:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 23
Ðêm giữa ban ngày
Chương 23
Nửa đêm, tôi choàng tỉnh vì tiếng la hét của ai đó.
Khu xà lim 3, theo tôi ước đoán, nằm ở quãng giữa Hỏa Lò, gần đường Hai Bà Trưng, nếu nhìn từ cổng trại giam. Nằm trong xà lim 3 không nghe thấy những tiếng động của thành phố vọng vào. Thành nói cửa xà lim chúng tôi ngoảnh mặt ra phố Quán Sứ.
Tiếng kêu gào nghe gần lắm, nhưng trong mê lộ những tường và hành lang tiếng động bị quăng đi quật lại chán chê rồi mới tới tai mình cho nên không thể biết nó phát ra từ đâu, bên phải hay bên trái, đàng trước hay đàng sau.
Thành bật dậy. Ðối với những tiếng động khác thường trong nhà tù anh thính hơn tôi nhiều.
Một lát sau chúng tôi mới xác định được tiếng gào thét ai oán như lợn bị chọc tiết ấy là của một tù binh Mỹ, chắc là một phi công.
- Help... me ! He..lp m..e !(1)
Tiếng kêu cứu của con người trong cơn tuyệt vọng chẳng hướng về ai, chẳng gửi cho ai, vang to giữa đêm khuya trong một vùng bê tông lạnh lẽo.
Tôi nằm xuống, kéo chăn tới tận cằm mà vẫn thấy lạnh.
- Chắc tên Mỹ này mới bị bắn rơi chiều nay.
Thành, mắt đỏ cạch, ngáp dài :
- Có lẽ thế. Người ta đưa thẳng nó về đây.
Tên Mỹ la hét mãi không thôi.
- Chắc nó bị thương. - tôi nói.
- Chắc thế. - Thành gật đầu.
Phải hơn một giờ sau mới nghe tiếng chân người rậm rịch, tiếng cửa xà lim mở, tiếng nói chuyện lao xao. Tên Mỹ thôi kêu cứu, chắc y được tiêm thuốc giảm đau. Tiếng gào nhỏ dần thành tiếng rên rỉ ai oán.
Thành nằm xuống.
- Này, cậu có thường gặp tù binh Mỹ không ?
- Thỉnh thoảng. Tôi làm báo mà. Phi công bị bắn rơi luôn.
- Con số máy bay mà bên mình đưa ra là đúng đấy chứ ?
Vào thời gian này, máy bay Mỹ rụng như sung, và bao giờ cũng ngay từ loạt đạn đầu, theo tin tức báo chí.
- Nếu tin vào những thông báo chiến sự của hai bên tham chiến thì trên các mặt trận chỉ còn lại những hồn ma đang đánh nhau, chứ lính của hai bên thì đã chết hết từ lâu.
Thành cười khúc khích.
- Này, cậu làm báo, đi nhiều, gặp nhiều, có phải đúng là lính Mỹ hèn hơn lính Pháp không ? - gối đầu trên đôi tay, Thành lơ đãng hỏi.
Tôi nằm xuống theo. Trong xà lim không ngồi lên nằm xuống thì còn làm gì nữa ? Chẳng lẽ cứ đi bách bộ mãi - năm bước tới năm bước lui trong khoảng không gian hẹp giữa hai phản ?
Sau khi biết tôi có thời kỳ ở bộ đội, Thành trở nên gần gụi với tôi hơn, nói chuyện với tôi nhiều hơn, giọng nói của anh cũng ấm áp hơn. Gì thì gì, chúng tôi cũng đã từng là anh em chung một chiến hào. Trong lòng Thành có một anh bộ đội sống dai. Có vẻ anh bộ đội này không bỏ bạn trong cơn hoạn nạn.
- Chưa chắc. - tôi đáp - Anh em trong Nam ra nói lính Mỹ đánh không xoàng, lâm trận cũng dữ ra phết, nhất là đám Mỹ đen... Nhưng khi đã bị bắt rồi thì cả đen lẫn trắng đều không coi thể diện là cái gì.
Chúng tôi thả hồn về quá khứ hào hùng những ngày kháng chiến. Nhờ Thành tôi mới biết quân đội ta có những bài bản rất độc đáo trong chiến tranh. Chẳng hạn, khi ta mở chiến dịch Tây Bắc thì ở Thượng Lào bộ đội rèn cán chỉnh quân. Vũ khí của bộ đội Thượng Lào được cấp tốc bó lại, chuyển ngay cho chiến trường mới. Ðịch choáng váng trước hỏa lực mạnh bất ngờ của ta ở Tây Bắc, chưa kịp hoàn hồn thì đã lại bị đánh rất dữ dội ở đồng bằng Bắc bộ, cũng với những vũ khí được chuyển qua chuyển lại như thế trong hoàn cảnh thiếu thốn của một quân đội trẻ tuổi.
Tù binh Pháp, chúng tôi nhận xét, láu cá hơn tù binh Mỹ. Trong hoàn cảnh nhục nhã nhất đời lính, người Pháp vẫn thông minh trong ứng xử. Họ lập tức làm ra vẻ thân thiện với kẻ thù, cứ như thể chiến tranh giữa hai bên đã chấm dứt thì mọi sự đương nhiên phải trở lại bình thường giữa kẻ thắng kẻ thua trong nền hòa bình cục bộ. Với nụ cười cầu tài, họ bả lả nài xin chúng tôi điếu thuốc, nặn ra dăm ba câu làm quà. Những mẩu đối thoại tầm phào như thế mà, lạ thay, lại có tác dụng xóa đi cái ranh giới tưởng chừng không vượt qua nổi.
Có lẽ do bị tuyên truyền sai lạc về đối phương, tù binh Mỹ rất khúm núm trước kẻ thắng. Gặp sĩ quan Việt Nam, họ cúi gập người, hai tay áp sát đùi mà chào, lễ độ lắm. Tù binh Pháp trong trường hợp ấy ứng xử khác hẳn." Bonjour, mon capitaine ! Comment allez-vous ?"(2), họ toe toét, suồng sã. Ai cũng capitaine hết, từ anh lính trơn cho tới cấp chỉ huy cao nhất.
Chính sách tù binh nhân đạo đã góp phần lôi kéo lính Pháp chạy sang hàng ngũ kháng chiến. í thức được cuộc chiến tranh mà họ tham gia là phi nghĩa, những người "Việt Nam mới" sát cánh bên người Việt Nam kháng chiến chống lại chính nước họ. Nhiều người trong bọn họ sau trở thành đảng viên cộng sản, thành sĩ quan trong quân đội Việt Nam.
Họ chỉ buộc lòng phải bỏ Việt Nam mà đi khi ở đây bùng lên ngọn lửa "đấu tranh giữa hai đường lối". Với màu da trắng, họ bị các nhà mác-xít nửa mùa coi là những tên xét lại bẩm sinh. Không thể trở về Pháp, nơi họ sẽ bị xử tội như những tên phản quốc, những người này lang thang tìm nơi tá túc tại các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu. Chiến Sĩ trở về Ðông Ðức, Georges Boudarel(3), Albert Clavier, Targo(4)...người đi Hungari, kẻ sang Tiệp Khắc.
Tư tưởng Mao Trạch-đông đòi hỏi người cộng sản phải có lập trường bạn thù rõ rệt, ranh giới địch ta phân minh. Vào thập niên 60, cách đối xử với tù binh Mỹ không còn tử tế như với tù binh Pháp. Dù là tù binh, họ vẫn là địch, là kẻ thù. Ðiều đó gây ra tổn thất cho cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc. Không như trong kháng chiến chống Pháp, trong cuộc chiến tranh mới không có một người lính Mỹ nào cầm súng chiến đấu bên cạnh nhân dân Việt Nam.
Tù binh Mỹ tuy thế vẫn còn may : cấp lãnh đạo quân đội Việt Nam không hoàn toàn nghe theo những lời chỉ bảo của các cố vấn Trung Quốc trong vấn đề đối xử với tù binh. Khẩu phần cho tù binh Mỹ tôi thấy ở Hỏa Lò khá hơn nhiều so với khẩu phần bộ đội : mỗi bữa một tô đầy súp thịt, một cái bánh mì nhỏ, hai điếu thuốc lá.
Những câu chuyện trên trời dưới đất như vậy có tác dụng làm cho đêm xà lim bớt nặng nề.
- Thằng Mỹ ngủ, cậu ạ. - Thành nghiêng đầu nghe ngóng rồi nói.
Ðã tới bốn giờ sáng rồi chứ không ít. Chúng tôi vẫn tỉnh như sáo.
- Có lẽ thế. Không thấy nó rên nữa. - tôi nói - Không hiểu họ đưa nó vào đây làm gì nhỉ ? Nó bị thương thì đưa vào quân y viện, chữa cho khỏi đã. Làm như thế là không tôn trọng công ước quốc tế về tù binh.
Thành cười khe khẽ :
- Mình có ký vào cái công ước ấy đâu mà rộn. Cậu có thấy đói bụng không ?
- Cũng hơi ngon ngót.
Tôi làm khách. Thực sự, tôi đói run. Cái rét làm cảm giác đói tăng gấp đôi.
- Ta làm cái bánh xốp đi.
- Nào.
Anh bẻ đôi cái bánh, chia cho tôi một nửa. Tôi không được liên lạc với gia đình, tôi không được tiếp tế. Thành được nhận tiếp tế mỗi tháng một lần.
Chúng tôi nhai dè xẻn từng mẩu nhỏ, cảm thấy vị ngọt của đường mía trôi qua thực quản, qua dạ dày, thấm ướt những tế bào khô héo.
Từ hôm cái bánh mì bộ ra đi, chúng tôi trở về với bữa ăn thường lệ : hai đồng mì luộc đầy xác mọt và rau muống tần đại dương. Tôi không còn thấy gớm cái nước rau đen xì như nước cống nữa. Tôi húp sạchsành sanh, chỉ chừa lại một chút cặn.
Nhìn tôi húp nước rau ngon lành, Thành tế nhị giải thích :
- Lạ một cái là nằm trong xà lim, cả trong mùa đông, mình có làm gì nặng nhọc đâu mà bảo mất mồ hôi, vậy mà cứ thèm chất mặn. Nhiều hôm nhạt mồm nhạt miệng quá, đành nói khó với mấy ông quản giáo, tạ sự rằng đau răng quá, xin các ông làm phúc cho nhúm muối để ngậm. Khốn nạn, bỏ hạt muối vào miệng thấy ngọt như đường. Mình là người đứng đắn người ta mới cho, chứ tù khác đừng hòng...
Tôi ngạc nhiên :
- Mấy hạt muối đáng bao nhiêu mà không cho...
- Không phải chuyện đáng bao nhiêu hay không đáng bao nhiêu. Mà là người ta sợ tù trốn trại. Muối với nước tiểu hòa lẫn ăn mòn sắt dữ lắm. Tù dùng giẻ quấn quanh chấn song sắt, tẩm thứ nước ấy vào, cho sắt mục ra, dễ bẻ. Hỏa Lò chắc là thế mà người ta vẫn sợ tù trốn lắm, thỉnh thoảng lại loại các phòng....
Tôi giương đôi mắt của thằng ngốc :
- Loại là cái gì ?
- Tiếng lóng mà, loại là lục lọi, khám xét.
- Có một nhúm muối mà lắm chuyện.
Thành nhún vai :
- Người ta loại còn để tìm ra những thứ khác nữa chứ : cưa sắt, dao, bật lửa...
- Mình thèm muối thế này là trong người thiếu cái gì đấy. Chứ theo khoa học thì ăn muối nhiều chỉ có hại...
- Khoa với chẳng học, quên đi. Khoa học không bao giờ bước chân vào đây. Cứ theo khoa học thì con người không thể sống thiếu ánh sáng mặt trời. Vậy mà trong xà lim có ánh sáng mặt trời quái đâu mà tù vẫn cứ sống nhăn. Có người ở chín năm trong xà lim chẳng sao...
- Chín năm ? - tôi kêu lên, ớn lạnh dọc xương sống.
- Chứ sao ! Hiện hắn ta đang ở đây, ngay trong xà lim 3 này này. - Thành thản nhiên - Tôi nghe tiếng hắn ta ho.
- Sao không bắn quách người ta đi cho rồi ? Bắn còn nhân đạo hơn.
- Xì, bắn người đâu có dễ ! Tòa tuyên án tử hình rồi đấy chứ, mang bắn rồi đấy chứ. Thế mà vẫn sống, mới lạ. Tôi nghĩ con người ta có số, cậu ạ. Anh này ngụy quân, vẫn bị chính quyền địa phương để ý. Ngụy quân ngụy quyền đều trong sổ đen hết. Bỗng xảy ra án mạng, một em bé bị giết, xác vứt trên nắp cống. Ðiều tra thì biết em bé hay được hắn dẫn đi chơi, thế là hắn bị bắt. Ðồ rằng hắn bất mãn chế độ, giết em bé để gây hoang mang trong dân chúng. Chứ điều tra không thấy hắn không có thù oán gì gia đình đứa bé. Chấp pháp hỏi cung cách nào không biết, hắn nhận. Tòa xử tử hình. Hắn xin ân xá. Ðơn bị bác. Hôm giải hắn đi bắn anh chỉ huy thấy tên tử tù cứ vật vã gào khóc, một mực kêu oan, nói tại cán bộ chấp pháp xui hắn mới nhận tội, chứ hắn không giết người, chấp pháp bảo hắn cứ nhận hết thì xin tha cho, có ngờ đâu bị mang bắn thật...
- Người tù không bị giải đi bắn nữa ?
- Xì, có thế hắn ta mới còn sống đến giờ chứ.
Câu chuyện hoang đường, khó tin quá.
- Người chỉ huy hành quyết thường cấp bậc gì ?
- Trung úy, cũng có khi đại úy. Anh này trung úy.
- Anh trung úy rồi có bị kỷ luật không ?
- Ai biết được. Tôi cũng nghe kể vậy thôi. Gan cóc tía, quân lệnh như sơn mà dám cưỡng. Giải tên tù tử hình trở lại xà lim xong, anh ta tức tốc đi gõ cửa các cấp đề nghị xem lại vụ án mà anh ta cho là có uẩn khúc...
- Rồi sao nữa ?
- Người ta xét lại vụ án đấy !
- Thế thì cả anh trung úy lẫn những người chịu nghe ý kiến anh ta đều là những người cực tốt. - tôi suýt soa.
Thành nguýt tôi :
- Thế cậu nghĩ cán bộ các ngành công an, tư pháp bây giờ xấu hết à ?
Tôi cười. Thành có thể làm chính trị viên xà lim được. Nhưng trong trường hợp này chính trị viên đã nghĩ oan cho tôi. Tôi không đến nỗi tệ như vậy. Ðâu chả có người tốt, người xấu.
Anh trung úy nọ đúng là to gan. Người như thế hiếm lắm. Cán bộ đã nhiều năm chỉ được giáo dục tinh thần vâng lời, không ai được dạy suy nghĩ. Ngay trong ngành tòa án, được coi là độc lập, quan tòa(5) cũng phải xử theo Ðảng chứ không theo luật. Một án xử đã xong, coi như bất di bất dịch, bởi vì Ðảng (một Ðảng bộ chẳng hạn) đã quyết rồi. Thế mà dám cưỡng lại thì liều thật.
Người tù bị bắn hụt tên là Nguyễn Văn Căn, nếu như Thành không nhầm và tôi nhớ không sai. Trong suốt những năm dài của cuộc đời tử tội anh ta đã đi qua hầu hết các xà lim Hỏa Lò. Thảo nào ở xà lim 3 tôi đã gặp những hàng chữ khắc nguệch ngoạc ký tên Căn trên tường. Ðó là những lời thống thiết kêu than :"Tôi bị oan ! Tôi không giết người !", trong xà lim tôi đang ở là những lời căm giận nguyền rủa bọn cộng sản dã man, vô nhân đạo. Lời kêu oan chắc được ghi trong thời gian đầu khi anh ta mới bị bắt. Lời nguyền rủa đến sau, khi anh ta ở xà lim quá lâu.
Nhân có quả tắc(6) Thành dành mấy đồng bánh xốp cho anh tù bất hạnh. Tiếp tế, đối với mọi loại tù, nhất là tù xà lim, là hạnh phúc lớn. Chẳng thế tù xà lim có câu : " Thứ nhất được tha, thứ nhì quả tắc, thứ ba ra ngoài (trại chung)". Anh tù nọ, không hiểu sao, rất ít khi có quà gia đình.
Muốn cho bạn tù quà không thể nhờ quản giáo chuyển. Chỉ có thể xin ra sân phơi quần áo rồi lén bỏ quà vào trong túi, hoặc móc vào dây phơi rồi lấy quần áo phủ lên. Người được cho cũng xin phơi quần áo như thế rồi khéo léo lấy quà vào. Một "hộp thư" tình báo cực kỳ thô thiển. Có lẽ những quản giáo đều biết trò này, nhưng nhắm mắt cho qua.
Người mở cửa cho chúng tôi sáng hôm ấy không phải Sứ giả hòa bình, chẳng phải Hách, mà là một quản giáo mới toanh, chưa kịp mỏi mệt hoặc chán nghề. Tên này vè vè theo chúng tôi từng bước. Ðành chờ dịp khác.
Anh tù tử hình không hiểu cho chúng tôi, cho rằng chúng tôi chơi xỏ anh, cất tiếng chửi đổng, lời lẽ rất khó nghe. Tôi sôi máu, bảo Thành đừng cho quà tên khốn kiếp ấy nữa, nhưng Thành ngồi im, không nói gì.
Ngày hôm sau, người mở cửa là Sứ giả hòa bình. Thành lẳng lặng cho bánh vào túi áo bông xin phơi, rồi điềm tĩnh thông báo lần nữa cho anh tù tử hình biết. Việc chuyển giao diễn ra tốt đẹp. Ðêm xuống, Căn nghêu ngao mấy câu vọng cổ bày tỏ lòng ân hận.
Cách nhắn nhủ nhau qua những bài ca, những vần thơ, là cách liên lạc độc đáo trong tù. Quản giáo có bắt được cũng không thể phạt nặng - ối giời ơi, tôi có vi phạm gì đâu, thưa ông, nằm đây mãi buồn quá tôi nghêu ngao tí chút, thế thôi, xin ông bỏ quá.
Căn có thâm niên xà lim cao nhất Hỏa Lò. Vì thâm niên này anh ta được các quản giáo nơi tay. Những người duy vật cùng mình hóa ra trong đáy lòng vẫn còn một chút duy tâm - chẳng ai muốn trong gia đình mình có thêm một con ma thù hận. Án tử hình đã tuyên rồi, chắc gì tòa đã xử lại, tòa xử lại chắc gì đã tha, một sáng nào đó đội hành quyết lại lôi cổ hắn ta đi chửa biết chừng.
- Sao anh không trả lời hắn một tiếng ? - tôi hỏi Thành.
Anh lắc đầu :
- Hắn hiểu chúng ta không chơi xấu là đủ.
Tôi nói quả tắc là hạnh phúc lớn đối với tù xà lim là nói chung. Nó không đúng trong mọi trường hợp. Thành chẳng hạn, những lần nhận quà gia đình anh buồn rũ.
Cuối cùng, trong một đêm không ngủ Thành đã kể cho tôi nghe ngọn ngành câu chuyện vì sao anh vào tù.
Nhờ trước chiến tranh tiểu đoàn trưởng Thành có học trường Kỹ nghệ thực hành. Hòa bình lập lại anh được chuyển sang Bộ Công nghiệp. Trong một đợt tinh giản biên chế (7) anh xin hưu non, cùng các bạn bộ đội lập ra một hợp tác xã thủ công nghiệp. Cùng làm với anh có đại tá Trần, một nhân vật lịch sử của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ. Nhờ những mối quan hệ cũ với quân đội, hợp tác xã nhận được những hợp đồng lớn của Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật. Từ cổ chí kim ai cũng biết hợp đồng với quân đội bao giờ cũng béo bở. Hợp tác xã của các cựu chiến binh lớn lên như thổi. Mức sống của xã viên tăng nhanh đến chóng mặt.
Chuyện Thành vào tù nghe cứ như chuyện bịa.
Chả là anh nhận được một hợp đồng gia công chốt xích xe tăng, với số lượng lớn. Nguyên liệu để làm thứ chốt này là sắt Liên Xô, ký hiệu CT45. Ðúng vào thời gian này người ta sực nhớ đến xe trâu, phương tiện vận tải thô sơ trong kháng chiến chống Pháp. Nó vẫn hữu hiệu trong công việc vận chuyển trên những đường xấu, đường rừng hẹp. Xe trâu được sản xuất hàng loạt. Mọi thứ để sản xuất xe trâu đều đủ, chỉ thiếu có trục xe, mà sắt thanh CT45 làm trục xe rất hợp.
Thành mầy mò tìm ra trong những núi sắt phế liệu thời Pháp nhiều sắt tròn có độ cứng tương đương CT45, liền mua về làm chốt xích xe tăng, còn thép do Tổng cục Kỹ thuật cấp thì bán lại cho các hợp tác xã đóng xe trâu. Nhờ sáng kiến của Thành hợp tác xã thu được một khoản lãi kếch xù.
Các bà vợ ngây thơ làm hại các ông chồng. Lẽ ra phải tiếp tục sống kín đáo thì các bà lại đua nhau phô trương. Các bà sắm sanh đủ thứ, đi chợ không thèm mà cả, tha về làn to làn bé. Quá vui vì món quà bất ngờ của số phận, họ đánh mất sự tỉnh táo để biết sống cho phải đạo. Như một quy luật, nhà cầm quyền ngu dốt bao giờ cũng che đậy sự quản lý vụng về bằng chủ nghĩa khắc kỷ. "Sự bình đẳng hai người mặc chung một quần", theo cách nói dí dỏm của Nikita Khrusov, làm cho con người trở nên hẹp hòi, họ căm ghét kẻ nào sống sướng hơn họ. Người biết sống phải đạo muốn ăn thịt gà phải đi chợ xa để mua, lén lút mang về, lén lút vặt lông, lén lút ăn rồi lén lút đem lông đi đổ. Lòng ghen tị hiện hình thành những lá đơn tố cáo đầy những câu hỏi nồng nặc mùi cảnh giác cách mạng.
Những ông Bao Công vừa thoát nạn mù chữ nhảy vào cuộc.
Thành bị bắt. Cả ông đại tá danh tiếng cũng bị tống giam.
Trong quá trình điều tra, phía quân đội xác nhận hợp tác xã thực hiện đúng hợp đồng về mọi mặt - thời hạn, số lượng và chất lượng sản phẩm. Kèm theo, có biên bản giám định của Viện kỹ thuật quân sự. Mặc, họ bị buộc tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, bị giam hết tháng này qua tháng khác, rồi năm này qua năm khác.
Thành ôm mối hận trong lòng. Theo thói quen của người thợ, anh dùng vật liệu đúng chỗ của nó. Thay vì Nhà nước phải nhập thêm một lượng thép làm trục xe trâu thì nay không phải nhập nữa. Những đoạn thép ngắn bỏ đi đã được tận dụng. Số trục xe trâu có đủ cho sản xuất, nhu cầu vận chuyển được đáp ứng.
Ông đại tá ỷ thế có công với cách mạng, là bạn của ông thủ tướng, và cái chính là ông tin lẽ phải thuộc về ông, nhất quyết không chịu nhún mình trước bọn chấp pháp. Ông thủ tướng ngoảnh mặt đi. Ông cho mọi người biết ông không nể tình riêng mà vượt qua phép nước, ông không can thiệp. Ông đại tá bị đôn lên làm đầu vụ, sẽ bị xử nặng nhất. Chuyện ấy làm cho Thành buồn phiền. Theo anh, các nhà làm án lầm - tội của anh mới là tội nặng. Chính anh đã đề xướng việc làm về sau này bị coi là "phạm pháp".
Không rõ rồi Thành lĩnh án bao nhiêu năm ? Tôi hi vọng người ta sẽ tỉnh ra để không hành hạ những con người khốn khổ. Khi tôi rời Hỏa Lò Thành vẫn còn đó.
- Cậu có nghe thấy gì không ? - Thành vụt nhỏm dậy, hỏi tôi.
Tôi lắng nghe. Có một tiếng xào xạc mơ hồ vẳng vào xà lim.
- Hình như chuyển trại. - anh nói.
Tai Thành thính hơn tai tôi. Ðến lúc ấy tôi mới nghe tiếng người lao xao, tiếng dép lạt xạt trên mặt đường.
Một lát sau có tiếng xe vận tải nặng nổ máy, một chiếc rồi hai chiếc, ba chiếc. Tiếng người rộ lên một lát, sau đó đêm lại trở về yên lặng.
Thành cục cựa trở dậy làm điếu thuốc lào. Mặc dầu kế hoạch của anh chặt chẽ, nhưng gặp điều suy nghĩ là nó liền bị vi phạm.
- Họ chở tù đi đâu ?
- Ði trại. Tết đến nơi rồi.
- Tết thì liên quan gì đến chuyển trại ?
Thành nhìn tôi. Khi nào anh mải suy nghĩ, không muốn trả lời thì cái nhìn của anh không ấm áp.
- Trước những ngày hội lớn, ngày Tết, bao giờ người ta cũng chuyển tù Hỏa Lò đi để lấy chỗ giam tù mới. Ðủ loại : lưu manh, trộm cắp, ngụy quân, ngụy quyền, đĩ điếm, tình nghi phản động... Tất cả gom trong vài ngày, sau đó mới phân loại, đám đưa đi tập trung cải tạo, đám qua Tết cho về. Giam hết lấy chỗ đâu mà chứa !
- Bắt người thế thì tùy tiện quá.
Thành liếc xéo tôi, không buồn trả lời.
- Tôi cứ tưởng bắt một con người là phải qua nhiều thủ tục luật pháp, hóa ra không phải. Anh đừng cười tôi - chẳng riêng tôi, tất cả bọn nhà báo chúng tôi đều bị bịt mắt hết, chúng tôi chỉ nhìn thấy một phía của cuộc sống.
Thành hút thêm điếu nữa.
- Anh lo chuyển trại à ?
- Việc gì mà lo. Người ta không cho chuyển trại trong khi chưa có án đâu. Ðược chuyển trại còn phải lấy làm mừng ấy chứ. Nằm xà lim là cực kỳ hại cho sức khỏe.
Tôi thở dài.
- Chẳng biết bao giờ tôi mới ra khỏi xà lim...
Thành nhún vai :
- Họ xử sớm thì ra sớm. Họ xử muộn thì còn phải nằm... Một năm, hai năm không chừng.
- Nếu họ không xử thì sao ? - tôi nhỏm dậy.
- Sao lại không xử ?
Ngần ngừ một lát, tôi nói :
- Thế mà họ không xử chúng tôi đấy.
Ðến lượt Thành ngạc nhiên :
- Bậy !
- Chấp pháp nói với tôi như vậy.
- Cậu là cán bộ tham gia kháng chiến chống Pháp thì phải xử chứ, nhất định thế. - anh nói bằng giọng quả quyết - Có một chỉ thị của Ðảng nói về việc này rồi, rằng lệnh tập trung cải tạo không được áp dụng cho cán bộ hoạt động cách mạng trước tháng Tám bốn mươi nhăm và cán bộ kháng chiến chống Pháp.
Tôi nhớ ra rồi. Chỉ thị đó tôi có đọc. Anh Hoàng Nguyên Kỳ thỉnh thoảng cho tôi xem một số chỉ thị và nghị quyết mới của Ðảng, trong đó có một chỉ thị của Ban Bí thư về tập trung cải tạo. Lúc đó tôi không chú ý.
- Họ nói vụ của chúng tôi nằm trong phạm trù mâu thuẫn nội bộ, tức là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nội bộ Ðảng, nội bộ phong trào cộng sản quốc tế...
Thành cúi đầu suy nghĩ :
- Họ nói thế à ? Thế thì không lo. Nhưng... cũng chẳng biết được nó là thế nào, rất có thể vì thế mà nó lại dằng dai cũng nên ... Vụ án của cậu khó hiểu ... Cậu bị bỏ tù hẳn hoi, sao lại gọi là mâu thuẫn nội bộ ?
- Thì thế mới lạ !
Tôi quyết định nói cho Thành nghe những nét chính của vụ án chúng tôi. Tại sao lại không nói nhỉ ? Tại sao lại phải nghe lời chúng nó để giấu giếm cho chúng nó cái mà chúng nó giấu giếm ?
- Thế ra cậu bị cùng với các ông Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang. Và cả ông cụ cậu nữa ?
Tôi gật đầu.
- Hồi mới vào chắc cậu nghĩ tôi là chỉ điểm ?
- Chẳng có sở cứ nào để nghĩ như vậy. Nhưng vẫn phải cảnh giác. Anh không trách tôi chứ ?
Anh buồn rầu :
- Có gì mà trách. Cảnh giác là đúng thôi.
- Họ không cho anh biết tôi là ai ?
Tôi thấy một chút lưỡng lự, rất nhỏ, trong khoảng cách giữa câu hỏi và câu trả lời.
Tên tù binh Mỹ đã ngủ yên. Hoặc đã chết. Tôi không nghe thấy bất cứ tiếng động nào từ phía xà lim của y nữa.
(1) Cứu tôi với ! Cứu tôi với ! (tiếng Anh).
(2) Xin chào ông đại úy ! Ông vẫn được mạnh giỏi đấy chứ ? (tiếng Pháp).
(3) G. Boudarel (tên Việt là Ðại Ðồng) sau trở về Pháp, giảng dạy tại trường đại học Diderot (Paris). Cho tới khi tôi viết những dòng này cuộc chiến ở Ðông Dương đối với anh vẫn chưa chấm dứt. Anh bị những cựu tù binh Pháp còn cay cú với cuộc chiến tranh Ðông Dương đã qua đòi đưa ra tòa vì tội phản quốc. Ðiều đáng ngạc nhiên là nhà cầm quyền Hà Nội không hề quan tâm tới số phận người chiến sĩ đã chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam.
(4) Tôi kể tên mấy người quen : Chiến Sĩ (Ðức), G. Boudarel, A. Clavier (Pháp), Targo (Tây-ban-nha). Chiến Sĩ sau chết ở Ðức, G. Boudarel tôi còn gặp ở Paris năm 1996. Không rõ số phận những người khác ra sao.
(5) Các quan tòa Việt Nam hồi này phần nhiều không có chuyên môn. Họ được rút từ các ngành khác, được dự những khóa huấn luyện cấp tốc để trở thành quan tòa. Ngành tư pháp nói chung ở trong tình cảnh tội nghiệp. Do ảnh hưởng của sự sợ hãi nguyên tắc tam quyền phân lập, Ðảng luôn dè chừng ngành này.
(6) Quà gia đình được phép gửi cho tù, ở miền Bắc gọi là tiếp tế.
(7) Những đợt tinh giản biên chế diễn ra thường xuyên trong bộ máy nhà nước mỗi ngày một thêm cồng kềnh. Trong tinh giản biên chế những người xin ra ngoài thường là những người tài năng, không cần bám vào bộ máy nhà nước. Ông Phạm Văn Ðồng ví tình hình này như việc đập lúa, những hạt mẩy nhất bắn ra đầu tiên, những hạt lép thì bám rất dai.
Tôi bị cả Huỳnh Ngự, cả Hoàng, bỏ quên suốt tuần lễ cuối năm âm lịch.
Thành rầu rĩ. Anh nhớ vợ nhớ con. Ðã lâu không nhận được thư nhà, anh lo lắng, không hiểu có chuyện gì xảy ra cho cái gia đình bé nhỏ của anh, nó đang phải chịu những cơn sóng gió nào ? Mà sóng gió thì bao giờ cũng sẵn cho những gia đình bất hạnh có người thân ở tù.
Thành buồn làm tôi buồn lây. Gia đình Thành gặp khó khăn một thì gia đình tôi ắt khó khăn mười. Vợ tôi sẽ gặp nhiều gian nan lắm đây, gian nan như thế nào tôi không hình dung được, nhưng đó là điều nhất thiết sẽ xảy ra, không thể không xảy ra(1).
Không khí Tết luồn vào tận trong các xà lim. Tết đối với người Việt ở nơi nào cũng vẫn là Tết, cho dù họ đang ở dưới đáy vực cuộc đời. Thông thường, vào những ngày giáp Tết, ở xà lim hay ở trại chung cũng vậy, người tù nhận được "quả tắc đậm", nghĩa là quà tiếp tế lớn hơn, nhiều thứ hơn so với trong những lần tiếp tế bình thường. Trong ngày Tết, đối với tù người ta khoan dung hơn, độ lượng hơn. Tù kỷ luật được tha cùm, ai bị cắt tiếp tế nay được phép nhận trở lại. Tết mà !
Người tù xà lim thiếu thốn đủ thứ, thèm khát đủ thứ, cái gì đối với anh ta cũng quý, cũng là cái mơ ước, thành thử biết gia đình mình chẳng sung túc gì anh ta vẫn cứ ngóng đợi tiếp tế như thường. Tiếp tế trong dịp Tết lại càng quan trọng, bởi vì hơn mọi đợt tiếp tế bình thường nó chứng tỏ lòng thương nhớ của người bên ngoài. Lòng người tù dịu đi khi ôm bọc tiếp tế trong tay, anh ta xúc động ăn những món ngon lành, hợp khẩu vị do mẹ mình, vợ mình, con mình nấu cho, anh ta sung sướng thấy mình không bị bỏ rơi.
Khu xà lim chúng tôi nhộn nhịp hẳn lên. Nói nhộn nhịp là nói phóng đại lên cho vui, chứ nó là cái sự nhộn nhịp không ồn ào, cảm thấy được chứ không nghe thấy được. Cái khác ngày thường là ở chỗ chốc chốc lại có cửa mở ra, đóng vào, nhát nhát lại có tiếng chân người rậm rịch đi về trong yên lặng tịch mịch muôn thuở của nhà mồ. Ðó là tù đi gặp gia đình, đi lĩnh tiếp tế. Trong những ngày giáp Tết hiếm có trường hợp tù đi cung. Những người tù xà lim lợi dụng cán bộ quản giáo lơ là - ai mà chẳng bận bịu với gia đình mình khi năm hết Tết đến - làm hiệu cho nhau ở ô cửa kiểm tra, thậm chí thậm thụt gọi với sang nhau, hỏi thăm nhau vài câu. Vẳng tới tận xà lim tiếng dao thớt rộn ràng.
Tôi biết chắc sẽ chẳng nhận được quà gia đình, kể cả thư. Tôi là người mất tích mà. Gia đình tôi chắc chắn không được báo tin tôi ở đâu.
Cuối cùng Thành rồi cũng được gọi ra. Loáng sau anh đã về, lỉnh kỉnh gói bọc.
Mặt hầm hầm, Thành quăng cả đống lên phản.
- Sao thế ?
- Chúng nó cho nhận tiếp tế, nhưng không cho gặp gia đình.
Lần đầu tiên anh gọi công an bằng chúng nó.
- Mọi khi anh vẫn được gặp mà.
- Lần này không.
- Lý do ?
- Chúng nó chẳng lý do lý trấu gì hết. Không cho là không cho.
- Ít nhất thì chúng nó cũng phải cho biết vì sao chứ. Anh có bị kỷ luật gì đâu ?
- Chúng nó không giải thích.
Thành nằm vật ra, tay vắt trên trán.
Tôi đành phải thu dọn đồ tiếp tế cho anh. Bọn mất dạy. Cái bánh mì bị bẻ thành nhiều mẩu. Thịt kho tàu đổ lẫn với ruốc. Kẹo nhiều, chúng không bóc hết, chỉ bóc một số ngẫu nhiên. Những cái kẹo không còn giấy bọc nhơm nhớp dính vào nhau. Cứ nghĩ đến những bàn tay nhơ bẩn đã lục lọi mà tởm.
Ðêm, Thành không ngủ. Tôi cũng thao thức. Khi tôi nói có lẽ do tôi ở cùng anh cho nên chúng khám kỹ, lại không cho anh gặp gia đình, thì Thành im lặng hồi lâu.
- Ðừng nghĩ lẩm cẩm. - anh gạt đi - Tôi có được chọn người ở cùng đâu. Cậu cũng vậy. Chúng nó cho tôi ở cùng cậu chứ không ở cùng một tên cướp của giết người là tôi đã phải cảm ơn chúng nó rồi.
Chiều 30 Tết, tưởng không còn ai được gọi ra nữa, tôi đang ngồi đánh cờ với Thành thì cửa xịch mở, Sứ giả hòa bình ngoắc ngoắc tay gọi tôi ra đi cung.
Trời rét. Xoa xoa hai tay vào nhau, người cóm róm để chống lại cái lạnh cắt da ở miền Bắc Huỳnh Ngự run rẩy đón tôi ở cửa. Trong bộ dạ đen Tôn Trung-sơn làm cho nước da đã tái càng thêm tái, trông y giống một công chức nghèo trong những phim nói về thời kỳ tiền cách mạng Trung Quốc.
- Ở trỏng ra sao, đủ ấm chớ ? Bữa ni rét dữ, hè ?- y vui vẻ và run rẩy hỏi tôi thay lời chào.
- Cảm ơn, tôi chịu được. - tôi đáp, lịch sự vừa đủ, không lạnh nhạt mà cũng chẳng nhiệt tình.
Chúng tôi lẳng lặng ngồi đối diện trong tuần trà. Trời rét, uống trà nóng thật đã. Tôi bắt gặp trong tôi nỗi thèm muốn thật đơn sơ, thật khiêm tốn - được nhàn tản uống trà như thế này mỗi ngày.
- Bữa ni tui gọi anh ra là để thay mặt cơ quan chúc Tết anh. - yên vị rồi, Huỳnh Ngự cất giọng trịnh trọng - Chúc anh chi bây chừ, hỉ ? Hè hè, tôi chúc anh cải tạo tốt để mau chóng trở về trong lòng Ðảng...
Nghe đến cải tạo tốt tôi đã sôi máu, nhấp nhổm định phản bác. Huỳnh Ngự vội xòe bàn tay gày guộc ra ngăn lại :
- Tôi nói thế có đúng không : mỗi chúng ta, hàng ngày, hàng giờ phải tự cải tạo mình để theo kịp bước tiến vũ bão của cách mạng, để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cách mạng...
Xem ra y cũng vụng chèo khéo chống chẳng kém gì tôi.
Y rút bao Thăng Long, mời tôi một điếu. Tết có khác.
- Nhân dịp đầu Năm Mới cơ quan gởi cho anh chút quà mừng Xuân.
Cơ quan gửi quà cho tôi ư ? Anh em tự động hay công an gợi ý ? Và người ta cho tôi nhận ?
Huỳnh Ngự lúi húi lấy quà Tết đặt lên bàn, ngay trước mặt tôi - bánh chưng, hộp mứt, gói kẹo... Lúc ấy tôi mới để ý - đàng sau bàn làm việc là một ghế ngựa, trên đó xếp hàng chồng quà khác, giống hệt phần quà cho tôi. Không phải quà của cơ quan tôi rồi.
- Anh em trong cơ quan chẳng có gì hơn đâu - Huỳnh Ngự nói bằng giọng phân trần - tụi tui cũng như anh thôi, mỗi người một bánh chưng, một hộp mứt, một gói thuốc, một gói trà...
Vào những năm ấy tiêu chuẩn Tết cơ quan lo cho cán bộ, công nhân viên cũng đến thế là cùng. Mà ấy là cơ quan Trung ương, chứ cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện tiêu chuẩn Tết còn thanh đạm hơn nhiều.
Có nên nhận hay không, tôi nghĩ ?
Không thấy Thành nói tới lệ cho tù quà Tết. Lại đặc biệt rồi. Các anh là cán bộ mắc sai lầm, Ðảng bao giờ cũng nhớ tới công lao của các anh, Ðảng bao giờ cũng phân biệt các anh với các loại tội phạm khác - họ vẫn nhai nhải như thế. Hãy yên tâm mà ở tù, để được xúc động trước tấm lòng ưu ái Ðảng dành cho, tôi cay đắng bổ xung.
Tôi quyết định nhận quà. Những thứ này đâu phải của họ, của nhân dân cả, tội gì không lấy. Tôi không lấy, Huỳnh Ngự sẽ lấy, hoặc đàn em y sẽ lấy. Tôi đã dùng quá nhiều đồ tiếp tế của Thành. Có gì gia đình gửi vào anh cũng xẻ cho tôi. Tôi có một chút góp vào vẫn hơn.
- Tôi xin cảm ơn cơ quan Công an đã cho quà...
- Không, không phải quà của cơ quan Công an. - Huỳnh Ngự bối rối cải chính - Ðây là quà của Ban Tổ chức Trung Ương.
- Thế thì tôi xin cảm ơn Ban Tổ chức Trung Ương.
- Anh không chúc lại à ?
- Có chứ. - tôi lạnh lùng - Tôi chúc Ban Tổ chức Trung Ương mau chóng xem xét và giải quyết vụ án của chúng tôi một cách quang minh, chính đại, cho hợp pháp, hợp hiến... Ít nhất thì cũng đúng với tinh thần và lời văn những gì tôi đã được nghe phổ biến.
Mặt Huỳnh Ngự đanh lại. Tôi không hiểu lúc ấy y đứng ở cương vị nào, người của Bộ Nội Vụ hay của Ban Tổ chức Trung Ương, hay của cả hai cùng một lúc ?
Tôi về. Huỳnh Ngự giữ lại gói trà, nói trong xà lim không có nước sôi, tôi sẽ dùng sau, trong những lần ra làm việc.
Thành vui vẻ đón tôi :
- Có quà nhà gửi vào à ?
Ðợi cho cửa xà lim đóng lại, tôi mới trả lời :
- Quà nhà đâu. Họ cho đấy.
- Ai ? Ai cho ?
Tôi kể cho anh nghe chuyện Ban tổ chức Trung ương gửi cho chúng tôi quà Tết.
Chúng tôi ăn một bữa vui vẻ. Trong xà lim không thể để dành thức ăn. Chuột xà lim rất hỗn. Thành tỉnh thức, một tiếng động nhẹ đủ làm anh bật dậy, thế mà có đêm anh mới ngủ quên một lát chuột đã mò lên cắn thủng cái áo bông anh bọc gói bánh quy.
Trong nhà tù, chuột là một thứ cư dân hết sức đáng ghét. Chúng chẳng nể ai.
Có trải qua nhà tù tôi mới thấy mình cần phải thay đổi cách nhìn đối với các sinh vật. Chẳng hạn, chuột không ngu một chút nào như ta thường nghĩ, tôi dám đánh cuộc như vậy.
Tôi xin kể chuyện này làm thí dụ. Xà lim Hỏa Lò kín lắm, gió vào còn khó, nhưng chuột thì lại ra vào thoải mái. Lối vào của chúng là lỗ thoát nước ở chân tường. Tù xà lim được phát mỗi người một bô, nhưng người ta lười tè luôn vào lỗ ấy. Người sạch tiểu xong thì dội nước (nếu anh ta có nước trữ), người bẩn thì không. Thành kể khi anh mới bị đưa vào phòng này, mặc dầu nó đã được quét dọn, mùi khai thối vẫn nồng nặc, đêm không ngủ được. Anh phải cọ rửa nhiều lần phòng mới được như bây giờ.
Trong số chuột quen thói mò vào xà lim, chúng tôi căm thù nhất con chuột già.
Những người tù lâu năm nói rằng chuột Hỏa Lò chưa là cái gì. Chuột ở nhiều trại khác còn tệ hơn nhiều.
Mấy ngày Tết là mấy ngày chúng tôi được ăn no. Suất cơm ngày thường ăn vèo cái đã hết. Suất ăn ngày Tết có buồng còn để thừa. Trong những ngày đầu tiên rơi vào đây, tôi không thấy đói, nhưng sau đó chừng một tháng thì đói không chịu được. Thành nói khi mới vào người tù không thấy đói vì hai lý do : thứ nhất, nỗi lo lắng cho số phận làm tê liệt mọi cảm giác; thứ hai, trong người còn một số năng lượng dự trữ. Trong tôi lực lượng dự trữ chắc cũng khá, bắt đầu từ tháng thứ hai trở đi tôi mới thấy cái dạ dày luôn nhắc tôi nhớ đến nó.
Trong cái chuồng chật hẹp người tù không thể kiếm nổi bất cứ một thứ gì khả dĩ bỏ bụng, cho dù bản năng kiếm mồi chưa thui chột. May cho tôi, đúng vào lúc ruột gan cồn cào nhất Thành lại giở kho thức ăn dự phòng ra rủ tôi cùng ăn, khi cái bánh quy, khi mẩu đường phên. Thành đúng là thuyền trưởng gang thép của con tàu mắc cạn trên hoang đảo - anh chỉ tự cho phép mình dùng chút một trong số lương thực ít ỏi mà anh có, hào phóng chia sẻ cùng tôi. Tuy nhiên, đề phòng tôi không chống nổi sự cám dỗ, anh cất nó rất kỹ, tận trong cùng bọc quần áo, thậm chí khi bất thình lình bị gọi đi cung anh còn kín đáo đánh dấu đồ đạc. Sau thấy tôi là một thủy thủ có kỷ luật, anh mới thôi dè chừng. Tôi buồn vì chuyện đó, nhưng suy đi nghĩ lại, tôi thấy anh đúng. Trong xà lim con người đánh mất mình như bỡn. Thành từng ở chung với một anh chàng cán bộ cấp bậc không đến nỗi xoàng, nhưng ăn vụng như chảo chớp.
Chẳng cứ tù mới đói. Chính sách kiểm soát dạ dày của người dân là một chính sách nhất quán của các triều đại tổng bí thư mà tôi sống qua. Dân no thì hỗng, dân đói dễ trị. Cho nên, người dân bao giờ cũng phụ thuộc họ bởi nhiều sợi dây tam cố, mà sợi dây chủ yếu trong giai đoạn đó là chính sách lương thực, thể hiện rõ nhất trong phiếu gạo. Người nông dân làm ra thóc gạo, được bao nhiêu phải bán cho Nhà nước. Sau khi làm nghĩa vụ xong có thừa chút đỉnh đem bán ra ngoài cũng phải bán chui, bởi vì như thế là vi phạm chính sách lương thực.
Lớp cán bộ ở thành phố sống trông vào phiếu gạo. Nhà thơ Quang Dũng(2) to lớn gấp đôi tôi, chỉ được hưởng phiếu gạo 13,5kg/tháng, trong khi tôi còn được phiếu 15kg, tiêu chuẩn phóng viên. Nói tóm lại, tác giả những bài làm nức lòng quân sĩ một thời chẳng được ưu đãi gì hết. Anh than thở:" Lắm bữa mình ngon miệng, bà vợ thương quá, cứ xới cho liên chi hồ điệp, mình thì cứ hồn nhiên xơi mãi, chẳng biết là mấy bát. Sực nhớ ra, mới vội dừng lại. Chao ôi, nhìn các con mà thẹn. Cứ như thể mình ăn thâm vào phần chúng nó vậy". Anh gặp may trong một lần đi thâm nhập thực tế với mấy nhà lãnh đạo Tổng cục lương thực, vào năm 1960 hoặc 1961. Trong một bữa chiêu đãi, thấy anh làm liền tù tì mười bát mà vẫn còn thòm thèm, ông cán bộ Tổng cục mới hỏi anh ăn được như vậy thì tiêu chuẩn anh bao nhiêu. Khi biết Quang Dũng chỉ có 13,5kg, ông thương tình, ra lệnh đặc biệt cho anh được đổi sang phiếu 21kg. Cho anh tiêu chuẩn cao hơn nữa ông không có quyền. Quang Dũng kể chuyện này cho tôi nghe, cười hì hì : "Bình thường mình cũng chẳng ăn nhiều đến thế đâu, ăn ít quen dạ rồi, nhưng hôm đó phải ra sức biểu diễn một đường hào hùng cho các vị thấy. Mới được cái phiếu 21 ký ấy chứ". Tôi hỏi nếu thả cửa anh ăn được bao nhiêu bát, anh nói cái đó còn tùy thức ăn nhiều hay ít, ngon hay không ngon, và ai là khổ chủ dám liều mạng thết anh một bữa ăn mặc sức như thế.
Dù có thể ăn no trong mấy ngày Tết Thành vẫn cương quyết hạn chế cả hai :"Ăn ở đây mà bội thực còn khổ nữa. Không thể "Báo cáo ông quản giáo, cho tôi xin thuốc tiêu !". Họ không cho thì chớ, còn nhiếc móc cho đã đời, vuốt mặt không kịp đấy". Trong mấy ngày đầu năm đã xảy ra chuyện đúng như vậy. Chúng tôi nằm dài trên phản nghe tiếng quản giáo Hách sang sảng dạy bảo đám tù khốn khổ chỉ vì tội hạnh phúc đến với họ quá dồn dập và họ không chống cự nổi sự cám dỗ quá mạnh mẽ. Tiếng người nói to trong xà lim im ắng âm âm như tiếng cha xứ giảng đạo trên tòa cao nơi giáo đường.
Chúng tôi choàng tỉnh giữa đêm khuya vì tiếng loa quá lớn. Vang vang giữa những trào sóng giao thừa là tiếng phát thanh viên đọc thơ chúc Tết. Ðã thành lệ, năm nào Tết đến đài Tiếng nói Việt Nam cũng truyền đi thơ chúc Tết của chủ tịch Hồ Chí Minh. Còn nhớ Tết năm trước gia đình chúng tôi quây quần bên ban thờ tổ tiên, thoảng trong khói pháo giao thừa có mùi hoa thủy tiên, hoa huệ, cha tôi lầm rầm khấn khứa, mẹ tôi đứng sau, sau nữa là chúng tôi, bên ngoài nhà chúng tôi là cả một Hà Nội râm ran tiếng pháo, tiếng quốc thiều, giọng sang sảng của người đứng đầu cả nước bay trong sóng điện.
Tết năm nay gia đình tôi tan tác. Cha tôi đêm nay nằm ở xà lim nào, trong cơn đau không người chăm sóc ? Mẹ tôi chắc đang lặng lẽ chảy nước mắt thương chồng thương con. Còn cái gia đình nhỏ của tôi nữa, giờ này chắc vợ tôi đang ôm hai đứa nhỏ trong lòng, đang sụt sùi khóc cho đời mình và cho hai đứa con còn nhỏ đã mất cha ?
Nhờ Ðảng gỡ hộ cho tôi cái màng ảo tưởng, lần đầu tiên trong đời tôi thấy mắt mình nhìn sự vật sáng rõ đến thế. Tất cả như tuột hết vẻ hào nhoáng bề ngoài, lớp vàng mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng, trần trụi, lõa lồ dưới ánh mặt trời.
Cũng nhờ Ðảng tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại có thể mê muội đến thế nhỉ ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát cánh cùng ông trong những năm khó khăn gian khổ bị Lê Ðức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm nhiên không hề can thiệp, dù chỉ để tìm hiểu ngọn nguồn ?
Trước khi bị bắt, tôi có gặp ông Hoàng Quốc Thịnh, bộ trưởng Bộ Nội thương. Ông Thịnh kể mới đây ông vào Chủ tịch phủ báo cáo với ông Hồ Chí Minh về công tác thương nghiệp. Ông hỏi ông Hồ chuyện cha tôi vì sao bị bắt thì ông Hồ ngơ ngác :" Tại sao lại bắt chú Huỳnh ? Chú ấy làm chi mà bắt ?". Trong tình bạn với cha tôi, Hoàng Quốc Thịnh là người chung thủy. Ông im lặng, như mọi người hồi đó đều phải im lặng trước Lê Ðức Thọ, nhưng từng hoạt động với cha tôi quá lâu, từng ở tù cùng cha tôi, ông không thể tin những lời bịa đặt của Thọ. Vậy là trước đó ông Hồ không biết cha tôi bị bắt ? Hay ông biết mà giả vờ không biết ? Giả thử ông không biết thật thì nghe ông Hoàng Quốc Thịnh nói rồi ông phải biết chứ. Biết rồi, nhưng ông cũng có làm gì đâu. Sự thật ở chỗ nào ? Ông Hồ bị tước bỏ mọi quyền hành hay ông còn quyền hành nhưng ông làm ngơ ?
Trong xà lim tôi có thừa thời gian để suy ngẫm. Trong những điều tôi suy ngẫm, có sự rà soát lại bệnh sùng bái ông Hồ Chí Minh mà thế hệ chúng tôi, kẻ ít người nhiều, đều mắc phải.
Chúng tôi sùng bái ông bởi đạo đức vô song của ông. Chúng tôi coi ông là người tốt nhất trong mọi người. Ông là người duy nhất rũ sạch được mọi toan tính cá nhân để chỉ sống cho Tổ quốc, cho đồng bào. Không gia đình, không tài sản, không công danh.
Nhưng không phải thế.
Người ta ca ngợi ông Hồ ông đi sâu đi sát, việc nhỏ việc lớn đều được ông để mắt đến. Vậy những gì đã xảy ra dưới thời ông trị vì ? Ðã có bài học giảm tô giảm tức, tại sao còn có sai lầm Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức(3) ? Chẳng lẽ người thông minh như ông lại không biết vụ Nhân văn - Giai phẩm là do Trường Chinh dựng nên để chạy tội, bức hại nhiều văn nghệ sĩ có tâm huyết với dân tộc, từng theo ông suốt cuộc kháng chiến chống Pháp ? Tôi nghĩ ông phải biết. Cha tôi kể ông rất chăm đọc báo chí hàng ngày, ai đến làm việc với ông cũng được ông hỏi han đủ chuyện, chẳng lẽ ông không biết gì về việc vừa xảy ra ? Tôi nhớ một hôm cha tôi đi gặp ông trở về, bảo tôi :"Con vừa viết cái gì mà hôm nay bố đến chơi, Ông Cụ kêu "thằng Hiên viết truyện trên tờ Văn Nghệ, nó định nói cái chi tôi không hiểu". Thì ra đó là ông Hồ đã đọc truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ(4) của tôi mà cha tôi chưa đọc. Một việc cỏn con như thế ông còn biết nữa là.
Tôi từng là một trong những đứa cháu gần gụi của ông trong những năm đầu cách mạng. Những ngày ông phải lẩn trốn bọn Tàu Tưởng, luôn thay đổi chỗ ở, ông từng ngủ ở nhà tôi, hai bác cháu chung giường. Mẹ tôi lo lắng cho sức khoẻ ông, bà thường làm các món tẩm bổ cho ông ăn khi ông mới từ chiến khu về Hà Nội, cha tôi phải xách cặp lồng vào Bắc bộ phủ hàng ngày cho ông, chẳng lẽ ông không nhớ ?
Ai cũng biết nếu ông nói "không được" thì chắc chắn bọn Duẩn - Thọ sẽ phải chùn bước trước việc bắt bớ hàng loạt người cộng sản vô tội.
Nhưng ông im lặng.
Bây giờ tôi mới hiểu : thì ra con người đối với Hồ Chí Minh chẳng là cái gì. Ông mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới, sao vàng năm cánh mộng hồn quanh(5). Con rồng, ai cũng biết, là biểu tượng của nhà vua. Ông mơ cưỡi nó thì ông đâu phải là một người trong chúng ta. Than ôi, lũ dân thường chúng ta làm gì có những giấc mơ như thế. Chúng ta chỉ mơ thấy cưỡi trâu, cưỡi bò, cưỡi ngựa. Sang lắm thì cưỡi bình bịch là cùng. Lẽ ra tôi phải hiểu sớm hơn mới phải : bác Hồ của tôi từ lúc đang phải sống lẩn lút để làm cách mạng đã ôm ấp mộng ước làm vua. Ông có chí lớn để thực hiện nó. Và ông đã thực hiện được.
Con người là vốn quý nhất, tôi từng nghe ông nói với mọi người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Stalin cũng nói thế. Mao Trạch-đông cũng nói thế.
Mà đúng : con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái gì đó. Khi là vốn, nó thôi là Người.
Trong hành xử ông là một diễn viên kỳ tài, như sau này tôi được biết. Cha tôi có kể chuyện khi đi thăm bức tường công xã Paris ở nghĩa trang Père Lachaise (1946), có các quan chức Pháp tháp tùng, ông Hồ sụt sùi khóc, lấy khăn tay thấm nước mắt. Trở về khách sạn, cha tôi hỏi làm sao ông khóc được, ông trả lời: "Mình làm chính trị, khi cần khóc phải khóc được, khi cần cười phải cười được, mới làm chính trị được chứ". Cha tôi có ghi lại việc này trong hồi ký "Tháng Tám cờ bay", được báo Văn Nghệ in phần đầu trong năm 1994.
Một lần tôi quay cảnh ông thăm đồng bào nông dân ở Hải Dương, mùa hè năm 1957. Sáng sớm hôm ấy trời mưa to, trên đường còn lại những vũng nước lớn. Ðến một đoạn đường lầy lội ông tụt dép, cúi xuống xách lên. Trong ống ngắm của máy quay phim tôi nhìn rõ hai bên vệ cỏ không bị ngập. Tôi chợt hiểu : ông không đi men vệ đường bởi vì ông muốn chưng đôi dép. Vì lòng kính trọng đối với ông, không muốn rồi đây người xem sẽ nhận ra trên màn ảnh lớn diễn xuất lộ liễu, tôi tắt máy. Nghe tiếng cái Eymo 35 đang kêu xè xè đột ngột im tiếng, ông ngẩng lên nhìn tôi, nhưng ngay đó ông hiểu ra. Có lẽ vì thế mà sau tôi thấy ông không bực bội với tôi.
Một thời gian dài, bằng nhiều thí dụ cụ thể trong cách xử thế của ông Hồ, người ta không ngớt tán tụng tính cách bạt thiệp của ông, nghệ thuật ứng xử tuyệt luân của ông, để rồi, trong khi học tập ông họ luyện cho mình thói quen đạo đức giả lúc nào không biết.
Tôi được đọc khá nhiều về Stalin, Mao Trạch-đông, Kim Nhật-thành, Ceaucescu... Mới thấy chúng ta còn may lắm - Hồ Chí Minh của ta hơn hẳn họ về lòng nhân ái. Nếu không phải ông mà là họ, chắc chắn tấn bi kịch xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã lớn hơn nhiều. Và riêng tôi, hẳn đã đi tù sớm hơn, hoặc đã chết trong tù, nếu như không bị bắn tắp lự. Tôi cho rằng sự biết ơn người có quyền giết mà không giết mình cũng là cái nên có trong lòng chúng ta.
Cuộc chia tay với thần tượng không nhẹ nhàng gì. Cần phải là người trong cuộc mới hiểu được chuyện đó. Cái giá tôi phải trả cho cuộc chia tay đắt lắm.
Ông Hồ cũng có bi kịch của chính ông. Tôi hi vọng rồi đây sẽ có người viết về những bi kịch đó. Những bi kịch xảy ra khi ông còn trẻ, ở xa tổ quốc. Những bi kịch khi ông về già, ngay trên đất đai quê hương. Tôi rất muốn tin những gì người ta đã viết về ông là đúng. Ðó là những mặt tốt của ông. Chúng có thật. Có nhiều. ê đây tôi chỉ kể ra những gì tôi nhận xét trong mối quan hệ giữa ông và tôi, những ý nghĩ của riêng tôi về ông trong khi rà soát lại mối quan hệ với chủ thuyết ông mang về từ nước ngoài làm quà tặng cho dân tộc, trong đó có phần dành cho tôi.
Ông chỉ là một con người, như mọi người, với những cái tốt và những cái xấu, những mặt mạnh và những mặt yếu, mà mỗi cá thể người phải có. Chính chúng ta sai khi nhìn ông như thánh nhân.
Tôi nhớ năm 1946, tôi thường ra vào Bắc bộ phủ và được gặp ông Hồ Chí Minh nhiều nhất, do cha tôi làm việc và ở sát với ông. Ðó là năm sóng gió nhất của chính quyền cách mạng. Nạn đói do thực dân Pháp và phát-xít Nhật gây ra(6) giết chết hơn hai triệu người để lại những hậu quả nặng nề. Ngoài Bắc quân Tưởng Giới-thạch tràn sang, trong Nam quân Anh-ấn kéo vào, theo chân họ là quân đội Pháp lăm le chiếm lại Ðông Dương màu mỡ(7). Những người Quốc dân đảng biểu tình, mít tinh, phát truyền đơn, bắc loa điện ở đường Quan Thánh ra rả suốt ngày chửi Hồ Chí Minh bán nước. Họ giết các chiến sĩ tự vệ thành, cả dân lành, rồi chôn trong một trụ sở ở đường Ôn Như Hầu. Họ bắt cóc rồi thủ tiêu ông Trần Ðình Long, ông Nguyễn Văn Phúc, biệt hiệu Phúc ghẻ, cả hai là bạn tù Sơn La của cha tôi. Tôi cũng nghe nói có những vụ Việt Minh giết người của Quốc dân đảng, tuy bản thân chưa được thấy vụ nào. Nhưng tôi tin tất cả những sự kiện đó là có thật, cũng như sự kiện này là có thật : chính những người cộng sản đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tháng Tám chứ không phải là một sự tranh công của các đảng phái khác như có một số tác gia đã viết.
Trong những ngày nước sôi lửa bỏng như thế, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn điềm tĩnh ngồi trong phòng làm việc trên tầng hai Bắc bộ phủ. Ông như một thuyền trưởng can trường, bình tĩnh chỉ huy con tàu trong cơn bão.
Tôi còn nhớ cha tôi lo lắng thế nào khi ông Hồ Chí Minh bị Lư Hán và Tiêu Văn giữ lại trong lần ông thân tới hành dinh quân Tưởng để đàm phán. Nhưng trở về Bắc bộ phủ Hồ Chí Minh vẫn là Hồ Chí Minh - tự tin và ung dung, như không hề có chuyện gì xảy ra. Thỉnh thoảng ông ló đầu ra ngoài hành lang - tôi hay quanh quẩn ở đấy, gọi tôi vào, giao cho tôi mấy mảnh giấy nhỏ để tôi chạy xuống đưa cho các chú các bác ở tầng dưới, hoặc đang chờ ở phòng cảnh vệ. Từ trong phòng làm việc của ông, bao giờ cũng tối bởi sàn lim và những đồ gỗ sẫm màu, tôi nghe tiếng bánh xe hơi chạy rào rào trên sỏi. Hồ Chí Minh bỏ bàn viết chạy đến bên cửa sổ. Từ tay ông bay ra một mẩu giấy nhỏ. Nó đung đưa trong gió làm cho người đứng dưới vồ trượt nhiều lần. Vồ được, người đó vội vã đọc lướt qua, rồi nhảy lên xe, Chiếc xe lại rào rào phóng thẳng ra cổng. Ðó là ông ra lệnh chuẩn bị những kho muối cho cuộc kháng chiến chưa biết chừng xảy ra lúc nào. Tôi nhớ rõ hình ảnh ấy và tôi nghĩ nó sẽ đắt trong một bộ phim nói về năm 1946 hào hùng.
Lúc đó ông Hồ Chí Minh còn là Bác Hồ tôn kính, Bác Hồ yêu mến của tôi.
Ông mở đầu pho sử hoành tráng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống lại chế độ thuộc địa toàn cầu, với tư cách một phong trào, chứ không phải cuộc đấu tranh của riêng một Việt Nam. Trận thắng Ðiện Biên phủ đã thổi vào lòng các dân tộc bị trị niềm phấn khích chưa từng có, mở ra cao trào đấu tranh cho độc lập dân tộc trên khắp thế giới, thúc đẩy sự chấm dứt chế độ thực dân, làm tan rã hệ thống thuộc địa. Thế giới biết tên ông cùng với tên đất nước nhỏ bé dám dùng gậy tầm vông chống lại vũ khí hiện đại để giành độc lập, tự do.
Tượng đài cho ông, với tư cách nhân vật lịch sử, đã được đúc.
Nhưng tôi buồn. Tôi còn tiếc nữa. Tôi đã quen nhìn ông không phải chỉ là chủ tịch Hồ Chí Minh, mà là Bác Hồ của tôi.
Không buồn sao được khi nhìn lại tôi thấy trong tôi chỉ còn trơ trọi một niềm tôn trọng duy lý, một tình cảm lạnh lẽo đối với ông, như đối với một nhân vật lịch sử. Mà một thời ông đã từng có vị trí không nhỏ trong tim tôi.
(1) Ban tổ chức Trung ương không quên ra lệnh trấn áp các gia đình có người bị bắt trong vụ "nhóm xét lại chống Ðảng". Sau khi tôi bị bắt vài tháng, vợ tôi đang làm ở Viện quy hoạch thuộc Bộ kiến trúc bị chuyển công tác tới Ty kiến trúc Hà Sơn Bình. Hàng ngày vợ tôi phải đạp xe 40 cây số đi về để trông nom ba con nhỏ. Các em tôi không được phép thi vào đại học, trừ một người được thi vào ngành thư viện do mẹ tôi đấu tranh rất dữ với Lê Ðức Thọ trong những năm sau này.
(2) (1921-1988) Nhà thơ quân đội thời kháng chiến chống Pháp, nổi tiếng với những bài thơ Tây Tiến, Ðôi Bờ, Mắt Người Sơn Tây, Lính Râu Ria (Cô Hàng Cà Phê)...
(3) Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xã đã Cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị hãm cho chết đói, (những xã có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học.
(4) Báo Văn Nghệ, 1961.
(5) Hồ Chí Minh "Nhật Ký Trong Tù".
(6) Vụ lúa 10.1944 ở miền Bắc bị tàn phá nặng nề vì đê vỡ. Trong khi đó Pháp và Nhật thi hành một chính sách thu mua tàn bạo (giá thị trường 200 đồng Ðông Dương một tấn lúa, chúng bắt dân bán với giá 25 đồng). Một số vùng bị Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay phục vụ nhu cầu chiến tranh.
(7) Tháng 9.1945 tướng Dougles Gracey chỉ huy quân Anh-ấn kéo vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến thứ 16 trở xuống phía Nam theo quy định của Hiệp ước Postdam (7.1945). Dougles Gracey đã lấy vũ khí tước được của Nhật trang bị cho 1.400 tù binh Pháp mới được thả ra và một đại đội thuộc trung đoàn thuộc địa số 5 (5è RIC) cộng với một số Pháp kiều hung hãn để bọn này tấn công cách mạng Việt Nam. Ngày 11.10.1945 ngoại trưởng Anh Ernest Bevin còn tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Pháp tại Ðông Dương (là điều hoàn toàn không được ghi trong Hiệp ước Postdam).
Tiếp theo là những đêm không ngủ. Cái loa công cộng, cách chúng tôi khá xa, mắc trong trại lính gác Hỏa Lò, theo gió đưa tới tai chúng tôi những tin tức đứt quãng, bập bõm, lúc được lúc mất, chen lẫn những khúc quân hành hùng tráng. Qua những con số không rõ, những địa danh lào phào, nhưng còn có thể đoán được, chúng tôi hiểu rằng ở miền Nam đang xảy ra những trận đánh lớn.
- Choảng nhau to ở miền Nam rồi ! - Thành nói.
- Chắc thế.
- Ðang còn ngừng bắn mà ?
- Ðiệu này mình vi phạm thỏa thuận ngừng bắn. - tôi nhận xét - Không phải Mỹ. Nếu là Mỹ, người ta chửi nhiều, chứ không hát nhiều.
- Miền Nam thế là mất đứt cái Tết.
- Còn phải nói ! Miền Bắc cũng mất một nửa. Cho mít-tinh chào mừng.
Nằm cuộn tròn trong chăn, tôi vẫn thấy rét run. Ðể có chỗ ngủ ấm, người tù xà lim phải lấy nhiệt thân mình sưởi cho cái phản xi-măng trước đã. Phải sưởi khá lâu nó mới ấm lên được, mà cũng chỉ ấm đúng bên dưới thân người thôi, hai bên sườn vẫn lạnh như băng.
Không ngủ được, Thành ngồi dậy hút thuốc lào. Khói thuốc tạo ra ảo giác nhờ nó hơi ấm không bay đi, hoặc nó ngăn được không khí lạnh từ ngoài vào.
Hỏa Lò không tham gia chiến tranh. Nó đứng sang một bên, duy trì sinh hoạt đều đặn của nó, dửng dưng như một kẻ vô can. Quản giáo đóng cửa mở cửa, lấy phạm đi cung. Chấp pháp tới giờ làm việc la hét, cật vấn như những viên chức được trả lương chỉ để quát nạt. Tôi nằm dài trên phản, nghĩ vẩn vơ. Chiến tranh đi bên ngoài những bức tường đá như người qua đường. Những hồi còi báo động báo yên là những tin tức duy nhất về một cuộc chiến đang xảy ra ở một nơi nào đó rất xa.
Những ý nghĩa lan man dẫn tôi tôi nhớ tới cuốn Nhật Ký Tây-Ban-Nha, một tác phẩm rất hay của nhà viết phóng sự Mikhail Koltsov(1). Tác giả của nó, nguyên tổng biên tập báo Pravda, một người cộng sản, vào một ngày đẹp trời bỗng nhiên trở thành kẻ thù của nhân dân xô-viết. Một chiếc xe bịt bùng đến mang ông đi vào ban đêm, và thế là con người tuyệt vời nọ biến mất. Chỉ còn lại cuốn sách, đứa con tinh thần côi cút, nhân chứng của thời đại, kỷ niệm về người tạo ra nó.
Nhớ tới Nhật Ký Tây-Ban-Nha, tôi chợt phát hiện một điều thú vị. Thì ra trong cái sự cứng đầu của mình đối với bọn độc tài có cả ảnh hưởng của tiếng thét bất khuất "No passaran(2)" vang vọng từ Madrid xa xăm.
- Không biết năm nay vợ con mình ở nhà ăn Tết ra sao ? - Thành tự hỏi - Hay là có tí tiêu chuẩn nào lại gửi vào cho mình hết ?
Tôi nhớ hai đứa con tôi. Chúng ăn Tết ở nhà với bà nội bà ngoại chứ không ở nơi sơ tán. Vợ tôi thể nào cũng đưa các con về. Không biết cái sự giã nhau trong lúc tết nhất này có ảnh hưởng đến mấy ngày vui chơi của chúng không ?
- Ðã thỏa thuận nghỉ Tết thì ăn Tết cái đã, Tết xong tiếp tục đánh nhau cũng được. Cho nó đàng hoàng. - tôi lầu bầu - Trong chiến tranh Tây-ban-nha, anh biết không, quân Cộng hòa và quân Phát-xít đánh nhau thậm chí còn có giờ giấc nữa kìa(3).
Thành gãi sồn sột. Mấy hôm nay ngày nào anh cũng truy lùng một con rệp tình nghi từ một xà lim khác bò qua mà không tìm ra.
- Ðánh nhau có giờ giấc là thế nào ?
- Là thế này : từ sáng sớm hai bên nã đạn vào nhau chí tử, nhưng đến đúng ngọ là ngừng bắn, lính cả bên này lẫn bên kia bò ra khỏi chiến hào, phủi bụi, rồi đi đến một cái quán ăn nằm giữa tuyến lửa, ăn trưa và uống cà phê với nhau ...
- Lại còn thế nữa ?! Phịa !
- Thật mà. Có điều họ ngồi quay lưng lại với nhau, không bên nào thèm nói chuyện với bên nào...
Tôi kể cho Thành nghe những đoạn thú vị trong "Nhật ký Tây-ban-nha". Anh thích nghe tôi kể chuyện, với vẻ mặt nửa tin nửa ngờ. Ðối với anh, nhà văn là thứ người chúa bịa chuyện, hay thì hay đấy, mà không tin được. Với tôi, anh gọi nửa đùa nửa thật :"Này, cậu nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm ơi !"
- Tôi có hỏi một ông người mình hồi ấy chiến đấu ở bên phe Cộng hòa, ông ấy bảo chuyện có thật(4) đấy, đúng như thế.
- Sao ? Cậu bảo có cả người mình tham gia chiến tranh Tây-ban-nha kia à ?
Thành trợn tròn mắt.
Tôi kể cho Thành nghe về ông ThọTây-ban-nha, về những Binh đoàn quốc tế. Thành khoái lắm.
- Ông ấy còn sống chứ ?
- Ông ấy còn khỏe. Có dịp, tôi sẽ giới thiệu anh.
- Nếu chúng mình không chết trước khi ra khỏi đây.
Thành cười, cái cười pha một chút chua chát, một chút ngạo nghễ thường có ở những người lính từng trải.
Từ xa vọng vào tiếng một đoàn xe nặng nề - xe tăng hoặc xe bọc thép. Có thể cảm thấy cái phản xi-măng rung lên nhè nhẹ. Gần đây, phía đường Bạch Mai, luôn vẳng đến tiếng ầm ì của xe hạng nặng chạy về phương Nam.
- Ông ấy còn khỏe. Có dịp, tôi sẽ giới thiệu anh.
- Nếu chúng mình không chết trước khi ra khỏi đây.
Thành cười, cái cười pha một chút chua chát, một chút ngạo nghễ thường có ở những người lính từng trải.
Từ xa vọng vào tiếng một đoàn xe nặng nề - xe tăng hoặc xe bọc thép. Có thể cảm thấy cái phản xi-măng rung lên nhè nhẹ. Gần đây, phía đường Bạch Mai, luôn vẳng đến tiếng ầm ì của xe hạng nặng chạy về phương Nam.
Ông Thọ Tây-ban-nha sau cách mạng chẳng làm chức gì to. Cha tôi khuyên ông :
- Mày đừng nghe chúng nó xui dại mà nhận chức này chức nọ. Nước độc lập rồi, thế là hả dạ, mày biết nấu cơm tây, làm nghề ấy là hay nhất, không phải lo nghĩ.
Cha tôi hồi ấy đang làm vụ trưởng Vụ Lễ tân. Ông giới thiệu ông Thọ đi làm bếp cho sứ quán Cuba.
Ông Thọ Tây-ban-nha thường đến thăm cha tôi. Tôi nhớ có hôm ông đang ngồi uống trà với cha tôi thì phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đến chơi. Ông Thọ Tây-ban-nha nhấp nhổm định về. Cha tôi giữ lại : "Nó làm quan to kệ nó, mày với nó đồng chí, việc gì mà ngại". Như mọi khách khác ông Lê Thanh Nghị đến nhà tôi phải bắt bảo vệ ngồi đợi ngoài xe, chính ông cũng phải tụt giày, đi chân đất vào phòng cha tôi mà ngồi trên sàn gạch men. Căn phòng này cha tôi lau sạch sẽ để khi trời nóng quá thì lăn ra cho mát. Ông phó thủ tướng ôm chầm lấy ông bếp, cả ba chuyện trò vui vẻ, cười vang nhà. Ông Thọ Tây-ban-nha hứng lên chạy xuống bếp tự tay nấu món ra-gu cho cả ba cùng ăn.
Ông Thọ Tây-ban-nha có cho tôi biết một chi tiết thú vị mà những nhà nghiên cứu đời hoạt động của ông Hồ Chí Minh chắc cũng muốn biết : trong ông Hồ Chí Minh con người quốc tế và con người quốc gia con người nào mạnh hơn ? Hồi phe xã hội chủ nghĩa cường thịnh, người ta ra sức chứng minh ông Hồ theo chủ nghĩa quốc tế. Sau này người ta lại ra sức chứng minh ông Hồ là người quốc gia. Cho nên lời chứng của ông Thọ Tây-ban-nha có ý nghĩa lắm. Theo ông Thọ kể lại thì khi biết có người Việt Nam chiến đấu trong Binh đoàn quốc tế, ông Hồ nói :"Rõ việc nhà thì nhác việc chú bác thì siêng".
Năm 1964, hoặc 1965 tôi không nhớ rõ, ông Thọ Tây-ban-nha đã thôi nấu bếp cho các sứ quán, đang làm gác kho cho Liên hợp dệt Nam Ðịnh thì được tổng thống Nam Tư Iosif Broz Tito(5) mời sang Belgrad dự cuộc họp mặt các cựu chiến binh Binh đoàn quốc tế. Nhận được giấy triệu tập của Ban tổ chức Trung ương ông dặn vợ :"Ðã nhiều năm Trung ương không nhắc gì tới tôi, nay lại có giấy gọi, lành thì ít dữ thì nhiều, nếu tôi không về thì
bà ráng nuôi con, đừng nghe người ta nói này nói nọ mà hiểu lầm. Tôi không chống cách mạng, không phải tờ-rốt-kít, không phải AB(6) gì ráo. Tôi sống trong sạch, chết cũng trong sạch". Lê Ðức Thọ tiếp ông, căn dặn trước khi lên đường :"Sang bên ấy anh không được phát biểu chính trị. Câm như hến, nghe chưa ? Ăn nói lăng nhăng thì coi chừng !". Ông trở về, tôi hỏi ông chuyện Nam Tư, ông cười hiền lành :"Có chuyện quái gì mà kể ! Tao sang bên ấy làm đúng như Lê Ðức Thọ ra lệnh, ai nói gì tao cũng chỉ nhe răng ra cười. Mới lại, có ai nói chính trị chính em gì đâu. Bạn bè lâu ngày gặp lại, ca hát ầm ầm, uống rượu lu bù, say khướt. Vui lắm !"
- Thế ông nhà báo Liên Xô về sau bị giết à ?- Thành hỏi.
- Người ta không nói rõ. Ông ta bị bắt mang đi rồi chết trong tù. Mà không phải chỉ có ông ta. Nhiều người nhà văn nhà thơ bị giết trong thời kỳ đó(7).
- Tội nghiệp !
Thành nghe chuyện, ngồi như tượng, tư lự đặt tay lên cái cùm, vuốt ve nó một lát, rồi quay mặt vào tường làm thêm một điếu thuốc lào ngoài kế hoạch.
Tôi đã kể về cái cùm trong xà lim. Của đáng tội, cái cùm ở chỗ chúng tôi chỉ hiện diện như một vật trang trí nội thất. Ít khi nó được dùng đến, trừ ra trong các xà lim tử hình.
Tù tử hình chỉ được tháo cùm vài lần trong một ngày - một lần làm vệ sinh thân thể buổi sáng, hai lần khác cho ra lấy cơm, trả bát rếch. Có người không được tháo, nhà bếp phải mang cơm vào tận nơi. Khi bị cùm người tù chỉ có một tư thế nằm, hai chân bị kẹp chặt. Tiểu tiện, đại tiện đều ở trong tư thế đó.
Thành có bị cùm lần nào không tôi không rõ, anh không kể. Thành nói những người to béo vào tù khổ hơn những người gày còm nhiều. Trước hết là đói, người béo đói hơn người gày. Thứ hai, cùm chỉ có một cỡ, chân to quá thường bị nghẽn máu, sinh hoại thư, dễ bị cưa. Tôi đồ rằng anh đã được nếm thử.
Trong hồi ký của những người bị xử trí oan thời Stalin không thấy nói tới thứ này. Xiềng thì có. Mình mà bị cùm thì không biết sẽ giải quyết vấn đề đại tiểu tiện ra sao đây, tôi vẩn vơ nghĩ ? Sau này, bị cùm rồi, có kinh nghiệm rồi, tôi mới thấy Thành nói tới cái chân là đúng. Cổ chân mà to thì khốn nạn lắm, chứ chuyện đại tiểu tiện khó khăn là cái không đáng kể.
Mãi tới mồng bốn Tết, tôi mới được Huỳnh Ngự gọi đi cung.
- Mấy bữa rầy anh có biết có chuyện gì đang xảy ra không ? - Huỳnh Ngự vui vẻ đón tôi bằng câu hỏi.
- Không. Trong xà lim kín như bưng làm sao biết được việc ở bên ngoài.
Huỳnh Ngự nghi ngờ nhìn tôi :
- Tưởng các anh ở trỏng có nghe loa đấy chớ ?
Tôi nói trong xà lim tôi có nghe thấy tiếng loa nhưng không rõ nó nói cái gì.
Y quẳng lên bàn cho tôi mấy tờ Nhân dân, trang nhất nào cũng đỏ lòe những hàng tít lớn.Những tờ báo nhàu nát, chứng tỏ chúng đã qua tay nhiều người. Tôi vồ lấy, đọc ngấu nghiến.
Mọi chuyện xảy ra ở miền Nam đúng như tôi và Thành hình dung. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, mà một đứa trẻ cũng hiểu do miền Bắc dựng nên, vu cho đối phương vi phạm thỏa thuận ngưng bắn nhân dịp Tết Nguyên đán để làm một vi phạm lớn hơn - mở một cuộc tổng tiến công trên toàn cõi. Những mỹ từ bóng lộn, tỏa sáng, ồn ào, tràn ngập từ bài xã luận kêu gọi thừa thắng xông lên cho tới những hàng tin giờ chót.
- Anh nghĩ ra răng, Ðảng ta lãnh đạo tuyệt vời chớ ? - Huỳnh Ngự nheo mắt nhìn tôi, mặt ngời ngời phấn khích - Nói để anh hay, cứ đà này chỉ trong vài ngày nữa là ta nuốt tất, nuốt tất. Miền Nam sẽ được hoàn toàn giải phóng.- Tôi rất vui mừng...- tôi nói.
- Anh vui là đúng. - Huỳnh Ngự nói - Chẳng lẽ anh lại buồn ? Nhưng tui muốn hỏi nhận định của anh kìa ?
Tôi nhún vai.
Huỳnh Ngự ghét tôi nhún vai lắm, y đã lưu ý tôi vài lần, nhưng tôi bỏ ngoài tai. Tôi đã ở tuổi không cần đến vú em. Huỳnh Ngự coi nhún vai chỉ có một ý khinh bỉ.
- Những chuyện lớn thế này nhận định của tôi phỏng có nghĩa gì ? - tôi thờ ơ nói - Chẳng có ý nghĩa gì hết.
- Nhưng chừ anh tin ở tài lãnh đạo của Ðảng rồi chớ ?
- Tại sao lại cứ phải hỏi đi hỏi lại tôi chuyện đó ? Tin hay không tin là chuyện khác, không phải chuyện nhận định một hiện tượng hay một sự kiện cụ thể.
Huỳnh Ngự cười khục khục.
- Vậy mà thằng Hoàng Minh Chính lại không tin đó. Tui vừa làm việc với hắn ta xong, điên cả ruột. Vì vậy tôi mới hỏi anh coi anh nghĩ có giống hắn không.
- Anh Chính tin cái gì hay không tin cái gì là chuyện riêng của anh ấy, tôi không quan tâm.
Huỳnh Ngự mời tôi uống trà. Ðó gói trà Tết của Ban Tổ chức Trung Ương cho tôi mà y giữ lại.
- Nói để anh hay: đợt tiến công và nổi dậy lần này, về thực chất, là tổng khởi nghĩa, còn đối với cuộc chiến tranh chống Mỹ là tổng phản công. Anh đọc lại thơ chúc Tết của Bác đi. Ðó ! Bác thiệt vĩ đại ! Bác tính trước tất cả, thấy trước tất cả. Xuân này rõ ràng hơn hẳn mấy xuân qua...Ðúng vậy không nào ? Ðúng quá đi chớ. Tiến lên, toàn thắng ắt về ta ! Bác đã lệnh thì toàn quân, toàn dân cứ việc thi hành. Bác đúng là thánh, thánh sống. Mấy thằng tổng thống Mỹ chỉ đáng mút cu cho Bác(8) thôi. Anh có thấy thằng Chính hắn dốt không ? Thắng đến như vậy mà hắn còn nói là đánh sớm, đánh bây chừ khi chuẩn bị chưa tốt, chưa hội đủ các điều kiện để giành toàn thắng, là manh động, là mất hết cơ sở gây dựng bao nhiêu lâu mới có trong địch hậu... Thối, thối lắm !
Thì ra là thế !
Tôi cũng nghĩ như Hoàng Minh Chính. Các điều kiện bên trong và bên ngoài đều chưa đủ chín muồi, theo chỗ chúng tôi biết. Mà chúng tôi biết không đến nỗi tồi. Quan tâm tới diễn biến của cuộc chiến, chúng tôi tiếp xúc với khá nhiều nguồn tài liệu, với nhiều người có trách nhiệm ở miền Bắc cũng như những người từ trong Nam ra.
Không rõ chủ tịch Hồ Chí Minh có bao nhiêu phần quyết định trong cuộc chiến được Huỳnh Ngự gọi là tổng phản công ? Và lần này ông có được tham chiến với tư cách bộ óc sáng suốt của cách mạng Việt Nam không ?
Ai cũng biết vai trò quyết định trong ván bài này là sự nôn nóng của cá nhân Lê Duẩn muốn giải phóng thật nhanh vùng đất mà trước 1954 Lê Duẩn lãnh đạo, giải phóng bằng bất cứ giá nào, dù có phải đốt sạch rặng Trường Sơn, như chính ông ta tuyên bố. Nhưng nói với Huỳnh Ngự làm gì ? Nói với y, như các cụ ví, vạch đầu gối ra mà nói còn hơn !
Nhưng Huỳnh Ngự không dễ dàng buông tha. Trong sự hỏi cung y rất dai hoi. Y mà đã đặt ra câu hỏi thì y đòi bằng được câu trả lời.
- Tôi nghĩ khác. - đành trả lời cho qua chuyện - Tôi nghĩ đúng như cách dùng từ của Trung Ương trong các bài báo vừa đọc. Ðó là một đợt tổng tiến công và nổi dậy, không hơn, cũng không kém.
- Nghĩa là làm sao ?
- Nghĩa là nếu đúng là tổng khởi nghĩa và tổng phản công(9)thì Ðảng đã nói tổng khởi nghĩa, tổng phản công, hà tất phải nói tổng tiến công và nổi dậy.
Huỳnh Ngự nóng mặt :
- Tui nói rồi : thực chất đó là tổng phản công ! Lũ các anh đúng là một giuộc với nhau hết trọi. Ðảng nói vậy phải tin vậy chớ. Không phải vậy Ðảng nói vậy mần chi ?
- Tôi đang ở đây. Bác thông cảm. Tôi không có nguồn tin nào khác. Tôi cũng không được nghe Ðảng chính thức tuyên bố. Còn về chuyện phổ biến miệng tôi đã có chút ít kinh nghiệm. Trước hết, cần phải coi lại xem cấp phổ biến cho mình là ai ? Ðảng ủy ? Ðảng đoàn bộ ? Ðảng đoàn các cơ quan Trung Ương ? Hay là Tuyên giáo Trung Ương ? Tôi biết có những vụ người này người khác nhân danh Trung Ương nói việc này việc nọ, rồi sau Trung Ương lại phải cải chính, nói không phải quan điểm của Ðảng như thế đâu. Thành thử tốt nhất là cứ tin báo Nhân dân. Nó mới là cơ quan ngôn luận chính thức của Ðảng.
Câu nói ám chỉ y chả là cái gì làm Huỳnh Ngự tức giận :
- Anh cho rằng tui phổ biến cho anh sai ?
- Không phải thế. Tôi chỉ muốn nói ta nên tin báo Nhân dân thì hơn thôi. Còn người nào không tin báo Nhân dân là tùy.
- Tui không nói không nên tin báo Ðảng.
- Tôi cũng không nói bác có ý ấy.
- Hừ, khi các anh không tin thì các anh đủ miệng lưỡi ngụy biện để che đậy sự thiếu lòng tin. Tại sao anh không dám nói huỵch toẹt ra như thằng Chính, có phải hơn không ?
- Thì tôi nói huỵch toẹt ra đấy thôi, tôi có quanh co đâu. Ðây này, trước mặt tôi là quan điểm của Ðảng được in ra rành rành bằng giấy trắng mực đen, bác khuyên tôi tin quan điểm này hơn hay tin tôi quan điểm được phổ biến bằng miệng hơn ? Xin lỗi, không phải tôi không tin bác. Nhưng bác cũng chỉ được nghe phổ biến thôi, cấp nào phổ biến tôi không rõ.
- Có nghĩa anh không tin những điều tui nói là quan điểm của Ðảng ?
Tôi thở dài.
- Tôi nhắc lại : tôi không nói như vậy. Ta giả thử thế này : Ðảng khôn, chứ Ðảng không dại, trên báo chí chính thức Ðảng chỉ nói tổng tiến công và nổi dậy thôi, còn cái gì khác thì cho người đi phổ biến miệng. Rồi ra, nếu toàn thắng Ðảng sẽ bảo : đó là tổng phản công, Ðảng đã nói rồi, còn nếu không thắng được như ý muốn thì Ðảng bảo : đó chỉ là một đợt tổng tiến công và nổi dậy thôi, báo Ðảng đã viết rõ rành rành. Ðã gọi là một đợt tổng tiến công và nổi dậy có nghĩa là sau đợt này còn có đợt khác nữa...
Huỳnh Ngự nín lặng. Mặt y đần ra. Y chợt thấy trong câu nói của tôi có cái lý mà y chưa nghĩ tới. Hẳn y nghĩ cái lý đó có thể đúng, cho nên y không gầm thét với tôi như thường lệ, mà chỉ hầm hừ:
- Giỏi, anh giỏi. Chúng ta còn có dịp quay trở lại vấn đề này. Rồi anh sẽ thấy sự việc diễn biến ra sao, các anh đúng hay là tôi đúng ?
Diễn biến của sự việc chứng tỏ Huỳnh Ngự sai.
Tôi không nói Ðảng sai, bởi vì tôi không rõ những nhà lãnh đạo hồi ấy tính toán thế nào ? Người ta chỉ sai so với dự tính, chứ không thể sai chung chung. Nếu họ tính làm một cuộc tổng diễn tập thì sao ? Họ dự định trả giá nào cho nó.
Những người bạn tôi chiến đấu trong Nam kể thời kỳ Mậu Thân thương vong nhiều lắm, cơ sở hậu địch vỡ từng mảng lớn, có nơi vỡ hết, sau này phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới xây dựng lại được. Nhưng họ cũng không thể biết đích xác sự thiệt hại trong cuộc phiêu lưu này là bao nhiêu. Ðây là đề tài cấm kỵ, các nhà nghiên cứu quân sự cũng không được biết, nói gì đến báo chí.
Vả lại, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân kéo dài tới giữa năm, tổn thất nhiều thật, nhưng cái đạt được cũng rất lớn - đó là thắng lợi vang dội trên mặt ngoại giao và sự hủy hoại về căn bản ý chí chiến đấu của đối phương. Nước Mỹ bị phân hóa. Dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh đã kéo quá dài, lại chẳng phải là cuộc chiến tranh nhất thiết phải tiến hành vì quyền lợi nước Mỹ.
Vấn đề vẫn là so sánh cái được với cái mất.
- Anh được nghỉ Tết mấy bữa nữa. Sau đó ta lại tiếp tục làm việc.
Huỳnh Ngự nói như thể chúng tôi đang ở trong một công sở chứ không phải trong Hỏa Lò.
Mấy ngày Tết trời rét ngọt. Tôi lo lắng cho cha tôi. Ông không chịu được lạnh. Những ngày trở trời cha tôi thường lên cơn đau gan. Huỳnh Ngự thông báo : sức khỏe của cha tôi bình thường, bệnh gan của ông đỡ nhiều. Trong ni, y nhắc lại, cha tôi vẫn được hưởng chế độ săn sóc y tế như khi ở ngoải, tôi có thể yên tâm.
Tôi thừa biết, nếu cha tôi có lên cơn bệnh nặng thì ông cũng chẳng được đưa đi bệnh viện đâu. Người ta sẽ giao ông cho tên y sĩ đặc trách chúng tôi. Ðó là một con người vạm vỡ, thấp, dáng đi nặng nề, với cặp mắt vô hồn dưới vầng trán ngắn. Y không thích hợp với bất cứ bộ quần áo nào. Mọi thứ trên người y đều giống đồ đi mượn. Y không tốt cũng chẳng xấu, không ác cũng chẳng hiền, câm lặng một nô lệ bẩm sinh, ra đời để chịu sự sai khiến của ai đó, bất kể là ai, miễn người đó trả công y, nuôi y. Thỉnh thoảng y xuất hiện, kiêm luôn công việc quản giáo, đưa tôi đi cung, thay cho Hách hoặc Sứ giả hòa bình. Thuốc của y vẻn vẹn chỉ có át-bi-lin (aspirine), hoặc ga-li-đăng (ganidan), theo cách gọi của y, để chữa độc có hai bệnh mà y biết : nhức đầu và đau bụng.
Thỉnh thoảng tôi cũng xin y thuốc ngủ. Y cho luôn, không cần hỏi han dài dòng :
- Này, mê-bô-ba-mát đây ! Tối một viên. Khó ngủ quá thì hai.
Thấy y dễ, tôi xin cả thuốc đau bụng nhức đầu. Tôi phải viện trợ cho mấy xà lim bên cạnh. Tù xà lim ốm, xin thuốc rất khó. Quản giáo khe khắt đã đành, nhưng có lẽ còn có cả nguyên nhân thiếu thuốc nữa. Thành khuyên tôi phải xin để có một ít thuốc dự trữ, nhân lúc còn xin được. ê Việt Nam chẳng có gì ổn định, chẳng có gì lâu dài, con người nay ở đây mai đã ở nơi khác, nay làm công tác này mai đã chuyển công tác khác. Biết đâu mình chẳng gặp một tên y sĩ khó chịu hơn.
Ý nghĩ tự sát thỉnh thoảng vẫn trở lại. Tôi quyết không chịu để cho bọn độc tài muốn hành tôi thế nào thì hành. Cái chết bằng thuốc ngủ là cái chết dễ chịu. Nhờ trong y bạ của tôi trước đây y sĩ vẫn thường cho thuốc ngủ, nên viên y sĩ nhà tù cũng không tỏ ra khe khắt khi tôi đề nghị. Gói thuốc ngủ tích cóp được để ở đầu giường, thỉnh thoảng tôi lại giở ra đếm lại. Thành nhìn thấy, không nói gì.
Từ ngày vào Hỏa Lò tôi ngủ dễ và ngủ nhiều lắm. Tôi cho rằng đó là giấc ngủ bù cho thời gian làm việc căng thẳng trước đó. Một hôm Hoàng bảo tôi :
- Này anh Hiên, đây là nơi đấu tranh tư tưởng chứ không phải nơi để ngủ đâu nhé !
Thì ra trong xà lim mọi động thái nhỏ nhất của tôi đều được quản giáo báo cáo cho chấp pháp.
- Trong lòng thanh thản thì ngủ dễ. - tôi nói - Tôi chẳng có điều gì phải suy nghĩ. Cũng chẳng làm điều gì để đến nỗi phải xấu hổ, không bị lương tâm cắn rứt.
Phấn khởi trước thắng lợi vang dội ở miền Nam, cường độ làm việc của các chấp pháp tăng vọt. Huỳnh Ngự thoáng hiện, thoáng mất, bỏ mặc tôi cho lũ đàn em - chắc hẳn y bận làm việc với nhiều phòng cùng một lúc. Hoàng cũng biến đâu mất. Làm việc với tôi là một tay non choẹt, đang thời kỳ tập sự. Y không hỏi tôi, mà chỉ đọc các câu hỏi của Huỳnh Ngự ra cho tôi. Tôi cặm cụi viết. Y ngồi bên canh chừng, như phỗng.
Thành chăm chú nghe tôi kể về những câu hỏi quái dị của bọn chấp pháp chẳng hiểu từ đâu mà có, do ai khai ra cho tôi, rồi cười hì hì :
- Trò trẻ con ấy mà ! Bài bản của họ chỉ có tưng nấy thôi : bắt nọn là một, hù dọa là hai. Mình cứng thì họ hết vở. Nhưng thế mà lắm lúc cũng đau đầu ra phết. Gặp phải anh non gan, tưởng mọi người khai cả, phun phè phè, thì mình chống đỡ cũng mệt. Họ chỉ cần tóm được lời khai của một hoặc hai anh, dùng nó moi tiếp hết người nọ tới người kia, cho tới khi tất cả không chịu nổi nữa, nhận tội hết, là xong... Hiểu ra thì đã muộn.
Nụ cười của anh trông cay đắng lắm. Nó dính chặt vào mặt anh, không có cách gỡ ra. Thà đừng cười còn hơn.
- Mình lấy làm lạ : Ðảng nói cách mạng nhằm xây dựng một xã hội trong đó người với người là anh em, thế mà trên thực tế chỉ thấy Ðảng chăm dạy oán thù, căm ghét chứ không thấy dạy yêu thương, là làm sao ? Cứ nhìn một cái Hỏa Lò này đủ thấy. Thằng công dân bị bắt, chưa biết ất giáp ra sao, cán bộ đã khăng khăng bắt nó nhận tội cái đã. Nhỡ oan người ta thì sao ? Cái sai, cái tồi tệ từ đó mà ra. Làm cho lòng dạ con người thành ra cằn cỗi, hận thù như thế là lỗi ở ai ? Bác đâu có dạy cán bộ như vậy !
Năm 1946 khi đến thăm lớp cán bộ bình dân học vụ đầu tiên do nhóm ông Nguyễn Hữu Ðang tổ chức, ông Hồ chỉ trích những người viết sách vỡ lòng trong đó có câu mẫu "Nó ở tù" để dạy ghép vần có nguyên âm u :"Các đồng chí không còn thí dụ nào hay hơn sao mà dùng cái thí dụ ác thế ? Làm hại đầu óc trẻ con. Xin tìm câu khác". Mẹ tôi đi dự lớp huấn luyện này. Bà thường kể câu chuyện trên cho mọi người nghe như một thí dụ về lòng nhân ái cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, ông Hồ gặp một tù binh co ro trong cái rét cắt da của rừng Việt Bắc. Ông cởi tấm áo trấn thủ của ông cho anh ta, và câu chuyện lan truyền trong tù binh như một huyền thoại.
Nhưng tôi còn biết một Bác Hồ khác. Mùa hè năm 1950, đang ở Thái Nguyên, tôi nhận được thư cha tôi gọi tôi tới ATK(10). Tôi tới đúng lúc được dự lễ mừng lục tuần đại khánh(11) của Bác.
Trong bộ quần áo ta bằng lụa nâu, ông Hồ ngồi sau cái bàn tre ghép, trên có mấy tờ báo tiếng Pháp. Trong ngôi nhà vách nứa lợp cọ ở Thác Dẫng, tổng hành dinh các lực lượng kháng chiến, ông giống một lão nho tiên phong đạo cốt, một nhà thơ, một bậc hiền triết phương Ðông hơn là một thủ lĩnh nghĩa quân, vị thống soái của cách mạng. Tôi bước vào, đứng nghiêm, đưa tay chấm vành mũ lá. Ông hiền từ ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên cạnh :
- Chà, thằng nhỏ vận bảnh hả ? Bộ đội giờ quần áo đẹp đấy chớ ! - ông nói với cha tôi - Mới được phát, hả ?
Giọng ông âm vang, ấm áp, một giọng nói pha trộn âm sắc Nghệ An với nhiều vùng khác của đất nước, của riêng ông, rất đặc biệt, rất dễ thương, không giống giọng nào khác. Có điều hơi thở của ông rất hôi. Tôi nghĩ tới bệnh lao phổi mà ông mắc từ khi về nước. Bệnh có vẻ không đỡ. Tôi xót ông, lòng tôi tràn ngập niềm kính trọng đức hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của ông.
Tôi lễ phép thưa với ông rằng bộ đội bây giờ thường được phát mỗi năm hai bộ, nhưng quần áo không đồng nhất : bộ đội khu 3 mặc vải khác bộ đội Việt Bắc, bộ đội khu 4 mặc khác kiểu bộ đội khu 5. Bền nhất là quần áo của bộ đội khu 5, được may bằng vải xi-ta dày dặn, màu xám tro chứ không phải màu kaki.
