
Này những tên bất lương, hãy vơ vét, hãy chạy đi cho mau tiếp tục sống làm đầy tớ cho những tên chủ, và hãy đừng bao giờ ngửng mặt lên, hãy quên đi, đừng bao giờ nhắc đến hai tiếng Việt Nam.
5- Người phi công nói: chuyến bay đã không còn chỗ, nhưng người mẹ đã cố gắng đẩy đứa con lên, rồi người mẹ đứng lại, một tay đưa lên vẫy. Chiếc trực thăng bay lên và tôi nhìn thấy người mẹ quì xuống như cầu nguyện. Đẩy đứa con lên, tôi không quên được hình ảnh ấy. Có một nơi được gọi là hy vọng và cõi sống. Và một nơi là cõi chết. Có phải người mẹ kia đã muốn gửi đi đứa con trong hy vọng không? Khi trở lại, chúng tôi không còn thấy người mẹ đâu nữa. Dù sao tôi cũng còn hy vọng và cầu nguyện cho đứa trẻ kia gặp lại người mẹ thân yêu…
Sống tự do hay là chết. Điều đó được viết bằng xương và máu. Tôi mong ước mọi người cùng tôi góp lời cầu nguyện: cho chúng ta được sống làm người và thoát qua cơn thử thách này. Tương lai tùy nơi chúng ta với niềm tin đã có.
(trích trong Thời Tập số ra ngày 23 tháng 4-1975)
[nguồn by Trần Hoài Thư]$pageOut$pageIn
4 giai đoạn lịch sử dưới ngòi bút của Nhà văn Dương Nghiễm Mậu
Thư Quán Bản Thảo sưu tầmTrước 1975, Dương Nghiễm Mậu là một tên tuổi rất quen thuộc trên văn đàn miền Nam thời chiến. Văn chương của ông gắn liền với vận nước nổi trôi.
Sau đây là 4 bài văn xuất hiện ở bốn thời điểm khác nhau. Mỗi thời điểm mang một biến cố lịch sử khó quên:
- Bài một: Thời kháng chiến chống Pháp. lúc DNM còn trẻ
- Bài hai: viết về biến cố năm Mậu Thân (1968)
- Bài ba: giải thích về lý do ông không chịu di tản…
- Bài bốn: viết vào năm 1994
(thời kháng chiến chống Pháp)
GÀO THÉT
(trích)…Vì sự xa cách đã quá lâu của chàng với gia đình, nhưng hình ảnh một người nằm chết cong queo với con mã tấu nơi ngực thì chừng như rất rõ ràng, rất bi thảm, một hình ảnh như nằm kề ngay bên, nhắm mắt lại chàng vẫn thấy hiện ra. Bao nhiêu người đã chết như thế. Chàng không thể biết nhưng chắc chắn rất nhiều, những người cha, những người mẹ và cùng lúc những kẻ chết nằm ngoài bãi không ai nhận, không ai chôn cất … Bao nhiêu trẻ con bà già chết oan trong lằn đạn vô tình tàn ác… Đó là thực tế mà nay hiện rõ trong óc và chung quanh Thạch.
Hiền nói:
– Ở quê bây giờ như trạch bỏ giỏ cua chẳng biết chạy đi đâu. Chết lúc nào không biết. Vua Bảo Đại đã về rồi nhưng không biết rồi ra sao? Có điều dân quê chỉ biết làm mà ăn, không biết làm gì hơn, ai muốn làm sao thì làm, họ chỉ chịu đựng. Riêng em, em phải lánh đi, ở nhà không thể được.
Hiền muốn nói cho em tất cả những lo âu của mình, nhưng Hiền cũng muốn có em ở bên. Không phải chàng muốn em khổ, mà muốn có người để san sẻ những lo âu của mình. Ngay lúc đó Hiền lại muốn Thạch không phải khổ như mình, muốn Thạch sung sướng.
Hiền nói:
– Chú Hoành cũng đã ra tỉnh, em biết không?
– Nghe bác nói, nhưng em chưa gặp.
– Mai em phải đi, không thể ở nhà được.
Thạch im. Mẹ và chị Hiền đã vào nhà, bóng hai người đi lui cui trong bóng tối.
Thạch nói:
– Liệu bọn du kích còn trở lại.
– Bây giờ một thì bọn nó qua sông, hoặc đã xuống hầm rồi, lo là lo sớm mai Tây nó về lục soát, lại mất ít gà, lợn, hoặc bò, sớm mai anh sẽ đi với em lên huyện.
Hiền đứng lên:
– Thôi mình vào nhà, sương nhiều thế này dễ ốm lắm. Em thấy đó, đêm người dân cũng không được yên nữa huống chi là ban ngày. Và như thế làm sao để yên tâm làm ăn, ruộng vườn bỏ bê và đói. Nhà mình còn ít ruộng đó mà cày được cho có ăn đâu phải dễ gì, mà bán thì ai có tiền để mua.
Trở vào ngang sân, đưa mắt vào trong nhà bỗng Thạch chú ý tới một vật gì đen ở trên nền đất, chàng đi vào và nhặt lên tay một khẩu súng lục nhỏ, Hiền ngạc nhiên:
– Súng ở đâu đó, em có súng sao?
Thạch giữ khẩu súng trên tay:
– Lúc nãy có một cặp trai gái vào đây. Nếu không nhầm, qua lời họ nói, anh đàn ông là một du kích, còn ả đàn bà là vợ một anh chàng đi lính Ba-ti-giăng đóng ở ngoài quận…
– Chết cha, thật sao.
– Họ kéo nhau vào ân ái ở đây, lúc có hai người vào nhà họ im lặng và ẩn, trong khi vội vàng tên kia đã bỏ quên khẩu súng.
– Thế thì hắn sắp trở lại, nếu không mai cũng trở lại. Em nên bỏ vào đó, nếu mai họ mới lại thì sớm mình hãy cất… Anh biết là của ai rồi, không ngờ chuyện đó có thực.
– Ai vậy?
– Thằng Trạch và vợ thằng Tích ở cùng xóm. Không ngờ con nhỏ đó lại đến thế. Như thế chưa biết nó giết thằng chồng lúc nào. Chồng nó đâu đến nỗi.
Hiền và Thạch bước lên hiên nhà. Tiếng chị Hiền nói từ trong nhà ra:
– Cháy ở đâu vậy mình? Em sợ cháy dưới phía nhà bác Lĩnh quá.
Tiếng của chị Hiền run vẻ xúc động. Cháy dưới nhà bác Lĩnh, trong trí óc chất phác của chị Hiền hiện ra hình ảnh một căn nhà đổ nát. Gia đình bác Lĩnh vắng mặt. Đã chạy đâu? Hay đã chết? Tình nghĩa với một gia đình mà chị đã mang ơn trong thời gian tản cư khiến chị lo ăn không được. Anh Hiền trả lời:
– Không rõ lắm, nhưng có lẽ không phải nhà bác Lĩnh, vì nhà bác Lĩnh ở về phía sau cây đa, mà vừa xong anh nhìn thấy đám cháy ở mãi phía đầu chùa tay phải.
Tiếng đứa nhỏ khóc, chị Hiền vỗ về và ru. Mẹ Thạch nói run run:
– Đó, con thấy chưa, ở quê nào có yên gì, mẹ muốn con ở nhà cũng không được… Có đêm nào được ngủ yên đâu. Sống chết như trứng để đầu ngọn tre… Một hôm nào đại bác rơi vào nhà này chẳng hạn. Nói dại dột nếu vậy…
– Sao mẹ lại nghĩ thế?
– Thì có bao nhiêu chuyện đâu mình có thể nghĩ mà vẫn đến, nào loạn, nào giặc nào chuyện cha các con.
Chừng như bà mẹ lại bắt đầu khóc. Anh Hiền đã ngồi lên bộ ngựa đang xoa hai chân vào nhau cho đất bột rụng xuống.
-. Mẹ nghĩ quẩn làm gì, có số cả. Chẳng lẽ trời bắt người ta chết hết sao, mà chết hết thì trời ở với ai.