- Thế này tốt rồi. Nước ta còn thiếu thốn, cháu ạ, chưa có quần áo cùng một kiểu cho các cháu...
- Thưa Bác, chúng cháu cũng không kêu ca. Ðược thế này đã tốt quá !
Ông đưa bàn tay gày guộc mân mê chất vải trên bộ quần áo tôi mặc, vẻ hài lòng. Ðó là quân phục mới của bộ đội Liên khu 3.
Không bao lâu sau ông ra lệnh xử tử Trần Dụ Châu, đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu, người cung cấp chúng tôi thứ quần áo từng làm ông thích thú, vì tội nhận hối lộ. Chất lượng quân phục thứ quân phục chúng tôi được cấp đúng là không ra gì - làm bằng sợi viscose, còn gọi là tơ dứa, mặc vào vải cứ chảy ra, lõng thõng, lụng thụng. Nhưng dù sao mặc lòng nhờ những cố gắng của Cục Quân nhu chúng tôi cũng không còn ăn vận lung tung, mỗi đơn vị một kiểu quần áo như hồi đầu kháng chiến.
Cha tôi can ông, nhưng ông không nghe. Cha tôi nói ông Hồ không chịu giảm nhẹ hình phạt cho Trần Dụ Châu còn vì tội ăn chơi xa xỉ. Người ta báo cáo Trần Dụ Châu chụp "cả một va-li ảnh" với người tình là ca sĩ T.H. Cha tôi có hỏi lại, thì không phải thế. Trần Dụ Châu có chụp nhiều ảnh với T.H. thật, nhưng nói "cả một va-li" là ngoa ngôn. Tội hối lộ cũng không rõ ràng. Chính cái "va-li ảnh" đã làm cho ông Hồ nổi giận. Ông Lê Giản cũng không tán thành án xử tử Trần Dụ Châu. Nhưng một khi ông Hồ đã muốn trừng phạt để làm gương thì không ai có thể làm ông đổi ý.
Cũng chính ông Hồ đã duyệt án tử hình một trung đoàn trưởng trong chiến dịch biên giới (1950) vì tội anh này tự động nhận lời mời của viên quan năm thầy thuốc Pháp(12) đáp máy bay về thăm gia đình anh ở Hà Nội nhân cuộc trao trả tù binh. Anh nhận lời mời với điều kiện anh sẽ mặc quân phục Việt Nam đi với viên quan năm, chứ không mặc thường phục. Trước khi lên máy bay anh còn vui vẻ nói với các bạn rằng hôm nay đồng bào ta ở thủ đô sẽ được thấy người của quân đội Việt Nam đi hiên ngang trên đường phố của thủ đô bị chiếm đóng. Anh muốn bằng cách đó tuyên truyền cho chiến thắng Cao-Bắc-Lạng. Người Pháp giữ lời hứa - từ sân bay Gia Lâm anh ngồi trên xe Jeep về thẳng Bờ Hồ và đi bách bộ ở đó rất lâu trước con mắt trầm trồ của dân chúng. Ðúng là anh đã được diện quân phục Việt Nam đi trên đường phố Hà Nội. Cũng với bộ quân phục ấy anh đi ra trường bắn. Những người lính bị cưỡng bức bắn anh, bắt xong vứt súng lăn lộn gào khóc.
Trong kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ông Hồ Chí Minh, chí ít cũng cho tới năm 1950, khi biên giới Việt-Trung được nối liền, những vụ oan khuất xảy ra có thể tính trên đầu ngón tay. Trừ vụ H122(13) do Hoàng Quốc Việt chỉ đạo làm chết nhiều cán bộ quân đội, phần lớn ở cấp đại đội và tiểu đoàn. Cha tôi nhận xét trong vụ này tội của Hoàng Quốc Việt đương nhiên lớn nhưng Trường Chinh phải chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên, mặc dầu lên án Trường Chinh trong vụ này, và trong sai lầm Cải cách ruộng đất, nhưng cha tôi vẫn không coi Trường Chinh là một người hiếu sát. Trường Chinh, theo ông, con người cách mạng Trường Chinh được hiến dâng trọn vẹn cho những giáo điều cằn cỗi, còn con người trần thế Trường Chinh thì hoàn toàn hài lòng với một nửa ngai vàng. Trong những người gần gụi Trường Chinh - từ anh giám mã, chị cấp dưỡng cho tới các nhân viên văn phòng, các bí thư, không người nào yêu mến Trường Chinh. Trong khi đó những người được ở gần ông Hồ không những chỉ kính trọng ông mà còn yêu mến ông thực sự.
Mẹ tôi có những kỷ niệm tốt về Trường Chinh. Bà kể khi biết ông Trần Huy Liệu quá đắm đuối trong mối tình với nữ sĩ Thu Tâm ở Huế, ông Trường Chinh giận lắm, mới đưa việc này ra thường vụ Trung ương. Sau đó ông đại diện cho thường vụ họp với các bà : bà Liệu, mẹ tôi và bà Trần Ðình Long. Trong cuộc họp này ông Trường Chinh ra quyết nghị : cho ông Liệu được đi chơi với cô Thu Tâm thêm một tháng nữa, sau đó phải về với vợ con, trái lệnh Ðảng sẽ thi hành kỷ luật. Một Trung ương Ðảng giải quyết chuyện tình của cán bộ Ðảng như vậy tuyệt quá đi chứ. Vừa thấu tình vừa đạt lý. Trường Chinh, chứ không phải ai khác, đã đứng đầu một Trung ương như thế !
Nhưng đó là chuyện quá khứ, chuyện người ta không thể tắm hai lần trong một dòng sông.
(1) Koltsov M.E. (1898-1940), nhà văn và nhà báo, đảng viên Ðảng cộng sản Liên Xô từ năm 1918.
(2) Chúng bay không đi qua được ! (tiếng Tây-ban-nha).
(3) Năm 1936, quân đội của tướng Francisco Franco (1892-1975) nổi dậy chống nền Cộng hòa do liên minh cánh tả (cộng sản và xã hội) nắm quyền. Cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài cho tới năm 1939 thì kết thúc với chiến thắng của quân Phát-xít. Quân Cộng hòa, được Liên Xô và các binh đoàn Quốc tế (gồm các chiến sĩ tình nguyện từ châu Âu và Mỹ) giúp đỡ, nhưng ô hợp, thiếu kỷ luật, đã thua quân Phát-xít, được phát-xít Ðức-í yểm trợ mạnh mẽ về quân sự.
(4) Một trong hai người Việt Nam tham gia trong những Binh đoàn Quốc tế là ông Nguyễn Văn Thọ, biệt hiệu "Thọ Tây-ban-nha". Ông Thọ kể còn có mấy người nữa, tôi không nhớ tên. Trong các Binh đoàn quốc tế hồi đó có Josip Broz Tito, Ernest Hemingway, Mikhail Koltsov, Roman Karmen...
(5) Iosif Broz Tito (1892-1980), tổng thống Nam Tư (cũ), người Croatia, sau này là một nhà lãnh đạo các quốc gia không liên kết. Ðáng ngạc nhiên là ông vẫn nhớ đến những đồng chí Việt Nam trong các chiến sĩ tình nguyện quốc tế để mời.
(6) Phần tử chống bôn-sê-vích, nói tắt tiếng Pháp anti-bolchevik.
(7) Hãy kể một số tên tuổi được thế giới biết đến như Babel,Vessioly, Voronski, Kataev, Kluiev, Koltsov, Mandelstam, Pilniak, Pribludny, Sviatopolk-Mirski, Florenski, Tchaianov...
(8) Có lẽ Huỳnh Ngự học đòi nhà thơ Bút Tre trong một bài thơ với những câu :"Trên trời con khỉ đánh đu. Thằng Ngô Ðình Diệm mút cu cụ Hồ...". Tôi xin lỗi vì những lời trích thiếu văn hóa. Cho tới nay một số nhà lý thuyết văn học vẫn còn đề cao Bút Tre như một nhà thơ lớn và độc đáo, thơ Bút Tre là một hiện tượng văn học. Một nét chấm phá hi hữu cho bức tranh xã hội.
(9) Theo lý thuyết của Trường Chinh trong cuốn Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi thì đó là giai đoạn thứ ba của bất kỳ cuộc kháng chiến nào. Lý thuyết này được viết còn rõ hơn trong Trì cửu chiến luận của Mao Trạch-đông.
(10) Gọi tắt An toàn khu, một khu nằm sâu trong vùng rừng núi Tuyên Quang, Thái Nguyên, được bảo vệ rất cẩn mật, là nơi đặt các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Phủ Chủ tịch đặt tại thác Dẫng, thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
(11) Kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60.
(12) Hình như viên đại tá quân y này tên là Huart.
(13) Một vụ phản tình báo do phía Pháp tiến hành, tạo ra hồ sơ giả cho Việt Minh đanh cắp. Theo hồ sơ này thì Pháp đã chiêu mộ được rất nhiều cán bộ quân đội Việt Nam làm việc cho Pháp.
Ðùng một cái, chúng tôi bị chuyển phòng.
Buổi tối, chúng tôi còn đang chúi mũi vào ván cờ tướng thì bỗng giật mình nghe tiếng mở khóa. Ngẩng lên đã thấy Sứ giả hòa bình sừng sững đấy rồi. Không nhìn đến chúng tôi, cái mũi đỏ hất lên, anh ta nói :
- Chuẩn bị đồ đoàn(1)! Chuyển phòng.
Tù bị di chuyển từ phòng này qua phòng khác, từ khu này qua khu khác là chuyện thường ở đây. Mục đích của việc chuyển phòng, Thành giải thích, là để tránh tình trạng thông cung, làm cho người tù luôn bị động, không có thời gian chuẩn bị một cuộc trốn trại nếu như họ có ý định trốn. Ðôi khi đó là sự sắp xếp lại tù nhân trong một vụ. Việc chuyển phòng bao giờ cũng đột ngột, tù không được biết trước. Người có kinh nghiệm lúc nào cũng ở tư thế sẵn sàng. Anh ta không thể không sẵn sàng, bởi vì sự cập rập thường gây ra những tổn thất nặng nề - quản giáo ập vào đúng lúc mình không ngờ nhất, và thế là những vật quý giá chưa kịp cất giấu sẽ không mang theo được. Chưa kể khi chuyển phòng còn bị quản giáo loại, tịch thu các đồ vật bị cấm và thi hành kỷ luật.
Trong các thứ có thể bị mất quý nhất là con dao. Ðể làm một con dao người tù xà lim phải bỏ ra rất nhiều thời gian, nhất là thời gian tìm nguyên liệu. Sắt đai thùng, hoặc sắt nói chung, không phải chỗ nào cũng có, tìm được nó hoàn toàn phụ thuộc vào may rủi. Sau đó mới tới việc chế tạo nó, thường mất cả tuần, cả tháng, có khi hơn, trong điều kiện quản giáo lỏng lẻo, anh tù khéo tay và may mắn.
Tôi chăm chú nhìn Sứ giả hòa bình. Y nói với ai ? Với tôi hay với Thành ? Hay với cả hai ? Liếc sang Thành, tôi thấy anh cũng lo lắng không kém. Anh bước xuống đất, hai tay chắp lại, lễ phép:
- Báo cáo ông quản giáo, tôi ? hay anh này ?
Tim chúng tôi đập dồn, mặt chúng tôi căng thẳng chờ đợi lời phán quyết của viên quản giáo.
- Cả hai.
Sứ giả hòa bình hờ hững trả lời. Tim tôi đập rộn. Tôi sung sướng. Phải xa Thành, tôi đau khổ thật sự. Thành nhìn tôi, mắt long lanh. Anh cũng vậy, anh quen sống có tôi bên cạnh mất rồi. Chúng tôiquýnh quáng dọn đồ, mặt mày rạng rỡ.
- Ði !
Sứ giả hòa bình ra lệnh. Chúng tôi theo sau.
Có những tiếng động không bình thường vẳng ra từ những cánh cửa đóng kín - tiếng ho khan, tiếng đằng hắng. Ðó là các bạn tù nói lời chia tay với chúng tôi. Tuy không nhìn thấy nhau, những người tù hàng xóm láng giềng vẫn cảm thấy sự hiện diện của nhau, vẫn hình dung ra nhau căn cứ những dấu hiệu khó nhận thấy nhất. Bên phải chúng tôi là một ông già, hẳn rất gày còm, ông thường ho khan vào sáng sớm. Tối tối ông ngâm thơ, giọng ư ử như bị cảm lạnh. Bên trái là anh chàng không ngừng chiến đấu cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau(2)...Ngoài cái bài muôn thuở ấy anh ta không biết bài nào khác. Sát anh ta là một cán bộ thương nghiệp, chắc hẳn bị tội tham ô. Có lần anh đi lĩnh tiếp tế về, tôi nghe Hách nói với anh, giọng ghen tị : "Cán bộ thương nghiệp, hả ? Vợ là nhân viên mậu dịch, hả ?". Tôi đã thoáng thấy anh ta - người tầm thước, trắng trẻo, béo tốt, hơi gù. Ðàng xa, cuối hành lang, là anh tù tử hình đáng thương, trắng bệch và phù thũng vì ở trong phòng kín lâu ngày. Ðể đánh tín hiệu từ biệt, anh ta rống lên một câu vọng cổ thê lương đến nỗi Sứ giả hòa bình phải quát :"Này anh kia, có đậy ngay lập tức cái thượng môn của anh đi không hử ?"
Khu xà lim chúng tôi được chuyển tới bề thế hơn khu chúng tôi vừa bỏ đi. Nó cách khu xà lim 3 chưa tới trăm mét tính theo đường chim bay, nhưng vì vòng vèo theo Sứ giả hòa bình qua mấy khu trại chung cho nên thấy xa hơn. Người ta tính toán chu đáo : cuộc di chuyển diễn ra lúc chiều tối, khi tất cả tù xưởng thợ, tù tự giác, đều đã bị lùa vào trong các nhà giam chung, chẳng ai nhìn thấy chúng tôi.
Chăn chiếu cắp nách, tay tòn ten bộ quần áo thay đổi, chúng tôi lững thững đi trên những lối hẹp ngoắt ngoéo vắng tanh vắng ngắt. Từ bên trong những nhà giam hình khối chữ nhật vẳng ra tiếng người rầm rì làm thành một tiếng ồn không dứt.
Trước khi vào ngôi nhà-hầm mộ kế tiếp, chúng tôi còn phải qua một cái cổng nhỏ không khóa, một mảnh sân hẹp.
Bên trong, khu xà lim mờ tối giống như một cái hang với những bóng điện đầy bụi bặm hấp hối trong những rọ lưới sắt. Nó giống một khoang tàu chở khách, loại tàu cổ lỗ từ đầu thế kỷ, với những cửa ca-bin đều tăm tắp ở hai bên hành lang. Con tàu chết máy, nó trôi dạt trên đại dương thời gian, còn hành khách thì ngủ mê mệt sau những cánh cửa đóng im ỉm. Chỉ ở đầu hành lang, gần cửa vào khu hầm mộ, có một xà lim để ngỏ. Tôi ngó thấy bên trong trống rỗng, mấy bức tường đen xì.
- Ðấy là xà lim ông Hoàng Văn Thụ. Ông ta nằm đây trước khi bị xử tử.- Thành giải thích - Khu này là xà lim 1. Còn gọi là xà lim án chém. Trong các xà lim án chém tường đều sơn một màu đen như thế. Ðến thời ta mới quét vôi lại, nhưng xà lim lưu niệm này giữ nguyên như cũ.
- Nghĩa là khu này cổ nhất Hỏa Lò ?
- Tôi không dám nói chắc. Khu xà lim 3 ta vừa đi khỏi là khu mới được xây, thời tạm chiếm hay là thời mình tôi không rõ, anh không thấy phòng ở đấy hẹp hơn à ?
Tôi quan sát nơi ở mới. Xà lim cũ hẹp hơn, trần cao hơn, nhưng ấm hơn vì kín gió. Không biết rồi tôi còn được du ngoạn qua bao nhiêu xà lim nữa ?
Ngoài xà lim lưu niệm dành cho Hoàng Văn Thụ, không còn xà lim lưu niệm nào khác. Lịch sử cách mạng Việt Nam được trình bày như thể nó chỉ bắt đầu với sự ra đời của Ðảng cộng sản Ðông Dương. Các tổ chức cách mạng khác ít được nhắc đến, mà có nhắc đến thì cũng bằng giọng bề trên, kẻ cả.
-Ê bên này được cái thoáng hơn. - Thành nhìn quanh, nói.
Khác với xà lim trước, ở tường hậu phòng giam này có một cửa sổ to, chấn song và lưới thép bưng kín. Bụi bám đầy lưới, y như trong một kho hàng. Bên trên cửa ra vào có một khoảng cũng bít lưới như thế.
Không biết bằng cách nào những khách trọ cũ trong xà lim bẻ được cả một mảng lưới sắt, làm thành một lỗ thủng to bằng bàn tay, qua đó không khí bên ngoài ri rỉ chảy vào phòng. Người ta biết, nhưng chẳng buồn vá lại. Có vượt ngục được cũng còn lâu - sau tấm lưới là hàng chấn song sắt to gộc, sau chấn song là bức tường đá sừng sững, dây thép gai giăng mắc bên trên, ngày đêm đều có lính gác.
Chỗ ở mới có mùi khó tả. Mặc dầu vừa được quét dọn - trên sàn còn ướt những vệt nước - nó vẫn tanh tưởi và lạnh lẽo.
- Còn phải dọn nhiều. - Thành nói - Khí lạnh đây là tử khí đấy. Chắc có tù tử hình vừa đi.
Xà lim 1, Thành giải thích, bây giờ dùng để giam tù trọng án trong thời kỳ giam cứu là chính, chứ không phải cho tù tử hình. Nói chung, án tử hình bây giờ ít được tuyên, xử nặng nhất cũng chỉ đến chung thân, hai mươi năm. Nếu cải tạo tốt, được giảm án đều đều, sống được qua sóng gió nhà tù, người mang án chung thân có thể được ra sau mười hai, mười lăm năm, còn người mang án hai mươi năm có khi mới tám năm, chín năm đã được về.
Nếu tình hình hiện nay kéo dài thì khả năng tôi ra khỏi đây là ít. Chừng nào Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ còn sống. Mà họ còn sống lâu.
Thiên hạ đàm tiếu nhiều về chuyện quan hệ với phái yếu ở các nhà lãnh đạo cao niên. Ðó là đề tài ưa thích trong cuộc sống đơn điệu một thời ở miền Bắc. Tôi nghĩ người ta chẳng nói tới chuyện riêng tư của các vị làm gì nếu như các vị không lên mặt đạo đức, luôn miệng dạy dỗ thần dân lối sống khắc kỷ xã hội chủ nghĩa. Lời đàm tiếu là phản ứng ngược cho những lời rao giảng đạo đức giả. Các vị lang chạ với hết cô này cô khác thì không sao, cán bộ cấp thấp mới chỉ hơi dính dáng chuyện ăn nằm với phụ nữ là đã bị kiểm điểm lên kiểm điểm xuống, bị thi hành kỷ luật rồi. Trong chuyện này Lê Duẩn là người hồn nhiên. Lê Duẩn không coi dư luận ra gì. Cái gì Lê Duẩn thích là Lê Duẩn làm. Thọ chẳng thua gì Duẩn, theo những người gần Thọ cho biết, nhưng kín đáo hơn. Mỗi lần cán bộ nữ đến cầu cạnh Thọ để xin lên chức, lên lương, thường được Thọ cho gặp riêng để đả thông tư tưởng. Họ ra về, mặt tươi nở. Ðược gặp anh Sáu là đời lên hương rồi.
Tôi là người duy lý. Tôi sẵn sàng chấp nhận những nhà lãnh đạo mắc bệnh tim la. Miễn họ đừng lạm dụng quyền chức gây đau khổ cho đồng bào.
Ðêm đến, qua lỗ thủng trên tấm lưới sắt nơi ở mới tôi có thể nhìn thấy những cành sấu trụi lá in những nét gãy lên nền trời tím đen với những vì sao yếu ớt run rẩy trong gió bấc.
Chiều hôm sau, lúc trời nhập nhoạng tối, chúng tôi đang nằm nghỉ sau bữa cơm chiều thì nghe tiếng chân người chạy thình thịch bên ngoài, tiếng mở cửa, đóng cửa, rồi sau đó mọi sự lại trở về yên lặng.
- Có tù mới đến, cậu ạ. - Thành nhận xét.
Ngày hôm sau anh bổ sung :
- Người này trong vụ các cậu.
Một nhận xét kéo dài hai ngày, hẳn nó phải chín chắn.
- Căn cứ ở cái gì mà anh cho là như thế ? - tôi hỏi.
- Trước hết, nếu là tù thường, người ta không dọn dẹp xà lim trước khi cho vào. Hôm qua, khi ta mới tới, tôi nghe tiếng quét dọn, là một. Tiếp đến có giám thị hay là cấp to của nhà tù đến kiểm tra, là hai. - Thành phân tích - Sáng nay, đi qua tôi thấy cửa phòng hé mở, ngó vào thấy có cái giá gỗ mới tinh để trên phản, là ba... Tù thường, không phải tù đặc biệt, không được săn sóc như thế đâu.
- Hôm tôi bị đưa vào, người ta có dọn phòng không ?
- Tôi đến trước cậu vài ngày. Phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ rồi.
- Hừm, lạ nhỉ ?
- Trong vụ các cậu có vẻ người ta còn lấn bấn, chưa dám quyết...
Hóa ra Thành biết nhiều anh em trong quân đội bị dính vào vụ này. Một vài người còn là bạn chiến đấu của anh. Sự có những người quen biết chung làm chúng tôi thêm gần nhau. Anh cám cảnh cho tôi lắm.
- Tình thế của cậu, nói thực nhé, chẳng lấy gì làm sáng sủa. - Thành vuốt mái tóc lòa xòa - Ðiểu tận thì cung tàng. Kể từ Cách mạng Tháng Tám tới nay tôi chưa từng thấy vụ nào tương tự. Lớn quá, lớn quá ! Người ta dám làm thế là người ta quyết tâm lắm. Không dễ gì họ bỏ cuộc. Chơi nhau thế này là sát ván.
- Còn phải nói !
- Nhưng đúng là họ tuy quyết tâm, nhưng lại chưa dám quyết liệt trong hành động. Cách đối xử thế này tỏ ra họ còn một chút e ngại, một chút phân vân...Nếu triệt không được thì cũng phải có đường rút chứ.
- Tôi nghĩ họ vừa làm vừa nghe ngóng. Nếu thấy trong ngoài không phản ứng thì họ làm tới.
- Lại càng cần bình tĩnh nhìn thẳng vào sự thật để mà chịu đựng. Thôi thì cứ coi như cậu chia sẻ nỗi khốn khó với ông cụ. Tội nghiệp ông cụ quá. Cậu còn sống lâu, còn có quyền hi vọng. Chứ ông cụ thì mất cả cuộc đời !
Tôi thở dài.
- Trong lịch sử nước ta chưa bao giờ xảy ra chuyện bắt nhiều công thần một lúc như thế.
Buổi chiều ra lấy cơm, Thành đưa mắt chỉ cho tôi cái xà lim có tù mới. Cánh cửa đóng im ỉm. Từ bên trong không một tiếng động nào vẳng ra.
Ngày hôm sau, khi ra nhận cơm trưa, tôi thấy cửa xà lim nọ khép hờ. Bên trong, một cái chăn đơn để bừa trên phản và dưới cái giá gỗ mộc mới đóng lỏng chỏng mấy hộp thuốc bên tuýp kem răng Hoa Mai.
- Anh đúng. Người đó trong vụ tôi.
- Cậu căn cứ vào cái gì ?
- Nếu là tù khác, chăn để không gọn gàng thì quản giáo mắng, nhưng sáng nay lấy tù đi cung, chỉ nghe tiếng quản giáo mở cửa...Nói chung, họ đối với chúng tôi nhẹ nhàng. Họ biết quá, chúng tôi không sợ chết, nói gì sợ họ.
Thành gật gù rồi khen tôi :
- Cậu bắt đầu biết xét đoán việc trong tù rồi đó !
Trong khu xà lim 1 chúng tôi thoát được con chuột già nữa, nhưng lại phải chịu đựng nạn kiến hôi. Bộ lạc những con kiến li ti màu vàng nhạt này đông vô số kể. Chỉ có thể chạy trốn chúng chứ không thể giết chúng. Con kiến bé tẹo khi bị di chết tiết ra một mùi hăng khó tả, giống mùi hạt thu đủ bị bóp nát. Lũ kiến gan lì và kiên nhẫn không thể tả được. Chỉ một gói kẹo nhỏ thôi cũng đủ để chúng điên lên, lùng xục đủ mọi chỗ mà Thành có thể cất giấu. Ban ngày anh móc vào lưới thép cửa thông hơi. Ban đêm anh treo trên đình màn. Chỗ nào rồi chúng cũng tìm ra. Tìm được rồi chúng lăn xả vào, sẵn sàng chết chỉ để hút một chút xíu chất ngọt. Cái kẹo thế là không thể ăn được nữa. Nhưng chúng tôi lại quá nghèo để có thể vứt đi. Ðành phải rửa kỹ kẹo cho xác những con kiến trôi đi mà ăn vậy.
Lũ chuột cống ở đây không cần phải vào xà lim kiếm ăn. Thức ăn đã có sẵn ngoài sân. Ðó là phần cơm tù được nhà bếp gánh vào, thường là rất sớm. Leo lên cửa sổ ngó ra sân, tôi thấy những con chuột béo múp ngồi chễm chệ trên những tô cơm của chúng tôi. Tôi phải gạt bỏ phần cơm trên nguội ngắt, đè cảm giác ghê tởm xuống mà nuốt phần ít ỏi còn lại. Có hôm tôi bắt gặp Thành rơm rớm nước mắt bưng bát cơm lên miệng.
Trong các quản giáo chỉ có Sứ giả hòa bình là thông cảm với nỗi khổ tâm của tù xà lim trong chuyện ăn uống. Anh ta bao giờ cũng mở cửa cho tù ra nhận cơm ngay khi nhà bếp vừa gánh tới. Khốn nỗi, quản giáo làm việc luân phiên nhau, không phải ngày nào tù cũng được gặp Sứ giả hòa bình. Hách thuộc loại người khác hẳn. Mặt y lúc nào cũng vác lên theo hình mẫu lãnh tụ. Già nhưng đỏm dáng, y quan tâm tới nếp là quần áo hơn bữa cơm cho tù. Hách thường để cơm nguội tanh mới dẫn rượu vào khu xà lim. Lũ chuột thừa thời giờ ăn, ăn rồi còn ỉa cả vào những tô cơm tù.
Tôi quyết định nói với chấp pháp về tình hình cơm nước trong khu xà lim.
Hoàng nghe tôi chăm chú, im lặng một lúc lâu.
- Làm sao anh biết cơm bị chuột vầy ?
- Tôi nhìn thấy.
- Anh trèo lên cửa sổ ngó ra ?
- Phải.
- Anh trèo lên bằng cách nào ?
- Bằng cách thông thường nhất. Như người ta thường trèo.
- Cửa sổ cao mà.
- Tôi có cách.
- Hừm, nghĩa là anh nhận anh vi phạm nội quy ? Anh có biết làm như thế anh sẽ bị kỷ luật không ?
Tôi cười khẩy.
- Tôi không còn gì để mất.
- Theo nội quy trại, anh có thể bị cùm một tuần lễ.
- Anh cứ cùm.
Hoàng không cùm tôi. Hôm sau tình hình được cải thiện - Hách phải đi theo nhà bếp để mở cửa. Cái giá phải trả được coi là rẻ - chúng tôi chỉ bị chuyển qua một phòng khác, cũng vẫn trong khu xà lim 1. Từ cửa sổ này tôi không nhìn ra sân được nữa.
Trong những lần ra rửa ráy, lấy cơm, trả bát tôi tò mò quan sát phòng giam Hoàng Văn Thụ. Nhân tiện ở đây tôi cũng muốn xem kỹ nó một tí. Thỉnh thoảng có đoàn tham quan vào, chắc họ tới viếng xà lim này.
Hoàng Văn Thụ cũng có lui tới nhà tôi trong thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám. Người hay nhắc tới Hoàng Văn Thụ nhất mỗi lần đến thăm cha tôi là một hàng binh có tên Việt là Chiến Sĩ, người Ðức(3). Ðược Hoàng Văn Thụ giác ngộ, từ một sĩ quan lê-dương Chiến Sĩ trở thành đảng viên cộng sản, tham gia tổng khởi nghĩa Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Mỗi khi nhắc tới Hoàng Văn Thụ giọng Chiến Sĩ bồi hồi, đôi mắt xanh của ông trở nên ướt. Ngồi nghe những người của thời trước, thời cách mạng chưa thành công, khi họ còn là những đồng chí thân thiết, tôi cứ ngẩn người ra mà ngắm - sao thời ấy họ đẹp thế !
Hàng ngày đi qua xà lim Hoàng Văn Thụ, tôi thường nghĩ về tình bạn giữa cha tôi và người anh hùng đã khuất với mối hoài nghi bất giác : nếu Hoàng Văn Thụ còn sống, liệu ông có trở thành một trong những tên đang hành hạ chúng tôi không ?
Thành kể thời Pháp bức tường đá bao quanh Hỏa Lò không cao thế này. Vì nó thấp cho nên trong cuộc vượt ngục nổi tiếng trước ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám tù chỉ công kênh nhau đã leo được ra ngoài. Sửa chữa sơ hở của thực dân Pháp, chính quyền cách mạng đã bồi cao thêm chừng mét rưỡi nữa. Bây giờ vệt nối giữa bức tường cũ và đoạn được xây thêm trông còn rõ.
Từ trong xà lim 1 có thể nhìn thấy một mảng trời khá rộng với những cành sấu, cành me la đà nơi ngã ba Quán Sứ và Hàng Bông Thợ Nhuộm. Bên trong bức tường là mấy vọng gác gần khu trại nữ, trên đó mấy chàng lính trẻ chốc chốc lại cởi cúc quần ngẩn mặt ra thủ dâm trước những con mắt bị giam thèm khát màu xanh. Họ tưởng tù không trông thấy hay họ coi thường bọn tù trong xà lim, tôi không rõ.
So với xà lim 3, xà lim 1 đỡ vắng lặng hơn. Nó được dành riêng cho tù trọng án. Ðám tù này bất cần đời. Vào đến xà lim là họ hiểu họ không bị xử bắn cũng chung thân, nhẹ nhất là hai mươi năm. Khi buồn quá, họ hát ti tỉ, họ ngâm thơ, quản giáo có la hét thì họ vâng vâng dạ dạ tí chút rồi đâu vẫn hoàn đấy. Lại thêm một anh phi công Mỹ mới lạc loài vào, hẳn khu tù binh đã quá chật. Anh chàng này suốt ngày im lặng, thỉnh thoảng lại hứng lên ông ổng cất tiếng hát bằng giọng nam trầm, chẳng ra cái điệu gì. Hách xầm xầm chạy vào, mắng xa xả bằng tiếng Việt, người Mỹ cãi lại bằng tiếng Mỹ. Hai bên om xòm một hồi rồi chia tay, không bên nào hiểu bên nào.
Khu xà lim 1 còn tiếp giáp với trại nữ. Ban ngày trại nữ im ắng nhưng tối đến hoặc đang đêm lại ồn lên tiếng cãi lộn, những lời chửi bới thô tục. Thỉnh thoảng xảy ra một vụ đánh nhau, vẳng đến phòng chúng tôi tiếng gào the thé đến lạc giọng của những cô gáì :" Báo cáo bà quản giáo ạ, báo cáo bà quản giáo ! Chúng nó đánh chết con rồi ạ !" Tù nữ ít khi đánh nhau, nhưng đã đánh nhau thì đánh dữ lắm, quản giáo không can nổi. Dẹp một vụ xô xát ở trại nữ mất cả tiếng đồng hồ. Phần lớn tù nữ là gái điếm, trộm cắp, còn lại là các thứ khác : buôn lậu, buôn bán tem phiếu(4), lừa đảo, đánh ghen vv...
Chúng tôi còn nghe thấy cả tiếng trẻ con khóc từ trại nữ vọng lại. Không hiểu có phải khi người mẹ đang cho con bú thì bị bắt nên người ta cho phép mang con vào theo, hay là tù sinh con trong trại. Thành trầm lặng hẳn khi nghe tiếng trẻ gào như mèo kêu trong đêm.
- Khốn nạn, vừa chào đời đã ở tù. Cũng là cháu Bác Hồ cả đấy, chẳng biết rồi ra nó sẽ là cháu ngoan hay là cháu hư ? Hư là cái chắc. Ði qua nhà tù, mấy ai còn tử tế...
Trong đêm thanh vắng tôi nghe thấy tiếng người lao xao trên đường Hàng Bông Thợ Nhuộm vào giờ tan buổi chiếu bóng muộn. Có hôm, tôi còn nghe thấy tiếng một người quen. Hỏa Lò được thiết kế rất lạ : ở trong có thể nghe thấy tiếng bên ngoài, nhưng ở bên ngoài không thể nào nghe thấy tiếng người bên trong.
Chẳng bao lâu sau anh chàng Căn cũng theo chân chúng tôi qua bên này. Bằng cách nào không biết, chỉ một ngày sau anh ta đã biết sự có mặt chúng tôi ở đây. Ðể đánh tiếng cho chúng tôi biết, anh ta nghêu ngao bằng giọng khàn khàn vịt đực :
Em chờ anh tối qua
Suốt canh trường chẳng thấy anh ra...
(1) Tại các trại giam mà tôi đã sống qua, thay vì gọi đồ đạc, người ta gọi đồ đoàn. Không rõ cách gọi này có xuất xứ từ đâu.
(2) Lời một bài hát.
(3) Tôi biết tên ông là Stefan, không nhớ họ.
(4) Tem phiếu là từ chung dùng để chỉ các loại giấy phân phối các thứ hàng hóa từ gạo, thịt, đường, sữa...cho tới vải, xe đạp vv...Buôn bán tem phiếu cũng là một tội, chế tạo và lưu hành tem phiếu giả là tội rất nặng, có thể tới chung thân hoặc 20 năm tù ngồi.
Tôi choàng tỉnh, mồ hôi đầm đìa. Cơn ác mộng đã qua. Trong ánh điện chói chang, tôi nhìn thấy mặt Thành cúi sát tôi, bàn tay đặt lên vai tôi lạnh ngắt :
- Cậu ú ớ mãi, mơ hoảng à ?
- Cái gì thế ? Có chuyện gì thế ? - tôi ngồi nhỏm dậy.
Anh đặt ngón trỏ lên môi suỵt khẽ, hất hàm chỉ ra cửa.
Ðịnh thần, tôi nghe ngoài hành lang có tiếng nấc cụt liên hồi, tiếng người xì xào không rõ, tiếng chân rầm rập chạy vào khu xà lim. Trong tĩnh mịch, ầm lên tiếng một vật bằng gỗ rơi xuống sàn xi-măng, sau đó là tiếng bước chân nặng nề xa dần.
Khu xà lim lại chìm vào yên lặng.
Thành rời khỏi khung cửa, leo lên phản, lúi húi chuẩn bị điếu thuốc lào đầu tiên của buổi sáng.
- Cấp cứu.- anh điềm tĩnh kết luận sự kiện vừa xảy ra.
Tôi hiểu mối quan tâm của Thành đối với người tù cùng vụ với tôi.
- Cậu đoán ra là ai chưa ?
Tôi lắc đầu. Cánh cửa xà lim bên ấy suốt ngày đóng im ỉm, người bên trong không đánh tiếng thì chịu, làm sao biết được anh ta là ai.
Thành là người lính trinh sát tốt. Anh quan sát, anh suy luận, anh liên tưởng, anh đặt giả thuyết trước mỗi hiện tượng và bao giờ cũng vậy, anh có những kết luận khá chắc, khá gần với sự thật.
Ai ở bên ấy nhỉ ? Cha tôi không có hiện tượng bệnh như vậy. Ông đau gan, nhưng khi đau lắm ông chỉ rên khe khẽ, như thể suýt soa. Vả lại, nếu là cha tôi chắc chắn tôi sẽ biết, bằng linh tính, bằng một chi tiết nhỏ nhất. Chỉ cần đi qua cửa xà lim tôi cũng có thể bắt được hơi ông. Ông Ðặng Kim Giang, tôi nhớ, không có bệnh gì, trừ chứng tê thấp nhẹ, họa hoằn tôi mới gặp ông đi cà nhắc. Vậy còn ai nữa trong những nhà cách mạng già cũng bị trong vụ này, mà người ta phải lo lắng để không cho chết tự do ? Ông Bùi Công Trừng ? Ông Ung Văn Khiêm(1) ?
- Liệu anh ta có việc gì không, anh Thành ?
- Chẳng biết nữa ! - Thành thở dài - May mà người ta đến kịp.
- Anh ta bị bệnh gì nhỉ ?
Thành tư lự.
- Hiện tượng này, theo tôi nghĩ, nhiều phần là bệnh tim, hẹp van hay hở van chi đó. Nhồi máu cơ tim không phải, chứng ấy chết trong tích tắc, đợi được đến lúc y sĩ tới thì đã ngoẻo.
Thôi chết, đau tim thì đúng là Phạm Viết rồi ! Thế mà tôi quên bẵng anh.
Tôi và Phạm Viết thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, nhưng giữa chúng tôi không có sự giao du thân tình. Thoạt vào Hỏa Lò Huỳnh Ngự còn hỏi tôi về Phạm Viết, nhưng biết tôi không có quan hệ mật thiết với anh, y hỏi lấy lệ rồi bỏ qua.
- Sao, cậu đã nhận ra ?
- Ðó là Phạm Viết, cán bộ mặt trận Hà Nội.
Tên của Phạm Viết không nói lên điều gì với Thành. Hai người ở hai chiến trường khác nhau, chưa gặp nhau bao giờ.
Phạm Viết là cán bộ Hà Nội từ thời tiền khởi nghĩa. Năm 1946 anh bị thương trong một cuộc chạm súng với địch. Hà Nội bị Pháp chiếm, anh hoạt động nội thành. Hà Nội giải phóng, anh làm phó tổng biên tập một tờ báo hàng ngày trực thuộc thành ủy(2).
Trắng trẻo, nho nhã, học thức, lại biết nhiều ngoại ngữ, trong thời kỳ công nông được đề cao Phạm Viết đương nhiên trở thành con quạ trắng giữa các đồng nghiệp xuất thân từ những thành phần cơ bản (3). Khi nổ ra cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, Phạm Viết còn bị thành kiến hơn nữa bởi những phát biểu chướng tai các vị lãnh đạo.
Cha tôi vốn hiếu khách. Nhà tôi lúc nào cũng có khách, nhất là trong những giai đoạn có biến động xã hội. Người ta đến để hỏi ý kiến, để nhận một lời khuyên, tin rằng cha tôi hiểu biết, có uy tín với các nhà lãnh đạo, được ông Hồ lắng nghe. Người bị oan ức thường đến nhờ cậy cha tôi can thiệp. Ðến nỗi trong thời kỳ Cải cách ruộng đất Trường Chinh nổi đóa gọi cha tôi là cái loa của bọn tư sản và địa chủ, còn đến thời kỳ đấu tranh giữa hai đường lối thì Lê Ðức Thọ gọi ngôi nhà của chúng tôi là câu lạc bộ Pêtôfi(4).
Trong những người thường lui tới với cha tôi thời gian cuối có Phạm Viết.
Phạm Viết kính trọng cha tôi, như kính trọng một bậc tiền bối cách mạng, kính trọng thái độ dũng cảm của ông trong việc bảo vệ chân lý, không sợ cường quyền.
Tôi cũng quý Phạm Viết nhưng không mấy đồng tình với anh về tính cách cực đoan của anh. Trong anh tính xu hướng quá mạnh, mà một khi tính xu hướng quá mạnh, nó thường đẻ ra sự chống lại, chí ít cũng là ý muốn tự vệ ở người đối thoại.
Thời gian căng thẳng của Nghị quyết 9 rồi cũng trôi qua. Ba năm đủ để cho chúng tôi quên đi những nỗi lo âu. Trung Quốc vẫn mải mê đấu tranh chống xét lại, còn ở Việt Nam mọi nỗ lực được dồn cho kháng chiến chống Mỹ. Chúng tôi đã mừng : Ðảng ta thoáng, Ðảng không bắt ép ai phải theo quan điểm Ðảng.
Văn Cao cảnh cáo tôi : hãy coi chừng !
Vài tuần sau khi nổ ra vụ bắt bớ bọn xét lại chúng tôi cảm thấy rõ nanh vuốt Ðảng qua những lời dọa nạt của những tên hãnh tiến. Chúng nghiến răng kèn kẹt :"Phải quét sạch cỏ dại trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội", "Ðảng nhân đạo, nhưng chỉ có giới hạn thôi", "Phải tống chúng nó (bọn xét lại) đi cải tạo hết thì xã hội mới lành mạnh". Những người có ý kiến ngược trong Nghị quyết 9, bị coi là có quan điểm xét lại, bắt đầu lo sợ. Nhưng lo sợ thế thôi, chứ vẫn tin : mình có làm gì đâu mà Ðảng bắt. Nếu không được bảo lưu quan điểm nữa thì thôi, ta chui phắt quan điểm đi là xong, như trong trò tam cúc ấy.
Nói tóm lại, chúng tôi chưa biết sợ vì chúng tôi mắc bệnh đinh ninh. Chúng tôi tin Ðảng quá lâu, quá nhiều. Chúng tôi đinh ninh Ðảng bây giờ đàng hoàng, không bắt bậy bắt bạ, đã bắt là phải có sở cứ. Chắc Hoàng Minh Chính và mấy anh có làm điều gì quá đáng Ðảng mới bắt, cha tôi nghĩ thế, tôi cũng nghĩ thế. Théo Ronco, phóng viên thường trú tờ Nhân Ðạo (Humanité) gặp tôi hỏi về vụ bắt bớ vừa xảy ra, tôi còn nói rằng chưa biết thế nào, cần phải chờ Ðảng thông báo. Ronco lắc đầu, nói anh không hiểu luật pháp Việt Nam - cứ bắt người cái đã, lúc nào Ðảng thích công bố tội trạng thì công bố. Anh cho rằng ở Việt Nam đang diễn ra những gì đã có ở Trung Quốc, tuy kém ồn ào.
Tôi chờ Phạm Viết trở về xà lim 1, nhưng anh không trở về nữa. Không rõ anh bị chuyển đi đâu, điều chắc chắn là không phải đi bệnh viện - nhà cầm quyền không giàu lòng nhân đạo đến thế.
Tôi buồn mất mấy ngày. Tôi nghĩ Phạm Viết đã chết và tôi ân hận trước kia đã có cái nhìn khe khắt đối với anh. Khi Phạm Viết bị bắt, cha tôi nói với mẹ tôi : "Khốn khổ, bệnh nó như thế, nó đến chết trong tù mất thôi." Chị Lan, vợ anh, kể anh bị bắt trong khi đang đau tim nặng, phải điều trị tại bệnh viện.
Cha tôi nói gở. Tôi biết tin Phạm Viết chết vào năm 1972, trong một trại giam ở Thái Nguyên(5). Khi đó tôi đang ở trại Tân Lập. Nghe nói sau khi anh chết gia đình anh được báo tin và chị Lan(6), vợ anh, được phép lên nghĩa trang nhà tù để thắp nén hương tưởng niệm chồng.
Phạm Viết đi khỏi xà lim 1 được ít ngày thì một hôm đi ngang dãy phòng giam cuối hành lang để tới phòng vệ sinh, tôi giật mình nghe thấy tiếng ho trầm trầm của ai đó, rất quen. Tiếng ho không tự nhiên, rõ ràng người ở trong cố dặn ra để chúng tôi chú ý. Hôm sau đi qua tôi nghe người trong phòng ngâm nga :
Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông
Nhất nông nhì sĩ.
Tôi muốn reo lên khi nhận ra tiếng Hồng Sĩ. Chao ôi, chẳng lẽ cả anh nữa, người trước nay tôi vẫn coi là thuộc phía bên kia, cũng bị bắt, cũng là đồng vụ với tôi ? Cuộc đời mới kỳ cục làm sao !
Hồng Sĩ là công an, làm công tác phản gián ở Hải Phòng. Anh ở cùng nhà với nhà văn Bùi Ngọc Tấn tại đường Ðiện Biên phủ. Mỗi lần có việc đến cảng hoặc đi xa hơn, tới mỏ Quảng Ninh, tôi đều ghé thăm Tấn. Tấn lại chơi thân với Hồng Sĩ, đến Tấn tức là đến Hồng Sĩ, cho nên chúng tôi gặp nhau luôn.
Mặc dầu chúng tôi tin Tấn, nhưng với ông bạn trung tá công an của anh chúng tôi vẫn cứ chờn chợn. Khi trò chuyện với Hồng Sĩ tôi vẫn cảnh giác, lựa từng lời mà nói, chọn từng chữ mà dùng, không dám khinh xuất.
Cao to, xương xẩu, nghiện thuốc lá nặng, Hồng Sĩ giống một thầy ký nhiều hơn một cán bộ, hơn nữa, lại là cán bộ công an. Nhưng đó chỉ là bề ngoài. Bùi Ngọc Tấn nhận xét anh là một cán bộ công an giỏi và có học thức nhất thành phố cảng. Tôi gặp Hồng Sĩ là mến anh ngay. Anh ham học hỏi, quan tâm nhiều lĩnh vực, hiểu biết rộng. Trong căn phòng hẹp của gia đình anh có một máy thu thanh cổ lỗ hiệu Phillips, trên cái mặt nhựa vàng xỉn hình bát quái của nó chữ in đã mờ hết, nhưng nó vẫn bắt được các đài xa. Ðêm đêm anh ngồi lì bên cái radio già lão nghe hết BBC đến Tiếng nói Hoa Kỳ, hết Bắc Kinh đến Moskva, nhờ đó anh biết nhiều chuyện chúng tôi không biết trên cái thế giới xa lắc xa lơ bên kia hàng rào tư tưởng.
Hồng Sĩ không giấu giếm quan điểm của anh. Anh nói anh đang chờ xem Ông Cụ định đưa dân mình tới đâu. Nếu Việt Nam rồi sẽ như Trung Quốc thì chán lắm, anh nói, thà chết còn hơn. Cẩn tắc vô áy náy, chúng tôi nghe anh, mặt bất động như những nhân vật trong của tuồng Nô Nhật-bản.
Có lần Hồng Sĩ còn dặn dò tôi hãy cẩn thận trong mối quan hệ với nhà thơ HTK cũng ở Hải Phòng trong thời gian đó :
- Nó vừa báo cáo về cậu đấy. Lên Hà Nội, nghe Tố Hữu phê phán Ðêm Mất Ngủ của cậu xong là nó về đây báo cáo liền. Nó làm thế để duỗi ra vì trước có quan hệ thân mật với cậu hay là muốn lập công tớ không biết.
Tôi chơi với HTK từ thời kháng chiến chống Pháp, ở Liên khu 4. Anh người Huế, ăn nói nhỏ nhẹ dễ thương, công tác trong bộ đội nhiều năm, đảng viên, là nhà thơ đầu tiên được tặng thưởng huân chương Chiến thắng. Năm 1956 anh bị dính vào vụ Nhân văn - Giai phẩm, bị Ðảng thi hành kỷ luật. Oan cho HTK, anh không dính dáng gì với Nhân văn - Giai phẩm cả. Anh bị thi hành kỷ luật do lỏng tay lãnh đạo trong cương vị bí thư ở văn phòng Hội Nhà văn hay Hội Văn nghệ tôi không nhớ. Bị mất việc, anh chuyển về Hải Phòng, công tác tại công đoàn cảng, sống nghèo khổ với một nhà thơ nữ có sẵn một đàn con.
Tôi vẫn đến chơi với HTK. Tôi vẫn thương anh. Nhưng có lần bên ly cà phê hội ngộ tôi đe :
- Bây giờ nhiều thằng bán bạn bán bè lắm. Tớ cũng bị bán, tớ biết, nhưng thông cảm hoàn cảnh của thằng chẳng có gì để bán mới phải bán bạn, tớ không trách. Tớ chỉ trách cái sự bán quá rẻ. Tiếng thế, tớ cũng có giá lắm chứ !
HTK cười ngượng. Tôi kiểm tra, biết việc Hồng Sĩ báo là có thật.
Khi biết tôi vẫn còn e ngại Hồng Sĩ, Kỳ Vân cười hì hì :
- Các cậu lại mắc bệnh Tào Tháo rồi. Thế thì khác gì họ. Tin tớ đi, Hồng Sĩ là thằng bạn tốt lắm đấy.
Nguyên Hồng có vẻ cũng e dè Hồng Sĩ. Anh hay có mặt ở nhà Bùi Ngọc Tấn, và tất nhiên, không thể không tiếp xúc với anh bạn công an có những quan điểm thoải mái. Nguyên Hồng chỉ yên tâm hơn một chút khi thấy Hồng Sĩ không chú ý tới anh nhiều.
Nguyên Hồng hồi ấy cũng rơi vào tâm trạng buồn phiền. Một hôm, Bùi Ngọc Tấn đang đứng dưới tấm bảng lớn bằng cả bức tường để so vé xổ số thì bị Nguyên Hồng bắt gặp. Nguyên Hồng thụi cho Bùi Ngọc Tấn một quả :
- Cái thằng rõ ngu. Ở đời đã chán vạn điều thất vọng mà mày còn bỏ ra hai hào mua thêm một cái, đắt quá !
Bùi Ngọc Tấn đỏ mặt lên.
Ít ngày sau, Bùi Ngọc Tấn bắt quả tang Nguyên Hồng cũng đang so vé số, cũng trước bức tường ấy. Anh khoái lắm, đem câu nói của Nguyên Hồng hôm trước ra đay lại. Nguyên Hồng làm bộ sửng sốt :
- Tao có nói thế à ? Không có lẽ. Ở đời toàn là thất vọng, bỏ ra có hai hào mua được cả một cái hi vọng, rẻ ơi là rẻ !
Bây giờ Hồng Sĩ đã ở đây, bên cạnh tôi. Mọi nghi vấn về anh thế là được giải tỏa.
Thấy tôi buồn buồn, Thành hỏi :
- Cậu nhận ra người ấy à ?
Tôi gật đầu :
- Anh ấy là bạn tôi.
Hồng Sĩ không có con. Vợ chồng anh đón đứa cháu họ về làm con nuôi cho vui cửa vui nhà, tình cảnh tội nghiệp lắm. Bây giờ Hồng Sĩ bị giam, không hiểu vợ con anh xoay xở ra sao ? Lại còn Bùi Ngọc Tấn nữa. Hồng Sĩ bị thì Bùi Ngọc Tấn cũng dám bị lắm. Tôi biết rõ Bùi Ngọc Tấn(7). Anh hiền lành, có chính trị chính em gì đâu.
Nghe tôi kể về Hồng Sĩ, Thành chép miệng :
- Bạn cậu ở cái phòng chết tiệt ấy là khốn nạn lắm đấy. Hôi hám, ẩm ướt vô cùng. Có lần tôi bị họ nhét vào đấy, chịu không nổi. Anh này chắc bướng, hả ?
- Chắc vậy.
Tôi kể cho Thành nghe về Hồng Sĩ. Giả thử Thành là chỉ điểm, có báo cáo với chấp pháp cũng chẳng sao.
Trừ tình cảm quý mến nhau, Hồng Sĩ chẳng có liên quan gì với tôi trên bất cứ phương diện nào. Vả lại, kể chuyện Hồng Sĩ tôi cũng muốn dẫn Thành vào sâu thêm vụ án chúng tôi. Biết đâu sau này anh lại chẳng là người đưa những tin tức cuối cùng của chúng tôi ra ngoài.
Tôi không biết trong lòng Thành đang có nỗi buồn. Anh suy luận : nếu người ta bố trí cho tôi ở chung với anh thì điều đó có thể có nghĩa là vụ án của anh cũng kéo dài luôn - chẳng ai dại gì cho anh ra để mang theo những bí mật về vụ án họ đang bưng bít.
Phòng giam Hồng Sĩ liền vách với phòng vệ sinh, trong đó có chuồng xí lẫn với buồng tắm. Nó rộng rãi, tiện đường đi lối lại, cho nên đám quản giáo, lính gác bên trong Hỏa Lò chốc chốc lại tạt vào tiểu tiện đại tiện, nhát nhát lại bì bõm tắm rửa, thậm chí giặt giũ cũng tới đấy. Hồng Sĩ phải sống trong tiếng đóng cửa, mở cửa, tiếng cười nói oang oang, tiếng nước xối ào ào, trong bầu không khí tanh tưởi, sũng nước suốt ngày đêm.
Tôi không mừng gặp Hồng Sĩ, nhưng sự có mặt của anh ở đây làm tôi thấy bớt cô đơn. Chắc hẳn ở cửa phòng anh có cái lỗ ai khoan sẵn ngó ra ngoài được cho nên lần nào tôi đi qua Hồng Sĩ cũng biết. Nghe tiếng ho làm hiệu của anh mà ấm lòng.
- Cần phải giải thoát cho anh bạn cậu ra khỏi cái xà lim chết tiệt ấy. - Thành nói - Nằm đấy lâu mất sức lắm.
Tôi hiểu - trong óc Thành đã nảy ra một kế.
- Ðồng ý. Nhưng phải làm thế nào ?
- Có gì khó. Nguyên tắc của Công an là không để cho tù cùng một vụ thông cung với nhau...
Kế ấy được.
- Ðể nghĩ thêm một chút xem có hại gì cho anh ấy không đã.
- Sẽ xảy ra hai trường hợp : một là anh bạn chúng ta được chuyển đi nơi khác, nơi nào thì nơi vẫn cứ khá hơn ở đây; hai là chính chúng ta bị chuyển đi, trong trường hợp này số phận anh bạn không tốt lên, mà chính chúng ta có thể gặp cái tồi hơn...
- Với tôi thì đâu cũng vậy, nhưng vì bạn tôi mà anh bị ở chỗ xấu hơn tôi không muốn.
- Xì, đừng nghĩ lôi thôi. Cậu cho tôi là loại người gì ?
Tôi coi anh là bạn, là người anh. Tôi cảm ơn số phận đã cho tôi gặp anh ở đây. Cách cư xử có nhân phẩm của anh làm tôi cảm phục. Nếu tôi có còn cảnh giác một chút thì đó là do tình thế. Ðược tin một con người là một hạnh phúc.
Còn một điều làm tôi ngần ngại : ấy là tôi sợ Hồng Sĩ hiểu lầm tôi nhát gan đã báo cáo với chấp pháp về việc anh đánh tiếng cho tôi. Mà sự hiểu lầm rằng tôi đầu hàng trong thời gian mọi người đang bị dồn ép khai cung có thể gây ra những tai hại không thể lường trước được.
Nhưng tôi không đành lòng không cứu anh. Vạn nhất có bị anh hiểu lầm thì cũng đành chịu vậy, sau này anh sẽ hiểu. Anh đã là công an, anh chẳng đến nỗi non nớt để bị bọn chấp pháp qua mặt.
Tôi thực hiện kế của Thành ngay lần đi cung sau. Tôi nghĩ kế hoạch của mình sẽ chót lọt mà không gây ra sự phiền phức nào vì gần đây tôi chỉ gặp Hoàng chứ không gặp Huỳnh Ngự. Với Huỳnh Ngự mọi việc sẽ phức tạp lên nhiều.
Tôi quyết định nói với Hoàng vào lúc y chăm chú đọc báo. Bao giờ cũng vậy, sau khi trao cho tôi một số câu hỏi để tôi suy nghĩ, Hoàng vùi đầu vào mấy tờ báo anh ta mang theo.
- Tôi không hiểu sao các anh lại bắt Hồng Sĩ ? - đang viết, tôi ngẩng lên hỏi Hoàng - Hồng Sĩ là người của các anh cơ mà ?
Hoàng giật mình :
- Hồng Sĩ nào ?
- Còn Hồng Sĩ nào nữa.
Buông tờ báo, Hoàng chằm chằm nhìn tôi.
- Làm sao anh biết Hồng Sĩ bị bắt ?
- Anh ấy đang ở cùng một khu xà lim với tôi.
- Anh tin chắc như thế ?
- Tôi tin chắc.
- Tại sao ?
- Tôi nghe tiếng ho của anh ấy. Tiếng ho của Hồng Sĩ không lẫn được.
Hoàng tủm tỉm cười. Như một người Việt Nam chính cống, anh ta cười trong bất cứ trường hợp nào.
- Anh loại trừ mọi khả năng nhầm ?
- Tôi loại trừ.
Hoàng không nói gì nữa. Anh ta đẩy bọc thuốc lá sợi về phía tôi.
Tôi cuốn một điếu. Từ khi làm việc với Hoàng, tôi học được cách cuốn thuốc lá của anh ta - trên những ngón tay thành thục điếu thuốc hiện ra tròn trịa, ngay ngắn, đầu bằng đít, đít bằng đầu, như thể cuốn bằng máy. Hoàng không bao giờ hút thuốc bao, anh ta chỉ có thuốc sợi, mà là loại thuốc vụn phế liệu của nhà máy bán cho cán bộ và dân nghèo, không phải phiếu, giá lại rẻ.
- Anh có phân biệt được tiếng tên lửa lúc phóng lên và lúc nó nổ trên trời không ? - Hoàng hỏi.
- Cũng còn tùy ta ở cách dàn phóng bao xa và tên lửa được cho nổ ở độ cao nào, và còn tùy ở khoảng cách giữa lúc nó nổ và tai mình nữa. - tôi bình thản trả lời - Tôi cho rằng tôi phân biệt được, mặc dầu chưa bao giờ tôi đặt ra cho mình một câu hỏi như thế.
Hoàng quay lại với đề tài Hồng Sĩ vào cuối giờ làm việc.
Anh ta nói nếu tôi muốn báo cáo với Ðảng về Hồng Sĩ thì anh ta không phản đối. Tôi cười nhạt, nói tôi không có tinh thần xung phong lập công. Ðáp lại, Hoàng làm thinh.
Không thể nhớ được là ngày hôm đó chúng tôi làm việc gì. Như mọi ngày, Hoàng đặt vài câu hỏi về một nhân vật nào đó, nhiều người tôi không quen, nhưng có gặp, hoặc có nghe tiếng. Tôi trả lời lăng nhăng, cho có lệ, rồi viết những câu lăng nhăng nọ vào giấy, Hoàng đọc lại, tôi ký phía dưới - thế là thành bản cung.
Tôi lấy làm lạ : bọn họ bày ra cái trò vớ vẩn ấy làm gì ? Có lẽ họ có những bài bản độc đáo mà tôi không hiểu. Kiến thức của tôi về nghề mật thám quá nghèo nàn.
Trước khi bị bắt tôi có được đọc một số hồi ký của những người cộng sản Liên Xô bị bắt dưới thời Sta-lin đăng trong tạp chí Novy Mir (Thế Giới Mới) và Neva (Sông Neva). Cung cách bắt người ở bên ấy hoàn toàn giống ở Việt Nam. Nhưng cách hỏi cung thì khác nhiều. Thời Sta-lin, người nào cũng bị tra tấn. Có người sợ quá trong một ngày đêm khai ra hơn một trăm kẻ thù của nhân dân. Không biết có phải vì được dùng nhục hình mà OGPU hoặc NKGB, hoặc NGB(8) dựng vụ tài hơn không, nhưng những vụ lớn đều được đưa ra xét xử tại tòa án. Ðiều đáng khâm phục hệ thống trấn áp của Stalin là trước tòa hết thảy người bị bắt oan đều nhận tội phản Ðảng, làm tay sai cho đế quốc. Dưới triều Lê Duẩn, lũ công sai đã vụng về lại không được phép dùng nhục hình(9), thành thử chủ của chúng lúng túng mãi không biết làm cách nào nặn ra cái họ muốn.
Ngay đêm ấy, Hồng Sĩ bị chuyển đi nơi khác. Chúng tôi nghe tiếng mở cửa phòng anh, tiếng người nói khẽ, giọng giục giã, tiếng dép lẹp kẹp trên sàn xi măng, tiếng ho khan nhiều lần của Hồng Sĩ. Tôi hiểu : anh gửi tôi lời chào từ biệt.
(1) Về sau tôi mới biết hai ông không bị bắt, nhưng bị quản thúc tại gia. Người ta không bắt có lẽ vì không muốn vụ án thêm ầm ĩ vì cả hai là ủy viên Trung ương Ðảng.
(2) Khi Phạm Viết bị bắt , tờ báo mang tên Hà Nội Mới.
(3) Nói xuất thân công nông là nói theo cách thường bấy giờ, chứ giai cấp công nhân Việt Nam vào thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám nhỏ bé đến nỗi hầu như không có mấy cán bộ cách mạng xuất thân từ giai cấp công nhân. Ðặc biệt trong hàng ngũ cán bộ trung cao cấp lại càng hiếm hơn nữa, phần nhiều số cán bộ này thuộc thành phần dân nghèo thành thị và trí thức tiểu tư sản.
(4) "Câu lạc bộ Pêtôfi" là tên gọi của tổ chức những nhà trí thức đấu tranh cho dân chủ, chống lại chế độ độc tài của nhà nước cộng sản tại Hungari vào giữa thập niên 50, lấy tên nhà thơ Sandor Petofi (1823-1856) của Hungari. Từ "Câu lạc bộ Pêtôfi" đã hình thành một phong trào đấu tranh rộng lớn của nhân dân Hungari vì dân chủ và tự do.
(5) Phạm Viết chết trong tù ngày 31.12.1971.
(6) Chị Lan, cán bộ ẹy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, cũng bị bắt, nhưng không bị giam lâu (chị chỉ bị giam hai năm rưỡi), sau đó được tha cho về nuôi con.
(7) Bùi Ngọc Tấn bị bắt, bị giam hình như 5 hoặc 6 năm, nhưng không được Ðảng gộp vào trong đám xét lại ở Trung ương. Anh bị đối xử xấu hơn, vợ con anh ở nhà không được hưởng nửa lương như vợ con tôi, mà bị cắt hoàn toàn.
(8) Những tên tắt của cơ quan mật vụ Liên Xô trong thời kỳ trị vì của Stalin. Khởi đầu bằng cơ quan Cheka (U?y ban đặc biệt) được thành lập sau Cách mạng Tháng Mười, các cơ quan này thực hiện việc trấn áp "các lực lượng phản cách mạng".
(9) Trong nhà tù Việt Nam kể từ Cải cách ruộng đất việc dùng nhục hình bị nghiêm cấm. Ðó là sự thật. Nghe nói sau năm 1975 ở một số trại tù miền Nam tù nhân bị phơi nắng, bị giam trong những công-te-nơ, bị đánh bằng roi, bằng gậy. Ðiều này tôi không rõ.
Mùa hè, Hỏa Lò nóng như thiêu như đốt.
Huỳnh Ngự lấy Hỏa Lò ra dọa tôi không phải không có sở cứ. Từ sáng sớm, những khối bê tông dày và rắn như đá thu nhận lửa trời xích đạo vào lòng, tích tụ nhiệt ở đó, khoảng tầm trưa thì bão hòa. Ðến lúc đó chúng mới phả cái nóng âm ỉ được nhân lên nhiều lần vào xà lim cho tù. Xà lim, như tôi đã tả, kín như bưng. Mùa đông gió không lùa vào được còn đỡ, chứ mùa hè thì chịu không xiết. Mồ hôi tháo ra như tắm.
Thành dùng riêng một khăn mặt để lau mồ hôi, chốc chốc lại phải vắt. Nước từ khăn mặt chảy ra tong tỏng. Cái khăn mặt trắng chẳng bao lâu có màu tím xẫm của quả sim, không hiểu trong mồ hôi người có chất gì mà lại làm khăn biến màu như thế ? Tôi không có khăn mặt, đành mặc cho mồ hôi túa ra đầm đìa, chảy dọc theo người, đọng thành vết dưới chân.
Lúc đầu chúng tôi còn ngượng với nhau, chỉ cởi trần, mặc quần đùi, sau chúng tôi không buồn ngượng nữa, cởi bằng hết, nồng nỗng như người tiền sử, mặc cho đám quản giáo và lính canh khinh khỉnh ngó vào. Dưới con mắt họ, hẳn hai đứa chúng tôi giống hai con vật dạng người bị nhốt trong cũi. Còn chúng tôi thì tự an ủi : cho dù có quần ngoài áo trong, chất người trong chúng mày chửa chắc gì đã bằng chúng tao.
Ðể chống nóng, Thành và tôi quyết định hai người dùng chung một bô, cái thứ hai cọ sạch đi để chứa nước. Tôi nhìn cái bô nhếch nhác, cáu bẩn, đã trải qua không biết bao nhiêu đời tù mà ngán. Thành quả quyết có thể cọ sạch được. Anh hì hục cậy một mẩu gạch ở chân tường phòng vệ sinh, kiên nhẫn dùng nó cọ nhiều lần, cho tới khi cái bô sắt tráng men trở thành trắng tinh. Có cái đựng nước dự trữ rồi lại phải kế hoạch hóa sao cho chặt chẽ để các chất thải trong ngày chỉ được phép đầy ắp cái bô còn lại đúng giờ mở cửa buổi sáng. Ðại tiện phải lần lượt kẻ trước người sau cùng một lúc, cũng vào giờ ấy, có thế mới không phải hít thở lâu không khí hôi thối trong phòng. Xà lim kín lắm, cả tiếng đồng hồ mùi thối mới bay đi hết.
Ấy thế mà cái sáng kiến nhỏ bé ấy lại rất đắc dụng - chúng tôi có thể tự cho phép mình được giội hai ca vào buổi chiều, khi cái nóng Hỏa Lò lên tới đỉnh điểm, người ngứa ngáy không chịu nổi, còn hai ca dành cho buổi tối, trước khi đi ngủ Ðó là sự sang trọng không thể có ở bất kỳ xà lim nào. Chúng tôi giội từ từ, từng giọt nước hiếm hoi lên đầu, cho chúng chảy dần xuống tấm thân nóng rẫy. Nước mát rượi, đi tới đâu biết tới đó, như là nước cải tử hoàn sinh trong cổ tích. Nó cuốn đi mồ hôi bẩn, cuốn theo cả cái mệt mỏi, chảy xuống đến ngón chân đã thành nước nóng. Vì một cái bô không chứa đủ chất thải của hai người trong một ngày, nên thỉnh thoảng chúng tôi phải đi tiểu vào lỗ thoát. Nước giội còn có tác dụng rửa sàn, làm trôi đi phần nước tiểu đọng lại trong lỗ, phòng không bị khai. Nói chung, ở trong hoàn cảnh khó khăn mới biết Thành nhiều sáng kiến.
Giờ đây, ba chục năm trôi qua rồi, vậy mà mỗi lần nhớ lại xà lim Hỏa Lò tôi còn nổi da gà.
Chao ôi là nóng ! Nóng ghê gớm ! Nóng khủng khiếp ! Tưởng chừng cả đất trời đều bốc lửa. Tưởng chừng con người sẽ tan thành hơi sau cơn ngắc ngoải kéo dài. Nhưng sau một ngày vật vã, Hỏa Lò lại dịu đi về đêm, khoảng hai giờ sáng thì dịu hẳn, cho phép lũ tù khốn khổ được hồi sinh trong giấc ngủ mê mệt, không cho chúng chết ngay, để chúng được sống tiếp mà chịu cơn hành hạ hôm sau. Trong đời mình tôi chưa từng gặp một cái nóng nào tương tự, kể cả khi nằm trong những thung lũng lòng chảo vùng núi Việt Bắc, Tây Bắc hoặc giữa khu 4 gió Lào. Viết về cái nóng ở khu 4, Nguyễn Tuân rên rỉ : "Chao ôi, còn có giống đực giống cái nào nghĩ đến nhau trong cái mùa gió Lào nổi lên này!".
Tôi không đủ sức tả cái nóng Hỏa Lò bằng một câu đắt giá. Tôi chỉ còn đủ sức để thở hoặc để cho mình đừng ngừng thở mà thôi.
Trong phòng hỏi cung có một cái quạt tai voi(1), được đặt sau lưng Huỳnh Ngự. Từ cái quạt phả vào mặt tôi không phải gió mát mà không khí nóng. Dù sao mặc lòng, luồng không khí chuyển động chậm chạp cũng giúp cho mồ hôi bay đi được một phần. Trong cái nóng đặc sệt nhày nhụa quyện lấy thân thể, mồ hôi vẫn cứ chảy ròng ròng bên trong quần áo sau khi đã thấm ướt tất cả.
- Nóng quá, hè !
Huỳnh Ngự, chính y, cũng không chịu được cái nóng Hà Nội.
Những ngày cuối y có vẻ ngượng với tôi.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam gây được một cơn hào hứng ầm ĩ suốt mùa xuân, bước vào hè cho thấy nó chẳng phải là cái Huỳnh Ngự hùng hồn tuyên bố. Trên các mặt báo vẫn đỏ chót những bản tổng kết chiến công, không nói gì đến tổn thất.
- Dù sao nó cũng có giá trị một cuộc tổng diễn tập. - tôi an ủi y, nhân câu chuyện vô tình lạc bước vào đề tài chiến tranh - Mà cuộc diễn tập nào không phải trả giá.
Ngành tuyên truyền đã có những phương án giải thích cho mọi trường hợp. Cách ngụy biện của những người cầm chèo lái nghe có vẻ hợp lý, nhưng vô duyên. Nó gợi ta nghĩ tới một anh chàng ba hoa đứng giữa ngưỡng cửa để hùng hồn tiên đoán về ba khả năng : một là y vào, hai là y ra, ba là y đứng tại chỗ. Bất cứ khả năng nào xảy ra y cũng đúng - y đã nói trước cả rồi mà.
Mặt Huỳnh Ngự xị xuống. Nếu là trước kia thể nào y cũng phải lên giọng mắng át, nhưng lần này y nín lặng.
Nói chung, sau nửa năm cãi cọ, dền dứ, mọi sự rồi cũng thành nhàm - y không còn hăng hái đóng vai trò người thay mặt Ðảng để giảng đạo Mác mà y hiểu rõ rằng tôi thuộc hơn y, còn tôi thì cũng bắt đầu mất hào hứng vai trò tên tù bất trị.
Ðể hình dung một bản khai được cả hai bên góp sức mà thành là thế nào, tôi xin lấy một bản làm thí dụ.
Vào khoảng tháng thứ hai tính từ ngày tôi bị bắt, Huỳnh Ngự hỏi tôi :
- Anh biết Trần Minh Việt chứ ?
- Tôi biết.
- Thằng Việt có viết một cương lĩnh cho cái Ðảng tương lai của các anh, anh đọc rồi chứ ?
- Tôi không biết hai cái : cương lĩnh là một, Ðảng tương lai của chúng tôi là hai.
Y nhìn chằm chằm vào mặt tôi :
- Anh biết.
- Tôi không biết.
- Anh thấy cương lĩnh đó thế nào ?
- Rất tiếc, tôi chưa được đọc.
Huỳnh Ngự mỏi mắt. Y nguýt tôi.
- Anh chưa đọc là may cho anh đó. Lại còn rất tiếc. Mấy anh đi Tây về anh nào cũng mắc tật ấy - mở miệng ra là rất tiếc, rất tiếc...
- Tôi thậm chí không biết nó có. - tôi xuê xoa - Nếu có thể, tôi muốn mượn một bản đọc chơi, xem cái cương lĩnh đó ra sao.
Huỳnh Ngự bĩu môi.
- Tui không mần công việc tán phát tài liệu phản động. Hôm nay anh sẽ viết cho tui một bản khai về thằng Trần Minh Việt, hí ?
- Nhưng tôi biết gì về Trần Minh Việt mà khai ?
- Biết tưng nao khai tưng nớ. Tức là những chi anh biết, hoặc nghe người khác nói, chính thằng Minh Việt nói ra, hay là ông già anh nói, thằng Giang hay thằng Chính nói...
Trần Minh Việt là lý thuyết gia số một của bọn xét lại hiện đại, theo cách nhìn của Lê Ðức Thọ và đàn em. Tên này đã cả gan thảo ra một bản cương lĩnh cho một đảng cộng sản mới sẽ ra mắt quốc dân sau khi ban lãnh đạo Ðảng hiện tại bị lật đổ.
Tôi không giấu Huỳnh Ngự. Tôi không biết gì về cái gọi là cương lĩnh" ấy. Ra tù, tôi mới được đọc nó, do một người bạn Trần Minh Việt cất giấu được. Chính Trần Minh Việt thì lại không còn bản nào trong tay. Hóa ra tập tài liệu đánh máy dày chưa tới hai chục trang mà Huỳnh Ngự nói tới chẳng phải cương lĩnh cương liếc chi hết, mà chỉ là những suy nghĩ của Trần Minh Việt về con đường phát triển đất nước và vai trò Ðảng trong tình hình mới, với những đề xuất tâm huyết của anh với Trung ương. Khốn nạn cho Trần Minh Việt ! Anh đâu có muốn phá Ðảng, anh đóng góp ý kiến để Ðảng của anh vững mạnh hơn đấy chứ.
Minh Việt thế mà ngây thơ. Ðến những cán bộ thường như chúng tôi cũng biết rằng trong xã hội Việt Nam một việc làm như thế là một lỗi lầm không thể tha thứ. Là đảng viên, cho dù trong cấp ủy cao, anh cũng không được phép tỏ ra hiểu biết hơn lãnh đạo. Nếu anh có ý kiến hay hơn Trung ương chẳng hóa ra anh giỏi hơn Trung ương sao ? Mà anh đã dám coi mình giỏi hơn Trung ương thì nhất định anh phải coi thường Trung ương, trong đầu anh nhất định phải nảy ra ý nghĩ thay thế Trung ương rồi. Lê Duẩn có cho bắt anh cũng phải.
- Thế nào, còn suy nghĩ chi nữa ? Hay còn e dè, còn nể nang thằng Chính, thằng Giang(2) ? Nói để anh hay, trong khi anh cứ khăng khăng bảo vệ chúng hắn thì chẳng có thằng cha mô bảo vệ anh hớt, chúng hắn khai cho anh cả ký giấy rồi nè...
Cách giáo dục cán bộ công an của Ðảng thực hay - tiên học căm thù, hậu học mạ lị. Các cụ dạy tiên học lễ, hậu học văn là sai toét tòe loe rồi. Cái thứ con cháu hơn tổ tiên thế này là phúc đức cho nòi giống hay điềm báo vận mạt của nó ?
- Tui nhắc lại : chỉ có qua những lời khai anh mới chứng tỏ được lòng trung thành của anh đối với Ðảng. - Huỳnh Ngự ân cần khuyên nhủ - Việc Ðảng tha anh hay giữ anh lâu dài phụ thuộc ở anh, ở thái độ anh thể hiện trong những bản khai nầy đó.
Thì khai.
Tôi viết về Trần Minh Việt những lời nhạt thếch, rằng tôi có gặp anh vài lần ở nhà tôi. Tôi kể con cà con kê chúng tôi nói với nhau chuyện gì (tất nhiên, không phải chuyện đường lối chống Ðảng). Qua lời anh kể tôi mới biết anh đã học ở trường Ðảng cao cấp Liên Xô, nhưng khi bắt đầu có chuyện tranh chấp ý thức hệ trong phong trào cộng sản quốc tế Trần Minh Việt trở về Việt Nam, chứ không ở lại Liên Xô như Nguyễn Minh Cần, Lê Vinh Quốc, Văn Doãn...vv (biết rồi, khổ lắm, nói mãi !).
Thế là xong một bản khai.
Làm việc với Huỳnh Ngự riết rồi tôi đâm ra khoái khai cung. Nó trở thành một trò chơi của đời tù và tôi cho trí tưởng tượng của tôi tha hồ bay bổng. Chẳng hạn, tôi bịa ra những cuộc gặp gỡ không hề có trong thời gian học ở trường điện ảnh với những điệp viên thượng thặng để lấy tài liệu cho những kịch bản phim tình báo tương lai, bốc láo rằng khi thực tập làm phim tài liệu tôi được đi xem những phương tiện chiến tranh Liên Xô mới sản xuất, những máy bay cất cánh từ những xe tải, những tên lửa tự tìm mục tiêu... Tôi cảm ơn Herbert Wells(3) đã giúp tôi trong những sáng tác bất đắc dĩ này. Huỳnh Ngự khoái những chuyện bịa của tôi lắm. Nhưng khi y mon men tới đề tài tôi làm tình báo thì tôi cài số lùi :"Tôi chưa nghe ai nói tới chuyện tuyển mộ tôi cả..."
Cuối cùng rồi cũng đến một ngày Hoàng trịnh trọng đặt lên bàn tập hồ sơ dày cộp.
- Ðây là những gì anh đã khai.
Tôi ngạc nhiên : trời đất quỷ thần ơi, tôi đã viết cho chúng nhiều đến thế kia ư ? Chúng sẽ làm gì với những trang giấy vô tích sự ấy nhỉ ? Thật vậy, chúng sẽ làm được gì ?
Hoàng bảo tôi ký vào mấy tờ giấy. Ký xong, tôi hỏi bằng giọng làm ra vui vẻ :
- Theo tôi hiểu, giai đoạn hỏi cung đến đây là kết thúc, có phải không ạ ? Sau đó là tòa án ?
Hoàng gập tập hồ sơ lại, cười khẩy :
- Anh nghĩ thế nào cũng được. Việc đời, anh Hiên ạ, nó chẳng đơn giản như ta muốn.
- Chết chửa, có nghĩa là đến bây giờ vẫn chưa xong ?
- Xong thế nào được. Chúng tôi còn phải hỏi nữa, chừng nào vụ án chưa kết thúc. Cứ coi là đã qua một giai đoạn, ta tạm sơ kết cái đã. Là một vụ án có nhiều người, nhiều việc, trong sự hỏi cung không tránh khỏi tình trạng người này nói khác người kia, người nọ xong trước người kia. Cũng là chuyện dễ hiểu, phải không ? Việc điều tra chỉ thật sự kết thúc chừng nào cơ quan an ninh làm xong với người cuối cùng. Anh hiểu chứ ?
- Tôi không hiểu. - tôi lạnh lùng - Trong bất kỳ xã hội văn minh nào cũng có những quy định về thời hạn giam giữ trong khi điều tra, tức là chỉ có thể giam người trong một thời hạn nhất định mà thôi...
Hoàng cười mũi :
- Anh có ý muốn nói ở những nước tư sản chứ gì ? Anh cho rằng xã hội ta không văn minh ? Anh tỉnh lại đi, anh Hiên, anh đang ở một nước xã hội chủ nghĩa kia mà. Nghĩa là ở một nước có đảng cộng sản cầm quyền, lấy chuyên chính vô sản làm sợi chỉ hồng xuyên tâm(4) trong sự nghiệp bảo vệ cách mạng. Hoàn toàn không phải là nơi có chế độ đại nghị. Ðó là những khái niệm khác nhau, khác về cơ bản, về chất, mong anh đừng nhầm lẫn.
- Cho dù có áp dụng chuyên chính vô sản thì điều đó, theo tôi nghĩ, cũng không hề có nghĩa Nhà nước vô sản không cần đến pháp luật.
Hoàng cười hi hí.
- Tùy anh. Tôi cho rằng anh nhầm. Nói trắng ra là anh có quan niệm huyễn hoặc về chủ nghĩa cộng sản. Lại là chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản châu Á nữa. Tôi thật lòng không muốn anh phải trả giá cho sự nhầm lẫn đó.
Tôi không hiểu Hoàng. Anh ta xử sự lắm lúc không khác gì một tên cuồng tín, ấy thế mà đôi khi lại tương ra một nốt nhạc ngang phè trong bài ca xưng tụng Ðảng chí tôn mà dân chúng nhất nhất phải thuộc lòng.
Một trong những điều khó hiểu đối với tôi hồi ấy là tại sao, vì lẽ gì những nhà cách mạng Việt Nam thuộc thế hệ cha chú tôi, lúc đó còn đông đúc, lại chịu chấp nhận một mô hình xã hội quỷ quái như vậy ?
Tôi quan niệm trong xã hội xã hội chủ nghĩa Ðảng cộng sản chỉ có thể đóng vai trò lãnh đạo thông qua trung giới là hệ thống pháp luật do nó đề xướng, được nhân dân dân chủ bàn bạc, dân chủ chấp nhận. Khi nói về Nhà nước tư sản chính Mác cũng chỉ ra rằng Nhà nước này bảo vệ quyền tư hữu tài sản, tức là bảo vệ quyền lợi của những tầng lớp hữu sản, thông qua trung giới pháp luật, chứ giai cấp tư sản không trực tiếp quản lý xã hội bằng những biện pháp hành chính. Sự lãnh đạo bằng chỉ thị và nghị quyết của Ðảng cộng sản trong tinh thần đồng nhất Ðảng với pháp luật là một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng. Chính nó, chứ không phải cái gì khác, sẽ phá tan Ðảng.
Không biết tôi đúng hay không đúng, đúng được bao nhiêu, trong ý nghĩ rằng thế hệ cha chú tôi bị sự sùng bái Hồ Chí Minh làm cho mù quáng, tước bỏ nơi họ tinh thần độc lập suy nghĩ. Rất nhiều hậu quả tồi tệ mà một cuộc cách mạng trong sáng về mục đích đem lại cho dân tộc là do sùng bái cá nhân.
Sau Cách mạng Tháng Tám uy tín của ông Hồ Chí Minh vút lên như diều gặp gió. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến uy tín của ông còn lên cao hơn nữa. Ông không phải chỉ là "cha già dân tộc" của Việt Nam, mà còn là đấng chí thánh của phong trào giải phóng dân tộc.
Người ta sẵn sàng chết cho Bác Hồ, đồng hóa Bác với Tổ quốc. Các chiến sĩ xung trận hô lớn "Vì Ðảng, vì Bác, tiến lên !". Những đảng viên trong lễ kết nạp giơ tay tuyên thệ trước chân dung ông đặt trang trọng trên "bàn thờ Tổ quốc" trên nền đảng kỳ. Hiện tượng sùng bái này, nói cho đúng, một thời có tác dụng tốt, nó kích thích quần chúng tham gia kháng chiến chống Pháp. Không có nó cuộc kháng chiến chống Pháp khó lòng đạt được những thành công như nó đã đạt được.
Ðiều đó không lạ. Quần chúng châu Á cần có minh chủ trong mọi cuộc nổi dậy. Không có minh chủ thì không có phong trào là hiện tượng đặc thù và phổ biến của những quốc gia lạc hậu. Nhu cầu vô thức này có cội rễ từ hình thái xã hội bầy đàn, xã hội bộ lạc thời nguyên sơ. Bắt đầu bằng lời phân trần khiêm tốn tại quảng trường Nhà hát lớn thành phố Hà Nội năm 1946 đầy biến động và khó khăn : "Hồ Chí Minh thề không bao giờ bán nước", khi đồng bào còn chưa biết ông là ai, đến lúc uy tín đã được thiết lập, ông liền xưng "Bác" với mọi người rất tự nhiên, kể cả với những người bằng vai phải lứa hoặc không bằng vai phải lứa.
Khởi đầu cách xưng hô này là cách ông xưng với chúng tôi, những đứa con các đồng chí gần gụi ông. Sau đó nó được dùng như một bí danh, rồi mới có ý nghĩa ngôi thứ. Nhà văn Sơn Tùng trong một số văn phẩm đã miêu tả sai, như thể cha tôi và các cán bộ Ðảng gần ông Hồ đều kêu Bác xưng cháu với ông. Sự thực không phải như vậy. Những ngày Cách mạng Tháng Tám các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trần Ðình Long, Bùi Lâm... đều gọi ông Hồ bằng anh xưng tôi.
Từ ngữ ngẫm ra quan trọng lắm. Khi có nhiều người đã cháu cháu bác bác với ông Hồ rồi thì ông tưởng mình là bác thật, những người xưng cháu cũng sẵn sàng khoanh tay vâng dạ bề trên. Thế mới biết một từ dùng không cẩn thận có thể đẻ ra tai họa.
Cách tôn vinh lãnh tụ theo lối gia trưởng tồn tại cả trong hàng ngũ Khmer Ðỏ. Pol Pot, kẻ lãnh đạo cuộc diệt chủng không tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại cũng được đồng bọn gọi là Om (Bác), là Puk (Cha)(5).
Tôi nhiều lần được chứng kiến ông Hồ nói chuyện với quần chúng như thế nào. Trong bộ quần áo kaki giản dị, có khi là bộ áo cánh lụa nâu, ông không có gì cách biệt với những người ông tới thăm họ, thăm với tình thân, chứ không phải tới để thị sát, với tư cách bề trên. Ông có giọng nói ấm áp, hơi trầm, âm lượng không lớn nhưng vang xa, với những lời dễ hiểu đối với quần chúng lao động, người nghe chủ yếu của ông. Ông không phải nhà hùng biện, nhưng tiếng tăm về lòng yêu nước của ông, địa vị chủ tịch nước của ông, cách nói dễ hiểu của ông đối với dân chúng đã làm cho ông trở thành nhà hùng biện kiệt xuất của thời đại, vượt xa những nhà hùng biện tôi đã được nghe như Trần Văn Giàu, Nguyễn Sơn, Dương Bạch Mai... Chỉ có một điều không sao hiểu được, nó làm tôi khó chịu là : khi ông Hồ Chí Minh nói chuyện với dân chúng, trong đám đông cuồng nhiệt hoan hô lãnh tụ có cả những cụ già cao tuổi, thế mà ông vẫn xưng Bác tự nhiên như không. Chẳng lẽ một người nổi tiếng khiêm nhường như ông lại có thể phạm phải một khuyết điểm không tha thứ được đối với chuẩn mực giao tiếp châu Á ?
Chỉ một lần tôi nghe thấy ông Hồ xưng em - đó là với nhà cách mạng lão thành Ðinh Chương Dương. Hôm ấy dân chúng Hà Nội từ biệt ông Hồ trước khi ông lên đường sang Pháp (1946). Trước Bắc bộ phủ là cả một rừng cờ và hoa bên trên biển người xao động, trong tiếng nhạc binh trầm hùng, tiếng hô khẩu hiệu vang trời. Tôi đi cùng bác Ðinh. Bác Ðinh lúc bấy giờ đã yếu lắm, phải tựa vào vai tôi mà bước. Vì đến muộn, chúng tôi chật vật mới len được qua đám đông để vào Bắc bộ phủ. Nhìn thấy bác Ðinh từ xa, bác Hồ lật đật từ trên thềm cao chạy xuống, ân cần đỡ tay ông :" Bác tới thăm em làm chi, khổ quá, bác chưa được khỏe mà". Trả lời câu hỏi thăm của bác Ðinh, bác Hồ(6) ưỡn ngực ra, cười lớn tiếng : "Hồi nầy em khá nhiều rồi, bác ạ".
Ðến bây giờ chẳng còn ai không biết tác giả Trần Dân Tiên của cuốn Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ chủ tịch là chính Hồ Chí Minh. Trong lịch sử thế giới có lẽ đây là lần đầu tiên và duy nhất nhân vật đứng đầu quốc gia tự viết tiểu sử mình với những lời lẽ ca ngợi chính mình. Những lời ca tụng Bác Hồ trong tập ký sự Vừa Ði Ðường Vừa Kể Chuyện ký tên T. Lan, những bài báo ký tên T.L., A.G. và nhiều tên khác nữa cũng chẳng có thể đổ cho người khác được. Ông Hồ tự ca tụng, chuyện đó là thật. Một việc làm thừa, hơn thế, ngớ ngẩn - không cần đến những bài báo ấy uy tín của Hồ Chí Minh chẳng những đã tràn ngập mà còn vượt ra ngoài bờ cõi.
Thể chế tổng tài châu Á có nguồn gốc từ chế độ thị tộc. Vua coi dân như con là quan niệm chỉ có ở châu Á. Châu Âu từ xưa không có cái đó. Châu Mỹ lại càng không. Nói gì vua, một ông phủ, một ông huyện cũng dám vỗ ngực xưng "dân chi phụ mẫu"(7) trong cái lãnh địa nhỏ bé mà họ cai trị kia mà.
Không kể những thiên tài như Leonardo da Vinci, Herbert George Wells(8), trí tưởng tượng của con người ta nông cạn lắm, hạn hẹp lắm - nó không có tài tưởng tượng ra cái chưa hề có. Hình ảnh mà trí tưởng tượng sản sinh ra bao giờ cũng là cái bóng của hiện thực. Nền kiến trúc tư bản, khi xã hội tư bản vừa hình thành, mang dáng dấp lâu đài, cung điện của các chúa đất phong kiến. Những người cộng sản Việt Nam hình dung chế độ xã hội chủ nghĩa qua hình dạng cái quốc gia nửa phong kiến nửa thuộc địa là nước Việt Nam thời thuộc Pháp. Trong sự kế thừa vô thức này xã hội Việt Nam ngày nay có mang nhiều nét trật tự nửa phong kiến nửa thuộc địa âu cũng là lẽ thường tình.
Ðáng trách nhất là những người cộng sản thế hệ đầu tiên, nổi tiếng kiên cường trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, lại không có đủ dũng khí để quát lên : "Không được phép !" khi ban lãnh đạo Ðảng tự tiện đặt mình lên địa vị "dân chi phụ mẫu", cắt xén những quyền dân chủ mà Cách mạng Tháng Tám đã mang lại. Còn sau đó, như theo đà trượt, nền dân chủ thiếu tháng cứ phăng phăng tụt dốc không sao hãm lại được nữa.
Xin quay lại chuyện Hỏa Lò.
Trong buổi "sơ kết" nói trên Hoàng tỏ ra vui vẻ. Anh ta mời tôi uống trà, mời tôi hút thuốc vấn, rồi khúc khích cười như có điều vui thú trong lòng.
- Cơ quan an ninh bày tỏ lòng khâm phục anh. - Hoàng nói, giọng bỡn cợt - Hơn nửa năm làm việc, tốn bao nhiêu thời giờ, cả giấy mực nữa, cũng tốn lắm, vậy mà chúng tôi không biết hơn được điều gì ngoài những điều chúng tôi đã biết rồi.
Tôi nhìn vào mắt Hoàng, nhưng anh ta tránh cái nhìn của tôi, vờ lúi húi soạn giấy má trên bàn. Ðợi cho Hoàng thu dọn xong, tôi nói :
- Cơ quan an ninh có muốn biết câu trả lời của tôi cho nhận xét đó không ?
- Anh cứ nói.
- Trước hết, tôi xin phép được nghi ngờ cái gọi là những điều cơ quan an ninh đã biết rồi. Mặc dầu đối với tôi chuyện các anh biết cái gì rồi không phải chuyện khó hiểu.
Hoàng ngạc nhiên.
- Anh nói rõ thêm đi.
Tôi cười :
- Chúng tôi và các anh có những điểm tương đồng về nghề nghiệp. Những điều được gọi là cơ quan an ninh đã biết rồi, theo tôi nghĩ, thuộc một lĩnh vực mà trong nghề văn chúng tôi người ta đặt tên là hư cấu, nói theo cách dân dã là bịa.
Hoàng ngẩng phắt lên, nhưng trong cái nhìn của anh ta, tôi không thấy có vẻ gì là giận dữ.
- Anh Hiên ạ, tôi thật lòng khuyên anh nên cẩn thận trong lời ăn tiếng nói. Chúng ta đang ở Việt Nam. Tôi thật lòng lo lắng cho anh.
Anh ta gọi quản giáo đưa tôi về.
Tôi đi lững thững trên con đường đã đi không biết bao nhiêu lần. Hoàng nói thế là có ý gì ? Phải chăng anh ta muốn báo cho tôi biết vụ án còn lâu mới kết thúc, và cuộc trấn áp là không khoan nhượng ?
Nghe tiếng mở cửa, Thành nhỏm dậy. Mặt anh nhớn nhác.
- Mấy giờ rồi ?
- Chắc gần 11 giờ.
- Mình ngủ say quá.
Tôi ghé ngồi bên anh, lặng lẽ quan sát.
- Anh nói dối tôi làm gì ?
- Sao cậu lại nói thế ?
- Bởi vì tôi quý anh. Tôi không thích nghe anh nói dối.
Anh nói, vẻ sượng sùng.
- Mình ngủ mà.
Tôi cười :
- Anh không ngủ. Người ngủ say mắt bao giờ cũng kéo những tia đỏ, là một. Anh gối trên bọc quần áo, trên cùng là cái quần, dải rút to thế này thể nào cũng phải hằn trên má anh mà lại không thấy vết hằn đâu, là hai. Ngủ say mà nằm ngiêng như anh thường nằm má bên dưới phải đỏ hơn má trên, là ba. Ðủ chưa ?
Thành cụp mắt xuống.
- Anh cũng bị gọi đi cung chứ gì ?
Thành lẳng lặng gật đầu.
- Và họ hỏi anh về tôi, phải không ?
Thành lại cụp mắt xuống. Tôi thở dài.
- Tôi sẽ không hỏi anh chuyện họ hỏi anh những gì về tôi. Chẳng cần hỏi tôi cũng biết họ hỏi gì. Tôi đã nói thẳng với họ những điều tôi bằng lòng nói. Còn những chuyện gì tôi không muốn nói thì đó là việc của tôi với họ. Họ chẳng có thể kiếm chác được gì hơn ở anh. Vả lại, tôi tin anh.
Thành im lặng.
Tuy vậy, con đỉa nghi ngờ bám chặt, sống dai. Giữa hai người phải mất một thời gian mới có lại được không khí thoải mái trước đây. Không khí nghi kỵ lẫn nhau là không khí mỗi người Việt Nam hít thở. Việc Thành giấu tôi chuyện anh đi cung làm tôi buồn. Tôi lại bị nỗi cô đơn đè nặng.
Nếu như thời gian đầu tiên tôi có ý muốn tự sát thì càng về sau ý chí phải sống sót bằng được càng mạnh mẽ. Tôi phải sống sót để nói lại cho đồng bào tôi nghe về thực chất cái xã hội trong đó con người Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền tự do tối thiểu mà mỗi công dân bình thường của thế giới bình thường phải có.
Kiệt lực qua thập điện khổ đau
Tôi lử lả tiến công vào cái Ác
Trong đêm giữa ban ngày
Vũ khí trong tay
Chỉ một ngọn bút cùn thay lưỡi mác
Tôi ngã xuống trong lốc bụi chiến trường,
Phút hấp hối còn mang mang nghe tiếng nhạc.
Thì ra máu của tim mình
nhỏ xuống đất cằn
Và đất lên giọng hát
Bài hát của niềm tin
Từ trái tim tôi rách nát.
Tôi nằm dài, nghĩ vẩn vơ, đầu trống rỗng. Tôi viết mấy vần tự sự này tại địa ngục Hỏa Lò, mùa hè năm 1968. Tôi làm thơ lăng nhăng, khi buồn. Mỗi bài thơ ghi lại một nỗi niềm, một mẩu ký ức.
Những ngày sau đó tôi và Thành ít nói chuyện với nhau hơn. Có một cục sạn rơi vào trong mối quan hệ thân tình giữa hai con người đau khổ.
Rồi trong một đêm không ngủ được Thành kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện anh buộc phải nhận lời công an để theo dõi tôi như thế nào. Anh kể khó nhọc, giọng đứt quãng, với vẻ mặt đau khổ.
Câu chuyện nhạt phèo, không đáng kể lại. Không phải chỉ ở Việt Nam mới có chuyện này, ở đâu cũng vậy, dù ở nước Mỹ tư bản, nước Ðức phát-xít hay ở Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, để trả công cho việc làm chỉ điểm người ta tung ra vô số lời hứa, cái nào cũng hấp dẫn đối với người tù thiếu thốn đủ thứ. Anh sẽ được nhận thư vợ nhiều hơn, được nhận tiếp tế nhiều hơn, thường xuyên hơn. Người ta còn hứa sẽ giảm án cho anh nếu anh lập công lớn. Tuy nhiên, để người đảng viên trước kia trong Thành khỏi tủi, người ta kêu gọi anh hãy nhớ tới trách nhiệm trước Ðảng, cố gắng lập công dâng Ðảng.
- Tôi xấu hổ phải nghe những lời dụ dỗ ấy. - Thành ngậm ngùi - Nhưng chẳng có cách nào khác...
Tôi an ủi anh :
- Tôi hiểu. ê địa vị anh tôi cũng không làm khác được.
- Cậu hiểu cho tôi thì tôi mừng.
Anh rơm rớm nước mắt.
Chúng tôi có những vị thế khác nhau, cách người ta đối xử với chúng tôi cũng khác nhau. Với tôi, chắc chắn bọn Huỳnh Ngự không dám đặt vấn đề như thế, cho dù chúng rất muốn.
Trời dịu dần hay là tôi đã thích nghi với cái nóng Hỏa Lò không rõ, nhưng tôi không còn thấy khó chịu đựng như trước.
Những buổi đi cung thưa dần rồi tạnh hẳn, cứ như thể không có một vụ án nào hết, mà chỉ có một hình phạt. Theo ý thích của ông chủ.
(1) Thứ quạt chế tạo tại Liên Xô, cánh bằng cao su, không có lồng sắt bên ngoài.
(2) Chỉ thiếu tướng Ðặng Kim Giang. Khi Huỳnh Ngự gọi thằng Giang là nói Ðặng Kim Giang, còn Nguyễn Kiến Giang thì y gọi là thằng Kiến Giang.
(3) Herbert George Wells (1866-1946), nhà viết truyện viễn tưởng lỗi lạc, tác giả của những cuốn Máy Thời Gian, Cuộc Chiến Tranh Giữa Hai Thế Giới, Người Tàng Hình...vv
(4) Cái tập hợp từ ngớ ngẩn này có xuất xứ từ Trung Quốc, trở thành câu cửa miệng ở các cán bộ tuyên giáo.
(5) Pol Pot, còn có tên là Saloth Sar, nhà lãnh đạo cộng sản Kampuchea. Sau chiến thắng của phe Khmer Ðỏ tại Kampuchea năm 1975 trở thành thủ tướng. Dưới quyền Pol Pot 3 triệu người Kampuchea đã bị hành quyết và chết vì bệnh tật, đói khổ.
(6) Tôi vẫn dùng từ bác Hồ (không viết hoa) trong đoạn kể này vì vào những năm đó tôi không có tình cảm nào khác với ông Hồ Chí Minh ngoài tình cảm yêu mến và tôn kính.
(7) Cha mẹ dân.
(8) Leonardo da Vinci : nhà khoa học, nghệ sĩ vĩ đại trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật thời đại ông (1452-1519). Hai chục năm trước khi Christopher Colombus "tìm ra" châu Mỹ trong cuộc viễn thám bằng tàu buồm, Vinci đã phác họa nguyên lý tàu ngầm. Herbert George Wells (1866-1946), nhà văn, triết gia chính trị, tác giả nhiều truyện viễn tưởng : Máy Thời Gian, Chiến Tranh Hai Thế Giới, Người Tàng Hình...
Tôi mơ hồ cảm thấy thời gian ở Hỏa Lò đã kết thúc.
Có những dấu hiệu không rõ rệt của một sự thay đổi, không rõ là cái gì nhưng đúng là thay đổi, trong động thái của đám cán bộ chấp pháp, mà đám này thì bao giờ cũng vậy - kín như bưng. Chẳng hạn, trong những lần hỏi cung thưa thớt vào thời gian cuối tôi chỉ gặp toàn nhân viên cấp dưới của Huỳnh Ngự, thoạt trông cũng biết là mới vào nghề, hoặc được chuyển từ quân đội qua. Những người này nhìn tôi như những bác sĩ tập sự nhìn con thỏ trong phòng thí nghiệm, không tình cảm mà cũng chẳng hằn thù.
Huỳnh Ngự và Hoàng biến đi đâu không biết. Khi đưa tôi đi cung, những biện pháp bảo mật không còn được tuân thủ nghiêm ngặt như trước, thậm chí chểnh mảng. Cán bộ quản giáo có lần gặp bạn giữa đường dừng lại nói chuyện bỏ mặc tôi tự đi một quãng xa mà không cần áp sát từng bước. Rõ ràng họ không còn lo tôi chạm trán với người cùng vụ. Nói chung, đó là sự lỏng lẻo. Ðiều này chỉ có thể giải thích bằng việc những tên xét lại hiện đại không còn ở Hỏa Lò nữa.
- Có thể người ta bắt đầu từ từ giải quyết vụ cậu chăng ?
Thành đưa ra một giả thuyết.
Bầu không khí nghi kỵ đã nhạt. Thành thuyết phục được tôi rằng anh không bao giờ làm chỉ điểm.
- Cũng không loại trừ khả năng đó. - tôi nói - Chúng tôi có tội gì đâu.
- Vấn đề không phải ở chỗ các cậu có tội hay không có tội. - Thành cười mũi - Vấn đề bây giờ là thả các cậu ra bằng cách nào ?
Tôi thấy anh tỉnh táo. Ít nhất cũng hơn tôi.
- Nhưng nếu thả, tôi nghĩ người ta sẽ thả tôi trước, chứ không phải thả những cán bộ to trước.
Thành gật gù :
- Có lý !
Nói thì nói thế chứ tôi cũng chẳng chờ đợi. Tôi lì ra rồi. Tôi chờ bất cứ cái gì khác, trừ lòng tốt của Ðảng.
Rồi đến một hôm, tôi đang nằm thì nghe có tiếng động khẽ ở le judas. Nhòm ra thì thấy Hoàng. Nhìn thấy anh ta, tim tôi đập rộn. Chưa bao giờ tôi thấy cán bộ chấp pháp vào xà lim. Chắc có chuyện gì quan trọng.
Trong óc tôi thoáng nhanh ý nghĩ về một chuyện không may. Hay là cha tôi...? í nghĩ ấy làm tôi bủn nhủn chân tay.
Nhìn quanh, Hoàng lấy ngón tay trỏ ngoắc ngoắc tôi rồi ngập ngừng thì thào :
- Tôi đến để từ biệt anh...
Vừa nói Hoàng vừa đưa mắt về phía Thành. Thành đang ngủ say hoặc giả vờ ngủ say. Tôi ra hiệu không có gì đáng ngại.
- Anh đi công tác ?
- Không, tôi vẫn ở Hà Nội... - Hoàng ngập ngừng - Nhưng tôi không được làm việc với anh nữa.
- Tức là... ?
- Nói cho rõ hơn : người ta không cho tôi làm việc với anh nữa.
- Họ cho rằng anh không được việc ?
- Ðại khái là như vậy.
- Tôi muốn bắt tay anh, nhưng ô cửa hẹp quá.
- Tôi mang đến biếu anh chút quà.
Hoàng móc mọi túi, lấy ra bốn bao Ðiện Biên.
- Cảm ơn anh, nhưng dạo này tôi quen không hút rồi, không có thuốc không sao.
- Anh đừng nghĩ đây là caisse noire(1) của Công an. - mặt thoáng buồn, Hoàng nói -Không phải đâu. Ðây là tiền của tôi.
- Thế thì xin cảm ơn anh. Tôi nghĩ không sai về anh. Cho tôi gửi lời thăm chị và các cháu.
Hoàng đút từng bao thuốc qua khe cửa.
- Cảm ơn anh. Hi vọng chúng ta sẽ còn gặp lại nhau.
Tôi giơ mấy ngón tay vẫy Hoàng :
- Tôi tin như vậy.
Tỉnh dậy, Thành không hỏi tôi một câu về mấy bao thuốc lá. Chúng tôi lẳng lặng đốt mỗi người một điếu, nhàn tản nằm nhả khói lên trần.
- Tôi thấy cái chuyện tha không có đâu. Ba la phiêu lắm. - tôi nói - Có một cái gì khác kia. Tôi thấy nóng ruột.
- Cậu nghĩ là cái gì ?
- Cũng không rõ. Có thể là chuyển trại.
Thành nhăn trán, suy nghĩ. Rồi nhỏm dậy :
- Có thể lắm. Trong tù, trực giác, hay linh tính, rất quan trọng. Nếu cậu linh cảm thấy sắp phải đi khỏi đây thì ta cứ sẵn sàng là hơn.
- Có gì mà chuẩn bị ? - tôi thờ ơ - Ði đâu bây giờ với tôi cũng thế mà thôi. Chỉ tiếc anh em mình không được ở cùng nhau nữa.
- Chưa chắc gì cậu sẽ được ở trại chung. - Nhiều phần vẫn là ở xà lim. Tôi sẽ cho cậu con dao mang đi. Trong xà lim con dao là vật thiết yếu, không có nó không được.
- Cho tôi rồi anh lấy gì dùng ?
- Tôi còn một con nữa. Tôi rồi, nhưng chưa mài.
- Trại giam bình thường cũng có xà lim chứ ?
- Sao không. Có điều xà lim trại chung dùng để cùm tù kỷ luật, chứ không phải xà lim giam cứu. Nhưng nghe nói có trại chỉ toàn xà lim giam cứu không thôi, không có khu ở chung. Lại còn có trại toàn xà lim bí mật, không biết giam thứ tù này mà khi kẻng đưa cơm nổi lên thì cả tù lẫn người đưa cơm đều phải trùm túi vải đen lên đầu, chỉ hở có hai con mắt, không ai được nhìn thấy ai, không ai được biết ai. Quản giáo không được phép nói với tù, tù không được phép nói với quản giáo. Muốn nói gì phải viết ra giấy.
Chắc chúng tôi ở trại đó quá. Rõ ràng người ta muốn giấu chúng tôi, không cho biết chúng tôi ở đâu, đến nỗi gia đình cũng không được gặp. Cái chuyện này thật lạ. Cứ như thể không còn một chính quyền nữa, mà một sơn trại, trong đó Lê Duẩn là đầu lĩnh.
Nói cho tôi biết về cái trại hũ nút đó hẳn Thành cũng nghĩ thế. Tính chu đáo, anh chuẩn bị tư tưởng cho tôi để tôi khỏi bị đột ngột.
Sau này, khi đã qua mấy trại, rốt cuộc tôi cũng chưa tới cái trại mà Thành nói. Chắc nó là cái trại huyền thoại, chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng phong phú của những người tù giàu sợ hãi. Biết đâu cái trại Thành nói lại chả có thật. Mọi sự đều có thể trên đất nước mà từ việc nhỏ tới việc lớn đều không công khai. Tính bí mật, tính âm mưu là đặc điểm của mọi nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thành mổ một chỗ kín đáo trong áo bông của tôi, luồn con dao vào đó.
Bóp đi bóp lại cái áo bông vài lần, Thành hài lòng :
- Thế này chúng nó không khám ra đâu.
Giờ đây anh không còn giữ gìn với tôi nữa. Cách gọi chúng nó tạo ra cảm giác ngang hàng giả tạo giữa chúng tôi và bọn cai ngục.
Thành tỉ mẩn xẻ thức ăn gia đình gửi vào làm hai phần bằng nhau, cho từng thứ vào bao nylon lành, thắt nút thật chặt để tránh ẩm, một nửa để trong bọc quần áo của tôi, nửa còn lại để trong bọc quần áo của anh. Anh dặn tôi đi đâu cũng phải cẩn thận trước hết với chuột và kiến, hai kẻ thù thường trực của người tù nghèo khổ.
- Thế là tạm ổn.
Hoàn tất việc chuẩn bị cho tôi, anh nói. Vẻ hài lòng hiện lên mặt.
Giờ thì bất thình lình tôi có bị đưa đi nơi khác cũng không còn là chuyện đáng ngại.
Của cải người tù xà lim có một giá trị trong đời thường không được biết đến, không thể tưởng tượng ra. Một mảnh giẻ, một cái đinh rỉ, một cái túi nylon thủng cũng là quý. Không phải người ta dễ dàng chia xẻ cho nhau. Thế mà Thành không tiếc tôi một chút gì.
Lòng tôi nao nao nghĩ tới ngày phải xa Thành. Anh tốt với tôi chẳng khác nào người anh lo cho đứa em. Cầu Trời cho hai anh em không phải xa nhau cho tới khi cả hai cùng thoát khỏi chốn này ! Than ôi, đó là điều không thể có, bởi vì chúng tôi không cùng vụ, chúng tôi sẽ ra khỏi đây, nếu chúng tôi còn sống để ra được, vào những thời điểm khác nhau.
Sau hơn nửa năm chung sống, từ chỗ nghi ngờ nhau tới chỗ tin nhau, Thành đã hiểu tôi. Không những thế, anh còn giống tôi ở cách nhìn xã hội hiện tại. Nếu chúng tôi quen nhau ở ngoài kia chắc chắn Thành phải là một người trong "nhóm xét lại chống Ðảng". Không cần ai tuyên truyền anh tư tưởng xét lại, mà tự anh sẽ xét lại cả anh, xét lại cả Ðảng, cả chủ nghĩa Mác mà một thời anh tin theo. Anh nhìn đời bằng cặp mắt tỉnh táo. Trong anh không có chỗ cho niềm tin mù quáng. Thực ra, trong tâm thức anh đã hết là cộng sản từ lâu. Anh còn xét lại hơn tôi nhiều.
Thành có tư cách đáng trọng. Vẻ ngoài hiền lành, nhưng anh thuộc loại người không chịu khom lưng uốn gối. Cung cách ứng xử làm tôi hiểu lầm anh những ngày đầu sống trong xà lim, tưởng anh khiếp nhược trước bọn quản giáo, thực ra chỉ là trò tiêu khiển của anh. Anh muốn kiểm tra khả năng tự kiềm chế, anh huấn luyện nó, và cũng là cách để giết thời gian.
Hách không phải không đọc được ý nghĩ của anh. Một lần thấy anh khúm núm vâng dạ, y nguýt dài :"Này, dẹp cái trò ấy đi nhá. Tôi biết thừa các anh là thế nào, trong bụng các anh ấy à, các anh coi tôi bằng mẻ. Ai chả biết ở ngoài kia các anh hơn tôi, nhưng đây là Hỏa Lò, là trại cải tạo, ở đây tôi hơn đứt các anh".
Trong mấy ngày chờ đợi cuộc chia tay mà trực giác mách bảo, Thành ít nói hẳn. Anh ngồi bó gối, trong tư thế lần đầu tôi gặp anh, đắm mình trong suy tưởng. Thỉnh thoảng, chợt nhớ ra điều cần dặn tôi, anh mới rũ mình khỏi giấc mơ.
- Nhớ phải tập luyện tay chân luôn, kẻo ở lâu trong xà lim bị teo cơ đấy.
- Khi đi cung, trên đường gặp cái gì dùng được là phải nhặt, có lúc sẽ cần đến. - anh dặn thêm, vào một hôm khác.
- Mưu ma chước quỷ nhiều nhất là ở trong tù. Nhớ cho kỹ điều này. Lúc nào cũng phải cảnh giác. Bạn ở trong tù là của hiếm, hiếm lắm. Cần nhất đừng có hấp tấp. Không nên tâm sự với ai. Nghĩ thật kỹ rồi hãy nói, suy tính thật lung rồi hãy làm.
Mặc dầu có chuẩn bị, cuộc chia tay với Thành diễn ra vào lúc tôi không ngờ nhất.
Cửa xà lim mở ra trước giờ ăn sáng. Người bước vào không phải là quản giáo, mà là một chấp pháp tôi đã gặp nhiều lần.
- Anh thu xếp đồ đoàn.
Y nói nhẹ nhàng. Ðó là một người tầm thước, mặt tròn, hiền lành, cử chỉ chậm rãi và điềm đạm, hẳn do số phận trớ trêu mới rơi vào đám chấp pháp.
Thành sững sờ. Ðột nhiên, anh ôm choàng lấy tôi. Tôi cũng ôm cứng lấy anh, nước mắt ứa ra.
- Chân cứng đá mềm nhá ! - Thành nghẹn ngào - Vững vàng nhá !
Viên chấp pháp không can thiệp vào cuộc chia tay của chúng tôi. Anh ta ngạc nhiên, thậm chí có vẻ hơi xúc động, nhưng giả bộ nhìn đi chỗ khác.
Tôi rời xà lim 1, lòng nặng chĩu.
Hôm ấy là 27 tháng 7 năm 1968. Thế là tôi ở Hỏa Lò đã được bảy tháng. Sáng tinh mơ, vừa tỉnh giấc Thành còn bảo tôi : "Mình hôm nay phải ăn vận tử tế. Lỡ có phái đoàn nào đến úy lạo chăng ?".
"Ai đến ? Mà úy lạo cái gì ?", tôi hỏi. Thành cười hì hì :"Ngày thương binh liệt sĩ mà ! Mình cũng là thương binh".
Trong một phòng hỏi cung Lê Thanh Tài đã đợi tôi. Y ngồi chễm chệ trong chiếc ghế bành bọc vải dày đã sờn, lò so lòi ra ở vài chỗ, hai chân bắt chéo.
Nhân vật này không lạ. Tôi đã gặp y vài lần tại phòng hỏi cung. Tôi đoán y cũng đang hỏi cung ai đó, biết Huỳnh Ngự đang hỏi tôi về người mà y đang hỏi thì y đến nghe. Cao to, hùng hổ, cử chỉ phóng đãng, nói năng thô lỗ - tất cả chứng tỏ y có nguồn gốc gần cống rãnh hơn sách vở. Tôi biết tên y do Hoàng một hôm hỏi tôi xem có phải bữa trước tôi làm việc với ông Lê Thanh Tài không.
- Có một người ngồi nghe bên cạnh chấp pháp Ngự, tôi không được giới thiệu. Ông ta là ai vậy ?
- Anh biết làm gì ? Cũng đại loại như ông Ngự.
Như vậy, y cũng là cục phó.
- Ðâu ra những thứ này ? - Lê Thanh Tài trịch thượng hỏi.
Ðó là một gói bánh quy, một gói bánh xốp, một ít ruốc thịt, mấy cái kẹo và ba bao Ðiện Biên. Tôi lo lắng cho Hoàng. Nếu theo dõi Thành, chúng sẽ biết vợ anh chỉ gửi Tam Ðảo(2), chúng sẽ cật vấn về ba bao Ðiện Biên kia.
- Người tù ở cùng cho tôi.
Y gườm gườm nhìn tôi.
- Giỏi, giỏi, chuẩn bị sẵn cả.
Tôi nhún vai.
- Sao anh biết anh sẽ chuyển đi nơi khác ? Ai cho anh biết ?
Tôi không trả lời. Lê Thanh Tài nhắc lại, giọng giận dữ. "Thằng khốn kiếp này không quen thấy có người không sợ nó", tôi nghĩ.
- Tôi hỏi, anh phải trả lời ! Ai cho anh biết ?
- Chẳng ai cho tôi biết gì hết.
- Những thứ này ở đâu ra ?
- Anh bạn tù cho tôi. Quà của gia đình anh ấy. - tôi điềm tĩnh trả lời - Anh ấy xẻ ra cho mỗi người một phần. Ai hết sớm thì nhịn.
Y rời mắt khỏi đám đồ.
- Nó tốt với anh gớm, hả ? Anh Quỳnh, xem lại thái độ chính trị thằng đó nghe.
- Dạ.
Viên chấp pháp ném trở lại các thứ vừa khám vào túi vải, cũng Thành khâu cho tôi.
Cuộc khám xét kết thúc ở đó. Lê Thanh Tài phẩy tay cho qua. Chất chuyên chính vô sản ở viên cục phó này xem ra còn ghê gớm hơn ở Huỳnh Ngự một bậc. Chỉ vì cho bạn tù mấy cái bánh mà người cho đã bị coi là có thái độ chính trị xấu.
- Các anh đưa tôi đi đâu ? - tôi hỏi Lê Thanh Tài.
Y lừ mắt. Tôi nhắc lại.
- Không được hỏi. Ði đâu rồi khắc biết.
Ðể củng cố cho câu nói, y hất hàm ra hiệu cho một tên Công an trẻ, vận thường phục. Tên này đưa còng tay ra. Một tiếng cách gọn, cái khóa đã ngậm chặt cổ tay tôi. Nó đã cũ lắm, đầy vết sứt sẹo và han rỉ, nhưng hàng chữ khắc chìm Fabriqué en France(3) vẫn còn đọc được.
Chiếc com-măng-ca vọt ra khỏi cổng Hỏa Lò. Ðã quen với không khí vắng lặng của xà lim, tôi bàng hoàng rơi vào cái ồn ào kinh khủng của Hà Nội đời thường. Nhất là khi xe chạy qua chợ Cửa Nam. Chao ôi, tưởng chừng cả Hà Nội mà tôi biết bỗng dưng chìm ngập trong một nghìn thứ tiếng ồn đinh tai nhức óc. Tôi đi chợ Cửa Nam nhiều lần, chưa bao giờ tôi thấy nó đông đúc đến thế, ồn ào đến thế !
Thành phố hiện ra trước mắt tôi cũng lạ, như thể nó già hẳn đi bởi những bức tường mốc thếch đã bợt hết vôi.
Qua chợ Cửa Nam, xe rẽ vào đường Nguyễn Thái Học.
Tôi ngoái nhìn ngôi nhà số 65 quen thuộc ngay đầu đường. Tưởng chừng nghe thấy cả tiếng dương cầm bay ra từ căn phòng trên gác của Ðỗ Nhuận. Tôi muốn được thấy Nguyễn Sáng đứng trên ban công nhìn xuống như anh thường đứng, dáng mệt mỏi khi rời giá vẽ. Cửa ra ban công khép chặt. Chẳng lẽ Nguyễn Sáng còn ngủ ? Giờ này, theo lệ thường, bữa sáng ở cà phê Lâm đã xong rồi, Nguyễn Sáng đã về nhà rồi. Hay anh đi đâu vắng ? Khi xe đi qua hẳn, tôi chợt thấy Văn Giáo lộc ngộc dắt xe đạp ra cổng, chiếc mũ lá trên đầu. Theo sau anh là Nguyễn Tư Nghiêm ưu tư không cần biết đến thế giới.
Một ngọn triều hồi ức tràn ngập tâm hồn tôi. Không hiểu Nguyễn Sáng đã lấy vợ chưa ? Ðường vợ con anh vất vả, chỉ có đường sáng tác là nhẹ nhàng - dưới cây cọ của anh những bức tranh hình thành như nó có sẵn, chỉ cần anh lên tiếng gọi là nó nằm lên mặt vải. Khác hẳn Nguyễn Sáng, Văn Giáo vẽ tranh vất vả, bằng cơ bắp và mồ hôi.
Nhớ một đêm rừng Việt Bắc Văn Giáo lòng khòng bưng đĩa đèn soi cho khán giả xem tranh mình. Dầu cọ sôi lên trong đĩa, rớt xuống tay, làm anh bị bỏng, nhưng Văn Giáo không để rơi cái đĩa. Tranh Văn Giáo không được đồng nghiệp đánh giá cao, nhưng trong các cuộc triển lãm tôi thường gặp tranh anh. Chúng bao giờ cũng phản ảnh kịp thời những phong trào do Ðảng đề ra.
Lão họa sĩ Nguyễn Phan Chánh(4) giờ này hẳn đang uống trà. Sau một lần trót dại trao thân gửi phận cho hiện thực xã hội chủ nghĩa vào đầu những năm 60, cụ quyết định trở lại với mình, với thời Ô ăn quan của một Nguyễn Phan Chánh đích thực. Tôi xin phép cụ cho in tranh trên báo ảnh. Cụ tiếp tôi thân ái nhưng tranh thì không đưa :"Gần đây chẳng có bức nào là tôi cả, cứ như có thằng nào vẽ rồi ký tên mình vậy. Ðể khi khác !".
Người của thế giới nội tâm, Nguyễn Tư Nghiêm sáng tác không thèm nhìn nhõm đến sự tồn tại của những nhà phê bình hội họa quan phương, những chuyên viên mua tranh của SUNHASABA(5), như thể không có họ trên đời. Bức tranh "Kiều tắm đêm" của Nguyễn Tư Nghiêm được Nguyễn Tuân khoái đến nỗi xem xong ông phải đạp xe khắp Hà Nội để tri hô cho thiên hạ đến mà chiêm ngưỡng. Nhưng chẳng mấy ai được chiêm ngưỡng - Nguyễn Tư Nghiêm không thích tiếp khách. Anh vẽ tranh không để khoe, không để bán, anh tạo ra cái Ðẹp chỉ cốt được sống một mình với nó.
Tôi có một kỷ niệm khó quên với Nguyễn Sáng. Một hôm anh tìm tôi từ sáng sớm, đứng dưới đường gọi vọng lên :"Lại nhà mình ăn cuốn". Tôi biết Nguyễn Sáng cần gì - anh đang lên cơn cô đơn. Những lúc như vậy anh cần có một người ở bên, bất kể người đó là ai. Buổi sáng hôm ấy tôi là kẻ được chọn, hoặc anh không tóm được ai khác.
Món anh rủ tôi đến ăn hóa ra là món cuốn mạo danh. Chúng tôi ngồi bên con nghê sứ mất trán không biết Nguyễn Sáng nhặt được ở đâu. Anh hào phóng rót rượu. Rượu còn cả vò. Trời đất, cuốn gì thế này ? Không rau thơm, không tôm, không thịt ba chỉ, độc có bún suông cuộn trong rau diếp. Nguyễn Sáng luôn miệng khoe tài pha nước chấm :"Mình mà pha nước chấm thì khỏi chê đi, khó tính đến như Nguyễn Tuân cũng phải ưng". Chừng thấy tôi không hào hứng hơn, anh rủ tôi bỏ cuốn đấy đi kiếm con gà. "Mình còn nhiều gạo lắm, ta mang đổi. Gà luộc, nhắm rượu là nhất rồi !", anh dỗ dành.
Trong hũ gạo của anh, chính là con nghê sứ bị vỡ đầu với nụ cười ngây độn, đúng là còn đầy ắp. Nguyễn Sáng ăn ngày một bữa ở cà-phê Lâm - hai lát bánh mì chấm trứng ốp-la và một cà phê đen, thế là đủ. Ăn ký sổ, trả bằng tranh. Gạo tiêu chuẩn vì thế mà thừa.
Chúng tôi vớ được một bà nhà quê có bu gà đứng ngơ ngẩn bên bức tường có hàng chữ "Cấm đái bậy" to đùng ngay dưới khẩu hiệu "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Nguyễn Sáng bỗng luống cuống, bỗng ì ra, không dám tới gần bà ta. "Này, cậu đổi đi". "Mình đã đi đổi gà lần nào đâu", tôi thoái thác. Mặc kệ, Nguyễn Sáng cứ dúi bọc gạo vào tay tôi :"Nhà báo mua bán là phải hơn họa sĩ. Không được cãi. A lê, đổi".
Người đàn bà bán gà nhìn thấy chúng tôi đùn đẩy cho nhau, cười toe toét :"Lại đây, các cậu lại đây tôi đổi cho". Tôi chìa bọc gạo. Bà ta nhìn tôi thông cảm, ao gạo xong, tóm cổ một con gà tơ lôi tuột nó lên đưa cho "hai cậu". Cuộc đổi chác thành công, không có bóng công an phòng thuế nào xuất hiện để cản trở. "Hai cậu" ồn ào ra về, lòng phấn chấn.
Con gà ngon, vừa đủ mềm, vừa đủ dai, nói chung là tuyệt. Ngà ngà say Nguyễn Sáng kể cho tôi nghe chuyện tình của anh. Ðó là câu chuyện buồn, nhưng nó lý giải được cái đẹp tôi bắt gặp trong mấy bức tranh mới đây của anh. Anh yêu say đắm một cô gái có đôi mắt đen cách xa nhau, rất lạ, làm cho sắc đẹp của cô trở thành hoang dã. Bố cô gái không bằng lòng ."Tưởng nó định lấy ai, hóa ra thằng Sáng cánh ta !", ông nói với bè bạn, cố ý cho con gái nghe thấy. Cô đau lòng rời xa anh. Trời cho anh tình yêu đối với cái Ðẹp, nhưng bớt lại của anh tình yêu đối với một người.
Chiếc com-măng-ca phóng nhanh về phía Sơn Tây.
(1) Caisse noire = quỹ đen, tiếng Pháp.
(2) Tam Ðảo là loại thuốc lá rẻ hơn thuốc lá Ðiện Biên, rất phổ cập trong thời kỳ ấy. Thuốc sang nhất là thuốc Thăng Long.
(3) Chế tạo tại Pháp .
(4) Nguyễn Phan Chánh (1892- ), tốt nghiệp Trường cao dẳng mỹ thuật Hà Nội khóa đầu tiên năm 1931. Nổi tiếng về tranh lụa.
(5) Công ty xuất nhập khẩu sách báo, người đặt hàng và mua tranh nhiều nhất, theo giá nhà nước.
Nơi tôi bị đưa tới là một trại giam quân đội. Bề ngoài nó giống hệt một trại lính. Giống đến nỗi khi chiếc GAZ(1) từ từ leo lên dốc để qua cái cổng chào với hai vòng quân hiệu hai bên tôi còn nghĩ : hay người ta đưa chúng tôi đến đây để giáo dục rồi thả ?
Những nạn nhân Cải cách ruộng đất kể lại rằng sau thời gian chịu cảnh đấu tố và giam cầm, cho tới ngày Ðảng tuyên bố sửa sai rồi họ vẫn chưa được về nhà ngay, mà còn bị gom lại một chỗ để học tập chính sách cái đã. Hay chuyện xảy ra trong Cải cách ruộng đất bây giờ lại lặp lại ?
Tôi nhanh chóng xác định được vị trí trại giam : nó nằm trong vùng bán sơn địa khô cằn với rất nhiều đồi sắn, nương khoai ở phía Nam huyện Bất Bạt. Ðầu thập niên 60 tôi đã tới vùng này vài lần. Ðất ở đây bạc màu vèo vèo, nhanh như cam tẩu mã, bởi sự trục lợi hối hả của dân chúng ít học dưới sự dắt dẫn của những nhà lãnh đạo khinh học. Thưa thớt giữa thiên nhiên cằn cỗi mấy con đường đất đỏ bị cả Trời lẫn người bỏ quên nằm vắt vẻo qua những đồi trọc khô khốc, nơi có những mỏ đá ong khổng lồ. Những vồng bụi đỏ cuồn cuộn bốc lên đàng sau những xe tải họa hoằn, mãi không chịu lắng xuống.
Lê Thanh Tài sai lính tháo còng cho tôi rồi hối hả đi đâu đó, bỏ mặc tôi cả tiếng đồng hồ trong phòng thường trực trống rỗng. Trên cái bàn gỗ mộc bụi bặm và mốc thếch lăn lóc mấy tờ Quân đội Nhân dân nhàu nát. Tôi vồ lấy chúng, đọc ngấu nghiến để rồi ngồi thừ ra, thất vọng - tin tức trong báo chẳng nói với tôi điều gì mới.
Thời gian không đứng về phía chúng tôi. Những tờ báo giống y như những tờ này tôi đọc hàng ngày, một năm trước. Chúng sẽ giống y như thế một năm sau, hoặc nhiều năm sau. Thế giới đã mắc bệnh bại liệt.
Tôi lơ đãng nhìn ra sân trại. Ngoài mấy người lính quân phục xộc xệch, áo phanh rộng ngoài quần, lê bước uể oải trong nắng trưa rực lửa, chồng tranh nứa nặng chĩu trên đầu, quanh đây chẳng còn bóng ai khác.
Sau những ngày dằng dặc ở xà lim Hỏa Lò việc chuyển trại làm tôi khấp khởi mừng thầm. Thế là xong, tôi nghĩ, cuối cùng rồi cái sự điên khùng này đã kết thúc. Tôi sẽ được gặp cha tôi và những người cùng vụ.
Viên y sĩ công an trông nom sức khoẻ chúng tôi ở Hỏa Lò xuất hiện, vẫy tôi theo y.
Bước ra khỏi căn phòng, tôi rơi tõm vào biển lửa của nắng trưa. Tháng bảy thường là tháng nóng nhất trong năm, ở vùng bán sơn địa cái nóng còn được nhân lên thêm vài lần nữa.
Tôi thở hồng hộc. Tôi yếu quá rồi. Mà có mang vác gì nặng cho cam. Tòn ten mỗn hai bộ quần áo với cái chăn len vợ mới được phép gửi vào cho những mùa đông sau này (ai biết được sẽ còn bao nhiêu mùa đông nữa). Thế mà mệt.
Chúng tôi bước thấp bước cao theo một lối mòn lổn nhổn sỏi đá nằm men bức tường gạch chạy dài không dứt trong lau sậy um tùm. Bức tường không thẳng, nó uốn khúc nhấp nhô theo địa mạo triền đồi. Tới một cánh cổng bằng sắt tấm hoen rỉ, tên y sĩ mở khóa, dẫn tôi vào một cái sân nhỏ khô cong, không có lấy một ngọn cỏ. Bên trong cái sân này là một ngôi nhà bé xíu, kiểu nhà ở bình thường với kích thước mini.
Cửa vào được mở ra.
Thì ra vẫn nó, vẫn là xà lim.
Tôi nhầm trại giam với trại lính là phải - từ ngoài đường, chỗ cổng doanh trại nhìn vào không thể thấy được khu vực này(2). Hi vọng được ở chung với các bạn đồng vụ tắt ngấm.
Thế mới biết cái sự giáo dục của Ðảng ăn sâu thật ! Vừa mới thấy cái cổng trại lính tôi đã nghĩ ngay đến chuyện được Ðảng cho về với vợ con. Tội nghiệp, tôi bao giờ cũng nghĩ về Ðảng tốt hơn nó có trong thực tế.
Xà lim mới làm tôi nhớ đến trai phòng các tu sĩ dòng Châu Sơn. Cũng chiếc giường gỗ mộc nằm trơ bên trong bốn bức tường trần trụi, cũng cái trần thấp cuốn thành vòm, chứ không phải trần tứ giác phẳng như ở Hỏa Lò. Chỉ thiếu một thập giá bằng gỗ mun lạnh lẽo trên mảng tường hậu và một tu sĩ khổ hạnh xác ve với chiếc thừng đay thay thắt lưng. Tôi đã tới Nho Quan, Ninh Bình vào đầu năm 1947, nơi có những kho muối lớn dự trữ cho cuộc kháng chiến của Công ty Nam Tiến(3). Không xa những kho muối này, nằm kín đáo trong một khu rừng ẩm ướt, là tu viện của những tu sĩ có lời nguyền câm nín. Quấn mình trong tấm áo choàng đen khâu tay, bạc phếch và rách rưới, những tu sĩ tiếp tôi bằng nụ cười mơ hồ trên gương mặt bất động. Như những cái bóng, họ lặng lẽ đi lại thấp thoáng trong u tịch rừng già. Ðêm đêm họ ngồi xếp bằng tròn quay mặt vào tường hậu, lặng lẽ cầu nguyện. Tôi ngạc nhiên - như thế mà là sống ư ? Mà sống như thế để làm gì kia chứ ?
Thế mà giờ đây tôi cũng sống như họ. Cô đơn. Khổ hạnh. Còn tệ hơn họ, tôi không được phép bước ra khỏi cái trai phòng đặc biệt, bị bỏ vào chứ không phải tự nguyện đến ở, không được phép gặp đồng loại, không được phép để đồng loại nhìn thấy mình.
Sau hết, và là cái khác cơ bản giữa chúng tôi - họ có Chúa, còn tôi thì không.
Tôi mệt mỏi quăng đồ đạc lên phản. Xà lim là xà lim, cho dù có vài nét phân biệt. Tính về diện tích nó còn nhỏ hơn xà lim Hỏa Lò. So với tiêu chuẩn của thực dân thì ở đây đã xảy ra một sự cắt xén được đặt tên là cải tiến. Cái phản gỗ mộc bào cẩu thả còn lởm xởm sơ gỗ được gắn chết vào bốn trụ xi măng. Không thấy mặt cái cùm muôn thuở. Gầm phản là một hố sâu - một cái hầm trú ẩn.
Tôi trườn lên phản, nằm nghĩ vẩn vơ. Sự vắng bóng cái cùm sắt chứng tỏ nhà tù bộ đội có khác nhà tù công an. Sự hiện diện của cái hầm trú ẩn chứng tỏ người ta còn tình Một điểm khác nữa, rất bình thường, nhưng cũng cứ phải coi như ưu điểm của trại này là cái cửa sổ. Nó không phải là le judas đặc trưng cho xà lim, mà to gần bằng cửa sổ nhà nông thôn, với những song sắt to hơn, được gắn chặt vào bê tông kiên cố.
Thoạt đầu, nhìn nơi ở mới thậm chí tôi còn hài lòng, còn tự hào về cái xà lim của trại giam quân đội. Dù sao nó cũng không đến nỗi tệ hại như xà lim Hỏa Lò.
Quan sát kỹ thì mới thấy mình nhầm. Nó không phải là một cái xà lim bình thường mà là một sáng tạo độc đáo trong nghề làm chuồng người. Căn nhà nhỏ gồm bốn căn phòng được thiết kế giống hệt nhau dưới một mái chung, cửa mỗi phòng quay về một hướng. ê chỗ tiếp giáp giữa hai xà lim mọc ra một mảng tường tứ giác với một đường vát thượng thu hạ thếch chia ngôi nhà thành bốn ô riêng biệt, để người bên này không nhìn thấy người bên kia, kể cả khi quản giáo cho ra ngoài tắm rửa. ê Hỏa Lò xà lim nằm thành hai dãy dài trong hành lang, một người ho khan cả dãy nghe thấy. Trong một nhà-xà lim Bất Bạt chỉ có bốn phòng, nếu ba phòng kia không có người thì cảm giác cô đơn thật kinh khủng.
Mỗi ngôi nhà lại bị bao quanh bởi bốn bức tường con kiến không cao và không kiên cố, làm thành một khu biệt giam, với một cánh cổng bằng tôn mỏng xộc xệch. Hết thảy những khu nhà như thế (không biết là bao nhiêu) bị bọc trong một bức tường cao chạy chung quanh, có vọng gác ở mỗi cạnh(4).
Cánh cửa xà lim vừa khép lại là tôi rơi vào một vùng tĩnh lặng hoàn toàn. Ngoài tiếng gió chạy trên đồi, không còn tiếng động nào khác trong buổi trưa hè.
Hôm sau, tôi thấy có tiếng động ở xà lim bên cạnh. Thì ra bên đó có người. Hai hôm sau, tôi giật mình nghe người đó gọi tôi :
- Bông hồng vàng ! Bông hồng vàng(5) !
- Ai đó ?
Tôi chồm ra cửa sổ, khẽ kêu lên.
- Bác sĩ ! Bác sĩ đây ! - người đó trả lời.
- Chào bạn ! - tôi trả lời thận trọng
- Tất-cả-ở-đây-hết !
Người xưng là bác sĩ lại kêu lên. Giọng anh ta lần này có nhỏ hơn, nhưng vẫn bị phát hiện. Mấy tên lính gác rầm rập chạy đến. Tôi nghe tiếng cãi vã, tiếng mở cửa, đóng cửa xầm xầm.
Tôi căng óc, cố đoán xem người xưng bác sĩ kia là ai, mà không nghĩ ra.
Trong số bạn làm nghề y chỉ có bác sĩ Phan là thân với tôi hơn cả. Nếu là anh thì tôi nhận ra ngay. Tôi quen giọng Phan lắm. Nhưng làm sao anh bị bắt được ? Anh nổi tiếng phi chính trị. Hơn thế, anh còn là ân nhân của một số cán bộ cỡ kha khá. Những người này sẽ bảo vệ anh, ít nhất thì cũng vì anh cần cho họ. Vài người trong bọn họ đã nhờ anh chữa bệnh phong tình. Anh không thích cái xã hội nhố nhăng với một lũ Cẩm Bá Nhạ(6), một lũ hủi, ở trên đầu. Mà với hủi thì tốt nhất là không dây. Anh biết giữ mồm giữ miệng cho nên đám công an theo dõi trí thức vẫn đinh ninh Phan là một bác sĩ giỏi nhưng mít đặc về chính trị.
Nhưng đến cả trung tá công an Hồng Sĩ mà cũng còn bị bắt thì Phan cũng có thể bị bắt lắm. Dù sao anh cũng có tội. Anh có tội chơi thân với tôi, giờ đã là tên phản cách mạng, và Văn Cao, tên đầu sỏ Nhân văn - Giai phẩm. Theo ngôn từ công an, chơi thân với nhau gọi là liên quan.
Tôi hi vọng Văn Cao bình an vô sự. Thời gian cuối này Văn Cao rất yếu. Anh khó lòng chịu đựng cuộc sống tù ngục. Anh đã may mắn một lần. Lần thứ hai có thể anh không may mắn nữa. Trong thời kỳ xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm người ta nhiều lần ám chỉ Văn Cao khi nói tới số phận Ðinh Linh, Trần Xí-hà(7). Người ta nói chuyện bên Tàu để nhắn nhủ anh coi chừng, rất có thể anh sẽ như họ đấy. Sau vụ Nhân văn - Giai phẩm Văn Cao dìm nỗi buồn trong rượu. Lần nào gặp anh tôi cũng thấy anh trong trạng thái ngà ngà, chai rượu ở trước mặt. Anh kể cho tôi nghe anh đã bị bọn công an giả dạng lưu manh gây sự rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với anh mấy lần trong những quán rượu bình dân. Từ đó chị Băng không cho chồng ra khỏi nhà nữa. Chị bấm bụng mua rượu về cho anh, tuy vẫn luôn miệng nhắc nhở anh đừng uống nhiều. Chị biết để anh uống như thế anh sẽ chết vì rượu, nhưng anh còn chết nhanh hơn nếu phải sống với nỗi buồn.
Huỳnh Ngự cũng có lần hỏi tôi về Phan. Y đưa ra một danh sách những tên sách, truyện ngắn, hỏi tôi có biết những tác phẩm này không ? Tôi giật mình : đó chính là tên những truyện Phan dự định viết.
Làm sao chúng có được danh sách này ? Phan đã bị bắt, đã khai ? Hay chúng đột nhập vào nhà lục lọi khi anh đi vắng ?
Hồi đó Phan chưa phải là người viết văn có tên tuổi. Anh yêu văn học bằng một tình yêu lười biếng. Sau khi đặt tên cho một tác phẩm tương lai, anh viết nguệch ngoạc vài ba trang rồi vứt đấy. Những trang bản thảo vương vãi khắp nơi trong căn phòng lộn xộn, trong đó có nhiều trang tuyệt vời. Lần nào Phan cũng tự hẹn với mình sẽ viết tiếp vào một lúc khác. Tiếc rằng cái lúc khác ấy hiếm khi xảy ra. Tôi giật mình vì riêng những cái tên sách không thôi trong danh sách Huỳnh Ngự cho tôi xem đã không ổn rồi, đã bốc mùi bất mãn rồi.
Ðáp lại câu hỏi của Huỳnh Ngự, tôi chỉ cười.
- Anh cười chi ?
- Phan không phải là nhà văn. Xin đừng nghi anh ấy chuyện văn chương. Anh ấy cũng có lúc bốc lên muốn viết thật, nhưng rồi chỉ thành công được một lần. Cuốn sách duy nhất được in của anh Phan là một cuốn sách loại người tốt việc tốt in ở Nhà xuất bản Kinh Nguyệt Không Ðều...
Huỳnh Ngự gắt lên :
- Anh nói cái chi ? Nhà xuất bản chi... ?
Tôi giải thích rằng chúng tôi gọi đùa Nhà xuất bản Phụ nữ là Nhà xuất bản Kinh Nguyệt Không Ðều vì sách ở đây ra loạc choạc, khi có khi không, khi nhiều khi ít.
Huỳnh Ngự tủm tỉm cười.
- Tôi chơi với Phan vì cái khác. - tôi nói thêm - Phan rất chiều bạn. Thỉnh thoảng có món gì ngon anh lại ới tụi tôi đến ăn. Tiết canh vịt Phan đánh thì tuyệt, Văn Cao gọi là tiết canh xâu lạt...
Huỳnh Ngự ngẩn người :
- Nghĩa là sao ?
- Nghĩa là tiết canh đông đến nỗi có thể lấy lạt xâu vào mà xách được.
- Bịa.
- Văn Cao vốn thích nói thậm xưng. Nhưng thật sự là thế - tiết canh anh Phan đánh đông lắm, tôi chưa thấy ai đánh tiết canh tài bằng anh ấy.
- Ðánh thế nào ?
Tôi nhẩn nha kể cho Huỳnh Ngự cách đánh tiết canh mà Phan dạy tôi. Ðành phải hy sinh bí quyết nhà nghề của anh để đưa Huỳnh Ngự ra xa cái đề tài nguy hiểm. Huỳnh Ngự nghe chăm chú, sau đó không vặn vẹo thêm nữa. Tôi đồ rằng trở về nhà y sẽ ghi công thức đánh tiết canh vào sổ tay.
Còn ai nữa là bác sĩ trong số người quen tôi ? Mãi rồi tôi cũng nhớ ra bác sĩ Phan Thế Vấn. Nhưng với Vấn thì không thể nói rằng tôi quen. Chúng tôi có gặp nhau đôi lần ở nhà bạn bè, không nhớ là ở nhà Vũ Huy Cương hay nhà ai. Mọi người nhận xét Vấn là một tay Ivan. "Ivan" là một cách nói vui hồi ấy, chỉ một người không thích lối sống giáo điều, công thức, không chịu uốn mình theo khuôn phép của Ðảng, không cứ là một người theo Liên Xô, như bọn tự xưng mác-xít chân chính chụp mũ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp Phan Thế Vấn ở Hà Nội. Anh hoạt động trong phong trào thanh niên học sinh. Năm 1956 anh được đi dự festival thanh niên và sinh viên thế giới ở Moskva. Ðó là vinh dự lớn cho một thanh niên trước kia ở trong vùng tạm chiếm, cho dù có hoạt động cho kháng chiến.
Vấn thì có thể bị bắt, tôi đoán.
Tôi không gặp Vấn lần nào nữa trong thời gian ở Bất Bạt, cũng như trong thời gian ở tù nói chung. Gặp lại anh tại Sài Gòn năm 1989, tôi hỏi có phải anh đã gọi tôi hồi ở Bất Bạt không thì anh nói không. Tôi ngạc nhiên : vậy còn ai trong những người bị bắt là bác sĩ ? Hay đó là một bác sĩ quân y nào mà tôi không quen, nhưng biết tôi. Anh nhìn thấy tôi qua một khe hở phòng anh và anh muốn cho tôi biết tôi không đơn độc. Mà cũng có thể không phải thế. Nhưng nếu đây là trò của công an thì tại sao bị phát hiện nói chuyện với tôi anh ta lại bị chuyển đi ngay ?
Trong trại giam - xà lim này, quản giáo bộ đội đối với chúng tôi tử tế hơn quản giáo Hỏa Lò. Họ mở cửa, đóng cửa, cho chúng tôi với nét mặt vô can - người ta bắt anh chứ không phải tôi bắt anh, tôi với anh không thù không oán, tôi cũng chẳng muốn thế này.
Trong nhà tù nét mặt, cách đối xử của quản giáo ảnh hưởng đến tâm lý người tù nhiều lắm. Một bộ mặt lầm lì, một cái nhìn hằn học cũng gây ra stress.
Tôi nhanh chóng làm quen được với một anh tù nhà bếp làm công việc gánh cơm cho các xà lim. Khi cho tôi ăn sáng, anh tù trẻ, mặt mũi sáng sủa, được phép đến sát cửa sổ để đưa cho tôi vài củ khoai hoặc mấy khúc sắn. Bữa trưa anh đặt phần cơm trên bể nước.
Anh tù thì thào cho tôi biết anh bị tòa quân sự kết án ba năm tù vì tội để xe bọc thép lăn xuống vực, làm chết đồng đội. Quen rồi, tôi mới lân la hỏi anh về những người tù không phải phạm binh trong trại.
- Tôi có thấy hai ông già. - anh nói.
- Một trong hai ông già là cha tôi đấy.
- Cụ nhà trông thế nào ?
- Cụ tôi hói đầu.
Mỗi cuộc nói chuyện xảy ra nhiều nhất một lần trong một ngày, mà cũng chỉ giới hạn trong vài ba câu. Phải nói cho nhanh. Dứt lời, anh lại lặc lè quang gánh chạy đi.
- Cụ hói đầu có sẹo ở bụng, phải không ? - một buổi sáng khác anh hỏi.
- Ðúng. Cụ tôi đấy. Cụ bị cắt mật.
Trong xà lim nóng, cha tôi cởi trần, nhờ đó anh bạn trẻ nhận ra đặc điểm.
- Còn cụ kia ?
- Là thiếu tướng Ðặng Kim Giang.
- Cha mẹ ơi, vậy mà tôi không biết.
Hôm sau, anh móc trong lưng quần ra gói Tam Ðảo, ngó trước ngó sau rồi ném vào phòng :
- Cụ gửi cho anh.
Thì ra anh tù đã tự động báo cho cha tôi biết anh liên lạc với tôi.
Tôi xem xét cẩn thận gói thuốc. Nó có vẻ còn nguyên lành. Ðể ý thật kỹ thì thấy nó có bị bóc ra rồi dán lại. Tôi mân mê từng điếu. Không thấy gì. Ðó là gói thuốc kiểm tra. Cha tôi vốn cẩn thận. Ông không hấp tấp tin ai, trong hoàn cảnh này lại càng phải cẩn thận.
Một tuần sau, tôi lại nhận được gói thuốc nữa. Trong gói thuốc lần này có một điếu đáng ngờ. Dốc thuốc ở hai đầu đi tôi được một mẩu giấy cuộn tròn, trong đó có những hàng chữ nhỏ li ti :
"Nợ nước đời tôi trả đã tròn
Việc nhà gửi mẹ với đàn con
Trăm năm đầu bạc đành sai hẹn
Thủy chung tôi giữ tấm lòng son.
Con học thuộc mấy câu thơ này rồi đốt đi. Nếu bố không trở về thì đây là mấy lời cuối cùng bố gửi mẹ. Nói với mẹ bố xin mẹ tha lỗi vì đã làm khổ mẹ, nhưng bố không thể sống khác được. Cố gắng tập khí công, tập yoga để giữ sức khỏe chờ một ngày tươi sáng. Ðêm tối rồi sẽ qua, ma quỷ rồi phải chạy trốn mặt trời trí tuệ, cái ác sẽ phải quỳ gối trước lòng nhân ái. Bố của con."
Tôi ứa nước mắt. Cầu Trời Phật cho cha tôi sống được đến ngày gặp lại mẹ tôi và chúng tôi.
Nhờ anh bạn tù tốt bụng, tôi chuyển được một bức thư cho cha tôi. Tôi hứa với cha sẽ thực hiện lời người dặn. Ðến đó liên lạc giữa hai cha con chấm dứt.
Thỉnh thoảng Huỳnh Ngự gọi tôi ra, không phải để hỏi cung mà hỏi thăm sức khỏe. Y lúng túng lắm mỗi lần bị tôi hỏi về thời hạn giam giữ. Nó kéo dài quá rồi, vượt qua mọi giới hạn rồi. Không thể cứ một mực gầm thét, mà y biết là vô ích. Chính y cũng cảm thấy mệt. Giờ đây, như một y tá bên giường bệnh, y an ủi tôi, nói những lời sáo rỗng về lòng tin ở lượng khoan hồng của Ðảng, Ðảng sáng suốt, Ðảng là cha mẹ vv... Tôi thậm chí ái ngại cho y - y không đến nỗi quá ngu để không biết tí gì về pháp luật. Nhưng y không biết phải xử sự thế nào. Sự vi phạm pháp luật của các ông chủ y quá trắng trợn.
Trong những ngày ở xà lim Bất Bạt tôi thỉnh thoảng lại nhớ tới một câu nói của Hoàng :
- Tôi không muốn dọa anh. Dọa anh cũng chẳng được, tôi biết. Tôi tin anh dũng cảm, anh không sợ - anh đã bắt tay Thần Chết nhiều lần, như anh nói. Nhưng anh chưa biết đấy thôi - ở đời có nhiều cái còn đáng sợ hơn cái chết.
Hoàng đúng.
Chúng tôi không bị đánh đập, không bị giết. Chúng tôi chỉ bị chôn sống mà thôi.
Tôi không tưởng tượng nổi mình có thể sống trong một cái cũi hẹp, đúng hơn là một cái huyệt kim tĩnh kiên cố, với một tấm phản, một cái bô, một ống bương đựng nước. Không phải vài ngày, vài tháng, mà hàng năm. Một mình.
Trong một lần đi cung tôi gặp cô bộ đội dắt đứa con trai. Cháu bé chừng ba tuổi, lũn cũn bên mẹ. Nó nhìn tôi, nhoẻn cười. Tôi cười đáp, lấy tay vẫy. Nó cũng vẫy lại. Thằng bé mới kháu làm sao ! Tôi ngây người ngắm nó. Như thể nó là một kỳ quan của thế giới. Như thể trên đời này tôi chưa từng nhìn thấy một đứa bé. Tôi đi chậm lại để được ngắm nó lâu hơn. Tôi cảm thấy mắt tôi rưng rưng.
- Ði nhanh lên ! - viên quản giáo giục.
Mặc. Tôi đi ngang cháu bé. Tôi nhìn thấy những lông tơ trên đôi má phính mịn màng của nó. Tôi đi qua nó. Thật chậm. Cháu ngước nhìn tôi, đôi mắt trong veo, miệng lại nhoẻn cười. Người mẹ trẻ bồng nó lên tay. Cô nhìn tôi, cái nhìn đầy thương cảm.
Tôi ngoảnh lại, vẫy cháu bé. Nó vẫn nhìn theo, bàn tay tí xíu vẫn vẫy.
- Nhanh lên !
Viên quản giáo lại giục.
Ðứa bé xa dần.
Tôi đã biết ăn dè, tiêu dè. Khốn nạn, thì ra cuộc đời còn có cái dè khác - nhìn dè.
Một hôm, bên ngoài có tiếng cuốc lục cục, xoèn xoẹt trên mặt đất. Nhìn qua khe cửa sổ khép chặt, tôi thấy những bàn chân người đen đủi bước tới bước lui - đó là tù ở trại chung được đưa vào khu xà lim làm vệ sinh. Khi họ đi khỏi, cửa sổ lại được mở. Trước mặt tôi là một khoảng đất trống, không còn lấy một nhúm cỏ. Ngay trước cửa sổ phòng tôi chừng hai mét có một cây con mới được trồng, loe hoe mấy cái lá.
Thế là màu xanh cuối cùng của sự sống bị tước nốt. Mặt đất bệch ra những sỏi cùng đá. Tôi buồn xỉu.
Sau nhiều ngày sống lay lứt dưới nắng quái dữ dội, đặc biệt dữ dội ở trung du, cái cây quặt quẹo tưởng bị thiêu chết rồi đã đứng thẳng dậy, ngang ngạnh, bất khuất. Tôi thường ngậm nước trong miệng để phun cho nó. Việc tưới cây kiểu này chẳng dễ dàng - phải biết cách khéo léo để phun cho mạnh, phun cho xa và phải phun trúng.
Tôi đã ở đấy với cái cây từ lúc nó bé tẹo cho tới khi nó tỏa bóng mát. Trong cái huyệt kim tĩnh ấy.
Cái cây con ngang bướng cũng là ân nhân của tôi trong những năm tháng bị giam cầm. Nó dạy tôi phải biết nghiến răng lại mà sống.
Người "đồng vụ" đầu tiên mà tôi gặp ở đây là Trần Minh Việt. Chúng tôi háo hức thông tin cho nhau.
Ðể hình dung tù xà lim nói chuyện với nhau bằng cách nào, trước tiên phải kể đến cái tường ở Bất Bạt. Không hiểu tên khốn kiếp nào đã sáng tạo ra lối vẩy xi măng lên tường như thế ? Phải là một tên kiến trúc sư cực kỳ đểu cáng, với trái tim thú dữ, mới làm ra được một bức tường ghê tởm như vậy. Nó xù xì, đầy gai nhọn và sắc. Người tù ngồi mỏi không dám dựa lưng vào đấy, dựa vào lưng sẽ rớm máu. Dùng tay gõ vào tường có thể gây thương tích. Tôi phải bọc vải vào tay mà gõ.
Cái khó là chúng tôi không sao thống nhất được ám hiệu truyền tin. Trước Cách mạng Tháng Tám tôi là một sói con(8) ở bầy Hồng Ðức. Anh sói già Vương Trọng Thành chẳng những dạy dỗ chúng tôi trở thành những đứa trẻ từ tâm với phương châm "mỗi ngày làm một điều thiện", mà còn dạy chúng tôi biết nhiều cái vặt vãnh mà hữu dụng khác, trong đó có ngôn ngữ morse. Trần Minh Việt chưa bao giờ là sói, là hướng đạo sinh, anh không biết đánh morse như thế nào. Thành thử chúng tôi đành dùng thứ tín hiệu thủ công, trong đó các chữ cái cứ dài mãi ra theo thứ tự, chẳng hạn chữ a gõ một tiếng thì chữ k phải gõ mười tiếng, chữ v gõ hai mươi mốt tiếng. Giữa các chữ là một khoảng lặng, kết thúc một từ là một tiếng gõ thật mạnh. Nói chuyện như vậy rất chậm. Thế mà trong một tháng ở bên cạnh nhau tôi đã thông tin cho anh được hết những gì xảy ra bên ngoài kể từ tháng 7 cho tới tháng 12 năm 1967. Khi anh được biết về thông báo số 1, số 2 của Lê Ðức Thọ, Trần Minh Việt đập rầm rầm vào tường:
- Ðồ chó đẻ ! Thằng khốn nạn !
Hai tháng sau bỗng nhiên tôi bị chuyển đi nơi khác. Không lý do. Chắc chắn không phải việc chúng tôi liên lạc với nhau bị lộ.
Chúng tôi mỗi ngày một thô lỗ thêm cùng với thời gian bị nhốt. Một hôm tôi nghe tiếng Lưu Ðộng(9) oang oang vang động cả một vùng :
- Cút mẹ mày đi ! Ðừng có mang mấy thằng mất dạy nhà mày ra dọa tao. Bảo cho thằng Lê Ðức Thọ khốn kiếp của chúng mày biết, tao ỉa vào mồm nó ! Cả cái thằng Lê Duẩn ăn cứt nữa ! Tao nguyền rủa con đĩ ngựa đẻ ra nó. Tiên sư chúng mày ! Tổ bố chúng mày !
Nghe Lưu Ðộng chửi thật đã con ráy ! Tiếng Lưu Ðộng ồm ồm không lẫn với tiếng người khác được. Nền văn hóa làm cho con người bớt thật đi, bớt được là mình đi trong sự bộc lộ cảm xúc. Thỉnh thoảng phải được sống nguyên sơ, sống hoang dã như thế mới sướng. Tôi còn muốn nghe Lưu Ðộng chửi nữa, nhưng đang chửi ầm ầm anh bỗng im bặt. Cơn giận dữ bùng lên qua nhanh, anh thấy ngượng với mình, thấy mình xử sự không xứng với tư cách trí thức.
Từ trong khúc ngoặt, viên y sĩ công an mặt xám ngoét, chạy như ma đuổi. Lính gác rầm rập chạy tới. Các cửa sổ đóng lại rầm rầm. Tôi ngồi trong bóng tối, lắng tai nghe những tiếng động từ bên ngoài. Có vẻ như không có gì xảy ra.
Chúng không đánh Lưu Ðộng. Nếu chúng đánh anh tôi phải nghe thấy - căn cứ tiếng chửi vọng tới phòng tôi thì anh ở gần tôi, cách một ô là cùng. Từ đó tôi không nghe tiếng Lưu Ðộng nữa - anh đã bị chuyển đi ô khác.
Tại trại Bất Bạt, chúng tôi còn được hưởng chế độ phơi nắng. Ðó là một chế độ đặc biệt, được dành riêng cho tù nhân xét lại. Nó không phải giờ đi dạo của tù nhân các nước khác mà ta thường thấy trên màn ảnh. Một tuần một lần, quản giáo mở cửa cho tôi bước ra ngoài đi phơi nắng một giờ. Còn thì suốt ngày ở trong nhà.
Khi nào lính gác bỗng dưng chạy tới đóng cửa sổ là tôi biết chúng sắp giải tù đi ngang. Tôi nhìn thấy Vũ Huy Cương, Hồng Sĩ, Phạm Viết, Trần Minh Việt, Trần Thư, Huy Vân và những người khác tôi không quen. Thấy họ không đi cùng quản giáo bộ đội mà đi với quản giáo công an thì biết là người đồng vụ, thế thôi. Khốn nạn, thế mà chúng nó gọi là nhóm chống Ðảng, là chống đối có tổ chức, không biết dơ.
Bây giờ tôi mới hiểu cái sự vu khống chính trị được tiến hành như thế nào. Thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm nghe vậy biết vậy chứ tôi không hiểu.
Văn Cao, tên đầu sỏ của đám trí thức mưu toan đoạt quyền lãnh đạo của Ðảng, gọi theo cách của những nhà lãnh đạo văn nghệ, nói với tôi rằng toàn bộ vụ Nhân văn - Giai phẩm chỉ là trò đánh lận con đen.
- Hồi ấy, văn nghệ sĩ còn tin Ðảng lắm, - Văn Cao kể - còn yêu Ðảng lắm. Gì thì gì Ðảng vẫn là Ðảng của mình. Là ruột thịt của mình. Nhưng là trí thức, bọn mình không quen, không thích tin mù quáng. Bọn mình thấy xã hội có những khuyết tật, những cái cần sửa chữa. Mới lên tiếng đề xuất . Ðảng cầm quyền thì phải đề xuất với Ðảng, chứ còn đề xuất với ai ? Chuyện đề xuất bằng hình thức nào là cái không nên bắt bẻ. Không phải lúc nào cũng phải kính đơn. Phát biểu cũng được chứ sao. Viết báo cũng được chứ sao. Chẳng ai hô hào lật đổ các ông ấy cả. Chỉ có các ông ấy chu chéo lên : ối giời ơi, có địch, có địch ngay trong hàng ngũ chúng ta, rồi dựng thành vụ để trấn áp. Nguyễn Mạnh Tường(10) chỉ ra cái sai rành rành trong sự thi hành luật pháp cũng bị đánh. Họ đánh tuốt trí thức, chứ không phải chỉ văn nghệ sĩ không thôi đâu. Ðánh để trị, để đe.
- Nhưng trong lãnh đạo Ðảng ai khởi xướng vụ đánh này ?
- Cậu muốn hỏi ai là tác giả ? Không phải Hồ Chí Minh đâu, Ông Cụ không nghĩ ra cái đó, Ông Cụ không tệ đến thế. Cũng không phải Nguyễn Chí Thanh. Ðừng vì vụ Trần Dần bị giam vào cải hối thất mà đổ cho lúy(11). Thằng cha lúc ấy còn bận củng cố địa vị vừa chiếm được của général(12) Giáp. Tác giả chính là Longue Marche(13), cậu nghe rõ chưa, là-Trường-Chinh.
- Thế còn Tố Hữu ?
- Tố Hữu ấy à ? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche mới là kẻ sáng tác ra Nhân văn - Giai phẩm. Ðể chạy tội Cải cách ruộng đất. Ðể tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của lúy vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Ðừng tước bản quyền của lúy, tội nghiệp ! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Ðôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche : "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy : qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được !" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa : lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá ! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu ?".
Tôi ghi lại lời nói của Văn Cao ở đây để sau này có ai nghiên cứu thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm có thể tìm thấy trong đó một chứng cứ của người trong cuộc.
Một hôm, tôi thấy Trần Minh Việt đi cung, khoảng vài giờ sau anh trở về, lủng củng những gói cùng bọc, vẻ mặt buồn rượi. Sau đó đến lượt Huy Vân, Trần Thư, Lưu Ðộng, rồi mấy người nữa.
Họ được gặp gia đình, tôi kết luận.
Vụ án, theo tôi phán đoán, đã sang một chương mới không có lợi cho chúng tôi. Sau gần ba năm giam cầm không cần tuyên bố lý do, không cho chúng tôi gặp gia đình, mà không bị phản ứng cả trong Ðảng lẫn ngoài xã hội, giờ đây nhà cầm quyền nhơn nhơn coi sự bỏ tù chúng tôi, những phần tử chống Ðảng, là việc đương nhiên họ có quyền làm.
Lường trước khả năng gặp gia đình, tôi viết sẵn một bức thư gửi ông Nguyễn Lương Bằng. Bọn công an chủ quan không ngờ tôi quan sát được động thái bên ngoài sẽ không khám xét. Không có mực, tôi dùng nicôtin đọng trong cái điếu Thành cho (phòng xa không có thuốc lá mà hút) viết trên mẩu giấy gói kẹo :
"Thưa bác. Cháu đề nghị bác, với tư cách người cầm thanh kiếm bảo vệ sự trong sáng của Ðảng, tự mình xem xét vụ án này. Cháu là đứa cháu được bác và bố mẹ giáo dục tinh thần trung thành với sự nghiệp cách mạng. Nếu sau khi kiểm tra bác thấy cháu phản cách mạng thật thì cứ mang ra bắn, nhưng nếu không phải là như thế thì bác phải đưa bọn lạm dụng chức quyền đàn áp những người cách mạng trung thực ra xử."
Tôi đoán đúng. Chẳng bao lâu sau đến lượt tôi được gọi ra.
Mẹ tôi, vợ tôi và các em tôi đã chờ sẵn trong một túp tranh được dựng cấp tốc cho khách thăm tù xét lại.
Ðây là lần gặp đầu tiên sau hai mươi bảy tháng tôi bị giam. Cả nhà ùa tới ôm lấy tôi. Tôi sợ mọi người sẽ òa khóc, nhưng mẹ tôi điềm tĩnh như thể không có chuyện gì xảy ra trong thời gian gần ba năm ấy(14). Tôi hiểu mẹ - bà bao giờ cũng tỏ ra cứng rắn trước kẻ thù. Chỉ giọng nói hơi nghẹn ngào ở một đoạn nào đó tố cáo nỗi xúc động trong lòng bà.
Mẹ tôi già đi nhiều quá. Mái tóc bạc thưa thớt, nhiều chỗ trơ sọ. Tôi nhìn mẹ, nước mắt ứa ra. Ðời mẹ khổ quá nhiều.
Tôi nhớ tới một buổi sáng se lạnh bên sông Ðà. Mẹ tôi lịch thiệp và bình thản trả lời viên sĩ quan Pháp áp giải đoàn tù đi Sơn La khi y hỏi tại sao mẹ tôi biết tin sự di chuyển mà đi tiễn chồng :"Người vợ yêu chồng bao giờ cũng biết chồng mình ở đâu". Y lại hỏi tại sao bà không khuyên can chồng để đến nỗi gia đình bị ly tán, bà đáp :"Chồng tôi làm công việc mà bất cứ người Việt Nam tự trọng nào cũng phải làm". Tôi nhìn thấy ánh mắt tự hào của các đồng chí nhìn mẹ tôi trên con phà chở tù sang thị xã Hòa Bình(15).
Mẹ luôn dặn tôi không được tỏ ra mềm yếu trước kẻ thù. Nhưng đó là kẻ thù nào khác chứ không phải thứ kẻ thù quái đản này. Trong thời kỳ hoạt động bí mật, bà không tin sẽ được thấy ngày đất nước độc lập và bà âm thầm chuẩn bị đến lượt chúng tôi phải đối mặt với chúng. Mẹ đã dạy dỗ tôi không vô ích. Chính những lời dạy dỗ của mẹ đã giúp tôi rất nhiều trong những ngày phải sống trong xà lim, bị cắt đứt với thế giới bên ngoài.
Vợ tôi hoàn toàn không biết ứng xử với bọn công an như thế nào cho phải, cho nên lúng túng. Cứ như thể một khi tôi là tù thì vợ tôi cũng là tù một nửa. Trông mà thương quá. Tôi ôm lấy vợ, không biết nói gì. Tội nghiệp, vợ tôi không hề được chuẩn bị để chịu đựng cảnh sống này. Nhưng nhìn vào mắt vợ tôi, tôi hiểu vợ tôi sẵn sàng chịu đựng cùng tôi những khốn khó mà chế độ phát-xít mang lại.
Tôi bế đứa con giờ đây mới biết mặt. Khi bị bắt tôi chưa biết vợ tôi có mang. Hoài Thu giãy giụa trong tay tôi, không chịu theo. Chị nó, Mi Lan, cũng bắt đầu lạ tôi. Tôi ôm hôn con gái, rồi nhân một phút tên quản giáo lơ đãng, nhét vào túi áo con bức thư : "Con giấu đưa cho bà". Mi Lan nhìn tôi chăm chú. Rồi gật đầu. Ðưa cho con rồi tôi đâm lo - nhỡ con tôi không hiểu lại đưa ngay cho bà nội mẩu thư cuộn trong mẩu vỏ tuýp kem răng trước mặt bọn Công an thì sao ? May mà Mi Lan có trí thông minh trước tuổi. Trong suốt cuộc gặp mặt, con tôi ngồi trên đùi tôi, vui vẻ cười đùa, không gây ra một sự nghi ngờ nào.
Bức thư được mẹ tôi trao tận tay Nguyễn Lương Bằng.
Ông tiếp mẹ tôi trên gác ngôi nhà có công an canh gác, nói những lời an ủi vô thưởng vô phạt. Tiễn mẹ tôi xuống nhà, khi đã ra đến vườn rồi, tin chắc không còn bị nghe trộm nữa rồi, ông mới hứa sẽ đặt vấn đề ra trước Trung ương để Trung ương xem xét.
- Tội nghiệp, chưa bao giờ mẹ trông thấy bác ấy thảm hại như thế ! - mẹ tôi kể về cuộc gặp gỡ đáng buồn.
Lời hứa của ông chẳng bao giờ được thực hiện. Ðịa vị cao sang và nỗi sợ hãi trước Lê Ðức Thọ đã làm tâm hồn người chiến sĩ cách mạng nổi tiếng năm xưa tê liệt. Mẹ tôi kể rằng trong những lần bà tới gặp Nguyễn Lương Bằng, bà thấy ông biết nhà ông bị gài rệp(16).
Nói cho công bằng, trong ông cũng có xảy ra một cuộc đánh nhau giữa tình bạn và cái ghế. Ðáng tiếc, trong cuộc đọ sức tình bạn bị đo ván. Tôi biết về cuộc đánh nhau ấy do cha tôi kể lại. Khi hấp hối, Nguyễn Lương Bằng cho người mời cha tôi đến. Ông ân hận. Ông xin cha tôi tha thứ. Cha tôi nói :"Việc đã qua rồi. Anh không phải là người gây ra. Giữa anh và tôi không còn tình đồng chí, nhưng tình bạn thì còn. Anh hãy yên tâm nhắm mắt".
Có một số tác gia nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản cho rằng trong cái gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa con người quan chức, không trừ cả lãnh tụ, bị buộc chặt vào cơ chế đến mức không thoát ra được dù họ có muốn, cho nên đánh giá họ bằng chuẩn mực hành xử thông thường của loài người là sai. Cách suy nghĩ độ lượng của các vị không có tác dụng nào khác hơn sự biện hộ cho những tên hoạt đầu, những tên cơ hội, những tên độc tài đứng trên bọn chúng, xóa nhòa ranh giới giữa đao phủ và nạn nhân. Chẳng qua bằng sự xuống cấp từ từ, không nhận thấy được, của những chuẩn mực đạo đức trong một xã hội bị bần cùng hóa, con người quan chức trong cơ chế đó đã hành động một cách vô thức, theo bản năng tự vệ, để không bị cơ chế tống ra ngoài. Hơn thế nữa, những bản năng thấp hèn được khơi dậy dưới những vỏ bọc hào nhoáng, như những chuẩn mực đạo đức mới làm cho lớp quan chức vững tin ở những hành động vô đạo đức trong lối sống, và cứ thế họ trượt dần xuống dốc phi nhân bản lúc nào không biết.
Căn cứ việc công an hỏi tôi, bắt tôi làm bản khai về Nguyễn Lương Bằng thì tháng 12 năm 1967 Nguyễn Lương Bằng còn nằm trong diện những người bị tình nghi chống Ðảng. Thế mà chưa tới một năm sau, tháng 11 năm 1968 ông đã nhảy phóc một cái qua địa vị kẻ trấn áp. Trường hợp Nguyễn Lương Bằng là trường hợp điển hình cho sự trượt dốc đó.
Tôi có thể thông cảm với Nguyễn Lương Bằng. Ông tham gia ban chỉ đạo chuyên án của Lê Ðức Thọ do sợ hãi. Nhờ biết sợ ông chẳng những thoát nạn mà còn lên chức phó chủ tịch nước vào năm 1969. Ông có mất mát chút ít, nhưng là những thứ không quan trọng : tình bạn, tình đồng chí, tình yêu của những đứa cháu không ruột thịt, lòng kính trọng của những người cách mạng chân chính.
Ðó chính là sự tha hóa của con người. Nó hiện diện trong mọi tầng xã hội. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã chính là do sự tha hóa trong lòng nó, sự mục rữa chất người, hay nói theo cách của Lênin, do sự mất nhân tính đi đến chỗ cùng cực. Hệ thống này tan rã không phải trong thời điểm kinh tế suy thoái nhất (của Liên Xô cũng như của các nước Ðông Âu), mà tan rã vào thời điểm dân chúng ở những quốc gia này không còn chịu đựng nổi sự mất nhân tính đi đến chỗ cùng cực(17) ấy, do ý thức được sự mất nhân tính ấy họ không còn có thể điều hòa được với nó.
Mẹ tôi cho biết cả nhà đã được gặp cha tôi. Bố cũng ở đây, sức khoẻ bình thường, mẹ tôi nói, khẽ nháy mắt với tôi và mỉm cười buồn bã. Tôi hiểu cha tôi yếu, nhưng bọn công an không muốn mẹ tôi nói thế. Lại một đặc tính ngớ ngẩn của bọn đạo đức giả : chúng chỉ cho phép tồn tại một sự thật làm đẹp cho chúng. Ngay trong việc nhỏ nhất. Nhìn thấy trên bàn có cái giỏ tích đáng ngờ, tôi ra điều dẹp chỗ cho vợ tôi sắp thức ăn để bỏ nó qua chỗ khác. Tên công an trông thấy. Y nhao tới, hấp tấp đặt nó vào chỗ cũ. Tôi đoán đúng : trong cái giỏ tích có rệp.
Cuộc chiến gây ra từ một phía chưa kết thúc. Lê Ðức Thọ vẫn sợ một cái gì đấy, cho nên mới phải bí mật theo dõi cả những cuộc nói chuyện trong gia đình chúng tôi. Hay Thọ còn muốn giăng bẫy để bẫy một cái gì khác ?
Mẹ tôi im lặng theo dõi việc diễn ra trước mắt, mỉm cười khinh mạn. Bà hài lòng thấy tôi không ngơi cảnh giác. Bằng lời lẽ khéo léo mẹ khuyên tôi phải chờ đợi, không nên ảo tưởng, hãy cố gắng chịu đựng. Tôi nghe mẹ nói, lòng buồn rượi. Ngoài kia vẫn là đêm tối, chưa có gì hứa hẹn bình minh. Mà bây giờ đã là mùa hè năm 1969.
Lợi dụng tên y sĩ công an nhìn đi nơi khác vợ tôi rụt rè đưa cho tôi cây bút bi hai màu. Vợ tôi muốn cho tôi một cái gì đó, và đã chọn cây bút - món quà này chắc chắn làm tôi vui thích. Tôi liếc nhanh tên công an. Y vẫn lắng nghe, nhưng quay mặt nhìn ra sân. Tôi giật phắt cây bút nhét vào túi. Vợ tôi ngạc nhiên, thẫn thờ nhìn tôi.
Ngày hôm đó, tôi đã làm một hành động phản văn hóa là hủy hoại một cây bút tuyệt đẹp. Tôi vờ xin phép tên công an cho tôi ra ngoài. Ngồi rất lâu trong cái chuồng xí dựng tạm ở sau nhà, bốn bề trống hoác với mấy tấm tranh quây quanh, tôi quan sát rất kỹ chung quanh rồi bẻ nát cây bút, dùng que đào lỗ chôn những mảnh nhựa vụn. Bằng con dao giấu trong giày, tôi xẻ quãng giữa đường khâu kép nơi mặt trong áo bông, luồn hai ruột bút bi vào đó.
Từ hai ruột bút bi này bắt đầu cuốn Miền Thơ Ấu, cuốn sách mười chín năm sau rốt cuộc rồi cũng được thấy ánh sáng mặt trời.
(1) Một loại com-măng-ca của Liên Xô.
(2) Nghe nói về sau trại quân pháp Bất Bạt được sử dụng làm nơi giam giữ tù binh Mỹ.
(3) Mật danh một cơ sở kinh tài của Ðảng trong kháng chiến chống Pháp.
(4) Thiếu tá Trần Thư cũng bị giam ở trại này năm 1973 trước khi được tha. Anh miêu tả nơi ở thấy có khác. Anh không phải ở trong xà lim mà được ở trong một ngôi nhà nhỏ như điếm canh đê, có một mảnh vườn con bên trong hàng rào dây thép gai vây bốn bề. Ðây là nơi cư trú trung chuyển giữa chế độ giam giữ và sự thả cho về, làm thành một khu riêng biệt, cách khu xà lim và khu trại chung. Lại một sáng tạo độc đáo của hệ thống giam tù "xử lý nội bộ".
(5) Tên một tác phẩm của nhà văn xô-viết K. Paustovsky (bản dịch của Vũ Thư Hiên).
(6) Cách nói chại đi từ tiếng Pháp campagnard = tên nhà quê.
(7) Hai nhà văn Trung Quốc bị hạ ngục vì những phát biểu bất đồng với đường lối văn nghệ của đảng cầm quyền.
(8) Một tổ chức thiếu nhi rất phổ biến trên thế giới được xây dựng thành đội gọi là bầy sói gồm có huynh trưởng là sói già và các thiếu nhi trong đội là sói con như trong chuyện "Rừng" của Rudyar Kipling. Sau năm 1954 tổ chức này không tồn tại ở nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa nữa. Nó bị coi là của các giai cấp bóc lột.
(9) Nhà báo lão thành, được biết đến bởi những phóng sự chiến tranh trong kháng chiến chống Pháp.
(10) Giáo sư trường Ðại học tổng hợp Hà Nội, đỗ hai bằng tiến sĩ ở Pháp. Sau vụ này ông không được phép giảng dạy cho suốt đời.
(11) Hắn, nó, y (lui, tiếng Pháp)
(12) Tướng (tiếng Pháp).
(13) Trường Chinh, tiếng Pháp.
(14) Theo Thọ Mai Gia Lễ thì thời gian này vừa đúng bằng thời gian vợ để tang chồng. "Ba năm hai mươi bảy tháng chàng ơi...".
(15) Năm 1939 tôi được đi theo mẹ lên thị xã Phương Lâm, tỉnh Hòa Bình, để tiễn đoàn tù cộng sản bị đi đày Sơn La. Trong đoàn tù này còn có các ông Trần Huy Liệu, Trịnh Tam Tỉnh, Nguyễn Văn Phúc, Ðặng Kim Giang ... Trung ương Ðảng được mật báo đã cử mẹ tôi đón đường tiếp tế cho các đồng chí. Tôi còn nhớ cha tôi lột cái mũ nồi tôi đang đội cho ông Phi Vân, bị còng tay chung với cha tôi trong chuyến đi đó. Ông Phi Vân về sau bị Ðảng thủ tiêu. Ông Nguyễn Lương Bằng kể : Phi Vân bị Ðảng thủ tiêu vì tội bán các đồng chí nữ cho nhà chứa bên Tàu. Không rõ thực hư ra sao.
(16) Máy ghi âm bí mật.
(17) Có thể tìm thấy cách suy nghĩ rất thú vị của Lênin về tha hóa trong Bút Ký Triết Học của ông.
Tên tuổi Lê Ðức Thọ ngày nay không những được biết đến ở Việt Nam, mà cả trên thế giới. Hình ảnh Lê Ðức Thọ được in trong những cuốn từ điển bách khoa, với tiểu sử tóm tắt và sự nhấn mạnh về công trạng tìm kiếm hòa bình cho cuộc chiến tại Việt Nam trong cuộc hòa đàm Paris với Henry Alfred Kissinger(1) và được trao giải thưởng Nobel hòa bình cùng với ông ta trong năm đó.
Ở Việt Nam tên Lê Ðức Thọ gắn liền với vụ nhóm xét lại chống Ðảng, và rất nhiều vụ oan khuất khác do Ban Tổ chức Trung ương tiến hành.
Tôi tiếc không được biết Lê Ðức Thọ một cách gần gụi để có thể viết nhiều và viết kỹ về nhân vật một thời làm mưa làm gió trên chính trường Việt Nam. Hi vọng rồi đây sẽ có người làm việc này một cách nghiêm túc, bởi vì Lê Ðức Thọ là một hiện tượng đặc thù trong hình thái xã hội từng được gọi là xã hội chủ nghĩa.
Ý định của Lưu Quý Kỳ về việc cho ra một tờ báo châm biếm tương tự tờ Cá Sấu của Liên Xô để phê phán các hiện tượng tiêu cực, mà tôi có nhắc tới trong một đoạn trên, không phải là ý định suông. Ðiều Lưu Quý Kỳ không ngờ là ý muốn chân thành của anh đã dẫn tới tai họa. Lê Ðức Thọ xồng xộc đến tận Sở báo chí để tự mình uốn nắn ý nghĩ ngạo ngược của anh. Mà Lưu Quý Kỳ được Thọ coi như đệ tử ruột một thời. Tinh thần cảnh giác cao chưa một lần ngủ quên của Sáu Búa Lê Ðức Thọ không thể lơ là để xảy ra một sự lỏng dây xích như vậy.
Tôi có mặt ở đấy khi xảy ra sự việc.
Con người cao to, tóc bạc trắng, với giọng nói cố ý kéo dài bắt người nghe chờ đợi câu tiếp theo, để lại trong tôi ấn tượng nhạt nhẽo và khó chịu. Tôi dị ứng với những gì không thật. Trong Lê Ðức Thọ tôi nhìn thấy đầy rẫy của giả. Mọi người khúm núm, sợ sệt. Tôi nhìn Thọ dửng dưng, bằng con mắt lạnh lùng.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ở tuổi 30, chính quyền đã vững vàng, đám lãnh tụ đã học thuộc bài lên xe xuống ngựa xênh xang, đệ tử bâu quanh như ruồi thấy mật. Một chút khiêm tốn giả vờ, một chút bình dân đóng kịch, trộn với rất nhiều phô trương quyền thế, là nét nổi bật trong Thọ. Nói tóm lại, một tên hãnh tiến điển hình. Trong cuốn Sửa Ðổi Lề Lối Làm Việc ông Hồ Chí Minh gọi căn bệnh này là bệnh lãnh tụ.
Vào những năm đang được nói tới Lê Ðức Thọ là ủy viên Ban bí thư, ủy viên Thường vụ Trung ương Ðảng. Nhưng cả hai chức ấy chẳng có nghĩa gì so với một chức nghe khiêm tốn hơn, là Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. Thọ giữ chức này ba mươi năm liền, kể từ khi ra Bắc.
Từ một cơ quan bình thường, mang nặng tính chất sự vụ, làm công việc quản lý cán bộ Ðảng thời Lê Văn Lương, Ban Tổ chức Trung ương trong tay Thọ nhanh chóng trở thành cơ quan siêu mật thám, nắm trong tay quyền lực cao nhất, mạnh nhất trong toàn bộ hệ thống Ðảng. Nó bao trùm tất cả, đứng trên tất cả. Nằm trong quyền điều khiển của nó có cả Bộ Nội vụ. Với thể chế Ðảng cầm quyền, tình hình đó là lẽ đương nhiên.
Ban Tổ chức Trung ương của Lê Ðức Thọ trong thực tế không chỉ nắm lý lịch đảng viên và cán bộ Ðảng, mà cả cán bộ chính quyền, từ cấp thấp nhất tới cấp cao nhất, theo một hệ thống dọc.
Mỗi cán bộ đều có một cuốn lý lịch, nó dính vào anh suốt đời, như một cái bướu. Mỗi lần xét lên lương, xét cho đi học, xét cấp nhà, thậm chí một cái phiếu mua xe đạp, là một lần lý lịch anh lại được mở ra, được tính đến. Giá trị con người tính bằng mức độ trung thành với Ðảng, hồng là hơn chuyên, đức là hơn tài. Lý lịch là chứng chỉ xác nhận giá trị xã hội của mỗi cá nhân thành viên, do đó nó quan trọng vô cùng. Lý lịch còn được cập nhật, được bổ sung liên tục bởi công an chìm và nổi, bởi cán bộ tổ chức, cán bộ bảo vệ, các bạn đồng sự, bởi ông hàng xóm hoặc ông tổ trưởng dân phố. Hết thảy đều được dạy dỗ để theo dõi lẫn nhau, được khuyến khích thu thập tin tức về nhau.
Nhân vô thập toàn, con người ta ai cũng có lúc mắc khuyết điểm, không lúc này thì lúc khác, không ở nơi này thì nơi kia. Nếu chẳng may khuyết điểm bị tổ chức phát hiện, nó sẽ được ghi nhận, được xếp vào hồ sơ, còn sau này có dùng đến hay không, dùng vào lúc nào, là chuyện khác.
Tại Hỏa Lò tôi ngạc nhiên thật sự khi Huỳnh Ngự, với nụ cười trịch thượng trên môi, chìa cho tôi xem bản liệt kê tất cả những gì tôi đã viết, đã in, trong đó có nhiều cái ba lăng nhăng chính tôi cũng quên bẵng từ lâu. ỉ thì cứ cho rằng từ năm 1961 khi tôi viết Ðêm Mất Ngủ bị Tố Hữu đánh, lúc ấy nghi ngờ tôi là có lý. Nhưng làm sao trong hồ sơ lại có cả những bài báo ngô nghê đăng trên tờ Nhân dân và Văn nghệ từ mãi những năm 1954-1955, khi tôi còn là một con chiên ngoan đạo ? Thì ra khi có một bút danh mới xuất hiện những cán bộ tổ chức theo dõi văn nghệ liền ghi ngay vào sổ, và nếu có một chút nghi ngờ thì một hồ sơ liền được lập. Nếu không làm sao người ta có thể có những bản liệt kê những thứ tầm phơ như thế ?
Dù có căm ghét hệ thống quản lý cán bộ ấy tới mức nào chăng nữa tôi vẫn phải khâm phục tính chất vô nhân và vô luân hoàn hảo của nó. Về hệ thống của Thọ cần có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc trên hai bình diện : môi trường xã hội cần và đủ cho sự nảy sinh và tồn tại của hệ thống, cách vận hành nó. Ðảng cộng sản Việt Nam có quyền tự hào - trong lĩnh vực này kể cả Gestapo của Ðệ tam Ðế chế cũng khó sánh được với Ban Tổ chức Trung ương.
Bên cạnh Ban tổ chức Trung ương, Lê Ðức Thọ đặt ra Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương. Nó được lập ra để bảo vệ sức khoẻ cho các ủy viên Trung ương, nhưng chủ yếu là các Trung ương ủy viên cổ cánh, và trước hết là các ủy viên Bộ Chính trị. Theo quy định, cán bộ đã tham gia hoạt động cách mạng trước 9-1945 đều nằm trong sự chăm sóc của Ban này, nhưng đó là quy định được đặt ra cho vui chứ không phải thực tế là như vậy. Không hề có dấu bằng giữa một đảng viên chịu đựng nhiều hy sinh cho cách mạng, với một ủy viên Bộ Chính trị đỏ da thắm thịt.
Sức khỏe các ủy viên Bộ Chính trị thời Duẩn-Thọ đượctiêu chuẩn phục vụ tối đa, với tất cả khả năng mà nền y học Việt Nam hiện đại có. Trong tay Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương có những bác sĩ hàng đầu ở các bệnh viện tốt nhất. Có vị còn được cấp phát một nữ sinh viên để thứ bảy chủ nhật đến săn sóc sức khoẻ và bầu bạn cho đỡ buồn. Khi cô sinh viên "xin phép chú cháu đi lấy chồng" thì chú nước mắt nước mũi giàn giụa nằng nặc giữ cô lại. Ðời con gái có thì, cô ta không chịu, thế là nhà lãnh đạo ngã bệnh, các chuyên gia Việt Nam khám không ra, chữa không được, ông phải đáp chuyên cơ(2) ra nước ngoài chạy chữa. Cuộc tình bao cấp được Thọ cho quay phim, chụp ảnh lén, sẽ có lúc dùng tới. Chuyện thâm cung bí sử này lọt ra ngoài cũng từ cái Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương nọ.
Cái sự ham muốn quyền lực thường có ở những người đã được nếm mùi quyến rũ của nó. Nhưng ở Lê Ðức Thọ nó mang một sắc thái đặc biệt, với một bề ngoài đạo đức giả điêu luyện. Những người tiên đoán mâu thuẫn giữa Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ nói rằng cặp này sớm muộn sẽ loại trừ nhau chính là do quyền lực. Tôi nghe vậy biết vậy, chứ không nghĩ rằng nhận định của họ có sở cứ, mặc dầu đó là những người biết cả Duẩn và Thọ từ những năm ở bưng biền. Sau mới biết là đúng.
Cuối năm 1967 tôi và mẹ tôi vào Hà Ðông thăm bác Ðinh Chương Dương, bác kể mới tháng trước có mấy cán bộ ở Ban lịch sử Ðảng vào gặp bác để lấy tài liệu về phong trào cách mạng và cộng sản ở Nam Ðịnh. Mấy nhà sử học quan phương một mực dỗ dành nhà cách mạng lão thành xác nhận bằng văn bản rằng Lê Ðức Thọ là người cộng sản đầu tiên ở Nam Ðịnh. Bác Ðinh nghe rác tai quá, mới bảo họ :"Này các anh, nghe tôi khuyên đây : nếu muốn chép sử thì nhất nhất phải chép theo sự thật. Còn muốn viết sử thì cứ việc viết theo ý các anh muốn, hoặc theo ý người trên. Không làm được Tư Mã Thiên thì làm thư lại mà giữ lấy nếp nhà lương thiện". Kể lại chuyện này, bác Ðinh nói với tôi :"Khi bố cháu đã hoạt động cách mạng rồi thì anh Thọ này còn là học sinh(3). Chẳng hiểu sao anh ta lại thích được ghi vào sử đảng rằng anh ta là người cộng sản đầu tiên ở Nam Ðịnh đến thế ? Con người tham thật, được bao nhiêu cũng chưa vừa lòng". Anh Kỳ Vân kể hồi anh đã là xứ ủy viên Bắc Kỳ, Lê Ðức Thọ cũng từng hoạt động với anh. "Hồi ấy hắn ta không như bây giờ bây giờ đâu. Khiêm tốn lắm, nhũn nhặn lắm. Mà trình độ hiểu biết chính trị thì a b c, biết cái khỉ gì đâu. Cho nên nịnh Trường Chinh lắm, nghe Trường Chinh như nghe thánh sống. Thế mà sau năm 54 ở trong Nam ra hắn đã câng câng, nhìn thiên hạ bằng nửa con mắt. Trường Chinh nâng đỡ hắn là thế, vậy mà khi Trường Chinh thất thế, hắn cũng vênh váo cả với Trường Chinh mới tệ".
Mà nào có phải Lê Ðức Thọ là nhà cách mạng kiên cường cho cam ! Năm 1943, ông Sao Ðỏ Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La về ở nhà tôi, tại 65 phố Nhà Rượu (phố Nguyễn Công Trứ bây giờ), ông còn bảo cha tôi :"Anh chịu khó đi Nam Ðịnh tìm thằng Khải(4) hỏi thẳng nó xem nó có còn muốn hoạt động với anh em nữa không, hay chỉ nằm nhà ôm vợ ?". Cha tôi đạp xe đi Dịch Lễ, tìm được Lê Ðức Thọ, lôi Thọ ra khỏi cái giường êm, trả về cho tổ chức. Về chuyện này cha tôi có ghi lại trong tập hồi ký "Tháng Tám cờ bay".
Lạ nữa là chẳng phải một mình Lê Ðức Thọ làm to. Hai người em ruột Thọ là Ðinh Ðức Thiện (tức Phan Ðình Dinh) và Mai Chí Thọ (tức Phan Ðình Ðống), cho tới Cách mạng Tháng Tám chưa hề có tiếng tăm trong hàng ngũ cách mạng cũng làm to nốt. Một người lên đến thượng tướng, bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng, Tổng cục trưởng Tổng cục dầu khí, một người được phong đại tướng ngành Công an khi về hưu. Những nhà cách mạng lão thành cứ ngẩn ngơ trước sự thăng tiến vù vù trên hoạn lộ của ba anh em nhà nọ. Quả là sự hi hữu trong lịch sử.
Người làng Dịch Lễ nói rằng ba anh em Khải-Dinh-Ðống lên nhanh thế là nhờ mồ mả. Tôi không tin. Sau này, được chính anh cháu ruột Lê Ðức Thọ, một nhà khoa học hẳn hoi chứ không phải người không hiểu biết, kể cho tôi nghe chuyện ngôi mộ cụ thân sinh Lê Ðức Thọ tôi mới đâm ra ngờ vực - chẳng lẽ thuật để mả có từ lâu đời ở nước ta lại có thật ? Không khoa học nào thừa nhận môn phong thủy, nhưng trong chuyện vận may của nhà họ Phan xem ra nó lại có lý hơn mọi cách giải thích khác. Sống vì mồ vì mả, không sống vì cả(5) bát cơm, không phải vô lý mà các cụ ta đã có câu như vậy.
Nhà khoa học kể : gia đình Lê Ðức Thọ gồm hai chi. Chi trên, ngành cả, là chi bác ruột của Thọ, cụ Phan Ðình Hòe, và chi dưới, cụ Phan Ðình Quế, thân sinh ra ba ông quan lớn sau này. Cụ Hòe từ nhỏ tư chất thông minh, văn hay chữ tốt, sau đỗ đạt cao, làm quan nhất phẩm, thượng thư hay là cái gì đó tương tự, tôi nghe nhưng không nhớ. Ông em ruột cụ là cụ Quế thì ngược lại, học trước quên sau, được cái tính củ mỉ cù mì, an phận thủ thường ở nhà với vợ, chịu khó cày sâu cuốc bẫm, chăn gà chăn lợn.
Cụ Hòe thôi việc quan, được một thầy địa lý nổi tiếng trong vùng chọn cho một huyệt tốt phòng khi cụ hai năm mươi, gọi là huyệt Lỗ Ao. Tại sao nó có tên như vậy thì nhà khoa học không biết, cũng không được ai giải nghĩa. Thế nhưng cụ Hòe lại thọ, thành thử huyệt đã sẵn mà cụ vẫn sống phây phây để rồi gặp được một thầy địa lý khác, theo lời thiên hạ đồn thì cao tay hơn ông thầy trước nhiều.
Thầy địa lý này trẻ mà kênh kiệu, cụ Hòe vời mấy lần mới chịu tới. Trước mặt cựu thượng quan thầy cung kính chắp tay thưa : "Kẻ hèn võ vẽ chuyện đất đai, nghe lời cha mẹ dạy trước nay làm việc này chỉ cốt được sự phúc đức. Thấy ai không hiểu biết, lỡ đặt cha mẹ hoặc thân nhân nhằm chỗ đất độc thì mách cho người ta đặt lại kẻo rồi sau di hại đến con cháu. Chứ tìm đất tốt phát vương phát bá thì kẻ hèn này không có tài ". Cụ Hòe nói muốn nhờ thầy xem lại huyệt Lỗ Ao. Thầy vâng lời, xem xong rồi thưa :"Bẩm, quan lớn là bậc đa kiến văn, trí lự hơn người, xin quan tự định liệu. Huyệt này đúng là phát, phát lắm. Tiếc thay, nó phát một đời, nhưng lại bị nguyền rủa muôn đời".
Cụ Hòe giật mình, dặn con cháu :"Công hầu khanh tướng chẳng qua chỉ là giấc mộng hoàng lương. Ta chết đi chúng bay cứ chọn chỗ cao ráo cho ta nằm. Ta không muốn giòng họ ta vì phát một đời mà chịu tiếng xấu muôn đời !". Con cháu nghe lời bỏ huyệt Lỗ Ao. Cụ Hòe có để lại một bài tứ tuyệt nói lên ý trên, đúng là khẩu khí của bậc hiền nho, nhưng nhà khoa học kể chuyện này không thuộc.
Cụ Quế tiếc rẻ cái huyệt phát, bảo: "Bác cả không nằm, để tao nằm". Cụ qua đời, con cháu táng vào huyệt Lỗ Ao.
Câu chuyện này tôi được nghe vào năm 1966, thời cực thịnh của Lê Ðức Thọ.
Cho đến khi tôi viết những dòng này Lê Ðức Thọ bị nguyền rủa đã nhiều. Trong cả nước. Từ dưới dân đen tới những tầng cao chế độ. Không phải chỉ những người bị Lê Ðức Thọ hãm hại và con cháu họ, mà cả những người vô can. Người ta coi Lê Ðức Thọ là đệ nhất gian thần trong lịch sử nước nhà.
Ðinh Ðức Thiện không chịu chung những lời nguyền rủa với ông anh cả. Trong cuộc đời không dài Ðinh Ðức Thiện đã giữ những chức vụ rất quan trọng - bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim, Trưởng ban xây dựng Khu gang thép Thái Nguyên, Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, Tổng cục trưởng Tổng cục dầu khí, hàm thượng tướng. Ông ít học. Trình độ học vấn không quá bậc sơ đẳng. Thế nhưng Ðinh Ðức Thiện khinh trí thức lắm. Ông hạ lệnh cho các kỹ sư điện tính toán thời hạn lắp đặt đường dây cao thế Thái Nguyên - Hà Nội. Họ tính kỹ rồi báo cáo lên Ðinh Ðức Thiện: không thể dưới hai năm. Ông ta nghe xong liền nổi khùng :"Rặt một lũ ăn hại đái nát ! Làm chó gì mà mất những hai năm. Tôi mà ra lệnh cho công binh làm ấy à, chỉ hai tháng là cùng. Tính với chả toán, tính như con c... Các anh lúc nào cũng cúi đầu làm theo sách vở của bọn thực dân đế quốc. Vào rừng chặt cây về mà làm cột, mắc điện vào. Là xong. Trí thức với chả trí ngủ !". Người kể lại chuyện này là một kỹ sư tốt nghiệp Cao đẳng kỹ thuật thời Pháp, hôm ấy được nghe Ðinh Ðức Thiện trực tiếp quát mắng.
Các kỹ sư tốt nghiệp ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng chẳng được ông tướng trọng vọng hơn. Họ dặn nhau :"Ðến yết kiến lão phải phơi nắng vài ngày cho da đen đi cái đã. Mà nhớ lấy nhá, chớ có đi giày tây, chớ có diện củ(6), lão hò hét gì mặc lão, cứ vâng dạ. Chớ cãi, cãi lão chỉ có chết". Thấy anh nào trắng trẻo, ăn vận sạch sẽ, có dáng ở Tây về, ăn nói thiếu thưa bẩm, cử chỉ không giữ gìn thận trọng trước cấp trên là ông quan hét ầm ầm:"Ði xuống cơ sở(7). Ngay lập tức, không oong đơ gì hết, Lao động một năm rồi về đây gặp tao". Ðinh Ðức Thiện dị ứng với bằng cấp. Kẻ có bằng cấp muốn được ông thu dụng phải nhoài người ra mà nịnh ông cho tới khi ông mềm lòng.
Có một thời sự thiếu học được coi là niềm tự hào - người ít học là người có quá khứ trong sạch, không dính với thực dân, phong kiến. Ðinh Ðức Thiện tự hào về sự thiếu học của mình lắm. Ông vỗ ngực đồm độp :"Xem tao đây này, tao chẳng có cái bằng chó nào hết, thế mà tiến sĩ kỹ sư sợ tao một phép. Chúng nó ỷ có học, nhưng học gì lũ chúng nó, học vẹt ấy thì có, rời sách vở ra là chịu chết. Trí thức mà không có thực tế chỉ là cục c... Chính tao này, tao chỉ đạo kỹ thuật cho chúng nó, chứ ai ? Nghe cái bọn quen bơ thừa sữa cặn ấy chỉ có mà ăn cháo, ăn cháo !".
Cũng lại là công nhân theo lý lịch tự khai chứ không theo định nghĩa của Mác, Ðinh Ðức Thiện khó chịu với mọi biểu hiện ông cho là ăn chơi của cấp dưới. Lúc nào ông cũng phô cái quá khứ nhọc nhằn. Thực ra quá khứ của ông chẳng nhọc nhằn gì, người làng Dịch Lễ nói vậy. Ông sướng từ bé, lớn lên ra tỉnh ăn chơi lêu lổng, chim gái thành thần, họ kể. Nhưng ông cứ xưng xưng nói thế. Ông không cho phép cái lũ không biết nhọc nhằn là gì được phép sung sướng. Ông chỉ cho phép mình sung sướng thôi. Mà Ðinh Ðức Thiện là người biết cách để sung sướng lắm.
Hồi kháng chiến chống Pháp, công tác tại Liên khu 3, Ðinh Ðức Thiện rủ Hoàng Minh Chính mở một hộp đêm để giải sầu :"Chúng mình đầu tắt mặt tối, vào sinh ra tử, khổ bỏ mẹ, phải có một chỗ để thỉnh thoảng giải khuây, làm một phát cho khoái". Hoàng Minh Chính không đồng tình :"Mày nói thế chó nó nghe được. Cán bộ cách mạng mà làm bậy, tổ chức kỷ luật chết". Ðinh Ðức Thiện cười vào mặt Hoàng Minh Chính :"Xì, mày ngu bỏ mẹ, tiền lấy ở quỹ đen, mình làm đen luôn, giữ bem(8) tốt, thằng chó nào biết !". Hoàng Minh Chính kể cho tôi nghe chuyện này vào mùa hè năm 1965, cũng nhân nói tới sự thăng tiến kỳ lạ của ba anh em họ Phan. Anh không hề có ác cảm với Ðinh Ðức Thiện khi kể lại câu chuyện đó. Hai người là bạn với nhau một thời, tuy không thân thiết.
Một người bạn tôi có hồi công tác dưới quyền Ðinh Ðức Thiện, thường được ông cho đi săn cùng. Ði săn là thú chơi của Ðinh Ðức Thiện. Anh kể mỗi lần ông ta ra lệnh đi săn là mỗi lần nhân viên phục vụ ông tướng quýnh quáng sửa soạn đủ thứ ông tướng cần, không được để thiếu thứ gì. Ông đi một xe, một xe chở lính hầu, súng săn, xoong nồi, bia rượu và trăm thứ bà rằn khác, kể cả lều bạt phòng khi ông hứng lên nghỉ lại trong rừng.