Anh Hiền nằm xuống mệt mỏi. Thạch cũng leo lên và nằm xuống bên:
– Em có thấy sợ không. Chỉ có cách nhau vài chục cây số mà đã thế đó, rồi ở đây qua một dòng sông lại khác nữa…
– Em có mấy đứa bạn nó rủ ra khu. Em hỏi: ra khu làm gì. Chúng bảo đi tranh đấu. Như vậy là thế nào. Tranh đấu cho ai. Em bảo không biết gì hết. Bọn nó la: đồ nô lệ chỉ muốn ăn cứt Tây. Em nghĩ tức mình quá. Sao đơn giản như vậy. Ra xem để rồi trở về làm du kích như họ đó sao. Mà nào phải mình theo Tây gì.
– Nếu em ở đây, em rõ dân chẳng phải không đánh Tây, không đuổi giặc, nhưng họ cần sống, họ lại thấy Việt Minh cũng chẳng thương dân gì. Những gì xưa kia có, họ cũng lặp lại như thế, chỉ khác người. Bây giờ đêm du kích về cũng bắt gà, bắt lợn, lấy tiền, thu thóc cũng đánh đập, bắt bớ phần nhiều vì tư thù, xem ra còn ác hơn cả Tây cả Nhật. Và Tây cũng diễn trò ấy. Thằng dân è cổ ra chịu mọi nhục hình, cắn răng nuốt hận, hé miệng ra có khi toi mạng. Cũng tại dân chẳng theo ai. Nhiều lúc anh nghĩ, hay dân ta quen nô lệ rồi. Chẳng lẽ… có điều, nắm được địa vị, quyền lực ai cũng thành bần, thành ác… Thôi ngủ đi, mai em nên đi sớm… Ở nhà cũng chẳng ích gì.
Anh Hiền trở mình nằm ngoảnh mặt vào phía trong. Thạch cũng xoay nghiêng ra phía ngoài. Đêm tối bít bùng lặng lẽ. Một không khí bít bùng che giấu những cơn sóng ngầm vận chuyển trong cuộc sống. Trong cả vùng Đoài giờ này chắc mọi người vẫn chưa nhắm mắt, hoặc có chăng cũng chỉ thiếp đi vì mệt nhọc.
Nằm đây nghe ngóng, bóng tối vây lấy, như cuộc sống, chàng mới thấu hiểu những đe dọa mà người dân phải chịu đựng, nhất nữa chừng như những đe dọa đến ngay với chính đời sống bản thân và người ruột thịt của chàng. Trong mỗi gia đình đều đã có những người chết, những người chết ở mọi nơi, trong nhiều năm. Mỗi giờ phút đang, hay sắp tới bất cứ ai, một lúc nào đó nhắm mắt chết đi, hoặc mỏi mắt giẫy giụa với cái chết… những gì được học, được nghe nơi nhà trường đã hoàn toàn trái với những gì chàng phải chứng kiến, phải sống trong thực tế. Luật pháp, nhân phẩm, tự do… tất cả những gì chàng đã suy nghĩ đó đều vô lý trước chiến tranh, không cần luật pháp sinh mạng người ta được xét xử một cách mau chóng tàn nhẫn, có chăng nhân phẩm của những người có sức mạnh, đơn giản hơn, của người có một mẩu khí giới cầm tay, con dao nhọn, hay khẩu súng. Chính nghĩa thắng, bao giờ chính nghĩa cũng thắng, những bậc thầy khả kính của Thạch đã nhắc đến nó từ bao lâu nay, nhắc đi nhắc lại… nhưng sao người Việt, với chính nghĩa là đời sống, là dân tộc mình, mà vẫn phải thua dưới sức tấn công xâm lăng của Pháp, của Tàu, những người không có chính nghĩa… cũng như chiến tranh hiện đại, dân chúng có muốn đâu vẫn bị xô đẩy vào các cuộc tàn sát bi đát thảm khốc không sao thoát ra được.
Căn nhà này, xóm làng này, từ bao nhiêu năm trước chàng vẫn hình dung ra một nơi êm đẹp, bình yên cho chàng có thể nương náu, nhờ cậy… như những kỷ niệm trong những mùa hạ đã trải qua, bây giờ… thiên đường đó đã bị tàn phá, tan hoang, và như thế tất cả những gì đã có trong quá khứ sẽ chẳng bao giờ còn trở lại nữa, như những căn nhà chung quanh đã cháy, đã đổ nát, như cha chàng đã chết. Chiến tranh vẫn chưa biết đến bao giờ mới chấm dứt…
Rất lâu trong đêm Thạch mới ngủ được.
Đoài là một làng nằm trong vùng ngay bên hữu ngạn sông Đáy, ngay bên đường quốc lộ chính Sơn Tây, Hà Nội, và cùng với con đường dọc theo xuống mãi Thanh Quang, Ngã ba Thá…
Làng Đoài nằm sát ngay bên bờ đê, con đê được coi như vòng đai phân ranh giữa hai vùng chiếm đóng của Việt Minh và Pháp. Đồn chính của vùng đóng ngay nơi chợ Đại Phùng, và dọc theo bờ đê nhiều đồn bót nhỏ tại Quế Lương, Yên Sở… Có thể thấy ở vùng đất đai đặc biệt đó một đời sống điển hình, những điển hình đau khổ, tranh chấp bi đát của cuộc sống dân quê. Trong khi đó chiến tranh vây phủ trên khắp đất nước với sự có mặt của quân đội Pháp bên một chính quyền bù nhìn của Bảo Đại. Đứng về phía Pháp để chiến đấu tự nhận là có chánh nghĩa được sao? Đứng về Việt Minh, nhưng Việt Minh là Cộng Sản… chắc chắn sẽ lựa chọn đứng về phía Việt Minh dù không phải là Cộng Sản… Nhưng tại sao không có một lựa chọn cho một con đường thứ ba…? Điều này Thạch không thể tìm kiếm vì Thạch là thanh niên còn ở tuổi hành động, ở tuổi những cảm tính còn mạnh. Đó là thực tế chua xót nhất.
Qua một đêm ngủ chập chờn những đe dọa không yên, Thạch thức dậy, không khí im lặng và êm mát, không khí mà đã bao lâu nay chàng không được biết đến, được sống và thở với nó. Tại sao lại có chiến tranh, Thạch vẫn tự hỏi một cách vô lý như thế, hỏi để không trả lời. Mà dù có trả lời cũng không thể dứt khoát được. Còn biết làm sao?