Sinh ư nghệ tử ư nghệ, Ðinh Ðức Thiện chết bất đắc kỳ tử trong một chuyến đi săn. Ðâu như lúc mở cửa xe bước xuống Ðinh Ðức Thiện bị súng cướp cò, đạn bắn vào đầu. Sau cái chết đột ngột của viên tướng có tin đồn : Ðinh Ðức Thiện bị hạ sát bởi tay Lê Ðức Thọ. Trước đó tôi cũng có nghe thiên hạ nói nhiều về mối bất hòa giữa hai anh em họ Phan. Người họ Phan nói chuyện đó có thật. Họ cho biết thêm : kể cả Mai Chí Thọ cũng không ưa Lê Ðức Thọ. Mỗi lần Mai Chí Thọ từ Sài Gòn ra Hà Nội ông ta đều đến thăm bà chị ruột góa chồng (ông chồng bà đã treo cổ tự tử trong Cải cách ruộng đất) và Ðinh Ðức Thiện, nhưng không đến Lê Ðức Thọ. Cũng người trong nhà nói ra thì Ðinh Ðức Thiện biết những việc ám muội của ông anh có lần đã quát vào mặt Lê Ðức Thọ :"Anh làm thế để thiên hạ đào mả bố lên à ?". Làm thế cụ thể là làm gì thì người kể chuyện không nói. Bởi vì chẳng nói người nghe cũng hiểu - trong đời mình Lê Ðức Thọ làm quá nhiều điều thất nhân tâm.
Tôi không tin chuyện Lê Ðức Thọ giết em. Trong một chuyến đi săn, cũng theo lời bạn tôi kể, có hai lái xe, mấy bảo vệ tháp tùng, không dễ gì mua chuộc hoặc cưỡng bức được bằng ấy người một lúc. Lời đồn chỉ chứng tỏ thiên hạ tin ở sự nhẫn tâm của Lê Ðức Thọ mà thôi(9). Tuy nhiên, tôi vẫn không hiểu vì lẽ gì người ta giấu nguyên nhân tai nạn. Hình như việc này cũng không đến nỗi khó hiểu, thậm chí còn tầm thường - nếu không giấu nguyên nhân tai nạn thì chôn Ðinh Ðức Thiện ở nghĩa trang Mai Dịch xem ra danh không chính ngôn không thuận. Ông tướng không tử trận, không chết trong khi thừa hành công vụ, mà chết trong khi đuổi theo mấy con vịt giời.
Mai Chí Thọ một thời gian dài làm giám đốc Công an, rồi chủ tịch ỷy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, sống như một ông hoàng. Trong ngôi biệt thự to lớn ở Sài Gòn Mai Chí Thọ có cả một khu vườn rộng nuôi trăn, nuôi vượn, nuôi gấu. Người Sài Gòn tính : hàng tháng riêng tiền chi cho việc mua giày Addidas và vợt Wilson để chơi tennis Mai Chí Thọ đã phải bỏ ra một số tiền gấp năm sáu lần lương ông ta. Tiền đâu ra ? Không phải Mai Chí Thọ lấy ở quỹ đen nào, không phải Mai Chí Thọ tham ô công quỹ. Ðơn giản là trước thời kỳ "bung ra","đổi mới", các phú thương Hoa kiều bị khốn đốn trong cuộc cải tạo tư sản hoành tráng của Ðỗ Mười, họ thoát hiểm nhờ tìm thấy nơi Mai Chí Thọ vị "đại huynh" rộng lòng bảo trợ. Ðể đền ơn đáp nghĩa họ chiều chuộng "đại huynh" hết lòng.
Ðám cán bộ ba cọc ba đồng bất bình trước cuộc sống sa hoa của Mai Chí Thọ. Không tham nhũng không thể sống như vậy được, họ nói. Người Sài Gòn cười hắc hắc, phẩy tay :" Mấy ông tướng thời trước cũng dzậy à, hà cớ phải bực mình. Ông nầy không tồi hơn. Cờ tới tay ai người đó phất !' Tòa án thành phố có lần gửi giấy triệu Mai Chí Thọ tới tòa làm nhân chứng cho vụ án xử thương gia Triệu Bỉnh Thiệt. Ðồn rằng hồi ấy phe chống Mai Chí Thọ xui mấy ông quan tòa nhân chuyện Triệu Bỉnh Thiệt phạm pháp sẽ hỏi nhân chứng một chặp rồi trước bách tính công chúng đưa Mai Chí Thọ qua ngồi ghế bị cáo. Không thể để cho cấp dưới làm chuyện đã rồi với ông em, làm mất thể diện mình, Lê Ðức Thọ cấp tốc triệu Mai Chí Thọ ra Hà Nội. Sau vụ này Mai Chí Thọ vào Bộ Chính trị.
Người Sài Gòn kể chuyện Mai Chí Thọ có một đệ tử chuyên dắt gái cho họ Mai là Năm T. Cậy có ô dù của đàn anh, Năm T. tổ chức hẳn một hộp đêm bề thế cho các quan chức cấp tỉnh lên ăn chơi ở Sài Gòn. Vụ này vỡ lở, dư luận ầm ĩ, các vị chức sắc tay đã nhúng chàm im re, mặc cho Năm T. vào khám. Năm ngồi tù mất hai hoặc ba năm, sau mới được đàn anh can thiệp cho ra trước hạn.
Một dạo Sài Gòn ồn lên cái gọi là "phương án 2", cho phép người di tản đóng thuyền vượt biên, miễn nộp vàng cho Nhà nước. Thiên hạ rủ nhau đi như trẩy hội. Ði theo "phương án 2" người ít nhất cũng vài lạng, người nhiều hai ba chục "cây". Ðó là một secret Polichinelle(10) được cả các quan chức lẫn dân vượt biên đồng tình giữ kín.
Tôi cho rằng Nhà nước, với tư cách bộ máy điều hành quốc gia, không có chủ trương đốn mạt đến thế, như một số báo chí hải ngoại viết. Ðây là sự thông đồng, toa rập của một đường dây quyền lực từ trên xuống dưới, một thứ mafia đã tạo kén trong hệ thống cai trị. Nhà nước, hoặc nói hẹp hơn, ngân khố quốc gia, chẳng thu được gì. Chỉ một số quan chức ở Sài Gòn (và cả ở Hà Nội) là vớ bẫm. Trong đó, cũng theo lời đồn, không thể thiếu anh em họ Phan.
Những lời đồn nói trên rất phổ biến, là thứ chúng khẩu đồng từ ông sư cũng chết, tuy hỏi kỹ thì lại không có chứng cứ nào cả. Mặt khác, chẳng ai có thể bác bỏ chúng bởi vì chúng đầy tính thuyết phục. Vụ tử hình vội vã tên Mười Vân(11), giám đốc Công an Ðồng Nai, được thiên hạ bình luận như một hành động xóa dấu vết cho "phương án 2", nói cho đúng là xóa dấu vết cho các vị đã vớ bở(12).
Người Việt Nam vốn hào phóng với của chùa - tức là của chung cả làng, cả nước, của tập thể, cũng tức là chẳng của riêng ai, cho nên Mai Chí Thọ không bị nguyền rủa. Thực vậy, trong sự tham nhũng tràn lan từ trên xuống dưới, dư luận không xếp Mai Chí Thọ đứng đầu bảng. Còn có những nhân vật tham nhũng lớn hơn.
Dân chúng kết luận : mỡ đến miệng mèo, mèo không ăn mèo ngu. Mọi kẻ có chức quyền ở Việt Nam đều tham nhũng, khác nhau ở chỗ kẻ ít người nhiều mà thôi. Nếu ở các nước tư bản chủ nghĩa người có của dễ có quyền, thì ở nước xã hội chủ nghĩa người có quyền ắt có của.
Dân chúng quen làm ăn với những quan tham mất rồi, làm việc với quan tham không khó, tuy tốn kém, nhưng bù vào đấy lại nhanh hơn, được việc hơn. Có chuyện tới cửa công mà vớ phải ông thanh liêm thì hết hơi, người ta nói thế. Quan thanh liêm như con quạ trắng, dân sợ, dân xa lánh. Thời buổi này mà cứ thẳng băng, đúng phép tắc, không linh động gì hết, thì rõ là bôn-sê-vích dở hơi. Phép nước thì loạn xà ngầu, điều luật này chửi cha điều luật kia, nghị định này leo lên đầu nghị định khác, chính ông thanh liêm sa vào mê lộ luật pháp cũng còn lúng túng như gà mắc tóc, nói gì dân. Thành thử với lũ tham quan người ta khinh đấy, tởm đấy, nhưng để được việc người ta không chọn các quan thanh liêm.
Nếu thuyết phong thủy đúng thì huyệt Lỗ Ao ở làng Dịch Lễ ảnh hưởng quá ghê gớm tới vận mệnh dân tộc. Nó không phải chỉ ảnh hưởng tới một Việt Nam mà còn ảnh hưởng tới cả các dân tộc láng giềng.
Nói những chuyện trên ra để ta cùng suy ngẫm về một hiện tượng, tôi không có ý phủ nhận sạch trơn những gì tốt mà ba anh em họ Phan đã làm. Những cái đó, trong thời đại của những nghịch lý, đều có thật, nhưng là cái hoàn toàn bình thường - bất cứ ai được đặt vào trong những cương vị như thế đều phải làm được cái gì đó, thậm chí là công trạng.
Nói đến Lê Ðức Thọ không thể không nói tới sự kiện Việt Nam chiếm đóng Kampuchea. Việc đưa 200.000 quân Việt Nam vào Kampuchea và ở lì đất nước người ta mười năm là việc liên minh Duẩn - Thọ chủ trương, trong đó Thọ vừa là người khởi xướng, vừa là người thực hiện. Thế giới không bênh vực Khmer Ðỏ. Cả thế giới lên án Khmer Ðỏ vì tội ác diệt chủng. Người Kampuchea đã hoan hỉ đón quân đội Việt Nam vào Kampuchea đánh đuổi Khmer Ðỏ. Nhưng không phải vì thế mà họ hoan nghênh quân đội Việt Nam chiếm đóng nước họ. Hai việc khác nhau không thể nhập một, không thể lấy cái tốt nọ để che cái xấu kia.
Sự kiện Khmer Ðỏ tấn công vùng biên giới Tây Nam hoàn toàn không phải là lý do để Việt Nam đưa quân sang chiếm đóng đất nước người khác(13). Không một người Việt Nam nào muốn đưa con em mình đi chết ở đó. Nhưng bất chấp dư luận, Duẩn - Thọ cứ xua quân sang. Làm gì nhau tốt ? Rồi để quân lại đó, cũng làm gì nhau tốt ? Ðảm bảo cho hành động phiêu lưu quân sự này đã có Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt-Xô, thực chất là hiệp ước liên minh quân sự, ký ngày 3.11.1978. Ông chiếm Kampuchea đấy, thử đụng vào ông coi thử ? Ðàng sau ông là Liên Xô hùng mạnh với tiềm lực nguyên tử dồi dào, thằng nào muốn đụng đầu với Liên Xô cứ việc nhảy vào. Cũng giống như vụ Liên Xô chiếm đóng Afganistan, thế giới phản đối om xòm, nhưng chẳng ai dại gì thò tay vào ổ kiến lửa. Kể cả nước Mỹ.
Ai cũng thấy rằng sau những cuộc chiến tranh dai dẳng trên đất nước mình, các nhà lãnh đạo Việt Nam lẽ ra phải đủ tỉnh táo để chỉ làm một cuộc chiến tranh hạn chế khi Khmer Ðỏ cả gan vượt biên giới, tàn sát người Việt. Cùng lắm, có thể truy kích chúng, với mục đích răn đe, rồi rút quân về. Có thể để lại trang bị, vũ khí giúp nhân dân Kampuchea chống lại bọn diệt chủng. Gia dĩ có thể đào tạo cán bộ giúp họ. Và chỉ thế mà thôi. Nhân dân Kampuchea sẽ ghi ơn các chiến sĩ Việt Nam. Thế giới sẽ hoan nghênh Việt Nam biết xả thân giúp đỡ hàng xóm láng giềng trong cơn hoạn nạn.
Cuộc chiến tranh không tuyên bố ở Kampuchea đã xảy ra. Nó là cuộc chiến tranh không tuyên bố vì Quốc Hội không được hỏi ý kiến về cuộc chiến tranh này. Không hề có một cuộc biểu quyết nào tại Quốc Hội về việc đưa quân đội ra ngoài biên giới. Nhà nước Việt Nam không hề tuyên chiến với nước Kampuchea. Quốc Hội là cơ quan quyền lực tối cao của quốc gia, nhưng nó chẳng có quyền gì cả. Quốc Hội do Ðảng nặn ra, là tay sai của Ðảng, hơn nữa còn là tay sai bị khinh rẻ, đến nỗi Ðảng không cần dùng đến nó cho một việc hợp pháp hóa thông thường.
Thiếu tướng Hồ Quang Hóa, ủy viên Trung ương Ðảng, người được Thọ đưa lên và cũng do Thọ mà trở thành vật hiến tế trong vụ Xiêm Rệp (Siam Reap)(14) nói rằng vụ này cũng như mọi việc lớn việc nhỏ khác ở Kampuchea, đều do Lê Ðức Thọ chỉ đạo. Thái thú Lê Ðức Thọ phế truất Tổng bí thư kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pen Xô Van(15). Thái thú Lê Ðức Thọ đưa cô y tá Quân khu 7 Miên Xam On vào Trung ương Ðảng Nhân dân cách mạng Kampuchea. Cô gái dân tộc Kmer ở Việt Nam 26 tuổi lên chức vèo vèo : làm Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, rồi ủy viên Bộ Chính trị. Cô lên nhanh như thế, theo các cán bộ Việt Nam có mặt tại Kampuchea hồi ấy, là nhờ thường xuyên ra vào ngôi biệt thự sau điện Chăm Ca Mon để được thái thú "dạy dỗ".
Cần phải làm rõ sự thật này một cách dứt khoát : cuộc chiến tranh ở Kampuchea là cuộc chiến tranh của Ðảng cộng sản Việt Nam. Không phải là cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam.
Liên minh Duẩn - Thọ đã biến một dân tộc hiền hòa thành quân xâm lược.
Cũng có thể cãi cho Lê Duẩn chút ít, rằng trong việc này ông ta không phải là đầu vụ. Còn đang say sưa với chiến thắng 1975 và những chương trình lớn, nhiều ảo tưởng hơn thực tế, Lê Duẩn hầu như mặc Thọ muốn làm gì thì làm. Ông ta cũng chẳng thiệt. Cuộc phiêu lưu Kampuchea do Thọ lo toan, xét cho cùng, vẫn cứ mang lại cho Lê Duẩn thêm một vinh quang. Mà vinh quang thì không bao giờ thừa.
Lê Duẩn không biết trong lòng Thọ đang nung nấu mưu đồ lớn. Nếu Thọ thành công trong việc dựng nên một chính phủ Kampuchea vâng lời Thọ thì Thọ sẽ có thêm một sức mạnh quyết định trong mưu toan nặn ra một Liên bang Ðông Dương. Trong Liên bang này Thọ sẽ là đồng chí trên hết các đồng chí. Ðến lúc đó Lê Duẩn sẽ chỉ là bí thư một nước thành viên mà thôi.
Ðám đệ tử Lê Ðức Thọ quá hí hửng về tiền đồ sáng lạn đã để lộ mưu đồ đó ra ngoài. Văn Cao có kể cho tôi nghe chuyện người của Thọ đã gặp những nhạc sĩ nào để gợi ý họ viết quốc thiều cho Liên bang Ðông Dương. Những nhạc sĩ nhận lời được Lê Ðức Thọ mời cơm tại nhà. Ông Bùi Công Trừng có lần nói với tôi : "Thằng Thọ nhiều tham vọng lắm, cháu ơi. Quan sát kỹ động thái của nó cháu sẽ thấy : mọi việc nó làm đều dẫn tới một cái đích - hất Lê Duẩn. Mà không phải chỉ nhằm cái chức tổng bí thư đâu, cái đó chưa đủ cho lòng tham của nó. Nó còn muốn làm tổng bí thư Liên bang Ðông Dương kìa". Như vậy, từ những nguồn tin khác mưu đồ của Thọ cũng đã tới tai Bùi Công Trừng. Ông không ưa Lê Duẩn, nhưng không vì thế mà ông ưa con chuột chũi đang đào hầm dưới ghế Duẩn.
Khi Lê Duẩn phát hiện được mưu toan của Thọ nhằm phế truất mình thì Lê Duẩn căm Thọ lắm lắm. Ðến mức thẳng cánh đuổi Thọ ra khỏi nhà trong lần Thọ đến chia tay với tổng bí thư đang hấp hối. Người trong gia đình Lê Duẩn cho biết Duẩn gọi vỗ mặt Thọ là "thằng phản bội".
Cũng theo tướng Hóa, Lê Ðức Thọ đã lẩn trốn trách nhiệm trước vụ Xiêm Rệp, cũng như nhiều vụ khác nữa, viện cớ bận họp, bận chữa bệnh.
- Anh hãy tìm cho tôi một kẻ dám chống lệnh ông Sáu vào thời gian ấy. - tướng Hồ Quang Hóa nói với tôi trong một bữa cơm ở Sài Gòn - Không ai được phép tự ý làm một việc gì nếu không có lệnh ông Sáu.
Cuộc phiêu lưu quân sự được tiến hành theo sáng kiến và sự chỉ đạo của Lê Ðức Thọ đã làm cho khoảng 52.000 chiến sĩ chết trận, 200.000 chiến sĩ bị thương(16). Chẳng những thế, nó còn làm cho dân tộc Việt Nam bị nhục nhã trước thế giới trong bộ mặt kẻ xâm lược, bị tẩy chay, bị trừng phạt.
Nước Việt Nam được gì, mất gì ở Kampuchea ? Tại sao cho tới nay Ðảng cộng sản Việt Nam không dám nói tới, không có can đảm nhận lỗi trước những người láng giềng đau khổ để xóa đi một trang sử nhơ nhớp ? Thọ đã chết trước khi phải ra đứng trước vành móng ngựa một phiên tòa liên tịch hai nước, với tư cách tội phạm chiến tranh.
Người duy nhất đủ tư cách thay mặt Thọ hôm nay là Lê Ðức Anh.
(1) Chính khách Hoa Kỳ, sinh năm 1923, cầm đầu phái đoàn Hoa Kỳ trong cuộc hòa đàm tại Paris năm 1973.
(2) Máy bay dành riêng cho các vị lãnh tụ.
(3) Theo hồi ức của ông Ngô Thế Tân, Việt kiều ở Pháp, chồng họa sĩ Nguyễn Thị Lựu, thì vào những năm 1926-1927 khi ông Tân còn là học sinh trường Canh nông Tuyên Quang thì vào "một đêm trăng mờ mở cuộc họp đông chừng vài chục người trong một khu rừng nhỏ. Không ai nhìn rõ mặt ai. Tóm tắt lại đây là đại diện một đảng có mục đích hoạt động bằng đủ mọi cách để lấy lại độc lập cho tổ quốc... Mãi đến năm 1956-1957 khi tôi ở Pháp trở lại Hà Nội anh bạn Vũ Ðình Huỳnh mới cho tôi biết người đảng viên bí mật nằm rừng tuyển mộ đảng viên ở trường Canh Nông hồi đó chính là anh...Nay anh đã khuất mà tôi cũng chẳng hay hồi ấy anh ở đảng nào..." Theo các nhà cách mạng thế hệ già Lê Ðức Thọ hồi ấy còn là học sinh.
(4) Tên thật của Lê Ðức Thọ.
(5) Cả ở đây là lớn, to, đầy.
(6) Bộ com-lê âu phục.
(7) Chỉ cấp thấp nhất trong các ngành, ở địa phương chứ không phải ở Trung ương.
(8) Bí mật, do hai chữ đầu b và m.
(9) Màn bí mật che phủ cái chết của Ðinh Ðức Thiện chẳng có lợi gì cho nhà cầm quyền. Nhưng người ta đã bị nô lệ cho thói quen không công khai và cam chịu tác hại của nó.
(10) Bí mật mà ai cũng biết.
(11) Mười Vân xuất thân là một nông dân với học lực lớp 4, bắt đầu được thăng quan tiến chức từ khi làm đội trưởng đội Cải cách ruộng đất tại Hòa Bình.
(12) Những người chạy trốn sự cai trị của cộng sản, di tản bằng thuyền, được thế giới gọi bằng cái tên "thuyền nhân" (boat people), đông tới một triệu rưỡi nhân mạng, là một vết nhơ không thể nào tẩy sạch trên mặt Ðảng cộng sản Việt Nam. Phần lớn thuyền nhân đi từ miền Nam Việt Nam nhằm hướng Mã Lai, Indonesia, số ít đi từ Hải Phòng, vùng mỏ Quảng Ninh nhằm hướng Hongkong. Có thể hình dung những người chủ trương "phương án 2" đã thu được một số lượng vàng lớn đến thế nào. Mười Vân có tội đã nâng giá "mở cửa" từ hai ba cây vàng lên tới mười, mười hai cây vàng cho một đầu người ra đi, gây nên cơn tức giận có lý ở cấp trên của y. Cho nên y bị đưa ra làm vật hiến tế cũng đáng.
(13) Theo những người lính từ chiến trường Kampuchea trở về kể lại thì thời gian đầu người dân Kampuchea rất vui mừng chào đón quân đội Việt Nam tiến sang tiêu diệt Khmer Ðỏ để cứu sống họ. Nhưng việc quân đội Việt Nam ở lì đó năm này qua năm khác đã gây ra một hậu quả xấu xa, nó trở thành quân đội xâm lược, một thứ lính lê dương, và người Kampuchea đã chống lại nó, từ quân Khmer Ðỏ cho tới cả quân của chính phủ bù nhìn Heng Xomrin.
(14) Vụ phản tình báo đã đưa vào xiếc Bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam. Sự việc như sau : căn cứ vào tin đồn do Khmer Ðỏ, có sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Quốc, tung ra thì hầu hết cán bộ lãnh đạo tỉnh Xiêm Rệp đều đã làm việc cho Khmer Ðỏ. Bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam liền ra tay đàn áp, không cần hỏi ý kiến ban lãnh đạo Ðảng bạn. Hơn bốn chục cán bộ của chính quyền Hun Xen bị bắt, bị tra tấn thành thương tật, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Xiêm Rệp tự sát. Trong thời kỳ này Lê Ðức Anh là Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, Hồ Quang Hóa - tham mưu trưởng. Ðứng trên tất cả là Lê Ðức Thọ.
(15) Trước khi làm Tổng bí thư Ðảng cộng sản Kampuchea Pen Xô Van làm trưởng phòng quảng bá tiếng Khmer trong Ðài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
(16) Theo những nguồn tin quân sự đáng tin cậy.
Cảm giác dễ chịu về nơi ở mới là cảm giác đánh lừa. Chỉ vài tuần sống ở đây tôi đã thấy trại giam này là rất tồi tệ, ít nhất thì cũng đối với những tên tù xử lý nội bộ.
Về tổ chức trại quân pháp Bất Bạt giống Hỏa Lò, gồm trại chung và khu xà lim giam cứu. Cái khác là tất cả những người ở đây - cả tù lẫn người coi tù - đều thuộc bộ đội. Ðông nhất là đào binh phạm tội hình sự, còn đào binh vì sợ chết bỏ trốn về nhà thì được gom lại trong các tiểu đoàn kỷ luật. Chúng tôi là tù dân sự đầu tiên đến trại này.
Lê Ðức Thọ rất biết chọn chỗ cho chúng tôi - khu xà lim Bất Bạt nằm lọt thỏm trong một thung lũng rộng cách rất xa các khu dân cư.
ê đây hầu như không nghe được tiếng động của cuộc sống bình thường - không tiếng mõ trâu, không tiếng chó sủa, không cả tiếng cối xay ù ì quen thuộc nơi thôn dã. Khi anh Minh Việt bị đưa đi nơi khác, trong ngôi nhà bốn phòng chỉ còn lại một mình tôi. Và cái vắng lặng khôn cùng.
Người tù xà lim Hỏa Lò còn có thể căn cứ vào tiếng động từ các khu trại chung hay khu nhà bếp vọng lại, hoặc nghe ngóng động thái của bạn tù các phòng bên mà đoán được chuyện gì đang xảy ra bên ngoài, cho dù là những chuyện vớ vẩn, không dính líu gì đến mình. Những cái nhỏ nhặt ấy tạo ra sự thay đổi, giảm bớt sự nhàm chán. Bị tách rời hoàn toàn với thế giới bên ngoài là một khổ hình.
Phạm binh sống không khác trong quân ngũ là mấy. Họ được đi lại tự do trong phạm vi trại. Phạm binh bị giam trong xà lim cũng không có cảm giác của chúng tôi. Họ bị giam cứu có thời hạn, thường không quá vài tháng, chỉ đủ để hoàn cung. Họ hiểu rằng đây chỉ là nơi tạm bợ - sau đó sẽ là tòa án binh, là trại chung, thậm chí trường bắn, nhưng mọi sự là rõ ràng.
Trước mặt chúng tôi là một chân trời xám xịt. Không ai có thể nói cho chúng tôi biết thời hạn chúng tôi phải ở trong cái nhà tù khốn nạn này bao lâu, kể cả đám chấp pháp. Trong xà lim Bất Bạt chúng tôi giống những con thú bị nhốt. Những con chuột, không rõ là chuột cống hay chuột đồng, con nào con nấy béo núc ních mỗi khi chiều xuống lại tụ hội trước cửa sổ xà lim. Chúng nhởn nhơ đi lại, vẻ no đủ, thỉnh thoảng liếc nhìn con thú to ở trong cũi, vẻ khinh khỉnh.
Cái sự giam người vô thời hạn, lại giam trong xà lim, là một cách hành hạ tàn nhẫn. Khỏi cần nói tới mọi sự thiếu thốn trong nhà tù Việt Nam. Ðau răng, xin thuốc không có. Ðau bụng, khai hôm nay thì mai mới được thuốc chữa. Sốt hả, đợi đấy, sẽ có thuốc hạ nhiệt cho anh. Nhưng hôm nay thứ bảy rồi, phải sáng thứ hai ông y sĩ mới tới. Nhưng cái khổ nhất là đói. Ðói lắm. Ðói cồn cào. Ðói mờ mắt. Ðói run người.
Có lần tôi vớ phải khúc sắn ôi trong suất cơm độn, nhựa sắn nhầy nhụa như tinh dịch. Tởm quá, giận quá, tôi quẳng nó xuống hầm trú ẩn. Thế rồi đêm đến, bụng quặn lên vì đói, chịu không nổi, tôi lại phải sờ soạng trong bóng tối tìm khúc sắn vứt đi, lấy miếng giẻ cũng chẳng sạch gì lau cái nhựa gớm ghiếc ấy đi mà nhai trệu trạo chút tinh bột lẫn đất cát.
Nhai miếng sắn mà nước mắt ứa ra. Mà thèm một khúc ngoặt lịch sử, như trong chuyện thần kỳ, để bọn Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ có dịp đến ở đây, như tôi đang phải sống lúc này. Sắn đã thiu, tôi tưởng sẽ bị tháo tỏng, vậy mà lạ thay, không hề gì cả.
Dù sao mặc lòng, trại quân pháp Bất Bạt vẫn còn khá hơn Hỏa Lò. Trước hết, nó hơn ở chỗ tù được ăn cơm nóng chứ không phải thứ cơm nguội ngắt, đã thế còn bị chuột vầy. Ðịnh lượng gạo cho tù là chung trên cả nước, ở Bất Bạt không thể nhiều hơn, nhưng ở Hỏa Lò tiêu chuẩn bị ăn bớt, suất cơm ít hơn hẳn. Sở dĩ ở Hỏa Lò tôi không bị cái đói hành hạ là nhờ kho lương thực dự trữ của Thành.
Tại trại Bất Bạt, chúng tôi được hưởng chế độ chờ giải quyết. Ðảng giữ lời hứa, tuy muộn. Tôi được hưởng tiêu chuẩn thịt như ở ngoài. Một cân thịt được chia làm hai, cứ nửa tháng quản giáo công an(1) mang vào cho tôi một bát thịt kho tàu. Thịt kho mặn, có thể để ăn dần mà không thiu, nhưng ngay lần đầu tôi nếm thấy nó có vị đắng khác thường, không ra vị kẹo đắng ở nhà quê mà cũng không ra vị nước hàng ở tỉnh.
Tôi được đọc về những vụ đầu độc dẫn tới cái chết từ từ. Theo một giả thuyết của Tarlé(2) thì ở đảo Sainte-Hélène Napoléon bị đầu độc bằng những liều thạch tín rất nhỏ. Thấy món thịt kho đáng ngờ, tôi không ăn. Không ăn thì phải đổ đi, mà đổ đi thì tiếc lắm. Trong tù miếng thịt quý như vàng, ai không ở tù không biết được cái sự thèm thịt nó thế nào, nhìn thấy thịt nước miếng đã ứa ra rầm rầm. Nhưng không thể không đổ. Ðổ đi cũng phải khéo, sao cho quản giáo không biết, mỗi ngày đổ một ít vào bô, buổi sáng ra ngoài rửa mặt thì tống xuống hố thải. Suốt thời gian ở trại quân pháp Bất Bạt tôi không ăn miếng thịt nào.
Lần đầu tiên đổ đi những miếng thịt đã lâu không được ăn tôi bần thần suốt một ngày. Nhưng rồi tôi thắng được sự thèm khát. Nhưng không phải đơn giản có thế. Tôi phải đóng kịch bình thản, thậm chí vui vẻ nhận bát thịt quản giáo mang tới.
Nhớ lại lời Mác nói về sự giam lâu trong xà lim cá nhân nhằm làm con người mất trí, tôi tìm cách chống lại. Ngay từ khi ở Hỏa Lò tôi buộc mình tuân thủ một chế độ nghiêm ngặt - trừ những buổi bị gọi ra đi cung, tôi dùng thời giờ còn lại cho việc tổng duyệt kiến thức. Tôi ôn lại, từng mảng một, các lĩnh vực triết học, văn học, xã hội, chính trị... Công việc chiếm nhiều thời gian hơn tôi tưởng. Về triết học tôi đi từ triết học cổ đại Hi Lạp, La Mã, qua triết học Trung Hoa, triết học ấn độ, triết học cận đại, từ Socrate, Aristote(3) cho tới Berdiaev và Jean-Paul Sartre(4)...Về văn học tôi lần theo thời gian đi dần vào từng vùng địa lý, từng nước, suy ngẫm về bút pháp của từng nhà văn. Ðó là một công việc khá thú vị, một thứ viễn du tại chỗ. Nhiều lúc tôi mải suy nghĩ đến nỗi quản giáo mở cửa không hay. Sự suy ngẫm này làm cho tác phẩm của Hemingway, Erich Maria Remarque(5) sống động hẳn lên, lấp lánh dưới một ánh sáng mới.
Ðến khi có được hai cái ruột bút bi thì công việc dành cho cuốn sách choán hết thời gian của ngày tù. Cách tách mình ra khỏi sự đời, tự tạo ra việc để mà bận rộn, giúp cho tôi nghị lực sống. Nhiều lần giữa cuộc hỏi cung tôi giật mình nghe Huỳnh Ngự quát :"Tôi đang hỏi anh. Anh phải trả lời. Anh nghĩ cái chi mô rứa, hử ?".
Nhưng đó là Hỏa Lò. Còn ở Bất Bạt tôi bị bỏ quên dài dài. Có khi cả tháng. Không có ai để tâm sự. Không có cả Huỳnh Ngự để nghe y quát lác. Nếu không có việc viết sách thì đúng là phát điên được. Không hiểu anh em khác thế nào, nếu anh em không nghĩ ra cách chống lại thì gay lắm.
Nhưng cũng không thể bắt bộ não hoạt động suốt tháng suốt năm. Thỉnh thoảng tôi cũng cho nó nghỉ ngơi bằng cách làm vệ sinh căn phòng tới mức sạch bong, hoặc giở quần áo ra vá. Vì lý do sự bắt bớ chúng tôi không rõ ràng cho nên đi khỏi Hỏa Lò tôi phải trả lại quần áo tù (chúng tôi không phải là tù), còn lên tới Bất Bạt thì trại quân pháp, cũng lại theo quy định, không phát cho chúng tôi quân phục (chúng tôi không phải là phạm binh). Thế là tôi chỉ có hai bộ quần áo gia đình gửi vào, giờ đã rách bươm. Vá đi vá lại, miếng trước đè lên miếng sau, cái áo trở thành một thứ cà sa trăm mụn. Ðể khâu vá, tôi chế tạo một cái kim bằng cật bương, không có trôn, hơ trên lửa cho cứng, chỉ thì tước ở mảnh bạt chiến lợi phẩm trong trận chống càn Bretagne ở miền nam Nam Ðịnh năm 1952, vợ tôi dùng nó gói chăn màn quần áo gửi vào cho tôi. Chủ tấm bạt, một người lính của Trung đoàn cơ động số 4, còn để lại dấu tích của anh ta trong một vết máu không sao giặt sạch. Cuộc chiến tranh chống Pháp đã lùi xa vào quá khứ. Những ngày gian khổ, nhưng có tình thương anh em một nhà cũng đã trở thành dĩ vãng, thành chuyện cổ tích.
Một đêm, tôi giật mình choàng tỉnh vì tiếng cửa sổ bị đóng sập. Tôi trở dậy, mò mẫm trong cái hũ nút tìm cửa ra vào. Ngoài trời đen như mực. Một lát sau, qua lỗ thủng tôi nhìn thấy hai công an viên khiêng một cái cáng bước thấp bước cao men theo bức tường ngăn các khu nhà-xà lim, trong ánh đuốc bập bùng. Tôi căng mắt ra nhìn nhưng không nhận ra người nằm trên cáng là ai - ánh sáng vàng vọt lấp loáng trên cáng quá yếu. Chiếc cáng lắc lư trên con đường gập ghềnh. Người nằm trên cáng được phủ một tấm chăn sợi màu xẫm, bất động như một xác chết. Bằng vào mái tóc đen trên khuôn mặt để hở tôi chắc chắn không phải cha tôi, không phải tướng Ðặng Kim Giang - hai ông tóc bạc, lại hói trán. Có lẽ lại Phạm Viết rồi. Nếu như Viết chưa chết.
Sau mới biết người bỏ xác trong tù, thật ngược đời, lại không phải mấy ông già nhất, yếu nhất. Hai người không bao giờ trở về nữa là Phạm Viết và Kỳ Vân. Phạm Viết chết trong xà lim. Kỳ Vân được hưởng một cái chết sang hơn - khi hấp hối anh được mang tới một bệnh viện Hải Phòng. Anh trút hơi thở cuối cùng trên giường sắt nhà thương, bên những đồng chí công an không một phút lơ là canh gác. Sau khi được thả ra Trần Minh Việt, Ðặng Kim Giang bệnh tật đầy mình còn chống chọi được mấy năm nữa rồi mới chết. Riêng tướng Ðặng Kim Giang còn kịp đi tù lần thứ hai trước khi Ðảng họp Ðại hội lần thứ V vì tội "tán phát đơn khiếu nại làm mất uy tín của Ðảng"(6).
Nhà tù cho tôi thấy con người là một sinh vật kỳ lạ. Nó có thể sống được cả trong những điều kiện không phải cho con người.
Tôi cảm thấy sức khỏe sa sút trông thấy sau hai năm nằm xà lim. Nhớ có đọc đâu đó, rằng nhiều nhà cách mạng bị giam vận động bằng cách đi bộ, có người đi hai chục cây số mỗi ngày, tôi bắt chước họ. Ði bộ ở đây nghĩa là đi bách bộ trong lối hẹp giữa hai phản nằm trong xà lim (bốn bước tới bốn bước lui, đi nhanh thì hoa mắt vì quay lại quá nhiều. Tôi đặt mức đi tối thiểu mỗi ngày một chục cây số, không ngày nào bỏ, thế mà bắp thịt chân tay vẫn cứ teo dần, nhão dần. ấy là ngoài đi bộ tôi còn tập thể dục buổi sáng và tối nào trước khi đi ngủ cũng đều đặn luyện khí công và yoga.
Vì ăn uống không đủ chất, trong xà lim lại không có ánh sáng mặt trời, cho nên tôi bị đủ thứ bệnh tật hành hạ. Bệnh viêm họng hạt làm tôi ho sù sụ như một ông già. Máu cứ rỉ ra ở chân răng, lợi thường xuyên bị viêm, có lần nhai phải hạt sạn mà vỡ răng hàm. Dây thần kinh răng trơ ra ở chỗ vỡ, uống nước cũng buốt. Ăn phải nhai trệu trạo, lựa một bên hàm mà nhai. Một hạt cơm rơi vào chỗ răng đau cũng gây ra cơn nhức nhối cả buổi. Xin một nhúm muối để ngậm cũng khó. Ðau răng ở trong tù là khổ nhất, đau thì ráng chịu, đề nghị chấp pháp cho đi chữa thì chúng cười trừ. Tôi còn trẻ mà đã khổ, huống hồ anh em cao tuổi bị nhiều bệnh nặng, mạn tính, còn khổ biết chừng nào.
Chính trong những ngày này tôi sực nhớ tới cô tôi, một bà lang vườn thất học. Trong trường hợp người bệnh bị xuống sức quá nhiều mà mọi thứ thuốc của bà tỏ ra vô hiệu, cô Gái khuyên người bệnh dùng thứ thuốc dân dã rất đơn giản lại không mất tiền là "đồng tiện". Tôi đã nhiều phen cung cấp thứ "thuốc" đó cho các bà hàng xóm. Tôi đứng, mặt đỏ bừng vì ngượng, ngẩng mặt lên trời, cố gắng dặn từng tia ngập ngừng vào cái bát mà một bà ngồi xổm ngay bên chân tôi chìa ra. Trong tù đào đâu ra "đồng tiện", tôi đành dùng nước tiểu của chính mình. Thế mà bệnh lui mới lạ. Tôi khỏi dứt chứng đau họng hạt không phải chỉ ngay lúc đó mà cả nhiều năm sau. Chân răng ngừng chảy máu, cái răng vỡ đau đớn là thế mà cũng đỡ dần. Tôi đồ rằng trong nước tiểu có chất độc ở dạng vi lượng. Chất độc ngấm vào cơ thể gây ra sự chống lại mạnh mẽ, cơ thể phải huy động tức thì toàn bộ lực lượng phòng vệ để tiêu diệt kẻ thù, không phân biệt kẻ thù nào, do đó cùng với chất độc cần thải ra nhiều bệnh bị đẩy lui.
Cũng trong mối quan hệ bất đắc dĩ với đám chấp pháp thời gian ở Hỏa Lò tôi hiểu ra một điều quan trọng : bọn chấp pháp không hề sợ những người tù mạnh miệng dám cãi lại chúng, dám chửi bới chúng. Chửi chúng, chúng mặc - làm nghề hỏi cung chúng có đủ chất lì lợm nghề nghiệp. Người tù mạnh miệng dễ là anh hùng rơm lắm. Là người bốc đồng chính anh ta lại dễ bị bẻ gãy hơn người khác. Rốt cuộc anh ta mệt mỏi trước, bỏ cuộc trước, bởi sự lên gân thường trực, trong khi đó đối thủ vẫn lạnh lùng chờ anh ta tự gục ngã.
Nhưng bọn chấp pháp lại ngại người tù bình thản. Ðó là con người điềm đạm, lịch sự trong quan hệ với chúng, nhưng trong thâm tâm anh ta coi chúng là lũ nhân quần dưới tầm mắt. Gặp người bình thản chúng lúng túng, không biết phải ứng xử thế nào. Lúc đầu Huỳnh Ngự còn giễu cợt (hay đứng đắn không biết) dạy tôi luyện khí công, đến lúc thấy tôi thản nhiên với thân phận, coi nhà tù là nơi ở lâu dài, bình tĩnh rèn luyện thân thể, bình tĩnh trả lời mọi câu hỏi của y, không tỏ ra sợ hãi, y lúng túng, xử sự dò dẫm, như thể người mù gặp ngõ cụt.
Tôi bình thản được không phải vì tôi gan dạ, mà do tôi tuyệt vọng. Tôi nghĩ bọn phát-xít trước sau sẽ giết chúng tôi, việc của chúng là nghĩ cách giết thế nào cho gọn, cho êm mà thôi. Nếu rồi đây tôi ra khỏi được nhà tù của chúng thì không phải vì chúng có lòng tốt, chúng rộng lòng thương chúng tôi, hoặc chúng có lương tri, mà do thời thế buộc chúng phải mở cửa cho chúng tôi ra. Vì thế việc gì phải sợ chúng, phải cúi mình trước chúng.
Thỉnh thoảng lắm Huỳnh Ngự mới gọi tôi ra một lần. Cũng gọi là đi cung. Cũng hỏi tôi về một người, một việc ba lăng nhăng nào đó. Cho ra vẻ vụ án chưa kết thúc.
Tôi không hiểu Huỳnh Ngự sống ở Bất Bạt để trông coi tụi tôi, hay thỉnh thoảng mới lên đây. Chỉ biết trông y có vẻ mệt mỏi lắm. Chiến tranh vẫn kéo dài. Cuộc sống thì mỗi ngày mỗi khó khăn. Bằng những lời vắn tắt anh phạm binh gánh cơm thỉnh thoảng lại thông báo cho tôi biết tình hình sinh hoạt bên ngoài trại. Nạn đói xuất hiện ở Thanh Hóa. Trong mỗi gia đình sự thiếu ăn là chuyện thường ngày. Huỳnh Ngự cũng có một gia đình như mọi người. Người chồng phải công tác xa nhà sinh ra tình trạng hai bếp, ảnh hưởng không nhỏ đến ngân sách gia đình. Trong Huỳnh Ngự không còn cái khí thế hào hứng của ngày đầu ra quân chống chủ nghĩa xét lại hiện đại nữa. Y tã ra, sập sệ, thậm chí không cần che giấu vẻ ngao ngán.
Tội nghiệp, trước trận đánh y còn nhìn thấy phần thưởng dành cho người chiến thắng vẫy gọi. Nhưng trận đánh mãi không kết thúc, cái phần thưởng ngoạn mục thì cứ lơ lửng nơi tít tắp chân trời.
Tôi hiểu tâm trạng y. Lớp cán bộ chúng tôi, trong đó có cả tôi lẫn Huỳnh Ngự, đã quen sống bằng những lời hứa của các nhà lãnh đạo. Mà họ hứa thì hay lắm. Trong kháng chiến chống Pháp họ bảo : hãy kiên trì chiến đấu, hãy chịu đựng gian khổ, tới ngày chiến thắng chúng ta sẽ xây dựng một cuộc sống giàu có, hạnh phúc...
Kháng chiến thắng lợi rồi thì cuộc sống mỗi ngày mỗi xo rụi thêm, mỗi cực nhọc hơn. Họ lại động viên : chúng ta còn phải vất vả là do Mỹ-Diệm. Chúng ta phải tiếp tục cuộc chiến đấu để giải phóng đồng bào miền Nam ruột thịt, chúng ta phải thắt lưng buộc bụng xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải làm nhiệm vụ quốc tế với nhân dân Lào Miên anh em... Cuộc chiến đấu của chúng ta không phải chỉ cho hôm nay, nó còn cho ngày mai, cho muôn đời sau...Vân vân và vân vân.
Chúng tôi không nhận ra một sự thật rằng những nhà lãnh đạo chúng tôi là những người không có nghề nghiệp. Họ chỉ biết phá, chứ không biết xây. Họ không biết và cũng không thèm học cách cách quản lý xã hội sao cho ra nhiều của cải. Quen sống bằng chiến tranh, nhờ chiến tranh mà tồn tại, họ chỉ chú trọng xây dựng các lực lượng vũ trang để làm chiến tranh tiếp. Bằng tiền và vũ khí người khác. Liên Xô, nước đàn anh của phe xã hội chủ nghĩa liên tục đổ của vào Việt Nam. Ðến nỗi quốc hiệu CCCP(7) một thời được người Việt Nam hóm hỉnh diễn dịch thành Các Chú Cứ Phá, Càng Cho Càng Phá.. Những khoản viện trợ được rót vào một cái thùng không đáy. Sự quản lý kinh tế bằng các biện pháp hành chính làm cho đời sống cứ tồi tệ thêm mãi, èo uột thêm mãi, nhưng trong bất cứ báo cáo nào của ông thủ tướng vĩnh cửu cũng không thiếu câu đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước. Một bước là bao nhiêu, bước ngắn hay bước dài, ông không nói rõ. Không đem lại được cho nhân dân mỗi người một cân thịt một tháng, các nhà lãnh đạo hào phóng thế vào đó hai cuộc cách mạng toàn thế giới.
Nhà tù có cái tốt của nó. Nó cho con người thời gian suy nghĩ, nó kích thích bộ não lười biếng. Nhưng thôi, nghĩ về họ làm gì. Nghĩ thế đủ rồi. Ðủ để vĩnh viễn chia tay. Như nhà thơ nào đó đã viết :
Anh đi đường anh. Tôi đi đường tôi.
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Ðã quyết không mong sum họp nữa,
Bận lòng chi lắm lúc chia phôi.
Người có luân thường không thể tôn trọng Ðảng còn vì một lẽ : lúc nào Ðảng cũng chì chiết, cũng nhắc đi nhắc lại không mệt mỏi rằng các anh được sống, được làm việc là nhờ ơn Ðảng. Không có Ðảng đời anh là đời con chó. Cái sự kể công kỳ cục này được trắng trợn trưng ra ở mọi nơi, mọi lúc, kệch cỡm vô cùng, chối tai vô cùng, nhưng nó lại làm khoái con ráy các nhà lãnh đạo. Và họ ra sức khuyến khích sự ca ngợi Ðảng, tâng bốc Ðảng, tức là tôn vinh chính họ. Họ chỉ ca ngợi nhân dân khi nào họ yếu thế, họ mắc sai lầm, họ đang đứng trước nguy cơ đe dọa sự tồn tại của họ.
Còn nhớ một trong những buổi hỏi cung đầu tiên Huỳnh Ngự mắng tôi :
- Anh là cái thằng gần chùa kêu bụt bằng anh. Láo lắm ! Toàn dân ta một lòng tôn kính các vị lãnh tụ(8), vậy mà anh gan cóc tía, dám coi các vị không bằng nửa con mắt. Riêng tội nớ cũng đáng chết rồi. Nghĩ mà coi, không có Ðảng sao anh có ngày nay. Ðảng nuôi nấng anh, Ðảng dạy dỗ anh cho anh nên người, còn anh đã không nhớ ơn thì chớ, lại còn học đòi ba thằng phản động chống Ðảng....
Bình thường, khi y cao hứng lên thuyết giảng về chủ nghĩa Mác thì tôi ngồi im. Thôi thì mỗi người mỗi tật, y thích biểu diễn kiến thức mác-xít thì mặc y. Chẳng lẽ những hiểu biết bấy lâu tích cóp được lại để đó, trong khi trước mặt là một thằng thính giả muốn hay không cũng phải chịu chuyện ? Nhưng một hôm ngứa tai quá, tôi quạt lại :
- Bác nói không đúng. Nói thế không được.
- Cái chi không đúng ?
- Sinh ra tôi là cha mẹ, nuôi tôi cũng là cha mẹ. Nói Ðảng nuôi tôi làm sao lọt tai được ? Tôi thừa nhận như thế hóa ra tôi bất hiếu ư ? Người khác nghĩ thế nào không biết, chứ khi tôi bắt đầu tham gia cách mạng thì tôi mặc quần áo mẹ tôi may cho, miếng ăn thì do nhân dân chu cấp...
Huỳnh Ngự trợn trừng :
- Anh...anh dám ăn nói như vậy... hử ?
- Tôi nói thế không đúng hay sao ? Sự thật là như vậy. Khi Ðảng chưa nắm tài chính thì bộ đội tới làng nào làng đó nuôi. Ðóng góp thóc gạo, lập kho quân lương, góp tiền góp của cho kháng chiến - ai làm ? Nhân dân cả đấy.
- Hừ !
- Còn đến lúc chính quyền đã vững, đã có chế độ lương, thì tôi là công chức, tôi làm thì tôi được trả công, tức là tôi nuôi tôi chứ. Chuyện nhà nước cho tôi đi học Liên Xô cũng là chuyện bình thường, nước nào chả có - cần có cán bộ làm việc thì nhà nước nào cũng cử người đi học, đi tu nghiệp, theo chế độ đào tạo....
- Tui.... tui.... thiệt không ngờ anh... vô ơn bạc nghĩa đến... đến như vậy ! - y ré lên, lại bắt đầu nói lắp - Ðảng bắt... bắt anh thực không...không oan chút mô.
- Các cơ quan Ðảng sống bằng tiền của ai ? Của nhân dân ! Ðảng có bao nhiêu đảng viên ? Ðảng phí bao nhiêu một tháng ? Một năm Ðảng thu được bao nhiêu ? Tính dễ lắm ! Ðảng phí một năm, tôi biết, không đủ dùng cho một ngày Ðại hội. Lại còn tiếp khách, quà cáp cho các đoàn nước ngoài, tiền ở đâu ra ? Lấy của nhân dân cả đấy. Tôi có người quen làm ở Bộ Tài chính. Chị cho biết Bộ quản lý một ngân khoản đặc biệt. Trung ương lệnh lấy tiền thì chi, không ai được phép hỏi tiền lấy ra để làm gì. Mà ngân khoản đó không phải quỹ Ðảng đâu nhá. Ðấy là chuyện Trung ương. Các cơ quan Ðảng ở các cấp đều dùng kinh phí nhà nước cho mọi hoạt động, kể cả mua một cái xe ô tô cũng lấy từ kinh phí nhà nước. Là tiền của dân cả đấy. Phải nói ngược lại mới đúng : dân nuôi Ðảng, chứ Ðảng làm sao nuôi được dân ! Ngày trước, trong kháng chiến chống Pháp, tôi còn nghe Ðảng nói Ðảng ở trong lòng dân. Bây giờ không nghe nói thế nữa, chỉ nghe nói Ðảng lãnh đạo, Ðảng chăm lo cho dân, Ðảng là cha mẹ dân. Tôi, cũng như mọi cán bộ, cũng là dân, nhân dân chúng tôi nuôi Ðảng, chứ không phải Ðảng nuôi chúng tôi đâu, xin lỗi.
Huỳnh Ngự la hét rầm rầm, nhưng tôi hiểu : y muốn trốn chạy cái lý không thể bác.
- Giờ giữa tôi với Ðảng tình nghĩa đã hết. Còn bác, còn tôi, rồi ra bác sẽ thấy khi tôi chỉ làm cho cá nhân mình, không còng lưng phục vụ thằng nào nữa, cuộc sống của tôi ra sao. Chắc chắn nó sẽ là cuộc sống hơn hẳn khi tôi mang tiếng được Ðảng nuôi nấng.
Tôi biết : sống không dính tới Ðảng là khó : Ðảng đã nắm hết mọi đường sống của dân rồi. Nhất cử nhất động phải được Ðảng cho phép, ngay cả cái sự ở, sự đi, sự kiếm ăn của mình cũng phải được Ðảng cho phép mới được. Nhưng tôi sẽ sống như tôi muốn, dù cho cuộc sống có khó tới mấy. Tôi sẽ chữa xe đạp vỉa hè, tôi sẽ trồng rau, cấy lúa hoặc làm thợ may, thợ điện, thợ cắt tóc. Làm gì thì làm, chứ không khi nào tôi đi làm cho Ðảng nữa.
Tôi nhớ một buổi kiểm thảo tại cơ quan, nhà báo Hùng Thao gầm lên :"Nuôi cán bộ như lợn, mắng như chó, thời trước địa chủ đối với tá điền còn tử tế hơn !". Câu nói bật ra trong phút không kìm giữ làm anh khốn khổ. Người ta chẳng những không tha phê phán anh mà còn phê phán mạnh hơn nữa, sau đó anh còn bị trù dập một thời gian dài.
Quả nhiên, sau khi ra tù, không đi làm cho nhà nước nữa, đời sống gia đình tôi khấm khá hẳn lên, tinh thần cũng thoải mái, kể cả khi tôi làm thuê cho những người theo lý thuyết của các nhà mác-xít là những tên bóc lột. Những ông chủ cá thể xử sự có văn hóa hơn hẳn ông chủ lớn mà tôi phục vụ suốt đời.
(1) Quản giáo công an thỉnh thoảng mới tới, là người của Cục chấp pháp, chứ không phải người của Cục quản lý trại giam.
(2) Một nhà sử học xô-viết. Ông có viết một cuốn về cuộc đời của Napoléon, trong đó có nói tới giai đoạn bị đi đầy ở đảo Saint-Hélène.
(3) Aristote (384-322), Socrates (469-399 trước CN), các triết gia cổ đại.
(4) Jean-Paul Sartre (1905-1980), triết gia, kịch tác gia, nhà văn, nhà báo chính trị, ngọn cờ của chủ nghĩa hiện sinh ở châu Âu.
(5) Erich Maria Remarque (1898-1970), nhà văn Ðức quốc tịch Mỹ, nổi tiếng với những tiểu thuyết Mặt Trận Phía Tây Yên Tĩnh, Khải Hoàn Môn, Một Thời Ðể Sống Và Một Thời Ðể Chết.
(6) Ông Ðặng Kim Giang thọ 73 tuổi, bị tù thời Pháp thuộc 12 năm, thời xã hội chủ nghĩa 7 năm, tổng cộng tất cả những năm tù và quản thúc trong cả hai chế độ là 25 năm. Ông qua đời trong căn nhà dột nát rộng 14 mét vuông ở khu chùa Liên Phái, nơi trú ngụ của lớp cùng dân của xã hội - những bà đồng nát, những người phu quét rác không hộ khẩu và những đứa trẻ làm nghề móc túi.... Khi hấp hối vẫn có hai công an viên ngồi kèm. Bà Giang phải bảo họ đi ra cho ông được nhắm mắt.
(7) Viết tắt (tiếng Nga) Liên bang các nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết.
(8) Khái niệm lãnh tụ trong Huỳnh Ngự rất rộng. Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn cũng được y gọi là lãnh tụ.
Có vẻ như cái sự im ắng tại Bất Bạt chứng tỏ giai đoạn giam cứu đã kết thúc. Tôi sống trong tâm trạng chờ đợi : để xem Ðảng xử sự ra sao. Nhưng, giống như những con đom đóm, những tia hi vọng nhỏ nhoi lập lòe một thoáng rồi chìm nghỉm trong bóng đêm dày đặc. Những cuộc hỏi cung muộn mằn, càng về sau càng thưa, diễn ra uể oải, như thể cả người hỏi cung lẫn người bị hỏi cung đều quá mệt mỏi. Với vẻ mặt ngán ngẩm đời cạo giấy, Huỳnh Ngự máy móc đặt những câu hỏi vô duyên. Chẳng hạn, chợt nhớ ra, y bắt tôi khai về cuộc gặp gỡ vào ngày ấy tháng ấy giữa tôi với Rasid tại câu lạc bộ Quốc tế(1). Những sự kiện vớ vẩn như vậy chỉ có Trời nhớ được nó có hay không và nó đã diễn ra thế nào. Tôi từ chối không trả lời, nói tôi không nhớ, tù lâu quá trí nhớ tôi ngày một kém. Không nhớ thì thôi, y cũng không thúc bách, không bắt buộc tôi phải nhớ.
Ðáp lại câu hỏi của tôi liệu cứ dằng dai thế này mãi thì biết đến bao giờ vụ án mới kết thúc được thì, thay vì hét ầm lên để át giọng như trong những ngày đầu, Huỳnh Ngự tránh nhìn vào mắt tôi, ấp úng :
- Cán bộ cỡ tui sao biết được ! - y nhỏ nhẹ - Việc của Trung ương chớ có phải của cấp vụ cục đâu... Ngay cả cấp Bộ cũng không có thẩm quyền xử lý vụ các anh nữa là. Thôi thì anh hãy yên tâm chờ đợi. Cứ phải tin tưởng tuyệt đối ở Ðảng. Ðảng là cha mẹ. Ðảng trước sau cũng sẽ giải quyết thỏa đáng cho các anh.
Khi nói câu đó nét mặt y hiền hẳn đi, nụ cười miễn cưỡng làm hằn sâu hai đường pháp lệnh, trông tội nghiệp lắm. Mới có ba năm mà tôi thấy Huỳnh Ngự già đi nhanh quá. Y đã gày còn gày thêm. Mùa đông da mặt xám xịt, nhăn nhúm. Bộ dạ đen Tôn Trung-sơn bất ly thân chảy ra, bạc màu, mất tuyết, sờn nhiều chỗ. Có hôm tôi ngồi viết báo cáo nghe loáng thoáng bên tai Huỳnh Ngự và anh hương sư bàn chuyện thời sự - bìa nào, ô số mấy bán gì, ô thịt giờ bán đậu phụ, ô nước mắm thay bằng ma-gi, nhà nào có mấy bìa C, mấy bìa A(2)... Tôi nghe mà thương vợ ! Bức thư chót vợ tôi báo tin bị chuyển công tác vào Hà Ðông, tới một công trường xây dựng, hàng ngày đạp đi đạp về nuôi con, đi chợ xếp hàng với tấm bìa có những ô tí xíu...
Một hôm bỗng Huỳnh Ngự vào tận xà lim, hiền lành ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi ngạc nhiên - chẳng bao giờ tôi bắt gặp y xử thế như vậy. Thân thiện quá, tử tế quá ! Trước đây, trong bất kỳ trường hợp nào y cũng không quên nhấn mạnh sự khác biệt giữa người tù là tôi và y - người hỏi cung.
- Tui tới để... báo cho anh... một tin buồn.... - y nghẹn ngào - Bác của chúng ta... Bác đã... đã... Bác... mất rồi !
Thế là ông Hồ Chí Minh không còn nữa !
í nghĩ đầu tiên đến với tôi là cùng với cái chết của ông Hồ bọn chuyên quyền càng rảnh tay hoành hành. Nói gì thì nói, ông Hồ còn sống vẫn là một vật cản. Bởi vì ông đã hô hào đoàn kết, ông có đạo đức giả khi nói thế thì cũng vẫn còn hơn ông không nói, ông không đoàn kết thực thì ông cũng không cho phép cấp dưới bóc nốt cái vỏ của câu nói. Không còn quyền nhưng ông còn cái uy, cái thế buộc chúng phải nể. Có làm gì chúng vẫn phải ngó ông một cái, xem ông phản ứng ra sao.
- Bác mất hôm nào ? - tôi hỏi khẽ.
- Cách đây ba ngày - Huỳnh Ngự đáp, một giọt nước mắt lăn trên má.
Tôi nhẩm tính : bốn ngày trước là mồng 2 tháng 9, Tết Ðộc lập, trại được ăn một bữa tươi, thức ăn có thêm thịt rang mặn. Như vậy, ông Hồ qua đời vào ngày mồng 3(3).
Tin ông Hồ Chí Minh qua đời không làm tôi xúc động. Tôi không vui mà cũng chẳng buồn. Bây giờ đối với tôi ông là người dưng. Ông đã bị xóa sổ trong trí nhớ của tôi. Ông đã đi khỏi cuộc đời tôi.
Tôi cũng chẳng căm thù người đứng đầu cái nhà nước đang hành hạ tôi. Tôi biết, ông không phải là thủ phạm. Nói cách khác, không phải đầu vụ. Cũng không phải tôi muốn bào chữa cho ông Hồ. Khi ông đã kề đùi kề vế với Duẩn, với Thọ, thì mọi việc làm của họ ông đều có dự phần, vinh cũng như nhục. Nhưng tôi tin nhận xét của cha tôi - ông Hồ không phải người ác. Không hiểu sao ông lại làm ngơ để xảy ra vụ án thảm khốc này ?
Ðể tôn trọng nỗi đau khổ của Huỳnh Ngự, tôi vờ buồn bã, quay đi. Huỳnh Ngự thì lại nghĩ rằng tôi đau đớn lắm, tưởng tôi muốn giấu những giọt nước mắt yếu đuối, ra sức an ủi tôi. Rằng y biết rất rõ quan hệ thân thiết của gia đình tôi với ông Hồ. Rằng y đã báo tin cho cha tôi, ông già lặng đi, không nói được lời nào. Rằng Bác mất đi là nỗi đau đớn khôn nguôi trong lòng mọi người, là tổn thất vô cùng to lớn cho cách mạng Việt Nam, cho cả chúng tôi, những cán bộ đi theo cách mạng lâu năm chẳng may mắc tội với Ðảng. Nhưng phải biết biến đau thương thành sức mạnh. Với chúng tôi, niềm thương tiếc Bác phải biểu lộ trong sự thành tâm hối lỗi, ra sức cải tạo tốt để mau chóng trở về với hàng ngũ cách mạng, trở về trong lòng Ðảng.
Giá vào lúc khác chắc chắn câu nói lăng nhăng của y về cải tạo sẽ làm bùng lên một cuộc đấu khẩu. Nhưng lần này tôi im lặng. Tôi biết Huỳnh Ngự đang đau khổ thực sự trước cái chết của lãnh tụ vĩ đại. Không phải mình y, tôi nghĩ, trong những ngày này có bao nhiêu người đang thương khóc Bác Hồ.
Y lặng lẽ chia tay với tôi, ý tứ khóa cửa, cố không gây ra một tiếng động mạnh, như thể không phải y khóa cửa xà lim mà khép cửa phòng bệnh.
Thời gian chậm chạp trôi, với những ngày, những tháng giống hệt nhau...
Khi vừa bị chuyển tới trại quân pháp, tôi còn tiếp tục đánh dấu ngày tháng như khi còn ở Hỏa Lò với Thành, lâu dần rồi ngày đánh dấu ngày không, đâm ra lẫn lộn lung tung. Tôi chỉ chỉnh lại sự đo đếm thời gian bằng những ngày lễ tết, tù được ăn tươi, và mỗi lần gặp gia đình, nửa năm một lần. Mọi người trong gia đình tôi nghĩ rằng trong óc tôi bắt đầu có sự trục trặc. Tôi không cải chính - như thế mà tốt hơn. Thấy tôi dở điên dở dại bọn chấp pháp càng đỡ làm phiền.
- Trời ! - vợ tôi kêu lên - Anh không nhớ được bây giờ là tháng mấy nữa hay sao ?
Tôi nhìn thấy trong mắt vợ tôi nỗi tuyệt vọng vô bờ.
Ðể cho tôi khỏi quên thời gian vợ tôi mang cho tôi những cuốn lịch túi, nhưng chỉ cần lãng đi một ngày là tôi lại bắt đầu lẫn. Sau tôi không thèm đánh dấu ngày nữa mà chỉ nhớ áng chừng bây giờ là tháng nào thấy cũng đủ.
Cái sự đơn điệu của đời tù xà lim thật ghê gớm. Một cuộc cãi nhau với chấp pháp cũng là một cơ hội giải tỏa tinh thần. Nhưng không phải lúc nào cũng cãi nhau được. Nếu đám chấp pháp không chọc tôi bằng những lời lẽ xúc phạm thì tôi cũng chẳng cãi nhau với họ làm gì.
Sau cuộc chia tay với anh bạn bác sĩ không quen biết và Trần Minh Việt, tôi không được ở dưới một mái nhà với người nào trong vụ chúng tôi nữa. Những phạm binh đến rồi đi, không ai nói chuyện với ai. Nếu ở bên cạnh có người cùng vụ thì tôi biết ngay. Quản giáo bộ đội phụ trách người trong vụ chúng tôi mở cửa cho nhận cơm, cho ra tắm bao giờ cũng mở lần lượt hết phòng này tới phòng khác trong một ngôi nhà rồi mới sang nhà khác. Nếu anh ta mở cho tôi rồi đi ngay có nghĩa là tôi ở một mình. Quản giáo phụ trách phạm binh không có nhiệm vụ mở cửa cho chúng tôi. Anh ta đi riêng, mở cửa cho những người tù mà anh ta quản lý.
Anh quản giáo bộ đội khoảng ba mươi tuổi, mặt mũi hiền lành, quần áo chững chạc, nhưng lại quá ít lời, chẳng bao giờ nói một câu. Không thể nào dò hỏi anh ta được điều gì. Có hỏi xin thuốc thì anh ta cũng chỉ ừ hữ rồi lặng lẽ khóa cửa lại. Trông cung cách thì thấy anh ta đoán được chúng tôi là ai, do đó mà trong cách đối xử thấy có phần trọng vọng.
Tôi có Arlequin ở chung là trong thời kỳ này.
Một hôm quản giáo cho ra tắm, tôi đang giội nước ùm ùm bên cạnh cái bể chứa sát tường nhà giam thì bỗng thấy một sinh vật bé xíu, đen xì cuống quít nhảy loi choi dưới chân mình. Nhìn kỹ, thì ra một con cóc vừa mới đứt đuôi nòng nọc.
Tôi nhìn anh chàng quản giáo. Anh ta vẫn chắp tay sau lưng nghênh trời nghênh đất. Tôi tắm vội tắm vàng, vừa kỳ cọ vừa dùng chân lùa con cóc về phía cửa xà lim. Nó nhảy tránh chân tôi, lao bạt mạng về hướng tôi muốn. Lối vào xà lim tối om, hẳn con cóc nghĩ đó là chỗ lẩn tránh tốt. Tôi kết thúc buổi tắm sớm hơn thường lệ, cứ để đầu ướt đẫm chạy thẳng vào phòng, tự mình khép cửa lại. Anh chàng quản giáo trợn mắt, không hiểu vì sao hôm nay tôi lại có thái độ lạ lùng như vậy.
Ðể cho con cóc nhỏ bé không thể chui ra ngoài qua khe cửa, tôi lấy cái áo rách chèn kín cái khe đó. Những ngày đầu tôi rất lo nó chết đói : tôi không biết nuôi cóc bằng cái gì. Nhưng trong xà lim con cóc vẫn sống nhăn và lớn lên rất nhanh. Ðể ý quan sát thì ra nó ăn kiến. Ðàn kiến trú ngụ trong xà lim vợi hẳn.
Sự bận rộn với con cóc làm cho cảnh sống của tôi dễ chịu hơn. Bây giờ hàng ngày tôi có được cái thú ngồi im lặng trên phản mà quan sát nó nhảy nhót qua lại trên khoảng đất trống giữa cái phản và cánh cửa.
Con cóc xấu xí nhưng chăm chỉ chẳng mấy khi ngồi yên một chỗ. Suốt ngày nó tha thẩn nhảy tới nhảy lui, thỉnh thoảng lại đớp lia lịa những con kiến vô hình trong bóng tối.
Tôi buộc phải đặt chân rất thận trọng mỗi khi bước xuống đất kẻo dẫm chết nó. Mà tôi phải xuống đất nhiều lần trong một ngày để tập thể dục, đi bách bộ mươi, mười lăm phút giữa giờ làm việc.
Nhà cầm quyền cuối cùng đã cho phép tôi được nhận mấy cuốn sách : một cuốn từ điển giải nghĩa tiếng Nga và hai cuốn tiểu thuyết Liên Xô bằng tiếng Pháp. Từ điển là để tra cứu, nhưng với tôi nó là cuốn sách để đọc, để nghiền ngẫm. Tiếng Pháp của tôi vốn tồi, gặp từ nào không hiểu thì bỏ qua, gặp lại nó vài lần thì dựa vào văn cảnh mà đoán nghĩa. Tôi mải mê đọc đến nỗi nhiều khi quản giáo mở cửa mới giật mình biết rằng đã tới giờ ăn sáng hoặc ăn chiều. Ðến khi có hai cái ruột bút bi thì tôi còn bận hơn nữa với việc viết cuốn Miền Thơ ấu. Tôi phải chia công việc ra, lúc viết lúc đọc, thay đổi công việc cho óc khỏi mệt. Không thể viết nhanh được vì phải tiết kiệm giấy : tôi chỉ có trong tay một số vỏ thuốc lá và vỏ giấy từ những cái kẹo gia đình gửi cho.
Con cóc cũng chẳng buồn để ý tới tôi. Nó còn bận kiếm ăn. Ðược cái giống kiến kém trí khôn. Chúng không hề để ý tới hiểm họa đang rình rập bên cạnh. Thậm chí chúng thản nhiên giăng hàng đi ngay trước mặt con cóc, thỉnh thoảng bị mất vài con nhanh như chớp mà không biết.
Kể ra kiếm được con chuột nhắt con để nuôi thì vui hơn. Hồi còn nhỏ ở nhà quê tôi nuôi đủ thứ : chim sẻ, chim gi, sáo sậu, sáo đen, sáo đá... Chưa bao giờ tôi nghĩ mình sẽ nuôi một con chuột làm bạn, đừng nói gì một con cóc. Với chim sẻ, chim gi thì dễ bắt lắm - chỉ cần theo dõi những con chim bố mẹ tha rác làm tổ dưới mái nhà, chịu khó chờ ít lâu là chắc chắn bắt được chim con vừa vỡ bọng cứt. Với giống sáo thì nhiêu khê hơn. Phải lấy cót cuộn lại thành một cái ống dài ở cuối phình ra với một cái giỏ thủng, cho vào trong đó ít rơm, bọc kín lại bằng chiếu rách, rồi buộc vào một cành ngang, chọn sao cho tránh hướng mặt trời chiếu vào tổ là thể nào cũng có đôi sáo bố sáo mẹ chọn làm tổ.
Trong các giống chim gần người tôi thích chim gi hơn cả. Con chim bé bỏng với bộ lông màu gụ và cái mỏ sừng mập mạp nếu được nuôi từ lúc bé tí thì luyến chủ vô cùng. Nó không rời tôi nửa bước. Khi lớn hơn, đã có thể tự kiếm ăn, thì nó cũng bay xa, nhưng chỉ cần gọi "tơri, tơri.i.i..." là nó đã tự đâu xà xuống trước mặt. So với sẻ và các loại sáo, chim gi thông minh hơn. ấy là tôi nghĩ thế, chứ giữa loài chim với nhau tiêu chuẩn thông minh chắc phải khác. Một con chim bỏ loài để theo người hẳn bị chúng chim coi là xuẩn ngốc.
Chao ôi, giá mấy thằng cha độc tài ở nước tôi có được cái đức độ của Sa hoàng thì may biết mấy! Chúng tôi sẽ được phát vãng như những nhà cách mạng Nga lên một vùng rừng núi nào đó, kiểu Sibir(4) hoang vu, chứ không phải nằm mốc ra ở đây. Trong cuộc sống phát vãng đáng mơ ước đó tôi sẽ buộc tổ sáo trên những cành xoan, hoặc của bất cứ cây gì. Tôi sẽ nuôi những con sáo con mép vàng hoe bằng cào cào châu chấu và cơm nguội cho tới khi chúng khôn lớn. Trong tuổi thơ của tôi, rất tiếc, tôi chưa một lần bóc lưỡi cho sáo để chúng nói được tiếng người.
Ðành nuôi con cóc xấu xí kia vậy. Những ngày đầu nó còn lẩn tránh tôi, mỗi khi tôi tới gần là nó vội vã nhảy đi. Lâu dần rồi cu cậu cũng quen, không đến nỗi xa lánh tôi như trước. Thậm chí thỉnh thoảng tôi có vuốt ve nó, nó vẫn ngồi im. Người ta nói khi đụng vào cóc, da nó sẽ tiết ra một loại mủ độc, chạm vào thì bị lở loét. Con cóc của tôi chẳng tiết ra chất gì hết. Chắc nó không muốn hại tôi. Quen thêm chút nữa, tôi đặt nó vào lòng bàn tay rồi đưa lên tận mắt ngắm nghía. Nó cũng mặc. Chỉ tiếc nó không biết nói, tôi có nói gì nó cũng không thèm đáp, chỉ giương đôi mắt thao láo ra nhìn lại.
Cuộc sống trong khu xà lim lặng lẽ trôi. Gió vẫn thổi, mây vẫn bay, tôi vẫn ngồi đó, Trong khu biệt giam bên cạnh chiều chiều vẳng tới tiếng ngâm thơ khe khẽ, không rõ là của ai. Từ cửa sổ phòng tôi có thể nhìn thấy một chút xíu phần trên cửa sổ, từ đó vẳng ra tiếng ngâm thơ, nhưng người ở trong cũng không thể ngó thấy tôi. Nhặt được một mẩu gương vỡ tôi bắt ánh mặt trời buổi sáng chiếu hắt sang cửa sổ đó, hi vọng một chút ánh sáng sẽ lọt được vào trong phòng. Quả nhiên người ở trong bắt được tín hiệu của tôi, anh ta gõ vào chấn song mấy hồi liền để trả lời. Lính gác chạy xồng xộc đến nhưng không bắt được quả tang chúng tôi liên lạc với nhau, đứng ngơ ngẩn một lát rồi bỏ đi.
Một hôm, cả khu xà lim náo động hẳn lên vì những tiếng gào thét ầm ĩ, những lời chửi rủa tục tằn. Một lát sau qua lỗ thủng ở cửa tôi nhìn thấy một người tù bị nhét giẻ vào miệng, mặt đỏ gay vì khó thở hoặc vì tức giận. Anh ta xoạc cả hai chân ra để chống lại, không chịu đi, nhưng hai tay lính gác trẻ hơn và khỏe hơn vẫn lôi xềnh xệch anh ta đi được, chắc hẳn để tống vào một thứ xà lim kỷ luật kiểu như ca-sô(5) Hỏa Lò. Anh tù còn trẻ, mặc quần áo bộ đội.
Lợi dụng những người lính gác đã đi ra ngoài khu xà lim, người ở ngôi nhà trên đã bắt được tín hiệu của tôi kêu lên :
- Ai đó ? Kỳ Vân đây !
- Chào anh ! Hiên đây ! - tôi đáp lại.
- Vững vàng nhá !
- Nhất định rồi. Anh khỏe chứ ?
- Khỏe lắm ! Ðừng tin lũ bịp ! Chúng nó dựng vụ đấy !
Kỳ Vân nói dối. Anh yếu hơn chúng tôi nhiều. Nghe giọng anh thì biết. Với tiêu chuẩn ăn uống ở trại không ai có thể khỏe được. Anh lại không được tiếp tế nhiều như cha con tôi. Gia đình tôi dù sao cũng còn khá hơn gia đình anh. Các con anh sống được là may, nói gì đến tiếp tế cho bố. Tất nhiên, những gia đình cùng chung cảnh ngộ cũng không quên chăm sóc các con anh, nhưng xin tiếp tế cho anh thì không được - không đời nào Lê Ðức Thọ cho phép. Các con anh còn nhỏ quá, lại đang đi học, không thể đi thăm và tiếp tế cho anh.
Ðó là lần cuối cùng tôi gặp Kỳ Vân.
Nếu bọn Duẩn-Thọ cho chúng tôi ở cùng nhau để trông nom nhau, săn sóc nhau thì chắc gì Phạm Viết, Kỳ Vân đã chết thảm trong tù.
Con cóc lớn nhanh như thổi. Mới hôm nào còn là một con cóc bé xíu, bé đến nỗi tôi không cảm thấy trọng lượng của nó khi đặt nó lên tay, thế mà mới hai ba tháng sau nó đã chầm chẫm, trở thành một con cóc thanh niên lực lưỡng.
Ðến giai đoạn này cu cậu bắt đầu thay da : màu đen mất dần, xuất hiện những mảng loang lổ màu nâu đất xen lẫn màu vàng thẫm. Lũ kiến vợi đi trông thấy. Ðể nuôi con cóc tôi phải nhịn một ít đường cát tiêu chuẩn để nhử thêm kiến vào phòng. Giống kiến xem ra không có óc suy xét, thấy đâu có ăn là kéo đến liền. Theo vệt nước ngọt được tôi vẽ từ cửa sổ hạ xuống tận nền nhà chúng rùng rùng kéo đàn kéo lũ từ bên ngoài tràn vào, bổ xung nguồn lương thực cho chàng cóc. Món ăn cu cậu thích hơn cả là kiến đen, nhưng thỉnh thoảng đổi món cu cậu cũng xơi kiến lửa. Cóc không thích kiến hôi, có thể vì chúng bé quá, mà cũng có thể vì chúng hôi quá.
Vì những mụn vá rất nghệ thuật theo phong cách siêu thực trên tấm áo mới của con cóc tôi đặt cho nó cái tên Arlequin, nhân vật nổi tiếng của sân khấu hài kịch Italia. Tôi nhìn dáng đi nghiêng ngả chông chênh tức cười của con cóc mà hình dung ra những chàng Arlequin vui tính nhảy nhót trên sân khấu Moskva, Leningrad, hình ảnh gắn liền với một thời đã mất.
Tôi nhớ trong một cuốn sách khoa học thường thức người ta viết rằng cóc không nghe được tiếng người mà chỉ bắt được âm thanh thuộc âm vực hoặc rất thấp hoặc rất cao. Thế mà Arlequin nghe được tiếng tôi gọi. Mỗi khi tôi vỗ tay, khẽ kêu lên "Arlequin !" là nó quay đầu lại nhìn tôi, cặp mắt mở to, chớp chớp.
Ngẫm ra con người ta không phải chỉ có các bản năng được gọi là cơ bản như bản năng sinh tồn, bản năng tự vệ, bản năng truyền giống... mà còn có một bản năng ít được chú ý là bản năng cầu bầu. Không hiểu sao tôi lại thích cái từ đã chết này. Các cố đạo Y-pha-nho, Bồ-đào-nha ghi nhận từ cầu bầu trong tiếng Việt thế kỷ thứ 19 và đưa nó vào những cuốn kinh bổn sớm nhất bằng tiếng Việt với nghĩa che chở, chăm nom, săn sóc, giống như từ patronage trong tiếng Pháp. Khi anh gặp một người yếu đuối đang cần sự che chở, trong lòng anh nảy ra ý muốn giúp đỡ kẻ đó, ấy là trong anh bản năng cầu bầu lên tiếng đấy. Năm 1956 tôi được xem một cuốn phim Pháp nhan đề Porte des Lilas, với Jean Gabin thủ vai Juyjuy, một anh chàng lộc ngộc kém trí khôn. Một tên gangster chạy trốn cảnh sát lạc vào khu phố nghèo, nơi nhân vật của chúng ta đánh bạn với một anh chàng thất cơ lỡ vận có biệt hiệu Nghệ Sĩ. Tên gangster hành hai người đến nơi đến chốn : ngồi yên tại nơi ẩn nấp y bắt họ dội nước cho y tắm, dọn bữa cho y ăn, đi mua transistor cho y tập thể dục buổi sáng,... Ðã thế y còn quyến rũ cô gái bán bar thơ ngây mà anh chàng lộc ngộc của chúng ta thầm yêu trộm nhớ. Cho tới một hôm, Nghệ Sĩ hộc tốc chạy tới lay tỉnh anh ta, mặt mày rạng rỡ :
- Dậy, dậy đi, mày !
Juyjuy phẩy tay, ọ ẹ :
- Ðừng có phá ! Ðể tao ngủ.
- Dậy, dậy ! Nó đi rồi !
- Ðứa nào đi rồi ? - mắt nhắm mắt mở Juyjuy hỏi lại.
- Còn đứa nào vào đấy nữa ! Nó đi rồi !
Juyjuy ngẩn người ra một lát. Rồi hiểu ra nó là ai, anh ta thở dài :
- Thôi, thế là từ nay chẳng còn ai cần đến tao nữa !
Bản năng cầu bầu chính là cái đó.
Không phải chỉ nhu cầu có bạn trong cảnh cô đơn mà người tù xà lim nuôi những con vật chẳng ai nuôi làm cảnh bao giờ. Con người cần có ai đó để mà săn sóc. Nói cách khác, nó cần được thấy có ai đó cần đến nó, để được thấy nó đang hiện hữu và hiện hữu có ích. Tình cảm đó là hạt nhân Thiện nằm trong mỗi chúng ta.
Tôi cảm thấy đỡ đơn chiếc hơn nhiều khi có Arlequin ở bên. Nhưng càng lớn lên Arlequin càng bướng bỉnh. Nhiều lần tôi gọi, nó không tới nữa, mà cứ ngồi yên trong nỗi trầm tư của nó, chỉ một mình nó biết nó nghĩ gì.
Một hôm, vào buổi trưa tôi bắt gặp Arlequin đang ì ạch trèo lên bức tường gai góc. Nó thở dốc, cái bụng phập phồng. Tôi tiếp tục giấc ngủ chập chờn trong cái nóng đầu hè. Tỉnh dậy, tôi thấy Arlequin đang giãy giụa dưới đất. Hình như cu cậu vừa bị ngã một cú trời giáng. Tôi nghĩ đó là trò nghịch ngợm của trẻ con, không đáng để ý.
Nhưng những cuộc phiêu lưu của vận động viên leo núi diễn ra ngày một nhiều thêm. Những cú ngã cũng nặng nề hơn. Bức tường xà lim Bất Bạt, như tôi đã kể, lổn nhổn vẩy vữa cứng và sắc, gây ra những vết xước khá trầm trọng cho Arlequin - trên bộ cánh đẹp đẽ của nó, nhất là ở chỗ da bụng mịn màng, xuất hiện những cái sẹo nhem nhuốc.
Cho tới một buổi trưa đang ngủ say chợt thức giấc tôi thấy Arlequin hì hục trèo lên cao bằng cách bám vào những vẩy vữa rồi đi ngang về phía cửa sổ. Thì ra nó muốn bỏ trốn.
Tôi nổi giận. ớt nhất thì cũng đã mấy tháng trời chúng tôi chung sống cùng nhau, vậy mà nó tệ, muốn bỏ tôi mà đi. Chẳng phải là tôi đã nhịn phần đường của mình để nuôi nó sao ? Tôi nhoài người vớ cái chổi quét một nhát thật mạnh. Arlequin bay bổng lên rồi rơi bịch xuống đất. Nó giãy giụa một hồi, rồi nằm thẳng cẳng, phơi cái bụng xây xát. Ðã tưởng nó chết, nhưng nó vẫn sống. Tỉnh lại, nó bực bội nhảy vào một góc tối.
Arlequin giận tôi. Từ hôm đó tôi gọi nó không thèm nhảy lại nữa.
Mùa hè ở Bất Bạt nóng lắm. Mặc dầu ở trên đồi cao, nhưng những hôm trời lặng gió trong xà lim nóng như trong lò lửa không kém xà lim Hỏa Lò là mấy. Tấm phản mộc dày là thế mà cong hẳn lên trong cái nóng khô khấc, thỉnh thoảng lại phát ra những tiếng tí tách của gỗ nứt. Không đường chạy trốn, tôi quằn quại trong cơn thiêm thiếp của sinh vật hấp hối. Bây giờ không phải là những người lính gác đóng cửa sổ lại không cho phép tôi nhìn ra ngoài, mà tự tay tôi phải đóng lại để cho mắt khỏi nhức nhối bởi cái nắng chói chang đang thiêu đốt khoảnh đất trần trụi trước mặt.
Trong một buổi chiều nóng bức như thế, tôi choàng tỉnh như bị đánh thức. Linh tính báo cho tôi biết trong xà lim chỉ còn lại một mình tôi.
Arlequin đã đi rồi !
Mắt nhắm mắt mở, tôi gọi ầm lên " Arlequin ! Arlequin !". Ðáp lại tiếng gọi tuyệt vọng của tôi chỉ có im lặng mênh mông.
Nghe tiếng tôi kêu lớn, mấy anh lính gác xồng xộc chạy lại. Nhưng ngó nghiêng một lát, chẳng thấy có chuyện gì xảy ra, họ bỏ đi. Tôi nghe tiếng một người vẳng lại :
- Lại một thằng nữa phát điên !
- Nóng bỏ mẹ thế này, chúng nó chưa chết là giỏi rồi ! - có tiếng cười hô hố.
- Còn nóng kéo dài chúng nó còn điên nhiều...
Bọn khốn kiếp, tôi chửi thầm. Nhưng tôi chả còn tâm địa nào nghĩ tới họ. Tôi còn đang đau khổ vì sự bỏ đi của Arlequin. Tôi chui xuống gầm phản, sờ soạng tìm trong mọi xó xỉnh của cái hầm trú ẩn tối om lởm chởm đá răm và cuội. Nhưng đó là cuộc tìm kiếm vô vọng - Arlequin đã đủ lớn để không thể chui vào những lỗ nhỏ có rất nhiều trong lòng đất laterit.
Mệt mỏi, tôi nằm vật ra phản. Nước mắt tôi chảy ra. Tôi nhớ Arlequin như nhớ một con người.
Buổi chiều tôi bỏ cơm. Viên quản giáo bộ đội ái ngại :
- Anh ốm à ?
- Vâng.
- Phải ăn để giữ sức khoẻ chứ.
- Anh báo cháo giùm tôi.
Anh ta khép cửa lại.
Trong xà lim vắng lặng hẳn. Cứ như thể Arlequin còn đó thì xà lim không vắng vẻ đến thế. Tôi cảm thấy hụt hẫng. Không còn nữa tiếng sột sạt khe khẽ khi Arlequin di chuyển trên nền xi măng, chỉ có thể nghe thấy được nếu rất chú ý. Không còn cái bóng nhỏ lui cui lúc chỗ này lúc chỗ kia trong cái cũi người nay còn lại mình tôi.
Về chiều trời oi nồng như chưa bao giờ oi nồng đến thế. Miệng đắng ngắt, tôi vật vã trên tấm phản mãi khô cong, không sao ngủ nổi. Trong cơn mơ màng tôi nghe tiếng đàn cóc đông đảo bên ngoài xà lim kêu rộn rã. Có vẻ chúng hoan hỉ đón mừng Arlequin thoát vòng tù ngục.
Tôi lịm đi khi cơn mưa rào giội xuống xối xả.
Trong giấc mơ tôi thấy Arlequin trở về. Không phải con cóc mà là một chàng trai cường tráng. Không phải xà lim mà ở một nơi nào đó không rõ rệt, không ra là ở ngoài đời, cũng không ra ở trong tù.
- Tôi quay lại để từ biệt anh ! - Arlequin nói - Tôi không thể ra đi mà không chào anh một lời...
Tôi nhỏm dậy.
Giữa hai chúng tôi là những song sắt. Hiện thực trở lại một nửa, lờ mờ.
- Sao chú nỡ bỏ tôi mà đi, hở Arlequin?
- Tại sao ư ? - Arlequin đăm đăm nhìn tôi, cái nhìn thương xót - Chẳng lẽ anh lại không hiểu nổi một điều đơn giản như thế sao ?!
Tôi cảm thấy cay cay nơi sống mũi, cái nhìn nhòa đi.
- Tôi có đối xử với chú quá tồi tệ đâu, Arlequin ? Tất nhiên, tôi cũng có lúc nóng nảy, nhưng đó là khuyết điểm có thể bỏ qua cho nhau được...
- Ồ, chuyện đó tôi quên rồi ! Anh đối với tôi rất tốt, tốt lắm. Tôi không quên anh đã nuôi tôi lớn lên, tôi cũng không quên những gì anh đã làm cho tôi, tôi hiểu tấm lòng của anh đối với tôi... Những cái đó làm sao quên được ! Nhưng thú thực, có một điều tôi không hiểu nổi : vì sao anh có thể ở mãi trong cái chuồng này mà không chán. Tôi thì tôi không thể sống như thế được.
Tôi nhìn cái xà lim, ngôi nhà của tôi.
- Không phải tôi muốn thế. - tôi kêu lên - Tôi bị cầm tù, Arlequin hiểu không, tôi bị cầm tù...
- Và anh muốn cầm tù tôi cùng với anh ?
- Tôi không cầm tù Arlequin, tôi chỉ muốn Arlequin ở cùng tôi thôi. Không có Arlequin tôi buồn lắm.
Arlequin nói, ngậm ngùi :
- Tôi cũng muốn ở cùng anh, nhưng rất tiếc, không thể được. Tôi là một con cóc. Không con vật nào muốn sống trong lồng, trong chuồng, anh có hiểu như thế không ? Sống như thế không phải là sống. Chúng tôi không cầm tù nhau như các anh, loài người ... Không biết và không nỡ. Tôi biết : các anh nghĩ rằng loài người các anh là sinh vật thượng đẳng, các anh coi các anh cao hơn các loài khác, nhưng tôi nghĩ các anh lầm. Hoàn toàn không phải thế...
Tôi không biết nói gì với Arlequin. Tôi buồn nỗi mình thuộc một loài mà cả đến con cóc cũng không thèm kính trọng.
Arlequin đưa tay cho tôi :
- Anh ở lại nhé, nếu anh không thể ra được. Vĩnh biệt anh !
Tôi nắm chặt tay Arlequin không rời. Nhưng bàn tay Arlequin cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho tới khi trở thành bàn tay của con cóc bé nhỏ đã ở cùng tôi, con vật xấu xí dễ thương đã là niềm vui của tôi trong mấy tháng trời. Tôi nhắm mắt lại vuốt ve bàn tay nhỏ bé nhưng nó đã tuột khỏi tay tôi.
Tôi choàng tỉnh. Mở mắt ra thì trời đã rạng. Không khí mát và ngọt sau cơn mưa rào ùa vào lồng ngực. Chung quanh tôi là sự tĩnh lặng của vô cùng. Qua song sắt nhà tù tôi nhìn thấy bầu trời nhợt dần, bóng đêm mất đi nhường chỗ cho một ánh hồng cảm thấy được chứ chưa nhìn thấy được đang dâng lên từ phương Ðông. Ðầu óc tôi bừng sáng trong một tia chớp từ bên trong, những ý nghĩ trở nên rõ ràng như chưa bao giờ rõ ràng như thế. Nỗi buồn mất đi không để lại dấu vết, Thế chỗ nó là một niềm vui không tên, trong sáng.
Ðó là phút mà con người đặt tên là mặc khải.
Tôi nghĩ tới Lênin và hiểu rằng ông đã sai biết bao nhiêu khi đặt tự do nằm trong phạm trù ý thức.
Bằng sự ra đi của nó Arlequin chứng minh điều ngược lại : tự do nằm trong phạm trù bản năng.
(1) Câu lạc bộ dành cho người nước ngoài, phần nhiều là người thuộc đoàn ngoại giao.
(2) Các loại bìa tiêu chuẩn thực phẩm.
(3) Ngày tạ thế của ông Hồ Chí Minh không phải là 3 tháng 9, mà 2 tháng 9. Bộ Chính trị đã quyết định sửa lại ngày để ngày Quốc Khánh không phải ngày tang, như sau này họ bào chữa. Do bị nhiều nhân chứng vạch trần hành động tự ý này khoảng tháng 11.1990, Ban chấp hành Trung ương đã phải ra thông báo chính thức thanh minh việc cắt xén di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh và thừa nhận ngày tạ thế của ông là 2.9.
(4) Vùng băng giá phía đông nước Nga, nơi phát vãng tù chính trị. Những nhà cách mạng Tháng chạp, và sau này V.I.Lenin và nhiều đồng chí của ông đã bị đi đầy ở vùng này.
(5) Từ tiếng Pháp cachot, ở Hỏa Lò là một phòng giam ngầm dưới đất, rất chật hẹp, tối tăm và bẩn thỉu. Theo những người tù đã từng ở cachot thì tù bị kỷ luật giam vào đây không đứng được, không nằm được, chỉ có thể ngồi trong tư thế lom khom, bên cạnh cái bô cứt đái nồng nặc mùi khai thối, đêm không dám ngủ để khỏi bị chuột cống cắn. Thời xã hội chủ nghĩa cachot vẫn được dùng nhưng may, tôi chưa có hân hạnh nếm mùi.
Cùng một lúc cửa sổ các nhà-xà lim theo nhau đóng sập lại rầm rầm, tiếng lính gác chạy sầm sập. Sau đó là im lặng hoàn toàn. Chỉ còn tiếng gió hú trên đồi, quanh quất giữa bàn cờ những ô biệt giam.
Xà lim tối om. Tôi rón rén bước ra phía cửa ra vào để nhìn qua lỗ thủng ra ngoài.
Thường cho tù ra đi cung người ta không đóng hết mọi cửa sổ mà chỉ đóng ở những nhà nào có tù đi ngang. Khi các cửa sổ bị đóng hết có nghĩa là sự kiện bất thường. Tôi phải chờ một lúc mới nghe tiếng cánh cổng tôn rên rỉ mở ra xa xa, tiếng đế giày sàn sạt trên sỏi, rồi mới tới đoàn người. Ði đầu là những tên bảo vệ lăng xăng. Theo sau chúng là các quan chức líu ríu vây quanh một nhân vật bệ vệ. Tôi nhận ra bộ trưởng Bộ Nội Vụ Trần Quốc Hoàn.
Ðây là lần thứ hai kể từ khi bị giam tôi nhìn thấy tên Béria(1) của Việt Nam.
Lần đầu là ở sân Hỏa Lò, lúc Huỳnh Ngự lấy tôi đi cung. Cũng một đoàn rầm rộ như thế này. Hoàn đi thẳng một mạch từ cổng vào tới khu ngách trái của Hỏa Lò, gần nơi diễn ra những cuộc hỏi cung. Tôi đoán Hoàn vào giải quyết chuyện gì đó trong vụ chúng tôi. Sau này, cha tôi tính ngày tháng để nhớ lại, ông nói có lẽ đó là hôm Hoàn vào gặp ông để yêu cầu ông chấm dứt cuộc tuyệt thực kéo dài đã mười ngày. Gương mặt lầm lì, cái nhìn vô cảm, nhân vật thứ hai trong ngành chuyên chính vô sản sau Lê Ðức Thọ gợi nghĩ tới một con sâu róm. Khi tôi đi ngang, Hoàn liếc xéo tôi, như nhìn một con vật trong đàn gia súc.
Cuộc đi thăm của Hoàn lần này chắc chắn liên quan tới vụ chúng tôi. Bất Bạt là trại không thuộc quyền Bộ Nội Vụ. Hoàn tới đây hẳn lại để gặp ai đó trong số những tên tù cao cấp bướng bỉnh. Chứ không phải để gặp những tên tù lèm nhèm như tôi. Tôi thuộc loại con sâu cái kiến, loại không được các đại quan tính đến.
Hình như bất cứ người cầm bút nào cũng có lần gặp trạng thái kỳ cục này : mạch văn đang trôi chảy bỗng ì ra khi gặp một nhân vật mà ngòi bút khước từ không muốn viết về nó. Chuyện đó đã xảy ra với tôi khi tôi đụng tới Trần Quốc Hoàn. Tôi đã tính bỏ, không viết về Hoàn nữa. Y không xứng đáng được nhắc tới trong cuốn sách, bởi y không có quan hệ trực tiếp với tôi trong quá trình vụ án, Hoàn không có vai trò trong câu chuyện tôi muốn thuật lại cùng bạn đọc. Trong vụ án này, mặc dầu tên Trần Quốc Hoàn được ghi như một trong những nhân vật chủ chốt, Hoàn chỉ là tay sai cho Lê Ðức Thọ. Tay sai là tay sai, cho dù có là bộ trưởng. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi thấy vẫn phải viết. Bức tranh xã hội Việt Nam vào thập niên 60 thiếu Hoàn sẽ mất đi một mảng điển hình.
Tôi không có lần nào tiếp xúc riêng với Trần Quốc Hoàn. Cùng ngồi tù với cha tôi ở Sơn La, nhưng Hoàn không nhập được vào khối các cựu tù nhân bè bạn với cha tôi. Những người này sau Cách mạng Tháng Tám vẫn thường qua lại thăm nhau. Hoàn chỉ tới ngôi nhà chúng tôi ở 65 Nhà Rượu đôi ba lần là cùng trong thời kỳ bí mật. Kháng chiến thành công rồi không bao giờ tôi thấy Hoàn tới nữa. Ðối với tôi điều đó có nghĩa Hoàn không thuộc số người mà cha tôi coi là bạn. Cha tôi phân biệt bạn và đồng chí. Những người cộng sản hiển nhiên là đồng chí, nhưng không hiển nhiên là bạn của ông. Bạn bè của ông đông, đủ loại, trong đó có nhiều người không phải là cộng sản, thậm chí có xu hướng trái ngược với cha tôi, như ông Tiến cố tôi đã có dịp nhắc tới ở trên, hoặc các ông Hoàng Văn Chí, ông Phan Tử Nghĩa, Nguyễn Văn ỏi... theo xu hướng xã hội. Mỗi khi gặp nhau họ tranh luận ầm ĩ khi nhận định thời cuộc, cãi nhau về chủ trương, nhưng khi mẹ tôi đã dọn cơm lên thì bầu không khí lại trở về vui vẻ, nhộn nhạo tiếng cười và những câu nói đùa bất tận.
Khoảng đầu những năm 60 Trần Quốc Hoàn bỗng nổi bật lên như một tên mao-ít cuồng nhiệt, một hung thần xã hội chủ nghĩa. Khắp nơi, người ta xì xào về những lời tuyên bố của Hoàn, coi như Hoàn là cái phong vũ biểu cho thời tiết chính trị của đất nước. Hoàn được gán cho cái biệt hiệu "Béria của Việt Nam" chính là trong thời kỳ này, thời kỳ bắt đầu những cuộc tấn công hùng hổ và ầm ĩ vào chủ nghĩa xét lại hiện đại, không phải vì những cuộc bắt bớ (lúc đó chưa xảy ra) mà vì những lời dọa dẫm được hào phóng ban phát trên các diễn đàn. Tôi có lần hỏi cha tôi Trần Quốc Hoàn là người thế nào. Cha tôi có vẻ không bằng lòng câu hỏi của tôi.
- Con phải cẩn thận. - cha tôi càu nhàu - Tình hình nước ta không đơn giản. Nói động tới Trần Quốc Hoàn là nguy hiểm lắm đấy. Con đã ở Liên Xô thời kỳ Ðại hội XX, con thừa hiểu tình hình bên đó ngày trước là thế nào. Bố nói phải cẩn thận là trong ý nghĩa đó. Béria dù sao cũng còn là một hạ sĩ quan trong quân đội Nga hoàng, còn có học đôi chút, chứ Trần Quốc Hoàn thì hoàn toàn vô học. Hồi Sơn La anh em tù nhận xét hắn tham ăn tục uống, đã thế lại có tính tắt mắt, nhưng coi đó là khuyết điểm sinh hoạt, chỉ nhắc nhở hắn rồi bỏ qua. Trong đời thường mà thế, ắt trong công việc không thể đàng hoàng. Hắn tiểu nhân, mà đó là một tư chất đáng sợ. Hắn chấp nhặt lắm đấy. Và không từ việc gì không dám làm. Nhất là bây giờ hắn lại ở trong Bộ Chính trị, tuy là ủy viên dự khuyết, trên hắn lại có Lê Ðức Thọ đỡ đầu.
- Thế những người biết hắn đâu cả mà không ai dám can ngăn ?
Cha tôi thở dài :
- Hồi cuối năm 1954 các cố vấn Trung Quốc phát biểu không đồng ý cho bác Lê Giản lãnh đạo ngành Công an, cụ Hồ nghe theo. Sau đó ít lâu, một hôm ông Cụ có hỏi bố : "Chú thấy liệu Trần Quốc Hoàn có đảm đương được trách nhiệm bộ trưởng Bộ Công an không ?" Bố biết can cũng chẳng được, nên chỉ trả lời qua quít : " Tôi ở Sơn La với anh ấy mấy năm tôi biết, trình độ văn hóa cũng như trình độ kiến thức anh Hoàn này kém lắm. Mà trông nom một bộ quan trọng như Bộ Công an(2), theo tôi nghĩ, phải có người giỏi, có học thức, sao Bác không giao cho ai khác ?".
Người tiến cử Trần Quốc Hoàn nắm Bộ Công an là Lê Ðức Thọ. Trường Chinh tán thành. Ông Hồ hỏi ý kiến cha tôi cũng chỉ để tham khảo. Cho dù ông có thấy cha tôi nói phải ông cũng không nghe theo được. Còn cha tôi thì cho rằng để trả lời cho một câu hỏi của ông Hồ về nhân sự ông nói thế đã là nhiều. Thường ông kín đáo, không hay nhận xét về người này người khác. Không phải vì sợ hãi, hay nể nang, mà vì thận trọng.