(trích Gào Thét của Dương Nghiễm Mậu, Văn Uyển xb Saigon 1968, từ trang 52-58)$pageOut$pageIn
(biến cố Mậu Thân)
TRONG KHÓI LỬA Ở SÀI GÒN NGHĨ VÀ VIẾT VỀ HUẾ
Năm giờ sáng ngày ba mươi Tết tôi thức dậy trong thành phố Huế, trời lạnh buốt, sương muối đọng trên những lá cây rơi xuống mặt, xuống cổ buốt như những mũi kim nhọn chích vào da thịt. Những người bạn mới thân và những người bạn cũ đã đến, chúng tôi hẹn nhau đi ăn sáng trước khi trở về Sài Gòn sau một tuần lễ ở lại cố đô, người bạn hơn tôi hai tuổi vừa ở trong quân ngũ bốn năm ra nói với tôi: đã thay đổi ý định chưa. Tôi cười nói chưa, tôi đã nói tôi cũng muốn ở lại, câu chuyện còn dài lắm, nhưng tôi nghĩ có những điều mình không phải nói với nhau mà đã hiểu rồi, tôi trở về vì ở trong đó còn cha già và những người thân yêu, tôi vẫn không ngừng cố gắng để làm những gì tôi có thể làm được, dù đó là một việc nhỏ nhưng tôi không nghĩ việc có mặt của người con cả trong một gia đình trong đêm giao thừa là một việc nhỏ. Anh bạn nhìn tôi. Khu Thành Nội vẫn còn yên ngủ, những đêm liên tiếp không nhắm mắt với tiếng đại bác nổ từ xa, những tiếng súng nhỏ đơn lẻ, tiếng máy bay tản thương đậu xuống trong khu bệnh viện dã chiến khiến cho người tôi khô đi tỉnh táo theo với những ly rượu mạnh và những điếu thuốc đốt không ngừng cháy trên môi. Tôi leo lên sau chiếc xe gắn máy của người bạn, hành lý không có gì ngoài mấy gói kẹo mè xửng, mấy quả nem chua, trong đó còn có quà của một người bạn gửi cho cha mẹ hiện sống ở Sài Gòn. Con đường Hòa-Bình, Hiền Nhơn, Đông Ba còn mù trong sương sớm, chưa có một cánh cửa nào mở, thành phố chừng như vẫn chập chờn trong giấc ngủ cổ tích của mình, giấu hơi ấm và nhịp thở sau những tường gạch sâu mốc ẩm rêu phong, dưới những mái ngói nâu cũ và những tàn cây thấp xanh đen. Cửa thành Đông Ba còn lẩn trong nền trời tối, mấy ngọn điện sáng lên đơn lẻ. Con đường Gia Long những cửa phố đóng kín, một vài người đi xuôi ra phía chợ trong đó có người vác theo một cây mai lớn, vài quán ăn đã mở cửa, trên cầu Gia Hội đã đông người đi lại, trong bến xe, nơi hiên chợ, dưới những quán nhỏ thấp thoáng bóng người qua lại rộn rịp, bến sông những chiếc thuyền chúc đầu vào bờ im lìm với những ngọn đèn nhỏ leo lét không rõ những khuôn mặt qua lại. Bọn chúng tôi, sáu người ghé vào một quán ăn nơi phía ngoài chợ, quán đông người, không còn một ghế trống, những ly cà phê , người bạn nói phải tiễn anh bằng một chầu bún bò Huế mới được. Nhưng hàng bún mọi ngày chưa có, chúng tôi quay xe chạy qua cầu sang nhà ga, trạm xe lên phi trường đặt ở đó, tôi coi đồng hồ: sáu giờ ba mươi, tôi lo trễ, gió thổi ngược lạnh buốt trên da mặt, cây cầu chừng như dài hơn mỗi ngày, dòng sông đen sâu phía dưới, lấp lánh những ngọn đèn ẩn hiện nơi những lùm cây xa trên hai mạn bờ. Khu bến phà sáng chói, ánh sáng làm bật rõ khu đại học màu vôi trắng mỏng. Đài phát thanh, khu đại học, trường Đồng Khánh, trường Quốc học… Nhà ga hiện ra trong bóng tối nhòa nhập, những ngọn đèn xanh, những chiếc xe ca nằm ngổn ngang ngoài khoảng sân trống rộng. Trong nhà những hành khách lặng lẽ trên những băng ghế, chuyến xe chưa bắt đầu, những người tài xế còn đang hí hoáy coi lại máy, bánh xe, chúng tôi vào trong quán gọi mỗi người một ly cà phế sữa, những hơi thuốc đều tiên trong ngày, những lời dặn dò sau chót, những cái bắt tay thắm thiết… Ngồi trên băng ghế lạnh trống, trong xe chỉ có bốn người, một người đàm bà ngồi thu mình im lặng, hai người đàn ông ngồi đối diện nói không ngừng những câu chuyện riêng không rõ ràng. Chuyến xe lăn bánh, tôi vẫy tay từ biệt những người bạn, từ biệt Huế sau những ngày gặp lại cách nhau hơn mười ba năm. Chuyến xe chạy nhanh trên những con đường vắng, dưới những lùm cây mù sương. An Cựu, Gia Lễ, Phú Bài, con đường đá nhỏ chạy giữa những lùm tre xanh lả ngọn, giữa những ruộng lúa xanh trĩu ngọn vì sương mai còn đọng óng ánh. Buổi sáng chạng vạng, những cơn gió lạnh thổi đẩy vào lòng xe, dưới chân những ngọn núi phía xa sương còn đục lờ như những đợt mây thấp. Cánh đồng lúa, những cơn gió lạnh khiến tôi nghĩ tới quê hương miền Bắc. Ở ngoài đó, rất xa, những năm thơ ấu, mưa phùn gió bấc căm căm… Từ biệt Huế sau mười ba năm gặp trở lại, từ biệt bạn hữu, từ biệt căn nhà có vườn cây xanh, có bể nước, có giếng gạch sâu, có tiếng nói một người: bây chừ anh đã thay đổi những ý kiến về Huế chưa…
*
Khi tôi viết những dòng này là ngày mồng bốn Tết, buổi tối trong căn nhà im lặng của những con đường, khu phố chung quanh. Cơn choáng váng của biến cố còn làm tôi vật vờ. Những lo âu, uất ức như còn ứ nghẹn trong lòng ngực. Đêm giao thừa cùng với tiếng pháo nổ thì cũng là tiếng súng của những người cộng sản nổ vào bảy thị trấn miền Trung, trong đó có Huế, chưa trọn một ngày tôi dời khỏi, lo âu về những người thân ở lại đó còn thắc thỏm trong lòng, thì khuya đêm mồng một tết, những tiếng nổ từ xa cùng với trái sáng đầy trên bầu trời Sài Gòn khiến tôi lo âu. Bọn họ cũng trở về đây nữa sao, biến cố đã xảy ra như thế nào sau bức màn của hậu trường chính trị, của những mưu toan, những tham vọng chót ngất… Chỉ có ba mươi sáu giờ hưu chiến cũng không thể có được sao? Sao nói tới những một tuần? Không thể quên đi súng đạn, giết chóc, tàn sát, chất nổ trong một ít giờ sao? Không thể ngồi yên lặng, bên một ly rượu suông, một chén trà nhạt nghĩ tới những ngày đã qua sao? Không muốn nhớ tới những người đã chết, những người thân yêu xa cách mong chờ sao? Không muốn gợi lại một vài kỷ niệm vui buồn, đắng cay trong đời sao? Người ta đã quên hết, quên hết, như một người con gái đã mất hết, quên cả tiếng người như trong một bài hát của Sơn sao? Tôi không muốn nghĩ như vậy, tôi không muốn tin như vậy. Cuộc chiến này chúng ta đều không mong muốn có phải vậy không các người anh em của tôi, những người đã sinh ra lớn lên trong đất nước này, trong cuộc chiến không nguôi này? Mở cửa ra đứng ngoài con đường ngơ ngác ngó lên những trái hỏa châu chói sáng, lòng nghi hoặc, biết hỏi ai, ai biết, bao nhiêu người đã thức dậy trong đêm đó ở thủ đô nhìn nhau tự hỏi với những giả thiết mơ hồ, trong đêm đó những ai còn say mê bên bàn bạc, còn ngủ trong hơi rượu, còn thiếp đi hạnh phúc trong chiếu chăn nồng ấm của vợ trẻ con thơ… Có điều nhiều người đã nghe thấy tiếng súng nổ tưởng như tiếng pháo của những người nào ngái ngủ thức dậy trong đêm nhìn thấy còn phong pháo trong nhà… Nhưng sự thật thì súng đã nổ, nhưng sự thật thì có những người anh em đã ôm lấy súng vượt những quãng đường xa lạ, lặng lẽ tiến tới những mục tiêu giữa lúc mọi người tưởng như ngày xuân còn dài với những hy vọng… Không bao giờ những người cộng sản muốn chúng ta hy vọng, những cầm cầm súng từ khu trở về muốn chúng ta sống với thực tại: một cuộc chiến không trận tuyến, một cuộc chiến như định mệnh khắc nghiệt ôm khít lấy thân thể và số phận chúng ta… Đó là điều chúng ta không mong muốn, nhưng đó là điều chúng ta phải biết nếu muốn còn được sống, dù sống khổ đau…
*
Tiếng đài phát thanh mất hút trong đêm, tiếng nói ấy nhiều khi là giá trị của thực tại, của một hiện diện, tiếng nói ấy mất đi như bằng cớ của một sự hoang vắng, của sự vô danh. Tôi nghĩ thầm: lại những biến cố nào đây? Buổi sáng ngơ ngác trên những con ngõ còn ngập xác pháo hồng, những thùng rác để ngổn ngang tràn đầy, tiếng nói từ đài phát thanh, lệnh thiết quân luật 24 trên 24 được ban bố, cộng sản quấy phá tại đô thành và nhiều tỉnh, kêu gọi dân chúng bình tĩnh ở lại trong nhà, một vài mẫu tin không rõ ràng: cộng sản tấn công dinh Độc lập qua ngả cổng đường Nguyễn Du, bắn hai phát 57 ly, một xe cam nhông chất nổ, mười tên bị chết tại bộ tư lệnh hải quân, hai tên bị bắt sống, mười bốn tên chết tại đài phát thanh, đài phát thanh hư hại không xử dụng được, tiếng nói nhiều lúc tắt nghẽn, tiếng kêu gọi dân chúng dời khỏi vùng Bà Quẹo trước mười tám giờ, một số người nóng ruột, hiếu kỳ túa ra đường, những tin truyền miệng không rõ ràng: một người làm cảnh sát trong xóm chết tại ngã tư Yên Đổ – Trương Minh Giảng, một người nói người ta chạy từ những Phú Thọ, Bà Quẹo vào Sài Gòn. Một bà nói: họ đông quá trời, họ ùa vào nhà tôi đòi nấu cơm cho ăn, giọng nói nghe không được. Một thanh niên nói: họ đi ngang qua cửa hỏi đường vào khám Chí Hòa phần lớn họ đi chân không, có mang ở tay hoặc ở cổ một miếng vải đỏ… Một người ở Cổng-xe-lửa số 10 chạy xuống nói: giữa đêm có ba người gõ cửa vào nhà, bắt trong nhà ở im, nấu cơm cho ăn… Lệnh cấm đốt pháo được loan truyền, nhưng sau đó một nhà chừng như còn tiếc bánh pháo còn lại mang đốt, tiếng nổ khiến mọi người giật mình chửi lớn… Những lời bàn tán, những dự đoán… Nhưng tất cả đều không biết gì, máy thu thanh tại tất cả mọi nhà đều mở thường trực, tiếng hát có những mấp lại, những tin tức về những vùng đang đánh nhau: trường nữ quân nhân, Ngã tư Xa lộ – Hàng Xanh Việt cộng bị thương chạy ra khu chợ Bến Thành bị bắt, tại khắp các thị trấn đều có cuộc tấn công, đài phát thanh Hà Nội loan báo về sự thừa thắng… Tôi cố gắng phát họa trong đầu về cuộc tấn công với hai mặt chính: một từ phía Quang Trung, Bà Quẹo xâm nhập xuống Ngã tư Bảy Hiền, Phú Thọ: một từ mạn Thủ Đức xâm nhập vào Xa lộ, vào Phú Nhuận, Đa Kao… Tôi cũng chỉ nghĩ tới một số những toán cảm tử, vào để chết, xâm nhập nhân dịp hưu chiến, lợi dụng giới nghiêm được hủy bỏ, chắc họ đã vào từ đêm giao thừa giữa lúc Sài Gòn ngập tiếng pháo… Chúng ta có dự liệu những trường hợp này không, chúng ta có nghĩ tới những người không lúc nào ngủ, lúc nào cũng cầm chắc súng trong tay không?