Ông cho rằng con người ta lúc thế này lúc thế khác, không phải bất biến, lấy một giai đoạn mà nhận định cho cả cuộc đời con người là không nên. Ðấy là nói chung, chứ riêng trường hợp này ông không nói còn vì e ngại thế lực của Lê Ðức Thọ. Năm 1955, khi Cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức bị phát hiện sai lầm, Lê Ðức Thọ được thay Lê Văn Lương, thì thế lực Thọ đã mạnh. Cha tôi sợ, nói thẳng ra là như thế. Như một bệnh truyền nhiễm bắt đầu lan rộng, cái sợ không chừa cả ông. Cái khí phách còn lại của tinh thần nho sĩ chỉ còn lại ở chỗ ông đủ nghị lực để giữ mình không dây vào những việc làm bạc đức, một thứ khí phách mà vài thập niên sau được đặt tên là chủ nghĩa makeno.
Vào năm 1965, nhân người nhà một viên chức chế độ cũ bị bắt tìm đến ông nhờ ông can thiệp giùm, cha tôi nhận lời đi gặp Trần Quốc Hoàn. Cha tôi biết rõ người bị bắt, ông này là người đúng đắn, trước đã có công giúp đỡ cách mạng. Chắc hẳn do tính tình nóng nảy, không biết giữ gìn lời ăn tiếng nói mà ông này bị bắt. Lúc ấy cha tôi đã về hưu, không còn quyền chức gì để có thể trực tiếp giúp đỡ ông. Cha tôi đến với Trần Quốc Hoàn, nghĩ Trần Quốc Hoàn sẽ nể tình bạn tù cũ mà nghe ông xem xét lại vụ án. Nhưng ông lầm. Hoàn tiếp ông, hứa hẹn bâng quơ, nhưng rồi việc đâu bỏ đó.
Không giúp được người oan ức cha tôi rất buồn.
- Thằng lưu manh khó lòng trở thành người tử tế. - ông than phiền với ông Ðặng Kim Giang - Mình quá tin ở khả năng cải tạo của môi trường đối với con người, hóa ra không phải như vậy.
Ông Giang an ủi cha tôi :
- Cậu không giúp được người ta thì cũng đừng dằn vặt mình quá. Ai chịu trách nhiệm được thay kẻ khác ?
Ông Ðặng Châu Tuệ(3) hôm đó có mặt thở dài :
- Thời bây giờ khác trước rồi. Nghĩ nhiều đến số phận dân chúng lúc này là lạc hậu lắm, chúng mày ơi. Bây giờ người ta nghĩ tới những cái khác kia - cái chức, cái quyền, cái lợi. Cách mạng mà rồi thế này ư ? Tao ngấy đến tận cổ.
Tôi nghe được mẩu đối thoại ấy, nhưng tôi không nghĩ cha tôi nói theo nghĩa đen. Một nhà cách mạng làm tới chức vụ cao như thế sao lại có thể là một tên lưu manh được ?
Bộ Nội Vụ, trung thành với tính chất bí hiểm của nó, không hay tổ chức những cuộc gặp gỡ các nhà báo, nếu có thì chỉ là những cuộc họp báo hạn hẹp để nghe một cán bộ cấp vụ phổ biến chủ trương hoặc công bố kết quả một chiến dịch, một vụ phá án gián điệp chẳng hạn. Cho nên các nhà báo ít có dịp tiếp xúc với Trần Quốc Hoàn. Tôi chỉ thỉnh thoảng được gặp, nói cho đúng là nhìn thấy Hoàn, trong một số buổi khánh tiết long trọng, ở những cuộc đón tiếp ở địa phương mà tôi tình cờ có mặt. Trong các nhân vật lãnh đạo ở Việt Nam thời bấy giờ Trần Quốc Hoàn có bộ mặt khả ố nhất, theo tôi. Có thể người khác thấy Hoàn theo cách khác, nhưng tôi thì tôi thấy đúng như vậy. Hay vì Hoàn là bộ trưởng công an nổi tiếng tàn bạo mà tôi nhìn ra thế chăng ? Từ ngày Trần Quốc Hoàn lên làm bộ trưởng thì trên miền Bắc không có mấy gia đình không có người thân trong gia tộc ở tù.
Trần Quốc Hoàn thường xuất hiện cùng lúc với Lê Quốc Thân. Béo núc ních, cổ rụt, hai mắt ti hí, giống hệt một con lợn, là phó của Hoàn. Thứ trưởng Lê Quốc Thân được người ta biết đến như một tên bất nhân. Trần Quốc Hoàn còn học được vài đường đạo đức giả ở đàn anh Lê Ðức Thọ, chứ Lê Quốc Thân ngu độn chỉ biết kêu gọi dùng bàn tay sắt. Ðược Ðảng tâng bốc là thanh kiếm và lá chắn(4) chiến đấu vì sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Ðảng, bảo vệ nhân dân, ngành công an Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Hoàn và Lê Quốc Thân nhanh chóng trở thành một đạo kiêu binh. Ðến nỗi, những cán bộ công an có công tâm phải thốt lên :"Cái sự coi mỗi công dân là một tù nhân dự khuyết mở đầu cho một thời đại khốn nạn. Rồi đây chúng ta sẽ phải trả giá cho sự thất nhân tâm này". Tôi được nghe, được đọc một số bài nói chuyện với cán bộ ngành công an của Lê Quốc Thân. Những bài báo này, theo nhận xét của giới trí thức, vừa ngu xuẩn vừa sặc mùi bạo lực. Tôi là người yêu chủ nghĩa xã hội, và tôi lấy làm xấu hổ cho cái chủ nghĩa xã hội mà tôi theo vì những bài phát biểu thiếu văn hóa đó.
Khoảng từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp phương châm bắt nhầm còn hơn bỏ sót được người ta nói tới nhiều, như thể đó là đường lối tốt nhất để bảo vệ cách mạng. Tôi cũng là người chăm đọc sách mác-xít, nhưng trong những đoạn văn viết về chuyên chính vô sản tôi không thấy những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác nói tới một phương châm như thế. Bắt nhầm còn hơn bỏ sót là sự biện minh cho những hành động tùy tiện của nền độc tài. Nó cực kỳ giản tiện và vô cùng dễ chịu cho tên độc tài củng cố địa vị thống trị. Nó cho phép tên độc tài thoát khỏi mọi ràng buộc, vô trách nhiệm trước sinh mệnh đồng loại. Trên thực tế nó đã trở thành phương châm hành động của công an nhiều nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là các nước châu Á (ở các nước châu Âu, sau Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô, tình hình đã có thay đổi theo chiều hướng dân chủ). Cán bộ thực hành chuyên chính vô sản tha hồ bắt oan, tha hồ giết oan đồng bào họ. Vạn nhất có bị phát hiện họ sẽ được chuyển sang công tác khác, được bảo hiểm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Kết quả là không biết bao nhiêu thường dân vô tội trở thành nạn nhân của cái phương châm bất nhân bạc ác này. Mà nói thường dân làm chi, đến những cán bộ cấp khá cao như anh Tạ Ðình Ðề, nguyên đội trưởng Biệt động thành Hà Nội, cũng bị đem ra "làm thịt" theo chủ trương nói trên của Hoàn(5). Tôi biết Tạ Ðình Ðề từ năm 1949 khi học trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Tôi ở đại đội 3, đóng bên đại đội Lê Hồng Phong gồm các sĩ quan cấp đại đội và tiểu đoàn về học khóa 6 trong chủ trương chính quy hóa quân đội. Tạ Ðình Ðề ở đại đội Lê Hồng Phong. Chúng tôi gặp nhau hàng ngày, tôi hiểu tính cách của anh. Anh là người có tinh thần đồng đội, lại thẳng thắn, không biết nịnh bợ. Trong triều đại Lê Duẩn những người có tính cách như thế trước sau cũng bị gạt ra khỏi guồng máy. Sau khi được trắng án, Hoàn và Thân còn nhiều lần mưu toan đưa anh trở lại nhà tù nhưng không thành công.
Ông Nguyễn Tạo, thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp, là phó tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam thời ông Lê Giản làm tổng giám đốc, biết rõ tiểu sử Trần Quốc Hoàn.
- Bố anh không nói theo nghĩa bóng đâu. Nghĩa đen đấy. - ông trả lời thắc mắc của tôi - Chả là thằng này đích thực lưu manh, anh ạ.
Năm 1992, tôi rời Việt Nam lần chót thì ông Nguyễn Tạo còn sống. Tôi hi vọng ông còn sống lâu để có thể kể câu chuyện kỳ lạ này cho nhân dân nghe.
Không thể nào tưởng tượng nổi - một bộ trưởng, hơn nữa, một ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản, lại là một tên lưu manh xuất thân ! Và tên lưu manh này đã đứng trên đỉnh cao quyền lực làm mưa làm gió nhiều năm trong bộ máy trấn áp của Ðảng. Cũng chính tên lưu manh này đã cùng "đại huynh" của nó thực hiện vụ hãm hại chưa từng có trong lịch sử đất nước những trung thần của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Câu chuyện ông Nguyễn Tạo kể được ghi lại như sau :
Trong một thôn nghèo bên một thị trấn heo hút thuộc miền núi Nghệ An có một đôi vợ chồng nghèo hiếm muộn, có độc một mụn con trai. Họ kiếm sống bằng nghề đi rừng kiếm dây leo về bện rế mang ra chợ bán, đắp điếm lần hồi, với hi vọng rồi đây đời con mình sẽ khá. Tuy nghèo khổ, hai người vẫn ăn nhịn để dành cho con trai theo học trường tiểu học phố chợ. Thằng bé loắt choắt được bạn cùng lớp gọi là Cảnh con, không đến nỗi quá tối dạ, khốn nỗi cũng chẳng thông minh, học thì lười, ăn cắp thì chăm.
Lớn lên một chút Cảnh con nổi tiếng cả thị trấn và một vùng xung quanh về tật ăn cắp vặt. Học đến cours préparatoire(6) thì bị đuổi học vì hạnh kiểm xấu. Từ đó Cảnh con lêu lổng như một con mèo hoang. Nhà nào sơ hở là nó lẻn vào, cuỗm của họ từ cái quần lót cho tới cái nồi đồng. Bị bắt, bị đánh, năm ngày ba trận, nhưng nó vẫn chứng nào tật nấy, càng ngày càng lì, càng trở thành bất trị. Cha mẹ nó bị xóm giềng chửi bới, nguyền rủa, bị bắt đền, bị đe dọa. Ðứa con hư trở thành gánh nặng, thành nỗi khổ tâm không sao thoát khỏi của đôi vợ chồng nhà nọ. Nỗi giận dữ của dân phố chợ nhằm vào Cảnh con cũng ngày một tăng lên. Rồi tới một lúc không ai còn có thể chịu nổi nữa.
Họ gặp may. Ðúng lúc có người mộ phu tới, viên trưởng thôn liền hớn hở giao ngay thằng ăn cắp oắt con cho họ. Vừa được tiền, lại vừa nhẹ mình. Thường người đi phu được lĩnh ở thầy ký mộ phu một khoản rõ ràng, khoảng năm đồng Ðông Dương nhưng đám chức sắc ăn chẹn, người đi phu chỉ được lĩnh một nửa, có khi còn ít hơn. Chức sắc ở địa phương bao giờ chả muốn đuổi khỏi địa phương mình những phần tử thanh tích bất hảo, bây giờ ta gọi là làm trong sạch địa bàn.
- Lúc bấy giờ Cảnh con chừng bao nhiêu tuổi, thưa bác ? - tôi hỏi.
- Khoảng mười lăm, mười sáu. - ông Tạo đáp - Thời trước là tuổi đi làm được rồi. Cảnh con được đưa sang Lào, tới một vùng có mỏ vàng, làm phu. Công việc phu đãi vàng rất đơn giản : đào đất ở những chỗ có mạch vàng rồi đem ra suối đãi. Dụng cụ đãi là một cái chảo lớn, dân đãi vàng gọi là pa-tê.
- Công việc phu đãi vàng ngày trước có khó nhọc lắm không, thưa bác ?
- Làm phu tất nhiên là khổ rồi. Nhưng phu đãi vàng cũng không đến nỗi khó nhọc so với phu mỏ, phu đồn điền. Cái khổ nhất của phu đãi vàng là bệnh sốt rét ngã nước. Họ sống rải rác trong rừng, từng tốp một, mỗi tốp vài chục người. Ðứng đầu mỗi tốp có một cai trông coi gọi là xú-ba-dăng(7). Tiếng là đãi cát ra vàng, nhưng lương phu thấp lắm, chỉ đủ sống, ít có ai hết giao kèo còn dành được tiền mang về nhà. Người đi phu thường không có ý định quay về - ở nông thôn thời bấy giờ còn khổ hơn đi phu. Anh đọc Tắt Ðèn rồi chứ ?
- Thưa, đã.
- Nông thôn lúc bấy giờ đúng như cụ Ngô Tất Tố tả. Nhiều người còn đi phu xa hơn, sang tận Nouvelle Calédonie hoặc Nouvelles Hébrides(8), ta gọi là Tân Ðảo và Tân Thế Giới, làm công nhân khai thác kền ở Chiepagui...
Các đồng chí ta ở Thái Lan lúc bấy giờ đã có Thanh niên Cách mạng Ðồng chí Hội hoạt động tương đối mạnh. Chính quyền Thái đối đãi với Việt kiều cũng nhẹ nhàng, họ không gây khó dễ cho các tổ chức cách mạng Việt Nam mà họ thừa biết là có cơ sở rộng khắp trên đất họ. Có thể nói đó là sự ủng hộ đáng quý. Cách mạng Việt Nam nhờ Thái Lan nhiều. Chỉ từ khi phái cực hữu Thái Lan lên nắm quyền thì cách đối xử với các tổ chức cách mạng Việt Nam mới xấu đi. Xét cho cùng, là lỗi tại mình. Ai lại nhờ đất người ta mà lại đi vận động dân Thái chống chính quyền ngay trên đất họ của họ. Thời kỳ mà tôi đang nói tới ngoài việc phát triển hội viên trong kiều bào tại chỗ, Hội Thanh niên cách mạng còn triển khai tổ chức của mình trong kiều bào ở Lào, Miên.
Khái niệm công nhân trong Hội Thanh niên bấy giờ rất đơn giản - bất cứ ai bán sức lao động chân tay đều là công nhân tuốt, đều là đối tượng để kết nạp vào Hội. Chứ đám phu đãi vàng đâu có là công nhân công nghiệp theo cách phân định thành phần của Mác, như các anh bây giờ hiểu. Vậy, các đồng chí Thanh niên cách mạng phát triển tổ chức vào đám phu mỏ vàng nọ. Người ta phát triển vào Cảnh con. Mà phát triển vào hắn cũng phải. Chỉ có mình hắn biết đọc biết viết trong đám phu mù chữ. Cảnh con thường viết thư thuê cho các bạn phu lấy tiền.
Chuyện bắt đầu từ đây. Ðồng chí phụ trách phát triển Cảnh con, tôi không nhớ tên, thiếu cảnh giác, trong lúc tâm sự con cà con kê đã nói với Cảnh con tên tuổi một số đồng chí. Tôi nghĩ anh này lo xa, lại có chút lãng mạn nữa - vạn nhất mình có bị địch bắt, có bị hy sinh thì Cảnh con còn biết người này người kia để liên lạc. Mấy đồng chí mà anh ta nói đến về sau đều bị bắt hoặc bị bắn chết trên đường rừng nằm trên biên giới Thái-Lào. Không ai biết vì sao họ bị lộ, nhưng Cảnh con sau đó cũng mất hút.
- Cảnh con bán các đồng chí cho Pháp ?
- Hồi ấy có nghi vấn như vậy. Nhưng không có bằng chứng. Nghi thì để bụng, vậy thôi. Nghe nói có đồng chí bị bắn, chạy thoát, lúc hấp hối có trối trăng lại, nói Cảnh con là tên phản bội.
- Sao họ không báo cáo tổ chức ?
- Một lời nói của một người không thể là bằng chứng. Vả lại, công tác cách mạng thì lu bu, có thể có ai đó đã báo cáo, nhưng người nghe báo cáo rồi cũng chết nốt chẳng hạn. Như tôi cũng chỉ nghe nói lại, mà không từ gốc, làm sao có thể báo cáo được. Ðến khi biết đồng chí Trần Quốc Hoàn ngày nay chính là thằng Cảnh con ngày trước thì những người biết hoặc có nghe việc này không dám nói nữa. Cảnh con đã ở trong Trung ương rồi, lại còn vào Bộ Chính trị nữa. Nói ra mất mạng như bỡn. Ðành nín lặng.
- Hồi ấy Cảnh con bỏ trốn vì sợ tổ chức biết ?
- Ðiều đó có thể lắm.
Sau khi Cảnh con trốn khỏi Lào, hắn trở thành một tên ăn cắp vặt ở các chợ Hà Nội. Theo lời những tên lưu manh già, trước đó có hồi Cảnh con còn đi theo một đám cướp ở Hải Dương, nhưng vì nhát gan nên bị chúng đuổi, không cho theo. Không còn đường nào, Cảnh con mới bò về Hà Nội, nhập vào đám móc túi, giật dọc. Nhưng ở trong đám này hắn ta cũng bị coi là một tên thuộc hạng bét, loại vét đĩa(9), như cách gọi của dân lưu manh bây giờ.
Ăn cắp ở quê còn được, chứ ăn cắp ở thành phố khó lắm, dân thì tinh, phú-lít(10) đầy đường. Nhưng không ăn cắp thì đói. Cảnh con mới xin nhập vào đám tiểu yêu cầm cờ đám ma, dưới trướng một tên anh chị ở phố Hàng Chợ Gạo. Bọn cầm cờ đám ma cũng là một dạng lưu manh, từ trong đám lưu manh chuyên nghiệp mà ra, như kiểu thầy tu xuất.
Mỗi băng cầm cờ thường được một nhà đòn(11) thu dùng. Trong số các nhà đòn hồi ấy có nhà Louis Chức rất nổi tiếng. Ðám tang do các nhà đòn thời trước ổ chức to lắm, sang lắm. Có minh tinh nhà táng xênh xang, màn che ngù rủ, ngựa cũng vận áo tang hai màu đen trắng, cũng đội kèn bú-dích(12) diễu hành trước linh cữu, trên xe tang ngất ngưởng một anh xà ích ăn vận chẳng khác gì đại tướng nhà ta bây giờ, theo đúng kiểu tây.
Tang chủ nào giàu có là có ngay băng cầm cờ đến xin phục vụ. Cách xin cầm cờ chúng thường là thế này. Mấy đứa lực lưỡng nhất bọn, xăm trổ đầy mình, mặt mũi bặm trợn, chít khăn tang hẳn hoi, kéo nhau đến gặp tang chủ. Lũ cô hồn xông thẳng vào nhà, quỳ lạy trước linh cữu, khóc lóc, kể lể, tuồng như trước đây chúng chịu ơn người quá cố, nay đến để giả nghĩa, xin được bảo vệ đám ma ân nhân. Tại sao lại phải bảo vệ ? Tại vì cụ nhà tuy ân dày đức trọng thật đấy, nhưng, chúng nó nói, thiên hạ trăm người trăm ý, cụ nhà có ăn ở tốt mấy cũng không phải là không có kẻ thù, chúng con biết có kẻ định bụng phá đám tang của cụ cho nên chúng con phải đến ngay, vì tình sâu nghĩa nặng với ân nhân ...
Tang chủ biết chúng nói láo, nhưng ngậm bồ hòn làm ngọt : không cho chúng cầm cờ thì chính chúng chứ chẳng phải kẻ thù nào sẽ phá đám, thôi thì đành để cho chúng "bảo vệ". Nghĩa tử là nghĩa tận. Công cầm cờ do vậy mà rất cao : một lá đại kỳ (cờ lớn) 1 đồng, cờ phướn từ 3 hào tới 4 hào (giá một tạ gạo hồi ấy khoảng 5 đồng, hơn 5 đồng một tí). Loại tiểu yêu như Cảnh con chỉ được cầm cờ phướn thôi, đại kỳ không đến lượt. Mà đã là tiểu yêu thì cũng chẳng được hưởng trọn tiền. Tang chủ cho năm hào thì đàn anh lấy ba, thương tình lắm cũng lấy hai. Lại nữa, không phải ngày nào cũng có đám tang nhà giàu để được cầm cờ. Chưa kể đến chuyện băng cầm cờ Hàng Chợ Gạo còn phải giành giật, tranh khách với băng cầm cờ chợ Ðồng Xuân và những băng khác. Nói tóm lại, Cảnh con sống dặt dẹo, bữa no bữa đói, khổ sở lắm.
Tình cờ một hôm Cảnh con đọc mục rao vặt trên báo Ðông Pháp thấy nhà in Tân Dân tìm thợ sắp chữ, mừng quá, bèn ba chân bốn cẳng chạy đến xin việc. Chủ nhà in sát hạch thấy được, mới cho vào làm. Tôi nhắc lại : thời thuộc địa dân mình ít học lắm. Trong làng đỗ được cái certificat đã là oai rồi, đã là thành phần trí thức rồi, đã được dân làng vị nể rồi. Thời kỳ tập sự, gọi là học việc, lương công nhân chẳng được là bao, giỏi lắm đủ ăn, nhưng cũng vẫn là có lương, còn hơn sống phập phù với bọn cầm cờ đám ma. Cảnh con ra sức làm, được chủ khen.
Nhưng chẳng bao lâu sau, chứng nào lại tật nấy, Cảnh con lại xoay ra ăn cắp. Ai cũng tưởng làm nhà in thì chẳng xoay xở được gì, ngờ đâu lại vớ bở. Chữ in làm bằng hợp kim antimoine, ta thường gọi là chữ chì, hồi ấy được dân đúc gang ở phường Ngũ Xã rất chuộng, mua với giá cao. Chả là đang lúc Tây cấm nghề đúc đồng (đồng là nguyên liệu chiến lược, mẫu quốc cấm dân thuộc địa đúc đồng để đưa về Pháp đúc đạn), cho nên dân Ngũ Xã phải quay ra đúc chảo gang. Chảo lớn thì phom(13) lớn, gang nóng chảy nguội quá nhanh thì chảo nứt, phải pha thêm một chút antimoine cho nó đông cứng chậm lại mới đúc được. Cảnh con liền ăn cắp chữ in đem bán. Trường Chinh hồi ấy cần chữ in cho báo Ðảng, cho người đi gặp Cảnh con để mua, nhưng hắn ta không bán. Một kí lô chữ in bán cho dân Ngũ Xã được sáu đồng, người của Trường Chinh chỉ trả có năm với lại năm rưỡi, đời nào hắn bán. Thằng Cảnh con này khôn như rận".
- Nghĩa là vào thời kỳ Mặt trận Bình dân Cảnh con không hoạt động gì cho cách mạng ?
- Hoạt động gì trong khi nó còn bận ăn cắp ?!
Ði đêm lắm có ngày gặp ma, Cảnh con bị bắt quả tang trong lúc trên vai còn cả bị chữ in. Chả là nhà in mất nhiều chữ quá, xót của, mới thuê thám tử tư đi điều tra. May cho Cảnh con, hắn bị tống ngục trúng lúc Mặt trận Bình dân vẫn còn cầm quyền. Thời kỳ này, sau cuộc đi thăm Ðông Dương của các nghị sĩ cộng sản và xã hội, nhất là sau cuốn Ðông Dương Cấp Cứu của bà André Viollis, các lực lượng phái tả của Pháp lên án mạnh chính quyền thuộc địa trong việc giam giữ tù chính trị, cho nên chế độ sinh hoạt cho tù chính trị được cải thiện hơn trước nhiều.
Không biết được ai mách giúp bảo giùm mà thằng ăn cắp chữ in liền khai với Sở Liêm Phóng rằng hắn là nhà ái quốc, chữ in hắn lấy là để cho các tổ chức cách mạng in báo, in truyền đơn. Cảnh con chắc khai cũng lăng nhăng lắm, hắn có liên lạc với ai đâu mà bảo hoạt động. Thế mà hắn được đưa sang bên chính trị, mới lạ. Tại Sơn La hắn nói với tổ chức Ðảng rằng hắn là người trong tổ chức, viện tên những đồng chí Thái Lan trước đây đã kết nạp hắn (nay đã chết hết), xin được kết nạp lại. Tổ chức nhờ bên ngoài xác minh, thấy quả có những đồng chí tên tuổi đúng như vậy, bèn cho hắn sinh hoạt. Lê Ðức Thọ cũng kết tình thầy trò với hắn ta từ đó
- Chẳng lẽ Trường Chinh hoặc những đồng chí gần Trường Chinh không nhớ chuyện Cảnh con từ chối không bán chữ in cho họ ?
- Nhớ thì cũng thế thôi. Có lục chuyện ấy ra Cảnh con cũng thiếu gì cách chống chế. Nguyên tắc bí mật chẳng hạn, chưa bắt được liên lạc thì biết ai là ta ai là địch. Theo nguyên tắc đó Cảnh con có quyền không biết Trường Chinh là ai, nói gì người của Trường Chinh cử tới gặp. Sau, Cảnh con đã làm to rồi, có ai biết chuyện cũ cũng im thin thít, không dám hó hé. Chỉ tội bọn lưu manh tép riu, hồi Cách mạng Tháng Tám chúng bị giết vô số kể, là lệnh của Trần Quốc Hoàn đấy.
- Hoàn muốn bịt miệng những người biết quá khứ của hắn ?
- Tất nhiên.
- Hồi ấy ai nắm công tác tổ chức, thưa bác ?
- Chẳng có ai. Hoặc có thì cũng là phân công miệng với nhau, bảo nhau mà làm, mỗi người một mảng việc, mỗi người một địa phương. Ngay các chức vụ trong Trung ương cũng vậy, nhiều khi ới nhau mà giao, ai gần thì gọi. Nói chung là phải tự động giải quyết. Ðấy, như Văn Tiến Dũng đấy. Có hồi anh ta mất liên lạc với Ðảng, chẳng được tổ chức phân công việc gì, nhưng anh ta cứ đi các nơi xây dựng cơ sở, kết nạp đảng viên như thường. Cho tới khi bố anh đi tìm được thì Văn Tiến Dũng đã có sẵn một mớ chi bộ của anh ta rồi.
- Có phải hồi chú Văn Tiến Dũng đóng giả nhà sư không ?
- Ðấy là hồi sau, khi đã bắt được liên lạc. Phải công nhận Văn Tiến Dũng kiên trì cách mạng lắm. Chưa bắt liên lạc lại với đồng chí thì tự nghĩ ra việc mà làm. Văn Tiến Dũng đúng. Nhưng nếu bắt bẻ thì có cái chi không bắt bẻ được, Văn Tiến Dũng làm thế gọi là vô tổ chức, vô kỷ luật rồi, phải không ? Tổ chức Ðảng trong những năm ấy chẳng chặt chẽ gì. Vả lại số đảng viên bấy giờ ít lắm, đâu có như bây giờ, thêm được một người là quý. Là đảng viên trước đây có nghĩa là tù đầy, là máy chém...
- Bác nghĩ Cảnh con rồi sau cũng giác ngộ cách mạng ?
- Ai biết được ?! Cũng có thể là như thế - con người ta thay đổi.... Mà cũng có thể không... Tôi chỉ tin một điều : con người ta rất khó thoát khỏi bản chất của nó, khó lắm.
Tôi trách cha tôi nhiều. Lẽ ra ông phải cho tôi biết những điều ông biết, nhưng ông đã lảng tránh.
Tôi nhớ một buổi chiều thu 1964, cha tôi đột nhiên bảo tôi :
- Con lấy xe đưa bố đi một lát.
Hôm ấy tôi có một cái hẹn, nhưng đành phải bỏ - trong gia đình tôi sự không tuân lời người trên là lỗi nặng. Ðành phải dịch cái hẹn sang ngày khác để đưa cha tôi đi. Ông ngồi sau chiếc Jawa 05 thấp tè, vốn không được thiết kế để chở hai người, hai chân khuỳnh khuỳnh. Nhưng ông chịu khó ngồi lắm, không kêu ca. Năm ấy cha tôi không còn đi được Mobylette nữa, dắt xe ra cửa, cái xe kéo ông theo làm ông ngã dúi dụi. Trước đó, khi còn làm ngoại giao có tiêu chuẩn xe hơi ông cũng chỉ đi xe Mobylette của riêng, do bạn bè ở Pháp gửi cho. Ông bảo : "Nước ta còn nghèo, xe cấp cứu cho đồng bào còn chẳng có, mình đi một mình một xe hơi làm gì, phí phạm !". Có hôm tới dự kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga ở đại sứ quán Liên Xô lính gác (Việt Nam) không cho ông vào chỉ vì ông đi Mobylette.
Cha tôi sai tôi chở ông lên đường Cổ Ngư cũ về phía Chèm. Tới dốc lên đê, ông bảo tôi dừng xe. Châm một điếu thuốc, ông chọn chỗ cỏ sạch để ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên ông.
Ráng chiều bắt đầu nhuộm đỏ mặt hồ Tây và một phần hồ Trúc Bạch. Gió nồng ẩm mang theo hương dong nước ngọt bị vứt lên bờ và hương lá mục ngai ngái.
- Con nhớ lấy chỗ này, quãng gốc cây thứ tư và thứ năm từ trên đê đổ xuống - cha tôi chỉ tay về phía trước - Nơi này đã xảy ra một tấn thảm kịch mà rồi đây con phải tìm hiểu để mà viết. Nó là tấn thảm kịch có tính chất tượng trưng cho một sự đổ vỡ lớn của một nền đạo đức và rộng ra, của một thời đại ...
Mắt cha tôi mờ đi. Giọng ông đứt quãng.
- Con không hiểu bố muốn nói gì ...
- Lúc này con không hiểu cũng được. Hiểu bây giờ vừa sớm, vừa nguy hiểm. Việc của bố là đánh động trí nhớ của con, bắt nó ghi lại một lời nói không rõ ràng để đừng quên, sau này ... Thôi, ta về.
Trên đường về nhà cha tôi không nói thêm lời nào nữa. Tôi cũng không dám hỏi. Nếu cha tôi đã không nói, có nghĩa là hỏi cũng vô ích.
Ông Nguyễn Tạo đã giải đáp cho tôi câu hỏi đó, nhiều năm về sau :
- Bố anh không muốn kể vì vào thời kỳ câu chuyện xảy ra bố anh không còn làm việc với Bác Hồ nữa, bố anh e mình không nắm rõ, không trực tiếp biết sự việc, không biết chi tiết, kể sẽ không đầy đủ, không khách quan. Hoặc giả, bố anh sợ anh biết câu chuyện quá sớm thì hại cho anh, tôi không rõ ... Nhưng bố anh muốn anh biết để có lúc anh sẽ phải viết ra. Bố anh bảo tôi kể cho anh nghe cũng không ngoài ý đó.
- Bác biết ?
Ông gật đầu :
- Không phải chỉ mình tôi biết. Còn có người khác biết. Số cán bộ công an ở cấp vụ trưởng hồi bấy giờ đều biết cả...
- Vậy chuyện gì đã xảy ra ở dốc Chèm, thưa bác ?
- Một vụ án mạng oan khuất.
- Ở chính nơi bố cháu chỉ cho cháu ?
- Ở đó. Có một người đàn bà bị xe cán chết, hay nói cho đúng hơn, xác của người đó.
- Một hiện trường giả ?
- Chính là như vậy. - ông ngậm ngùi - Người đàn bà này bố anh cũng biết, tên là Xuân, quê ở huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng. Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa, được Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương tuyển vào trông nom sức khoẻ cho Bác Hồ...
- Thời gian nào, thưa bác ?
- Sau khi hòa bình lập lại, khoảng năm 1955...
- Cùng được Trần Ðăng Ninh tuyển một lúc với cô Xuân còn có hai người em gái cô ta, một em ruột, một em họ, cũng là con cái gia đình gốc gác cách mạng cả. Họ được bố trí ở trong một ngôi nhà ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, sát đường Quang Trung. Thông thường, Trần Quốc Hoàn tự thân đưa cô Xuân vào gặp Bác rồi đưa về...
- Mỗi lần như vậy bà ta ở lại bao lâu ?
- Không chừng. Có khi chỉ một đêm, có khi đôi ba hôm ... Cô Xuân rất được lòng Bác. Họ có với nhau một con trai, được đặt tên là Trung, Nguyễn Tất Trung. Về sau trước khi Bác mất Bác ủy thác thằng Trung cho Vũ Kỳ chăm sóc, coi như con nuôi...
Tôi sững sờ. Lại thêm một bí mật tôi được biết trong những bí mật cung đình được giữ rất kín.
- Như vậy, có thể coi như bà Xuân là bà hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Việt Nam ?
Ông cười chua chát :
- Có thể coi là như vậy. Và là bà hoàng hậu bất hạnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất hạnh vì không một ngày được thừa nhận là hoàng hậu, vì đẻ ra đứa con không được gọi cha ruột của nó bằng cha... Tất cả diễn ra trong sự lén lút nhục nhã, như thể đó là tội lỗi.
- Ai đã giết bà Xuân ?
- Ðừng vội. Ta hãy ghi nhận sự việc này : vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm(14). Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Ðức, được nhận dạng. Ðó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn.
- Tại sao lại Trần Quốc Hoàn ?
- Bởi vì cô Xuân là người của cơ quan trực thuộc Trung ương, việc xảy ra phải báo cáo ngay cho Trần Quốc Hoàn biết.
- Rồi sau thì sao ?
- Chưa hết. Sau, em ruột của cô Xuân bị điều đi học một lớp y tá ở Thái Nguyên, rồi bị đưa về Cao Bằng điều trị bệnh... thần kinh. ớt lâu sau xác cô nổi lên ở một cây cầu trên sông Bằng Giang... Cô em gái họ cũng biến mất. Như vậy là cùng một thời gian, cùng một sự việc, có tới ba người thiệt mạng.
- Những đầu mối đều bị bịt ?
- Tất nhiên. Nhưng những lý do dẫn tới những cái chết đã bị lọt ra ngoài.
- Về những cái chết này không có ai điều tra hết ?
Ông Tạo cúi mặt xuống.
- Không.
- Tại sao, thưa bác ?
- Tại vì thủ phạm là một nhân vật quá to để có thể đụng tới.
- Trần Quốc Hoàn ?
- Phải. - ông thở dài - Tất cả những người biết việc này đều có lỗi với hương hồn cô Xuân và hai cô em, tất cả đã không dám làm gì để rửa mối hận cho họ. Tất cả đã cúi đầu trước guồng máy, trước uy tín của Ðảng có thể bị mất đi vì vụ bê bối này. Mọi người đều lầm khi nghĩ như vậy...
- Vì sao Trần Quốc Hoàn giết bà Xuân ?
- Ðó là một câu chuyện dài. Khi Bộ Nội Vụ, vì công tác bảo vệ, bố trí cho mấy chị em cô Xuân ở ngôi nhà của Bộ ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, thì chỉ có vài người biết họ là ai. Trong ngôi nhà này còn hai gia đình cấp vụ khác ở cùng. Thời gian trước khi cô Xuân bị giết ít lâu, Trần Quốc Hoàn thường tới đó. Việc Trần Quốc Hoàn tới thăm rồi cưỡng hiếp cô Xuân, cô em của cô Xuân biết, có nói lại cho người yêu của mình ở quê. Anh này về sau có làm đơn tố cáo gửi Trung ương.
- Và Trung ương im lặng ?
- Không phải anh ta gửi ngay lập tức. Ngay lập tức thì anh ta cũng bị giết ngay, mà mãi về sau này...
- Cụ Hồ không có ý kiến gì về mấy cái chết oan khuất đó ?
Ông Nguyễn Tạo đăm chiêu suy nghĩ.
- Có nhiều điều chúng ta không biết được. - ông nói, giọng bùi ngùi - Tôi nghĩ thân phận Bác lúc ấy cũng tội nghiệp lắm. Biết nói với ai ? Với Lê Duẩn chăng ? Hay Lê Ðức Thọ ? Hay nói thẳng với Trần Quốc Hoàn ? Tôi nghĩ Bác là con người, Bác cũng biết đau khổ. Nhưng cái thế của Bác buộc Bác phải im lặng...
- Nghĩa là, theo bác, ông Hồ không có lỗi ?
- Trong mấy cái chết nói trên ? Không.
- Nhưng sự im lặng trước cái chết của họ ? Ông Hồ cũng không có lỗi ? - tôi gặng - Bỏ ra ngoài mối quan hệ tình cảm, chỉ nói tới cái chết oan khuất của một con người, với tư cách đồng bào ?
- Thế hệ các anh khắc nghiệt trong sự phán xét. - ông thở dài - Tôi hiểu các anh. Các anh vô can. Chúng tôi thì không. Chúng tôi tự đặt mình trong sự ràng buộc với Ðảng, với những quyết định của nó, dù sai dù đúng. Chúng tôi lo lắng cho uy tín của Ðảng. Chúng tôi cảm thấy nhục nhã nếu Ðảng bị phỉ báng. Ðảng là cuộc sống tinh thần của chúng tôi, là danh dự của chúng tôi. Bác cũng vậy. Ông Cụ cũng đau đớn lắm chứ. Ông cũng là con người. Như mọi người. Các anh khác. Các anh chỉ nhìn thấy một lẽ công bằng, đòi phải có nó, đòi mọi sự phải sòng phẳng. Cái đó là phải thôi. Ðúng, chứ không sai. Nhưng có nên như vậy không nhỉ ? Hay là cần phải độ lượng hơn, thông cảm hơn với sự yếu đuối của con người ? Dù họ có là ai đi chăng nữa...
(1) Beria Lavrenti Pavlovich (1899-1953), đồng hương với Stalin, năm 1938 được Stalin giao cho phụ trách NKVD (tiền thân của KGB, Nha An Ninh Quốc Gia), phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô năm 1941, vào Bộ Chính trị năm 1946. Tháng 12.1953 bị hành quyết vì tội phản bội tổ quốc.
(2) Bộ Nội vụ hiện nay. Khi mới thành lập ngành công an Việt Nam cơ quan này mang tên Nha Công an Việt Nam. Sau năm 1954, nó được đổi thành Thứ bộ Công an, rồi Bộ Công an.
(3) Một nhà cách mạng lão thành. Trong kháng chiến chống Pháp ông làm chủ tịch ẹy ban kháng chiến hành chính tỉnh Ninh Bình, sau 1954 làm tại Tòa án tối cao.
(4) "Kiếm và mộc" là biểu tượng của ngành công an Liên Xô.
(5) Tạ Ðình Ðề, chỉ huy trưởng Ðội Biệt động thành Hà Nội, nhân vật huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 3. Sau chiến tranh ông làm giám đốc xưởng sản xuất vợt bóng bàn ngành đường sắt. Bị đưa ra tòa xử vì tội "chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa". Chưa bao giờ trong chế độ xã hội chủ nghĩa lại có một cuộc xử án mà quần chúng ủng hộ bị can kéo tới làm áp lực với Tòa đông đảo như trong vụ xử án Tạ Ðình Ðề. Ông được xử trắng án. Khi không buộc tội được Tạ Ðình Ðề "tham ô", Tòa hỏi Tạ Ðình Ðề tại sao lại thu nạp nhiều kẻ có tiền án tiền sự (tù được tha) vào xưởng của ông, Tạ Ðình Ðề thản nhiên trả lời :"Họ là những người đáng thương. Ai còn có tình người thì phải giúp đỡ họ".
(6) Lớp 2, hệ tiểu học thời Pháp thuộc, còn gọi là lớp dự bị, trên lớp Ðồng ấu (enfantin).
(7) Từ tiếng Pháp surveillant = giám thị.
(8) Hai quần đảo ở Nam Thái Bình Dương. Nouvelle Calédonie bị Pháp chiếm năm 1853, nay còn là lãnh thổ hải ngoại của Pháp. Nouvelle Hébrides bị Bồ Ðào Nha chiếm năm 1606, sang tay Anh và Pháp năm 1906, năm 1980 tuyên bố độc lập, đổi tên là Cộng hòa Vanuatu.
(9) Tiếng lóng của lưu manh : lính đú = loại lưu manh không chuyên nghiệp, đàn đúm theo đuôi); vét đĩa, lính vét đĩa, lính vét = loại lưu manh ở hàng cuối cùng, không đáng được tôn trọng.
(10) Từ tiếng Pháp police = cảnh sát.
(11) Như công ty dịch vụ mai táng ngày nay.
(12) Từ tiếng Pháp musique = âm nhạc.
(13) Khuôn, do chữ forme tiếng Pháp.
(14) Ông Nguyễn Minh Cần, vào thời gian đó là phó chủ tịch ỷy ban hành chính Hà Nội, phụ trách Văn giáo và Ngoại thành nhớ lại : " Hôm đó (vào mùa xuân năm 1957) tôi đang thường trực thì anh Nguyễn Quốc Hùng, thành ủy viên, tới báo cáo có vụ xe cán chết người trên đường Nhật Tân, công an báo cáo người bị cán đã là một xác chết. Anh em công an nói chiếc xe mang biển số của Phủ Chủ tịch... Mấy hôm sau tôi có hỏi anh Trần Danh Tuyên, bí thư thành ủy, về vụ này (theo phân công, anh Tuyên bí thư phụ trách công an), thì anh ta nói "Vụ đó giải quyết xong rồi ". Anh Nguyễn Quốc Hùng là cán bộ công an thời ông Lê Giản, sau bị Trần Quốc Hoàn đẩy ra ngoài. Theo anh Hùng cái chết này có uẩn khúc, anh nói cần phải tìm hiểu".
- Sắp xếp đồ đoàn ! - viên quản giáo nói.
Y đứng đuồn đuỗn trong khung cửa vừa được mở ra, thân hình lỏng khỏng in những nét sắc lên nền trời trắng bệch.
Lại chuyển chỗ, tôi nhìn y chán ngán. Chuyển phòng hay chuyển trại đây ?
Cuối năm 1971 quản giáo bộ đội không mở cửa cho chúng tôi nữa. Thay chân họ là một tay công an. Anh chàng trẻ măng, mặt mũi hiền lành, có phần hơi ngây ngô, với giọng nói ràn rạn của cậu bé vừa vỡ tiếng. Trong chiếc sơ-mi màu trứng sáo, quần âu màu lam thẫm, y giống học sinh năm thứ nhất trường trung cấp nông lâm hơn là quản giáo trại giam.
Anh tù đưa cơm thì thào báo cho tôi biết cha tôi và tướng Giang đều đã bị đưa đi khỏi chỗ cũ, hình như tới một nơi nào đó cũng nằm trong khu vực trại này, nhưng anh không có phận sự tới đó, không biết có đúng như vậy không. Mấy ngày sau anh tù tốt bụng cũng biến mất. Người đưa cơm mới ít lời đến nỗi tôi tưởng anh ta câm điếc, hỏi gì anh ta cũng một mực lắc đầu.
Tức là có tình hình mới, nhưng cụ thể là cái gì thì không sao đoán được.
Cuốn tiểu thuyết - hồi ký hình thành dần. Tôi đang mê mải miêu tả thú đi câu trong những cái ao làng. Tôi viết với niềm hưng phấn ít gặp, khi toàn bộ con người tôi, từng tế bào nhỏ bé, say sưa ngụp lặn trong hồi ức về những ngày xưa đầm ấm với tất cả tâm trạng náo nức chỉ có trong tuổi ấu thơ. Hồi tôi lên sáu, năm 1939, cha tôi đi tù Sơn La, mẹ tôi bận hoạt động, cho nên tôi phải về quê nội ở với bà cả cha tôi, một bà cô già ngoan đạo, sống trọn đời đồng trinh. Trong nỗi buồn sống xa gia đình, đi câu là cái thú lôi cuốn tôi nhiều nhất, đem lại cho tôi nhiều niềm vui nhất. Tôi bồi hồi sống lại tuổi thơ trong ngôi làng bình dị nơi châu thổ sông Hồng. Chìm đắm trong hồi ức nhiều lúc tôi quên bẵng mình đang ở tù. Ðưa mình về với kỷ niệm tuổi thơ là cách chạy trốn thực tại tuyệt vời.
Ðể tiết kiệm những mẩu giấy hiếm hoi lấy được từ những vỏ bao thuốc lá, giấy gói kẹo, tôi phải nhẩm mỗi câu trong đầu nhiều lần trước khi đặt bút, mà lại phải viết nắn nót bằng những chữ li ti như những con kiến gió kia, cho đỡ tốn diện tích. Cái ruột bút bi lại quá nhỏ, chỉ cần lơi ra một chút, tức thì nó lọt xuống kẽ tay.
Cái khó lớn nhất trong việc viết cuốn sách là làm sao giấu được những bản thảo đã viết xong. Bởi vì những khi tôi đi khỏi phòng giam tới nơi hỏi cung các quản giáo có thể vào phòng lục soát, là việc người ta thường làm. Nhưng họ đã không tìm ra, không phải vì tôi tài giấu, mà vì họ lười. Chẳng ai hơi đâu chui xuống gầm phản để tìm cả, mà những trang bản thảo của tôi nằm chính ở dưới đó, trong cái khe giữa tấm gỗ và trụ bê tông. Tôi giấu rất cẩn thận, ngụy trang thật khéo, nhưng tôi không tin rằng nếu người ta quyết tâm tìm cũng không thể tìm ra. Tôi không sợ kỷ luật của trại giam, Thành cho tôi biết người giấu giấy bút trong tù có thể bị tống vào ca-sô, nhưng tôi sợ bị tước đoạt công việc mà tôi muốn làm. Công việc này mang lại ý nghĩa cho thời gian ở tù, cho tôi thấy tôi vẫn độc lập được đối với quyền lực của bọn độc tài.
Viên quản giáo đến đột ngột. Những con cá trê bóng nhãy đen như bóng đêm còn đang quẫy trong đầu tôi. Tôi chỉ kịp giấu mẩu bản thảo xuống dưới chiếc áo rách mà tôi giả vờ vá hết ngày này qua ngày khác, thì y đã mở xong cửa.
- Chuyển phòng ? - trống ngực đánh thình thịch, tôi hỏi lại y.
- Sắp xếp đồ đoàn !
Y không trả lời vào câu hỏi, lười biếng nhắc lại.
Tôi còn đang lúng túng, chưa biết xoay xỏa thế nào với mấy mẩu bản thảo nằm bên dưới tấm áo rách nếu như y cứ đứng ỳ ra đấy chờ tôi thu dọn, nhưng thật may, nói xong y quay ra, khóa cửa lại.
Tôi thở phào.
Khi y trở lại thì tôi đã giấu xong những gì phải giấu. Ði cùng với viên quản giáo trẻ là viên hương sư Thanh Hóa. Cũng tử tế như lần đưa tôi từ Hỏa Lò lên Bất Bạt viên hương sư xách hộ tôi đồ đoàn, giờ đây đã lỉnh kỉnh chăn màn, quần áo, với những gói lớn gói bé quà gia đình tiếp tế.
Chúng tôi bước ra ngoài trời nắng, người nọ theo chân người kia qua những ô xà lim im lìm, cửa sổ khép kín, trên con đường nhỏ lạo xạo sỏi đá.
Chuyển trại rồi, tôi nghĩ, tim đập mạnh.
Viên hương sư dẫn tôi về phía chiếc com-măng-ca đỗ trong bóng mát một cây bàng.
Cái mà tôi lo nhất là bị khám đồ. Cái thủ tục rất khó chịu được nghiêm túc thực hiện ở bất cứ trại nào, lúc đi cũng như lúc đến, không có ngoại lệ. Trong lần chót gặp gia đình tôi đã chuyển được một số chương đầu tiên của cuốn sách ra ngoài. Bây giờ chỉ còn lại vài chương được cất trong mấy bao thuốc lá rỗng ruột.
Một người tù đã ngồi sẵn trên ghế sau. Nước da trắng trong, thứ nước da chỉ có ở những người sống lâu trong xà lim thiếu ánh sáng, hai tay bị còng phía trước, anh ta có vẻ như vừa qua một trận ốm. Cảm thấy cái nhìn chăm chú, anh tù quay đầu lại, dò xét nhìn tôi. Viên hương sư leo lên xe, ra hiệu cho tôi chuyển đồ cho y sắp xếp. Sắp xếp xong, y chỉ cho tôi leo lên ngồi bên anh tù. Trước khi bước xuống y rút còng tay. Tôi đưa tay cho y. Mọi việc diễn ra trong im lặng, không ai nói với ai một câu.
Một tiếng cách lạnh lẽo. Hai cổ tay tôi bị khóa chặt. Tôi đưa hai tay lên, ngắm nghía cái còng. Trên nền thép trắng có khắc những chữ Nga viết tắt tên nhà máy sản xuất ra nó. Tôi mỉm cười cay đắng : âu cũng là một sự mỉa mai của số phận. Người ta buộc tội tôi làm gián điệp cho Liên Xô, nay lại khóa tay tôi bằng một cái còng số 8 của Liên Xô.
Lát sau tôi thấy Lê Thanh Tài lững thững đi tới, khẩu súng săn dài thượt trên vai. Không thèm nhìn đến chúng tôi, cũng không nói một câu, y ngồi lên ghế trên, bên cạnh tài xế, khẩu súng gác bên cạnh. Ðó là một một khẩu Verney Caron hai nòng, cỡ 12 ly. Thấy tôi chăm chú nhìn khẩu súng, y gườm gườm nhìn tôi rồi kẹp chặt nó giữa hai đùi.
Chiếc com-măng-ca rời trại Bất Bạt nhằm hướng Bắc. Ðến bến phà Trung Hà, chúng tôi được phép xuống xe, đi bộ.
Trước mắt tôi hiện lên toàn cảnh dòng sông ngầu đục phù sa cuồn cuộn chảy và những làng mạc xanh rì xa tít tắp bên kia. Tôi bước thấp bước cao xuống dốc, cố ý đi thật chậm trên vệ sông thoai thoải để ngắm cảnh. Sau thời gian quá dài trong xà lim đây là lần đầu tiên tôi được thấy một chân trời. Nguyễn Tuân sẽ cười tôi lắm đây : rõ ngợm, cái đường gẫy khúc với những mảng xanh nhấp nhô thế kia mà thằng Hiên nó dám gọi là chân trời !
Trong những ngày kháng chiến chống Pháp Nguyễn Tuân đã lên một cơn thèm chân trời đến điên khùng cũng ở một vùng bán sơn địa như thế này đây. Ông lồng lộn, ông vùng vẫy hòng thoát khỏi sự bủa vây của núi rừng Việt Bắc trùng điệp. Từ đèo Re, đèo Kháng Nhật, ông thượng ba-lô lên vai, về xuôi. Ðến gần Hà Nội, ông cất công leo lên tận đỉnh Tam Ðảo, chui qua những tầng mây xốp để ngóng nhìn cái chân trời mong muốn. Nhưng chẳng thấy nó đâu. Nguyễn Tuân rầu rĩ. Ông thở dài kết thúc bài bút ký về cái sự thèm khát chân trời không ai hiểu được : "Thèm một người bạn tâm tình ! Thèm một người đàn bà !".
Bây giờ tôi chẳng có gì hết. Không một người bạn tâm tình. Không một người đàn bà ! Không cả quyền được thèm. Tất cả đều quá sang đối với tôi. Bây giờ thế kia đã là chân trời rồi, một chân trời mà tôi mơ ước, cho dù nó gãy khúc.
Những người phu phà gày gò gồng mình lên chống sào cho con phà rời bến. Khi con phà hướng mũi về bên kia sông, tôi đăm đăm nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy bên mạn phà mà thấy lòng mình buồn rượi. Tôi gập mình xuống, khỏa tay. Tên công an cảnh giác vội bước tới. Nhưng tôi có định nhảy xuống đâu. Tôi chỉ muốn được nhúng tay trong cái mênh mông nước mát một chút, một chút thôi. Biết đến bao giờ tôi mới lại được vùng vẫy trong một dòng sông quê hương như dòng sông này ? Có lẽ chẳng bao giờ nữa ! Những người Do Thái trên đường tới các các lò thiêu trong Thế chiến thứ 2 chắc hẳn có ý nghĩ giống tôi.
Nhìn sang anh bạn tù ngồi ủ rũ bên mạn, tôi thấy anh kín đáo giấu đôi tay bị còng dưới cái quạt giấy trước cái nhìn tò mò của hành khách qua phà. Tôi cứ để nguyên đôi tay bị còng trên đùi. Việc gì mà xấu hổ. Sau này, biết đâu đấy, sẽ có ai đó trong bọn họ nhớ lại cảnh này và đoán ra họ gặp ai. Tôi nhìn thấy cả những ánh mắt lạnh lùng, thậm chí ghê sợ - hẳn người ta nghĩ chúng tôi là những tên sát nhân. Nhưng lẫn vào những ánh mắt lạnh lùng tôi bắt gặp cả những cái nhìn thương hại.
Con đường chúng tôi đi, hẹp và gập ghềnh, luồn trong những rừng nứa đồi tranh bất tận, qua những những bản làng thưa thớt, những vạt thực vật bị cháy thui, những triền cỏ úa xác xơ dưới mặt trời gay gắt.
Ðầu năm 1947 tôi đã có dịp qua địa phận này, nhưng hồi ấy tôi còn là đứa trẻ. Quá nhiều năm đã qua kể từ ngày ấy. Thế mà trong trí nhớ bập bõm vẫn ghi lại một cái tên ỏi Mỗ. Tôi biết bên kia Trung Hà có con đường dẫn tới sông Thao, con sông đã đi vào ca dao như một lời cảnh cáo :
Sông Thao nước đục người đen,
Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về...
Như vậy, có lẽ chúng tôi đang tiến sâu vào địa phận Phú Thọ. Phía trước chúng tôi mỗi lúc một nhiều thêm đồi núi và rừng non rừng già.
Giữa đường, thỉnh thoảng Lê Thanh Tài lại bảo tài xế dừng xe để y bắn chim. Anh hương sư và lái xe lẽo đẽo theo chân thủ trưởng. Quan trên đi khỏi là tên quản giáo chưa có ria mép liền leo tót lên ghế trên, tiếp tục cuộc ngủ gật.
Lòng xe rất nóng và ngột ngạt. Chúng tôi không dám tự tiện xuống xe. Tôi sợ những viên đạn rình một hành động thiếu suy nghĩ của chúng tôi để bay ra khỏi nòng.
Mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tôi bực bội chửi đổng. Người bạn tù nhìn tôi. Tôi hỏi nhỏ :
- Anh tên gì nhỉ ?
- Tôi là Mỹ, Phùng Mỹ.
Khi chưa bị bắt tôi có nghe tên Phùng Mỹ. Huỳnh Ngự cũng có lần hỏi tôi có quen Phùng Mỹ không, nhưng khi tôi nói tôi không quen thì y cũng không hỏi thêm. Cơ quan an ninh không đến nỗi quá tồi để không biết những mối quan hệ của tôi.
- Như vậy, anh bị bắt cùng đợt với anh Chính ?
- Phải. Còn ông ? Bị bao giờ ? - liếc nhìn lên ghế trên, chỗ anh chàng quản giáo đang gà gật, anh thì thầm.
- Tháng 12 năm 1967. - tôi đáp.
- Nghĩa là... Có phải Vũ Thư Hiên đấy không ?
- Phải.
Mặt Phùng Mỹ tươi rói.
- Tại sao anh biết ? - tôi hỏi.
- Tôi đoán. Trong vụ chúng ta có hai người trẻ nhất là Vũ Huy Cương và ông. Tôi chơi với Cương. Người trẻ mà tôi không quen thì đúng là Vũ Thư Hiên rồi.
- Anh có đoán được chúng ta đang bị đưa đi đâu không ?
- Không biết !
Những lời thì thào của chúng tôi làm cho anh chàng quản giáo tỉnh giấc.
- Này, cấm nói chuyện đấy nhá ! - y cằn nhằn.
Không được nói chuyện thì chúng tôi ngủ gật cùng với y vậy. Trong trạng thái mơ màng tôi nghe thấy tiếng súng đì đẹt xa xa.
Lê Thanh Tài quay về với mấy con chim cu rừng xanh mướt. Y đặt chiến lợi phẩm vào giữa hai ghế trên, sau phanh tay. Những con mắt đen láy mở to ngơ ngác :"Sao lại thế này ? Chúng tôi làm gì mà các người giết chúng tôi ?!".
Tôi tỉnh hẳn. Nhìn những con chim ngoẹo đầu bất động mà thương. Tôi đưa tay vuốt mắt cho mấy con chim tội nghiệp. Nhưng vuốt thế nào thì vuốt, không như mắt người, mắt chim vẫn mở trừng trừng. Lê Thanh Tài nhếch mép cười giễu.
Trời vừa tối là tôi lịm đi trong giấc ngủ mê mệt, không buồn nhìn ra bóng tối mịt mùng hai bên và vệt sáng đèn pha quét trên con đường rừng đầy ổ gà.
Chúng tôi tới đích vào nửa đêm. Mắt nhắm mắt mở bước xuống xe, tôi thấy mình trong một cái sân rộng - một khoảng không rộng rãi với những ngôi nhà trắng lên thành những hàng đều đặn trong ánh sáng yếu ớt những ngọn điện vàng vọt và ánh trăng hạ tuần, với bức tường sáng mờ mờ bao quanh. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là một trại giam.
Vừa xuống xe Lê Thanh Tài lập tức biến ngay vào bóng đêm. Viên hương sư cần mẫn giúp chúng tôi hạ đồ lề. Bâu quanh chúng tôi là những bộ cảnh phục hoàng thổ thấp thoáng trong ánh sáng chao đảo của mấy cây đèn bão. Khệ nệ đồ lề trên cả hai vai và hai tay, chúng tôi được đưa vào nhà giam. Không có sự khám xét nào. Sau khi chỉ cho chúng tôi chỗ ngủ - hai cái giường tầng thênh thang trong một ngôi nhà dài bằng nhà năm gian ở thôn quê, đám âm binh lặng lẽ khóa trái cửa lại, bỏ đi.
- Có lẽ chúng nó cho hai thằng mình ở với nhau... - Phùng Mỹ mừng rỡ - Ông nghĩ thế nào ?
- Cũng chưa biết được. Ðể rồi xem. - tôi nói.
Thành dặn tôi : trong tù không được ngạc nhiên, không vội vã mừng rỡ, cũng không hốt hoảng hoặc buồn rầu trước bất cứ điều gì. Phải bình thản đón nhận tất cả - cái may cũng như cái rủi. Người tù bình thản thì mới đối phó được với những hoàn cảnh oái oăm mà mình không lường trước được.
Chúng tôi dọn chỗ ngủ ở tầng trên, bên cạnh một cửa sổ. Từ đó nhìn ra là một khoảng trời đen mênh mông với một mảnh trăng nhợt nhạt. Tính toán số giờ ngồi trên xe, tôi đoán mình đang ở một nơi nào đó thuộc địa phận Phú Thọ.
Ðám âm binh để lại cho chúng tôi một cây đèn dầu hỏa. Tôi dùng cây đèn rọi vào mọi ngõ ngách trong ngôi nhà. Tôi không thích người ta ghi âm những cuộc nói chuyện của tôi với Phùng Mỹ. Mà họ có thể làm chuyện đó lắm. Phùng Mỹ không hiểu tôi định tìm gì, nhưng anh hào hứng tham gia cuộc khảo sát. Chúng tôi phát hiện một mẩu bút chì giấu kín trong một mộng giường, một số que diêm kẹp trong một vỏ bao xẹp lép. Ở đầu một hồi là chuồng xí, có một hộc nước đủ cho hai người tắm rửa thoải mái. Trên tường, ở đôi chỗ tôi đọc được những dòng chữ ghi ngày tháng và một cái tên lặp đi lặp lại nhiều lần : Tân Lập. Tân Lập có nghĩa là Mới Dựng Nên, Mới Lập Ra. Vậy thì trước đây phải là một rừng hoang.
- Ở đây có điện !
Phùng Mỹ reo lên, chỉ cho tôi thấy một ngọn đèn lủng lẳng trên cao, dưới một sợi dây cứng quèo, to quá khổ.
Ngày hôm sau, chúng tôi vẫn không bị chuyển đi. Một viên quản giáo lầm lì dẫn theo một anh tù tự giác mang vào cho chúng tôi xoong nồi, gạo, muối và rau, bát đĩa, đủ cho một cái bếp tối thiểu.
- Các anh nấu lấy mà ăn. Gạo nước hàng ngày sẽ được cung cấp vào buổi sáng.
Y nói rồi quay ra.
Chúng tôi có cả một ngôi nhà thênh thang. Ðang bị tù túng trong xà lim, chúng tôi mặc sức chạy nhảy, vừa cười ha hả vừa đánh đu trên giường tầng như hai đứa trẻ. Cần phải luyện lại những bắp thịt đã nhão nhoét. Tôi ngạc nhiên thấy sức mạnh cơ bắp của mình sau thời gian dài ở Bất Bạt không đến nỗi quá tồi. Thì ra những thế cầu kỳ của hatha yoga đã giúp tôi giữ gìn cơ thể khỏi bị tàn phá bởi cuộc sống trong xà lim. Không những thế, cuộc sống chung hai người rõ ràng là một sự giải tỏa tinh thần. Chúng tôi nói chuyện say sưa, ngày này qua ngày khác. Bằng nhiều cách kiểm tra vòng vèo tôi khẳng định Phùng Mỹ đang ở với tôi là Phùng Mỹ thật, không phải một tên chỉ điểm mạo danh. Tuy vậy, tôi cũng không vội cởi mở. Phùng Mỹ quá hồn nhiên, tôi nhận xét. Người như anh không dễ dàng đối phó với bọn chấp pháp khi bị chúng dẫn vào bẫy. Biết đâu đấy, chúng để cho chúng tôi ở với nhau một thời gian rồi lại tách ra, tiếp tục khai thác từng người một. Cho tới lúc ấy chúng vẫn chưa kiếm được ở tôi một bằng cớ nào khả dĩ có thể dùng để buộc tội, trừ cách cả vú lấp miệng em. Hơn nữa, những sơ xuất trong khi trò chuyện với nhau về các anh em còn ở ngoài có thể mang tai họa lại cho họ.
Khu nhà dành cho chúng tôi cách sân trại một khoảng trống. Sáng nào chúng tôi cũng bị quả bom quái ác đánh thức, mặc dầu chúng tôi có thể ngủ cho tới đẫy giấc, tới khi quản giáo mở cửa đưa tiêu chuẩn thức ăn và gạo vào. Quản giáo cũng chẳng vội vàng đưa thức ăn cho chúng tôi. Y cũng chẳng buồn vào sâu trong nhà. Mở cửa cho chúng tôi ra sân xong, y bảo tù tự giác bỏ thức ăn cho chúng tôi ở cổng, rồi bước ra, khóa lại. Ðứng trong khu biệt giam chúng tôi có thể nghe thấy tù chuyện trò xôn xao trên đường ra sân trại tập họp sáng. Ðiểm danh xong, tù đi xong, cả khu trại giam lại vắng tanh vắng ngắt..
Cuộc gặp gỡ với Phùng Mỹ cho tôi hiểu thêm nội dung và tình tiết của vụ án. Cho tới khi ấy tôi chỉ biết lơ mơ, hay nói cho đúng hơn, chẳng biết gì về nó. Theo cách các chấp pháp hỏi tôi thì nhà cầm quyền có vẻ quan tâm nhiều tới những người có quan hệ với đại sứ quán Liên Xô, và muốn hướng những bản cung vào việc buộc tội chúng tôi làm gián điệp.
Phùng Mỹ cho tôi biết anh có giao du với mấy cán bộ đại sứ quán Liên Xô, bị theo dõi, rồi bị bắt. Trong tù anh bị hỏi cung liên tục về mối quan hệ bị cấm. Anh thú nhận bừa đã chuyển cho một người bạn Liên Xô nội dung Nghị quyết 9 mà anh chép lại sau khi dự lớp học. Theo lời Phùng Mỹ thì Phạm Viết cũng ra vào đại sứ quán Liên Xô nhiều lần. Theo các chấp pháp cho biết thì dường như Phạm Viết có tổ chức một cuộc gặp mặt giữa đại sứ Sherbakov với ông Ðặng Kim Giang và cha tôi. Trong cuộc gặp hai ông đề nghị Liên Xô phải tỉnh táo trước những hành động không thân thiện của một số cán bộ Việt Nam đối với Liên Xô, đừng vì thế mà làm ảnh hưởng xấu tới tình hữu nghị giữa hai dân tộc, đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp Việt Nam chống Mỹ. Chuyện này tôi không biết. Cha tôi không kể cho tôi nghe(1). Không thấy Phùng Mỹ nói gì về Biên bản hội đàm Việt-Trung mà anh chuyển cho phía Liên Xô, như sau này người ta nói đến như một cái tội của anh. Mà anh thì làm sao có được cái biên bản tối mật đó.
Chắp nối những câu chuyện của Phùng Mỹ với những câu hỏi của Huỳnh Ngự, tôi hiểu rằng chẳng có chuyện ban lãnh đạo Ðảng lo lắng cho bí mật Nghị quyết 9 bị tiết lộ. Cả triệu người được biết về nghị quyết thì không có gì còn là bí mật cả. Cái mà người ta muốn biết là có thể khai thác cái gì dùng được làm cớ để buộc Võ Nguyên Giáp vào tội âm mưu đảo chính hay không ?
- Ông có nghe anh em mình nói tới đảo chính bao giờ không ? - tôi hỏi Phùng Mỹ.
- Làm quái gì có chuyện đó.
- Thế tại sao người ta xưng xưng nói rằng có.
Phùng Mỹ cười :
- Họ muốn nặn ra cái đó.
- Họ có hỏi ông về âm mưu đảo chính không ?
- Có chứ.
- Nghĩa là có thể có, nhưng chúng ta không biết ? - tôi gặng.
- Tôi tin chẳng có gì hết. Nếu có tôi phải biết. Chúng nó bịa.
Tôi kể cho Phùng Mỹ nghe về cuộc khủng bố trắng của Stalin những năm 30 mà tôi được đọc trên các tạp chí Liên Xô. Phùng Mỹ biết tiếng Nga không giỏi lắm, cho nên anh ít đọc, ít biết về những vụ án oan trong thời kỳ Ðại khủng bố. Tôi muốn anh rút kinh nghiệm của những người xô-viết để biết cách đối phó trong nhà tù Việt Nam. Anh rất tâm đắc chuyện những người xô-viết thoát xử bắn, được thả ra lại sẵn sàng lên đường ra trận.
- Chúng mình cũng vậy thôi ! - Phùng Mỹ buồn rầu nói - Nếu đất nước bị xâm lăng thì chúng mình có khước từ bảo vệ nó không ? Chúng mình lại phải cầm súng, biết rằng bảo vệ đất nước cũng là bảo vệ ngai vàng của các vị lãnh tụ kính mến. Khốn nạn thật !
- Bi kịch thời đại. Biết làm thế nào ?
Sự suy ngẫm về những gì xảy ra ở Liên Xô, ở Trung Quốc, và bây giờ ở Việt Nam cho tôi thấy cái gọi là bàn tay đế quốc chỉ là cái cớ muôn thuở để gây ra những cuộc sát phạt nội bộ. Nguyên nhân chính là một số người bứt khỏi hàng ngang để chiếm lấy địa vị lãnh đạo phong trào cách mạng thấy cần phải củng cố quyền lực đã đạt được. Họ vu cho đồng chí hôm trước là tay sai đế quốc, hữu khuynh, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, xét lại, tả khuynh, hữu khuynh...tùy theo trí tưởng tượng của họ phong phú hay nghèo nàn. Cựu học sinh chủng viện Stalin trịnh trọng ban phát án tử hình do các ủy ban an ninh vài người ký, rồi cho các đồng chí đi ô tô ra pháp trường. Cựu hương sư Mao Trạch-đông mê kinh kịch không chịu thiếu trống phách : Mao còn cho dong Lưu Thiếu-kỳ, Trần Nghị, Bành Ðức-hoài đội mũ cao mà đi chán chê trong tiếng thanh la não bạt, trong tiếng hô đả đảo rầm trời rồi mới cho phép họ được mục rữa trong ngục thất. Xem ra các hình thức trấn áp của Duẩn -Thọ còn nhẹ nhàng hơn nhiều.
Cái sự cho chúng tôi ở hai người với nhau, được tự do trong khuôn khổ một xà lim rộng, được nấu nướng lấy, có vẻ như một sự nới lỏng. Nhưng kèm theo sự nới lỏng là một âm mưu không lấy gì làm sạch sẽ.
Càng ở lâu với Phùng Mỹ tôi càng thấy anh khác Trần Quốc Thành. Thành điềm đạm bao nhiêu thì Phùng Mỹ nóng vội bấy nhiêu. Trước hiện tượng nào Phùng Mỹ cũng có sẵn, ngay lập tức, một nhận định, một kết luận. Thành thì bao giờ cũng lật đi lật lại vấn đề chán chê, xem xét kỹ mặt này mặt khác của nó, rồi mới thận trọng đưa ra một giả thuyết cho người đối thoại cùng suy nghĩ với mình. Cuộc sống chung giữa hai người khác cá tính đã cho thấy mặt trái của nó : chúng tôi thỉnh thoảng cũng có một cuộc cãi vã nho nhỏ do bất đồng ý kiến.
Tôi không muốn người ta được sung sướng thấy chúng tôi hục hặc với nhau. Tôi thương Phùng Mỹ. Cũng như tôi, anh không phải nhà chính trị. Về khía cạnh này anh là người bị oan. Anh chỉ không oan trong tình cảm đối với họ mà thôi - anh không yêu họ một chút nào. Anh sớm nhìn thấy tính cách cai trị độc tài làm thui chột mọi suy nghĩ độc lập. Mà chỉ có sự suy nghĩ độc lập mới mang tính sáng tạo.
Tôi nói với Phùng Mỹ :
- Không phải vô cớ mà người ta cho chúng mình ở chung với nhau. Họ nghiên cứu chán ra rồi. Họ biết chúng mình có tính cách khác nhau, dễ va chạm nhau. Họ muốn chúng ta ghét nhau, căm thù nhau. Ðó là một mánh khóe tiêu diệt kẻ thù.
- Ðúng ! - Phùng Mỹ đồng ý - Ðúng lắm !
- Tôi đề nghị thế này : để đối phó với âm mưu của chúng nó, ta phải tự đặt ra chương trình làm việc cho kín thời gian một ngày, người nào làm việc người nấy, chỉ trò chuyện một lát trước khi đi ngủ. Như thế chúng ta sẽ chẳng bao giờ cãi nhau, đơn giản vì không có thời giờ để cãi nhau. Tôi hiểu ít về triết học, ông thì lại có thời gian là giảng viên môn này, tôi đề nghị ông dạy tôi. Còn nếu ông quan tâm tới văn học thì tôi cũng có thể thuyết trình ông nghe một số vấn đề. Như vậy có ích hơn.
Phùng Mỹ tán thành.
Một hôm, viên quản giáo tự giới thiệu là cán bộ phụ trách giáo dục trại vào gặp chúng tôi. Ðó là một anh chàng đẹp trai, tầm thước, về sau mới biết không phải là người của trại Tân Lập, mà của Bộ Nội vụ. Y vui vẻ hỏi thăm sức khoẻ (tiết mục nhàm chán nhưng nhất thiết phải có trong những cuộc gặp gỡ giữa hai bên) rồi mở cặp.
- Hôm nay tôi đến để phổ biến cho các anh một quyết định quan trọng. - y rút ra một tờ giấy, định đưa cho chúng tôi, nhưng rồi lại cất vào cặp - Mà thôi, chẳng vội gì, để các anh ăn Tết Ðộc Lập cho vui vẻ đã...
Lại một quyết định mới nữa, tôi nghĩ. Chúng nó toan tính cái gì mà thay quyết định xoành xoạch, như thay quần lót vậy ?
Phùng Mỹ lo lắng. Bữa cơm chiều anh ăn kém đi một bát.
- Chúng nó định làm gì đây ? - anh tư lự đặt câu hỏi.
Tôi đã chai lì rồi, tôi mặc kệ, chúng muốn giở trò gì thì giở.
- Nếu mọi sự tùy thuộc ở ý muốn của chúng ta thì chiều nay tôi mời ông đi ăn chim quay với tôi ở Tiểu Lạc Viên. - tôi nói - Còn khi chúng ta sống tùy thuộc ở chúng nó thì tốt nhất là quên chúng nó đi...
Phùng Mỹ vẫn băn khoăn :
- Không hiểu có quyết định gì mà nó đã định đưa cho chúng ta rồi lại không đưa ?
Biết nói thế nào cho Phùng Mỹ yên tâm đây ?
- Ông không nghĩ đó có thể là một màn kịch à ?
Phùng Mỹ ngẩn người. Rồi vỗ trán đánh bốp :
- Có lẽ lắm. Nếu không, tại sao hắn không nói ngay mà lại bảo để cho chúng ta ăn Tết cho vui vẻ đã ? Hiểu rồi ! Loi de suspension d'intérêt(2), có thế mà mình không nghĩ ra !
Nói thế, nhưng Phùng Mỹ lo lắm. Còn mấy hôm nữa mới đến 2 tháng Chín. Trong những ngày chờ đợi Phùng Mỹ ủ rũ, trông mà thương. Nhà cầm quyền thật độc ác với trò chơi của họ. Cái lối mèo vờn chuột không quân tử chút nào.
Qua mồng 2 tháng Chín cũng chẳng thấy viên quản giáo đẹp trai bước vào khu biệt giam. Mãi tới rằm tháng Chín mới thấy y dẫn xác đến.
- Quyết định mới của Ðảng đối với vụ các anh là thế này. - y nói, hàm răng trắng bóng lên trong nụ cười tươi tắn - Các anh không bị xét xử theo luật pháp mà được hưởng lệnh tập trung cải tạo. Mỗi lệnh có thời hạn 3 năm. Sau một lệnh, nếu các anh cải tạo tốt Ðảng sẽ cho các anh về đoàn tụ với gia đình. Bằng không, các anh sẽ ở thêm một lệnh nữa, rồi một lệnh nữa... Tất cả tùy thuộc ở thái độ cải tạo, tốt hay không tốt.
Phùng Mỹ nhìn tôi. Tôi nín lặng, chờ viên quản giáo nói tiếp.
- Lệnh tập trung cải tạo được ký ngày... - y nói một ngày thángmà tôi bỏ ngoài tai - Các anh có quyền được khiếu nại, được viết đơn lên Trung ương xin khoan hồng. Chúng tôi sẽ nhận và chuyển lên trên cho các anh(3).
Thấy chúng tôi vẫn im lặng, y hỏi lại :
- Tôi có mang giấy bút cho các anh đây. Nếu các anh muốn làm đơn, tôi sẽ để lại.
- Cảm ơn. - tôi nói - Chúng tôi không viết.
- Cái đó tùy các anh. Tôi khuyên các anh nên viết.
Tôi mỉm cười.
- Căn cứ quân hàm của anh, tôi chắc anh phải là đảng viên có thâm niên...
- Ý anh muốn nói sao ?
- Tôi muốn nói rằng nếu như vậy anh phải được biết có một chỉ thị của Ban Bí thư liên quan tới chế độ tập trung cải tạo...
- ???
- Chỉ thị này nói rõ rằng chế độ tập trung cải tạo không được áp dụng cho các cán bộ đã tham gia cách mạng trước Tháng Tám năm 45 và các cán bộ đã tham gia kháng chiến chống Pháp... Tôi chắc anh đã được đọc chỉ thị đó ?
Viên quản giáo chớp mắt liên hồi. Y không biết trả lời thế nào : có thể y chưa được đọc thật, nhưng nhận mình chưa đọc hoặc tệ hơn, không được đọc, thì điều đó có nghĩa là nhận mình kém, mình không phải người được Ðảng tin cậy.
- Anh đọc rồi chứ ? - tôi gặng.
- Phải.
Tôi cười :
- Thế thì anh bảo chúng tôi khiếu nại mà làm gì ?! Trường hợp này các cụ gọi là thế nào nhỉ ? Tôi nhớ ra rồi : nhổ đấy rồi liếm đấy. Có nói cũng bằng thừa.
Viên quản giáo tái mặt. Tôi nghĩ y sẽ có một hành động lỗ mãng với tôi, nhưng y chỉ lặng thinh bỏ đi.
Chúng tôi chỉ còn biết chờ đợi. Chờ đợi một cái gì không biết.
Hàng ngày, vào buổi sáng chúng tôi tắm rửa, làm vườn, rồi quay vào nhà học tập. Ðược nấu nướng lấy, lại có thêm rau tươi tự trồng, lại được tắm nắng tùy thích, sức khoẻ chúng tôi phục hồi nhanh chóng, nước da không còn bủng beo như trước.
Tôi vẫn giấu kín bản thảo Miền Thơ Ấu. Không phải tôi không tin Phùng Mỹ. Nhưng một sự sơ ý của anh sẽ làm mất đi kết quả của rất nhiều thời gian làm việc của tôi. Hơn nữa, nếu người ta đã cảnh giác thì khó mà viết lại lần nữa. Nhưng giấu thì phải ngừng viết, cũng không được. Cho nên đành cho Phùng Mỹ đọc. Hóa ra anh là một nhà phê bình văn học sắc sảo. Nhiều chương trong Miền Thơ Ấu đã được viết ra dưới ảnh hưởng những nhận xét của anh.
Phùng Mỹ sốt sắng truyền đạt cho tôi những kiến thức triết học. Nhưng nghe anh giảng vài buổi tôi nhận thấy tầm hiểu biết của giảng viên môn triết ở đại học ta nghèo nàn quá. Phùng Mỹ chắc chắn không phải giảng viên tồi. Có thể anh còn là giảng viên khá nữa là khác. Tôi không trách anh không đáp ứng được yêu cầu của tôi. Lỗi tại nền giáo dục. Nó không đòi người thầy giáo dạy môn này có kiến thức uyên bác. Nếu ông thầy thuộc lầu chủ nghĩa Mác trong những giáo trình được biên soạn lại, với hai môn duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng, thì thế đã là đủ. Biết thêm anh sẽ trở thành kẻ đa thư loạn thị, anh không còn là thầy tốt được nữa. So với đòi hỏi của nền giáo dục Phùng Mỹ biết nhiều hơn cần thiết, nhưng hiểu biết thừa này lại không đủ cung cấp cho tôi điều gì mới. Anh không biết được bao nhiêu về triết học cổ ấn Ðộ và những trường phái triết học phương Tây hiện đại. Trong tình hình bế quan tỏa cảng về văn hóa, trí thức khoa học xã hội ở Việt Nam có bị hạn hẹp về kiến thức cũng là chuyện bình thường. Nền đại học Liên Xô về mặt này, theo tôi nghĩ, còn khá hơn đại học Việt Nam. Bằng chứng là tôi không học khoa triết, nhưng các giáo sư Liên Xô đã cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản và một phương pháp tư tưởng không đến nỗi tồi.
Nhờ hiểu rõ mục đích của việc ghép những người có có tính khác nhau ở chung với nhau, chúng tôi biết cách tổ chức cuộc sống để không để xảy ra một cuộc cãi lộn nào. Chẳng bù với những anh em không ý thức được âm mưu của nhà cầm quyền. Sau những ngày đầu mừng rỡ được ở cùng nhau, cái xà lim hai người còn tệ hơn xà lim một người nhiều.
Tôi được chứng kiến cảnh đó sau khi chuyển từ khu biệt giam trại A sang khu biệt giam trại B, ít lâu sau.
Khu biệt giam trại B nhỏ hơn hẳn khu biệt giam trại A. Trong một căn nhà dài thượt, vốn là khu xà lim kỷ luật, người ta cắt ra hai đầu hồi mỗi bên bốn xà lim, phá tường ngăn và hành lang của chúng đi, thế là thành hai phòng biệt giam. Nhưng đó là sau khi ở một thời gian rồi chúng tôi mới biết, chứ khi mới chuyển đến vào ban đêm, chúng tôi chẳng biết mình được đưa đi đâu, đang ở đâu. Sau mới biết trong hai phòng biệt giam ở hai đầu hồi đều được dùng để giam tù trong vụ chúng tôi.
Phòng của chúng tôi nhỏ hơn trước rất nhiều. Mảnh vườn cũng bé tí xíu, đất lại toàn sỏi đá. Chúng tôi ra sức cải tạo nó bằng cách xin đào một hố đổ phân và nước tiểu ngay trong vườn (nếu không tù tự giác sẽ phải đưa bô đi đổ ở xa), rồi dùng thứ phân này bón cho cây trồng. Với những củ khoai lang được phát, để cho mọc mầm chúng tôi nhân giống lên thành một luống rau khoai lang xum xuê, những quả ớt mang theo từ khu biệt giam cũ cũng cho chúng tôi một loạt cây sai quả.
Những xà lim bên cạnh vẫn được dùng, thỉnh thoảng lại có tù được đưa vào. Những người tù kỷ luật không nằm lâu trong xà lim, thường chỉ một tuần hoặc hai tuần họ lại được ra nhường chỗ cho người khác. Họ không dám nói chuyện với chúng tôi, có lẽ không hiểu chúng tôi là ai, chỉ đoán rằng chúng tôi là loại tù nguy hiểm, liên lạc với chúng tôi chỉ mang họa vào thân.
Một đêm, chúng tôi nghe từ phòng bên có tiếng gọi :
- Các chú ơi, các chú !
Chúng tôi im lặng. Tiếng một đứa trẻ. Nó gọi chúng tôi hay gọi ai ? Tiếng gọi kiên trì lặp lại một lần nữa, rồi một lần nữa.
- Chào cháu ! - tôi lên tiếng đáp.
- Tại sao các chú lại ở đây ?
Tôi và Phùng Mỹ nhìn nhau. Biết giải thích cho cháu bé thế nào ?
- Chuyện dài lắm. Các cháu không hiểu được đâu.
Từ một xà lim khác vọng lại giọng khàn khàn của một người lớn tuổi :
- Ð...m...! Có cái đéo gì mà không hiểu được. Chính trị nà cùng chứ cái đéo gì mà rộn ?
Chúng tôi không trả lời y. Phùng Mỹ cười đau khổ. Là nhà giáo anh xa lạ với mọi biểu hiện của các nền văn hóa hè, văn hóa chợ. Không bao giờ tôi thấy anh văng tục, kể cả khi tức giận nhất.
- Chính trị, phải không các chú ?
- Phải. Thế còn cháu.
- Cháu là lưu manh.
Giọng khàn khàn lại vang lên :
- Mày thì nưu manh cái đéo gì hở Hán Còi ? Ðừng có sĩ, mày còn nâu mới được nà nưu manh, mày chỉ là thằng nính đú, thằng nính vét thôi, Hán Còi ạ ! Cho dù mày có gan cho tóe me(4) thằng Tín Nác.
Hán Còi van vỉ :
- Thì em có dám mẽ đâu. Em nói chuyện với mấy chú cho đỡ buồn thôi.
Giọng khàn cười hô hố.
- Lói đi ! Hôm lay các ông ấy đi xem xi-lê, còn nâu mới vào... Dưng mà mày giỏi đấy ! Thằng Tín Nác tỏi củ tỉ do tay mày cũng đáng, đéo thằng lào thương !
Hán Còi tiếp tục câu chuyện với chúng tôi :
- Các chú bị mấy năm hở các chú ?
- Chưa xử, cháu ạ ! Không biết là bao nhiêu. Thế cháu bị xử bao nhiêu năm ?
Hán Còi im lặng một lúc lâu.
- Án của cháu là án tù mù, các chú ạ.
- Tù mù là thế nào ? - Phùng Mỹ hỏi.
- Các chú không biết án tù mù là thế nào hay sao ?
- Không.
- Tức là án cao su, các chú ơi. Nó chỉ dãn ra, chẳng bao giờ co vào...
Một lát sau nó lại nheo nhéo :
- Các chú ơi, các chú làm nghề gì ?
- Chú dạy học ! - Phùng Mỹ nói.
- Còn chú kia ?
- Cũng thế.
Hán Còi nói như nói một mình, giọng não nuột :
- Mẹ cháu cũng dạy học. Mẹ cháu là cô giáo...
Chúng tôi lặng đi. Không ai nói thêm câu nào nữa, kể cả giọng khàn khàn ở cuối phòng.
Tôi thấy cay cay ở mắt. Từ giường bên Phùng Mỹ chăm chú nhìn tôi :
- Ông khóc đấy à ?
Tôi chùi nước mắt :
- Mình xấu hổ.
Phùng Mỹ quay mặt đi. Tôi úp mặt xuống gối, mặc cho nước mắt tha hồ chảy. Tôi thấy mình có lỗi trong việc Hán Còi bị án tù mù.
Hán Còi còn quay lại với chúng tôi nhiều lần, không phải vì bị kỷ luật. Nó tới vì cảm giác lưu luyến chúng tôi, lưu luyến các chú nhà giáo. Ngoài Hán Còi ra, trong thời gian ở khu xà lim này, còn có một cháu nữa cũng hay nói chuyện với chúng tôi là cháu Bông. Bông làm lái xe, bị tập trung cải tạo vì làm mất hàng của Nhà nước mà Nhà nước không biết ai lấy, lấy lúc nào. Vì không tìm ra thủ phạm, kẻ tình nghi chỉ có mình Bông, cho nên Bông cũng bị tù mù.
- Thế cháu bị oan à ?
- Không, không oan. Cháu lấy ! - Bông thú nhận - Thằng nào cũng lấy, cháu không lấy cũng dại.
Về sau, nghe lời khuyên của tôi Bông chịu khó theo lớp học trong tù. Cháu quyết tâm làm lại cuộc đời. Ra tù rồi, tôi được nghe vợ tôi kể lại có một ông mang con đến tạ ơn, nói nhờ tôi khuyên bảo mà con ông thành người. Vợ tôi không nhớ tên ông ta. Tôi khuyên nhiều đứa trẻ đi học, không phải một mình Bông, nhưng tôi ngờ đó là Bông và bố cháu.
Không biết các nhà lãnh đạo hồi ấy có tin thật ở khả năng cải tạo con người bằng cách đưa họ vào tù không ? Dường như họ tin thật như vậy. Chẳng thế mà những nhà tù cứ theo nhau mọc lên như nấm mùa xuân.
Một người tù lâu năm lại có cái nhìn khác hẳn về cách cải tạo này. Ông ta nói với tôi :"Mấy thằng bé thằng nào vào tù rồi cũng hỏng. Anh còn ở lâu, anh sẽ thấy. Cứ tha ra là y như rằng chúng trở lại. Tôi gặp chúng nó nhiều lần lắm, gọi là vào đồn ra phủ cứ như cơm bữa. Ở ngoài, chúng chưa đến nỗi hư lắm đâu, nhưng khi vào tù rồi, lại là thứ tù không biết ngày về, chúng không còn trông đợi ở cái gì nữa, chúng hư thật lực, hư cho bõ, đứa nọ truyền cái hư cho đứa kia, càng hư thêm. Nhà tù là một trường đại học đào tạo những công dân mất dạy".
Ông ta nhận xét đúng. Hoàn toàn đúng.
Với bi kịch Cải cách ruộng đất Trường Chinh là một người cộng sản sai lầm. Với chữ ký đặt dưới Nghị quyết của Ban thường vụ Quốc Hội để đưa công dân vào tù không cần xét xử Trường Chinh là một tên phát-xít.
(1) Tội chống Nghị quyết 9 được ghi : "Ðến Hội nghị Trung ương lần thứ 9 thì hoạt động chống đối có tổ chức của họ bộc lộ rõ : Ðặng Kim Giang, Hoàng Minh Chính, Vũ Ðình Huỳnh đã phân công nhau để vận động một số cán bộ, đảng viên viết kiến nghị gửi Trung ương, đồng thời in sao tán phát đến tận nhiều người". Cũng theo Ban bảo vệ chính trị nội bộ thì Hoàng Minh Chính sau khi chuyển các bí mật nhà nước cho nước ngoài (Liên Xô) đã gửi đơn xin cư trú chính trị tại nước ngoài (Liên Xô) và "chúng ta đã biết được điện của lãnh đạo nước ngoài gửi cho sứ quán của họ ở Hà Nội dặn trả lời thận trọng cho Hoàng Minh Chính nếu họ và gia đình tìm được cách nào rời khỏi Việt Nam tới được Liên Xô thì họ sẽ được sống và làm việc tại Liên Xô (!)"(VTH gạch dưới). Ðiều bịa đặt này trái hẳn với báo cáo của nhân viên KGB tại Hà Nội báo cáo về cho điện Kremli rằng "dường như có một âm mưu đảo chính đã bị phát giác tại Hà Nội".
(2) Luật kích thích sự chú ý (tiếng Pháp), một thủ pháp trong kịch nghệ.
(3) Theo tài liệu lưu hành nội bộ của Ban tư tưởng-văn hóa Trung ương, đề ngày 20 tháng 3 năm 1994 thì "Do những tội nạn đã rõ ràng của Hoàng Minh Chính, ngày 18 tháng 10 năm 1971 Bộ Chính trị và cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã quyết định xử trí đối với Hoàng Minh Chính :" Khai trừ khỏi Ðảng, cách chức viện trưởng Viện Triết học, ủy ban Khoa học Nhà nước, tập trung và cải tạo". Lệnh tập trung cải tạo được tuyên bố cho tôi và Phùng Mỹ có trước tháng 9 năm 1971, tức là trước cả quyết định của Bộ Chính trị với tên đầu vụ Hoàng Minh Chính. Anh Trần Thư cho biết khi được thả, người ta đọc cho anh nghe một lúc ba lệnh : lệnh tạm giam 3 năm ký tháng 12.1967 (khi bị bắt), lại tạm giam 3 năm lần thứ hai ký tháng 12.1970, và lệnh tạm tha ký tháng 6.1973. Anh có cảm tưởng cả ba lệnh được ký cùng một ngày, nhưng đề ngày tháng khác nhau.
(4) Tiếng lóng của lưu manh : tóe me = làm đổ máu, chỉ sự đâm, chém.
.
Khu xà lim 3, theo tôi ước đoán, nằm ở quãng giữa Hỏa Lò, gần đường Hai Bà Trưng, nếu nhìn từ cổng trại giam. Nằm trong xà lim 3 không nghe thấy những tiếng động của thành phố vọng vào. Thành nói cửa xà lim chúng tôi ngoảnh mặt ra phố Quán Sứ.
Tiếng kêu gào nghe gần lắm, nhưng trong mê lộ những tường và hành lang tiếng động bị quăng đi quật lại chán chê rồi mới tới tai mình cho nên không thể biết nó phát ra từ đâu, bên phải hay bên trái, đàng trước hay đàng sau.
Thành bật dậy. Ðối với những tiếng động khác thường trong nhà tù anh thính hơn tôi nhiều.
Một lát sau chúng tôi mới xác định được tiếng gào thét ai oán như lợn bị chọc tiết ấy là của một tù binh Mỹ, chắc là một phi công.
- Help... me ! He..lp m..e !(1)
Tiếng kêu cứu của con người trong cơn tuyệt vọng chẳng hướng về ai, chẳng gửi cho ai, vang to giữa đêm khuya trong một vùng bê tông lạnh lẽo.
Tôi nằm xuống, kéo chăn tới tận cằm mà vẫn thấy lạnh.
- Chắc tên Mỹ này mới bị bắn rơi chiều nay.
Thành, mắt đỏ cạch, ngáp dài :
- Có lẽ thế. Người ta đưa thẳng nó về đây.
Tên Mỹ la hét mãi không thôi.
- Chắc nó bị thương. - tôi nói.
- Chắc thế. - Thành gật đầu.
Phải hơn một giờ sau mới nghe tiếng chân người rậm rịch, tiếng cửa xà lim mở, tiếng nói chuyện lao xao. Tên Mỹ thôi kêu cứu, chắc y được tiêm thuốc giảm đau. Tiếng gào nhỏ dần thành tiếng rên rỉ ai oán.
Thành nằm xuống.
- Này, cậu có thường gặp tù binh Mỹ không ?
- Thỉnh thoảng. Tôi làm báo mà. Phi công bị bắn rơi luôn.
- Con số máy bay mà bên mình đưa ra là đúng đấy chứ ?
Vào thời gian này, máy bay Mỹ rụng như sung, và bao giờ cũng ngay từ loạt đạn đầu, theo tin tức báo chí.
- Nếu tin vào những thông báo chiến sự của hai bên tham chiến thì trên các mặt trận chỉ còn lại những hồn ma đang đánh nhau, chứ lính của hai bên thì đã chết hết từ lâu.
Thành cười khúc khích.
- Này, cậu làm báo, đi nhiều, gặp nhiều, có phải đúng là lính Mỹ hèn hơn lính Pháp không ? - gối đầu trên đôi tay, Thành lơ đãng hỏi.
Tôi nằm xuống theo. Trong xà lim không ngồi lên nằm xuống thì còn làm gì nữa ? Chẳng lẽ cứ đi bách bộ mãi - năm bước tới năm bước lui trong khoảng không gian hẹp giữa hai phản ?
Sau khi biết tôi có thời kỳ ở bộ đội, Thành trở nên gần gụi với tôi hơn, nói chuyện với tôi nhiều hơn, giọng nói của anh cũng ấm áp hơn. Gì thì gì, chúng tôi cũng đã từng là anh em chung một chiến hào. Trong lòng Thành có một anh bộ đội sống dai. Có vẻ anh bộ đội này không bỏ bạn trong cơn hoạn nạn.
- Chưa chắc. - tôi đáp - Anh em trong Nam ra nói lính Mỹ đánh không xoàng, lâm trận cũng dữ ra phết, nhất là đám Mỹ đen... Nhưng khi đã bị bắt rồi thì cả đen lẫn trắng đều không coi thể diện là cái gì.
Chúng tôi thả hồn về quá khứ hào hùng những ngày kháng chiến. Nhờ Thành tôi mới biết quân đội ta có những bài bản rất độc đáo trong chiến tranh. Chẳng hạn, khi ta mở chiến dịch Tây Bắc thì ở Thượng Lào bộ đội rèn cán chỉnh quân. Vũ khí của bộ đội Thượng Lào được cấp tốc bó lại, chuyển ngay cho chiến trường mới. Ðịch choáng váng trước hỏa lực mạnh bất ngờ của ta ở Tây Bắc, chưa kịp hoàn hồn thì đã lại bị đánh rất dữ dội ở đồng bằng Bắc bộ, cũng với những vũ khí được chuyển qua chuyển lại như thế trong hoàn cảnh thiếu thốn của một quân đội trẻ tuổi.
Tù binh Pháp, chúng tôi nhận xét, láu cá hơn tù binh Mỹ. Trong hoàn cảnh nhục nhã nhất đời lính, người Pháp vẫn thông minh trong ứng xử. Họ lập tức làm ra vẻ thân thiện với kẻ thù, cứ như thể chiến tranh giữa hai bên đã chấm dứt thì mọi sự đương nhiên phải trở lại bình thường giữa kẻ thắng kẻ thua trong nền hòa bình cục bộ. Với nụ cười cầu tài, họ bả lả nài xin chúng tôi điếu thuốc, nặn ra dăm ba câu làm quà. Những mẩu đối thoại tầm phào như thế mà, lạ thay, lại có tác dụng xóa đi cái ranh giới tưởng chừng không vượt qua nổi.
Có lẽ do bị tuyên truyền sai lạc về đối phương, tù binh Mỹ rất khúm núm trước kẻ thắng. Gặp sĩ quan Việt Nam, họ cúi gập người, hai tay áp sát đùi mà chào, lễ độ lắm. Tù binh Pháp trong trường hợp ấy ứng xử khác hẳn." Bonjour, mon capitaine ! Comment allez-vous ?"(2), họ toe toét, suồng sã. Ai cũng capitaine hết, từ anh lính trơn cho tới cấp chỉ huy cao nhất.
Chính sách tù binh nhân đạo đã góp phần lôi kéo lính Pháp chạy sang hàng ngũ kháng chiến. í thức được cuộc chiến tranh mà họ tham gia là phi nghĩa, những người "Việt Nam mới" sát cánh bên người Việt Nam kháng chiến chống lại chính nước họ. Nhiều người trong bọn họ sau trở thành đảng viên cộng sản, thành sĩ quan trong quân đội Việt Nam.
Họ chỉ buộc lòng phải bỏ Việt Nam mà đi khi ở đây bùng lên ngọn lửa "đấu tranh giữa hai đường lối". Với màu da trắng, họ bị các nhà mác-xít nửa mùa coi là những tên xét lại bẩm sinh. Không thể trở về Pháp, nơi họ sẽ bị xử tội như những tên phản quốc, những người này lang thang tìm nơi tá túc tại các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu. Chiến Sĩ trở về Ðông Ðức, Georges Boudarel(3), Albert Clavier, Targo(4)...người đi Hungari, kẻ sang Tiệp Khắc.
Tư tưởng Mao Trạch-đông đòi hỏi người cộng sản phải có lập trường bạn thù rõ rệt, ranh giới địch ta phân minh. Vào thập niên 60, cách đối xử với tù binh Mỹ không còn tử tế như với tù binh Pháp. Dù là tù binh, họ vẫn là địch, là kẻ thù. Ðiều đó gây ra tổn thất cho cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc. Không như trong kháng chiến chống Pháp, trong cuộc chiến tranh mới không có một người lính Mỹ nào cầm súng chiến đấu bên cạnh nhân dân Việt Nam.
Tù binh Mỹ tuy thế vẫn còn may : cấp lãnh đạo quân đội Việt Nam không hoàn toàn nghe theo những lời chỉ bảo của các cố vấn Trung Quốc trong vấn đề đối xử với tù binh. Khẩu phần cho tù binh Mỹ tôi thấy ở Hỏa Lò khá hơn nhiều so với khẩu phần bộ đội : mỗi bữa một tô đầy súp thịt, một cái bánh mì nhỏ, hai điếu thuốc lá.
Những câu chuyện trên trời dưới đất như vậy có tác dụng làm cho đêm xà lim bớt nặng nề.
- Thằng Mỹ ngủ, cậu ạ. - Thành nghiêng đầu nghe ngóng rồi nói.
Ðã tới bốn giờ sáng rồi chứ không ít. Chúng tôi vẫn tỉnh như sáo.
- Có lẽ thế. Không thấy nó rên nữa. - tôi nói - Không hiểu họ đưa nó vào đây làm gì nhỉ ? Nó bị thương thì đưa vào quân y viện, chữa cho khỏi đã. Làm như thế là không tôn trọng công ước quốc tế về tù binh.
Thành cười khe khẽ :
- Mình có ký vào cái công ước ấy đâu mà rộn. Cậu có thấy đói bụng không ?
- Cũng hơi ngon ngót.
Tôi làm khách. Thực sự, tôi đói run. Cái rét làm cảm giác đói tăng gấp đôi.
- Ta làm cái bánh xốp đi.
- Nào.
Anh bẻ đôi cái bánh, chia cho tôi một nửa. Tôi không được liên lạc với gia đình, tôi không được tiếp tế. Thành được nhận tiếp tế mỗi tháng một lần.
Chúng tôi nhai dè xẻn từng mẩu nhỏ, cảm thấy vị ngọt của đường mía trôi qua thực quản, qua dạ dày, thấm ướt những tế bào khô héo.