Buổi sáng tan dần, buổi trưa nắng lên nhàn nhạt, nền trời nhiều mây thấp u ám. Máy bay lượn trên bầu trời, máy thu thanh vẫn những đĩa nhạc cũ chạy rè rè thỉnh thoảng một vài lời nói về tin tức, nhắc nhở, thông điệp thứ hai đầu năm của Tổng thống, buổi trưa trôi qua, buổi chiều âm u thêm, những chiếc máy bay chúc xuống mạn Gò Vấp, Bà Quẹo, những tiếng nổ lớn vang động, đêm xuống, hỏa châu sáng cả một vùng trời, cột khói bốc cao mạn Xa lộ, một vài tiếng nhỏ lẻ tẻ… Đài phát thanh liên tiếp những nguồn tin không rõ ràng, đêm trôi qua nặng nhọc… Những bản tin trên các đài phát thanh nói về những trận đánh ở Nha Trang, Qui Nhơn, Kontum, Đà Nẵng, Huế bị tràn ngập và đang chiến đấy gay go. Tôi nghĩ tới những người bạn mới chia tay nhau hôm ba mươi tết, người bạn hỏi tôi: chúng ta phải làm gì? Tôi nói tôi không bao giờ chấp nhận cộng sản, người bạn đưa cho tôi một lời kêu gọi in ronéo với tiếng Việt và tiếng Anh, đó là lời kêu gọi của các phe tham chiến kéo dài hưu chiến vô hạn định, tiến tới hòa đàm, dưới đó ký tên những giáo sư khoa bảng, một số có những tiếng tăm nào đó, một số đã từng được ưu đãi và thường tự nhận như những phần tử tiến bộ trong giới giáo sư khoa bảng. Người bạn hỏi: nghĩ sao, tôi cười nói ai có việc của người đó, nhưng đừng mặc cảm, tôi lựa chọn sự minh bạch, đừng ai quên bài học liên hiệp trước đây của cha chú mình, tôi không bao giờ tin cộng sản có nhân đạo, họ chỉ có cứu cánh, chỉ có một sự thật, chúng ta có nhiều sự thật, chúng ta yếu trên một phương diện nào đó, yếu vì nắm giữ nhiều sự thật nhưng đó là mối hy vọng để chúng ta thoát ra, sống sót và phục hưng.
*
Sáng mồng ba, những tin tức vẫn mù mờ. Tôi ra đường đi ngược lên phố, mọi con đường vào trung tâm đều bị phong tỏa, hai bên đường cờ treo trong dịp tết vẫn phấp phới, trời âm u không có nắng, những người mang theo bị, va ly đi hớt hải trên đường phố, những chiếc xe nhà binh, binh sĩ cầm súng ngang chạy qua vun vút, những xe cứu thương còi réo hối hả, người ta tụ lại những góc đường, cửa nhà hỏi thăm tin tức. Ông bà ở đâu tới – Dạ trên Phú Nhuận – Tôi ở trên Cây Thị – Nghe nói chúng vào trong bệnh viện Cộng Hòa lấy hết máu, thuốc men và bắt đi những bác sĩ và y tá trực… Gặp một người bạn đi tìm tin tức của vợ chưa cưới, anh nói: nhà phía trong đường Ngô Tùng Châu, Gia Định, bây giờ chỉ có người chạy ra, không ai được vào nghe nói bọn nó kéo vào đó sau khi bị dồn từ khu Tổng tham mưu sang. Có người còn nói chúng đang đào hầm ở trong khu đó nữa, có lẽ chúng tìm đường chạy về phía Gò Vấp cũng như cánh quân ở khu Hàng Xanh, Cầu Sơn đang chạy về phía Thủ Đức. Tôi không biết gia đình cô ấy chạy đi đâu hay vẫn còn mắc kẹt trong đó, đi hỏi thăm những người quen nhưng vẫn không tin tức gì. Trông anh bạn phờ phạc lo âu. Tôi nói sau đây mấy ngày chắc một số người phải chịu tang những người thân, một cái tết người ta sẽ không quên được.
Buổi chiều một ông bạn của cha tôi ghé lại chơi, ông đi chúc tết, ông nói: ở nhà buồn quá không có ai tới chơi, mà mình cũng không dám đi đâu, loanh quanh tôi đi liều, ra ngõ thì gặp một người bị chết ở đó, người ta nói đừng đi nhưng tôi cứ đi, ông mừng tuổi cho mấy đứa nhỏ, ông ăn mặt cẩn thận như ngày tết mà sao trông lạc lõng, đó cũng là hình ảnh tôi gặp ngoài đường, nhiều người vẫn như tiếc rẻ về bộ đồ tết của mình chưa được dùng đến, ông nói vùng Ngã Bảy người ta chạy lên nhiều quá, bọn họ giữ cả một khu lớn từ Ngã Bảy xuống tận Phú Thọ, bọn nó chết đầy trên đường Nguyễn Tri Phương, nhiều nhà bị đốt… Những nhân viên chính phủ không chạy kịp bị bắt và bị giết, chúng dùng từng đoàn trẻ con làm bia đỡ đạn để di chuyển, bởi vậy nhiều đàn bà và trẻ con chết một cách oan uổng… Thằng con tôi đi xuống mạn Nguyễn Văn Thoại về nói trông những xác chết cháy còn lại một chút, những xác chết không toàn thây ở dọc đường… Ngồi nói chuyện một lúc ông nói: bây giờ nghĩ tới đường về tôi thấy lo. Nhà ông ở mãi dưới Phan Thanh Giản.
Mới chiều xuống những con đường đã vắng ngắt, người ta rút vào trong nhà đóng kín cửa. Tôi ngồi im nghe hết đài phát thanh này tới đài phát thanh khác. Trận chiến vẫn tiếp diễn nặng tại nhiều nơi như Huế, Đà Lạt, Bến Tre…
*
Bây giờ Huế ra sao trong cơn lửa đạn này. Tôi nghĩ tới những người bạn, đêm nào Sơn hát một bài còn dở dang, Nhân danh ai anh bắn vào người đồng loại… bài hát viết cho một người đã bị bắn vào bụng, người đó là Ngô Vương Toại, trong buổi Sơn hát cho các sinh viên nghe tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Bây giờ Sơn ra sao? Căn nhà vườn cây xanh trong Thành nội, vợ chồng Cường, đứa con nhỏ, cô bé Trang ra sao? Quân có còn cơn say không bao giờ dứt, tài thiện xạ của anh có được dùng đến? Những cô gái Huế mái tóc dài, đôi mắt đen lánh quyến rũ sớm mai thức dậy có còn ngồi trước bàn phấn? Bẽ bàng soi sắc gương Tư Mã. Ai điểm trang mà em phấn son… Kha có còn nhớ lời tôi vặn hỏi: tôi mong cho tới khi Kha có một đứa con, đứa con đó một tuổi mà vẫn không thay đổi, khi đó tôi sẽ đợi thêm hai mươi năm để… Những cậu con trai mang mốt Sài Gòn về đi bát trên con đường Trần Hưng Đạo bây giờ làm gì… Những khoang thuyền trống bây giờ chờ đợi ai?… Kha có còn nhớ tôi nói về một bài thơ của Nguyễn Văn Phụng, những hình ảnh không thể quên, những điều phải nhớ như: tình yêu thì bị gậm mòn như đôi guốc mộc, em kéo trên con đường…; và phi lý vô cùng, phi lý không chịu nổi, khi những bạn bè thân tôi vì chủ nghĩa. Nhưng không bao giờ đồng ý hay chịu được những điều khác, quê hương ta thì nghèo, điều đó đúng, nhưng nhất định không bao giờ người dân ngu dốt, người ngoại quốc có thể nhầm để nói như thế, dân ta không ngu, mà dân ta không được học. Nhưng Phụng đã nhận thấy đúng, đúng một cách chua chát khi nghĩ và viết:
Này các anh,
khi các anh bàn với tôi về quê hương đất nước
bàn với tôi về vai trò trí thức
tôi thấy các anh hút thuốc lá Mỹ khi ăn những
chiếc bánh Tàu-chợ-lớn thứ chính cống
Này các anh,
khi các anh nói với tôi về chiến tranh
bàn với tôi về bổn phận
và yêu cầu tôi đọc thơ giữa đám đông
tôi thấy các anh mặc veston thắt cravate
leo lên một ngôi nhà ba từng làm trường học
đổ thơ ra trên những bánh ngọt
đổ thơ ra trên những ly cá phế thủy tinh
tôi đã thấy các anh xưng tụng những bài thơ phản chiến nhất
với những đứa con gái đánh phấn và để móng tay dài
với những đứa con gái thích dự bal và yêu nhạc kích động (1)
Mười ba năm xa cách trở lại Huế, tôi thấy thành phố vẫn như xưa, có chăng một vài thay đổi nhỏ trên những khu thương mãi, và tôi nhớ những điều khi xưa viết về Huế. Sao lại chọn đất này để làm vua? Tôi muốn một ông vua nào đó của nhà Nguyễn thức dậy nơi những lăng tẩm nguy nga cổ kính trả lời cho mình: sao lại chọn đất này để làm vua? Vẫn những con đường năm xưa, những ngôi nhà năm xưa, khác chăng nhiều con đường đã được mang tên mới như Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Hiệu, Mai Thúc Loan, Tăng Bạt Hổ, Đoàn Thị Điểm thay cho những Hộ Thành, Âm Hồn, Đông Ba, Mã Khái, Hiền Nhơn… Không còn muốn cho Huế sống với lịch sử của nó sao? Hãy để cho những thị trấn, những làng mạc giữ lại lịch sử của mình, chính lịch sử nó làm nên tinh thần yêu nước. Những danh nhân chẳng bao giờ muốn mình xóa đi những gì mà người dân sống đã quen thuộc với nó… Tôi nghĩ thế. Bây giờ Huế ra sao? Những cành mai vàng, những chậu cúc, thược dược, những bông hải đường vẫn trổ bông đón chào một mùa xuân không đến với người?
*
Buổi sáng, những cơn thiếp ngủ chập chờn trong đêm khiến người mệt mỏi, tôi vòng lên phía Tân Sơn Nhất, đường vắng tanh, chỉ có những binh sĩ vác súng đứng nơi dọc đường hoặc di chuyển, loáng thoáng một vài người qua lại. Những hàng rào kẽm gai giăng ngang đường, gần các cơ sở, bót cảnh sát, nơi những ngõ vào Sài Gòn, nơi những đầu cầu từng đám người tụ lại vì không được qua, nhiều những phát súng chỉ thiên bắn lên khiến những người tụ lại tản ra. Những xe cứu thương, xe tuần tiễu chạy không ngừng. Những lời nói qua lại về những cuộc lùng kiếm, bắn nhau tại vùng Ngã Năm Bình Hòa, Phú Nhuận, Nguyễn Tri Phương, Sư Vạn Hạnh, Chuồng Bò, Ngã Bảy. Buổi trưa những cột khói cao trên bầu trời xám. Mặt trời úa đỏ. Cháy ở Cầu Sơn, Hành Xanh, Ngã Bảy. Những khuôn mặt hốc hác trên đường phố…
*
Đài phát thanh liên tiếp những thông cáo, kêu gọi và những bản nhạc đủ loại lộn xộn. Theo những lời khuyên tôi không trở về nhà, ngủ trên một chiếc bàn. Tin cho thấy trận chiến đã lắng xuống, cộng quân hoặc tìm cách bám sát vào những khu đông dân chúng, luồn sâu vào trung tâm, tìm cách lẩn ra ngoài hoặc đầu hàng, trái sáng thả đầy trên nền trời cùng những chiếc máy bay đủ loại, tiếng súng nổ ngoài Xa Lộ, khu Cầu Sơn, những con phố vắng hoe không một bóng người. Tin Huế vẫn hoàn toàn đen tối: hai bên vẫn đánh, những cánh quân tìm cách bám lấy những cứ điểm then chốt nơi hai đầu những cây cầu, trong khu Thành nội. Những họng súng nào đang hờm ở Tây Lộc, Kim Long, An Cựu, Bến Ngự… Tới Huế trong những ngày cuối năm, Huế không phải nơi tôi muốn dừng chân lâu, tôi muốn đến một vài nơi khác như Quảng Trị, La Vang, Bến Hải… nhưng tôi không tới được những nơi dự định đó, cuộc chiến đang diễn ra ác liệt ở Đồng Hà, Khe Sanh… Dự đám tang ông thân một người bạn cũ, người bạn mắt đỏ hoe, giọng nghẹn ngào: về tới nơi thì ba em đã mê đi rồi, không nói được nữa, như khi tới nơi ông biết, mở mắt nhìn, miệng mấp máy và ôm lấy đầu… chừng như ba em chờ các con trở về… Nhưng chỉ có người con gái có mặt bên người cha khi hấp hối, còn con trai đi lính trình diện nhập ngũ không trở về kịp, cùng những đứa cháu. Cuộc chiến ở nhiều khuôn mặt tĩnh vẻ đau đớn nhiều hơn, một người cha, người mẹ chết không có một người con ở bên vuốt mắt, chúng đang học ở xa, đang chiến đấu ở mặt trận, ở một tiền đồn nào. Người bạn nói về cái chết của một giáo sư có nhiều con, ông chết ngồi trên ghế một mình… Phần mộ nằm trên một sườn núi cao ngó ra phía cửa biển Thuận An, những viên đá xám tím, đám tang đi trên một con đường gập ghềnh bánh xe tăng, trên sườn đồi không lâu còn là chiến trường, một người kêu đám trẻ không đuợc lên cao, trên đó có đồn binh, một trái mìn nào đó còn quanh đây, chiếc quan tài mệt nhọc trên tay những phu đám leo lên theo những con đường mòn nhỏ một cách khó khăn. Chiếc quan tài trong lòng huyệt, những nắm đất ném xuống, giọng hò nện buồn buồn vang lên trong không khí tịch mịch: còn vài ba bữa nữa, sao đã vội ra đi, bỏ lại con thơ vợ dại, sao