Từ hôm cái bánh mì bộ ra đi, chúng tôi trở về với bữa ăn thường lệ : hai đồng mì luộc đầy xác mọt và rau muống tần đại dương. Tôi không còn thấy gớm cái nước rau đen xì như nước cống nữa. Tôi húp sạchsành sanh, chỉ chừa lại một chút cặn.
Nhìn tôi húp nước rau ngon lành, Thành tế nhị giải thích :
- Lạ một cái là nằm trong xà lim, cả trong mùa đông, mình có làm gì nặng nhọc đâu mà bảo mất mồ hôi, vậy mà cứ thèm chất mặn. Nhiều hôm nhạt mồm nhạt miệng quá, đành nói khó với mấy ông quản giáo, tạ sự rằng đau răng quá, xin các ông làm phúc cho nhúm muối để ngậm. Khốn nạn, bỏ hạt muối vào miệng thấy ngọt như đường. Mình là người đứng đắn người ta mới cho, chứ tù khác đừng hòng...
Tôi ngạc nhiên :
- Mấy hạt muối đáng bao nhiêu mà không cho...
- Không phải chuyện đáng bao nhiêu hay không đáng bao nhiêu. Mà là người ta sợ tù trốn trại. Muối với nước tiểu hòa lẫn ăn mòn sắt dữ lắm. Tù dùng giẻ quấn quanh chấn song sắt, tẩm thứ nước ấy vào, cho sắt mục ra, dễ bẻ. Hỏa Lò chắc là thế mà người ta vẫn sợ tù trốn lắm, thỉnh thoảng lại loại các phòng....
Tôi giương đôi mắt của thằng ngốc :
- Loại là cái gì ?
- Tiếng lóng mà, loại là lục lọi, khám xét.
- Có một nhúm muối mà lắm chuyện.
Thành nhún vai :
- Người ta loại còn để tìm ra những thứ khác nữa chứ : cưa sắt, dao, bật lửa...
- Mình thèm muối thế này là trong người thiếu cái gì đấy. Chứ theo khoa học thì ăn muối nhiều chỉ có hại...
- Khoa với chẳng học, quên đi. Khoa học không bao giờ bước chân vào đây. Cứ theo khoa học thì con người không thể sống thiếu ánh sáng mặt trời. Vậy mà trong xà lim có ánh sáng mặt trời quái đâu mà tù vẫn cứ sống nhăn. Có người ở chín năm trong xà lim chẳng sao...
- Chín năm ? - tôi kêu lên, ớn lạnh dọc xương sống.
- Chứ sao ! Hiện hắn ta đang ở đây, ngay trong xà lim 3 này này. - Thành thản nhiên - Tôi nghe tiếng hắn ta ho.
- Sao không bắn quách người ta đi cho rồi ? Bắn còn nhân đạo hơn.
- Xì, bắn người đâu có dễ ! Tòa tuyên án tử hình rồi đấy chứ, mang bắn rồi đấy chứ. Thế mà vẫn sống, mới lạ. Tôi nghĩ con người ta có số, cậu ạ. Anh này ngụy quân, vẫn bị chính quyền địa phương để ý. Ngụy quân ngụy quyền đều trong sổ đen hết. Bỗng xảy ra án mạng, một em bé bị giết, xác vứt trên nắp cống. Ðiều tra thì biết em bé hay được hắn dẫn đi chơi, thế là hắn bị bắt. Ðồ rằng hắn bất mãn chế độ, giết em bé để gây hoang mang trong dân chúng. Chứ điều tra không thấy hắn không có thù oán gì gia đình đứa bé. Chấp pháp hỏi cung cách nào không biết, hắn nhận. Tòa xử tử hình. Hắn xin ân xá. Ðơn bị bác. Hôm giải hắn đi bắn anh chỉ huy thấy tên tử tù cứ vật vã gào khóc, một mực kêu oan, nói tại cán bộ chấp pháp xui hắn mới nhận tội, chứ hắn không giết người, chấp pháp bảo hắn cứ nhận hết thì xin tha cho, có ngờ đâu bị mang bắn thật...
- Người tù không bị giải đi bắn nữa ?
- Xì, có thế hắn ta mới còn sống đến giờ chứ.
Câu chuyện hoang đường, khó tin quá.
- Người chỉ huy hành quyết thường cấp bậc gì ?
- Trung úy, cũng có khi đại úy. Anh này trung úy.
- Anh trung úy rồi có bị kỷ luật không ?
- Ai biết được. Tôi cũng nghe kể vậy thôi. Gan cóc tía, quân lệnh như sơn mà dám cưỡng. Giải tên tù tử hình trở lại xà lim xong, anh ta tức tốc đi gõ cửa các cấp đề nghị xem lại vụ án mà anh ta cho là có uẩn khúc...
- Rồi sao nữa ?
- Người ta xét lại vụ án đấy !
- Thế thì cả anh trung úy lẫn những người chịu nghe ý kiến anh ta đều là những người cực tốt. - tôi suýt soa.
Thành nguýt tôi :
- Thế cậu nghĩ cán bộ các ngành công an, tư pháp bây giờ xấu hết à ?
Tôi cười. Thành có thể làm chính trị viên xà lim được. Nhưng trong trường hợp này chính trị viên đã nghĩ oan cho tôi. Tôi không đến nỗi tệ như vậy. Ðâu chả có người tốt, người xấu.
Anh trung úy nọ đúng là to gan. Người như thế hiếm lắm. Cán bộ đã nhiều năm chỉ được giáo dục tinh thần vâng lời, không ai được dạy suy nghĩ. Ngay trong ngành tòa án, được coi là độc lập, quan tòa(5) cũng phải xử theo Ðảng chứ không theo luật. Một án xử đã xong, coi như bất di bất dịch, bởi vì Ðảng (một Ðảng bộ chẳng hạn) đã quyết rồi. Thế mà dám cưỡng lại thì liều thật.
Người tù bị bắn hụt tên là Nguyễn Văn Căn, nếu như Thành không nhầm và tôi nhớ không sai. Trong suốt những năm dài của cuộc đời tử tội anh ta đã đi qua hầu hết các xà lim Hỏa Lò. Thảo nào ở xà lim 3 tôi đã gặp những hàng chữ khắc nguệch ngoạc ký tên Căn trên tường. Ðó là những lời thống thiết kêu than :"Tôi bị oan ! Tôi không giết người !", trong xà lim tôi đang ở là những lời căm giận nguyền rủa bọn cộng sản dã man, vô nhân đạo. Lời kêu oan chắc được ghi trong thời gian đầu khi anh ta mới bị bắt. Lời nguyền rủa đến sau, khi anh ta ở xà lim quá lâu.
Nhân có quả tắc(6) Thành dành mấy đồng bánh xốp cho anh tù bất hạnh. Tiếp tế, đối với mọi loại tù, nhất là tù xà lim, là hạnh phúc lớn. Chẳng thế tù xà lim có câu : " Thứ nhất được tha, thứ nhì quả tắc, thứ ba ra ngoài (trại chung)". Anh tù nọ, không hiểu sao, rất ít khi có quà gia đình.
Muốn cho bạn tù quà không thể nhờ quản giáo chuyển. Chỉ có thể xin ra sân phơi quần áo rồi lén bỏ quà vào trong túi, hoặc móc vào dây phơi rồi lấy quần áo phủ lên. Người được cho cũng xin phơi quần áo như thế rồi khéo léo lấy quà vào. Một "hộp thư" tình báo cực kỳ thô thiển. Có lẽ những quản giáo đều biết trò này, nhưng nhắm mắt cho qua.
Người mở cửa cho chúng tôi sáng hôm ấy không phải Sứ giả hòa bình, chẳng phải Hách, mà là một quản giáo mới toanh, chưa kịp mỏi mệt hoặc chán nghề. Tên này vè vè theo chúng tôi từng bước. Ðành chờ dịp khác.
Anh tù tử hình không hiểu cho chúng tôi, cho rằng chúng tôi chơi xỏ anh, cất tiếng chửi đổng, lời lẽ rất khó nghe. Tôi sôi máu, bảo Thành đừng cho quà tên khốn kiếp ấy nữa, nhưng Thành ngồi im, không nói gì.
Ngày hôm sau, người mở cửa là Sứ giả hòa bình. Thành lẳng lặng cho bánh vào túi áo bông xin phơi, rồi điềm tĩnh thông báo lần nữa cho anh tù tử hình biết. Việc chuyển giao diễn ra tốt đẹp. Ðêm xuống, Căn nghêu ngao mấy câu vọng cổ bày tỏ lòng ân hận.
Cách nhắn nhủ nhau qua những bài ca, những vần thơ, là cách liên lạc độc đáo trong tù. Quản giáo có bắt được cũng không thể phạt nặng - ối giời ơi, tôi có vi phạm gì đâu, thưa ông, nằm đây mãi buồn quá tôi nghêu ngao tí chút, thế thôi, xin ông bỏ quá.
Căn có thâm niên xà lim cao nhất Hỏa Lò. Vì thâm niên này anh ta được các quản giáo nơi tay. Những người duy vật cùng mình hóa ra trong đáy lòng vẫn còn một chút duy tâm - chẳng ai muốn trong gia đình mình có thêm một con ma thù hận. Án tử hình đã tuyên rồi, chắc gì tòa đã xử lại, tòa xử lại chắc gì đã tha, một sáng nào đó đội hành quyết lại lôi cổ hắn ta đi chửa biết chừng.
- Sao anh không trả lời hắn một tiếng ? - tôi hỏi Thành.
Anh lắc đầu :
- Hắn hiểu chúng ta không chơi xấu là đủ.
Tôi nói quả tắc là hạnh phúc lớn đối với tù xà lim là nói chung. Nó không đúng trong mọi trường hợp. Thành chẳng hạn, những lần nhận quà gia đình anh buồn rũ.
Cuối cùng, trong một đêm không ngủ Thành đã kể cho tôi nghe ngọn ngành câu chuyện vì sao anh vào tù.
Nhờ trước chiến tranh tiểu đoàn trưởng Thành có học trường Kỹ nghệ thực hành. Hòa bình lập lại anh được chuyển sang Bộ Công nghiệp. Trong một đợt tinh giản biên chế (7) anh xin hưu non, cùng các bạn bộ đội lập ra một hợp tác xã thủ công nghiệp. Cùng làm với anh có đại tá Trần, một nhân vật lịch sử của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ. Nhờ những mối quan hệ cũ với quân đội, hợp tác xã nhận được những hợp đồng lớn của Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật. Từ cổ chí kim ai cũng biết hợp đồng với quân đội bao giờ cũng béo bở. Hợp tác xã của các cựu chiến binh lớn lên như thổi. Mức sống của xã viên tăng nhanh đến chóng mặt.
Chuyện Thành vào tù nghe cứ như chuyện bịa.
Chả là anh nhận được một hợp đồng gia công chốt xích xe tăng, với số lượng lớn. Nguyên liệu để làm thứ chốt này là sắt Liên Xô, ký hiệu CT45. Ðúng vào thời gian này người ta sực nhớ đến xe trâu, phương tiện vận tải thô sơ trong kháng chiến chống Pháp. Nó vẫn hữu hiệu trong công việc vận chuyển trên những đường xấu, đường rừng hẹp. Xe trâu được sản xuất hàng loạt. Mọi thứ để sản xuất xe trâu đều đủ, chỉ thiếu có trục xe, mà sắt thanh CT45 làm trục xe rất hợp.
Thành mầy mò tìm ra trong những núi sắt phế liệu thời Pháp nhiều sắt tròn có độ cứng tương đương CT45, liền mua về làm chốt xích xe tăng, còn thép do Tổng cục Kỹ thuật cấp thì bán lại cho các hợp tác xã đóng xe trâu. Nhờ sáng kiến của Thành hợp tác xã thu được một khoản lãi kếch xù.
Các bà vợ ngây thơ làm hại các ông chồng. Lẽ ra phải tiếp tục sống kín đáo thì các bà lại đua nhau phô trương. Các bà sắm sanh đủ thứ, đi chợ không thèm mà cả, tha về làn to làn bé. Quá vui vì món quà bất ngờ của số phận, họ đánh mất sự tỉnh táo để biết sống cho phải đạo. Như một quy luật, nhà cầm quyền ngu dốt bao giờ cũng che đậy sự quản lý vụng về bằng chủ nghĩa khắc kỷ. "Sự bình đẳng hai người mặc chung một quần", theo cách nói dí dỏm của Nikita Khrusov, làm cho con người trở nên hẹp hòi, họ căm ghét kẻ nào sống sướng hơn họ. Người biết sống phải đạo muốn ăn thịt gà phải đi chợ xa để mua, lén lút mang về, lén lút vặt lông, lén lút ăn rồi lén lút đem lông đi đổ. Lòng ghen tị hiện hình thành những lá đơn tố cáo đầy những câu hỏi nồng nặc mùi cảnh giác cách mạng.
Những ông Bao Công vừa thoát nạn mù chữ nhảy vào cuộc.
Thành bị bắt. Cả ông đại tá danh tiếng cũng bị tống giam.
Trong quá trình điều tra, phía quân đội xác nhận hợp tác xã thực hiện đúng hợp đồng về mọi mặt - thời hạn, số lượng và chất lượng sản phẩm. Kèm theo, có biên bản giám định của Viện kỹ thuật quân sự. Mặc, họ bị buộc tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, bị giam hết tháng này qua tháng khác, rồi năm này qua năm khác.
Thành ôm mối hận trong lòng. Theo thói quen của người thợ, anh dùng vật liệu đúng chỗ của nó. Thay vì Nhà nước phải nhập thêm một lượng thép làm trục xe trâu thì nay không phải nhập nữa. Những đoạn thép ngắn bỏ đi đã được tận dụng. Số trục xe trâu có đủ cho sản xuất, nhu cầu vận chuyển được đáp ứng.
Ông đại tá ỷ thế có công với cách mạng, là bạn của ông thủ tướng, và cái chính là ông tin lẽ phải thuộc về ông, nhất quyết không chịu nhún mình trước bọn chấp pháp. Ông thủ tướng ngoảnh mặt đi. Ông cho mọi người biết ông không nể tình riêng mà vượt qua phép nước, ông không can thiệp. Ông đại tá bị đôn lên làm đầu vụ, sẽ bị xử nặng nhất. Chuyện ấy làm cho Thành buồn phiền. Theo anh, các nhà làm án lầm - tội của anh mới là tội nặng. Chính anh đã đề xướng việc làm về sau này bị coi là "phạm pháp".
Không rõ rồi Thành lĩnh án bao nhiêu năm ? Tôi hi vọng người ta sẽ tỉnh ra để không hành hạ những con người khốn khổ. Khi tôi rời Hỏa Lò Thành vẫn còn đó.
- Cậu có nghe thấy gì không ? - Thành vụt nhỏm dậy, hỏi tôi.
Tôi lắng nghe. Có một tiếng xào xạc mơ hồ vẳng vào xà lim.
- Hình như chuyển trại. - anh nói.
Tai Thành thính hơn tai tôi. Ðến lúc ấy tôi mới nghe tiếng người lao xao, tiếng dép lạt xạt trên mặt đường.
Một lát sau có tiếng xe vận tải nặng nổ máy, một chiếc rồi hai chiếc, ba chiếc. Tiếng người rộ lên một lát, sau đó đêm lại trở về yên lặng.
Thành cục cựa trở dậy làm điếu thuốc lào. Mặc dầu kế hoạch của anh chặt chẽ, nhưng gặp điều suy nghĩ là nó liền bị vi phạm.
- Họ chở tù đi đâu ?
- Ði trại. Tết đến nơi rồi.
- Tết thì liên quan gì đến chuyển trại ?
Thành nhìn tôi. Khi nào anh mải suy nghĩ, không muốn trả lời thì cái nhìn của anh không ấm áp.
- Trước những ngày hội lớn, ngày Tết, bao giờ người ta cũng chuyển tù Hỏa Lò đi để lấy chỗ giam tù mới. Ðủ loại : lưu manh, trộm cắp, ngụy quân, ngụy quyền, đĩ điếm, tình nghi phản động... Tất cả gom trong vài ngày, sau đó mới phân loại, đám đưa đi tập trung cải tạo, đám qua Tết cho về. Giam hết lấy chỗ đâu mà chứa !
- Bắt người thế thì tùy tiện quá.
Thành liếc xéo tôi, không buồn trả lời.
- Tôi cứ tưởng bắt một con người là phải qua nhiều thủ tục luật pháp, hóa ra không phải. Anh đừng cười tôi - chẳng riêng tôi, tất cả bọn nhà báo chúng tôi đều bị bịt mắt hết, chúng tôi chỉ nhìn thấy một phía của cuộc sống.
Thành hút thêm điếu nữa.
- Anh lo chuyển trại à ?
- Việc gì mà lo. Người ta không cho chuyển trại trong khi chưa có án đâu. Ðược chuyển trại còn phải lấy làm mừng ấy chứ. Nằm xà lim là cực kỳ hại cho sức khỏe.
Tôi thở dài.
- Chẳng biết bao giờ tôi mới ra khỏi xà lim...
Thành nhún vai :
- Họ xử sớm thì ra sớm. Họ xử muộn thì còn phải nằm... Một năm, hai năm không chừng.
- Nếu họ không xử thì sao ? - tôi nhỏm dậy.
- Sao lại không xử ?
Ngần ngừ một lát, tôi nói :
- Thế mà họ không xử chúng tôi đấy.
Ðến lượt Thành ngạc nhiên :
- Bậy !
- Chấp pháp nói với tôi như vậy.
- Cậu là cán bộ tham gia kháng chiến chống Pháp thì phải xử chứ, nhất định thế. - anh nói bằng giọng quả quyết - Có một chỉ thị của Ðảng nói về việc này rồi, rằng lệnh tập trung cải tạo không được áp dụng cho cán bộ hoạt động cách mạng trước tháng Tám bốn mươi nhăm và cán bộ kháng chiến chống Pháp.
Tôi nhớ ra rồi. Chỉ thị đó tôi có đọc. Anh Hoàng Nguyên Kỳ thỉnh thoảng cho tôi xem một số chỉ thị và nghị quyết mới của Ðảng, trong đó có một chỉ thị của Ban Bí thư về tập trung cải tạo. Lúc đó tôi không chú ý.
- Họ nói vụ của chúng tôi nằm trong phạm trù mâu thuẫn nội bộ, tức là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nội bộ Ðảng, nội bộ phong trào cộng sản quốc tế...
Thành cúi đầu suy nghĩ :
- Họ nói thế à ? Thế thì không lo. Nhưng... cũng chẳng biết được nó là thế nào, rất có thể vì thế mà nó lại dằng dai cũng nên ... Vụ án của cậu khó hiểu ... Cậu bị bỏ tù hẳn hoi, sao lại gọi là mâu thuẫn nội bộ ?
- Thì thế mới lạ !
Tôi quyết định nói cho Thành nghe những nét chính của vụ án chúng tôi. Tại sao lại không nói nhỉ ? Tại sao lại phải nghe lời chúng nó để giấu giếm cho chúng nó cái mà chúng nó giấu giếm ?
- Thế ra cậu bị cùng với các ông Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang. Và cả ông cụ cậu nữa ?
Tôi gật đầu.
- Hồi mới vào chắc cậu nghĩ tôi là chỉ điểm ?
- Chẳng có sở cứ nào để nghĩ như vậy. Nhưng vẫn phải cảnh giác. Anh không trách tôi chứ ?
Anh buồn rầu :
- Có gì mà trách. Cảnh giác là đúng thôi.
- Họ không cho anh biết tôi là ai ?
Tôi thấy một chút lưỡng lự, rất nhỏ, trong khoảng cách giữa câu hỏi và câu trả lời.
Tên tù binh Mỹ đã ngủ yên. Hoặc đã chết. Tôi không nghe thấy bất cứ tiếng động nào từ phía xà lim của y nữa.
(1) Cứu tôi với ! Cứu tôi với ! (tiếng Anh).
(2) Xin chào ông đại úy ! Ông vẫn được mạnh giỏi đấy chứ ? (tiếng Pháp).
(3) G. Boudarel (tên Việt là Ðại Ðồng) sau trở về Pháp, giảng dạy tại trường đại học Diderot (Paris). Cho tới khi tôi viết những dòng này cuộc chiến ở Ðông Dương đối với anh vẫn chưa chấm dứt. Anh bị những cựu tù binh Pháp còn cay cú với cuộc chiến tranh Ðông Dương đã qua đòi đưa ra tòa vì tội phản quốc. Ðiều đáng ngạc nhiên là nhà cầm quyền Hà Nội không hề quan tâm tới số phận người chiến sĩ đã chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam.
(4) Tôi kể tên mấy người quen : Chiến Sĩ (Ðức), G. Boudarel, A. Clavier (Pháp), Targo (Tây-ban-nha). Chiến Sĩ sau chết ở Ðức, G. Boudarel tôi còn gặp ở Paris năm 1996. Không rõ số phận những người khác ra sao.
(5) Các quan tòa Việt Nam hồi này phần nhiều không có chuyên môn. Họ được rút từ các ngành khác, được dự những khóa huấn luyện cấp tốc để trở thành quan tòa. Ngành tư pháp nói chung ở trong tình cảnh tội nghiệp. Do ảnh hưởng của sự sợ hãi nguyên tắc tam quyền phân lập, Ðảng luôn dè chừng ngành này.
(6) Quà gia đình được phép gửi cho tù, ở miền Bắc gọi là tiếp tế.
(7) Những đợt tinh giản biên chế diễn ra thường xuyên trong bộ máy nhà nước mỗi ngày một thêm cồng kềnh. Trong tinh giản biên chế những người xin ra ngoài thường là những người tài năng, không cần bám vào bộ máy nhà nước. Ông Phạm Văn Ðồng ví tình hình này như việc đập lúa, những hạt mẩy nhất bắn ra đầu tiên, những hạt lép thì bám rất dai.
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 24
Ðêm giữa ban ngày
Chương 24
Tôi bị cả Huỳnh Ngự, cả Hoàng, bỏ quên suốt tuần lễ cuối năm âm lịch.
Thành rầu rĩ. Anh nhớ vợ nhớ con. Ðã lâu không nhận được thư nhà, anh lo lắng, không hiểu có chuyện gì xảy ra cho cái gia đình bé nhỏ của anh, nó đang phải chịu những cơn sóng gió nào ? Mà sóng gió thì bao giờ cũng sẵn cho những gia đình bất hạnh có người thân ở tù.
Thành buồn làm tôi buồn lây. Gia đình Thành gặp khó khăn một thì gia đình tôi ắt khó khăn mười. Vợ tôi sẽ gặp nhiều gian nan lắm đây, gian nan như thế nào tôi không hình dung được, nhưng đó là điều nhất thiết sẽ xảy ra, không thể không xảy ra(1).
Không khí Tết luồn vào tận trong các xà lim. Tết đối với người Việt ở nơi nào cũng vẫn là Tết, cho dù họ đang ở dưới đáy vực cuộc đời. Thông thường, vào những ngày giáp Tết, ở xà lim hay ở trại chung cũng vậy, người tù nhận được "quả tắc đậm", nghĩa là quà tiếp tế lớn hơn, nhiều thứ hơn so với trong những lần tiếp tế bình thường. Trong ngày Tết, đối với tù người ta khoan dung hơn, độ lượng hơn. Tù kỷ luật được tha cùm, ai bị cắt tiếp tế nay được phép nhận trở lại. Tết mà !
Người tù xà lim thiếu thốn đủ thứ, thèm khát đủ thứ, cái gì đối với anh ta cũng quý, cũng là cái mơ ước, thành thử biết gia đình mình chẳng sung túc gì anh ta vẫn cứ ngóng đợi tiếp tế như thường. Tiếp tế trong dịp Tết lại càng quan trọng, bởi vì hơn mọi đợt tiếp tế bình thường nó chứng tỏ lòng thương nhớ của người bên ngoài. Lòng người tù dịu đi khi ôm bọc tiếp tế trong tay, anh ta xúc động ăn những món ngon lành, hợp khẩu vị do mẹ mình, vợ mình, con mình nấu cho, anh ta sung sướng thấy mình không bị bỏ rơi.
Khu xà lim chúng tôi nhộn nhịp hẳn lên. Nói nhộn nhịp là nói phóng đại lên cho vui, chứ nó là cái sự nhộn nhịp không ồn ào, cảm thấy được chứ không nghe thấy được. Cái khác ngày thường là ở chỗ chốc chốc lại có cửa mở ra, đóng vào, nhát nhát lại có tiếng chân người rậm rịch đi về trong yên lặng tịch mịch muôn thuở của nhà mồ. Ðó là tù đi gặp gia đình, đi lĩnh tiếp tế. Trong những ngày giáp Tết hiếm có trường hợp tù đi cung. Những người tù xà lim lợi dụng cán bộ quản giáo lơ là - ai mà chẳng bận bịu với gia đình mình khi năm hết Tết đến - làm hiệu cho nhau ở ô cửa kiểm tra, thậm chí thậm thụt gọi với sang nhau, hỏi thăm nhau vài câu. Vẳng tới tận xà lim tiếng dao thớt rộn ràng.
Tôi biết chắc sẽ chẳng nhận được quà gia đình, kể cả thư. Tôi là người mất tích mà. Gia đình tôi chắc chắn không được báo tin tôi ở đâu.
Cuối cùng Thành rồi cũng được gọi ra. Loáng sau anh đã về, lỉnh kỉnh gói bọc.
Mặt hầm hầm, Thành quăng cả đống lên phản.
- Sao thế ?
- Chúng nó cho nhận tiếp tế, nhưng không cho gặp gia đình.
Lần đầu tiên anh gọi công an bằng chúng nó.
- Mọi khi anh vẫn được gặp mà.
- Lần này không.
- Lý do ?
- Chúng nó chẳng lý do lý trấu gì hết. Không cho là không cho.
- Ít nhất thì chúng nó cũng phải cho biết vì sao chứ. Anh có bị kỷ luật gì đâu ?
- Chúng nó không giải thích.
Thành nằm vật ra, tay vắt trên trán.
Tôi đành phải thu dọn đồ tiếp tế cho anh. Bọn mất dạy. Cái bánh mì bị bẻ thành nhiều mẩu. Thịt kho tàu đổ lẫn với ruốc. Kẹo nhiều, chúng không bóc hết, chỉ bóc một số ngẫu nhiên. Những cái kẹo không còn giấy bọc nhơm nhớp dính vào nhau. Cứ nghĩ đến những bàn tay nhơ bẩn đã lục lọi mà tởm.
Ðêm, Thành không ngủ. Tôi cũng thao thức. Khi tôi nói có lẽ do tôi ở cùng anh cho nên chúng khám kỹ, lại không cho anh gặp gia đình, thì Thành im lặng hồi lâu.
- Ðừng nghĩ lẩm cẩm. - anh gạt đi - Tôi có được chọn người ở cùng đâu. Cậu cũng vậy. Chúng nó cho tôi ở cùng cậu chứ không ở cùng một tên cướp của giết người là tôi đã phải cảm ơn chúng nó rồi.
Chiều 30 Tết, tưởng không còn ai được gọi ra nữa, tôi đang ngồi đánh cờ với Thành thì cửa xịch mở, Sứ giả hòa bình ngoắc ngoắc tay gọi tôi ra đi cung.
Trời rét. Xoa xoa hai tay vào nhau, người cóm róm để chống lại cái lạnh cắt da ở miền Bắc Huỳnh Ngự run rẩy đón tôi ở cửa. Trong bộ dạ đen Tôn Trung-sơn làm cho nước da đã tái càng thêm tái, trông y giống một công chức nghèo trong những phim nói về thời kỳ tiền cách mạng Trung Quốc.
- Ở trỏng ra sao, đủ ấm chớ ? Bữa ni rét dữ, hè ?- y vui vẻ và run rẩy hỏi tôi thay lời chào.
- Cảm ơn, tôi chịu được. - tôi đáp, lịch sự vừa đủ, không lạnh nhạt mà cũng chẳng nhiệt tình.
Chúng tôi lẳng lặng ngồi đối diện trong tuần trà. Trời rét, uống trà nóng thật đã. Tôi bắt gặp trong tôi nỗi thèm muốn thật đơn sơ, thật khiêm tốn - được nhàn tản uống trà như thế này mỗi ngày.
- Bữa ni tui gọi anh ra là để thay mặt cơ quan chúc Tết anh. - yên vị rồi, Huỳnh Ngự cất giọng trịnh trọng - Chúc anh chi bây chừ, hỉ ? Hè hè, tôi chúc anh cải tạo tốt để mau chóng trở về trong lòng Ðảng...
Nghe đến cải tạo tốt tôi đã sôi máu, nhấp nhổm định phản bác. Huỳnh Ngự vội xòe bàn tay gày guộc ra ngăn lại :
- Tôi nói thế có đúng không : mỗi chúng ta, hàng ngày, hàng giờ phải tự cải tạo mình để theo kịp bước tiến vũ bão của cách mạng, để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cách mạng...
Xem ra y cũng vụng chèo khéo chống chẳng kém gì tôi.
Y rút bao Thăng Long, mời tôi một điếu. Tết có khác.
- Nhân dịp đầu Năm Mới cơ quan gởi cho anh chút quà mừng Xuân.
Cơ quan gửi quà cho tôi ư ? Anh em tự động hay công an gợi ý ? Và người ta cho tôi nhận ?
Huỳnh Ngự lúi húi lấy quà Tết đặt lên bàn, ngay trước mặt tôi - bánh chưng, hộp mứt, gói kẹo... Lúc ấy tôi mới để ý - đàng sau bàn làm việc là một ghế ngựa, trên đó xếp hàng chồng quà khác, giống hệt phần quà cho tôi. Không phải quà của cơ quan tôi rồi.
- Anh em trong cơ quan chẳng có gì hơn đâu - Huỳnh Ngự nói bằng giọng phân trần - tụi tui cũng như anh thôi, mỗi người một bánh chưng, một hộp mứt, một gói thuốc, một gói trà...
Vào những năm ấy tiêu chuẩn Tết cơ quan lo cho cán bộ, công nhân viên cũng đến thế là cùng. Mà ấy là cơ quan Trung ương, chứ cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện tiêu chuẩn Tết còn thanh đạm hơn nhiều.
Có nên nhận hay không, tôi nghĩ ?
Không thấy Thành nói tới lệ cho tù quà Tết. Lại đặc biệt rồi. Các anh là cán bộ mắc sai lầm, Ðảng bao giờ cũng nhớ tới công lao của các anh, Ðảng bao giờ cũng phân biệt các anh với các loại tội phạm khác - họ vẫn nhai nhải như thế. Hãy yên tâm mà ở tù, để được xúc động trước tấm lòng ưu ái Ðảng dành cho, tôi cay đắng bổ xung.
Tôi quyết định nhận quà. Những thứ này đâu phải của họ, của nhân dân cả, tội gì không lấy. Tôi không lấy, Huỳnh Ngự sẽ lấy, hoặc đàn em y sẽ lấy. Tôi đã dùng quá nhiều đồ tiếp tế của Thành. Có gì gia đình gửi vào anh cũng xẻ cho tôi. Tôi có một chút góp vào vẫn hơn.
- Tôi xin cảm ơn cơ quan Công an đã cho quà...
- Không, không phải quà của cơ quan Công an. - Huỳnh Ngự bối rối cải chính - Ðây là quà của Ban Tổ chức Trung Ương.
- Thế thì tôi xin cảm ơn Ban Tổ chức Trung Ương.
- Anh không chúc lại à ?
- Có chứ. - tôi lạnh lùng - Tôi chúc Ban Tổ chức Trung Ương mau chóng xem xét và giải quyết vụ án của chúng tôi một cách quang minh, chính đại, cho hợp pháp, hợp hiến... Ít nhất thì cũng đúng với tinh thần và lời văn những gì tôi đã được nghe phổ biến.
Mặt Huỳnh Ngự đanh lại. Tôi không hiểu lúc ấy y đứng ở cương vị nào, người của Bộ Nội Vụ hay của Ban Tổ chức Trung Ương, hay của cả hai cùng một lúc ?
Tôi về. Huỳnh Ngự giữ lại gói trà, nói trong xà lim không có nước sôi, tôi sẽ dùng sau, trong những lần ra làm việc.
Thành vui vẻ đón tôi :
- Có quà nhà gửi vào à ?
Ðợi cho cửa xà lim đóng lại, tôi mới trả lời :
- Quà nhà đâu. Họ cho đấy.
- Ai ? Ai cho ?
Tôi kể cho anh nghe chuyện Ban tổ chức Trung ương gửi cho chúng tôi quà Tết.
Chúng tôi ăn một bữa vui vẻ. Trong xà lim không thể để dành thức ăn. Chuột xà lim rất hỗn. Thành tỉnh thức, một tiếng động nhẹ đủ làm anh bật dậy, thế mà có đêm anh mới ngủ quên một lát chuột đã mò lên cắn thủng cái áo bông anh bọc gói bánh quy.
Trong nhà tù, chuột là một thứ cư dân hết sức đáng ghét. Chúng chẳng nể ai.
Có trải qua nhà tù tôi mới thấy mình cần phải thay đổi cách nhìn đối với các sinh vật. Chẳng hạn, chuột không ngu một chút nào như ta thường nghĩ, tôi dám đánh cuộc như vậy.
Tôi xin kể chuyện này làm thí dụ. Xà lim Hỏa Lò kín lắm, gió vào còn khó, nhưng chuột thì lại ra vào thoải mái. Lối vào của chúng là lỗ thoát nước ở chân tường. Tù xà lim được phát mỗi người một bô, nhưng người ta lười tè luôn vào lỗ ấy. Người sạch tiểu xong thì dội nước (nếu anh ta có nước trữ), người bẩn thì không. Thành kể khi anh mới bị đưa vào phòng này, mặc dầu nó đã được quét dọn, mùi khai thối vẫn nồng nặc, đêm không ngủ được. Anh phải cọ rửa nhiều lần phòng mới được như bây giờ.
Trong số chuột quen thói mò vào xà lim, chúng tôi căm thù nhất con chuột già.
Những người tù lâu năm nói rằng chuột Hỏa Lò chưa là cái gì. Chuột ở nhiều trại khác còn tệ hơn nhiều.
Mấy ngày Tết là mấy ngày chúng tôi được ăn no. Suất cơm ngày thường ăn vèo cái đã hết. Suất ăn ngày Tết có buồng còn để thừa. Trong những ngày đầu tiên rơi vào đây, tôi không thấy đói, nhưng sau đó chừng một tháng thì đói không chịu được. Thành nói khi mới vào người tù không thấy đói vì hai lý do : thứ nhất, nỗi lo lắng cho số phận làm tê liệt mọi cảm giác; thứ hai, trong người còn một số năng lượng dự trữ. Trong tôi lực lượng dự trữ chắc cũng khá, bắt đầu từ tháng thứ hai trở đi tôi mới thấy cái dạ dày luôn nhắc tôi nhớ đến nó.
Trong cái chuồng chật hẹp người tù không thể kiếm nổi bất cứ một thứ gì khả dĩ bỏ bụng, cho dù bản năng kiếm mồi chưa thui chột. May cho tôi, đúng vào lúc ruột gan cồn cào nhất Thành lại giở kho thức ăn dự phòng ra rủ tôi cùng ăn, khi cái bánh quy, khi mẩu đường phên. Thành đúng là thuyền trưởng gang thép của con tàu mắc cạn trên hoang đảo - anh chỉ tự cho phép mình dùng chút một trong số lương thực ít ỏi mà anh có, hào phóng chia sẻ cùng tôi. Tuy nhiên, đề phòng tôi không chống nổi sự cám dỗ, anh cất nó rất kỹ, tận trong cùng bọc quần áo, thậm chí khi bất thình lình bị gọi đi cung anh còn kín đáo đánh dấu đồ đạc. Sau thấy tôi là một thủy thủ có kỷ luật, anh mới thôi dè chừng. Tôi buồn vì chuyện đó, nhưng suy đi nghĩ lại, tôi thấy anh đúng. Trong xà lim con người đánh mất mình như bỡn. Thành từng ở chung với một anh chàng cán bộ cấp bậc không đến nỗi xoàng, nhưng ăn vụng như chảo chớp.
Chẳng cứ tù mới đói. Chính sách kiểm soát dạ dày của người dân là một chính sách nhất quán của các triều đại tổng bí thư mà tôi sống qua. Dân no thì hỗng, dân đói dễ trị. Cho nên, người dân bao giờ cũng phụ thuộc họ bởi nhiều sợi dây tam cố, mà sợi dây chủ yếu trong giai đoạn đó là chính sách lương thực, thể hiện rõ nhất trong phiếu gạo. Người nông dân làm ra thóc gạo, được bao nhiêu phải bán cho Nhà nước. Sau khi làm nghĩa vụ xong có thừa chút đỉnh đem bán ra ngoài cũng phải bán chui, bởi vì như thế là vi phạm chính sách lương thực.
Lớp cán bộ ở thành phố sống trông vào phiếu gạo. Nhà thơ Quang Dũng(2) to lớn gấp đôi tôi, chỉ được hưởng phiếu gạo 13,5kg/tháng, trong khi tôi còn được phiếu 15kg, tiêu chuẩn phóng viên. Nói tóm lại, tác giả những bài làm nức lòng quân sĩ một thời chẳng được ưu đãi gì hết. Anh than thở:" Lắm bữa mình ngon miệng, bà vợ thương quá, cứ xới cho liên chi hồ điệp, mình thì cứ hồn nhiên xơi mãi, chẳng biết là mấy bát. Sực nhớ ra, mới vội dừng lại. Chao ôi, nhìn các con mà thẹn. Cứ như thể mình ăn thâm vào phần chúng nó vậy". Anh gặp may trong một lần đi thâm nhập thực tế với mấy nhà lãnh đạo Tổng cục lương thực, vào năm 1960 hoặc 1961. Trong một bữa chiêu đãi, thấy anh làm liền tù tì mười bát mà vẫn còn thòm thèm, ông cán bộ Tổng cục mới hỏi anh ăn được như vậy thì tiêu chuẩn anh bao nhiêu. Khi biết Quang Dũng chỉ có 13,5kg, ông thương tình, ra lệnh đặc biệt cho anh được đổi sang phiếu 21kg. Cho anh tiêu chuẩn cao hơn nữa ông không có quyền. Quang Dũng kể chuyện này cho tôi nghe, cười hì hì : "Bình thường mình cũng chẳng ăn nhiều đến thế đâu, ăn ít quen dạ rồi, nhưng hôm đó phải ra sức biểu diễn một đường hào hùng cho các vị thấy. Mới được cái phiếu 21 ký ấy chứ". Tôi hỏi nếu thả cửa anh ăn được bao nhiêu bát, anh nói cái đó còn tùy thức ăn nhiều hay ít, ngon hay không ngon, và ai là khổ chủ dám liều mạng thết anh một bữa ăn mặc sức như thế.
Dù có thể ăn no trong mấy ngày Tết Thành vẫn cương quyết hạn chế cả hai :"Ăn ở đây mà bội thực còn khổ nữa. Không thể "Báo cáo ông quản giáo, cho tôi xin thuốc tiêu !". Họ không cho thì chớ, còn nhiếc móc cho đã đời, vuốt mặt không kịp đấy". Trong mấy ngày đầu năm đã xảy ra chuyện đúng như vậy. Chúng tôi nằm dài trên phản nghe tiếng quản giáo Hách sang sảng dạy bảo đám tù khốn khổ chỉ vì tội hạnh phúc đến với họ quá dồn dập và họ không chống cự nổi sự cám dỗ quá mạnh mẽ. Tiếng người nói to trong xà lim im ắng âm âm như tiếng cha xứ giảng đạo trên tòa cao nơi giáo đường.
Chúng tôi choàng tỉnh giữa đêm khuya vì tiếng loa quá lớn. Vang vang giữa những trào sóng giao thừa là tiếng phát thanh viên đọc thơ chúc Tết. Ðã thành lệ, năm nào Tết đến đài Tiếng nói Việt Nam cũng truyền đi thơ chúc Tết của chủ tịch Hồ Chí Minh. Còn nhớ Tết năm trước gia đình chúng tôi quây quần bên ban thờ tổ tiên, thoảng trong khói pháo giao thừa có mùi hoa thủy tiên, hoa huệ, cha tôi lầm rầm khấn khứa, mẹ tôi đứng sau, sau nữa là chúng tôi, bên ngoài nhà chúng tôi là cả một Hà Nội râm ran tiếng pháo, tiếng quốc thiều, giọng sang sảng của người đứng đầu cả nước bay trong sóng điện.
Tết năm nay gia đình tôi tan tác. Cha tôi đêm nay nằm ở xà lim nào, trong cơn đau không người chăm sóc ? Mẹ tôi chắc đang lặng lẽ chảy nước mắt thương chồng thương con. Còn cái gia đình nhỏ của tôi nữa, giờ này chắc vợ tôi đang ôm hai đứa nhỏ trong lòng, đang sụt sùi khóc cho đời mình và cho hai đứa con còn nhỏ đã mất cha ?
Nhờ Ðảng gỡ hộ cho tôi cái màng ảo tưởng, lần đầu tiên trong đời tôi thấy mắt mình nhìn sự vật sáng rõ đến thế. Tất cả như tuột hết vẻ hào nhoáng bề ngoài, lớp vàng mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng, trần trụi, lõa lồ dưới ánh mặt trời.
Cũng nhờ Ðảng tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại có thể mê muội đến thế nhỉ ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát cánh cùng ông trong những năm khó khăn gian khổ bị Lê Ðức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm nhiên không hề can thiệp, dù chỉ để tìm hiểu ngọn nguồn ?
Trước khi bị bắt, tôi có gặp ông Hoàng Quốc Thịnh, bộ trưởng Bộ Nội thương. Ông Thịnh kể mới đây ông vào Chủ tịch phủ báo cáo với ông Hồ Chí Minh về công tác thương nghiệp. Ông hỏi ông Hồ chuyện cha tôi vì sao bị bắt thì ông Hồ ngơ ngác :" Tại sao lại bắt chú Huỳnh ? Chú ấy làm chi mà bắt ?". Trong tình bạn với cha tôi, Hoàng Quốc Thịnh là người chung thủy. Ông im lặng, như mọi người hồi đó đều phải im lặng trước Lê Ðức Thọ, nhưng từng hoạt động với cha tôi quá lâu, từng ở tù cùng cha tôi, ông không thể tin những lời bịa đặt của Thọ. Vậy là trước đó ông Hồ không biết cha tôi bị bắt ? Hay ông biết mà giả vờ không biết ? Giả thử ông không biết thật thì nghe ông Hoàng Quốc Thịnh nói rồi ông phải biết chứ. Biết rồi, nhưng ông cũng có làm gì đâu. Sự thật ở chỗ nào ? Ông Hồ bị tước bỏ mọi quyền hành hay ông còn quyền hành nhưng ông làm ngơ ?
Trong xà lim tôi có thừa thời gian để suy ngẫm. Trong những điều tôi suy ngẫm, có sự rà soát lại bệnh sùng bái ông Hồ Chí Minh mà thế hệ chúng tôi, kẻ ít người nhiều, đều mắc phải.
Chúng tôi sùng bái ông bởi đạo đức vô song của ông. Chúng tôi coi ông là người tốt nhất trong mọi người. Ông là người duy nhất rũ sạch được mọi toan tính cá nhân để chỉ sống cho Tổ quốc, cho đồng bào. Không gia đình, không tài sản, không công danh.
Nhưng không phải thế.
Người ta ca ngợi ông Hồ ông đi sâu đi sát, việc nhỏ việc lớn đều được ông để mắt đến. Vậy những gì đã xảy ra dưới thời ông trị vì ? Ðã có bài học giảm tô giảm tức, tại sao còn có sai lầm Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức(3) ? Chẳng lẽ người thông minh như ông lại không biết vụ Nhân văn - Giai phẩm là do Trường Chinh dựng nên để chạy tội, bức hại nhiều văn nghệ sĩ có tâm huyết với dân tộc, từng theo ông suốt cuộc kháng chiến chống Pháp ? Tôi nghĩ ông phải biết. Cha tôi kể ông rất chăm đọc báo chí hàng ngày, ai đến làm việc với ông cũng được ông hỏi han đủ chuyện, chẳng lẽ ông không biết gì về việc vừa xảy ra ? Tôi nhớ một hôm cha tôi đi gặp ông trở về, bảo tôi :"Con vừa viết cái gì mà hôm nay bố đến chơi, Ông Cụ kêu "thằng Hiên viết truyện trên tờ Văn Nghệ, nó định nói cái chi tôi không hiểu". Thì ra đó là ông Hồ đã đọc truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ(4) của tôi mà cha tôi chưa đọc. Một việc cỏn con như thế ông còn biết nữa là.
Tôi từng là một trong những đứa cháu gần gụi của ông trong những năm đầu cách mạng. Những ngày ông phải lẩn trốn bọn Tàu Tưởng, luôn thay đổi chỗ ở, ông từng ngủ ở nhà tôi, hai bác cháu chung giường. Mẹ tôi lo lắng cho sức khoẻ ông, bà thường làm các món tẩm bổ cho ông ăn khi ông mới từ chiến khu về Hà Nội, cha tôi phải xách cặp lồng vào Bắc bộ phủ hàng ngày cho ông, chẳng lẽ ông không nhớ ?
Ai cũng biết nếu ông nói "không được" thì chắc chắn bọn Duẩn - Thọ sẽ phải chùn bước trước việc bắt bớ hàng loạt người cộng sản vô tội.
Nhưng ông im lặng.
Bây giờ tôi mới hiểu : thì ra con người đối với Hồ Chí Minh chẳng là cái gì. Ông mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới, sao vàng năm cánh mộng hồn quanh(5). Con rồng, ai cũng biết, là biểu tượng của nhà vua. Ông mơ cưỡi nó thì ông đâu phải là một người trong chúng ta. Than ôi, lũ dân thường chúng ta làm gì có những giấc mơ như thế. Chúng ta chỉ mơ thấy cưỡi trâu, cưỡi bò, cưỡi ngựa. Sang lắm thì cưỡi bình bịch là cùng. Lẽ ra tôi phải hiểu sớm hơn mới phải : bác Hồ của tôi từ lúc đang phải sống lẩn lút để làm cách mạng đã ôm ấp mộng ước làm vua. Ông có chí lớn để thực hiện nó. Và ông đã thực hiện được.
Con người là vốn quý nhất, tôi từng nghe ông nói với mọi người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Stalin cũng nói thế. Mao Trạch-đông cũng nói thế.
Mà đúng : con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái gì đó. Khi là vốn, nó thôi là Người.
Trong hành xử ông là một diễn viên kỳ tài, như sau này tôi được biết. Cha tôi có kể chuyện khi đi thăm bức tường công xã Paris ở nghĩa trang Père Lachaise (1946), có các quan chức Pháp tháp tùng, ông Hồ sụt sùi khóc, lấy khăn tay thấm nước mắt. Trở về khách sạn, cha tôi hỏi làm sao ông khóc được, ông trả lời: "Mình làm chính trị, khi cần khóc phải khóc được, khi cần cười phải cười được, mới làm chính trị được chứ". Cha tôi có ghi lại việc này trong hồi ký "Tháng Tám cờ bay", được báo Văn Nghệ in phần đầu trong năm 1994.
Một lần tôi quay cảnh ông thăm đồng bào nông dân ở Hải Dương, mùa hè năm 1957. Sáng sớm hôm ấy trời mưa to, trên đường còn lại những vũng nước lớn. Ðến một đoạn đường lầy lội ông tụt dép, cúi xuống xách lên. Trong ống ngắm của máy quay phim tôi nhìn rõ hai bên vệ cỏ không bị ngập. Tôi chợt hiểu : ông không đi men vệ đường bởi vì ông muốn chưng đôi dép. Vì lòng kính trọng đối với ông, không muốn rồi đây người xem sẽ nhận ra trên màn ảnh lớn diễn xuất lộ liễu, tôi tắt máy. Nghe tiếng cái Eymo 35 đang kêu xè xè đột ngột im tiếng, ông ngẩng lên nhìn tôi, nhưng ngay đó ông hiểu ra. Có lẽ vì thế mà sau tôi thấy ông không bực bội với tôi.
Một thời gian dài, bằng nhiều thí dụ cụ thể trong cách xử thế của ông Hồ, người ta không ngớt tán tụng tính cách bạt thiệp của ông, nghệ thuật ứng xử tuyệt luân của ông, để rồi, trong khi học tập ông họ luyện cho mình thói quen đạo đức giả lúc nào không biết.
Tôi được đọc khá nhiều về Stalin, Mao Trạch-đông, Kim Nhật-thành, Ceaucescu... Mới thấy chúng ta còn may lắm - Hồ Chí Minh của ta hơn hẳn họ về lòng nhân ái. Nếu không phải ông mà là họ, chắc chắn tấn bi kịch xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã lớn hơn nhiều. Và riêng tôi, hẳn đã đi tù sớm hơn, hoặc đã chết trong tù, nếu như không bị bắn tắp lự. Tôi cho rằng sự biết ơn người có quyền giết mà không giết mình cũng là cái nên có trong lòng chúng ta.
Cuộc chia tay với thần tượng không nhẹ nhàng gì. Cần phải là người trong cuộc mới hiểu được chuyện đó. Cái giá tôi phải trả cho cuộc chia tay đắt lắm.
Ông Hồ cũng có bi kịch của chính ông. Tôi hi vọng rồi đây sẽ có người viết về những bi kịch đó. Những bi kịch xảy ra khi ông còn trẻ, ở xa tổ quốc. Những bi kịch khi ông về già, ngay trên đất đai quê hương. Tôi rất muốn tin những gì người ta đã viết về ông là đúng. Ðó là những mặt tốt của ông. Chúng có thật. Có nhiều. ê đây tôi chỉ kể ra những gì tôi nhận xét trong mối quan hệ giữa ông và tôi, những ý nghĩ của riêng tôi về ông trong khi rà soát lại mối quan hệ với chủ thuyết ông mang về từ nước ngoài làm quà tặng cho dân tộc, trong đó có phần dành cho tôi.
Ông chỉ là một con người, như mọi người, với những cái tốt và những cái xấu, những mặt mạnh và những mặt yếu, mà mỗi cá thể người phải có. Chính chúng ta sai khi nhìn ông như thánh nhân.
Tôi nhớ năm 1946, tôi thường ra vào Bắc bộ phủ và được gặp ông Hồ Chí Minh nhiều nhất, do cha tôi làm việc và ở sát với ông. Ðó là năm sóng gió nhất của chính quyền cách mạng. Nạn đói do thực dân Pháp và phát-xít Nhật gây ra(6) giết chết hơn hai triệu người để lại những hậu quả nặng nề. Ngoài Bắc quân Tưởng Giới-thạch tràn sang, trong Nam quân Anh-ấn kéo vào, theo chân họ là quân đội Pháp lăm le chiếm lại Ðông Dương màu mỡ(7). Những người Quốc dân đảng biểu tình, mít tinh, phát truyền đơn, bắc loa điện ở đường Quan Thánh ra rả suốt ngày chửi Hồ Chí Minh bán nước. Họ giết các chiến sĩ tự vệ thành, cả dân lành, rồi chôn trong một trụ sở ở đường Ôn Như Hầu. Họ bắt cóc rồi thủ tiêu ông Trần Ðình Long, ông Nguyễn Văn Phúc, biệt hiệu Phúc ghẻ, cả hai là bạn tù Sơn La của cha tôi. Tôi cũng nghe nói có những vụ Việt Minh giết người của Quốc dân đảng, tuy bản thân chưa được thấy vụ nào. Nhưng tôi tin tất cả những sự kiện đó là có thật, cũng như sự kiện này là có thật : chính những người cộng sản đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tháng Tám chứ không phải là một sự tranh công của các đảng phái khác như có một số tác gia đã viết.
Trong những ngày nước sôi lửa bỏng như thế, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn điềm tĩnh ngồi trong phòng làm việc trên tầng hai Bắc bộ phủ. Ông như một thuyền trưởng can trường, bình tĩnh chỉ huy con tàu trong cơn bão.
Tôi còn nhớ cha tôi lo lắng thế nào khi ông Hồ Chí Minh bị Lư Hán và Tiêu Văn giữ lại trong lần ông thân tới hành dinh quân Tưởng để đàm phán. Nhưng trở về Bắc bộ phủ Hồ Chí Minh vẫn là Hồ Chí Minh - tự tin và ung dung, như không hề có chuyện gì xảy ra. Thỉnh thoảng ông ló đầu ra ngoài hành lang - tôi hay quanh quẩn ở đấy, gọi tôi vào, giao cho tôi mấy mảnh giấy nhỏ để tôi chạy xuống đưa cho các chú các bác ở tầng dưới, hoặc đang chờ ở phòng cảnh vệ. Từ trong phòng làm việc của ông, bao giờ cũng tối bởi sàn lim và những đồ gỗ sẫm màu, tôi nghe tiếng bánh xe hơi chạy rào rào trên sỏi. Hồ Chí Minh bỏ bàn viết chạy đến bên cửa sổ. Từ tay ông bay ra một mẩu giấy nhỏ. Nó đung đưa trong gió làm cho người đứng dưới vồ trượt nhiều lần. Vồ được, người đó vội vã đọc lướt qua, rồi nhảy lên xe, Chiếc xe lại rào rào phóng thẳng ra cổng. Ðó là ông ra lệnh chuẩn bị những kho muối cho cuộc kháng chiến chưa biết chừng xảy ra lúc nào. Tôi nhớ rõ hình ảnh ấy và tôi nghĩ nó sẽ đắt trong một bộ phim nói về năm 1946 hào hùng.
Lúc đó ông Hồ Chí Minh còn là Bác Hồ tôn kính, Bác Hồ yêu mến của tôi.
Ông mở đầu pho sử hoành tráng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống lại chế độ thuộc địa toàn cầu, với tư cách một phong trào, chứ không phải cuộc đấu tranh của riêng một Việt Nam. Trận thắng Ðiện Biên phủ đã thổi vào lòng các dân tộc bị trị niềm phấn khích chưa từng có, mở ra cao trào đấu tranh cho độc lập dân tộc trên khắp thế giới, thúc đẩy sự chấm dứt chế độ thực dân, làm tan rã hệ thống thuộc địa. Thế giới biết tên ông cùng với tên đất nước nhỏ bé dám dùng gậy tầm vông chống lại vũ khí hiện đại để giành độc lập, tự do.
Tượng đài cho ông, với tư cách nhân vật lịch sử, đã được đúc.
Nhưng tôi buồn. Tôi còn tiếc nữa. Tôi đã quen nhìn ông không phải chỉ là chủ tịch Hồ Chí Minh, mà là Bác Hồ của tôi.
Không buồn sao được khi nhìn lại tôi thấy trong tôi chỉ còn trơ trọi một niềm tôn trọng duy lý, một tình cảm lạnh lẽo đối với ông, như đối với một nhân vật lịch sử. Mà một thời ông đã từng có vị trí không nhỏ trong tim tôi.
(1) Ban tổ chức Trung ương không quên ra lệnh trấn áp các gia đình có người bị bắt trong vụ "nhóm xét lại chống Ðảng". Sau khi tôi bị bắt vài tháng, vợ tôi đang làm ở Viện quy hoạch thuộc Bộ kiến trúc bị chuyển công tác tới Ty kiến trúc Hà Sơn Bình. Hàng ngày vợ tôi phải đạp xe 40 cây số đi về để trông nom ba con nhỏ. Các em tôi không được phép thi vào đại học, trừ một người được thi vào ngành thư viện do mẹ tôi đấu tranh rất dữ với Lê Ðức Thọ trong những năm sau này.
(2) (1921-1988) Nhà thơ quân đội thời kháng chiến chống Pháp, nổi tiếng với những bài thơ Tây Tiến, Ðôi Bờ, Mắt Người Sơn Tây, Lính Râu Ria (Cô Hàng Cà Phê)...
(3) Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xã đã Cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị hãm cho chết đói, (những xã có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học.
(4) Báo Văn Nghệ, 1961.
(5) Hồ Chí Minh "Nhật Ký Trong Tù".
(6) Vụ lúa 10.1944 ở miền Bắc bị tàn phá nặng nề vì đê vỡ. Trong khi đó Pháp và Nhật thi hành một chính sách thu mua tàn bạo (giá thị trường 200 đồng Ðông Dương một tấn lúa, chúng bắt dân bán với giá 25 đồng). Một số vùng bị Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay phục vụ nhu cầu chiến tranh.
(7) Tháng 9.1945 tướng Dougles Gracey chỉ huy quân Anh-ấn kéo vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến thứ 16 trở xuống phía Nam theo quy định của Hiệp ước Postdam (7.1945). Dougles Gracey đã lấy vũ khí tước được của Nhật trang bị cho 1.400 tù binh Pháp mới được thả ra và một đại đội thuộc trung đoàn thuộc địa số 5 (5è RIC) cộng với một số Pháp kiều hung hãn để bọn này tấn công cách mạng Việt Nam. Ngày 11.10.1945 ngoại trưởng Anh Ernest Bevin còn tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Pháp tại Ðông Dương (là điều hoàn toàn không được ghi trong Hiệp ước Postdam).
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 25
Ðêm giữa ban ngày
Chương 25
Tiếp theo là những đêm không ngủ. Cái loa công cộng, cách chúng tôi khá xa, mắc trong trại lính gác Hỏa Lò, theo gió đưa tới tai chúng tôi những tin tức đứt quãng, bập bõm, lúc được lúc mất, chen lẫn những khúc quân hành hùng tráng. Qua những con số không rõ, những địa danh lào phào, nhưng còn có thể đoán được, chúng tôi hiểu rằng ở miền Nam đang xảy ra những trận đánh lớn.
- Choảng nhau to ở miền Nam rồi ! - Thành nói.
- Chắc thế.
- Ðang còn ngừng bắn mà ?
- Ðiệu này mình vi phạm thỏa thuận ngừng bắn. - tôi nhận xét - Không phải Mỹ. Nếu là Mỹ, người ta chửi nhiều, chứ không hát nhiều.
- Miền Nam thế là mất đứt cái Tết.
- Còn phải nói ! Miền Bắc cũng mất một nửa. Cho mít-tinh chào mừng.
Nằm cuộn tròn trong chăn, tôi vẫn thấy rét run. Ðể có chỗ ngủ ấm, người tù xà lim phải lấy nhiệt thân mình sưởi cho cái phản xi-măng trước đã. Phải sưởi khá lâu nó mới ấm lên được, mà cũng chỉ ấm đúng bên dưới thân người thôi, hai bên sườn vẫn lạnh như băng.
Không ngủ được, Thành ngồi dậy hút thuốc lào. Khói thuốc tạo ra ảo giác nhờ nó hơi ấm không bay đi, hoặc nó ngăn được không khí lạnh từ ngoài vào.
Hỏa Lò không tham gia chiến tranh. Nó đứng sang một bên, duy trì sinh hoạt đều đặn của nó, dửng dưng như một kẻ vô can. Quản giáo đóng cửa mở cửa, lấy phạm đi cung. Chấp pháp tới giờ làm việc la hét, cật vấn như những viên chức được trả lương chỉ để quát nạt. Tôi nằm dài trên phản, nghĩ vẩn vơ. Chiến tranh đi bên ngoài những bức tường đá như người qua đường. Những hồi còi báo động báo yên là những tin tức duy nhất về một cuộc chiến đang xảy ra ở một nơi nào đó rất xa.
Những ý nghĩa lan man dẫn tôi tôi nhớ tới cuốn Nhật Ký Tây-Ban-Nha, một tác phẩm rất hay của nhà viết phóng sự Mikhail Koltsov(1). Tác giả của nó, nguyên tổng biên tập báo Pravda, một người cộng sản, vào một ngày đẹp trời bỗng nhiên trở thành kẻ thù của nhân dân xô-viết. Một chiếc xe bịt bùng đến mang ông đi vào ban đêm, và thế là con người tuyệt vời nọ biến mất. Chỉ còn lại cuốn sách, đứa con tinh thần côi cút, nhân chứng của thời đại, kỷ niệm về người tạo ra nó.
Nhớ tới Nhật Ký Tây-Ban-Nha, tôi chợt phát hiện một điều thú vị. Thì ra trong cái sự cứng đầu của mình đối với bọn độc tài có cả ảnh hưởng của tiếng thét bất khuất "No passaran(2)" vang vọng từ Madrid xa xăm.
- Không biết năm nay vợ con mình ở nhà ăn Tết ra sao ? - Thành tự hỏi - Hay là có tí tiêu chuẩn nào lại gửi vào cho mình hết ?
Tôi nhớ hai đứa con tôi. Chúng ăn Tết ở nhà với bà nội bà ngoại chứ không ở nơi sơ tán. Vợ tôi thể nào cũng đưa các con về. Không biết cái sự giã nhau trong lúc tết nhất này có ảnh hưởng đến mấy ngày vui chơi của chúng không ?
- Ðã thỏa thuận nghỉ Tết thì ăn Tết cái đã, Tết xong tiếp tục đánh nhau cũng được. Cho nó đàng hoàng. - tôi lầu bầu - Trong chiến tranh Tây-ban-nha, anh biết không, quân Cộng hòa và quân Phát-xít đánh nhau thậm chí còn có giờ giấc nữa kìa(3).
Thành gãi sồn sột. Mấy hôm nay ngày nào anh cũng truy lùng một con rệp tình nghi từ một xà lim khác bò qua mà không tìm ra.
- Ðánh nhau có giờ giấc là thế nào ?
- Là thế này : từ sáng sớm hai bên nã đạn vào nhau chí tử, nhưng đến đúng ngọ là ngừng bắn, lính cả bên này lẫn bên kia bò ra khỏi chiến hào, phủi bụi, rồi đi đến một cái quán ăn nằm giữa tuyến lửa, ăn trưa và uống cà phê với nhau ...
- Lại còn thế nữa ?! Phịa !
- Thật mà. Có điều họ ngồi quay lưng lại với nhau, không bên nào thèm nói chuyện với bên nào...
Tôi kể cho Thành nghe những đoạn thú vị trong "Nhật ký Tây-ban-nha". Anh thích nghe tôi kể chuyện, với vẻ mặt nửa tin nửa ngờ. Ðối với anh, nhà văn là thứ người chúa bịa chuyện, hay thì hay đấy, mà không tin được. Với tôi, anh gọi nửa đùa nửa thật :"Này, cậu nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm ơi !"
- Tôi có hỏi một ông người mình hồi ấy chiến đấu ở bên phe Cộng hòa, ông ấy bảo chuyện có thật(4) đấy, đúng như thế.
- Sao ? Cậu bảo có cả người mình tham gia chiến tranh Tây-ban-nha kia à ?
Thành trợn tròn mắt.
Tôi kể cho Thành nghe về ông ThọTây-ban-nha, về những Binh đoàn quốc tế. Thành khoái lắm.
- Ông ấy còn sống chứ ?
- Ông ấy còn khỏe. Có dịp, tôi sẽ giới thiệu anh.
- Nếu chúng mình không chết trước khi ra khỏi đây.
Thành cười, cái cười pha một chút chua chát, một chút ngạo nghễ thường có ở những người lính từng trải.
Từ xa vọng vào tiếng một đoàn xe nặng nề - xe tăng hoặc xe bọc thép. Có thể cảm thấy cái phản xi-măng rung lên nhè nhẹ. Gần đây, phía đường Bạch Mai, luôn vẳng đến tiếng ầm ì của xe hạng nặng chạy về phương Nam.
- Ông ấy còn khỏe. Có dịp, tôi sẽ giới thiệu anh.
- Nếu chúng mình không chết trước khi ra khỏi đây.
Thành cười, cái cười pha một chút chua chát, một chút ngạo nghễ thường có ở những người lính từng trải.
Từ xa vọng vào tiếng một đoàn xe nặng nề - xe tăng hoặc xe bọc thép. Có thể cảm thấy cái phản xi-măng rung lên nhè nhẹ. Gần đây, phía đường Bạch Mai, luôn vẳng đến tiếng ầm ì của xe hạng nặng chạy về phương Nam.
Ông Thọ Tây-ban-nha sau cách mạng chẳng làm chức gì to. Cha tôi khuyên ông :
- Mày đừng nghe chúng nó xui dại mà nhận chức này chức nọ. Nước độc lập rồi, thế là hả dạ, mày biết nấu cơm tây, làm nghề ấy là hay nhất, không phải lo nghĩ.
Cha tôi hồi ấy đang làm vụ trưởng Vụ Lễ tân. Ông giới thiệu ông Thọ đi làm bếp cho sứ quán Cuba.
Ông Thọ Tây-ban-nha thường đến thăm cha tôi. Tôi nhớ có hôm ông đang ngồi uống trà với cha tôi thì phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đến chơi. Ông Thọ Tây-ban-nha nhấp nhổm định về. Cha tôi giữ lại : "Nó làm quan to kệ nó, mày với nó đồng chí, việc gì mà ngại". Như mọi khách khác ông Lê Thanh Nghị đến nhà tôi phải bắt bảo vệ ngồi đợi ngoài xe, chính ông cũng phải tụt giày, đi chân đất vào phòng cha tôi mà ngồi trên sàn gạch men. Căn phòng này cha tôi lau sạch sẽ để khi trời nóng quá thì lăn ra cho mát. Ông phó thủ tướng ôm chầm lấy ông bếp, cả ba chuyện trò vui vẻ, cười vang nhà. Ông Thọ Tây-ban-nha hứng lên chạy xuống bếp tự tay nấu món ra-gu cho cả ba cùng ăn.
Ông Thọ Tây-ban-nha có cho tôi biết một chi tiết thú vị mà những nhà nghiên cứu đời hoạt động của ông Hồ Chí Minh chắc cũng muốn biết : trong ông Hồ Chí Minh con người quốc tế và con người quốc gia con người nào mạnh hơn ? Hồi phe xã hội chủ nghĩa cường thịnh, người ta ra sức chứng minh ông Hồ theo chủ nghĩa quốc tế. Sau này người ta lại ra sức chứng minh ông Hồ là người quốc gia. Cho nên lời chứng của ông Thọ Tây-ban-nha có ý nghĩa lắm. Theo ông Thọ kể lại thì khi biết có người Việt Nam chiến đấu trong Binh đoàn quốc tế, ông Hồ nói :"Rõ việc nhà thì nhác việc chú bác thì siêng".
Năm 1964, hoặc 1965 tôi không nhớ rõ, ông Thọ Tây-ban-nha đã thôi nấu bếp cho các sứ quán, đang làm gác kho cho Liên hợp dệt Nam Ðịnh thì được tổng thống Nam Tư Iosif Broz Tito(5) mời sang Belgrad dự cuộc họp mặt các cựu chiến binh Binh đoàn quốc tế. Nhận được giấy triệu tập của Ban tổ chức Trung ương ông dặn vợ :"Ðã nhiều năm Trung ương không nhắc gì tới tôi, nay lại có giấy gọi, lành thì ít dữ thì nhiều, nếu tôi không về thì
bà ráng nuôi con, đừng nghe người ta nói này nói nọ mà hiểu lầm. Tôi không chống cách mạng, không phải tờ-rốt-kít, không phải AB(6) gì ráo. Tôi sống trong sạch, chết cũng trong sạch". Lê Ðức Thọ tiếp ông, căn dặn trước khi lên đường :"Sang bên ấy anh không được phát biểu chính trị. Câm như hến, nghe chưa ? Ăn nói lăng nhăng thì coi chừng !". Ông trở về, tôi hỏi ông chuyện Nam Tư, ông cười hiền lành :"Có chuyện quái gì mà kể ! Tao sang bên ấy làm đúng như Lê Ðức Thọ ra lệnh, ai nói gì tao cũng chỉ nhe răng ra cười. Mới lại, có ai nói chính trị chính em gì đâu. Bạn bè lâu ngày gặp lại, ca hát ầm ầm, uống rượu lu bù, say khướt. Vui lắm !"
- Thế ông nhà báo Liên Xô về sau bị giết à ?- Thành hỏi.
- Người ta không nói rõ. Ông ta bị bắt mang đi rồi chết trong tù. Mà không phải chỉ có ông ta. Nhiều người nhà văn nhà thơ bị giết trong thời kỳ đó(7).
- Tội nghiệp !
Thành nghe chuyện, ngồi như tượng, tư lự đặt tay lên cái cùm, vuốt ve nó một lát, rồi quay mặt vào tường làm thêm một điếu thuốc lào ngoài kế hoạch.
Tôi đã kể về cái cùm trong xà lim. Của đáng tội, cái cùm ở chỗ chúng tôi chỉ hiện diện như một vật trang trí nội thất. Ít khi nó được dùng đến, trừ ra trong các xà lim tử hình.
Tù tử hình chỉ được tháo cùm vài lần trong một ngày - một lần làm vệ sinh thân thể buổi sáng, hai lần khác cho ra lấy cơm, trả bát rếch. Có người không được tháo, nhà bếp phải mang cơm vào tận nơi. Khi bị cùm người tù chỉ có một tư thế nằm, hai chân bị kẹp chặt. Tiểu tiện, đại tiện đều ở trong tư thế đó.
Thành có bị cùm lần nào không tôi không rõ, anh không kể. Thành nói những người to béo vào tù khổ hơn những người gày còm nhiều. Trước hết là đói, người béo đói hơn người gày. Thứ hai, cùm chỉ có một cỡ, chân to quá thường bị nghẽn máu, sinh hoại thư, dễ bị cưa. Tôi đồ rằng anh đã được nếm thử.
Trong hồi ký của những người bị xử trí oan thời Stalin không thấy nói tới thứ này. Xiềng thì có. Mình mà bị cùm thì không biết sẽ giải quyết vấn đề đại tiểu tiện ra sao đây, tôi vẩn vơ nghĩ ? Sau này, bị cùm rồi, có kinh nghiệm rồi, tôi mới thấy Thành nói tới cái chân là đúng. Cổ chân mà to thì khốn nạn lắm, chứ chuyện đại tiểu tiện khó khăn là cái không đáng kể.
Mãi tới mồng bốn Tết, tôi mới được Huỳnh Ngự gọi đi cung.
- Mấy bữa rầy anh có biết có chuyện gì đang xảy ra không ? - Huỳnh Ngự vui vẻ đón tôi bằng câu hỏi.
- Không. Trong xà lim kín như bưng làm sao biết được việc ở bên ngoài.
Huỳnh Ngự nghi ngờ nhìn tôi :
- Tưởng các anh ở trỏng có nghe loa đấy chớ ?
Tôi nói trong xà lim tôi có nghe thấy tiếng loa nhưng không rõ nó nói cái gì.
Y quẳng lên bàn cho tôi mấy tờ Nhân dân, trang nhất nào cũng đỏ lòe những hàng tít lớn.Những tờ báo nhàu nát, chứng tỏ chúng đã qua tay nhiều người. Tôi vồ lấy, đọc ngấu nghiến.
Mọi chuyện xảy ra ở miền Nam đúng như tôi và Thành hình dung. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, mà một đứa trẻ cũng hiểu do miền Bắc dựng nên, vu cho đối phương vi phạm thỏa thuận ngưng bắn nhân dịp Tết Nguyên đán để làm một vi phạm lớn hơn - mở một cuộc tổng tiến công trên toàn cõi. Những mỹ từ bóng lộn, tỏa sáng, ồn ào, tràn ngập từ bài xã luận kêu gọi thừa thắng xông lên cho tới những hàng tin giờ chót.
- Anh nghĩ ra răng, Ðảng ta lãnh đạo tuyệt vời chớ ? - Huỳnh Ngự nheo mắt nhìn tôi, mặt ngời ngời phấn khích - Nói để anh hay, cứ đà này chỉ trong vài ngày nữa là ta nuốt tất, nuốt tất. Miền Nam sẽ được hoàn toàn giải phóng.- Tôi rất vui mừng...- tôi nói.
- Anh vui là đúng. - Huỳnh Ngự nói - Chẳng lẽ anh lại buồn ? Nhưng tui muốn hỏi nhận định của anh kìa ?
Tôi nhún vai.
Huỳnh Ngự ghét tôi nhún vai lắm, y đã lưu ý tôi vài lần, nhưng tôi bỏ ngoài tai. Tôi đã ở tuổi không cần đến vú em. Huỳnh Ngự coi nhún vai chỉ có một ý khinh bỉ.
- Những chuyện lớn thế này nhận định của tôi phỏng có nghĩa gì ? - tôi thờ ơ nói - Chẳng có ý nghĩa gì hết.
- Nhưng chừ anh tin ở tài lãnh đạo của Ðảng rồi chớ ?
- Tại sao lại cứ phải hỏi đi hỏi lại tôi chuyện đó ? Tin hay không tin là chuyện khác, không phải chuyện nhận định một hiện tượng hay một sự kiện cụ thể.
Huỳnh Ngự cười khục khục.
- Vậy mà thằng Hoàng Minh Chính lại không tin đó. Tui vừa làm việc với hắn ta xong, điên cả ruột. Vì vậy tôi mới hỏi anh coi anh nghĩ có giống hắn không.
- Anh Chính tin cái gì hay không tin cái gì là chuyện riêng của anh ấy, tôi không quan tâm.
Huỳnh Ngự mời tôi uống trà. Ðó gói trà Tết của Ban Tổ chức Trung Ương cho tôi mà y giữ lại.
- Nói để anh hay: đợt tiến công và nổi dậy lần này, về thực chất, là tổng khởi nghĩa, còn đối với cuộc chiến tranh chống Mỹ là tổng phản công. Anh đọc lại thơ chúc Tết của Bác đi. Ðó ! Bác thiệt vĩ đại ! Bác tính trước tất cả, thấy trước tất cả. Xuân này rõ ràng hơn hẳn mấy xuân qua...Ðúng vậy không nào ? Ðúng quá đi chớ. Tiến lên, toàn thắng ắt về ta ! Bác đã lệnh thì toàn quân, toàn dân cứ việc thi hành. Bác đúng là thánh, thánh sống. Mấy thằng tổng thống Mỹ chỉ đáng mút cu cho Bác(8) thôi. Anh có thấy thằng Chính hắn dốt không ? Thắng đến như vậy mà hắn còn nói là đánh sớm, đánh bây chừ khi chuẩn bị chưa tốt, chưa hội đủ các điều kiện để giành toàn thắng, là manh động, là mất hết cơ sở gây dựng bao nhiêu lâu mới có trong địch hậu... Thối, thối lắm !
Thì ra là thế !
Tôi cũng nghĩ như Hoàng Minh Chính. Các điều kiện bên trong và bên ngoài đều chưa đủ chín muồi, theo chỗ chúng tôi biết. Mà chúng tôi biết không đến nỗi tồi. Quan tâm tới diễn biến của cuộc chiến, chúng tôi tiếp xúc với khá nhiều nguồn tài liệu, với nhiều người có trách nhiệm ở miền Bắc cũng như những người từ trong Nam ra.
Không rõ chủ tịch Hồ Chí Minh có bao nhiêu phần quyết định trong cuộc chiến được Huỳnh Ngự gọi là tổng phản công ? Và lần này ông có được tham chiến với tư cách bộ óc sáng suốt của cách mạng Việt Nam không ?
Ai cũng biết vai trò quyết định trong ván bài này là sự nôn nóng của cá nhân Lê Duẩn muốn giải phóng thật nhanh vùng đất mà trước 1954 Lê Duẩn lãnh đạo, giải phóng bằng bất cứ giá nào, dù có phải đốt sạch rặng Trường Sơn, như chính ông ta tuyên bố. Nhưng nói với Huỳnh Ngự làm gì ? Nói với y, như các cụ ví, vạch đầu gối ra mà nói còn hơn !
Nhưng Huỳnh Ngự không dễ dàng buông tha. Trong sự hỏi cung y rất dai hoi. Y mà đã đặt ra câu hỏi thì y đòi bằng được câu trả lời.
- Tôi nghĩ khác. - đành trả lời cho qua chuyện - Tôi nghĩ đúng như cách dùng từ của Trung Ương trong các bài báo vừa đọc. Ðó là một đợt tổng tiến công và nổi dậy, không hơn, cũng không kém.
- Nghĩa là làm sao ?
- Nghĩa là nếu đúng là tổng khởi nghĩa và tổng phản công(9)thì Ðảng đã nói tổng khởi nghĩa, tổng phản công, hà tất phải nói tổng tiến công và nổi dậy.
Huỳnh Ngự nóng mặt :
- Tui nói rồi : thực chất đó là tổng phản công ! Lũ các anh đúng là một giuộc với nhau hết trọi. Ðảng nói vậy phải tin vậy chớ. Không phải vậy Ðảng nói vậy mần chi ?
- Tôi đang ở đây. Bác thông cảm. Tôi không có nguồn tin nào khác. Tôi cũng không được nghe Ðảng chính thức tuyên bố. Còn về chuyện phổ biến miệng tôi đã có chút ít kinh nghiệm. Trước hết, cần phải coi lại xem cấp phổ biến cho mình là ai ? Ðảng ủy ? Ðảng đoàn bộ ? Ðảng đoàn các cơ quan Trung Ương ? Hay là Tuyên giáo Trung Ương ? Tôi biết có những vụ người này người khác nhân danh Trung Ương nói việc này việc nọ, rồi sau Trung Ương lại phải cải chính, nói không phải quan điểm của Ðảng như thế đâu. Thành thử tốt nhất là cứ tin báo Nhân dân. Nó mới là cơ quan ngôn luận chính thức của Ðảng.
Câu nói ám chỉ y chả là cái gì làm Huỳnh Ngự tức giận :
- Anh cho rằng tui phổ biến cho anh sai ?
- Không phải thế. Tôi chỉ muốn nói ta nên tin báo Nhân dân thì hơn thôi. Còn người nào không tin báo Nhân dân là tùy.
- Tui không nói không nên tin báo Ðảng.
- Tôi cũng không nói bác có ý ấy.
- Hừ, khi các anh không tin thì các anh đủ miệng lưỡi ngụy biện để che đậy sự thiếu lòng tin. Tại sao anh không dám nói huỵch toẹt ra như thằng Chính, có phải hơn không ?
- Thì tôi nói huỵch toẹt ra đấy thôi, tôi có quanh co đâu. Ðây này, trước mặt tôi là quan điểm của Ðảng được in ra rành rành bằng giấy trắng mực đen, bác khuyên tôi tin quan điểm này hơn hay tin tôi quan điểm được phổ biến bằng miệng hơn ? Xin lỗi, không phải tôi không tin bác. Nhưng bác cũng chỉ được nghe phổ biến thôi, cấp nào phổ biến tôi không rõ.
- Có nghĩa anh không tin những điều tui nói là quan điểm của Ðảng ?
Tôi thở dài.
- Tôi nhắc lại : tôi không nói như vậy. Ta giả thử thế này : Ðảng khôn, chứ Ðảng không dại, trên báo chí chính thức Ðảng chỉ nói tổng tiến công và nổi dậy thôi, còn cái gì khác thì cho người đi phổ biến miệng. Rồi ra, nếu toàn thắng Ðảng sẽ bảo : đó là tổng phản công, Ðảng đã nói rồi, còn nếu không thắng được như ý muốn thì Ðảng bảo : đó chỉ là một đợt tổng tiến công và nổi dậy thôi, báo Ðảng đã viết rõ rành rành. Ðã gọi là một đợt tổng tiến công và nổi dậy có nghĩa là sau đợt này còn có đợt khác nữa...
Huỳnh Ngự nín lặng. Mặt y đần ra. Y chợt thấy trong câu nói của tôi có cái lý mà y chưa nghĩ tới. Hẳn y nghĩ cái lý đó có thể đúng, cho nên y không gầm thét với tôi như thường lệ, mà chỉ hầm hừ:
- Giỏi, anh giỏi. Chúng ta còn có dịp quay trở lại vấn đề này. Rồi anh sẽ thấy sự việc diễn biến ra sao, các anh đúng hay là tôi đúng ?
Diễn biến của sự việc chứng tỏ Huỳnh Ngự sai.
Tôi không nói Ðảng sai, bởi vì tôi không rõ những nhà lãnh đạo hồi ấy tính toán thế nào ? Người ta chỉ sai so với dự tính, chứ không thể sai chung chung. Nếu họ tính làm một cuộc tổng diễn tập thì sao ? Họ dự định trả giá nào cho nó.
Những người bạn tôi chiến đấu trong Nam kể thời kỳ Mậu Thân thương vong nhiều lắm, cơ sở hậu địch vỡ từng mảng lớn, có nơi vỡ hết, sau này phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới xây dựng lại được. Nhưng họ cũng không thể biết đích xác sự thiệt hại trong cuộc phiêu lưu này là bao nhiêu. Ðây là đề tài cấm kỵ, các nhà nghiên cứu quân sự cũng không được biết, nói gì đến báo chí.
Vả lại, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân kéo dài tới giữa năm, tổn thất nhiều thật, nhưng cái đạt được cũng rất lớn - đó là thắng lợi vang dội trên mặt ngoại giao và sự hủy hoại về căn bản ý chí chiến đấu của đối phương. Nước Mỹ bị phân hóa. Dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh đã kéo quá dài, lại chẳng phải là cuộc chiến tranh nhất thiết phải tiến hành vì quyền lợi nước Mỹ.
Vấn đề vẫn là so sánh cái được với cái mất.
- Anh được nghỉ Tết mấy bữa nữa. Sau đó ta lại tiếp tục làm việc.
Huỳnh Ngự nói như thể chúng tôi đang ở trong một công sở chứ không phải trong Hỏa Lò.
Mấy ngày Tết trời rét ngọt. Tôi lo lắng cho cha tôi. Ông không chịu được lạnh. Những ngày trở trời cha tôi thường lên cơn đau gan. Huỳnh Ngự thông báo : sức khỏe của cha tôi bình thường, bệnh gan của ông đỡ nhiều. Trong ni, y nhắc lại, cha tôi vẫn được hưởng chế độ săn sóc y tế như khi ở ngoải, tôi có thể yên tâm.
Tôi thừa biết, nếu cha tôi có lên cơn bệnh nặng thì ông cũng chẳng được đưa đi bệnh viện đâu. Người ta sẽ giao ông cho tên y sĩ đặc trách chúng tôi. Ðó là một con người vạm vỡ, thấp, dáng đi nặng nề, với cặp mắt vô hồn dưới vầng trán ngắn. Y không thích hợp với bất cứ bộ quần áo nào. Mọi thứ trên người y đều giống đồ đi mượn. Y không tốt cũng chẳng xấu, không ác cũng chẳng hiền, câm lặng một nô lệ bẩm sinh, ra đời để chịu sự sai khiến của ai đó, bất kể là ai, miễn người đó trả công y, nuôi y. Thỉnh thoảng y xuất hiện, kiêm luôn công việc quản giáo, đưa tôi đi cung, thay cho Hách hoặc Sứ giả hòa bình. Thuốc của y vẻn vẹn chỉ có át-bi-lin (aspirine), hoặc ga-li-đăng (ganidan), theo cách gọi của y, để chữa độc có hai bệnh mà y biết : nhức đầu và đau bụng.
Thỉnh thoảng tôi cũng xin y thuốc ngủ. Y cho luôn, không cần hỏi han dài dòng :
- Này, mê-bô-ba-mát đây ! Tối một viên. Khó ngủ quá thì hai.
Thấy y dễ, tôi xin cả thuốc đau bụng nhức đầu. Tôi phải viện trợ cho mấy xà lim bên cạnh. Tù xà lim ốm, xin thuốc rất khó. Quản giáo khe khắt đã đành, nhưng có lẽ còn có cả nguyên nhân thiếu thuốc nữa. Thành khuyên tôi phải xin để có một ít thuốc dự trữ, nhân lúc còn xin được. ê Việt Nam chẳng có gì ổn định, chẳng có gì lâu dài, con người nay ở đây mai đã ở nơi khác, nay làm công tác này mai đã chuyển công tác khác. Biết đâu mình chẳng gặp một tên y sĩ khó chịu hơn.
Ý nghĩ tự sát thỉnh thoảng vẫn trở lại. Tôi quyết không chịu để cho bọn độc tài muốn hành tôi thế nào thì hành. Cái chết bằng thuốc ngủ là cái chết dễ chịu. Nhờ trong y bạ của tôi trước đây y sĩ vẫn thường cho thuốc ngủ, nên viên y sĩ nhà tù cũng không tỏ ra khe khắt khi tôi đề nghị. Gói thuốc ngủ tích cóp được để ở đầu giường, thỉnh thoảng tôi lại giở ra đếm lại. Thành nhìn thấy, không nói gì.
Từ ngày vào Hỏa Lò tôi ngủ dễ và ngủ nhiều lắm. Tôi cho rằng đó là giấc ngủ bù cho thời gian làm việc căng thẳng trước đó. Một hôm Hoàng bảo tôi :
- Này anh Hiên, đây là nơi đấu tranh tư tưởng chứ không phải nơi để ngủ đâu nhé !
Thì ra trong xà lim mọi động thái nhỏ nhất của tôi đều được quản giáo báo cáo cho chấp pháp.
- Trong lòng thanh thản thì ngủ dễ. - tôi nói - Tôi chẳng có điều gì phải suy nghĩ. Cũng chẳng làm điều gì để đến nỗi phải xấu hổ, không bị lương tâm cắn rứt.
Phấn khởi trước thắng lợi vang dội ở miền Nam, cường độ làm việc của các chấp pháp tăng vọt. Huỳnh Ngự thoáng hiện, thoáng mất, bỏ mặc tôi cho lũ đàn em - chắc hẳn y bận làm việc với nhiều phòng cùng một lúc. Hoàng cũng biến đâu mất. Làm việc với tôi là một tay non choẹt, đang thời kỳ tập sự. Y không hỏi tôi, mà chỉ đọc các câu hỏi của Huỳnh Ngự ra cho tôi. Tôi cặm cụi viết. Y ngồi bên canh chừng, như phỗng.
Thành chăm chú nghe tôi kể về những câu hỏi quái dị của bọn chấp pháp chẳng hiểu từ đâu mà có, do ai khai ra cho tôi, rồi cười hì hì :
- Trò trẻ con ấy mà ! Bài bản của họ chỉ có tưng nấy thôi : bắt nọn là một, hù dọa là hai. Mình cứng thì họ hết vở. Nhưng thế mà lắm lúc cũng đau đầu ra phết. Gặp phải anh non gan, tưởng mọi người khai cả, phun phè phè, thì mình chống đỡ cũng mệt. Họ chỉ cần tóm được lời khai của một hoặc hai anh, dùng nó moi tiếp hết người nọ tới người kia, cho tới khi tất cả không chịu nổi nữa, nhận tội hết, là xong... Hiểu ra thì đã muộn.
Nụ cười của anh trông cay đắng lắm. Nó dính chặt vào mặt anh, không có cách gỡ ra. Thà đừng cười còn hơn.
- Mình lấy làm lạ : Ðảng nói cách mạng nhằm xây dựng một xã hội trong đó người với người là anh em, thế mà trên thực tế chỉ thấy Ðảng chăm dạy oán thù, căm ghét chứ không thấy dạy yêu thương, là làm sao ? Cứ nhìn một cái Hỏa Lò này đủ thấy. Thằng công dân bị bắt, chưa biết ất giáp ra sao, cán bộ đã khăng khăng bắt nó nhận tội cái đã. Nhỡ oan người ta thì sao ? Cái sai, cái tồi tệ từ đó mà ra. Làm cho lòng dạ con người thành ra cằn cỗi, hận thù như thế là lỗi ở ai ? Bác đâu có dạy cán bộ như vậy !
Năm 1946 khi đến thăm lớp cán bộ bình dân học vụ đầu tiên do nhóm ông Nguyễn Hữu Ðang tổ chức, ông Hồ chỉ trích những người viết sách vỡ lòng trong đó có câu mẫu "Nó ở tù" để dạy ghép vần có nguyên âm u :"Các đồng chí không còn thí dụ nào hay hơn sao mà dùng cái thí dụ ác thế ? Làm hại đầu óc trẻ con. Xin tìm câu khác". Mẹ tôi đi dự lớp huấn luyện này. Bà thường kể câu chuyện trên cho mọi người nghe như một thí dụ về lòng nhân ái cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, ông Hồ gặp một tù binh co ro trong cái rét cắt da của rừng Việt Bắc. Ông cởi tấm áo trấn thủ của ông cho anh ta, và câu chuyện lan truyền trong tù binh như một huyền thoại.
Nhưng tôi còn biết một Bác Hồ khác. Mùa hè năm 1950, đang ở Thái Nguyên, tôi nhận được thư cha tôi gọi tôi tới ATK(10). Tôi tới đúng lúc được dự lễ mừng lục tuần đại khánh(11) của Bác.
Trong bộ quần áo ta bằng lụa nâu, ông Hồ ngồi sau cái bàn tre ghép, trên có mấy tờ báo tiếng Pháp. Trong ngôi nhà vách nứa lợp cọ ở Thác Dẫng, tổng hành dinh các lực lượng kháng chiến, ông giống một lão nho tiên phong đạo cốt, một nhà thơ, một bậc hiền triết phương Ðông hơn là một thủ lĩnh nghĩa quân, vị thống soái của cách mạng. Tôi bước vào, đứng nghiêm, đưa tay chấm vành mũ lá. Ông hiền từ ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên cạnh :
- Chà, thằng nhỏ vận bảnh hả ? Bộ đội giờ quần áo đẹp đấy chớ ! - ông nói với cha tôi - Mới được phát, hả ?
Giọng ông âm vang, ấm áp, một giọng nói pha trộn âm sắc Nghệ An với nhiều vùng khác của đất nước, của riêng ông, rất đặc biệt, rất dễ thương, không giống giọng nào khác. Có điều hơi thở của ông rất hôi. Tôi nghĩ tới bệnh lao phổi mà ông mắc từ khi về nước. Bệnh có vẻ không đỡ. Tôi xót ông, lòng tôi tràn ngập niềm kính trọng đức hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của ông.
Tôi lễ phép thưa với ông rằng bộ đội bây giờ thường được phát mỗi năm hai bộ, nhưng quần áo không đồng nhất : bộ đội khu 3 mặc vải khác bộ đội Việt Bắc, bộ đội khu 4 mặc khác kiểu bộ đội khu 5. Bền nhất là quần áo của bộ đội khu 5, được may bằng vải xi-ta dày dặn, màu xám tro chứ không phải màu kaki.
- Thế này tốt rồi. Nước ta còn thiếu thốn, cháu ạ, chưa có quần áo cùng một kiểu cho các cháu...
- Thưa Bác, chúng cháu cũng không kêu ca. Ðược thế này đã tốt quá !
Ông đưa bàn tay gày guộc mân mê chất vải trên bộ quần áo tôi mặc, vẻ hài lòng. Ðó là quân phục mới của bộ đội Liên khu 3.
Không bao lâu sau ông ra lệnh xử tử Trần Dụ Châu, đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu, người cung cấp chúng tôi thứ quần áo từng làm ông thích thú, vì tội nhận hối lộ. Chất lượng quân phục thứ quân phục chúng tôi được cấp đúng là không ra gì - làm bằng sợi viscose, còn gọi là tơ dứa, mặc vào vải cứ chảy ra, lõng thõng, lụng thụng. Nhưng dù sao mặc lòng nhờ những cố gắng của Cục Quân nhu chúng tôi cũng không còn ăn vận lung tung, mỗi đơn vị một kiểu quần áo như hồi đầu kháng chiến.
Cha tôi can ông, nhưng ông không nghe. Cha tôi nói ông Hồ không chịu giảm nhẹ hình phạt cho Trần Dụ Châu còn vì tội ăn chơi xa xỉ. Người ta báo cáo Trần Dụ Châu chụp "cả một va-li ảnh" với người tình là ca sĩ T.H. Cha tôi có hỏi lại, thì không phải thế. Trần Dụ Châu có chụp nhiều ảnh với T.H. thật, nhưng nói "cả một va-li" là ngoa ngôn. Tội hối lộ cũng không rõ ràng. Chính cái "va-li ảnh" đã làm cho ông Hồ nổi giận. Ông Lê Giản cũng không tán thành án xử tử Trần Dụ Châu. Nhưng một khi ông Hồ đã muốn trừng phạt để làm gương thì không ai có thể làm ông đổi ý.
Cũng chính ông Hồ đã duyệt án tử hình một trung đoàn trưởng trong chiến dịch biên giới (1950) vì tội anh này tự động nhận lời mời của viên quan năm thầy thuốc Pháp(12) đáp máy bay về thăm gia đình anh ở Hà Nội nhân cuộc trao trả tù binh. Anh nhận lời mời với điều kiện anh sẽ mặc quân phục Việt Nam đi với viên quan năm, chứ không mặc thường phục. Trước khi lên máy bay anh còn vui vẻ nói với các bạn rằng hôm nay đồng bào ta ở thủ đô sẽ được thấy người của quân đội Việt Nam đi hiên ngang trên đường phố của thủ đô bị chiếm đóng. Anh muốn bằng cách đó tuyên truyền cho chiến thắng Cao-Bắc-Lạng. Người Pháp giữ lời hứa - từ sân bay Gia Lâm anh ngồi trên xe Jeep về thẳng Bờ Hồ và đi bách bộ ở đó rất lâu trước con mắt trầm trồ của dân chúng. Ðúng là anh đã được diện quân phục Việt Nam đi trên đường phố Hà Nội. Cũng với bộ quân phục ấy anh đi ra trường bắn. Những người lính bị cưỡng bức bắn anh, bắt xong vứt súng lăn lộn gào khóc.
Trong kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ông Hồ Chí Minh, chí ít cũng cho tới năm 1950, khi biên giới Việt-Trung được nối liền, những vụ oan khuất xảy ra có thể tính trên đầu ngón tay. Trừ vụ H122(13) do Hoàng Quốc Việt chỉ đạo làm chết nhiều cán bộ quân đội, phần lớn ở cấp đại đội và tiểu đoàn. Cha tôi nhận xét trong vụ này tội của Hoàng Quốc Việt đương nhiên lớn nhưng Trường Chinh phải chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên, mặc dầu lên án Trường Chinh trong vụ này, và trong sai lầm Cải cách ruộng đất, nhưng cha tôi vẫn không coi Trường Chinh là một người hiếu sát. Trường Chinh, theo ông, con người cách mạng Trường Chinh được hiến dâng trọn vẹn cho những giáo điều cằn cỗi, còn con người trần thế Trường Chinh thì hoàn toàn hài lòng với một nửa ngai vàng. Trong những người gần gụi Trường Chinh - từ anh giám mã, chị cấp dưỡng cho tới các nhân viên văn phòng, các bí thư, không người nào yêu mến Trường Chinh. Trong khi đó những người được ở gần ông Hồ không những chỉ kính trọng ông mà còn yêu mến ông thực sự.
Mẹ tôi có những kỷ niệm tốt về Trường Chinh. Bà kể khi biết ông Trần Huy Liệu quá đắm đuối trong mối tình với nữ sĩ Thu Tâm ở Huế, ông Trường Chinh giận lắm, mới đưa việc này ra thường vụ Trung ương. Sau đó ông đại diện cho thường vụ họp với các bà : bà Liệu, mẹ tôi và bà Trần Ðình Long. Trong cuộc họp này ông Trường Chinh ra quyết nghị : cho ông Liệu được đi chơi với cô Thu Tâm thêm một tháng nữa, sau đó phải về với vợ con, trái lệnh Ðảng sẽ thi hành kỷ luật. Một Trung ương Ðảng giải quyết chuyện tình của cán bộ Ðảng như vậy tuyệt quá đi chứ. Vừa thấu tình vừa đạt lý. Trường Chinh, chứ không phải ai khác, đã đứng đầu một Trung ương như thế !
Nhưng đó là chuyện quá khứ, chuyện người ta không thể tắm hai lần trong một dòng sông.
(1) Koltsov M.E. (1898-1940), nhà văn và nhà báo, đảng viên Ðảng cộng sản Liên Xô từ năm 1918.
(2) Chúng bay không đi qua được ! (tiếng Tây-ban-nha).
(3) Năm 1936, quân đội của tướng Francisco Franco (1892-1975) nổi dậy chống nền Cộng hòa do liên minh cánh tả (cộng sản và xã hội) nắm quyền. Cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài cho tới năm 1939 thì kết thúc với chiến thắng của quân Phát-xít. Quân Cộng hòa, được Liên Xô và các binh đoàn Quốc tế (gồm các chiến sĩ tình nguyện từ châu Âu và Mỹ) giúp đỡ, nhưng ô hợp, thiếu kỷ luật, đã thua quân Phát-xít, được phát-xít Ðức-í yểm trợ mạnh mẽ về quân sự.
(4) Một trong hai người Việt Nam tham gia trong những Binh đoàn Quốc tế là ông Nguyễn Văn Thọ, biệt hiệu "Thọ Tây-ban-nha". Ông Thọ kể còn có mấy người nữa, tôi không nhớ tên. Trong các Binh đoàn quốc tế hồi đó có Josip Broz Tito, Ernest Hemingway, Mikhail Koltsov, Roman Karmen...
(5) Iosif Broz Tito (1892-1980), tổng thống Nam Tư (cũ), người Croatia, sau này là một nhà lãnh đạo các quốc gia không liên kết. Ðáng ngạc nhiên là ông vẫn nhớ đến những đồng chí Việt Nam trong các chiến sĩ tình nguyện quốc tế để mời.
(6) Phần tử chống bôn-sê-vích, nói tắt tiếng Pháp anti-bolchevik.
(7) Hãy kể một số tên tuổi được thế giới biết đến như Babel,Vessioly, Voronski, Kataev, Kluiev, Koltsov, Mandelstam, Pilniak, Pribludny, Sviatopolk-Mirski, Florenski, Tchaianov...
(8) Có lẽ Huỳnh Ngự học đòi nhà thơ Bút Tre trong một bài thơ với những câu :"Trên trời con khỉ đánh đu. Thằng Ngô Ðình Diệm mút cu cụ Hồ...". Tôi xin lỗi vì những lời trích thiếu văn hóa. Cho tới nay một số nhà lý thuyết văn học vẫn còn đề cao Bút Tre như một nhà thơ lớn và độc đáo, thơ Bút Tre là một hiện tượng văn học. Một nét chấm phá hi hữu cho bức tranh xã hội.
(9) Theo lý thuyết của Trường Chinh trong cuốn Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi thì đó là giai đoạn thứ ba của bất kỳ cuộc kháng chiến nào. Lý thuyết này được viết còn rõ hơn trong Trì cửu chiến luận của Mao Trạch-đông.
(10) Gọi tắt An toàn khu, một khu nằm sâu trong vùng rừng núi Tuyên Quang, Thái Nguyên, được bảo vệ rất cẩn mật, là nơi đặt các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Phủ Chủ tịch đặt tại thác Dẫng, thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
(11) Kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60.
(12) Hình như viên đại tá quân y này tên là Huart.
(13) Một vụ phản tình báo do phía Pháp tiến hành, tạo ra hồ sơ giả cho Việt Minh đanh cắp. Theo hồ sơ này thì Pháp đã chiêu mộ được rất nhiều cán bộ quân đội Việt Nam làm việc cho Pháp.
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 26
Ðêm giữa ban ngày
Chương 26
Ðùng một cái, chúng tôi bị chuyển phòng.
Buổi tối, chúng tôi còn đang chúi mũi vào ván cờ tướng thì bỗng giật mình nghe tiếng mở khóa. Ngẩng lên đã thấy Sứ giả hòa bình sừng sững đấy rồi. Không nhìn đến chúng tôi, cái mũi đỏ hất lên, anh ta nói :
- Chuẩn bị đồ đoàn(1)! Chuyển phòng.