không ở lại vui cùng các bạn thân quen, bây giờ chia tay đôi ngả, cách biệt nghìn trùng… Những tiếng khóc nghẹn ngào… Sao không vui cho người đã chết, quên đi cuộc sống này, chết yên lành và được nằm xuống một nấm mồ riêng? Bao nhiêu người chết phơi thây trong những khu rừng hoang vu, bao nhiêu người chết tan xác trong lửa đạn… bây giờ chiến tranh đã ở Sài Gòn, Huế, những thị trấn, chiến tranh một cách thực sự, nhưng không có nghĩa trước đó chiến tranh không có mặt ở Huế. Chiến tranh có mặt ở Huế với tiếng súng vọng vào mỗi đêm, là những bao cát chất trên những cỗ ngựa láng bóng trong những gnôi nhà cổ kính, là những thùng dầu hôi cất dấu trong những hóc tối cùng với những gạo Mỹ. Và trên đường phố đông đặc những người lam lũ không sinh trưởng ở Huế và những khuôn mặt bảnh bao làm lạ với Huế, bên đó là những người hành khất chen nhau nơi các quán ăn. Tôi đã rùng mình khi thấy một bàn tay đen bẩn từ phía sau đưa tới cầm lấy miếng thịt chân giò trong tô bún tôi vừa để xuống bàn. Tôi lánh mình ra bên, một đứa nhỏ và một bà già… Chiến tranh vẽ ra trên khuôn mặt Huế những nét đó, những nét xưa kia không có, có thể ngày nay còn nhiều khía cạnh khác…
Nhưng rồi sau biến cố này Huế có thay đổi gì không? Chắc là không trên những con đường, những căn nhà, những nếp sống như lăng tẩm cổ thành, nhưng chắc sẽ có những biến đổi nơi hành động, những bàn tay lật đi lật lại, những đổi trắng thay đen, những giao động, những lựa chọn? phải thế không? Người ta sẽ không sống được như gỗ đá. Chắc Sơn hiểu, điều tôi đã nói: vì sao mình lại viết? dù nhiều khi cũng trông thấy những bất lực ngay trong những hành động. Nhưng không bao giờ tôi chấp nhận một thái độ hư vô, tôi cố gắng trong phạm vi nào mà tôi có thể cố gắng được, cố gắng từ cái nhỏ nhất, trong công việc, trong đời sống, bởi tôi nghĩ những cái không đáng gì (hay rất thiết thân) đó đang là những mầm mống chính nếu như chúng ta còn muốn thoát ra, muốn mưu đồ, gây dựng lại một cái gì, tôi nói với các anh về một cách phục hưng phẩm cách, một làm lại, mà đầu tiên khởi từ trong mỗi chúng ta. Chỉ có thể bắt đầu từ đó…
*
Những tin tức mơ hồ, những lời truyền miệng không rõ ràng khiến tôi lo âu hơn, tôi muốn trở về nhà, hôm nay là mồng bốn tết, công chức vẫn được lệnh ở lại nhà, giờ giới nghiêm vẫn như cũ nhưng người ta vẫn tìm cách ra đường được tới mức có thể đi, những tiếng súng vẫn nổ ở khu Gò Vấp, Gia Định, Hành Xanh, và mạn dưới là Ngã Bảy, Sư Vạn Hạnh, Minh Mạng, Phú Thọ, Phú Lâm…Người ta nói về những toán cộng quân tìm cách chạy theo những toán người tị nạn, trước đó chúng đã xé nhiều sổ gia đình, căn cước của dân chúng, chúng đột nhập nhà thương Nhi Đồng, một vài toán nhỏ xâm nhập khu Bàn Cờ tuyên truyền, với những lời nhắc đi nhắc lại giống nhau khoảng mươi dòng được học thuộc, đó là những cán bộ khoảng mười bốn , mười lăm tuổi gồm cả phụ nữ. Tin về một vài cán bộ tại Bàn Cờ, Cầu Ông Lãnh bị dân chúng bắt sống đánh chết. Buổi trưa nắng đục, những ngọn khói cao phía Ngã Bảy, Gò Vấp khiến nóng ruột lo âu, nhà mình, nhà những người thân có thoát ngọn lửa hung tàn không. Nhiều vùng ngoại ô vẫn hoàn toàn mất liên lạc. Buổi chiều tôi trở về nhà theo đường Đakao, nơi cầu Bông từng đoàn người từ phía Gia Định chạy sang, nơi cửa một tiệm bánh mì người ta bu quanh tranh nhau mua. Một vài cửa tiệm hủ tiếu mở cửa, giá cắt cổ với tô hủ tiếu lỏng bỏng những nước trong veo. Đường Trần Quang Khải bị cô lập nơi bót cảnh sát, trên các cửa rạp chớp bóng vẫn còn những quảng cáo cho các phim đầu năm với những dòng chữ chúc tết. Tôi quay trở lại đường Hiền Vương, rẽ xuống Hai Bà Trưng, Cầu Kiệu bị chận lại, tôi rẽ Yên Đổ, không có lối sang, tôi rẽ Công Lý trở về Trương Minh Giảng, những con đường vắng hoe, những chuyến xe tuần tiễu, xe cứu thương và xe nhặt xác chạy trên những con đường không người, trên lề đường nơi nào cũng còn vương đầy xác pháo hồng, cùng đó những đống rác cao nghệu hôi thối, trước những cửa nhà, bên những đống rác nhiều khóm hoa cúc vàng, thược dược héo rũ. Đó là những tặng vật của ngày tết để lại trên đường phố hoang vu. Thất lạc, chết chóc, nhà cháy, đói… những người từ ngoại ô trở vào hỏi nơi tạm trú và trạm tiếp tế. Một người đàn ông đứng tuổi nói tới cảnh trở về khu nhà mình ở gần Cầu Sơn: thúi quá, cách xa tôi đã thấy thúi, không về được, người vật chết trong những căn nhà đổ, cháy… Một người nói, ở Phú Nhuận dọc theo đường rầy xác chết ngổn ngang, đường rầy bật tung… Một người nói, ở dưới nghĩa trang Đô Thành người ta đào những hố lớn lấp nhiều người xuống bằng xe ủi đất. Xóm tôi ở đêm trước chúng về tuyên truyền dân chúng khua thùng sắt tây, bắn bị thương một tên, chúng rút chạy xuống phía lạch bỏ lại hai chiếc xuồng, nhiều con ngõ được rào bít lại. Nhiều nhà đông nghịt vì những người ở những vùng lửa đạn chạy về tá túc. Những bà nội trợ kiểm điểm lại, gạo, dầu, nước mắm… Trong hơn hai mươi năm trời nay lúc nào người dân Việt cũng sống trong thắc thỏm, lo âu, sửa soạn… những biến cố rồn rập trong một tình cảnh kinh hoàng, nghẹt thở cho nên chừng như ai cũng phòng bị, sống như trong những truyện trinh thám nghẹt thở có lẽ vì vậy những người Việt không còn thích đọc truyện trinh thám nữa vì đã sống hơn cả trinh thám: tình, tiền, máu, nước mắt, đàn bà những cái đó làm thành những chất liệu trinh thám. Ngoài cái đó người Việt còn phải sống với những chất liệu khác nữa: tham vọng, quyền lực, những chất liệu cao độ nghẹt thở, chết chóc… Trong lúc tôi cũng như bao nhiêu người khác với những lo âu chồng chất, nhìn đứa trẻ tha thủi hất chân trong những đống xác pháo tìm kiếm, chắc nó muốn tìm những chiếc pháo xịt, tôi thấy như mình đã mất đi một cái gì, những đứa trẻ ấy rồi đây nó có quên đi được nó đã lớn lên trong một tình cảnh như thế nào không? Và đến khi nó lớn cuộc chiến này đã hết chưa? Tôi mong cho tới lúc nó lớn sẽ còn đi tìm những chiếc pháo như hiện nay thay vì phải chơi với súng đạn, nghe những tiếng nổ chát chúa…
Nước Việt ta rồi đây phải xây dựng như thế nào? Sơn nhắc tôi ở Huế khi về hãy viết về quê hương ngày mai đó: nhà ở, vườn cây, lối đi, y phục trong một nước Việt tương lai phải như thế nào? Một đền thờ Việt Nam phải sao? Có phải chúng ta muốn mang đến một hy vọng trong tình cảnh đen tối hiện tại? có phải chúng ta tự tìm cách an ủi chúng ta không? Còn thực tại thì sao? Đó là điều tôi muốn được hỏi những người anh em. Cho tới khi tôi viết những dòng này vẫn còn những người đang chết, súng vẫn nổ…