Tù bị di chuyển từ phòng này qua phòng khác, từ khu này qua khu khác là chuyện thường ở đây. Mục đích của việc chuyển phòng, Thành giải thích, là để tránh tình trạng thông cung, làm cho người tù luôn bị động, không có thời gian chuẩn bị một cuộc trốn trại nếu như họ có ý định trốn. Ðôi khi đó là sự sắp xếp lại tù nhân trong một vụ. Việc chuyển phòng bao giờ cũng đột ngột, tù không được biết trước. Người có kinh nghiệm lúc nào cũng ở tư thế sẵn sàng. Anh ta không thể không sẵn sàng, bởi vì sự cập rập thường gây ra những tổn thất nặng nề - quản giáo ập vào đúng lúc mình không ngờ nhất, và thế là những vật quý giá chưa kịp cất giấu sẽ không mang theo được. Chưa kể khi chuyển phòng còn bị quản giáo loại, tịch thu các đồ vật bị cấm và thi hành kỷ luật.
Trong các thứ có thể bị mất quý nhất là con dao. Ðể làm một con dao người tù xà lim phải bỏ ra rất nhiều thời gian, nhất là thời gian tìm nguyên liệu. Sắt đai thùng, hoặc sắt nói chung, không phải chỗ nào cũng có, tìm được nó hoàn toàn phụ thuộc vào may rủi. Sau đó mới tới việc chế tạo nó, thường mất cả tuần, cả tháng, có khi hơn, trong điều kiện quản giáo lỏng lẻo, anh tù khéo tay và may mắn.
Tôi chăm chú nhìn Sứ giả hòa bình. Y nói với ai ? Với tôi hay với Thành ? Hay với cả hai ? Liếc sang Thành, tôi thấy anh cũng lo lắng không kém. Anh bước xuống đất, hai tay chắp lại, lễ phép:
- Báo cáo ông quản giáo, tôi ? hay anh này ?
Tim chúng tôi đập dồn, mặt chúng tôi căng thẳng chờ đợi lời phán quyết của viên quản giáo.
- Cả hai.
Sứ giả hòa bình hờ hững trả lời. Tim tôi đập rộn. Tôi sung sướng. Phải xa Thành, tôi đau khổ thật sự. Thành nhìn tôi, mắt long lanh. Anh cũng vậy, anh quen sống có tôi bên cạnh mất rồi. Chúng tôiquýnh quáng dọn đồ, mặt mày rạng rỡ.
- Ði !
Sứ giả hòa bình ra lệnh. Chúng tôi theo sau.
Có những tiếng động không bình thường vẳng ra từ những cánh cửa đóng kín - tiếng ho khan, tiếng đằng hắng. Ðó là các bạn tù nói lời chia tay với chúng tôi. Tuy không nhìn thấy nhau, những người tù hàng xóm láng giềng vẫn cảm thấy sự hiện diện của nhau, vẫn hình dung ra nhau căn cứ những dấu hiệu khó nhận thấy nhất. Bên phải chúng tôi là một ông già, hẳn rất gày còm, ông thường ho khan vào sáng sớm. Tối tối ông ngâm thơ, giọng ư ử như bị cảm lạnh. Bên trái là anh chàng không ngừng chiến đấu cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau(2)...Ngoài cái bài muôn thuở ấy anh ta không biết bài nào khác. Sát anh ta là một cán bộ thương nghiệp, chắc hẳn bị tội tham ô. Có lần anh đi lĩnh tiếp tế về, tôi nghe Hách nói với anh, giọng ghen tị : "Cán bộ thương nghiệp, hả ? Vợ là nhân viên mậu dịch, hả ?". Tôi đã thoáng thấy anh ta - người tầm thước, trắng trẻo, béo tốt, hơi gù. Ðàng xa, cuối hành lang, là anh tù tử hình đáng thương, trắng bệch và phù thũng vì ở trong phòng kín lâu ngày. Ðể đánh tín hiệu từ biệt, anh ta rống lên một câu vọng cổ thê lương đến nỗi Sứ giả hòa bình phải quát :"Này anh kia, có đậy ngay lập tức cái thượng môn của anh đi không hử ?"
Khu xà lim chúng tôi được chuyển tới bề thế hơn khu chúng tôi vừa bỏ đi. Nó cách khu xà lim 3 chưa tới trăm mét tính theo đường chim bay, nhưng vì vòng vèo theo Sứ giả hòa bình qua mấy khu trại chung cho nên thấy xa hơn. Người ta tính toán chu đáo : cuộc di chuyển diễn ra lúc chiều tối, khi tất cả tù xưởng thợ, tù tự giác, đều đã bị lùa vào trong các nhà giam chung, chẳng ai nhìn thấy chúng tôi.
Chăn chiếu cắp nách, tay tòn ten bộ quần áo thay đổi, chúng tôi lững thững đi trên những lối hẹp ngoắt ngoéo vắng tanh vắng ngắt. Từ bên trong những nhà giam hình khối chữ nhật vẳng ra tiếng người rầm rì làm thành một tiếng ồn không dứt.
Trước khi vào ngôi nhà-hầm mộ kế tiếp, chúng tôi còn phải qua một cái cổng nhỏ không khóa, một mảnh sân hẹp.
Bên trong, khu xà lim mờ tối giống như một cái hang với những bóng điện đầy bụi bặm hấp hối trong những rọ lưới sắt. Nó giống một khoang tàu chở khách, loại tàu cổ lỗ từ đầu thế kỷ, với những cửa ca-bin đều tăm tắp ở hai bên hành lang. Con tàu chết máy, nó trôi dạt trên đại dương thời gian, còn hành khách thì ngủ mê mệt sau những cánh cửa đóng im ỉm. Chỉ ở đầu hành lang, gần cửa vào khu hầm mộ, có một xà lim để ngỏ. Tôi ngó thấy bên trong trống rỗng, mấy bức tường đen xì.
- Ðấy là xà lim ông Hoàng Văn Thụ. Ông ta nằm đây trước khi bị xử tử.- Thành giải thích - Khu này là xà lim 1. Còn gọi là xà lim án chém. Trong các xà lim án chém tường đều sơn một màu đen như thế. Ðến thời ta mới quét vôi lại, nhưng xà lim lưu niệm này giữ nguyên như cũ.
- Nghĩa là khu này cổ nhất Hỏa Lò ?
- Tôi không dám nói chắc. Khu xà lim 3 ta vừa đi khỏi là khu mới được xây, thời tạm chiếm hay là thời mình tôi không rõ, anh không thấy phòng ở đấy hẹp hơn à ?
Tôi quan sát nơi ở mới. Xà lim cũ hẹp hơn, trần cao hơn, nhưng ấm hơn vì kín gió. Không biết rồi tôi còn được du ngoạn qua bao nhiêu xà lim nữa ?
Ngoài xà lim lưu niệm dành cho Hoàng Văn Thụ, không còn xà lim lưu niệm nào khác. Lịch sử cách mạng Việt Nam được trình bày như thể nó chỉ bắt đầu với sự ra đời của Ðảng cộng sản Ðông Dương. Các tổ chức cách mạng khác ít được nhắc đến, mà có nhắc đến thì cũng bằng giọng bề trên, kẻ cả.
-Ê bên này được cái thoáng hơn. - Thành nhìn quanh, nói.
Khác với xà lim trước, ở tường hậu phòng giam này có một cửa sổ to, chấn song và lưới thép bưng kín. Bụi bám đầy lưới, y như trong một kho hàng. Bên trên cửa ra vào có một khoảng cũng bít lưới như thế.
Không biết bằng cách nào những khách trọ cũ trong xà lim bẻ được cả một mảng lưới sắt, làm thành một lỗ thủng to bằng bàn tay, qua đó không khí bên ngoài ri rỉ chảy vào phòng. Người ta biết, nhưng chẳng buồn vá lại. Có vượt ngục được cũng còn lâu - sau tấm lưới là hàng chấn song sắt to gộc, sau chấn song là bức tường đá sừng sững, dây thép gai giăng mắc bên trên, ngày đêm đều có lính gác.
Chỗ ở mới có mùi khó tả. Mặc dầu vừa được quét dọn - trên sàn còn ướt những vệt nước - nó vẫn tanh tưởi và lạnh lẽo.
- Còn phải dọn nhiều. - Thành nói - Khí lạnh đây là tử khí đấy. Chắc có tù tử hình vừa đi.
Xà lim 1, Thành giải thích, bây giờ dùng để giam tù trọng án trong thời kỳ giam cứu là chính, chứ không phải cho tù tử hình. Nói chung, án tử hình bây giờ ít được tuyên, xử nặng nhất cũng chỉ đến chung thân, hai mươi năm. Nếu cải tạo tốt, được giảm án đều đều, sống được qua sóng gió nhà tù, người mang án chung thân có thể được ra sau mười hai, mười lăm năm, còn người mang án hai mươi năm có khi mới tám năm, chín năm đã được về.
Nếu tình hình hiện nay kéo dài thì khả năng tôi ra khỏi đây là ít. Chừng nào Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ còn sống. Mà họ còn sống lâu.
Thiên hạ đàm tiếu nhiều về chuyện quan hệ với phái yếu ở các nhà lãnh đạo cao niên. Ðó là đề tài ưa thích trong cuộc sống đơn điệu một thời ở miền Bắc. Tôi nghĩ người ta chẳng nói tới chuyện riêng tư của các vị làm gì nếu như các vị không lên mặt đạo đức, luôn miệng dạy dỗ thần dân lối sống khắc kỷ xã hội chủ nghĩa. Lời đàm tiếu là phản ứng ngược cho những lời rao giảng đạo đức giả. Các vị lang chạ với hết cô này cô khác thì không sao, cán bộ cấp thấp mới chỉ hơi dính dáng chuyện ăn nằm với phụ nữ là đã bị kiểm điểm lên kiểm điểm xuống, bị thi hành kỷ luật rồi. Trong chuyện này Lê Duẩn là người hồn nhiên. Lê Duẩn không coi dư luận ra gì. Cái gì Lê Duẩn thích là Lê Duẩn làm. Thọ chẳng thua gì Duẩn, theo những người gần Thọ cho biết, nhưng kín đáo hơn. Mỗi lần cán bộ nữ đến cầu cạnh Thọ để xin lên chức, lên lương, thường được Thọ cho gặp riêng để đả thông tư tưởng. Họ ra về, mặt tươi nở. Ðược gặp anh Sáu là đời lên hương rồi.
Tôi là người duy lý. Tôi sẵn sàng chấp nhận những nhà lãnh đạo mắc bệnh tim la. Miễn họ đừng lạm dụng quyền chức gây đau khổ cho đồng bào.
Ðêm đến, qua lỗ thủng trên tấm lưới sắt nơi ở mới tôi có thể nhìn thấy những cành sấu trụi lá in những nét gãy lên nền trời tím đen với những vì sao yếu ớt run rẩy trong gió bấc.
Chiều hôm sau, lúc trời nhập nhoạng tối, chúng tôi đang nằm nghỉ sau bữa cơm chiều thì nghe tiếng chân người chạy thình thịch bên ngoài, tiếng mở cửa, đóng cửa, rồi sau đó mọi sự lại trở về yên lặng.
- Có tù mới đến, cậu ạ. - Thành nhận xét.
Ngày hôm sau anh bổ sung :
- Người này trong vụ các cậu.
Một nhận xét kéo dài hai ngày, hẳn nó phải chín chắn.
- Căn cứ ở cái gì mà anh cho là như thế ? - tôi hỏi.
- Trước hết, nếu là tù thường, người ta không dọn dẹp xà lim trước khi cho vào. Hôm qua, khi ta mới tới, tôi nghe tiếng quét dọn, là một. Tiếp đến có giám thị hay là cấp to của nhà tù đến kiểm tra, là hai. - Thành phân tích - Sáng nay, đi qua tôi thấy cửa phòng hé mở, ngó vào thấy có cái giá gỗ mới tinh để trên phản, là ba... Tù thường, không phải tù đặc biệt, không được săn sóc như thế đâu.
- Hôm tôi bị đưa vào, người ta có dọn phòng không ?
- Tôi đến trước cậu vài ngày. Phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ rồi.
- Hừm, lạ nhỉ ?
- Trong vụ các cậu có vẻ người ta còn lấn bấn, chưa dám quyết...
Hóa ra Thành biết nhiều anh em trong quân đội bị dính vào vụ này. Một vài người còn là bạn chiến đấu của anh. Sự có những người quen biết chung làm chúng tôi thêm gần nhau. Anh cám cảnh cho tôi lắm.
- Tình thế của cậu, nói thực nhé, chẳng lấy gì làm sáng sủa. - Thành vuốt mái tóc lòa xòa - Ðiểu tận thì cung tàng. Kể từ Cách mạng Tháng Tám tới nay tôi chưa từng thấy vụ nào tương tự. Lớn quá, lớn quá ! Người ta dám làm thế là người ta quyết tâm lắm. Không dễ gì họ bỏ cuộc. Chơi nhau thế này là sát ván.
- Còn phải nói !
- Nhưng đúng là họ tuy quyết tâm, nhưng lại chưa dám quyết liệt trong hành động. Cách đối xử thế này tỏ ra họ còn một chút e ngại, một chút phân vân...Nếu triệt không được thì cũng phải có đường rút chứ.
- Tôi nghĩ họ vừa làm vừa nghe ngóng. Nếu thấy trong ngoài không phản ứng thì họ làm tới.
- Lại càng cần bình tĩnh nhìn thẳng vào sự thật để mà chịu đựng. Thôi thì cứ coi như cậu chia sẻ nỗi khốn khó với ông cụ. Tội nghiệp ông cụ quá. Cậu còn sống lâu, còn có quyền hi vọng. Chứ ông cụ thì mất cả cuộc đời !
Tôi thở dài.
- Trong lịch sử nước ta chưa bao giờ xảy ra chuyện bắt nhiều công thần một lúc như thế.
Buổi chiều ra lấy cơm, Thành đưa mắt chỉ cho tôi cái xà lim có tù mới. Cánh cửa đóng im ỉm. Từ bên trong không một tiếng động nào vẳng ra.
Ngày hôm sau, khi ra nhận cơm trưa, tôi thấy cửa xà lim nọ khép hờ. Bên trong, một cái chăn đơn để bừa trên phản và dưới cái giá gỗ mộc mới đóng lỏng chỏng mấy hộp thuốc bên tuýp kem răng Hoa Mai.
- Anh đúng. Người đó trong vụ tôi.
- Cậu căn cứ vào cái gì ?
- Nếu là tù khác, chăn để không gọn gàng thì quản giáo mắng, nhưng sáng nay lấy tù đi cung, chỉ nghe tiếng quản giáo mở cửa...Nói chung, họ đối với chúng tôi nhẹ nhàng. Họ biết quá, chúng tôi không sợ chết, nói gì sợ họ.
Thành gật gù rồi khen tôi :
- Cậu bắt đầu biết xét đoán việc trong tù rồi đó !
Trong khu xà lim 1 chúng tôi thoát được con chuột già nữa, nhưng lại phải chịu đựng nạn kiến hôi. Bộ lạc những con kiến li ti màu vàng nhạt này đông vô số kể. Chỉ có thể chạy trốn chúng chứ không thể giết chúng. Con kiến bé tẹo khi bị di chết tiết ra một mùi hăng khó tả, giống mùi hạt thu đủ bị bóp nát. Lũ kiến gan lì và kiên nhẫn không thể tả được. Chỉ một gói kẹo nhỏ thôi cũng đủ để chúng điên lên, lùng xục đủ mọi chỗ mà Thành có thể cất giấu. Ban ngày anh móc vào lưới thép cửa thông hơi. Ban đêm anh treo trên đình màn. Chỗ nào rồi chúng cũng tìm ra. Tìm được rồi chúng lăn xả vào, sẵn sàng chết chỉ để hút một chút xíu chất ngọt. Cái kẹo thế là không thể ăn được nữa. Nhưng chúng tôi lại quá nghèo để có thể vứt đi. Ðành phải rửa kỹ kẹo cho xác những con kiến trôi đi mà ăn vậy.
Lũ chuột cống ở đây không cần phải vào xà lim kiếm ăn. Thức ăn đã có sẵn ngoài sân. Ðó là phần cơm tù được nhà bếp gánh vào, thường là rất sớm. Leo lên cửa sổ ngó ra sân, tôi thấy những con chuột béo múp ngồi chễm chệ trên những tô cơm của chúng tôi. Tôi phải gạt bỏ phần cơm trên nguội ngắt, đè cảm giác ghê tởm xuống mà nuốt phần ít ỏi còn lại. Có hôm tôi bắt gặp Thành rơm rớm nước mắt bưng bát cơm lên miệng.
Trong các quản giáo chỉ có Sứ giả hòa bình là thông cảm với nỗi khổ tâm của tù xà lim trong chuyện ăn uống. Anh ta bao giờ cũng mở cửa cho tù ra nhận cơm ngay khi nhà bếp vừa gánh tới. Khốn nỗi, quản giáo làm việc luân phiên nhau, không phải ngày nào tù cũng được gặp Sứ giả hòa bình. Hách thuộc loại người khác hẳn. Mặt y lúc nào cũng vác lên theo hình mẫu lãnh tụ. Già nhưng đỏm dáng, y quan tâm tới nếp là quần áo hơn bữa cơm cho tù. Hách thường để cơm nguội tanh mới dẫn rượu vào khu xà lim. Lũ chuột thừa thời giờ ăn, ăn rồi còn ỉa cả vào những tô cơm tù.
Tôi quyết định nói với chấp pháp về tình hình cơm nước trong khu xà lim.
Hoàng nghe tôi chăm chú, im lặng một lúc lâu.
- Làm sao anh biết cơm bị chuột vầy ?
- Tôi nhìn thấy.
- Anh trèo lên cửa sổ ngó ra ?
- Phải.
- Anh trèo lên bằng cách nào ?
- Bằng cách thông thường nhất. Như người ta thường trèo.
- Cửa sổ cao mà.
- Tôi có cách.
- Hừm, nghĩa là anh nhận anh vi phạm nội quy ? Anh có biết làm như thế anh sẽ bị kỷ luật không ?
Tôi cười khẩy.
- Tôi không còn gì để mất.
- Theo nội quy trại, anh có thể bị cùm một tuần lễ.
- Anh cứ cùm.
Hoàng không cùm tôi. Hôm sau tình hình được cải thiện - Hách phải đi theo nhà bếp để mở cửa. Cái giá phải trả được coi là rẻ - chúng tôi chỉ bị chuyển qua một phòng khác, cũng vẫn trong khu xà lim 1. Từ cửa sổ này tôi không nhìn ra sân được nữa.
Trong những lần ra rửa ráy, lấy cơm, trả bát tôi tò mò quan sát phòng giam Hoàng Văn Thụ. Nhân tiện ở đây tôi cũng muốn xem kỹ nó một tí. Thỉnh thoảng có đoàn tham quan vào, chắc họ tới viếng xà lim này.
Hoàng Văn Thụ cũng có lui tới nhà tôi trong thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám. Người hay nhắc tới Hoàng Văn Thụ nhất mỗi lần đến thăm cha tôi là một hàng binh có tên Việt là Chiến Sĩ, người Ðức(3). Ðược Hoàng Văn Thụ giác ngộ, từ một sĩ quan lê-dương Chiến Sĩ trở thành đảng viên cộng sản, tham gia tổng khởi nghĩa Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Mỗi khi nhắc tới Hoàng Văn Thụ giọng Chiến Sĩ bồi hồi, đôi mắt xanh của ông trở nên ướt. Ngồi nghe những người của thời trước, thời cách mạng chưa thành công, khi họ còn là những đồng chí thân thiết, tôi cứ ngẩn người ra mà ngắm - sao thời ấy họ đẹp thế !
Hàng ngày đi qua xà lim Hoàng Văn Thụ, tôi thường nghĩ về tình bạn giữa cha tôi và người anh hùng đã khuất với mối hoài nghi bất giác : nếu Hoàng Văn Thụ còn sống, liệu ông có trở thành một trong những tên đang hành hạ chúng tôi không ?
Thành kể thời Pháp bức tường đá bao quanh Hỏa Lò không cao thế này. Vì nó thấp cho nên trong cuộc vượt ngục nổi tiếng trước ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám tù chỉ công kênh nhau đã leo được ra ngoài. Sửa chữa sơ hở của thực dân Pháp, chính quyền cách mạng đã bồi cao thêm chừng mét rưỡi nữa. Bây giờ vệt nối giữa bức tường cũ và đoạn được xây thêm trông còn rõ.
Từ trong xà lim 1 có thể nhìn thấy một mảng trời khá rộng với những cành sấu, cành me la đà nơi ngã ba Quán Sứ và Hàng Bông Thợ Nhuộm. Bên trong bức tường là mấy vọng gác gần khu trại nữ, trên đó mấy chàng lính trẻ chốc chốc lại cởi cúc quần ngẩn mặt ra thủ dâm trước những con mắt bị giam thèm khát màu xanh. Họ tưởng tù không trông thấy hay họ coi thường bọn tù trong xà lim, tôi không rõ.
So với xà lim 3, xà lim 1 đỡ vắng lặng hơn. Nó được dành riêng cho tù trọng án. Ðám tù này bất cần đời. Vào đến xà lim là họ hiểu họ không bị xử bắn cũng chung thân, nhẹ nhất là hai mươi năm. Khi buồn quá, họ hát ti tỉ, họ ngâm thơ, quản giáo có la hét thì họ vâng vâng dạ dạ tí chút rồi đâu vẫn hoàn đấy. Lại thêm một anh phi công Mỹ mới lạc loài vào, hẳn khu tù binh đã quá chật. Anh chàng này suốt ngày im lặng, thỉnh thoảng lại hứng lên ông ổng cất tiếng hát bằng giọng nam trầm, chẳng ra cái điệu gì. Hách xầm xầm chạy vào, mắng xa xả bằng tiếng Việt, người Mỹ cãi lại bằng tiếng Mỹ. Hai bên om xòm một hồi rồi chia tay, không bên nào hiểu bên nào.
Khu xà lim 1 còn tiếp giáp với trại nữ. Ban ngày trại nữ im ắng nhưng tối đến hoặc đang đêm lại ồn lên tiếng cãi lộn, những lời chửi bới thô tục. Thỉnh thoảng xảy ra một vụ đánh nhau, vẳng đến phòng chúng tôi tiếng gào the thé đến lạc giọng của những cô gáì :" Báo cáo bà quản giáo ạ, báo cáo bà quản giáo ! Chúng nó đánh chết con rồi ạ !" Tù nữ ít khi đánh nhau, nhưng đã đánh nhau thì đánh dữ lắm, quản giáo không can nổi. Dẹp một vụ xô xát ở trại nữ mất cả tiếng đồng hồ. Phần lớn tù nữ là gái điếm, trộm cắp, còn lại là các thứ khác : buôn lậu, buôn bán tem phiếu(4), lừa đảo, đánh ghen vv...
Chúng tôi còn nghe thấy cả tiếng trẻ con khóc từ trại nữ vọng lại. Không hiểu có phải khi người mẹ đang cho con bú thì bị bắt nên người ta cho phép mang con vào theo, hay là tù sinh con trong trại. Thành trầm lặng hẳn khi nghe tiếng trẻ gào như mèo kêu trong đêm.
- Khốn nạn, vừa chào đời đã ở tù. Cũng là cháu Bác Hồ cả đấy, chẳng biết rồi ra nó sẽ là cháu ngoan hay là cháu hư ? Hư là cái chắc. Ði qua nhà tù, mấy ai còn tử tế...
Trong đêm thanh vắng tôi nghe thấy tiếng người lao xao trên đường Hàng Bông Thợ Nhuộm vào giờ tan buổi chiếu bóng muộn. Có hôm, tôi còn nghe thấy tiếng một người quen. Hỏa Lò được thiết kế rất lạ : ở trong có thể nghe thấy tiếng bên ngoài, nhưng ở bên ngoài không thể nào nghe thấy tiếng người bên trong.
Chẳng bao lâu sau anh chàng Căn cũng theo chân chúng tôi qua bên này. Bằng cách nào không biết, chỉ một ngày sau anh ta đã biết sự có mặt chúng tôi ở đây. Ðể đánh tiếng cho chúng tôi biết, anh ta nghêu ngao bằng giọng khàn khàn vịt đực :
Em chờ anh tối qua
Suốt canh trường chẳng thấy anh ra...
(1) Tại các trại giam mà tôi đã sống qua, thay vì gọi đồ đạc, người ta gọi đồ đoàn. Không rõ cách gọi này có xuất xứ từ đâu.
(2) Lời một bài hát.
(3) Tôi biết tên ông là Stefan, không nhớ họ.
(4) Tem phiếu là từ chung dùng để chỉ các loại giấy phân phối các thứ hàng hóa từ gạo, thịt, đường, sữa...cho tới vải, xe đạp vv...Buôn bán tem phiếu cũng là một tội, chế tạo và lưu hành tem phiếu giả là tội rất nặng, có thể tới chung thân hoặc 20 năm tù ngồi.
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 27
Ðêm giữa ban ngày
Chương 27
Tôi choàng tỉnh, mồ hôi đầm đìa. Cơn ác mộng đã qua. Trong ánh điện chói chang, tôi nhìn thấy mặt Thành cúi sát tôi, bàn tay đặt lên vai tôi lạnh ngắt :
- Cậu ú ớ mãi, mơ hoảng à ?
- Cái gì thế ? Có chuyện gì thế ? - tôi ngồi nhỏm dậy.
Anh đặt ngón trỏ lên môi suỵt khẽ, hất hàm chỉ ra cửa.
Ðịnh thần, tôi nghe ngoài hành lang có tiếng nấc cụt liên hồi, tiếng người xì xào không rõ, tiếng chân rầm rập chạy vào khu xà lim. Trong tĩnh mịch, ầm lên tiếng một vật bằng gỗ rơi xuống sàn xi-măng, sau đó là tiếng bước chân nặng nề xa dần.
Khu xà lim lại chìm vào yên lặng.
Thành rời khỏi khung cửa, leo lên phản, lúi húi chuẩn bị điếu thuốc lào đầu tiên của buổi sáng.
- Cấp cứu.- anh điềm tĩnh kết luận sự kiện vừa xảy ra.
Tôi hiểu mối quan tâm của Thành đối với người tù cùng vụ với tôi.
- Cậu đoán ra là ai chưa ?
Tôi lắc đầu. Cánh cửa xà lim bên ấy suốt ngày đóng im ỉm, người bên trong không đánh tiếng thì chịu, làm sao biết được anh ta là ai.
Thành là người lính trinh sát tốt. Anh quan sát, anh suy luận, anh liên tưởng, anh đặt giả thuyết trước mỗi hiện tượng và bao giờ cũng vậy, anh có những kết luận khá chắc, khá gần với sự thật.
Ai ở bên ấy nhỉ ? Cha tôi không có hiện tượng bệnh như vậy. Ông đau gan, nhưng khi đau lắm ông chỉ rên khe khẽ, như thể suýt soa. Vả lại, nếu là cha tôi chắc chắn tôi sẽ biết, bằng linh tính, bằng một chi tiết nhỏ nhất. Chỉ cần đi qua cửa xà lim tôi cũng có thể bắt được hơi ông. Ông Ðặng Kim Giang, tôi nhớ, không có bệnh gì, trừ chứng tê thấp nhẹ, họa hoằn tôi mới gặp ông đi cà nhắc. Vậy còn ai nữa trong những nhà cách mạng già cũng bị trong vụ này, mà người ta phải lo lắng để không cho chết tự do ? Ông Bùi Công Trừng ? Ông Ung Văn Khiêm(1) ?
- Liệu anh ta có việc gì không, anh Thành ?
- Chẳng biết nữa ! - Thành thở dài - May mà người ta đến kịp.
- Anh ta bị bệnh gì nhỉ ?
Thành tư lự.
- Hiện tượng này, theo tôi nghĩ, nhiều phần là bệnh tim, hẹp van hay hở van chi đó. Nhồi máu cơ tim không phải, chứng ấy chết trong tích tắc, đợi được đến lúc y sĩ tới thì đã ngoẻo.
Thôi chết, đau tim thì đúng là Phạm Viết rồi ! Thế mà tôi quên bẵng anh.
Tôi và Phạm Viết thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, nhưng giữa chúng tôi không có sự giao du thân tình. Thoạt vào Hỏa Lò Huỳnh Ngự còn hỏi tôi về Phạm Viết, nhưng biết tôi không có quan hệ mật thiết với anh, y hỏi lấy lệ rồi bỏ qua.
- Sao, cậu đã nhận ra ?
- Ðó là Phạm Viết, cán bộ mặt trận Hà Nội.
Tên của Phạm Viết không nói lên điều gì với Thành. Hai người ở hai chiến trường khác nhau, chưa gặp nhau bao giờ.
Phạm Viết là cán bộ Hà Nội từ thời tiền khởi nghĩa. Năm 1946 anh bị thương trong một cuộc chạm súng với địch. Hà Nội bị Pháp chiếm, anh hoạt động nội thành. Hà Nội giải phóng, anh làm phó tổng biên tập một tờ báo hàng ngày trực thuộc thành ủy(2).
Trắng trẻo, nho nhã, học thức, lại biết nhiều ngoại ngữ, trong thời kỳ công nông được đề cao Phạm Viết đương nhiên trở thành con quạ trắng giữa các đồng nghiệp xuất thân từ những thành phần cơ bản (3). Khi nổ ra cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, Phạm Viết còn bị thành kiến hơn nữa bởi những phát biểu chướng tai các vị lãnh đạo.
Cha tôi vốn hiếu khách. Nhà tôi lúc nào cũng có khách, nhất là trong những giai đoạn có biến động xã hội. Người ta đến để hỏi ý kiến, để nhận một lời khuyên, tin rằng cha tôi hiểu biết, có uy tín với các nhà lãnh đạo, được ông Hồ lắng nghe. Người bị oan ức thường đến nhờ cậy cha tôi can thiệp. Ðến nỗi trong thời kỳ Cải cách ruộng đất Trường Chinh nổi đóa gọi cha tôi là cái loa của bọn tư sản và địa chủ, còn đến thời kỳ đấu tranh giữa hai đường lối thì Lê Ðức Thọ gọi ngôi nhà của chúng tôi là câu lạc bộ Pêtôfi(4).
Trong những người thường lui tới với cha tôi thời gian cuối có Phạm Viết.
Phạm Viết kính trọng cha tôi, như kính trọng một bậc tiền bối cách mạng, kính trọng thái độ dũng cảm của ông trong việc bảo vệ chân lý, không sợ cường quyền.
Tôi cũng quý Phạm Viết nhưng không mấy đồng tình với anh về tính cách cực đoan của anh. Trong anh tính xu hướng quá mạnh, mà một khi tính xu hướng quá mạnh, nó thường đẻ ra sự chống lại, chí ít cũng là ý muốn tự vệ ở người đối thoại.
Thời gian căng thẳng của Nghị quyết 9 rồi cũng trôi qua. Ba năm đủ để cho chúng tôi quên đi những nỗi lo âu. Trung Quốc vẫn mải mê đấu tranh chống xét lại, còn ở Việt Nam mọi nỗ lực được dồn cho kháng chiến chống Mỹ. Chúng tôi đã mừng : Ðảng ta thoáng, Ðảng không bắt ép ai phải theo quan điểm Ðảng.
Văn Cao cảnh cáo tôi : hãy coi chừng !
Vài tuần sau khi nổ ra vụ bắt bớ bọn xét lại chúng tôi cảm thấy rõ nanh vuốt Ðảng qua những lời dọa nạt của những tên hãnh tiến. Chúng nghiến răng kèn kẹt :"Phải quét sạch cỏ dại trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội", "Ðảng nhân đạo, nhưng chỉ có giới hạn thôi", "Phải tống chúng nó (bọn xét lại) đi cải tạo hết thì xã hội mới lành mạnh". Những người có ý kiến ngược trong Nghị quyết 9, bị coi là có quan điểm xét lại, bắt đầu lo sợ. Nhưng lo sợ thế thôi, chứ vẫn tin : mình có làm gì đâu mà Ðảng bắt. Nếu không được bảo lưu quan điểm nữa thì thôi, ta chui phắt quan điểm đi là xong, như trong trò tam cúc ấy.
Nói tóm lại, chúng tôi chưa biết sợ vì chúng tôi mắc bệnh đinh ninh. Chúng tôi tin Ðảng quá lâu, quá nhiều. Chúng tôi đinh ninh Ðảng bây giờ đàng hoàng, không bắt bậy bắt bạ, đã bắt là phải có sở cứ. Chắc Hoàng Minh Chính và mấy anh có làm điều gì quá đáng Ðảng mới bắt, cha tôi nghĩ thế, tôi cũng nghĩ thế. Théo Ronco, phóng viên thường trú tờ Nhân Ðạo (Humanité) gặp tôi hỏi về vụ bắt bớ vừa xảy ra, tôi còn nói rằng chưa biết thế nào, cần phải chờ Ðảng thông báo. Ronco lắc đầu, nói anh không hiểu luật pháp Việt Nam - cứ bắt người cái đã, lúc nào Ðảng thích công bố tội trạng thì công bố. Anh cho rằng ở Việt Nam đang diễn ra những gì đã có ở Trung Quốc, tuy kém ồn ào.
Tôi chờ Phạm Viết trở về xà lim 1, nhưng anh không trở về nữa. Không rõ anh bị chuyển đi đâu, điều chắc chắn là không phải đi bệnh viện - nhà cầm quyền không giàu lòng nhân đạo đến thế.
Tôi buồn mất mấy ngày. Tôi nghĩ Phạm Viết đã chết và tôi ân hận trước kia đã có cái nhìn khe khắt đối với anh. Khi Phạm Viết bị bắt, cha tôi nói với mẹ tôi : "Khốn khổ, bệnh nó như thế, nó đến chết trong tù mất thôi." Chị Lan, vợ anh, kể anh bị bắt trong khi đang đau tim nặng, phải điều trị tại bệnh viện.
Cha tôi nói gở. Tôi biết tin Phạm Viết chết vào năm 1972, trong một trại giam ở Thái Nguyên(5). Khi đó tôi đang ở trại Tân Lập. Nghe nói sau khi anh chết gia đình anh được báo tin và chị Lan(6), vợ anh, được phép lên nghĩa trang nhà tù để thắp nén hương tưởng niệm chồng.
Phạm Viết đi khỏi xà lim 1 được ít ngày thì một hôm đi ngang dãy phòng giam cuối hành lang để tới phòng vệ sinh, tôi giật mình nghe thấy tiếng ho trầm trầm của ai đó, rất quen. Tiếng ho không tự nhiên, rõ ràng người ở trong cố dặn ra để chúng tôi chú ý. Hôm sau đi qua tôi nghe người trong phòng ngâm nga :
Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông
Nhất nông nhì sĩ.
Tôi muốn reo lên khi nhận ra tiếng Hồng Sĩ. Chao ôi, chẳng lẽ cả anh nữa, người trước nay tôi vẫn coi là thuộc phía bên kia, cũng bị bắt, cũng là đồng vụ với tôi ? Cuộc đời mới kỳ cục làm sao !
Hồng Sĩ là công an, làm công tác phản gián ở Hải Phòng. Anh ở cùng nhà với nhà văn Bùi Ngọc Tấn tại đường Ðiện Biên phủ. Mỗi lần có việc đến cảng hoặc đi xa hơn, tới mỏ Quảng Ninh, tôi đều ghé thăm Tấn. Tấn lại chơi thân với Hồng Sĩ, đến Tấn tức là đến Hồng Sĩ, cho nên chúng tôi gặp nhau luôn.
Mặc dầu chúng tôi tin Tấn, nhưng với ông bạn trung tá công an của anh chúng tôi vẫn cứ chờn chợn. Khi trò chuyện với Hồng Sĩ tôi vẫn cảnh giác, lựa từng lời mà nói, chọn từng chữ mà dùng, không dám khinh xuất.
Cao to, xương xẩu, nghiện thuốc lá nặng, Hồng Sĩ giống một thầy ký nhiều hơn một cán bộ, hơn nữa, lại là cán bộ công an. Nhưng đó chỉ là bề ngoài. Bùi Ngọc Tấn nhận xét anh là một cán bộ công an giỏi và có học thức nhất thành phố cảng. Tôi gặp Hồng Sĩ là mến anh ngay. Anh ham học hỏi, quan tâm nhiều lĩnh vực, hiểu biết rộng. Trong căn phòng hẹp của gia đình anh có một máy thu thanh cổ lỗ hiệu Phillips, trên cái mặt nhựa vàng xỉn hình bát quái của nó chữ in đã mờ hết, nhưng nó vẫn bắt được các đài xa. Ðêm đêm anh ngồi lì bên cái radio già lão nghe hết BBC đến Tiếng nói Hoa Kỳ, hết Bắc Kinh đến Moskva, nhờ đó anh biết nhiều chuyện chúng tôi không biết trên cái thế giới xa lắc xa lơ bên kia hàng rào tư tưởng.
Hồng Sĩ không giấu giếm quan điểm của anh. Anh nói anh đang chờ xem Ông Cụ định đưa dân mình tới đâu. Nếu Việt Nam rồi sẽ như Trung Quốc thì chán lắm, anh nói, thà chết còn hơn. Cẩn tắc vô áy náy, chúng tôi nghe anh, mặt bất động như những nhân vật trong của tuồng Nô Nhật-bản.
Có lần Hồng Sĩ còn dặn dò tôi hãy cẩn thận trong mối quan hệ với nhà thơ HTK cũng ở Hải Phòng trong thời gian đó :
- Nó vừa báo cáo về cậu đấy. Lên Hà Nội, nghe Tố Hữu phê phán Ðêm Mất Ngủ của cậu xong là nó về đây báo cáo liền. Nó làm thế để duỗi ra vì trước có quan hệ thân mật với cậu hay là muốn lập công tớ không biết.
Tôi chơi với HTK từ thời kháng chiến chống Pháp, ở Liên khu 4. Anh người Huế, ăn nói nhỏ nhẹ dễ thương, công tác trong bộ đội nhiều năm, đảng viên, là nhà thơ đầu tiên được tặng thưởng huân chương Chiến thắng. Năm 1956 anh bị dính vào vụ Nhân văn - Giai phẩm, bị Ðảng thi hành kỷ luật. Oan cho HTK, anh không dính dáng gì với Nhân văn - Giai phẩm cả. Anh bị thi hành kỷ luật do lỏng tay lãnh đạo trong cương vị bí thư ở văn phòng Hội Nhà văn hay Hội Văn nghệ tôi không nhớ. Bị mất việc, anh chuyển về Hải Phòng, công tác tại công đoàn cảng, sống nghèo khổ với một nhà thơ nữ có sẵn một đàn con.
Tôi vẫn đến chơi với HTK. Tôi vẫn thương anh. Nhưng có lần bên ly cà phê hội ngộ tôi đe :
- Bây giờ nhiều thằng bán bạn bán bè lắm. Tớ cũng bị bán, tớ biết, nhưng thông cảm hoàn cảnh của thằng chẳng có gì để bán mới phải bán bạn, tớ không trách. Tớ chỉ trách cái sự bán quá rẻ. Tiếng thế, tớ cũng có giá lắm chứ !
HTK cười ngượng. Tôi kiểm tra, biết việc Hồng Sĩ báo là có thật.
Khi biết tôi vẫn còn e ngại Hồng Sĩ, Kỳ Vân cười hì hì :
- Các cậu lại mắc bệnh Tào Tháo rồi. Thế thì khác gì họ. Tin tớ đi, Hồng Sĩ là thằng bạn tốt lắm đấy.
Nguyên Hồng có vẻ cũng e dè Hồng Sĩ. Anh hay có mặt ở nhà Bùi Ngọc Tấn, và tất nhiên, không thể không tiếp xúc với anh bạn công an có những quan điểm thoải mái. Nguyên Hồng chỉ yên tâm hơn một chút khi thấy Hồng Sĩ không chú ý tới anh nhiều.
Nguyên Hồng hồi ấy cũng rơi vào tâm trạng buồn phiền. Một hôm, Bùi Ngọc Tấn đang đứng dưới tấm bảng lớn bằng cả bức tường để so vé xổ số thì bị Nguyên Hồng bắt gặp. Nguyên Hồng thụi cho Bùi Ngọc Tấn một quả :
- Cái thằng rõ ngu. Ở đời đã chán vạn điều thất vọng mà mày còn bỏ ra hai hào mua thêm một cái, đắt quá !
Bùi Ngọc Tấn đỏ mặt lên.
Ít ngày sau, Bùi Ngọc Tấn bắt quả tang Nguyên Hồng cũng đang so vé số, cũng trước bức tường ấy. Anh khoái lắm, đem câu nói của Nguyên Hồng hôm trước ra đay lại. Nguyên Hồng làm bộ sửng sốt :
- Tao có nói thế à ? Không có lẽ. Ở đời toàn là thất vọng, bỏ ra có hai hào mua được cả một cái hi vọng, rẻ ơi là rẻ !
Bây giờ Hồng Sĩ đã ở đây, bên cạnh tôi. Mọi nghi vấn về anh thế là được giải tỏa.
Thấy tôi buồn buồn, Thành hỏi :
- Cậu nhận ra người ấy à ?
Tôi gật đầu :
- Anh ấy là bạn tôi.
Hồng Sĩ không có con. Vợ chồng anh đón đứa cháu họ về làm con nuôi cho vui cửa vui nhà, tình cảnh tội nghiệp lắm. Bây giờ Hồng Sĩ bị giam, không hiểu vợ con anh xoay xở ra sao ? Lại còn Bùi Ngọc Tấn nữa. Hồng Sĩ bị thì Bùi Ngọc Tấn cũng dám bị lắm. Tôi biết rõ Bùi Ngọc Tấn(7). Anh hiền lành, có chính trị chính em gì đâu.
Nghe tôi kể về Hồng Sĩ, Thành chép miệng :
- Bạn cậu ở cái phòng chết tiệt ấy là khốn nạn lắm đấy. Hôi hám, ẩm ướt vô cùng. Có lần tôi bị họ nhét vào đấy, chịu không nổi. Anh này chắc bướng, hả ?
- Chắc vậy.
Tôi kể cho Thành nghe về Hồng Sĩ. Giả thử Thành là chỉ điểm, có báo cáo với chấp pháp cũng chẳng sao.
Trừ tình cảm quý mến nhau, Hồng Sĩ chẳng có liên quan gì với tôi trên bất cứ phương diện nào. Vả lại, kể chuyện Hồng Sĩ tôi cũng muốn dẫn Thành vào sâu thêm vụ án chúng tôi. Biết đâu sau này anh lại chẳng là người đưa những tin tức cuối cùng của chúng tôi ra ngoài.
Tôi không biết trong lòng Thành đang có nỗi buồn. Anh suy luận : nếu người ta bố trí cho tôi ở chung với anh thì điều đó có thể có nghĩa là vụ án của anh cũng kéo dài luôn - chẳng ai dại gì cho anh ra để mang theo những bí mật về vụ án họ đang bưng bít.
Phòng giam Hồng Sĩ liền vách với phòng vệ sinh, trong đó có chuồng xí lẫn với buồng tắm. Nó rộng rãi, tiện đường đi lối lại, cho nên đám quản giáo, lính gác bên trong Hỏa Lò chốc chốc lại tạt vào tiểu tiện đại tiện, nhát nhát lại bì bõm tắm rửa, thậm chí giặt giũ cũng tới đấy. Hồng Sĩ phải sống trong tiếng đóng cửa, mở cửa, tiếng cười nói oang oang, tiếng nước xối ào ào, trong bầu không khí tanh tưởi, sũng nước suốt ngày đêm.
Tôi không mừng gặp Hồng Sĩ, nhưng sự có mặt của anh ở đây làm tôi thấy bớt cô đơn. Chắc hẳn ở cửa phòng anh có cái lỗ ai khoan sẵn ngó ra ngoài được cho nên lần nào tôi đi qua Hồng Sĩ cũng biết. Nghe tiếng ho làm hiệu của anh mà ấm lòng.
- Cần phải giải thoát cho anh bạn cậu ra khỏi cái xà lim chết tiệt ấy. - Thành nói - Nằm đấy lâu mất sức lắm.
Tôi hiểu - trong óc Thành đã nảy ra một kế.
- Ðồng ý. Nhưng phải làm thế nào ?
- Có gì khó. Nguyên tắc của Công an là không để cho tù cùng một vụ thông cung với nhau...
Kế ấy được.
- Ðể nghĩ thêm một chút xem có hại gì cho anh ấy không đã.
- Sẽ xảy ra hai trường hợp : một là anh bạn chúng ta được chuyển đi nơi khác, nơi nào thì nơi vẫn cứ khá hơn ở đây; hai là chính chúng ta bị chuyển đi, trong trường hợp này số phận anh bạn không tốt lên, mà chính chúng ta có thể gặp cái tồi hơn...
- Với tôi thì đâu cũng vậy, nhưng vì bạn tôi mà anh bị ở chỗ xấu hơn tôi không muốn.
- Xì, đừng nghĩ lôi thôi. Cậu cho tôi là loại người gì ?
Tôi coi anh là bạn, là người anh. Tôi cảm ơn số phận đã cho tôi gặp anh ở đây. Cách cư xử có nhân phẩm của anh làm tôi cảm phục. Nếu tôi có còn cảnh giác một chút thì đó là do tình thế. Ðược tin một con người là một hạnh phúc.
Còn một điều làm tôi ngần ngại : ấy là tôi sợ Hồng Sĩ hiểu lầm tôi nhát gan đã báo cáo với chấp pháp về việc anh đánh tiếng cho tôi. Mà sự hiểu lầm rằng tôi đầu hàng trong thời gian mọi người đang bị dồn ép khai cung có thể gây ra những tai hại không thể lường trước được.
Nhưng tôi không đành lòng không cứu anh. Vạn nhất có bị anh hiểu lầm thì cũng đành chịu vậy, sau này anh sẽ hiểu. Anh đã là công an, anh chẳng đến nỗi non nớt để bị bọn chấp pháp qua mặt.
Tôi thực hiện kế của Thành ngay lần đi cung sau. Tôi nghĩ kế hoạch của mình sẽ chót lọt mà không gây ra sự phiền phức nào vì gần đây tôi chỉ gặp Hoàng chứ không gặp Huỳnh Ngự. Với Huỳnh Ngự mọi việc sẽ phức tạp lên nhiều.
Tôi quyết định nói với Hoàng vào lúc y chăm chú đọc báo. Bao giờ cũng vậy, sau khi trao cho tôi một số câu hỏi để tôi suy nghĩ, Hoàng vùi đầu vào mấy tờ báo anh ta mang theo.
- Tôi không hiểu sao các anh lại bắt Hồng Sĩ ? - đang viết, tôi ngẩng lên hỏi Hoàng - Hồng Sĩ là người của các anh cơ mà ?
Hoàng giật mình :
- Hồng Sĩ nào ?
- Còn Hồng Sĩ nào nữa.
Buông tờ báo, Hoàng chằm chằm nhìn tôi.
- Làm sao anh biết Hồng Sĩ bị bắt ?
- Anh ấy đang ở cùng một khu xà lim với tôi.
- Anh tin chắc như thế ?
- Tôi tin chắc.
- Tại sao ?
- Tôi nghe tiếng ho của anh ấy. Tiếng ho của Hồng Sĩ không lẫn được.
Hoàng tủm tỉm cười. Như một người Việt Nam chính cống, anh ta cười trong bất cứ trường hợp nào.
- Anh loại trừ mọi khả năng nhầm ?
- Tôi loại trừ.
Hoàng không nói gì nữa. Anh ta đẩy bọc thuốc lá sợi về phía tôi.
Tôi cuốn một điếu. Từ khi làm việc với Hoàng, tôi học được cách cuốn thuốc lá của anh ta - trên những ngón tay thành thục điếu thuốc hiện ra tròn trịa, ngay ngắn, đầu bằng đít, đít bằng đầu, như thể cuốn bằng máy. Hoàng không bao giờ hút thuốc bao, anh ta chỉ có thuốc sợi, mà là loại thuốc vụn phế liệu của nhà máy bán cho cán bộ và dân nghèo, không phải phiếu, giá lại rẻ.
- Anh có phân biệt được tiếng tên lửa lúc phóng lên và lúc nó nổ trên trời không ? - Hoàng hỏi.
- Cũng còn tùy ta ở cách dàn phóng bao xa và tên lửa được cho nổ ở độ cao nào, và còn tùy ở khoảng cách giữa lúc nó nổ và tai mình nữa. - tôi bình thản trả lời - Tôi cho rằng tôi phân biệt được, mặc dầu chưa bao giờ tôi đặt ra cho mình một câu hỏi như thế.
Hoàng quay lại với đề tài Hồng Sĩ vào cuối giờ làm việc.
Anh ta nói nếu tôi muốn báo cáo với Ðảng về Hồng Sĩ thì anh ta không phản đối. Tôi cười nhạt, nói tôi không có tinh thần xung phong lập công. Ðáp lại, Hoàng làm thinh.
Không thể nhớ được là ngày hôm đó chúng tôi làm việc gì. Như mọi ngày, Hoàng đặt vài câu hỏi về một nhân vật nào đó, nhiều người tôi không quen, nhưng có gặp, hoặc có nghe tiếng. Tôi trả lời lăng nhăng, cho có lệ, rồi viết những câu lăng nhăng nọ vào giấy, Hoàng đọc lại, tôi ký phía dưới - thế là thành bản cung.
Tôi lấy làm lạ : bọn họ bày ra cái trò vớ vẩn ấy làm gì ? Có lẽ họ có những bài bản độc đáo mà tôi không hiểu. Kiến thức của tôi về nghề mật thám quá nghèo nàn.
Trước khi bị bắt tôi có được đọc một số hồi ký của những người cộng sản Liên Xô bị bắt dưới thời Sta-lin đăng trong tạp chí Novy Mir (Thế Giới Mới) và Neva (Sông Neva). Cung cách bắt người ở bên ấy hoàn toàn giống ở Việt Nam. Nhưng cách hỏi cung thì khác nhiều. Thời Sta-lin, người nào cũng bị tra tấn. Có người sợ quá trong một ngày đêm khai ra hơn một trăm kẻ thù của nhân dân. Không biết có phải vì được dùng nhục hình mà OGPU hoặc NKGB, hoặc NGB(8) dựng vụ tài hơn không, nhưng những vụ lớn đều được đưa ra xét xử tại tòa án. Ðiều đáng khâm phục hệ thống trấn áp của Stalin là trước tòa hết thảy người bị bắt oan đều nhận tội phản Ðảng, làm tay sai cho đế quốc. Dưới triều Lê Duẩn, lũ công sai đã vụng về lại không được phép dùng nhục hình(9), thành thử chủ của chúng lúng túng mãi không biết làm cách nào nặn ra cái họ muốn.
Ngay đêm ấy, Hồng Sĩ bị chuyển đi nơi khác. Chúng tôi nghe tiếng mở cửa phòng anh, tiếng người nói khẽ, giọng giục giã, tiếng dép lẹp kẹp trên sàn xi măng, tiếng ho khan nhiều lần của Hồng Sĩ. Tôi hiểu : anh gửi tôi lời chào từ biệt.
(1) Về sau tôi mới biết hai ông không bị bắt, nhưng bị quản thúc tại gia. Người ta không bắt có lẽ vì không muốn vụ án thêm ầm ĩ vì cả hai là ủy viên Trung ương Ðảng.
(2) Khi Phạm Viết bị bắt , tờ báo mang tên Hà Nội Mới.
(3) Nói xuất thân công nông là nói theo cách thường bấy giờ, chứ giai cấp công nhân Việt Nam vào thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám nhỏ bé đến nỗi hầu như không có mấy cán bộ cách mạng xuất thân từ giai cấp công nhân. Ðặc biệt trong hàng ngũ cán bộ trung cao cấp lại càng hiếm hơn nữa, phần nhiều số cán bộ này thuộc thành phần dân nghèo thành thị và trí thức tiểu tư sản.
(4) "Câu lạc bộ Pêtôfi" là tên gọi của tổ chức những nhà trí thức đấu tranh cho dân chủ, chống lại chế độ độc tài của nhà nước cộng sản tại Hungari vào giữa thập niên 50, lấy tên nhà thơ Sandor Petofi (1823-1856) của Hungari. Từ "Câu lạc bộ Pêtôfi" đã hình thành một phong trào đấu tranh rộng lớn của nhân dân Hungari vì dân chủ và tự do.
(5) Phạm Viết chết trong tù ngày 31.12.1971.
(6) Chị Lan, cán bộ ẹy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, cũng bị bắt, nhưng không bị giam lâu (chị chỉ bị giam hai năm rưỡi), sau đó được tha cho về nuôi con.
(7) Bùi Ngọc Tấn bị bắt, bị giam hình như 5 hoặc 6 năm, nhưng không được Ðảng gộp vào trong đám xét lại ở Trung ương. Anh bị đối xử xấu hơn, vợ con anh ở nhà không được hưởng nửa lương như vợ con tôi, mà bị cắt hoàn toàn.
(8) Những tên tắt của cơ quan mật vụ Liên Xô trong thời kỳ trị vì của Stalin. Khởi đầu bằng cơ quan Cheka (U?y ban đặc biệt) được thành lập sau Cách mạng Tháng Mười, các cơ quan này thực hiện việc trấn áp "các lực lượng phản cách mạng".
(9) Trong nhà tù Việt Nam kể từ Cải cách ruộng đất việc dùng nhục hình bị nghiêm cấm. Ðó là sự thật. Nghe nói sau năm 1975 ở một số trại tù miền Nam tù nhân bị phơi nắng, bị giam trong những công-te-nơ, bị đánh bằng roi, bằng gậy. Ðiều này tôi không rõ.
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 28
Ðêm giữa ban ngày
Chương 28
Mùa hè, Hỏa Lò nóng như thiêu như đốt.
Huỳnh Ngự lấy Hỏa Lò ra dọa tôi không phải không có sở cứ. Từ sáng sớm, những khối bê tông dày và rắn như đá thu nhận lửa trời xích đạo vào lòng, tích tụ nhiệt ở đó, khoảng tầm trưa thì bão hòa. Ðến lúc đó chúng mới phả cái nóng âm ỉ được nhân lên nhiều lần vào xà lim cho tù. Xà lim, như tôi đã tả, kín như bưng. Mùa đông gió không lùa vào được còn đỡ, chứ mùa hè thì chịu không xiết. Mồ hôi tháo ra như tắm.
Thành dùng riêng một khăn mặt để lau mồ hôi, chốc chốc lại phải vắt. Nước từ khăn mặt chảy ra tong tỏng. Cái khăn mặt trắng chẳng bao lâu có màu tím xẫm của quả sim, không hiểu trong mồ hôi người có chất gì mà lại làm khăn biến màu như thế ? Tôi không có khăn mặt, đành mặc cho mồ hôi túa ra đầm đìa, chảy dọc theo người, đọng thành vết dưới chân.
Lúc đầu chúng tôi còn ngượng với nhau, chỉ cởi trần, mặc quần đùi, sau chúng tôi không buồn ngượng nữa, cởi bằng hết, nồng nỗng như người tiền sử, mặc cho đám quản giáo và lính canh khinh khỉnh ngó vào. Dưới con mắt họ, hẳn hai đứa chúng tôi giống hai con vật dạng người bị nhốt trong cũi. Còn chúng tôi thì tự an ủi : cho dù có quần ngoài áo trong, chất người trong chúng mày chửa chắc gì đã bằng chúng tao.
Ðể chống nóng, Thành và tôi quyết định hai người dùng chung một bô, cái thứ hai cọ sạch đi để chứa nước. Tôi nhìn cái bô nhếch nhác, cáu bẩn, đã trải qua không biết bao nhiêu đời tù mà ngán. Thành quả quyết có thể cọ sạch được. Anh hì hục cậy một mẩu gạch ở chân tường phòng vệ sinh, kiên nhẫn dùng nó cọ nhiều lần, cho tới khi cái bô sắt tráng men trở thành trắng tinh. Có cái đựng nước dự trữ rồi lại phải kế hoạch hóa sao cho chặt chẽ để các chất thải trong ngày chỉ được phép đầy ắp cái bô còn lại đúng giờ mở cửa buổi sáng. Ðại tiện phải lần lượt kẻ trước người sau cùng một lúc, cũng vào giờ ấy, có thế mới không phải hít thở lâu không khí hôi thối trong phòng. Xà lim kín lắm, cả tiếng đồng hồ mùi thối mới bay đi hết.
Ấy thế mà cái sáng kiến nhỏ bé ấy lại rất đắc dụng - chúng tôi có thể tự cho phép mình được giội hai ca vào buổi chiều, khi cái nóng Hỏa Lò lên tới đỉnh điểm, người ngứa ngáy không chịu nổi, còn hai ca dành cho buổi tối, trước khi đi ngủ Ðó là sự sang trọng không thể có ở bất kỳ xà lim nào. Chúng tôi giội từ từ, từng giọt nước hiếm hoi lên đầu, cho chúng chảy dần xuống tấm thân nóng rẫy. Nước mát rượi, đi tới đâu biết tới đó, như là nước cải tử hoàn sinh trong cổ tích. Nó cuốn đi mồ hôi bẩn, cuốn theo cả cái mệt mỏi, chảy xuống đến ngón chân đã thành nước nóng. Vì một cái bô không chứa đủ chất thải của hai người trong một ngày, nên thỉnh thoảng chúng tôi phải đi tiểu vào lỗ thoát. Nước giội còn có tác dụng rửa sàn, làm trôi đi phần nước tiểu đọng lại trong lỗ, phòng không bị khai. Nói chung, ở trong hoàn cảnh khó khăn mới biết Thành nhiều sáng kiến.
Giờ đây, ba chục năm trôi qua rồi, vậy mà mỗi lần nhớ lại xà lim Hỏa Lò tôi còn nổi da gà.
Chao ôi là nóng ! Nóng ghê gớm ! Nóng khủng khiếp ! Tưởng chừng cả đất trời đều bốc lửa. Tưởng chừng con người sẽ tan thành hơi sau cơn ngắc ngoải kéo dài. Nhưng sau một ngày vật vã, Hỏa Lò lại dịu đi về đêm, khoảng hai giờ sáng thì dịu hẳn, cho phép lũ tù khốn khổ được hồi sinh trong giấc ngủ mê mệt, không cho chúng chết ngay, để chúng được sống tiếp mà chịu cơn hành hạ hôm sau. Trong đời mình tôi chưa từng gặp một cái nóng nào tương tự, kể cả khi nằm trong những thung lũng lòng chảo vùng núi Việt Bắc, Tây Bắc hoặc giữa khu 4 gió Lào. Viết về cái nóng ở khu 4, Nguyễn Tuân rên rỉ : "Chao ôi, còn có giống đực giống cái nào nghĩ đến nhau trong cái mùa gió Lào nổi lên này!".
Tôi không đủ sức tả cái nóng Hỏa Lò bằng một câu đắt giá. Tôi chỉ còn đủ sức để thở hoặc để cho mình đừng ngừng thở mà thôi.
Trong phòng hỏi cung có một cái quạt tai voi(1), được đặt sau lưng Huỳnh Ngự. Từ cái quạt phả vào mặt tôi không phải gió mát mà không khí nóng. Dù sao mặc lòng, luồng không khí chuyển động chậm chạp cũng giúp cho mồ hôi bay đi được một phần. Trong cái nóng đặc sệt nhày nhụa quyện lấy thân thể, mồ hôi vẫn cứ chảy ròng ròng bên trong quần áo sau khi đã thấm ướt tất cả.
- Nóng quá, hè !
Huỳnh Ngự, chính y, cũng không chịu được cái nóng Hà Nội.
Những ngày cuối y có vẻ ngượng với tôi.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam gây được một cơn hào hứng ầm ĩ suốt mùa xuân, bước vào hè cho thấy nó chẳng phải là cái Huỳnh Ngự hùng hồn tuyên bố. Trên các mặt báo vẫn đỏ chót những bản tổng kết chiến công, không nói gì đến tổn thất.
- Dù sao nó cũng có giá trị một cuộc tổng diễn tập. - tôi an ủi y, nhân câu chuyện vô tình lạc bước vào đề tài chiến tranh - Mà cuộc diễn tập nào không phải trả giá.
Ngành tuyên truyền đã có những phương án giải thích cho mọi trường hợp. Cách ngụy biện của những người cầm chèo lái nghe có vẻ hợp lý, nhưng vô duyên. Nó gợi ta nghĩ tới một anh chàng ba hoa đứng giữa ngưỡng cửa để hùng hồn tiên đoán về ba khả năng : một là y vào, hai là y ra, ba là y đứng tại chỗ. Bất cứ khả năng nào xảy ra y cũng đúng - y đã nói trước cả rồi mà.
Mặt Huỳnh Ngự xị xuống. Nếu là trước kia thể nào y cũng phải lên giọng mắng át, nhưng lần này y nín lặng.
Nói chung, sau nửa năm cãi cọ, dền dứ, mọi sự rồi cũng thành nhàm - y không còn hăng hái đóng vai trò người thay mặt Ðảng để giảng đạo Mác mà y hiểu rõ rằng tôi thuộc hơn y, còn tôi thì cũng bắt đầu mất hào hứng vai trò tên tù bất trị.
Ðể hình dung một bản khai được cả hai bên góp sức mà thành là thế nào, tôi xin lấy một bản làm thí dụ.
Vào khoảng tháng thứ hai tính từ ngày tôi bị bắt, Huỳnh Ngự hỏi tôi :
- Anh biết Trần Minh Việt chứ ?
- Tôi biết.
- Thằng Việt có viết một cương lĩnh cho cái Ðảng tương lai của các anh, anh đọc rồi chứ ?
- Tôi không biết hai cái : cương lĩnh là một, Ðảng tương lai của chúng tôi là hai.
Y nhìn chằm chằm vào mặt tôi :
- Anh biết.
- Tôi không biết.
- Anh thấy cương lĩnh đó thế nào ?
- Rất tiếc, tôi chưa được đọc.
Huỳnh Ngự mỏi mắt. Y nguýt tôi.
- Anh chưa đọc là may cho anh đó. Lại còn rất tiếc. Mấy anh đi Tây về anh nào cũng mắc tật ấy - mở miệng ra là rất tiếc, rất tiếc...
- Tôi thậm chí không biết nó có. - tôi xuê xoa - Nếu có thể, tôi muốn mượn một bản đọc chơi, xem cái cương lĩnh đó ra sao.
Huỳnh Ngự bĩu môi.
- Tui không mần công việc tán phát tài liệu phản động. Hôm nay anh sẽ viết cho tui một bản khai về thằng Trần Minh Việt, hí ?
- Nhưng tôi biết gì về Trần Minh Việt mà khai ?
- Biết tưng nao khai tưng nớ. Tức là những chi anh biết, hoặc nghe người khác nói, chính thằng Minh Việt nói ra, hay là ông già anh nói, thằng Giang hay thằng Chính nói...
Trần Minh Việt là lý thuyết gia số một của bọn xét lại hiện đại, theo cách nhìn của Lê Ðức Thọ và đàn em. Tên này đã cả gan thảo ra một bản cương lĩnh cho một đảng cộng sản mới sẽ ra mắt quốc dân sau khi ban lãnh đạo Ðảng hiện tại bị lật đổ.
Tôi không giấu Huỳnh Ngự. Tôi không biết gì về cái gọi là cương lĩnh" ấy. Ra tù, tôi mới được đọc nó, do một người bạn Trần Minh Việt cất giấu được. Chính Trần Minh Việt thì lại không còn bản nào trong tay. Hóa ra tập tài liệu đánh máy dày chưa tới hai chục trang mà Huỳnh Ngự nói tới chẳng phải cương lĩnh cương liếc chi hết, mà chỉ là những suy nghĩ của Trần Minh Việt về con đường phát triển đất nước và vai trò Ðảng trong tình hình mới, với những đề xuất tâm huyết của anh với Trung ương. Khốn nạn cho Trần Minh Việt ! Anh đâu có muốn phá Ðảng, anh đóng góp ý kiến để Ðảng của anh vững mạnh hơn đấy chứ.
Minh Việt thế mà ngây thơ. Ðến những cán bộ thường như chúng tôi cũng biết rằng trong xã hội Việt Nam một việc làm như thế là một lỗi lầm không thể tha thứ. Là đảng viên, cho dù trong cấp ủy cao, anh cũng không được phép tỏ ra hiểu biết hơn lãnh đạo. Nếu anh có ý kiến hay hơn Trung ương chẳng hóa ra anh giỏi hơn Trung ương sao ? Mà anh đã dám coi mình giỏi hơn Trung ương thì nhất định anh phải coi thường Trung ương, trong đầu anh nhất định phải nảy ra ý nghĩ thay thế Trung ương rồi. Lê Duẩn có cho bắt anh cũng phải.
- Thế nào, còn suy nghĩ chi nữa ? Hay còn e dè, còn nể nang thằng Chính, thằng Giang(2) ? Nói để anh hay, trong khi anh cứ khăng khăng bảo vệ chúng hắn thì chẳng có thằng cha mô bảo vệ anh hớt, chúng hắn khai cho anh cả ký giấy rồi nè...
Cách giáo dục cán bộ công an của Ðảng thực hay - tiên học căm thù, hậu học mạ lị. Các cụ dạy tiên học lễ, hậu học văn là sai toét tòe loe rồi. Cái thứ con cháu hơn tổ tiên thế này là phúc đức cho nòi giống hay điềm báo vận mạt của nó ?
- Tui nhắc lại : chỉ có qua những lời khai anh mới chứng tỏ được lòng trung thành của anh đối với Ðảng. - Huỳnh Ngự ân cần khuyên nhủ - Việc Ðảng tha anh hay giữ anh lâu dài phụ thuộc ở anh, ở thái độ anh thể hiện trong những bản khai nầy đó.
Thì khai.
Tôi viết về Trần Minh Việt những lời nhạt thếch, rằng tôi có gặp anh vài lần ở nhà tôi. Tôi kể con cà con kê chúng tôi nói với nhau chuyện gì (tất nhiên, không phải chuyện đường lối chống Ðảng). Qua lời anh kể tôi mới biết anh đã học ở trường Ðảng cao cấp Liên Xô, nhưng khi bắt đầu có chuyện tranh chấp ý thức hệ trong phong trào cộng sản quốc tế Trần Minh Việt trở về Việt Nam, chứ không ở lại Liên Xô như Nguyễn Minh Cần, Lê Vinh Quốc, Văn Doãn...vv (biết rồi, khổ lắm, nói mãi !).
Thế là xong một bản khai.
Làm việc với Huỳnh Ngự riết rồi tôi đâm ra khoái khai cung. Nó trở thành một trò chơi của đời tù và tôi cho trí tưởng tượng của tôi tha hồ bay bổng. Chẳng hạn, tôi bịa ra những cuộc gặp gỡ không hề có trong thời gian học ở trường điện ảnh với những điệp viên thượng thặng để lấy tài liệu cho những kịch bản phim tình báo tương lai, bốc láo rằng khi thực tập làm phim tài liệu tôi được đi xem những phương tiện chiến tranh Liên Xô mới sản xuất, những máy bay cất cánh từ những xe tải, những tên lửa tự tìm mục tiêu... Tôi cảm ơn Herbert Wells(3) đã giúp tôi trong những sáng tác bất đắc dĩ này. Huỳnh Ngự khoái những chuyện bịa của tôi lắm. Nhưng khi y mon men tới đề tài tôi làm tình báo thì tôi cài số lùi :"Tôi chưa nghe ai nói tới chuyện tuyển mộ tôi cả..."
Cuối cùng rồi cũng đến một ngày Hoàng trịnh trọng đặt lên bàn tập hồ sơ dày cộp.
- Ðây là những gì anh đã khai.
Tôi ngạc nhiên : trời đất quỷ thần ơi, tôi đã viết cho chúng nhiều đến thế kia ư ? Chúng sẽ làm gì với những trang giấy vô tích sự ấy nhỉ ? Thật vậy, chúng sẽ làm được gì ?
Hoàng bảo tôi ký vào mấy tờ giấy. Ký xong, tôi hỏi bằng giọng làm ra vui vẻ :
- Theo tôi hiểu, giai đoạn hỏi cung đến đây là kết thúc, có phải không ạ ? Sau đó là tòa án ?
Hoàng gập tập hồ sơ lại, cười khẩy :
- Anh nghĩ thế nào cũng được. Việc đời, anh Hiên ạ, nó chẳng đơn giản như ta muốn.
- Chết chửa, có nghĩa là đến bây giờ vẫn chưa xong ?
- Xong thế nào được. Chúng tôi còn phải hỏi nữa, chừng nào vụ án chưa kết thúc. Cứ coi là đã qua một giai đoạn, ta tạm sơ kết cái đã. Là một vụ án có nhiều người, nhiều việc, trong sự hỏi cung không tránh khỏi tình trạng người này nói khác người kia, người nọ xong trước người kia. Cũng là chuyện dễ hiểu, phải không ? Việc điều tra chỉ thật sự kết thúc chừng nào cơ quan an ninh làm xong với người cuối cùng. Anh hiểu chứ ?
- Tôi không hiểu. - tôi lạnh lùng - Trong bất kỳ xã hội văn minh nào cũng có những quy định về thời hạn giam giữ trong khi điều tra, tức là chỉ có thể giam người trong một thời hạn nhất định mà thôi...
Hoàng cười mũi :
- Anh có ý muốn nói ở những nước tư sản chứ gì ? Anh cho rằng xã hội ta không văn minh ? Anh tỉnh lại đi, anh Hiên, anh đang ở một nước xã hội chủ nghĩa kia mà. Nghĩa là ở một nước có đảng cộng sản cầm quyền, lấy chuyên chính vô sản làm sợi chỉ hồng xuyên tâm(4) trong sự nghiệp bảo vệ cách mạng. Hoàn toàn không phải là nơi có chế độ đại nghị. Ðó là những khái niệm khác nhau, khác về cơ bản, về chất, mong anh đừng nhầm lẫn.
- Cho dù có áp dụng chuyên chính vô sản thì điều đó, theo tôi nghĩ, cũng không hề có nghĩa Nhà nước vô sản không cần đến pháp luật.
Hoàng cười hi hí.
- Tùy anh. Tôi cho rằng anh nhầm. Nói trắng ra là anh có quan niệm huyễn hoặc về chủ nghĩa cộng sản. Lại là chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản châu Á nữa. Tôi thật lòng không muốn anh phải trả giá cho sự nhầm lẫn đó.
Tôi không hiểu Hoàng. Anh ta xử sự lắm lúc không khác gì một tên cuồng tín, ấy thế mà đôi khi lại tương ra một nốt nhạc ngang phè trong bài ca xưng tụng Ðảng chí tôn mà dân chúng nhất nhất phải thuộc lòng.
Một trong những điều khó hiểu đối với tôi hồi ấy là tại sao, vì lẽ gì những nhà cách mạng Việt Nam thuộc thế hệ cha chú tôi, lúc đó còn đông đúc, lại chịu chấp nhận một mô hình xã hội quỷ quái như vậy ?
Tôi quan niệm trong xã hội xã hội chủ nghĩa Ðảng cộng sản chỉ có thể đóng vai trò lãnh đạo thông qua trung giới là hệ thống pháp luật do nó đề xướng, được nhân dân dân chủ bàn bạc, dân chủ chấp nhận. Khi nói về Nhà nước tư sản chính Mác cũng chỉ ra rằng Nhà nước này bảo vệ quyền tư hữu tài sản, tức là bảo vệ quyền lợi của những tầng lớp hữu sản, thông qua trung giới pháp luật, chứ giai cấp tư sản không trực tiếp quản lý xã hội bằng những biện pháp hành chính. Sự lãnh đạo bằng chỉ thị và nghị quyết của Ðảng cộng sản trong tinh thần đồng nhất Ðảng với pháp luật là một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng. Chính nó, chứ không phải cái gì khác, sẽ phá tan Ðảng.
Không biết tôi đúng hay không đúng, đúng được bao nhiêu, trong ý nghĩ rằng thế hệ cha chú tôi bị sự sùng bái Hồ Chí Minh làm cho mù quáng, tước bỏ nơi họ tinh thần độc lập suy nghĩ. Rất nhiều hậu quả tồi tệ mà một cuộc cách mạng trong sáng về mục đích đem lại cho dân tộc là do sùng bái cá nhân.
Sau Cách mạng Tháng Tám uy tín của ông Hồ Chí Minh vút lên như diều gặp gió. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến uy tín của ông còn lên cao hơn nữa. Ông không phải chỉ là "cha già dân tộc" của Việt Nam, mà còn là đấng chí thánh của phong trào giải phóng dân tộc.
Người ta sẵn sàng chết cho Bác Hồ, đồng hóa Bác với Tổ quốc. Các chiến sĩ xung trận hô lớn "Vì Ðảng, vì Bác, tiến lên !". Những đảng viên trong lễ kết nạp giơ tay tuyên thệ trước chân dung ông đặt trang trọng trên "bàn thờ Tổ quốc" trên nền đảng kỳ. Hiện tượng sùng bái này, nói cho đúng, một thời có tác dụng tốt, nó kích thích quần chúng tham gia kháng chiến chống Pháp. Không có nó cuộc kháng chiến chống Pháp khó lòng đạt được những thành công như nó đã đạt được.
Ðiều đó không lạ. Quần chúng châu Á cần có minh chủ trong mọi cuộc nổi dậy. Không có minh chủ thì không có phong trào là hiện tượng đặc thù và phổ biến của những quốc gia lạc hậu. Nhu cầu vô thức này có cội rễ từ hình thái xã hội bầy đàn, xã hội bộ lạc thời nguyên sơ. Bắt đầu bằng lời phân trần khiêm tốn tại quảng trường Nhà hát lớn thành phố Hà Nội năm 1946 đầy biến động và khó khăn : "Hồ Chí Minh thề không bao giờ bán nước", khi đồng bào còn chưa biết ông là ai, đến lúc uy tín đã được thiết lập, ông liền xưng "Bác" với mọi người rất tự nhiên, kể cả với những người bằng vai phải lứa hoặc không bằng vai phải lứa.
Khởi đầu cách xưng hô này là cách ông xưng với chúng tôi, những đứa con các đồng chí gần gụi ông. Sau đó nó được dùng như một bí danh, rồi mới có ý nghĩa ngôi thứ. Nhà văn Sơn Tùng trong một số văn phẩm đã miêu tả sai, như thể cha tôi và các cán bộ Ðảng gần ông Hồ đều kêu Bác xưng cháu với ông. Sự thực không phải như vậy. Những ngày Cách mạng Tháng Tám các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trần Ðình Long, Bùi Lâm... đều gọi ông Hồ bằng anh xưng tôi.
Từ ngữ ngẫm ra quan trọng lắm. Khi có nhiều người đã cháu cháu bác bác với ông Hồ rồi thì ông tưởng mình là bác thật, những người xưng cháu cũng sẵn sàng khoanh tay vâng dạ bề trên. Thế mới biết một từ dùng không cẩn thận có thể đẻ ra tai họa.
Cách tôn vinh lãnh tụ theo lối gia trưởng tồn tại cả trong hàng ngũ Khmer Ðỏ. Pol Pot, kẻ lãnh đạo cuộc diệt chủng không tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại cũng được đồng bọn gọi là Om (Bác), là Puk (Cha)(5).
Tôi nhiều lần được chứng kiến ông Hồ nói chuyện với quần chúng như thế nào. Trong bộ quần áo kaki giản dị, có khi là bộ áo cánh lụa nâu, ông không có gì cách biệt với những người ông tới thăm họ, thăm với tình thân, chứ không phải tới để thị sát, với tư cách bề trên. Ông có giọng nói ấm áp, hơi trầm, âm lượng không lớn nhưng vang xa, với những lời dễ hiểu đối với quần chúng lao động, người nghe chủ yếu của ông. Ông không phải nhà hùng biện, nhưng tiếng tăm về lòng yêu nước của ông, địa vị chủ tịch nước của ông, cách nói dễ hiểu của ông đối với dân chúng đã làm cho ông trở thành nhà hùng biện kiệt xuất của thời đại, vượt xa những nhà hùng biện tôi đã được nghe như Trần Văn Giàu, Nguyễn Sơn, Dương Bạch Mai... Chỉ có một điều không sao hiểu được, nó làm tôi khó chịu là : khi ông Hồ Chí Minh nói chuyện với dân chúng, trong đám đông cuồng nhiệt hoan hô lãnh tụ có cả những cụ già cao tuổi, thế mà ông vẫn xưng Bác tự nhiên như không. Chẳng lẽ một người nổi tiếng khiêm nhường như ông lại có thể phạm phải một khuyết điểm không tha thứ được đối với chuẩn mực giao tiếp châu Á ?
Chỉ một lần tôi nghe thấy ông Hồ xưng em - đó là với nhà cách mạng lão thành Ðinh Chương Dương. Hôm ấy dân chúng Hà Nội từ biệt ông Hồ trước khi ông lên đường sang Pháp (1946). Trước Bắc bộ phủ là cả một rừng cờ và hoa bên trên biển người xao động, trong tiếng nhạc binh trầm hùng, tiếng hô khẩu hiệu vang trời. Tôi đi cùng bác Ðinh. Bác Ðinh lúc bấy giờ đã yếu lắm, phải tựa vào vai tôi mà bước. Vì đến muộn, chúng tôi chật vật mới len được qua đám đông để vào Bắc bộ phủ. Nhìn thấy bác Ðinh từ xa, bác Hồ lật đật từ trên thềm cao chạy xuống, ân cần đỡ tay ông :" Bác tới thăm em làm chi, khổ quá, bác chưa được khỏe mà". Trả lời câu hỏi thăm của bác Ðinh, bác Hồ(6) ưỡn ngực ra, cười lớn tiếng : "Hồi nầy em khá nhiều rồi, bác ạ".
Ðến bây giờ chẳng còn ai không biết tác giả Trần Dân Tiên của cuốn Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ chủ tịch là chính Hồ Chí Minh. Trong lịch sử thế giới có lẽ đây là lần đầu tiên và duy nhất nhân vật đứng đầu quốc gia tự viết tiểu sử mình với những lời lẽ ca ngợi chính mình. Những lời ca tụng Bác Hồ trong tập ký sự Vừa Ði Ðường Vừa Kể Chuyện ký tên T. Lan, những bài báo ký tên T.L., A.G. và nhiều tên khác nữa cũng chẳng có thể đổ cho người khác được. Ông Hồ tự ca tụng, chuyện đó là thật. Một việc làm thừa, hơn thế, ngớ ngẩn - không cần đến những bài báo ấy uy tín của Hồ Chí Minh chẳng những đã tràn ngập mà còn vượt ra ngoài bờ cõi.
Thể chế tổng tài châu Á có nguồn gốc từ chế độ thị tộc. Vua coi dân như con là quan niệm chỉ có ở châu Á. Châu Âu từ xưa không có cái đó. Châu Mỹ lại càng không. Nói gì vua, một ông phủ, một ông huyện cũng dám vỗ ngực xưng "dân chi phụ mẫu"(7) trong cái lãnh địa nhỏ bé mà họ cai trị kia mà.
Không kể những thiên tài như Leonardo da Vinci, Herbert George Wells(8), trí tưởng tượng của con người ta nông cạn lắm, hạn hẹp lắm - nó không có tài tưởng tượng ra cái chưa hề có. Hình ảnh mà trí tưởng tượng sản sinh ra bao giờ cũng là cái bóng của hiện thực. Nền kiến trúc tư bản, khi xã hội tư bản vừa hình thành, mang dáng dấp lâu đài, cung điện của các chúa đất phong kiến. Những người cộng sản Việt Nam hình dung chế độ xã hội chủ nghĩa qua hình dạng cái quốc gia nửa phong kiến nửa thuộc địa là nước Việt Nam thời thuộc Pháp. Trong sự kế thừa vô thức này xã hội Việt Nam ngày nay có mang nhiều nét trật tự nửa phong kiến nửa thuộc địa âu cũng là lẽ thường tình.
Ðáng trách nhất là những người cộng sản thế hệ đầu tiên, nổi tiếng kiên cường trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, lại không có đủ dũng khí để quát lên : "Không được phép !" khi ban lãnh đạo Ðảng tự tiện đặt mình lên địa vị "dân chi phụ mẫu", cắt xén những quyền dân chủ mà Cách mạng Tháng Tám đã mang lại. Còn sau đó, như theo đà trượt, nền dân chủ thiếu tháng cứ phăng phăng tụt dốc không sao hãm lại được nữa.
Xin quay lại chuyện Hỏa Lò.
Trong buổi "sơ kết" nói trên Hoàng tỏ ra vui vẻ. Anh ta mời tôi uống trà, mời tôi hút thuốc vấn, rồi khúc khích cười như có điều vui thú trong lòng.
- Cơ quan an ninh bày tỏ lòng khâm phục anh. - Hoàng nói, giọng bỡn cợt - Hơn nửa năm làm việc, tốn bao nhiêu thời giờ, cả giấy mực nữa, cũng tốn lắm, vậy mà chúng tôi không biết hơn được điều gì ngoài những điều chúng tôi đã biết rồi.
Tôi nhìn vào mắt Hoàng, nhưng anh ta tránh cái nhìn của tôi, vờ lúi húi soạn giấy má trên bàn. Ðợi cho Hoàng thu dọn xong, tôi nói :
- Cơ quan an ninh có muốn biết câu trả lời của tôi cho nhận xét đó không ?
- Anh cứ nói.
- Trước hết, tôi xin phép được nghi ngờ cái gọi là những điều cơ quan an ninh đã biết rồi. Mặc dầu đối với tôi chuyện các anh biết cái gì rồi không phải chuyện khó hiểu.
Hoàng ngạc nhiên.
- Anh nói rõ thêm đi.
Tôi cười :
- Chúng tôi và các anh có những điểm tương đồng về nghề nghiệp. Những điều được gọi là cơ quan an ninh đã biết rồi, theo tôi nghĩ, thuộc một lĩnh vực mà trong nghề văn chúng tôi người ta đặt tên là hư cấu, nói theo cách dân dã là bịa.
Hoàng ngẩng phắt lên, nhưng trong cái nhìn của anh ta, tôi không thấy có vẻ gì là giận dữ.
- Anh Hiên ạ, tôi thật lòng khuyên anh nên cẩn thận trong lời ăn tiếng nói. Chúng ta đang ở Việt Nam. Tôi thật lòng lo lắng cho anh.
Anh ta gọi quản giáo đưa tôi về.
Tôi đi lững thững trên con đường đã đi không biết bao nhiêu lần. Hoàng nói thế là có ý gì ? Phải chăng anh ta muốn báo cho tôi biết vụ án còn lâu mới kết thúc, và cuộc trấn áp là không khoan nhượng ?
Nghe tiếng mở cửa, Thành nhỏm dậy. Mặt anh nhớn nhác.
- Mấy giờ rồi ?
- Chắc gần 11 giờ.
- Mình ngủ say quá.
Tôi ghé ngồi bên anh, lặng lẽ quan sát.
- Anh nói dối tôi làm gì ?
- Sao cậu lại nói thế ?
- Bởi vì tôi quý anh. Tôi không thích nghe anh nói dối.
Anh nói, vẻ sượng sùng.
- Mình ngủ mà.
Tôi cười :
- Anh không ngủ. Người ngủ say mắt bao giờ cũng kéo những tia đỏ, là một. Anh gối trên bọc quần áo, trên cùng là cái quần, dải rút to thế này thể nào cũng phải hằn trên má anh mà lại không thấy vết hằn đâu, là hai. Ngủ say mà nằm ngiêng như anh thường nằm má bên dưới phải đỏ hơn má trên, là ba. Ðủ chưa ?
Thành cụp mắt xuống.
- Anh cũng bị gọi đi cung chứ gì ?
Thành lẳng lặng gật đầu.
- Và họ hỏi anh về tôi, phải không ?
Thành lại cụp mắt xuống. Tôi thở dài.
- Tôi sẽ không hỏi anh chuyện họ hỏi anh những gì về tôi. Chẳng cần hỏi tôi cũng biết họ hỏi gì. Tôi đã nói thẳng với họ những điều tôi bằng lòng nói. Còn những chuyện gì tôi không muốn nói thì đó là việc của tôi với họ. Họ chẳng có thể kiếm chác được gì hơn ở anh. Vả lại, tôi tin anh.
Thành im lặng.
Tuy vậy, con đỉa nghi ngờ bám chặt, sống dai. Giữa hai người phải mất một thời gian mới có lại được không khí thoải mái trước đây. Không khí nghi kỵ lẫn nhau là không khí mỗi người Việt Nam hít thở. Việc Thành giấu tôi chuyện anh đi cung làm tôi buồn. Tôi lại bị nỗi cô đơn đè nặng.
Nếu như thời gian đầu tiên tôi có ý muốn tự sát thì càng về sau ý chí phải sống sót bằng được càng mạnh mẽ. Tôi phải sống sót để nói lại cho đồng bào tôi nghe về thực chất cái xã hội trong đó con người Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền tự do tối thiểu mà mỗi công dân bình thường của thế giới bình thường phải có.
Kiệt lực qua thập điện khổ đau
Tôi lử lả tiến công vào cái Ác
Trong đêm giữa ban ngày
Vũ khí trong tay
Chỉ một ngọn bút cùn thay lưỡi mác
Tôi ngã xuống trong lốc bụi chiến trường,
Phút hấp hối còn mang mang nghe tiếng nhạc.
Thì ra máu của tim mình
nhỏ xuống đất cằn
Và đất lên giọng hát
Bài hát của niềm tin
Từ trái tim tôi rách nát.
Tôi nằm dài, nghĩ vẩn vơ, đầu trống rỗng. Tôi viết mấy vần tự sự này tại địa ngục Hỏa Lò, mùa hè năm 1968. Tôi làm thơ lăng nhăng, khi buồn. Mỗi bài thơ ghi lại một nỗi niềm, một mẩu ký ức.
Những ngày sau đó tôi và Thành ít nói chuyện với nhau hơn. Có một cục sạn rơi vào trong mối quan hệ thân tình giữa hai con người đau khổ.
Rồi trong một đêm không ngủ được Thành kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện anh buộc phải nhận lời công an để theo dõi tôi như thế nào. Anh kể khó nhọc, giọng đứt quãng, với vẻ mặt đau khổ.
Câu chuyện nhạt phèo, không đáng kể lại. Không phải chỉ ở Việt Nam mới có chuyện này, ở đâu cũng vậy, dù ở nước Mỹ tư bản, nước Ðức phát-xít hay ở Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, để trả công cho việc làm chỉ điểm người ta tung ra vô số lời hứa, cái nào cũng hấp dẫn đối với người tù thiếu thốn đủ thứ. Anh sẽ được nhận thư vợ nhiều hơn, được nhận tiếp tế nhiều hơn, thường xuyên hơn. Người ta còn hứa sẽ giảm án cho anh nếu anh lập công lớn. Tuy nhiên, để người đảng viên trước kia trong Thành khỏi tủi, người ta kêu gọi anh hãy nhớ tới trách nhiệm trước Ðảng, cố gắng lập công dâng Ðảng.
- Tôi xấu hổ phải nghe những lời dụ dỗ ấy. - Thành ngậm ngùi - Nhưng chẳng có cách nào khác...
Tôi an ủi anh :
- Tôi hiểu. ê địa vị anh tôi cũng không làm khác được.
- Cậu hiểu cho tôi thì tôi mừng.
Anh rơm rớm nước mắt.
Chúng tôi có những vị thế khác nhau, cách người ta đối xử với chúng tôi cũng khác nhau. Với tôi, chắc chắn bọn Huỳnh Ngự không dám đặt vấn đề như thế, cho dù chúng rất muốn.
Trời dịu dần hay là tôi đã thích nghi với cái nóng Hỏa Lò không rõ, nhưng tôi không còn thấy khó chịu đựng như trước.
Những buổi đi cung thưa dần rồi tạnh hẳn, cứ như thể không có một vụ án nào hết, mà chỉ có một hình phạt. Theo ý thích của ông chủ.
(1) Thứ quạt chế tạo tại Liên Xô, cánh bằng cao su, không có lồng sắt bên ngoài.
(2) Chỉ thiếu tướng Ðặng Kim Giang. Khi Huỳnh Ngự gọi thằng Giang là nói Ðặng Kim Giang, còn Nguyễn Kiến Giang thì y gọi là thằng Kiến Giang.
(3) Herbert George Wells (1866-1946), nhà viết truyện viễn tưởng lỗi lạc, tác giả của những cuốn Máy Thời Gian, Cuộc Chiến Tranh Giữa Hai Thế Giới, Người Tàng Hình...vv
(4) Cái tập hợp từ ngớ ngẩn này có xuất xứ từ Trung Quốc, trở thành câu cửa miệng ở các cán bộ tuyên giáo.
(5) Pol Pot, còn có tên là Saloth Sar, nhà lãnh đạo cộng sản Kampuchea. Sau chiến thắng của phe Khmer Ðỏ tại Kampuchea năm 1975 trở thành thủ tướng. Dưới quyền Pol Pot 3 triệu người Kampuchea đã bị hành quyết và chết vì bệnh tật, đói khổ.
(6) Tôi vẫn dùng từ bác Hồ (không viết hoa) trong đoạn kể này vì vào những năm đó tôi không có tình cảm nào khác với ông Hồ Chí Minh ngoài tình cảm yêu mến và tôn kính.
(7) Cha mẹ dân.
(8) Leonardo da Vinci : nhà khoa học, nghệ sĩ vĩ đại trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật thời đại ông (1452-1519). Hai chục năm trước khi Christopher Colombus "tìm ra" châu Mỹ trong cuộc viễn thám bằng tàu buồm, Vinci đã phác họa nguyên lý tàu ngầm. Herbert George Wells (1866-1946), nhà văn, triết gia chính trị, tác giả nhiều truyện viễn tưởng : Máy Thời Gian, Chiến Tranh Hai Thế Giới, Người Tàng Hình...
::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 29
Ðêm giữa ban ngày
Chương 29
Tôi mơ hồ cảm thấy thời gian ở Hỏa Lò đã kết thúc.
Có những dấu hiệu không rõ rệt của một sự thay đổi, không rõ là cái gì nhưng đúng là thay đổi, trong động thái của đám cán bộ chấp pháp, mà đám này thì bao giờ cũng vậy - kín như bưng. Chẳng hạn, trong những lần hỏi cung thưa thớt vào thời gian cuối tôi chỉ gặp toàn nhân viên cấp dưới của Huỳnh Ngự, thoạt trông cũng biết là mới vào nghề, hoặc được chuyển từ quân đội qua. Những người này nhìn tôi như những bác sĩ tập sự nhìn con thỏ trong phòng thí nghiệm, không tình cảm mà cũng chẳng hằn thù.
Huỳnh Ngự và Hoàng biến đi đâu không biết. Khi đưa tôi đi cung, những biện pháp bảo mật không còn được tuân thủ nghiêm ngặt như trước, thậm chí chểnh mảng. Cán bộ quản giáo có lần gặp bạn giữa đường dừng lại nói chuyện bỏ mặc tôi tự đi một quãng xa mà không cần áp sát từng bước. Rõ ràng họ không còn lo tôi chạm trán với người cùng vụ. Nói chung, đó là sự lỏng lẻo. Ðiều này chỉ có thể giải thích bằng việc những tên xét lại hiện đại không còn ở Hỏa Lò nữa.
- Có thể người ta bắt đầu từ từ giải quyết vụ cậu chăng ?
Thành đưa ra một giả thuyết.
Bầu không khí nghi kỵ đã nhạt. Thành thuyết phục được tôi rằng anh không bao giờ làm chỉ điểm.
- Cũng không loại trừ khả năng đó. - tôi nói - Chúng tôi có tội gì đâu.
- Vấn đề không phải ở chỗ các cậu có tội hay không có tội. - Thành cười mũi - Vấn đề bây giờ là thả các cậu ra bằng cách nào ?
Tôi thấy anh tỉnh táo. Ít nhất cũng hơn tôi.
- Nhưng nếu thả, tôi nghĩ người ta sẽ thả tôi trước, chứ không phải thả những cán bộ to trước.
Thành gật gù :
- Có lý !
Nói thì nói thế chứ tôi cũng chẳng chờ đợi. Tôi lì ra rồi. Tôi chờ bất cứ cái gì khác, trừ lòng tốt của Ðảng.
Rồi đến một hôm, tôi đang nằm thì nghe có tiếng động khẽ ở le judas. Nhòm ra thì thấy Hoàng. Nhìn thấy anh ta, tim tôi đập rộn. Chưa bao giờ tôi thấy cán bộ chấp pháp vào xà lim. Chắc có chuyện gì quan trọng.
Trong óc tôi thoáng nhanh ý nghĩ về một chuyện không may. Hay là cha tôi...? í nghĩ ấy làm tôi bủn nhủn chân tay.
Nhìn quanh, Hoàng lấy ngón tay trỏ ngoắc ngoắc tôi rồi ngập ngừng thì thào :
- Tôi đến để từ biệt anh...
Vừa nói Hoàng vừa đưa mắt về phía Thành. Thành đang ngủ say hoặc giả vờ ngủ say. Tôi ra hiệu không có gì đáng ngại.
- Anh đi công tác ?
- Không, tôi vẫn ở Hà Nội... - Hoàng ngập ngừng - Nhưng tôi không được làm việc với anh nữa.
- Tức là... ?
- Nói cho rõ hơn : người ta không cho tôi làm việc với anh nữa.
- Họ cho rằng anh không được việc ?
- Ðại khái là như vậy.
- Tôi muốn bắt tay anh, nhưng ô cửa hẹp quá.
- Tôi mang đến biếu anh chút quà.
Hoàng móc mọi túi, lấy ra bốn bao Ðiện Biên.
- Cảm ơn anh, nhưng dạo này tôi quen không hút rồi, không có thuốc không sao.
- Anh đừng nghĩ đây là caisse noire(1) của Công an. - mặt thoáng buồn, Hoàng nói -Không phải đâu. Ðây là tiền của tôi.
- Thế thì xin cảm ơn anh. Tôi nghĩ không sai về anh. Cho tôi gửi lời thăm chị và các cháu.
Hoàng đút từng bao thuốc qua khe cửa.
- Cảm ơn anh. Hi vọng chúng ta sẽ còn gặp lại nhau.
Tôi giơ mấy ngón tay vẫy Hoàng :
- Tôi tin như vậy.
Tỉnh dậy, Thành không hỏi tôi một câu về mấy bao thuốc lá. Chúng tôi lẳng lặng đốt mỗi người một điếu, nhàn tản nằm nhả khói lên trần.
- Tôi thấy cái chuyện tha không có đâu. Ba la phiêu lắm. - tôi nói - Có một cái gì khác kia. Tôi thấy nóng ruột.
- Cậu nghĩ là cái gì ?
- Cũng không rõ. Có thể là chuyển trại.
Thành nhăn trán, suy nghĩ. Rồi nhỏm dậy :
- Có thể lắm. Trong tù, trực giác, hay linh tính, rất quan trọng. Nếu cậu linh cảm thấy sắp phải đi khỏi đây thì ta cứ sẵn sàng là hơn.
- Có gì mà chuẩn bị ? - tôi thờ ơ - Ði đâu bây giờ với tôi cũng thế mà thôi. Chỉ tiếc anh em mình không được ở cùng nhau nữa.
- Chưa chắc gì cậu sẽ được ở trại chung. - Nhiều phần vẫn là ở xà lim. Tôi sẽ cho cậu con dao mang đi. Trong xà lim con dao là vật thiết yếu, không có nó không được.
- Cho tôi rồi anh lấy gì dùng ?
- Tôi còn một con nữa. Tôi rồi, nhưng chưa mài.
- Trại giam bình thường cũng có xà lim chứ ?
- Sao không. Có điều xà lim trại chung dùng để cùm tù kỷ luật, chứ không phải xà lim giam cứu. Nhưng nghe nói có trại chỉ toàn xà lim giam cứu không thôi, không có khu ở chung. Lại còn có trại toàn xà lim bí mật, không biết giam thứ tù này mà khi kẻng đưa cơm nổi lên thì cả tù lẫn người đưa cơm đều phải trùm túi vải đen lên đầu, chỉ hở có hai con mắt, không ai được nhìn thấy ai, không ai được biết ai. Quản giáo không được phép nói với tù, tù không được phép nói với quản giáo. Muốn nói gì phải viết ra giấy.
Chắc chúng tôi ở trại đó quá. Rõ ràng người ta muốn giấu chúng tôi, không cho biết chúng tôi ở đâu, đến nỗi gia đình cũng không được gặp. Cái chuyện này thật lạ. Cứ như thể không còn một chính quyền nữa, mà một sơn trại, trong đó Lê Duẩn là đầu lĩnh.
Nói cho tôi biết về cái trại hũ nút đó hẳn Thành cũng nghĩ thế. Tính chu đáo, anh chuẩn bị tư tưởng cho tôi để tôi khỏi bị đột ngột.
Sau này, khi đã qua mấy trại, rốt cuộc tôi cũng chưa tới cái trại mà Thành nói. Chắc nó là cái trại huyền thoại, chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng phong phú của những người tù giàu sợ hãi. Biết đâu cái trại Thành nói lại chả có thật. Mọi sự đều có thể trên đất nước mà từ việc nhỏ tới việc lớn đều không công khai. Tính bí mật, tính âm mưu là đặc điểm của mọi nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thành mổ một chỗ kín đáo trong áo bông của tôi, luồn con dao vào đó.
Bóp đi bóp lại cái áo bông vài lần, Thành hài lòng :
- Thế này chúng nó không khám ra đâu.
Giờ đây anh không còn giữ gìn với tôi nữa. Cách gọi chúng nó tạo ra cảm giác ngang hàng giả tạo giữa chúng tôi và bọn cai ngục.
Thành tỉ mẩn xẻ thức ăn gia đình gửi vào làm hai phần bằng nhau, cho từng thứ vào bao nylon lành, thắt nút thật chặt để tránh ẩm, một nửa để trong bọc quần áo của tôi, nửa còn lại để trong bọc quần áo của anh. Anh dặn tôi đi đâu cũng phải cẩn thận trước hết với chuột và kiến, hai kẻ thù thường trực của người tù nghèo khổ.
- Thế là tạm ổn.
Hoàn tất việc chuẩn bị cho tôi, anh nói. Vẻ hài lòng hiện lên mặt.
Giờ thì bất thình lình tôi có bị đưa đi nơi khác cũng không còn là chuyện đáng ngại.
Của cải người tù xà lim có một giá trị trong đời thường không được biết đến, không thể tưởng tượng ra. Một mảnh giẻ, một cái đinh rỉ, một cái túi nylon thủng cũng là quý. Không phải người ta dễ dàng chia xẻ cho nhau. Thế mà Thành không tiếc tôi một chút gì.
Lòng tôi nao nao nghĩ tới ngày phải xa Thành. Anh tốt với tôi chẳng khác nào người anh lo cho đứa em. Cầu Trời cho hai anh em không phải xa nhau cho tới khi cả hai cùng thoát khỏi chốn này ! Than ôi, đó là điều không thể có, bởi vì chúng tôi không cùng vụ, chúng tôi sẽ ra khỏi đây, nếu chúng tôi còn sống để ra được, vào những thời điểm khác nhau.
Sau hơn nửa năm chung sống, từ chỗ nghi ngờ nhau tới chỗ tin nhau, Thành đã hiểu tôi. Không những thế, anh còn giống tôi ở cách nhìn xã hội hiện tại. Nếu chúng tôi quen nhau ở ngoài kia chắc chắn Thành phải là một người trong "nhóm xét lại chống Ðảng". Không cần ai tuyên truyền anh tư tưởng xét lại, mà tự anh sẽ xét lại cả anh, xét lại cả Ðảng, cả chủ nghĩa Mác mà một thời anh tin theo. Anh nhìn đời bằng cặp mắt tỉnh táo. Trong anh không có chỗ cho niềm tin mù quáng. Thực ra, trong tâm thức anh đã hết là cộng sản từ lâu. Anh còn xét lại hơn tôi nhiều.