K. thân mến, khi tôi viết cho anh những dòng này thì trên tờ lịch ghi ngày mồng mười Tết, chúng ta chia tay vừa đúng 11 ngày, sáng sớm tinh mơ, sương muối lạnh buốt, trời chạn vạng ở Huế chúng đã uống những cà phê sữa trong sân ga chia tay nhau, mới đây mà tưởng như đã xa lắm, có lẽ vì chúng ta cũng như mọi người đã phải sống những giờ phút dài nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, bao nhiêu biến cố đã xảy ra, bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu viên đạn đã nổ thay cho những tiếng pháo đầu xuân, và tôi đang cố hình dung, tự hỏi: Huế bây giờ ra sao, các bạn hữu mình ra sao? Những trận chiến đã diễn ra trên đường Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, cầu Trường Tiền, cửa Thượng Tứ, Đông Ba… những nơi mà mấy ngày trước chúng ta đã từng đi dạo, từng ngồi uống cà phê nói những chuyện nghiêm trọng và nhiều chuyện tầm phào khác? Trận chiến cũng đã tới con đường Hòa Bình có căn nhà êm ấm của gia đình Cường, lan tới quán cà phê Cô Dung, quán cà phê Mợ Tôn, quán bún bò mà nhiều người biết tiếng dưới hầm nhà xẹc? Những gói thuốc nổ đã làm sập cầu Trường Tiền những nhịp cong trắng soi mình xuống dòng Hương giang, làm gục cầu Bạch Hổ trên đó có con đường sắt xuyên Việt? Tôi cố nhớ, cố hình dung xem với trận chiến đang diễn ra đó đã làm khuôn mặt Huế hôm nay như thế nào nhưng quả thật tôi không thể hình dung ra được. Có điều chắc chắn trong vòng mười ngày qua lửa đạn đã trở lại Huế…
*
K. còn nhớ không, trong những ngày cuối năm ngắn ngủi, ngồi giữa những bạn bè tôi đã nói với anh tất cả những gì tôi nghĩ một cách thiết tha. Tôi cũng xác nhận với K. rằng: tôi không chấp nhận cộng sản, tôi cũng không có một ảo tưởng gì về nó. Tôi phải nói trước như vậy với K. để sau đó chúng ta có thể nói với nhau một cách rõ ràng. Điều này K. cũng xác nhận với tôi. Con người cọng sản cho tới nay đã trở thành một con người lạc hậu, nó không còn là giai đoạn của những Gorki, Lỗ Tấn… của những ngày khởi đầu cách mạng, chúng ta cũng xác nhận kinh nghiệm mà cách mạng vô sản đã mang đến cho chúng ta. Chúng ta bằng năng lực và sáng suốt của tuổi trẻ đã nhìn thấy những khuyết điểm, những tệ trạng ở phần đất và xã hội chúng ta đang sống, chính trong môi trường đó chúng ta tin rằng chúng ta có thể làm được một cái gì. Có thể tôi là một người lạc quan, như K. đã thấy, nhất là khi tôi nói với K.: những người quốc gia ở miền Nam, chúng ta là hy vọng của thế giới này, chúng ta đang phải chịu những thử thách, hy sinh lớn lao nhất, chúng ta kinh nghiệm qua cả con đường hư hỏng , chúng ta, mỗi người đều cầm nắm nhiều sự thật trong tay, chính điều đó khiến chúng ta yếu, nhưng cũng chính điều đó khiến chúng ta giữ được chúng ta không lao vào vực thẳm để sau đó có thể phục hưng, sống lại… những anh em miền Bắc của chúng ta cùng những người cộng sản khác tại miền Nam chỉ có trong tay một sự thật, chỉ nhìn thấy một con đường, bởi vậy lúc này họ khỏe hơn chúng ta, nhưng chính con đường độc nhất đó, sự thật độc nhất đó đang đưa họ tới vực thẳm vì đó là sức khỏe của cuồng tín… Tôi thành thật tin như vậy. Anh đã đọc cho tôi nghe những bài thơ phản chiến, tôi cùng K. đã nghe những bài hát phản chiến, tôi và K. đã cùng đọc những lời kêu gọi của những giáo sư khoa bảng về việc kéo dài hưu chiến vô hạn định… Chúng ta đã nói về cảnh huống dân tộc ta trong cuộc chiến tàn khốc này. Tôi cũng đã nói với K. hãy giữ những ý kiến riêng của mình nếu tin đó là đúng, nhưng không được ngụy biện, không bao giờ đòi người khác phải chấp nhận ý kiến của mình… Những điều đó liên hệ với nhau nói lên một sự thật. Nhưng để được sống chúng ta buộc phải chấp nhận, như K. đã chấp nhận bốn năm hơn trong quân ngũ, chấp nhận cuộc chiến, chiến đấu và phấn đấu trong bao dung, với con tim và khối óc của một người.
*
K. thân mến, cuộc chiến đã không chỉ diễn ra trong những đồng ruộng núi đồi, cuộc chiến đã diễn ra ngay trên những đường phố quen thuộc, sự thật nói lên đây là một cuộc chiến không có trận tuyến, bao nhiêu bế tắc, bao nhiêu mâu thuẫn, bao nhiêu quyền lợi, bao nhiêu tranh chấp đang dồn chứa trên quê hương này. Sức chúng ta có hạn, trong tầm sức có được chúng ta làm việc. Nếu mỗi người chúng ta đều như thế chúng ta sẽ làm thành một sức mạnh lớn. Điều đó chắc K. đồng ý với tôi. Tôi mong mỏi cho tới khi những dòng chữ này đến được với K. cuộc chiến đã đến những giai đoạn khác, K. vẫn không thay đổi, K. vẫn còn là những người sống sót cùng với những bạn hữu khác. Chúng ta phải sống, sống cho tới lúc chúng ta có thể vừa làm việc, vừa có thời giờ nghỉ ngơi dẫn người vợ hiền, đàn con nhỏ đi dạo trên những bến sông và nhìn thấy cuộc chiến này như một dĩ vãng không bao giờ muốn nhắc lại, đó là niềm mong ước của tôi và chắc cũng là miền mong ước của K. và những người Việt khác…
(VĂN số 100 & 101 tháng 2-1968)
(2-68)
(1): Trích 10 năm Giáo Dục Đại Học Huế. Đặc san 1968
$pageOut$pageIn
(tháng 4-1975, khi miền Nam Việt Nam hấp hối)
==> xin đọc lại ở "phần 12" (kéo xuống chân bài và click vào Phần 12$pageOut$pageIn
(viết sau 1975)
Bài thứ bốn là 2 đoạn ngắn trong một truyện vừa gồm 22 đọan nhan đề “Về Nhà” được viết sau 1975 giữa lúc chúng ta nghĩ là sẽ vĩnh viễn không bao giờ được đọc văn ông nữa.
Bài này được trích từ tập truyện ”Lênh đênh qua Cửa Thần Phù” do Văn Mới xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2009.
Liên lạc nhà xuất bản: P.O Box 287 Gardena, CA 90248
DƯƠNG NGHIỄM MẬU
VỀ NHÀ
17.
Con đường đưa lên cổng trại đã hiện ra trước mắt. Người trẻ nhìn người tóc bạc. Người tóc bạc mỉm cười vẻ cam chịu. Một toán người đang từ con đường nhỏ đi lên. Một bà già, một cô gái, hai thanh niên thấp nhỏ, rớt lại phía sau một bé trai gầy ốm, bụng ỏng, da vàng, khuôn mặt già khô, kẻ mang người vác, hẳn đây là những cư dân trong vùng. Người đàn ông tóc bạc lên tiếng hỏi:
– Cụ ơi, chỉ giúp cho cháu đường ra bến sông…
Bà cụ đứng lại lặng im một lúc rồi mới trả lời như cố gắng để hiểu những âm thanh nghe được :
– Đi theo tôi…
Toán người đi trước, hai người đàn ông lặng lẽ theo
sau. Không một lời trao đổi. Tới chỗ ngã ba, bà cụ già ngừng lại chỉ tay về phía trước:
– Đi thẳng đây tới bến sông.
– Cám ơn cụ.
Chưa kịp nghe hết lời cám ơn bà cụ và toán người đã rẽ vào con đường nhỏ phía tay trái, đằng xa, thấp thoáng sau những ngọn cây mấy mái nhà nhỏ. Người trẻ tuổi thốt thành lời: – Về nhà.
Người tóc bạc nhìn sang người bạn đồng hành:
– Về nhà?
– Tôi nói về toán người chúng ta vừa gặp. Họ trở về nhà với con đường quen thuộc. Tôi với anh cùng tìm đường trở về nhưng sự trở về của anh khác với chuyến trở về của tôi: những gì đang đợi?
Tiếng thở dài nghe lạnh buốt. Hai người cất bước mà trước mặt là một con đường thẳng. Người tóc bạc quay lại nhìn quãng đường phía sau:
– Từ đây đi ngược lên là trở lại trại 7. Nếu biết trước mình đi ngay từ đầu có khi đã tới bến sông. Cái cổng trại xa hút thế kia…
Người trẻ như nghe thấy tiếng ai nói trong đầu: đã ra khỏi cổng thì đừng nhìn lại nếu không muốn trở lại đó. Đi và không nhìn lại. Người thanh niên với những bước đi dài hơn, nhanh hơn…
18.
Từ đâu? Câu chuyện bắt đầu từ đâu? Tại sao lại như thế? Tại sao hàng triệu người nối nhau bước chân vào những nơi giam hãm? Tội gì? Mình có tội ư? Tiếng kẻng khua. Những củ sắn. Những đêm tối. Những ngày nắng lửa. Những đêm lạnh cóng run rẩy. Phảng phất những mảng nhỏ sáng tối nhòe nhoẹt. Những vạt màu chàm. Màu trắng nhoa nhuếch. Tiếng giọt nước rơi chậm đều trên tấm tôn han rỉ. Những chuyển đổi không ngừng. Đây là đâu? Vẫn là đất quê hương mình đó chứ? Không lẽ? Không nhìn để khỏi trở lại nơi ấy. Những người nơi khác cũng giống như thế? Những nơi khác. Những tên gọi khác. Trở về. Chuyến đi ngày nào còn ghi khắc…
Tiếng bước chân, tiếng mở khóa, tiếng cửa sắt kêu nghiến, tiếng xích sắt va đập vào nhau. Không khí khô đặc lặng câm. Từng bóng người rời khỏi những khuôn cửa sắt. Từng bước chân thoát nhanh khỏi những hành lang mờ tối. Nền xi măng cứng nham nhở. Những nét mặt như tượng đá. Hình như không có một cử động nào. Hình như hơi thở cũng được giữ lại…
Khoảng sân rộng, ánh sáng ngọn đèn vàng nhòe nhoẹt làm cho những khuôn mặt như giống nhau với chiều ánh sáng, chẳng thể phân biệt ai già, ai trẻ, ai trắng ai đen. Tất cả chỉ có một màu và những độ đậm nhạt khác nhau của ánh sáng…
Một giọng nói khô lạnh cất lên:
– Nguyễn Văn K … Nguyễn Văn X… ra ngoài, mang theo đồ…
Câu nói như ngắn lại. Đám đông lặng câm như bắt đầu cựa quậy. Vài bóng người di chuyển, ít tiếng nói không rõ, rì rào những âm thanh côn trùng. Không nghe thấy một lời trao đổi. Mấy bóng người di chuyển chậm chạp với bị cói trên tay…Tiếng cửa sắt rú buốt, tiếng xích sắt va đập, tiếng khóa…Những bước chân xa dần rồi mất hút. Những con mắt nào nhìn ra cửa theo những gót chân khuất ngoài hành lang. Ở xa, nơi cuối dãy nhà là khoảng sân xi măng. Bao nhiêu mắt đã nhìn và cố gắng ghi nhớ: mấy bóng người đã đi qua, ngoài những K. những X. là những ai đó đã từng gặp chưa hay chưa bao giờ gặp? Một giọng nói rõ, tỉnh táo: Chuyển trại, sắp thêm đợt mới.
Những tiếng động vang lên trên những hành lang trong khoảng thời gian ngắn rồi lặng im trở lại. Nghe như có tìếng một cành khô rơi gãy trên một mái tôn nào. Tất cả như khóa chặt, như vùi sâu, như hàn kín…
Trong khoảng sân xi măng từng người một lặng lẽ tập trung người trước người sau lần lượt xếp thành hàng. Đêm và những ngọn đèn vàng từ trên cao chiếu xuống. Trên mái nhà, trên những ban công những bóng đen với súng chĩa xuổng. Tiếng ho vang lên từ một người tượng nào?
– Nguyễn Văn K.
– Có mặt.
– Tên cha tên mẹ?
– Nguyễn Văn Q. Trần Thị L.
– Lê Văn Đ.
– Có mặt. Cha vô danh. Mẹ Nguyễn Thị B.
– Đặng Đình H.
– Có mặt. Cha vô danh, mẹ vô danh…
Tiếng gọi tên khô lạnh. Những giọng nói khác nhau. Có nhiều Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Tư… Thêm tên cha mẹ như một xác minh. Người ta phát hiện ra trong đám có cả trường hợp hai anh em ruột cùng đang ở đây. Có những người cha vô danh và những bà mẹ vô danh…
Khoảng sân đặc kín người. Có mấy tiếng ho. Có tiếng động như một cái lon sắt rơi xuống mặt sân cứng. Những người mặc đồng phục vây quanh không nghe một tiếng người.
Người đứng trên cao gọi tên với cuốn sổ cầm tay sau cùng đi xuống chỉ tay đếm từng hàng người, rồi những chiếc còng được mang tới, hai người chung một còng. Tiếng sắt, tiếng khóa liên tiếp vang lên. Người cầm cuốn sổ trở lại chỗ cũ, trong yên lặng tiếng nói vang lên rõ từng tiếng:
– Có ai hỏi gì không?
– Thưa cán bộ…
Một giọng nói yếu và hiền vang lên từ phía góc sân. Có một vài cái đầu động đậy như muốn nhìn về phía tiếng nói:
– Cái gì?
Im lặng một lúc, một cơn ho từ đâu đó.
– Tôi chưa có còng.
Người cầm cuốn sổ đi xuống, mấy người mặc đồng phục chụm đầu vào nhau. Trong đám người nghe như có tiếng cười ở chỗ nào đó.
– Yên lặng. Trật tự.
Tôi chưa có còng. Tôi không có còng. Tôi mất còng. Mọi người đều có còng sao mình lại không có còng. Lẻ loi quá, không có tình bầy đàn. Tôi không có còng, tôi không ở trong đám đông này, tôi bị gạt ra, loại ra khỏi đám đông này. Tôi phải có còng. Tôi ở trong đám đông này. Tiềm thức hoang dã bầy đàn? Tôi chưa có còng? Sao thế. Bao nhiêu nhà máy sản xuất súng đạn, bom mìn, xích còng đã được xây dựng? Phải xây thêm bao nhiêu nữa, sản xuất thêm bao nhiêu nữa cho ai cũng có còng? Chưa hay là không nhận ra một cái còng hay nhiều còng đã được đeo lên người, từ chân tới tay, từ đầu tới cổ. Bao nhiêu cái ách đã khoác lên vai như những con trâu con bò đang phải bước đi trên đường bùn lầy lội với cái cày nặng kéo theo. Tôi chưa có còng. Và khi nào: Chúng tôi chưa có còng? Cho tới lúc ai cũng có một cái còng, khi đó còng để làm gì? Một vật trang sức?
Lần lượt từng hai người chung nhau một cái còng kẻ tay trái, người tay phải bước lên xe. Thế là hai con người bổng trở thành cai tù của nhau. Một thằng muốn bỏ chạy ư . Làm sao chạy, cả hai cùng lòng chạy, nhưng kẻ cao người thấp, kẻ chân ngắn, người chân dài? Đâu phải chỉ những cái còng không bao giờ bị rỉ sét? Còn bao nhiêu sợi dây thừng, bao nhiêu sợi dây điện không hư được dùng để trói kẻ này với kẻ khác, thành một dây, thành một chùm.
Từng hai người một chung một còng bước lên rồi cùng ngồi xuống, sát bên nhau. Tất cả lặng lẽ, trật tự. Những cánh cửa sắt trên xe đóng lại. Sát cửa, hai người đồng phục súng cầm tay ngồi ngoài cùng với đôi mắt như không động đậy và da mặt khô cứng. Tấm bạt nhựa kéo lên phủ kín. Kẻ không có còng lặng lẽ và chậm một mình bước lên xe sau chót. Tiếng còi ré lên, đoàn xe nổ máy rời khu trại lao vào đêm tối…
(Gia Định năm 1994)$pageOut
các Phần tiếp theo ==>
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...