Thành có tư cách đáng trọng. Vẻ ngoài hiền lành, nhưng anh thuộc loại người không chịu khom lưng uốn gối. Cung cách ứng xử làm tôi hiểu lầm anh những ngày đầu sống trong xà lim, tưởng anh khiếp nhược trước bọn quản giáo, thực ra chỉ là trò tiêu khiển của anh. Anh muốn kiểm tra khả năng tự kiềm chế, anh huấn luyện nó, và cũng là cách để giết thời gian.
Hách không phải không đọc được ý nghĩ của anh. Một lần thấy anh khúm núm vâng dạ, y nguýt dài :"Này, dẹp cái trò ấy đi nhá. Tôi biết thừa các anh là thế nào, trong bụng các anh ấy à, các anh coi tôi bằng mẻ. Ai chả biết ở ngoài kia các anh hơn tôi, nhưng đây là Hỏa Lò, là trại cải tạo, ở đây tôi hơn đứt các anh".
Trong mấy ngày chờ đợi cuộc chia tay mà trực giác mách bảo, Thành ít nói hẳn. Anh ngồi bó gối, trong tư thế lần đầu tôi gặp anh, đắm mình trong suy tưởng. Thỉnh thoảng, chợt nhớ ra điều cần dặn tôi, anh mới rũ mình khỏi giấc mơ.
- Nhớ phải tập luyện tay chân luôn, kẻo ở lâu trong xà lim bị teo cơ đấy.
- Khi đi cung, trên đường gặp cái gì dùng được là phải nhặt, có lúc sẽ cần đến. - anh dặn thêm, vào một hôm khác.
- Mưu ma chước quỷ nhiều nhất là ở trong tù. Nhớ cho kỹ điều này. Lúc nào cũng phải cảnh giác. Bạn ở trong tù là của hiếm, hiếm lắm. Cần nhất đừng có hấp tấp. Không nên tâm sự với ai. Nghĩ thật kỹ rồi hãy nói, suy tính thật lung rồi hãy làm.
Mặc dầu có chuẩn bị, cuộc chia tay với Thành diễn ra vào lúc tôi không ngờ nhất.
Cửa xà lim mở ra trước giờ ăn sáng. Người bước vào không phải là quản giáo, mà là một chấp pháp tôi đã gặp nhiều lần.
- Anh thu xếp đồ đoàn.
Y nói nhẹ nhàng. Ðó là một người tầm thước, mặt tròn, hiền lành, cử chỉ chậm rãi và điềm đạm, hẳn do số phận trớ trêu mới rơi vào đám chấp pháp.
Thành sững sờ. Ðột nhiên, anh ôm choàng lấy tôi. Tôi cũng ôm cứng lấy anh, nước mắt ứa ra.
- Chân cứng đá mềm nhá ! - Thành nghẹn ngào - Vững vàng nhá !
Viên chấp pháp không can thiệp vào cuộc chia tay của chúng tôi. Anh ta ngạc nhiên, thậm chí có vẻ hơi xúc động, nhưng giả bộ nhìn đi chỗ khác.
Tôi rời xà lim 1, lòng nặng chĩu.
Hôm ấy là 27 tháng 7 năm 1968. Thế là tôi ở Hỏa Lò đã được bảy tháng. Sáng tinh mơ, vừa tỉnh giấc Thành còn bảo tôi : "Mình hôm nay phải ăn vận tử tế. Lỡ có phái đoàn nào đến úy lạo chăng ?".
"Ai đến ? Mà úy lạo cái gì ?", tôi hỏi. Thành cười hì hì :"Ngày thương binh liệt sĩ mà ! Mình cũng là thương binh".
Trong một phòng hỏi cung Lê Thanh Tài đã đợi tôi. Y ngồi chễm chệ trong chiếc ghế bành bọc vải dày đã sờn, lò so lòi ra ở vài chỗ, hai chân bắt chéo.
Nhân vật này không lạ. Tôi đã gặp y vài lần tại phòng hỏi cung. Tôi đoán y cũng đang hỏi cung ai đó, biết Huỳnh Ngự đang hỏi tôi về người mà y đang hỏi thì y đến nghe. Cao to, hùng hổ, cử chỉ phóng đãng, nói năng thô lỗ - tất cả chứng tỏ y có nguồn gốc gần cống rãnh hơn sách vở. Tôi biết tên y do Hoàng một hôm hỏi tôi xem có phải bữa trước tôi làm việc với ông Lê Thanh Tài không.
- Có một người ngồi nghe bên cạnh chấp pháp Ngự, tôi không được giới thiệu. Ông ta là ai vậy ?
- Anh biết làm gì ? Cũng đại loại như ông Ngự.
Như vậy, y cũng là cục phó.
- Ðâu ra những thứ này ? - Lê Thanh Tài trịch thượng hỏi.
Ðó là một gói bánh quy, một gói bánh xốp, một ít ruốc thịt, mấy cái kẹo và ba bao Ðiện Biên. Tôi lo lắng cho Hoàng. Nếu theo dõi Thành, chúng sẽ biết vợ anh chỉ gửi Tam Ðảo(2), chúng sẽ cật vấn về ba bao Ðiện Biên kia.
- Người tù ở cùng cho tôi.
Y gườm gườm nhìn tôi.
- Giỏi, giỏi, chuẩn bị sẵn cả.
Tôi nhún vai.
- Sao anh biết anh sẽ chuyển đi nơi khác ? Ai cho anh biết ?
Tôi không trả lời. Lê Thanh Tài nhắc lại, giọng giận dữ. "Thằng khốn kiếp này không quen thấy có người không sợ nó", tôi nghĩ.
- Tôi hỏi, anh phải trả lời ! Ai cho anh biết ?
- Chẳng ai cho tôi biết gì hết.
- Những thứ này ở đâu ra ?
- Anh bạn tù cho tôi. Quà của gia đình anh ấy. - tôi điềm tĩnh trả lời - Anh ấy xẻ ra cho mỗi người một phần. Ai hết sớm thì nhịn.
Y rời mắt khỏi đám đồ.
- Nó tốt với anh gớm, hả ? Anh Quỳnh, xem lại thái độ chính trị thằng đó nghe.
- Dạ.
Viên chấp pháp ném trở lại các thứ vừa khám vào túi vải, cũng Thành khâu cho tôi.
Cuộc khám xét kết thúc ở đó. Lê Thanh Tài phẩy tay cho qua. Chất chuyên chính vô sản ở viên cục phó này xem ra còn ghê gớm hơn ở Huỳnh Ngự một bậc. Chỉ vì cho bạn tù mấy cái bánh mà người cho đã bị coi là có thái độ chính trị xấu.
- Các anh đưa tôi đi đâu ? - tôi hỏi Lê Thanh Tài.
Y lừ mắt. Tôi nhắc lại.
- Không được hỏi. Ði đâu rồi khắc biết.
Ðể củng cố cho câu nói, y hất hàm ra hiệu cho một tên Công an trẻ, vận thường phục. Tên này đưa còng tay ra. Một tiếng cách gọn, cái khóa đã ngậm chặt cổ tay tôi. Nó đã cũ lắm, đầy vết sứt sẹo và han rỉ, nhưng hàng chữ khắc chìm Fabriqué en France(3) vẫn còn đọc được.
Chiếc com-măng-ca vọt ra khỏi cổng Hỏa Lò. Ðã quen với không khí vắng lặng của xà lim, tôi bàng hoàng rơi vào cái ồn ào kinh khủng của Hà Nội đời thường. Nhất là khi xe chạy qua chợ Cửa Nam. Chao ôi, tưởng chừng cả Hà Nội mà tôi biết bỗng dưng chìm ngập trong một nghìn thứ tiếng ồn đinh tai nhức óc. Tôi đi chợ Cửa Nam nhiều lần, chưa bao giờ tôi thấy nó đông đúc đến thế, ồn ào đến thế !
Thành phố hiện ra trước mắt tôi cũng lạ, như thể nó già hẳn đi bởi những bức tường mốc thếch đã bợt hết vôi.
Qua chợ Cửa Nam, xe rẽ vào đường Nguyễn Thái Học.
Tôi ngoái nhìn ngôi nhà số 65 quen thuộc ngay đầu đường. Tưởng chừng nghe thấy cả tiếng dương cầm bay ra từ căn phòng trên gác của Ðỗ Nhuận. Tôi muốn được thấy Nguyễn Sáng đứng trên ban công nhìn xuống như anh thường đứng, dáng mệt mỏi khi rời giá vẽ. Cửa ra ban công khép chặt. Chẳng lẽ Nguyễn Sáng còn ngủ ? Giờ này, theo lệ thường, bữa sáng ở cà phê Lâm đã xong rồi, Nguyễn Sáng đã về nhà rồi. Hay anh đi đâu vắng ? Khi xe đi qua hẳn, tôi chợt thấy Văn Giáo lộc ngộc dắt xe đạp ra cổng, chiếc mũ lá trên đầu. Theo sau anh là Nguyễn Tư Nghiêm ưu tư không cần biết đến thế giới.
Một ngọn triều hồi ức tràn ngập tâm hồn tôi. Không hiểu Nguyễn Sáng đã lấy vợ chưa ? Ðường vợ con anh vất vả, chỉ có đường sáng tác là nhẹ nhàng - dưới cây cọ của anh những bức tranh hình thành như nó có sẵn, chỉ cần anh lên tiếng gọi là nó nằm lên mặt vải. Khác hẳn Nguyễn Sáng, Văn Giáo vẽ tranh vất vả, bằng cơ bắp và mồ hôi.
Nhớ một đêm rừng Việt Bắc Văn Giáo lòng khòng bưng đĩa đèn soi cho khán giả xem tranh mình. Dầu cọ sôi lên trong đĩa, rớt xuống tay, làm anh bị bỏng, nhưng Văn Giáo không để rơi cái đĩa. Tranh Văn Giáo không được đồng nghiệp đánh giá cao, nhưng trong các cuộc triển lãm tôi thường gặp tranh anh. Chúng bao giờ cũng phản ảnh kịp thời những phong trào do Ðảng đề ra.
Lão họa sĩ Nguyễn Phan Chánh(4) giờ này hẳn đang uống trà. Sau một lần trót dại trao thân gửi phận cho hiện thực xã hội chủ nghĩa vào đầu những năm 60, cụ quyết định trở lại với mình, với thời Ô ăn quan của một Nguyễn Phan Chánh đích thực. Tôi xin phép cụ cho in tranh trên báo ảnh. Cụ tiếp tôi thân ái nhưng tranh thì không đưa :"Gần đây chẳng có bức nào là tôi cả, cứ như có thằng nào vẽ rồi ký tên mình vậy. Ðể khi khác !".
Người của thế giới nội tâm, Nguyễn Tư Nghiêm sáng tác không thèm nhìn nhõm đến sự tồn tại của những nhà phê bình hội họa quan phương, những chuyên viên mua tranh của SUNHASABA(5), như thể không có họ trên đời. Bức tranh "Kiều tắm đêm" của Nguyễn Tư Nghiêm được Nguyễn Tuân khoái đến nỗi xem xong ông phải đạp xe khắp Hà Nội để tri hô cho thiên hạ đến mà chiêm ngưỡng. Nhưng chẳng mấy ai được chiêm ngưỡng - Nguyễn Tư Nghiêm không thích tiếp khách. Anh vẽ tranh không để khoe, không để bán, anh tạo ra cái Ðẹp chỉ cốt được sống một mình với nó.
Tôi có một kỷ niệm khó quên với Nguyễn Sáng. Một hôm anh tìm tôi từ sáng sớm, đứng dưới đường gọi vọng lên :"Lại nhà mình ăn cuốn". Tôi biết Nguyễn Sáng cần gì - anh đang lên cơn cô đơn. Những lúc như vậy anh cần có một người ở bên, bất kể người đó là ai. Buổi sáng hôm ấy tôi là kẻ được chọn, hoặc anh không tóm được ai khác.
Món anh rủ tôi đến ăn hóa ra là món cuốn mạo danh. Chúng tôi ngồi bên con nghê sứ mất trán không biết Nguyễn Sáng nhặt được ở đâu. Anh hào phóng rót rượu. Rượu còn cả vò. Trời đất, cuốn gì thế này ? Không rau thơm, không tôm, không thịt ba chỉ, độc có bún suông cuộn trong rau diếp. Nguyễn Sáng luôn miệng khoe tài pha nước chấm :"Mình mà pha nước chấm thì khỏi chê đi, khó tính đến như Nguyễn Tuân cũng phải ưng". Chừng thấy tôi không hào hứng hơn, anh rủ tôi bỏ cuốn đấy đi kiếm con gà. "Mình còn nhiều gạo lắm, ta mang đổi. Gà luộc, nhắm rượu là nhất rồi !", anh dỗ dành.
Trong hũ gạo của anh, chính là con nghê sứ bị vỡ đầu với nụ cười ngây độn, đúng là còn đầy ắp. Nguyễn Sáng ăn ngày một bữa ở cà-phê Lâm - hai lát bánh mì chấm trứng ốp-la và một cà phê đen, thế là đủ. Ăn ký sổ, trả bằng tranh. Gạo tiêu chuẩn vì thế mà thừa.
Chúng tôi vớ được một bà nhà quê có bu gà đứng ngơ ngẩn bên bức tường có hàng chữ "Cấm đái bậy" to đùng ngay dưới khẩu hiệu "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Nguyễn Sáng bỗng luống cuống, bỗng ì ra, không dám tới gần bà ta. "Này, cậu đổi đi". "Mình đã đi đổi gà lần nào đâu", tôi thoái thác. Mặc kệ, Nguyễn Sáng cứ dúi bọc gạo vào tay tôi :"Nhà báo mua bán là phải hơn họa sĩ. Không được cãi. A lê, đổi".
Người đàn bà bán gà nhìn thấy chúng tôi đùn đẩy cho nhau, cười toe toét :"Lại đây, các cậu lại đây tôi đổi cho". Tôi chìa bọc gạo. Bà ta nhìn tôi thông cảm, ao gạo xong, tóm cổ một con gà tơ lôi tuột nó lên đưa cho "hai cậu". Cuộc đổi chác thành công, không có bóng công an phòng thuế nào xuất hiện để cản trở. "Hai cậu" ồn ào ra về, lòng phấn chấn.
Con gà ngon, vừa đủ mềm, vừa đủ dai, nói chung là tuyệt. Ngà ngà say Nguyễn Sáng kể cho tôi nghe chuyện tình của anh. Ðó là câu chuyện buồn, nhưng nó lý giải được cái đẹp tôi bắt gặp trong mấy bức tranh mới đây của anh. Anh yêu say đắm một cô gái có đôi mắt đen cách xa nhau, rất lạ, làm cho sắc đẹp của cô trở thành hoang dã. Bố cô gái không bằng lòng ."Tưởng nó định lấy ai, hóa ra thằng Sáng cánh ta !", ông nói với bè bạn, cố ý cho con gái nghe thấy. Cô đau lòng rời xa anh. Trời cho anh tình yêu đối với cái Ðẹp, nhưng bớt lại của anh tình yêu đối với một người.
Chiếc com-măng-ca phóng nhanh về phía Sơn Tây.
(1) Caisse noire = quỹ đen, tiếng Pháp.
(2) Tam Ðảo là loại thuốc lá rẻ hơn thuốc lá Ðiện Biên, rất phổ cập trong thời kỳ ấy. Thuốc sang nhất là thuốc Thăng Long.
(3) Chế tạo tại Pháp .
(4) Nguyễn Phan Chánh (1892- ), tốt nghiệp Trường cao dẳng mỹ thuật Hà Nội khóa đầu tiên năm 1931. Nổi tiếng về tranh lụa.
(5) Công ty xuất nhập khẩu sách báo, người đặt hàng và mua tranh nhiều nhất, theo giá nhà nước.
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 30
Ðêm giữa ban ngày
Chương 30
Nơi tôi bị đưa tới là một trại giam quân đội. Bề ngoài nó giống hệt một trại lính. Giống đến nỗi khi chiếc GAZ(1) từ từ leo lên dốc để qua cái cổng chào với hai vòng quân hiệu hai bên tôi còn nghĩ : hay người ta đưa chúng tôi đến đây để giáo dục rồi thả ?
Những nạn nhân Cải cách ruộng đất kể lại rằng sau thời gian chịu cảnh đấu tố và giam cầm, cho tới ngày Ðảng tuyên bố sửa sai rồi họ vẫn chưa được về nhà ngay, mà còn bị gom lại một chỗ để học tập chính sách cái đã. Hay chuyện xảy ra trong Cải cách ruộng đất bây giờ lại lặp lại ?
Tôi nhanh chóng xác định được vị trí trại giam : nó nằm trong vùng bán sơn địa khô cằn với rất nhiều đồi sắn, nương khoai ở phía Nam huyện Bất Bạt. Ðầu thập niên 60 tôi đã tới vùng này vài lần. Ðất ở đây bạc màu vèo vèo, nhanh như cam tẩu mã, bởi sự trục lợi hối hả của dân chúng ít học dưới sự dắt dẫn của những nhà lãnh đạo khinh học. Thưa thớt giữa thiên nhiên cằn cỗi mấy con đường đất đỏ bị cả Trời lẫn người bỏ quên nằm vắt vẻo qua những đồi trọc khô khốc, nơi có những mỏ đá ong khổng lồ. Những vồng bụi đỏ cuồn cuộn bốc lên đàng sau những xe tải họa hoằn, mãi không chịu lắng xuống.
Lê Thanh Tài sai lính tháo còng cho tôi rồi hối hả đi đâu đó, bỏ mặc tôi cả tiếng đồng hồ trong phòng thường trực trống rỗng. Trên cái bàn gỗ mộc bụi bặm và mốc thếch lăn lóc mấy tờ Quân đội Nhân dân nhàu nát. Tôi vồ lấy chúng, đọc ngấu nghiến để rồi ngồi thừ ra, thất vọng - tin tức trong báo chẳng nói với tôi điều gì mới.
Thời gian không đứng về phía chúng tôi. Những tờ báo giống y như những tờ này tôi đọc hàng ngày, một năm trước. Chúng sẽ giống y như thế một năm sau, hoặc nhiều năm sau. Thế giới đã mắc bệnh bại liệt.
Tôi lơ đãng nhìn ra sân trại. Ngoài mấy người lính quân phục xộc xệch, áo phanh rộng ngoài quần, lê bước uể oải trong nắng trưa rực lửa, chồng tranh nứa nặng chĩu trên đầu, quanh đây chẳng còn bóng ai khác.
Sau những ngày dằng dặc ở xà lim Hỏa Lò việc chuyển trại làm tôi khấp khởi mừng thầm. Thế là xong, tôi nghĩ, cuối cùng rồi cái sự điên khùng này đã kết thúc. Tôi sẽ được gặp cha tôi và những người cùng vụ.
Viên y sĩ công an trông nom sức khoẻ chúng tôi ở Hỏa Lò xuất hiện, vẫy tôi theo y.
Bước ra khỏi căn phòng, tôi rơi tõm vào biển lửa của nắng trưa. Tháng bảy thường là tháng nóng nhất trong năm, ở vùng bán sơn địa cái nóng còn được nhân lên thêm vài lần nữa.
Tôi thở hồng hộc. Tôi yếu quá rồi. Mà có mang vác gì nặng cho cam. Tòn ten mỗn hai bộ quần áo với cái chăn len vợ mới được phép gửi vào cho những mùa đông sau này (ai biết được sẽ còn bao nhiêu mùa đông nữa). Thế mà mệt.
Chúng tôi bước thấp bước cao theo một lối mòn lổn nhổn sỏi đá nằm men bức tường gạch chạy dài không dứt trong lau sậy um tùm. Bức tường không thẳng, nó uốn khúc nhấp nhô theo địa mạo triền đồi. Tới một cánh cổng bằng sắt tấm hoen rỉ, tên y sĩ mở khóa, dẫn tôi vào một cái sân nhỏ khô cong, không có lấy một ngọn cỏ. Bên trong cái sân này là một ngôi nhà bé xíu, kiểu nhà ở bình thường với kích thước mini.
Cửa vào được mở ra.
Thì ra vẫn nó, vẫn là xà lim.
Tôi nhầm trại giam với trại lính là phải - từ ngoài đường, chỗ cổng doanh trại nhìn vào không thể thấy được khu vực này(2). Hi vọng được ở chung với các bạn đồng vụ tắt ngấm.
Thế mới biết cái sự giáo dục của Ðảng ăn sâu thật ! Vừa mới thấy cái cổng trại lính tôi đã nghĩ ngay đến chuyện được Ðảng cho về với vợ con. Tội nghiệp, tôi bao giờ cũng nghĩ về Ðảng tốt hơn nó có trong thực tế.
Xà lim mới làm tôi nhớ đến trai phòng các tu sĩ dòng Châu Sơn. Cũng chiếc giường gỗ mộc nằm trơ bên trong bốn bức tường trần trụi, cũng cái trần thấp cuốn thành vòm, chứ không phải trần tứ giác phẳng như ở Hỏa Lò. Chỉ thiếu một thập giá bằng gỗ mun lạnh lẽo trên mảng tường hậu và một tu sĩ khổ hạnh xác ve với chiếc thừng đay thay thắt lưng. Tôi đã tới Nho Quan, Ninh Bình vào đầu năm 1947, nơi có những kho muối lớn dự trữ cho cuộc kháng chiến của Công ty Nam Tiến(3). Không xa những kho muối này, nằm kín đáo trong một khu rừng ẩm ướt, là tu viện của những tu sĩ có lời nguyền câm nín. Quấn mình trong tấm áo choàng đen khâu tay, bạc phếch và rách rưới, những tu sĩ tiếp tôi bằng nụ cười mơ hồ trên gương mặt bất động. Như những cái bóng, họ lặng lẽ đi lại thấp thoáng trong u tịch rừng già. Ðêm đêm họ ngồi xếp bằng tròn quay mặt vào tường hậu, lặng lẽ cầu nguyện. Tôi ngạc nhiên - như thế mà là sống ư ? Mà sống như thế để làm gì kia chứ ?
Thế mà giờ đây tôi cũng sống như họ. Cô đơn. Khổ hạnh. Còn tệ hơn họ, tôi không được phép bước ra khỏi cái trai phòng đặc biệt, bị bỏ vào chứ không phải tự nguyện đến ở, không được phép gặp đồng loại, không được phép để đồng loại nhìn thấy mình.
Sau hết, và là cái khác cơ bản giữa chúng tôi - họ có Chúa, còn tôi thì không.
Tôi mệt mỏi quăng đồ đạc lên phản. Xà lim là xà lim, cho dù có vài nét phân biệt. Tính về diện tích nó còn nhỏ hơn xà lim Hỏa Lò. So với tiêu chuẩn của thực dân thì ở đây đã xảy ra một sự cắt xén được đặt tên là cải tiến. Cái phản gỗ mộc bào cẩu thả còn lởm xởm sơ gỗ được gắn chết vào bốn trụ xi măng. Không thấy mặt cái cùm muôn thuở. Gầm phản là một hố sâu - một cái hầm trú ẩn.
Tôi trườn lên phản, nằm nghĩ vẩn vơ. Sự vắng bóng cái cùm sắt chứng tỏ nhà tù bộ đội có khác nhà tù công an. Sự hiện diện của cái hầm trú ẩn chứng tỏ người ta còn tình Một điểm khác nữa, rất bình thường, nhưng cũng cứ phải coi như ưu điểm của trại này là cái cửa sổ. Nó không phải là le judas đặc trưng cho xà lim, mà to gần bằng cửa sổ nhà nông thôn, với những song sắt to hơn, được gắn chặt vào bê tông kiên cố.
Thoạt đầu, nhìn nơi ở mới thậm chí tôi còn hài lòng, còn tự hào về cái xà lim của trại giam quân đội. Dù sao nó cũng không đến nỗi tệ hại như xà lim Hỏa Lò.
Quan sát kỹ thì mới thấy mình nhầm. Nó không phải là một cái xà lim bình thường mà là một sáng tạo độc đáo trong nghề làm chuồng người. Căn nhà nhỏ gồm bốn căn phòng được thiết kế giống hệt nhau dưới một mái chung, cửa mỗi phòng quay về một hướng. ê chỗ tiếp giáp giữa hai xà lim mọc ra một mảng tường tứ giác với một đường vát thượng thu hạ thếch chia ngôi nhà thành bốn ô riêng biệt, để người bên này không nhìn thấy người bên kia, kể cả khi quản giáo cho ra ngoài tắm rửa. ê Hỏa Lò xà lim nằm thành hai dãy dài trong hành lang, một người ho khan cả dãy nghe thấy. Trong một nhà-xà lim Bất Bạt chỉ có bốn phòng, nếu ba phòng kia không có người thì cảm giác cô đơn thật kinh khủng.
Mỗi ngôi nhà lại bị bao quanh bởi bốn bức tường con kiến không cao và không kiên cố, làm thành một khu biệt giam, với một cánh cổng bằng tôn mỏng xộc xệch. Hết thảy những khu nhà như thế (không biết là bao nhiêu) bị bọc trong một bức tường cao chạy chung quanh, có vọng gác ở mỗi cạnh(4).
Cánh cửa xà lim vừa khép lại là tôi rơi vào một vùng tĩnh lặng hoàn toàn. Ngoài tiếng gió chạy trên đồi, không còn tiếng động nào khác trong buổi trưa hè.
Hôm sau, tôi thấy có tiếng động ở xà lim bên cạnh. Thì ra bên đó có người. Hai hôm sau, tôi giật mình nghe người đó gọi tôi :
- Bông hồng vàng ! Bông hồng vàng(5) !
- Ai đó ?
Tôi chồm ra cửa sổ, khẽ kêu lên.
- Bác sĩ ! Bác sĩ đây ! - người đó trả lời.
- Chào bạn ! - tôi trả lời thận trọng
- Tất-cả-ở-đây-hết !
Người xưng là bác sĩ lại kêu lên. Giọng anh ta lần này có nhỏ hơn, nhưng vẫn bị phát hiện. Mấy tên lính gác rầm rập chạy đến. Tôi nghe tiếng cãi vã, tiếng mở cửa, đóng cửa xầm xầm.
Tôi căng óc, cố đoán xem người xưng bác sĩ kia là ai, mà không nghĩ ra.
Trong số bạn làm nghề y chỉ có bác sĩ Phan là thân với tôi hơn cả. Nếu là anh thì tôi nhận ra ngay. Tôi quen giọng Phan lắm. Nhưng làm sao anh bị bắt được ? Anh nổi tiếng phi chính trị. Hơn thế, anh còn là ân nhân của một số cán bộ cỡ kha khá. Những người này sẽ bảo vệ anh, ít nhất thì cũng vì anh cần cho họ. Vài người trong bọn họ đã nhờ anh chữa bệnh phong tình. Anh không thích cái xã hội nhố nhăng với một lũ Cẩm Bá Nhạ(6), một lũ hủi, ở trên đầu. Mà với hủi thì tốt nhất là không dây. Anh biết giữ mồm giữ miệng cho nên đám công an theo dõi trí thức vẫn đinh ninh Phan là một bác sĩ giỏi nhưng mít đặc về chính trị.
Nhưng đến cả trung tá công an Hồng Sĩ mà cũng còn bị bắt thì Phan cũng có thể bị bắt lắm. Dù sao anh cũng có tội. Anh có tội chơi thân với tôi, giờ đã là tên phản cách mạng, và Văn Cao, tên đầu sỏ Nhân văn - Giai phẩm. Theo ngôn từ công an, chơi thân với nhau gọi là liên quan.
Tôi hi vọng Văn Cao bình an vô sự. Thời gian cuối này Văn Cao rất yếu. Anh khó lòng chịu đựng cuộc sống tù ngục. Anh đã may mắn một lần. Lần thứ hai có thể anh không may mắn nữa. Trong thời kỳ xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm người ta nhiều lần ám chỉ Văn Cao khi nói tới số phận Ðinh Linh, Trần Xí-hà(7). Người ta nói chuyện bên Tàu để nhắn nhủ anh coi chừng, rất có thể anh sẽ như họ đấy. Sau vụ Nhân văn - Giai phẩm Văn Cao dìm nỗi buồn trong rượu. Lần nào gặp anh tôi cũng thấy anh trong trạng thái ngà ngà, chai rượu ở trước mặt. Anh kể cho tôi nghe anh đã bị bọn công an giả dạng lưu manh gây sự rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với anh mấy lần trong những quán rượu bình dân. Từ đó chị Băng không cho chồng ra khỏi nhà nữa. Chị bấm bụng mua rượu về cho anh, tuy vẫn luôn miệng nhắc nhở anh đừng uống nhiều. Chị biết để anh uống như thế anh sẽ chết vì rượu, nhưng anh còn chết nhanh hơn nếu phải sống với nỗi buồn.
Huỳnh Ngự cũng có lần hỏi tôi về Phan. Y đưa ra một danh sách những tên sách, truyện ngắn, hỏi tôi có biết những tác phẩm này không ? Tôi giật mình : đó chính là tên những truyện Phan dự định viết.
Làm sao chúng có được danh sách này ? Phan đã bị bắt, đã khai ? Hay chúng đột nhập vào nhà lục lọi khi anh đi vắng ?
Hồi đó Phan chưa phải là người viết văn có tên tuổi. Anh yêu văn học bằng một tình yêu lười biếng. Sau khi đặt tên cho một tác phẩm tương lai, anh viết nguệch ngoạc vài ba trang rồi vứt đấy. Những trang bản thảo vương vãi khắp nơi trong căn phòng lộn xộn, trong đó có nhiều trang tuyệt vời. Lần nào Phan cũng tự hẹn với mình sẽ viết tiếp vào một lúc khác. Tiếc rằng cái lúc khác ấy hiếm khi xảy ra. Tôi giật mình vì riêng những cái tên sách không thôi trong danh sách Huỳnh Ngự cho tôi xem đã không ổn rồi, đã bốc mùi bất mãn rồi.
Ðáp lại câu hỏi của Huỳnh Ngự, tôi chỉ cười.
- Anh cười chi ?
- Phan không phải là nhà văn. Xin đừng nghi anh ấy chuyện văn chương. Anh ấy cũng có lúc bốc lên muốn viết thật, nhưng rồi chỉ thành công được một lần. Cuốn sách duy nhất được in của anh Phan là một cuốn sách loại người tốt việc tốt in ở Nhà xuất bản Kinh Nguyệt Không Ðều...
Huỳnh Ngự gắt lên :
- Anh nói cái chi ? Nhà xuất bản chi... ?
Tôi giải thích rằng chúng tôi gọi đùa Nhà xuất bản Phụ nữ là Nhà xuất bản Kinh Nguyệt Không Ðều vì sách ở đây ra loạc choạc, khi có khi không, khi nhiều khi ít.
Huỳnh Ngự tủm tỉm cười.
- Tôi chơi với Phan vì cái khác. - tôi nói thêm - Phan rất chiều bạn. Thỉnh thoảng có món gì ngon anh lại ới tụi tôi đến ăn. Tiết canh vịt Phan đánh thì tuyệt, Văn Cao gọi là tiết canh xâu lạt...
Huỳnh Ngự ngẩn người :
- Nghĩa là sao ?
- Nghĩa là tiết canh đông đến nỗi có thể lấy lạt xâu vào mà xách được.
- Bịa.
- Văn Cao vốn thích nói thậm xưng. Nhưng thật sự là thế - tiết canh anh Phan đánh đông lắm, tôi chưa thấy ai đánh tiết canh tài bằng anh ấy.
- Ðánh thế nào ?
Tôi nhẩn nha kể cho Huỳnh Ngự cách đánh tiết canh mà Phan dạy tôi. Ðành phải hy sinh bí quyết nhà nghề của anh để đưa Huỳnh Ngự ra xa cái đề tài nguy hiểm. Huỳnh Ngự nghe chăm chú, sau đó không vặn vẹo thêm nữa. Tôi đồ rằng trở về nhà y sẽ ghi công thức đánh tiết canh vào sổ tay.
Còn ai nữa là bác sĩ trong số người quen tôi ? Mãi rồi tôi cũng nhớ ra bác sĩ Phan Thế Vấn. Nhưng với Vấn thì không thể nói rằng tôi quen. Chúng tôi có gặp nhau đôi lần ở nhà bạn bè, không nhớ là ở nhà Vũ Huy Cương hay nhà ai. Mọi người nhận xét Vấn là một tay Ivan. "Ivan" là một cách nói vui hồi ấy, chỉ một người không thích lối sống giáo điều, công thức, không chịu uốn mình theo khuôn phép của Ðảng, không cứ là một người theo Liên Xô, như bọn tự xưng mác-xít chân chính chụp mũ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp Phan Thế Vấn ở Hà Nội. Anh hoạt động trong phong trào thanh niên học sinh. Năm 1956 anh được đi dự festival thanh niên và sinh viên thế giới ở Moskva. Ðó là vinh dự lớn cho một thanh niên trước kia ở trong vùng tạm chiếm, cho dù có hoạt động cho kháng chiến.
Vấn thì có thể bị bắt, tôi đoán.
Tôi không gặp Vấn lần nào nữa trong thời gian ở Bất Bạt, cũng như trong thời gian ở tù nói chung. Gặp lại anh tại Sài Gòn năm 1989, tôi hỏi có phải anh đã gọi tôi hồi ở Bất Bạt không thì anh nói không. Tôi ngạc nhiên : vậy còn ai trong những người bị bắt là bác sĩ ? Hay đó là một bác sĩ quân y nào mà tôi không quen, nhưng biết tôi. Anh nhìn thấy tôi qua một khe hở phòng anh và anh muốn cho tôi biết tôi không đơn độc. Mà cũng có thể không phải thế. Nhưng nếu đây là trò của công an thì tại sao bị phát hiện nói chuyện với tôi anh ta lại bị chuyển đi ngay ?
Trong trại giam - xà lim này, quản giáo bộ đội đối với chúng tôi tử tế hơn quản giáo Hỏa Lò. Họ mở cửa, đóng cửa, cho chúng tôi với nét mặt vô can - người ta bắt anh chứ không phải tôi bắt anh, tôi với anh không thù không oán, tôi cũng chẳng muốn thế này.
Trong nhà tù nét mặt, cách đối xử của quản giáo ảnh hưởng đến tâm lý người tù nhiều lắm. Một bộ mặt lầm lì, một cái nhìn hằn học cũng gây ra stress.
Tôi nhanh chóng làm quen được với một anh tù nhà bếp làm công việc gánh cơm cho các xà lim. Khi cho tôi ăn sáng, anh tù trẻ, mặt mũi sáng sủa, được phép đến sát cửa sổ để đưa cho tôi vài củ khoai hoặc mấy khúc sắn. Bữa trưa anh đặt phần cơm trên bể nước.
Anh tù thì thào cho tôi biết anh bị tòa quân sự kết án ba năm tù vì tội để xe bọc thép lăn xuống vực, làm chết đồng đội. Quen rồi, tôi mới lân la hỏi anh về những người tù không phải phạm binh trong trại.
- Tôi có thấy hai ông già. - anh nói.
- Một trong hai ông già là cha tôi đấy.
- Cụ nhà trông thế nào ?
- Cụ tôi hói đầu.
Mỗi cuộc nói chuyện xảy ra nhiều nhất một lần trong một ngày, mà cũng chỉ giới hạn trong vài ba câu. Phải nói cho nhanh. Dứt lời, anh lại lặc lè quang gánh chạy đi.
- Cụ hói đầu có sẹo ở bụng, phải không ? - một buổi sáng khác anh hỏi.
- Ðúng. Cụ tôi đấy. Cụ bị cắt mật.
Trong xà lim nóng, cha tôi cởi trần, nhờ đó anh bạn trẻ nhận ra đặc điểm.
- Còn cụ kia ?
- Là thiếu tướng Ðặng Kim Giang.
- Cha mẹ ơi, vậy mà tôi không biết.
Hôm sau, anh móc trong lưng quần ra gói Tam Ðảo, ngó trước ngó sau rồi ném vào phòng :
- Cụ gửi cho anh.
Thì ra anh tù đã tự động báo cho cha tôi biết anh liên lạc với tôi.
Tôi xem xét cẩn thận gói thuốc. Nó có vẻ còn nguyên lành. Ðể ý thật kỹ thì thấy nó có bị bóc ra rồi dán lại. Tôi mân mê từng điếu. Không thấy gì. Ðó là gói thuốc kiểm tra. Cha tôi vốn cẩn thận. Ông không hấp tấp tin ai, trong hoàn cảnh này lại càng phải cẩn thận.
Một tuần sau, tôi lại nhận được gói thuốc nữa. Trong gói thuốc lần này có một điếu đáng ngờ. Dốc thuốc ở hai đầu đi tôi được một mẩu giấy cuộn tròn, trong đó có những hàng chữ nhỏ li ti :
"Nợ nước đời tôi trả đã tròn
Việc nhà gửi mẹ với đàn con
Trăm năm đầu bạc đành sai hẹn
Thủy chung tôi giữ tấm lòng son.
Con học thuộc mấy câu thơ này rồi đốt đi. Nếu bố không trở về thì đây là mấy lời cuối cùng bố gửi mẹ. Nói với mẹ bố xin mẹ tha lỗi vì đã làm khổ mẹ, nhưng bố không thể sống khác được. Cố gắng tập khí công, tập yoga để giữ sức khỏe chờ một ngày tươi sáng. Ðêm tối rồi sẽ qua, ma quỷ rồi phải chạy trốn mặt trời trí tuệ, cái ác sẽ phải quỳ gối trước lòng nhân ái. Bố của con."
Tôi ứa nước mắt. Cầu Trời Phật cho cha tôi sống được đến ngày gặp lại mẹ tôi và chúng tôi.
Nhờ anh bạn tù tốt bụng, tôi chuyển được một bức thư cho cha tôi. Tôi hứa với cha sẽ thực hiện lời người dặn. Ðến đó liên lạc giữa hai cha con chấm dứt.
Thỉnh thoảng Huỳnh Ngự gọi tôi ra, không phải để hỏi cung mà hỏi thăm sức khỏe. Y lúng túng lắm mỗi lần bị tôi hỏi về thời hạn giam giữ. Nó kéo dài quá rồi, vượt qua mọi giới hạn rồi. Không thể cứ một mực gầm thét, mà y biết là vô ích. Chính y cũng cảm thấy mệt. Giờ đây, như một y tá bên giường bệnh, y an ủi tôi, nói những lời sáo rỗng về lòng tin ở lượng khoan hồng của Ðảng, Ðảng sáng suốt, Ðảng là cha mẹ vv... Tôi thậm chí ái ngại cho y - y không đến nỗi quá ngu để không biết tí gì về pháp luật. Nhưng y không biết phải xử sự thế nào. Sự vi phạm pháp luật của các ông chủ y quá trắng trợn.
Trong những ngày ở xà lim Bất Bạt tôi thỉnh thoảng lại nhớ tới một câu nói của Hoàng :
- Tôi không muốn dọa anh. Dọa anh cũng chẳng được, tôi biết. Tôi tin anh dũng cảm, anh không sợ - anh đã bắt tay Thần Chết nhiều lần, như anh nói. Nhưng anh chưa biết đấy thôi - ở đời có nhiều cái còn đáng sợ hơn cái chết.
Hoàng đúng.
Chúng tôi không bị đánh đập, không bị giết. Chúng tôi chỉ bị chôn sống mà thôi.
Tôi không tưởng tượng nổi mình có thể sống trong một cái cũi hẹp, đúng hơn là một cái huyệt kim tĩnh kiên cố, với một tấm phản, một cái bô, một ống bương đựng nước. Không phải vài ngày, vài tháng, mà hàng năm. Một mình.
Trong một lần đi cung tôi gặp cô bộ đội dắt đứa con trai. Cháu bé chừng ba tuổi, lũn cũn bên mẹ. Nó nhìn tôi, nhoẻn cười. Tôi cười đáp, lấy tay vẫy. Nó cũng vẫy lại. Thằng bé mới kháu làm sao ! Tôi ngây người ngắm nó. Như thể nó là một kỳ quan của thế giới. Như thể trên đời này tôi chưa từng nhìn thấy một đứa bé. Tôi đi chậm lại để được ngắm nó lâu hơn. Tôi cảm thấy mắt tôi rưng rưng.
- Ði nhanh lên ! - viên quản giáo giục.
Mặc. Tôi đi ngang cháu bé. Tôi nhìn thấy những lông tơ trên đôi má phính mịn màng của nó. Tôi đi qua nó. Thật chậm. Cháu ngước nhìn tôi, đôi mắt trong veo, miệng lại nhoẻn cười. Người mẹ trẻ bồng nó lên tay. Cô nhìn tôi, cái nhìn đầy thương cảm.
Tôi ngoảnh lại, vẫy cháu bé. Nó vẫn nhìn theo, bàn tay tí xíu vẫn vẫy.
- Nhanh lên !
Viên quản giáo lại giục.
Ðứa bé xa dần.
Tôi đã biết ăn dè, tiêu dè. Khốn nạn, thì ra cuộc đời còn có cái dè khác - nhìn dè.
Một hôm, bên ngoài có tiếng cuốc lục cục, xoèn xoẹt trên mặt đất. Nhìn qua khe cửa sổ khép chặt, tôi thấy những bàn chân người đen đủi bước tới bước lui - đó là tù ở trại chung được đưa vào khu xà lim làm vệ sinh. Khi họ đi khỏi, cửa sổ lại được mở. Trước mặt tôi là một khoảng đất trống, không còn lấy một nhúm cỏ. Ngay trước cửa sổ phòng tôi chừng hai mét có một cây con mới được trồng, loe hoe mấy cái lá.
Thế là màu xanh cuối cùng của sự sống bị tước nốt. Mặt đất bệch ra những sỏi cùng đá. Tôi buồn xỉu.
Sau nhiều ngày sống lay lứt dưới nắng quái dữ dội, đặc biệt dữ dội ở trung du, cái cây quặt quẹo tưởng bị thiêu chết rồi đã đứng thẳng dậy, ngang ngạnh, bất khuất. Tôi thường ngậm nước trong miệng để phun cho nó. Việc tưới cây kiểu này chẳng dễ dàng - phải biết cách khéo léo để phun cho mạnh, phun cho xa và phải phun trúng.
Tôi đã ở đấy với cái cây từ lúc nó bé tẹo cho tới khi nó tỏa bóng mát. Trong cái huyệt kim tĩnh ấy.
Cái cây con ngang bướng cũng là ân nhân của tôi trong những năm tháng bị giam cầm. Nó dạy tôi phải biết nghiến răng lại mà sống.
Người "đồng vụ" đầu tiên mà tôi gặp ở đây là Trần Minh Việt. Chúng tôi háo hức thông tin cho nhau.
Ðể hình dung tù xà lim nói chuyện với nhau bằng cách nào, trước tiên phải kể đến cái tường ở Bất Bạt. Không hiểu tên khốn kiếp nào đã sáng tạo ra lối vẩy xi măng lên tường như thế ? Phải là một tên kiến trúc sư cực kỳ đểu cáng, với trái tim thú dữ, mới làm ra được một bức tường ghê tởm như vậy. Nó xù xì, đầy gai nhọn và sắc. Người tù ngồi mỏi không dám dựa lưng vào đấy, dựa vào lưng sẽ rớm máu. Dùng tay gõ vào tường có thể gây thương tích. Tôi phải bọc vải vào tay mà gõ.
Cái khó là chúng tôi không sao thống nhất được ám hiệu truyền tin. Trước Cách mạng Tháng Tám tôi là một sói con(8) ở bầy Hồng Ðức. Anh sói già Vương Trọng Thành chẳng những dạy dỗ chúng tôi trở thành những đứa trẻ từ tâm với phương châm "mỗi ngày làm một điều thiện", mà còn dạy chúng tôi biết nhiều cái vặt vãnh mà hữu dụng khác, trong đó có ngôn ngữ morse. Trần Minh Việt chưa bao giờ là sói, là hướng đạo sinh, anh không biết đánh morse như thế nào. Thành thử chúng tôi đành dùng thứ tín hiệu thủ công, trong đó các chữ cái cứ dài mãi ra theo thứ tự, chẳng hạn chữ a gõ một tiếng thì chữ k phải gõ mười tiếng, chữ v gõ hai mươi mốt tiếng. Giữa các chữ là một khoảng lặng, kết thúc một từ là một tiếng gõ thật mạnh. Nói chuyện như vậy rất chậm. Thế mà trong một tháng ở bên cạnh nhau tôi đã thông tin cho anh được hết những gì xảy ra bên ngoài kể từ tháng 7 cho tới tháng 12 năm 1967. Khi anh được biết về thông báo số 1, số 2 của Lê Ðức Thọ, Trần Minh Việt đập rầm rầm vào tường:
- Ðồ chó đẻ ! Thằng khốn nạn !
Hai tháng sau bỗng nhiên tôi bị chuyển đi nơi khác. Không lý do. Chắc chắn không phải việc chúng tôi liên lạc với nhau bị lộ.
Chúng tôi mỗi ngày một thô lỗ thêm cùng với thời gian bị nhốt. Một hôm tôi nghe tiếng Lưu Ðộng(9) oang oang vang động cả một vùng :
- Cút mẹ mày đi ! Ðừng có mang mấy thằng mất dạy nhà mày ra dọa tao. Bảo cho thằng Lê Ðức Thọ khốn kiếp của chúng mày biết, tao ỉa vào mồm nó ! Cả cái thằng Lê Duẩn ăn cứt nữa ! Tao nguyền rủa con đĩ ngựa đẻ ra nó. Tiên sư chúng mày ! Tổ bố chúng mày !
Nghe Lưu Ðộng chửi thật đã con ráy ! Tiếng Lưu Ðộng ồm ồm không lẫn với tiếng người khác được. Nền văn hóa làm cho con người bớt thật đi, bớt được là mình đi trong sự bộc lộ cảm xúc. Thỉnh thoảng phải được sống nguyên sơ, sống hoang dã như thế mới sướng. Tôi còn muốn nghe Lưu Ðộng chửi nữa, nhưng đang chửi ầm ầm anh bỗng im bặt. Cơn giận dữ bùng lên qua nhanh, anh thấy ngượng với mình, thấy mình xử sự không xứng với tư cách trí thức.
Từ trong khúc ngoặt, viên y sĩ công an mặt xám ngoét, chạy như ma đuổi. Lính gác rầm rập chạy tới. Các cửa sổ đóng lại rầm rầm. Tôi ngồi trong bóng tối, lắng tai nghe những tiếng động từ bên ngoài. Có vẻ như không có gì xảy ra.
Chúng không đánh Lưu Ðộng. Nếu chúng đánh anh tôi phải nghe thấy - căn cứ tiếng chửi vọng tới phòng tôi thì anh ở gần tôi, cách một ô là cùng. Từ đó tôi không nghe tiếng Lưu Ðộng nữa - anh đã bị chuyển đi ô khác.
Tại trại Bất Bạt, chúng tôi còn được hưởng chế độ phơi nắng. Ðó là một chế độ đặc biệt, được dành riêng cho tù nhân xét lại. Nó không phải giờ đi dạo của tù nhân các nước khác mà ta thường thấy trên màn ảnh. Một tuần một lần, quản giáo mở cửa cho tôi bước ra ngoài đi phơi nắng một giờ. Còn thì suốt ngày ở trong nhà.
Khi nào lính gác bỗng dưng chạy tới đóng cửa sổ là tôi biết chúng sắp giải tù đi ngang. Tôi nhìn thấy Vũ Huy Cương, Hồng Sĩ, Phạm Viết, Trần Minh Việt, Trần Thư, Huy Vân và những người khác tôi không quen. Thấy họ không đi cùng quản giáo bộ đội mà đi với quản giáo công an thì biết là người đồng vụ, thế thôi. Khốn nạn, thế mà chúng nó gọi là nhóm chống Ðảng, là chống đối có tổ chức, không biết dơ.
Bây giờ tôi mới hiểu cái sự vu khống chính trị được tiến hành như thế nào. Thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm nghe vậy biết vậy chứ tôi không hiểu.
Văn Cao, tên đầu sỏ của đám trí thức mưu toan đoạt quyền lãnh đạo của Ðảng, gọi theo cách của những nhà lãnh đạo văn nghệ, nói với tôi rằng toàn bộ vụ Nhân văn - Giai phẩm chỉ là trò đánh lận con đen.
- Hồi ấy, văn nghệ sĩ còn tin Ðảng lắm, - Văn Cao kể - còn yêu Ðảng lắm. Gì thì gì Ðảng vẫn là Ðảng của mình. Là ruột thịt của mình. Nhưng là trí thức, bọn mình không quen, không thích tin mù quáng. Bọn mình thấy xã hội có những khuyết tật, những cái cần sửa chữa. Mới lên tiếng đề xuất . Ðảng cầm quyền thì phải đề xuất với Ðảng, chứ còn đề xuất với ai ? Chuyện đề xuất bằng hình thức nào là cái không nên bắt bẻ. Không phải lúc nào cũng phải kính đơn. Phát biểu cũng được chứ sao. Viết báo cũng được chứ sao. Chẳng ai hô hào lật đổ các ông ấy cả. Chỉ có các ông ấy chu chéo lên : ối giời ơi, có địch, có địch ngay trong hàng ngũ chúng ta, rồi dựng thành vụ để trấn áp. Nguyễn Mạnh Tường(10) chỉ ra cái sai rành rành trong sự thi hành luật pháp cũng bị đánh. Họ đánh tuốt trí thức, chứ không phải chỉ văn nghệ sĩ không thôi đâu. Ðánh để trị, để đe.
- Nhưng trong lãnh đạo Ðảng ai khởi xướng vụ đánh này ?
- Cậu muốn hỏi ai là tác giả ? Không phải Hồ Chí Minh đâu, Ông Cụ không nghĩ ra cái đó, Ông Cụ không tệ đến thế. Cũng không phải Nguyễn Chí Thanh. Ðừng vì vụ Trần Dần bị giam vào cải hối thất mà đổ cho lúy(11). Thằng cha lúc ấy còn bận củng cố địa vị vừa chiếm được của général(12) Giáp. Tác giả chính là Longue Marche(13), cậu nghe rõ chưa, là-Trường-Chinh.
- Thế còn Tố Hữu ?
- Tố Hữu ấy à ? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche mới là kẻ sáng tác ra Nhân văn - Giai phẩm. Ðể chạy tội Cải cách ruộng đất. Ðể tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của lúy vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Ðừng tước bản quyền của lúy, tội nghiệp ! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Ðôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche : "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy : qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được !" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa : lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá ! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu ?".
Tôi ghi lại lời nói của Văn Cao ở đây để sau này có ai nghiên cứu thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm có thể tìm thấy trong đó một chứng cứ của người trong cuộc.
Một hôm, tôi thấy Trần Minh Việt đi cung, khoảng vài giờ sau anh trở về, lủng củng những gói cùng bọc, vẻ mặt buồn rượi. Sau đó đến lượt Huy Vân, Trần Thư, Lưu Ðộng, rồi mấy người nữa.
Họ được gặp gia đình, tôi kết luận.
Vụ án, theo tôi phán đoán, đã sang một chương mới không có lợi cho chúng tôi. Sau gần ba năm giam cầm không cần tuyên bố lý do, không cho chúng tôi gặp gia đình, mà không bị phản ứng cả trong Ðảng lẫn ngoài xã hội, giờ đây nhà cầm quyền nhơn nhơn coi sự bỏ tù chúng tôi, những phần tử chống Ðảng, là việc đương nhiên họ có quyền làm.
Lường trước khả năng gặp gia đình, tôi viết sẵn một bức thư gửi ông Nguyễn Lương Bằng. Bọn công an chủ quan không ngờ tôi quan sát được động thái bên ngoài sẽ không khám xét. Không có mực, tôi dùng nicôtin đọng trong cái điếu Thành cho (phòng xa không có thuốc lá mà hút) viết trên mẩu giấy gói kẹo :
"Thưa bác. Cháu đề nghị bác, với tư cách người cầm thanh kiếm bảo vệ sự trong sáng của Ðảng, tự mình xem xét vụ án này. Cháu là đứa cháu được bác và bố mẹ giáo dục tinh thần trung thành với sự nghiệp cách mạng. Nếu sau khi kiểm tra bác thấy cháu phản cách mạng thật thì cứ mang ra bắn, nhưng nếu không phải là như thế thì bác phải đưa bọn lạm dụng chức quyền đàn áp những người cách mạng trung thực ra xử."
Tôi đoán đúng. Chẳng bao lâu sau đến lượt tôi được gọi ra.
Mẹ tôi, vợ tôi và các em tôi đã chờ sẵn trong một túp tranh được dựng cấp tốc cho khách thăm tù xét lại.
Ðây là lần gặp đầu tiên sau hai mươi bảy tháng tôi bị giam. Cả nhà ùa tới ôm lấy tôi. Tôi sợ mọi người sẽ òa khóc, nhưng mẹ tôi điềm tĩnh như thể không có chuyện gì xảy ra trong thời gian gần ba năm ấy(14). Tôi hiểu mẹ - bà bao giờ cũng tỏ ra cứng rắn trước kẻ thù. Chỉ giọng nói hơi nghẹn ngào ở một đoạn nào đó tố cáo nỗi xúc động trong lòng bà.
Mẹ tôi già đi nhiều quá. Mái tóc bạc thưa thớt, nhiều chỗ trơ sọ. Tôi nhìn mẹ, nước mắt ứa ra. Ðời mẹ khổ quá nhiều.
Tôi nhớ tới một buổi sáng se lạnh bên sông Ðà. Mẹ tôi lịch thiệp và bình thản trả lời viên sĩ quan Pháp áp giải đoàn tù đi Sơn La khi y hỏi tại sao mẹ tôi biết tin sự di chuyển mà đi tiễn chồng :"Người vợ yêu chồng bao giờ cũng biết chồng mình ở đâu". Y lại hỏi tại sao bà không khuyên can chồng để đến nỗi gia đình bị ly tán, bà đáp :"Chồng tôi làm công việc mà bất cứ người Việt Nam tự trọng nào cũng phải làm". Tôi nhìn thấy ánh mắt tự hào của các đồng chí nhìn mẹ tôi trên con phà chở tù sang thị xã Hòa Bình(15).
Mẹ luôn dặn tôi không được tỏ ra mềm yếu trước kẻ thù. Nhưng đó là kẻ thù nào khác chứ không phải thứ kẻ thù quái đản này. Trong thời kỳ hoạt động bí mật, bà không tin sẽ được thấy ngày đất nước độc lập và bà âm thầm chuẩn bị đến lượt chúng tôi phải đối mặt với chúng. Mẹ đã dạy dỗ tôi không vô ích. Chính những lời dạy dỗ của mẹ đã giúp tôi rất nhiều trong những ngày phải sống trong xà lim, bị cắt đứt với thế giới bên ngoài.
Vợ tôi hoàn toàn không biết ứng xử với bọn công an như thế nào cho phải, cho nên lúng túng. Cứ như thể một khi tôi là tù thì vợ tôi cũng là tù một nửa. Trông mà thương quá. Tôi ôm lấy vợ, không biết nói gì. Tội nghiệp, vợ tôi không hề được chuẩn bị để chịu đựng cảnh sống này. Nhưng nhìn vào mắt vợ tôi, tôi hiểu vợ tôi sẵn sàng chịu đựng cùng tôi những khốn khó mà chế độ phát-xít mang lại.
Tôi bế đứa con giờ đây mới biết mặt. Khi bị bắt tôi chưa biết vợ tôi có mang. Hoài Thu giãy giụa trong tay tôi, không chịu theo. Chị nó, Mi Lan, cũng bắt đầu lạ tôi. Tôi ôm hôn con gái, rồi nhân một phút tên quản giáo lơ đãng, nhét vào túi áo con bức thư : "Con giấu đưa cho bà". Mi Lan nhìn tôi chăm chú. Rồi gật đầu. Ðưa cho con rồi tôi đâm lo - nhỡ con tôi không hiểu lại đưa ngay cho bà nội mẩu thư cuộn trong mẩu vỏ tuýp kem răng trước mặt bọn Công an thì sao ? May mà Mi Lan có trí thông minh trước tuổi. Trong suốt cuộc gặp mặt, con tôi ngồi trên đùi tôi, vui vẻ cười đùa, không gây ra một sự nghi ngờ nào.
Bức thư được mẹ tôi trao tận tay Nguyễn Lương Bằng.
Ông tiếp mẹ tôi trên gác ngôi nhà có công an canh gác, nói những lời an ủi vô thưởng vô phạt. Tiễn mẹ tôi xuống nhà, khi đã ra đến vườn rồi, tin chắc không còn bị nghe trộm nữa rồi, ông mới hứa sẽ đặt vấn đề ra trước Trung ương để Trung ương xem xét.
- Tội nghiệp, chưa bao giờ mẹ trông thấy bác ấy thảm hại như thế ! - mẹ tôi kể về cuộc gặp gỡ đáng buồn.
Lời hứa của ông chẳng bao giờ được thực hiện. Ðịa vị cao sang và nỗi sợ hãi trước Lê Ðức Thọ đã làm tâm hồn người chiến sĩ cách mạng nổi tiếng năm xưa tê liệt. Mẹ tôi kể rằng trong những lần bà tới gặp Nguyễn Lương Bằng, bà thấy ông biết nhà ông bị gài rệp(16).
Nói cho công bằng, trong ông cũng có xảy ra một cuộc đánh nhau giữa tình bạn và cái ghế. Ðáng tiếc, trong cuộc đọ sức tình bạn bị đo ván. Tôi biết về cuộc đánh nhau ấy do cha tôi kể lại. Khi hấp hối, Nguyễn Lương Bằng cho người mời cha tôi đến. Ông ân hận. Ông xin cha tôi tha thứ. Cha tôi nói :"Việc đã qua rồi. Anh không phải là người gây ra. Giữa anh và tôi không còn tình đồng chí, nhưng tình bạn thì còn. Anh hãy yên tâm nhắm mắt".
Có một số tác gia nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản cho rằng trong cái gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa con người quan chức, không trừ cả lãnh tụ, bị buộc chặt vào cơ chế đến mức không thoát ra được dù họ có muốn, cho nên đánh giá họ bằng chuẩn mực hành xử thông thường của loài người là sai. Cách suy nghĩ độ lượng của các vị không có tác dụng nào khác hơn sự biện hộ cho những tên hoạt đầu, những tên cơ hội, những tên độc tài đứng trên bọn chúng, xóa nhòa ranh giới giữa đao phủ và nạn nhân. Chẳng qua bằng sự xuống cấp từ từ, không nhận thấy được, của những chuẩn mực đạo đức trong một xã hội bị bần cùng hóa, con người quan chức trong cơ chế đó đã hành động một cách vô thức, theo bản năng tự vệ, để không bị cơ chế tống ra ngoài. Hơn thế nữa, những bản năng thấp hèn được khơi dậy dưới những vỏ bọc hào nhoáng, như những chuẩn mực đạo đức mới làm cho lớp quan chức vững tin ở những hành động vô đạo đức trong lối sống, và cứ thế họ trượt dần xuống dốc phi nhân bản lúc nào không biết.
Căn cứ việc công an hỏi tôi, bắt tôi làm bản khai về Nguyễn Lương Bằng thì tháng 12 năm 1967 Nguyễn Lương Bằng còn nằm trong diện những người bị tình nghi chống Ðảng. Thế mà chưa tới một năm sau, tháng 11 năm 1968 ông đã nhảy phóc một cái qua địa vị kẻ trấn áp. Trường hợp Nguyễn Lương Bằng là trường hợp điển hình cho sự trượt dốc đó.
Tôi có thể thông cảm với Nguyễn Lương Bằng. Ông tham gia ban chỉ đạo chuyên án của Lê Ðức Thọ do sợ hãi. Nhờ biết sợ ông chẳng những thoát nạn mà còn lên chức phó chủ tịch nước vào năm 1969. Ông có mất mát chút ít, nhưng là những thứ không quan trọng : tình bạn, tình đồng chí, tình yêu của những đứa cháu không ruột thịt, lòng kính trọng của những người cách mạng chân chính.
Ðó chính là sự tha hóa của con người. Nó hiện diện trong mọi tầng xã hội. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã chính là do sự tha hóa trong lòng nó, sự mục rữa chất người, hay nói theo cách của Lênin, do sự mất nhân tính đi đến chỗ cùng cực. Hệ thống này tan rã không phải trong thời điểm kinh tế suy thoái nhất (của Liên Xô cũng như của các nước Ðông Âu), mà tan rã vào thời điểm dân chúng ở những quốc gia này không còn chịu đựng nổi sự mất nhân tính đi đến chỗ cùng cực(17) ấy, do ý thức được sự mất nhân tính ấy họ không còn có thể điều hòa được với nó.
Mẹ tôi cho biết cả nhà đã được gặp cha tôi. Bố cũng ở đây, sức khoẻ bình thường, mẹ tôi nói, khẽ nháy mắt với tôi và mỉm cười buồn bã. Tôi hiểu cha tôi yếu, nhưng bọn công an không muốn mẹ tôi nói thế. Lại một đặc tính ngớ ngẩn của bọn đạo đức giả : chúng chỉ cho phép tồn tại một sự thật làm đẹp cho chúng. Ngay trong việc nhỏ nhất. Nhìn thấy trên bàn có cái giỏ tích đáng ngờ, tôi ra điều dẹp chỗ cho vợ tôi sắp thức ăn để bỏ nó qua chỗ khác. Tên công an trông thấy. Y nhao tới, hấp tấp đặt nó vào chỗ cũ. Tôi đoán đúng : trong cái giỏ tích có rệp.
Cuộc chiến gây ra từ một phía chưa kết thúc. Lê Ðức Thọ vẫn sợ một cái gì đấy, cho nên mới phải bí mật theo dõi cả những cuộc nói chuyện trong gia đình chúng tôi. Hay Thọ còn muốn giăng bẫy để bẫy một cái gì khác ?
Mẹ tôi im lặng theo dõi việc diễn ra trước mắt, mỉm cười khinh mạn. Bà hài lòng thấy tôi không ngơi cảnh giác. Bằng lời lẽ khéo léo mẹ khuyên tôi phải chờ đợi, không nên ảo tưởng, hãy cố gắng chịu đựng. Tôi nghe mẹ nói, lòng buồn rượi. Ngoài kia vẫn là đêm tối, chưa có gì hứa hẹn bình minh. Mà bây giờ đã là mùa hè năm 1969.
Lợi dụng tên y sĩ công an nhìn đi nơi khác vợ tôi rụt rè đưa cho tôi cây bút bi hai màu. Vợ tôi muốn cho tôi một cái gì đó, và đã chọn cây bút - món quà này chắc chắn làm tôi vui thích. Tôi liếc nhanh tên công an. Y vẫn lắng nghe, nhưng quay mặt nhìn ra sân. Tôi giật phắt cây bút nhét vào túi. Vợ tôi ngạc nhiên, thẫn thờ nhìn tôi.
Ngày hôm đó, tôi đã làm một hành động phản văn hóa là hủy hoại một cây bút tuyệt đẹp. Tôi vờ xin phép tên công an cho tôi ra ngoài. Ngồi rất lâu trong cái chuồng xí dựng tạm ở sau nhà, bốn bề trống hoác với mấy tấm tranh quây quanh, tôi quan sát rất kỹ chung quanh rồi bẻ nát cây bút, dùng que đào lỗ chôn những mảnh nhựa vụn. Bằng con dao giấu trong giày, tôi xẻ quãng giữa đường khâu kép nơi mặt trong áo bông, luồn hai ruột bút bi vào đó.
Từ hai ruột bút bi này bắt đầu cuốn Miền Thơ Ấu, cuốn sách mười chín năm sau rốt cuộc rồi cũng được thấy ánh sáng mặt trời.
(1) Một loại com-măng-ca của Liên Xô.
(2) Nghe nói về sau trại quân pháp Bất Bạt được sử dụng làm nơi giam giữ tù binh Mỹ.
(3) Mật danh một cơ sở kinh tài của Ðảng trong kháng chiến chống Pháp.
(4) Thiếu tá Trần Thư cũng bị giam ở trại này năm 1973 trước khi được tha. Anh miêu tả nơi ở thấy có khác. Anh không phải ở trong xà lim mà được ở trong một ngôi nhà nhỏ như điếm canh đê, có một mảnh vườn con bên trong hàng rào dây thép gai vây bốn bề. Ðây là nơi cư trú trung chuyển giữa chế độ giam giữ và sự thả cho về, làm thành một khu riêng biệt, cách khu xà lim và khu trại chung. Lại một sáng tạo độc đáo của hệ thống giam tù "xử lý nội bộ".
(5) Tên một tác phẩm của nhà văn xô-viết K. Paustovsky (bản dịch của Vũ Thư Hiên).
(6) Cách nói chại đi từ tiếng Pháp campagnard = tên nhà quê.
(7) Hai nhà văn Trung Quốc bị hạ ngục vì những phát biểu bất đồng với đường lối văn nghệ của đảng cầm quyền.
(8) Một tổ chức thiếu nhi rất phổ biến trên thế giới được xây dựng thành đội gọi là bầy sói gồm có huynh trưởng là sói già và các thiếu nhi trong đội là sói con như trong chuyện "Rừng" của Rudyar Kipling. Sau năm 1954 tổ chức này không tồn tại ở nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa nữa. Nó bị coi là của các giai cấp bóc lột.
(9) Nhà báo lão thành, được biết đến bởi những phóng sự chiến tranh trong kháng chiến chống Pháp.
(10) Giáo sư trường Ðại học tổng hợp Hà Nội, đỗ hai bằng tiến sĩ ở Pháp. Sau vụ này ông không được phép giảng dạy cho suốt đời.
(11) Hắn, nó, y (lui, tiếng Pháp)
(12) Tướng (tiếng Pháp).
(13) Trường Chinh, tiếng Pháp.
(14) Theo Thọ Mai Gia Lễ thì thời gian này vừa đúng bằng thời gian vợ để tang chồng. "Ba năm hai mươi bảy tháng chàng ơi...".
(15) Năm 1939 tôi được đi theo mẹ lên thị xã Phương Lâm, tỉnh Hòa Bình, để tiễn đoàn tù cộng sản bị đi đày Sơn La. Trong đoàn tù này còn có các ông Trần Huy Liệu, Trịnh Tam Tỉnh, Nguyễn Văn Phúc, Ðặng Kim Giang ... Trung ương Ðảng được mật báo đã cử mẹ tôi đón đường tiếp tế cho các đồng chí. Tôi còn nhớ cha tôi lột cái mũ nồi tôi đang đội cho ông Phi Vân, bị còng tay chung với cha tôi trong chuyến đi đó. Ông Phi Vân về sau bị Ðảng thủ tiêu. Ông Nguyễn Lương Bằng kể : Phi Vân bị Ðảng thủ tiêu vì tội bán các đồng chí nữ cho nhà chứa bên Tàu. Không rõ thực hư ra sao.
(16) Máy ghi âm bí mật.
(17) Có thể tìm thấy cách suy nghĩ rất thú vị của Lênin về tha hóa trong Bút Ký Triết Học của ông.
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 31
Ðêm giữa ban ngày
Chương 31
Tên tuổi Lê Ðức Thọ ngày nay không những được biết đến ở Việt Nam, mà cả trên thế giới. Hình ảnh Lê Ðức Thọ được in trong những cuốn từ điển bách khoa, với tiểu sử tóm tắt và sự nhấn mạnh về công trạng tìm kiếm hòa bình cho cuộc chiến tại Việt Nam trong cuộc hòa đàm Paris với Henry Alfred Kissinger(1) và được trao giải thưởng Nobel hòa bình cùng với ông ta trong năm đó.
Ở Việt Nam tên Lê Ðức Thọ gắn liền với vụ nhóm xét lại chống Ðảng, và rất nhiều vụ oan khuất khác do Ban Tổ chức Trung ương tiến hành.
Tôi tiếc không được biết Lê Ðức Thọ một cách gần gụi để có thể viết nhiều và viết kỹ về nhân vật một thời làm mưa làm gió trên chính trường Việt Nam. Hi vọng rồi đây sẽ có người làm việc này một cách nghiêm túc, bởi vì Lê Ðức Thọ là một hiện tượng đặc thù trong hình thái xã hội từng được gọi là xã hội chủ nghĩa.
Ý định của Lưu Quý Kỳ về việc cho ra một tờ báo châm biếm tương tự tờ Cá Sấu của Liên Xô để phê phán các hiện tượng tiêu cực, mà tôi có nhắc tới trong một đoạn trên, không phải là ý định suông. Ðiều Lưu Quý Kỳ không ngờ là ý muốn chân thành của anh đã dẫn tới tai họa. Lê Ðức Thọ xồng xộc đến tận Sở báo chí để tự mình uốn nắn ý nghĩ ngạo ngược của anh. Mà Lưu Quý Kỳ được Thọ coi như đệ tử ruột một thời. Tinh thần cảnh giác cao chưa một lần ngủ quên của Sáu Búa Lê Ðức Thọ không thể lơ là để xảy ra một sự lỏng dây xích như vậy.
Tôi có mặt ở đấy khi xảy ra sự việc.
Con người cao to, tóc bạc trắng, với giọng nói cố ý kéo dài bắt người nghe chờ đợi câu tiếp theo, để lại trong tôi ấn tượng nhạt nhẽo và khó chịu. Tôi dị ứng với những gì không thật. Trong Lê Ðức Thọ tôi nhìn thấy đầy rẫy của giả. Mọi người khúm núm, sợ sệt. Tôi nhìn Thọ dửng dưng, bằng con mắt lạnh lùng.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ở tuổi 30, chính quyền đã vững vàng, đám lãnh tụ đã học thuộc bài lên xe xuống ngựa xênh xang, đệ tử bâu quanh như ruồi thấy mật. Một chút khiêm tốn giả vờ, một chút bình dân đóng kịch, trộn với rất nhiều phô trương quyền thế, là nét nổi bật trong Thọ. Nói tóm lại, một tên hãnh tiến điển hình. Trong cuốn Sửa Ðổi Lề Lối Làm Việc ông Hồ Chí Minh gọi căn bệnh này là bệnh lãnh tụ.
Vào những năm đang được nói tới Lê Ðức Thọ là ủy viên Ban bí thư, ủy viên Thường vụ Trung ương Ðảng. Nhưng cả hai chức ấy chẳng có nghĩa gì so với một chức nghe khiêm tốn hơn, là Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. Thọ giữ chức này ba mươi năm liền, kể từ khi ra Bắc.
Từ một cơ quan bình thường, mang nặng tính chất sự vụ, làm công việc quản lý cán bộ Ðảng thời Lê Văn Lương, Ban Tổ chức Trung ương trong tay Thọ nhanh chóng trở thành cơ quan siêu mật thám, nắm trong tay quyền lực cao nhất, mạnh nhất trong toàn bộ hệ thống Ðảng. Nó bao trùm tất cả, đứng trên tất cả. Nằm trong quyền điều khiển của nó có cả Bộ Nội vụ. Với thể chế Ðảng cầm quyền, tình hình đó là lẽ đương nhiên.
Ban Tổ chức Trung ương của Lê Ðức Thọ trong thực tế không chỉ nắm lý lịch đảng viên và cán bộ Ðảng, mà cả cán bộ chính quyền, từ cấp thấp nhất tới cấp cao nhất, theo một hệ thống dọc.
Mỗi cán bộ đều có một cuốn lý lịch, nó dính vào anh suốt đời, như một cái bướu. Mỗi lần xét lên lương, xét cho đi học, xét cấp nhà, thậm chí một cái phiếu mua xe đạp, là một lần lý lịch anh lại được mở ra, được tính đến. Giá trị con người tính bằng mức độ trung thành với Ðảng, hồng là hơn chuyên, đức là hơn tài. Lý lịch là chứng chỉ xác nhận giá trị xã hội của mỗi cá nhân thành viên, do đó nó quan trọng vô cùng. Lý lịch còn được cập nhật, được bổ sung liên tục bởi công an chìm và nổi, bởi cán bộ tổ chức, cán bộ bảo vệ, các bạn đồng sự, bởi ông hàng xóm hoặc ông tổ trưởng dân phố. Hết thảy đều được dạy dỗ để theo dõi lẫn nhau, được khuyến khích thu thập tin tức về nhau.
Nhân vô thập toàn, con người ta ai cũng có lúc mắc khuyết điểm, không lúc này thì lúc khác, không ở nơi này thì nơi kia. Nếu chẳng may khuyết điểm bị tổ chức phát hiện, nó sẽ được ghi nhận, được xếp vào hồ sơ, còn sau này có dùng đến hay không, dùng vào lúc nào, là chuyện khác.
Tại Hỏa Lò tôi ngạc nhiên thật sự khi Huỳnh Ngự, với nụ cười trịch thượng trên môi, chìa cho tôi xem bản liệt kê tất cả những gì tôi đã viết, đã in, trong đó có nhiều cái ba lăng nhăng chính tôi cũng quên bẵng từ lâu. ỉ thì cứ cho rằng từ năm 1961 khi tôi viết Ðêm Mất Ngủ bị Tố Hữu đánh, lúc ấy nghi ngờ tôi là có lý. Nhưng làm sao trong hồ sơ lại có cả những bài báo ngô nghê đăng trên tờ Nhân dân và Văn nghệ từ mãi những năm 1954-1955, khi tôi còn là một con chiên ngoan đạo ? Thì ra khi có một bút danh mới xuất hiện những cán bộ tổ chức theo dõi văn nghệ liền ghi ngay vào sổ, và nếu có một chút nghi ngờ thì một hồ sơ liền được lập. Nếu không làm sao người ta có thể có những bản liệt kê những thứ tầm phơ như thế ?
Dù có căm ghét hệ thống quản lý cán bộ ấy tới mức nào chăng nữa tôi vẫn phải khâm phục tính chất vô nhân và vô luân hoàn hảo của nó. Về hệ thống của Thọ cần có nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc trên hai bình diện : môi trường xã hội cần và đủ cho sự nảy sinh và tồn tại của hệ thống, cách vận hành nó. Ðảng cộng sản Việt Nam có quyền tự hào - trong lĩnh vực này kể cả Gestapo của Ðệ tam Ðế chế cũng khó sánh được với Ban Tổ chức Trung ương.
Bên cạnh Ban tổ chức Trung ương, Lê Ðức Thọ đặt ra Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương. Nó được lập ra để bảo vệ sức khoẻ cho các ủy viên Trung ương, nhưng chủ yếu là các Trung ương ủy viên cổ cánh, và trước hết là các ủy viên Bộ Chính trị. Theo quy định, cán bộ đã tham gia hoạt động cách mạng trước 9-1945 đều nằm trong sự chăm sóc của Ban này, nhưng đó là quy định được đặt ra cho vui chứ không phải thực tế là như vậy. Không hề có dấu bằng giữa một đảng viên chịu đựng nhiều hy sinh cho cách mạng, với một ủy viên Bộ Chính trị đỏ da thắm thịt.
Sức khỏe các ủy viên Bộ Chính trị thời Duẩn-Thọ đượctiêu chuẩn phục vụ tối đa, với tất cả khả năng mà nền y học Việt Nam hiện đại có. Trong tay Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương có những bác sĩ hàng đầu ở các bệnh viện tốt nhất. Có vị còn được cấp phát một nữ sinh viên để thứ bảy chủ nhật đến săn sóc sức khoẻ và bầu bạn cho đỡ buồn. Khi cô sinh viên "xin phép chú cháu đi lấy chồng" thì chú nước mắt nước mũi giàn giụa nằng nặc giữ cô lại. Ðời con gái có thì, cô ta không chịu, thế là nhà lãnh đạo ngã bệnh, các chuyên gia Việt Nam khám không ra, chữa không được, ông phải đáp chuyên cơ(2) ra nước ngoài chạy chữa. Cuộc tình bao cấp được Thọ cho quay phim, chụp ảnh lén, sẽ có lúc dùng tới. Chuyện thâm cung bí sử này lọt ra ngoài cũng từ cái Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương nọ.
Cái sự ham muốn quyền lực thường có ở những người đã được nếm mùi quyến rũ của nó. Nhưng ở Lê Ðức Thọ nó mang một sắc thái đặc biệt, với một bề ngoài đạo đức giả điêu luyện. Những người tiên đoán mâu thuẫn giữa Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ nói rằng cặp này sớm muộn sẽ loại trừ nhau chính là do quyền lực. Tôi nghe vậy biết vậy, chứ không nghĩ rằng nhận định của họ có sở cứ, mặc dầu đó là những người biết cả Duẩn và Thọ từ những năm ở bưng biền. Sau mới biết là đúng.
Cuối năm 1967 tôi và mẹ tôi vào Hà Ðông thăm bác Ðinh Chương Dương, bác kể mới tháng trước có mấy cán bộ ở Ban lịch sử Ðảng vào gặp bác để lấy tài liệu về phong trào cách mạng và cộng sản ở Nam Ðịnh. Mấy nhà sử học quan phương một mực dỗ dành nhà cách mạng lão thành xác nhận bằng văn bản rằng Lê Ðức Thọ là người cộng sản đầu tiên ở Nam Ðịnh. Bác Ðinh nghe rác tai quá, mới bảo họ :"Này các anh, nghe tôi khuyên đây : nếu muốn chép sử thì nhất nhất phải chép theo sự thật. Còn muốn viết sử thì cứ việc viết theo ý các anh muốn, hoặc theo ý người trên. Không làm được Tư Mã Thiên thì làm thư lại mà giữ lấy nếp nhà lương thiện". Kể lại chuyện này, bác Ðinh nói với tôi :"Khi bố cháu đã hoạt động cách mạng rồi thì anh Thọ này còn là học sinh(3). Chẳng hiểu sao anh ta lại thích được ghi vào sử đảng rằng anh ta là người cộng sản đầu tiên ở Nam Ðịnh đến thế ? Con người tham thật, được bao nhiêu cũng chưa vừa lòng". Anh Kỳ Vân kể hồi anh đã là xứ ủy viên Bắc Kỳ, Lê Ðức Thọ cũng từng hoạt động với anh. "Hồi ấy hắn ta không như bây giờ bây giờ đâu. Khiêm tốn lắm, nhũn nhặn lắm. Mà trình độ hiểu biết chính trị thì a b c, biết cái khỉ gì đâu. Cho nên nịnh Trường Chinh lắm, nghe Trường Chinh như nghe thánh sống. Thế mà sau năm 54 ở trong Nam ra hắn đã câng câng, nhìn thiên hạ bằng nửa con mắt. Trường Chinh nâng đỡ hắn là thế, vậy mà khi Trường Chinh thất thế, hắn cũng vênh váo cả với Trường Chinh mới tệ".
Mà nào có phải Lê Ðức Thọ là nhà cách mạng kiên cường cho cam ! Năm 1943, ông Sao Ðỏ Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La về ở nhà tôi, tại 65 phố Nhà Rượu (phố Nguyễn Công Trứ bây giờ), ông còn bảo cha tôi :"Anh chịu khó đi Nam Ðịnh tìm thằng Khải(4) hỏi thẳng nó xem nó có còn muốn hoạt động với anh em nữa không, hay chỉ nằm nhà ôm vợ ?". Cha tôi đạp xe đi Dịch Lễ, tìm được Lê Ðức Thọ, lôi Thọ ra khỏi cái giường êm, trả về cho tổ chức. Về chuyện này cha tôi có ghi lại trong tập hồi ký "Tháng Tám cờ bay".
Lạ nữa là chẳng phải một mình Lê Ðức Thọ làm to. Hai người em ruột Thọ là Ðinh Ðức Thiện (tức Phan Ðình Dinh) và Mai Chí Thọ (tức Phan Ðình Ðống), cho tới Cách mạng Tháng Tám chưa hề có tiếng tăm trong hàng ngũ cách mạng cũng làm to nốt. Một người lên đến thượng tướng, bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng, Tổng cục trưởng Tổng cục dầu khí, một người được phong đại tướng ngành Công an khi về hưu. Những nhà cách mạng lão thành cứ ngẩn ngơ trước sự thăng tiến vù vù trên hoạn lộ của ba anh em nhà nọ. Quả là sự hi hữu trong lịch sử.
Người làng Dịch Lễ nói rằng ba anh em Khải-Dinh-Ðống lên nhanh thế là nhờ mồ mả. Tôi không tin. Sau này, được chính anh cháu ruột Lê Ðức Thọ, một nhà khoa học hẳn hoi chứ không phải người không hiểu biết, kể cho tôi nghe chuyện ngôi mộ cụ thân sinh Lê Ðức Thọ tôi mới đâm ra ngờ vực - chẳng lẽ thuật để mả có từ lâu đời ở nước ta lại có thật ? Không khoa học nào thừa nhận môn phong thủy, nhưng trong chuyện vận may của nhà họ Phan xem ra nó lại có lý hơn mọi cách giải thích khác. Sống vì mồ vì mả, không sống vì cả(5) bát cơm, không phải vô lý mà các cụ ta đã có câu như vậy.
Nhà khoa học kể : gia đình Lê Ðức Thọ gồm hai chi. Chi trên, ngành cả, là chi bác ruột của Thọ, cụ Phan Ðình Hòe, và chi dưới, cụ Phan Ðình Quế, thân sinh ra ba ông quan lớn sau này. Cụ Hòe từ nhỏ tư chất thông minh, văn hay chữ tốt, sau đỗ đạt cao, làm quan nhất phẩm, thượng thư hay là cái gì đó tương tự, tôi nghe nhưng không nhớ. Ông em ruột cụ là cụ Quế thì ngược lại, học trước quên sau, được cái tính củ mỉ cù mì, an phận thủ thường ở nhà với vợ, chịu khó cày sâu cuốc bẫm, chăn gà chăn lợn.
Cụ Hòe thôi việc quan, được một thầy địa lý nổi tiếng trong vùng chọn cho một huyệt tốt phòng khi cụ hai năm mươi, gọi là huyệt Lỗ Ao. Tại sao nó có tên như vậy thì nhà khoa học không biết, cũng không được ai giải nghĩa. Thế nhưng cụ Hòe lại thọ, thành thử huyệt đã sẵn mà cụ vẫn sống phây phây để rồi gặp được một thầy địa lý khác, theo lời thiên hạ đồn thì cao tay hơn ông thầy trước nhiều.
Thầy địa lý này trẻ mà kênh kiệu, cụ Hòe vời mấy lần mới chịu tới. Trước mặt cựu thượng quan thầy cung kính chắp tay thưa : "Kẻ hèn võ vẽ chuyện đất đai, nghe lời cha mẹ dạy trước nay làm việc này chỉ cốt được sự phúc đức. Thấy ai không hiểu biết, lỡ đặt cha mẹ hoặc thân nhân nhằm chỗ đất độc thì mách cho người ta đặt lại kẻo rồi sau di hại đến con cháu. Chứ tìm đất tốt phát vương phát bá thì kẻ hèn này không có tài ". Cụ Hòe nói muốn nhờ thầy xem lại huyệt Lỗ Ao. Thầy vâng lời, xem xong rồi thưa :"Bẩm, quan lớn là bậc đa kiến văn, trí lự hơn người, xin quan tự định liệu. Huyệt này đúng là phát, phát lắm. Tiếc thay, nó phát một đời, nhưng lại bị nguyền rủa muôn đời".
Cụ Hòe giật mình, dặn con cháu :"Công hầu khanh tướng chẳng qua chỉ là giấc mộng hoàng lương. Ta chết đi chúng bay cứ chọn chỗ cao ráo cho ta nằm. Ta không muốn giòng họ ta vì phát một đời mà chịu tiếng xấu muôn đời !". Con cháu nghe lời bỏ huyệt Lỗ Ao. Cụ Hòe có để lại một bài tứ tuyệt nói lên ý trên, đúng là khẩu khí của bậc hiền nho, nhưng nhà khoa học kể chuyện này không thuộc.
Cụ Quế tiếc rẻ cái huyệt phát, bảo: "Bác cả không nằm, để tao nằm". Cụ qua đời, con cháu táng vào huyệt Lỗ Ao.
Câu chuyện này tôi được nghe vào năm 1966, thời cực thịnh của Lê Ðức Thọ.
Cho đến khi tôi viết những dòng này Lê Ðức Thọ bị nguyền rủa đã nhiều. Trong cả nước. Từ dưới dân đen tới những tầng cao chế độ. Không phải chỉ những người bị Lê Ðức Thọ hãm hại và con cháu họ, mà cả những người vô can. Người ta coi Lê Ðức Thọ là đệ nhất gian thần trong lịch sử nước nhà.
Ðinh Ðức Thiện không chịu chung những lời nguyền rủa với ông anh cả. Trong cuộc đời không dài Ðinh Ðức Thiện đã giữ những chức vụ rất quan trọng - bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim, Trưởng ban xây dựng Khu gang thép Thái Nguyên, Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, Tổng cục trưởng Tổng cục dầu khí, hàm thượng tướng. Ông ít học. Trình độ học vấn không quá bậc sơ đẳng. Thế nhưng Ðinh Ðức Thiện khinh trí thức lắm. Ông hạ lệnh cho các kỹ sư điện tính toán thời hạn lắp đặt đường dây cao thế Thái Nguyên - Hà Nội. Họ tính kỹ rồi báo cáo lên Ðinh Ðức Thiện: không thể dưới hai năm. Ông ta nghe xong liền nổi khùng :"Rặt một lũ ăn hại đái nát ! Làm chó gì mà mất những hai năm. Tôi mà ra lệnh cho công binh làm ấy à, chỉ hai tháng là cùng. Tính với chả toán, tính như con c... Các anh lúc nào cũng cúi đầu làm theo sách vở của bọn thực dân đế quốc. Vào rừng chặt cây về mà làm cột, mắc điện vào. Là xong. Trí thức với chả trí ngủ !". Người kể lại chuyện này là một kỹ sư tốt nghiệp Cao đẳng kỹ thuật thời Pháp, hôm ấy được nghe Ðinh Ðức Thiện trực tiếp quát mắng.
Các kỹ sư tốt nghiệp ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng chẳng được ông tướng trọng vọng hơn. Họ dặn nhau :"Ðến yết kiến lão phải phơi nắng vài ngày cho da đen đi cái đã. Mà nhớ lấy nhá, chớ có đi giày tây, chớ có diện củ(6), lão hò hét gì mặc lão, cứ vâng dạ. Chớ cãi, cãi lão chỉ có chết". Thấy anh nào trắng trẻo, ăn vận sạch sẽ, có dáng ở Tây về, ăn nói thiếu thưa bẩm, cử chỉ không giữ gìn thận trọng trước cấp trên là ông quan hét ầm ầm:"Ði xuống cơ sở(7). Ngay lập tức, không oong đơ gì hết, Lao động một năm rồi về đây gặp tao". Ðinh Ðức Thiện dị ứng với bằng cấp. Kẻ có bằng cấp muốn được ông thu dụng phải nhoài người ra mà nịnh ông cho tới khi ông mềm lòng.
Có một thời sự thiếu học được coi là niềm tự hào - người ít học là người có quá khứ trong sạch, không dính với thực dân, phong kiến. Ðinh Ðức Thiện tự hào về sự thiếu học của mình lắm. Ông vỗ ngực đồm độp :"Xem tao đây này, tao chẳng có cái bằng chó nào hết, thế mà tiến sĩ kỹ sư sợ tao một phép. Chúng nó ỷ có học, nhưng học gì lũ chúng nó, học vẹt ấy thì có, rời sách vở ra là chịu chết. Trí thức mà không có thực tế chỉ là cục c... Chính tao này, tao chỉ đạo kỹ thuật cho chúng nó, chứ ai ? Nghe cái bọn quen bơ thừa sữa cặn ấy chỉ có mà ăn cháo, ăn cháo !".
Cũng lại là công nhân theo lý lịch tự khai chứ không theo định nghĩa của Mác, Ðinh Ðức Thiện khó chịu với mọi biểu hiện ông cho là ăn chơi của cấp dưới. Lúc nào ông cũng phô cái quá khứ nhọc nhằn. Thực ra quá khứ của ông chẳng nhọc nhằn gì, người làng Dịch Lễ nói vậy. Ông sướng từ bé, lớn lên ra tỉnh ăn chơi lêu lổng, chim gái thành thần, họ kể. Nhưng ông cứ xưng xưng nói thế. Ông không cho phép cái lũ không biết nhọc nhằn là gì được phép sung sướng. Ông chỉ cho phép mình sung sướng thôi. Mà Ðinh Ðức Thiện là người biết cách để sung sướng lắm.
Hồi kháng chiến chống Pháp, công tác tại Liên khu 3, Ðinh Ðức Thiện rủ Hoàng Minh Chính mở một hộp đêm để giải sầu :"Chúng mình đầu tắt mặt tối, vào sinh ra tử, khổ bỏ mẹ, phải có một chỗ để thỉnh thoảng giải khuây, làm một phát cho khoái". Hoàng Minh Chính không đồng tình :"Mày nói thế chó nó nghe được. Cán bộ cách mạng mà làm bậy, tổ chức kỷ luật chết". Ðinh Ðức Thiện cười vào mặt Hoàng Minh Chính :"Xì, mày ngu bỏ mẹ, tiền lấy ở quỹ đen, mình làm đen luôn, giữ bem(8) tốt, thằng chó nào biết !". Hoàng Minh Chính kể cho tôi nghe chuyện này vào mùa hè năm 1965, cũng nhân nói tới sự thăng tiến kỳ lạ của ba anh em họ Phan. Anh không hề có ác cảm với Ðinh Ðức Thiện khi kể lại câu chuyện đó. Hai người là bạn với nhau một thời, tuy không thân thiết.
Một người bạn tôi có hồi công tác dưới quyền Ðinh Ðức Thiện, thường được ông cho đi săn cùng. Ði săn là thú chơi của Ðinh Ðức Thiện. Anh kể mỗi lần ông ta ra lệnh đi săn là mỗi lần nhân viên phục vụ ông tướng quýnh quáng sửa soạn đủ thứ ông tướng cần, không được để thiếu thứ gì. Ông đi một xe, một xe chở lính hầu, súng săn, xoong nồi, bia rượu và trăm thứ bà rằn khác, kể cả lều bạt phòng khi ông hứng lên nghỉ lại trong rừng.
Sinh ư nghệ tử ư nghệ, Ðinh Ðức Thiện chết bất đắc kỳ tử trong một chuyến đi săn. Ðâu như lúc mở cửa xe bước xuống Ðinh Ðức Thiện bị súng cướp cò, đạn bắn vào đầu. Sau cái chết đột ngột của viên tướng có tin đồn : Ðinh Ðức Thiện bị hạ sát bởi tay Lê Ðức Thọ. Trước đó tôi cũng có nghe thiên hạ nói nhiều về mối bất hòa giữa hai anh em họ Phan. Người họ Phan nói chuyện đó có thật. Họ cho biết thêm : kể cả Mai Chí Thọ cũng không ưa Lê Ðức Thọ. Mỗi lần Mai Chí Thọ từ Sài Gòn ra Hà Nội ông ta đều đến thăm bà chị ruột góa chồng (ông chồng bà đã treo cổ tự tử trong Cải cách ruộng đất) và Ðinh Ðức Thiện, nhưng không đến Lê Ðức Thọ. Cũng người trong nhà nói ra thì Ðinh Ðức Thiện biết những việc ám muội của ông anh có lần đã quát vào mặt Lê Ðức Thọ :"Anh làm thế để thiên hạ đào mả bố lên à ?". Làm thế cụ thể là làm gì thì người kể chuyện không nói. Bởi vì chẳng nói người nghe cũng hiểu - trong đời mình Lê Ðức Thọ làm quá nhiều điều thất nhân tâm.
Tôi không tin chuyện Lê Ðức Thọ giết em. Trong một chuyến đi săn, cũng theo lời bạn tôi kể, có hai lái xe, mấy bảo vệ tháp tùng, không dễ gì mua chuộc hoặc cưỡng bức được bằng ấy người một lúc. Lời đồn chỉ chứng tỏ thiên hạ tin ở sự nhẫn tâm của Lê Ðức Thọ mà thôi(9). Tuy nhiên, tôi vẫn không hiểu vì lẽ gì người ta giấu nguyên nhân tai nạn. Hình như việc này cũng không đến nỗi khó hiểu, thậm chí còn tầm thường - nếu không giấu nguyên nhân tai nạn thì chôn Ðinh Ðức Thiện ở nghĩa trang Mai Dịch xem ra danh không chính ngôn không thuận. Ông tướng không tử trận, không chết trong khi thừa hành công vụ, mà chết trong khi đuổi theo mấy con vịt giời.
Mai Chí Thọ một thời gian dài làm giám đốc Công an, rồi chủ tịch ỷy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, sống như một ông hoàng. Trong ngôi biệt thự to lớn ở Sài Gòn Mai Chí Thọ có cả một khu vườn rộng nuôi trăn, nuôi vượn, nuôi gấu. Người Sài Gòn tính : hàng tháng riêng tiền chi cho việc mua giày Addidas và vợt Wilson để chơi tennis Mai Chí Thọ đã phải bỏ ra một số tiền gấp năm sáu lần lương ông ta. Tiền đâu ra ? Không phải Mai Chí Thọ lấy ở quỹ đen nào, không phải Mai Chí Thọ tham ô công quỹ. Ðơn giản là trước thời kỳ "bung ra","đổi mới", các phú thương Hoa kiều bị khốn đốn trong cuộc cải tạo tư sản hoành tráng của Ðỗ Mười, họ thoát hiểm nhờ tìm thấy nơi Mai Chí Thọ vị "đại huynh" rộng lòng bảo trợ. Ðể đền ơn đáp nghĩa họ chiều chuộng "đại huynh" hết lòng.
Ðám cán bộ ba cọc ba đồng bất bình trước cuộc sống sa hoa của Mai Chí Thọ. Không tham nhũng không thể sống như vậy được, họ nói. Người Sài Gòn cười hắc hắc, phẩy tay :" Mấy ông tướng thời trước cũng dzậy à, hà cớ phải bực mình. Ông nầy không tồi hơn. Cờ tới tay ai người đó phất !' Tòa án thành phố có lần gửi giấy triệu Mai Chí Thọ tới tòa làm nhân chứng cho vụ án xử thương gia Triệu Bỉnh Thiệt. Ðồn rằng hồi ấy phe chống Mai Chí Thọ xui mấy ông quan tòa nhân chuyện Triệu Bỉnh Thiệt phạm pháp sẽ hỏi nhân chứng một chặp rồi trước bách tính công chúng đưa Mai Chí Thọ qua ngồi ghế bị cáo. Không thể để cho cấp dưới làm chuyện đã rồi với ông em, làm mất thể diện mình, Lê Ðức Thọ cấp tốc triệu Mai Chí Thọ ra Hà Nội. Sau vụ này Mai Chí Thọ vào Bộ Chính trị.
Người Sài Gòn kể chuyện Mai Chí Thọ có một đệ tử chuyên dắt gái cho họ Mai là Năm T. Cậy có ô dù của đàn anh, Năm T. tổ chức hẳn một hộp đêm bề thế cho các quan chức cấp tỉnh lên ăn chơi ở Sài Gòn. Vụ này vỡ lở, dư luận ầm ĩ, các vị chức sắc tay đã nhúng chàm im re, mặc cho Năm T. vào khám. Năm ngồi tù mất hai hoặc ba năm, sau mới được đàn anh can thiệp cho ra trước hạn.
Một dạo Sài Gòn ồn lên cái gọi là "phương án 2", cho phép người di tản đóng thuyền vượt biên, miễn nộp vàng cho Nhà nước. Thiên hạ rủ nhau đi như trẩy hội. Ði theo "phương án 2" người ít nhất cũng vài lạng, người nhiều hai ba chục "cây". Ðó là một secret Polichinelle(10) được cả các quan chức lẫn dân vượt biên đồng tình giữ kín.
Tôi cho rằng Nhà nước, với tư cách bộ máy điều hành quốc gia, không có chủ trương đốn mạt đến thế, như một số báo chí hải ngoại viết. Ðây là sự thông đồng, toa rập của một đường dây quyền lực từ trên xuống dưới, một thứ mafia đã tạo kén trong hệ thống cai trị. Nhà nước, hoặc nói hẹp hơn, ngân khố quốc gia, chẳng thu được gì. Chỉ một số quan chức ở Sài Gòn (và cả ở Hà Nội) là vớ bẫm. Trong đó, cũng theo lời đồn, không thể thiếu anh em họ Phan.
Những lời đồn nói trên rất phổ biến, là thứ chúng khẩu đồng từ ông sư cũng chết, tuy hỏi kỹ thì lại không có chứng cứ nào cả. Mặt khác, chẳng ai có thể bác bỏ chúng bởi vì chúng đầy tính thuyết phục. Vụ tử hình vội vã tên Mười Vân(11), giám đốc Công an Ðồng Nai, được thiên hạ bình luận như một hành động xóa dấu vết cho "phương án 2", nói cho đúng là xóa dấu vết cho các vị đã vớ bở(12).
Người Việt Nam vốn hào phóng với của chùa - tức là của chung cả làng, cả nước, của tập thể, cũng tức là chẳng của riêng ai, cho nên Mai Chí Thọ không bị nguyền rủa. Thực vậy, trong sự tham nhũng tràn lan từ trên xuống dưới, dư luận không xếp Mai Chí Thọ đứng đầu bảng. Còn có những nhân vật tham nhũng lớn hơn.
Dân chúng kết luận : mỡ đến miệng mèo, mèo không ăn mèo ngu. Mọi kẻ có chức quyền ở Việt Nam đều tham nhũng, khác nhau ở chỗ kẻ ít người nhiều mà thôi. Nếu ở các nước tư bản chủ nghĩa người có của dễ có quyền, thì ở nước xã hội chủ nghĩa người có quyền ắt có của.
Dân chúng quen làm ăn với những quan tham mất rồi, làm việc với quan tham không khó, tuy tốn kém, nhưng bù vào đấy lại nhanh hơn, được việc hơn. Có chuyện tới cửa công mà vớ phải ông thanh liêm thì hết hơi, người ta nói thế. Quan thanh liêm như con quạ trắng, dân sợ, dân xa lánh. Thời buổi này mà cứ thẳng băng, đúng phép tắc, không linh động gì hết, thì rõ là bôn-sê-vích dở hơi. Phép nước thì loạn xà ngầu, điều luật này chửi cha điều luật kia, nghị định này leo lên đầu nghị định khác, chính ông thanh liêm sa vào mê lộ luật pháp cũng còn lúng túng như gà mắc tóc, nói gì dân. Thành thử với lũ tham quan người ta khinh đấy, tởm đấy, nhưng để được việc người ta không chọn các quan thanh liêm.
Nếu thuyết phong thủy đúng thì huyệt Lỗ Ao ở làng Dịch Lễ ảnh hưởng quá ghê gớm tới vận mệnh dân tộc. Nó không phải chỉ ảnh hưởng tới một Việt Nam mà còn ảnh hưởng tới cả các dân tộc láng giềng.
Nói những chuyện trên ra để ta cùng suy ngẫm về một hiện tượng, tôi không có ý phủ nhận sạch trơn những gì tốt mà ba anh em họ Phan đã làm. Những cái đó, trong thời đại của những nghịch lý, đều có thật, nhưng là cái hoàn toàn bình thường - bất cứ ai được đặt vào trong những cương vị như thế đều phải làm được cái gì đó, thậm chí là công trạng.
Nói đến Lê Ðức Thọ không thể không nói tới sự kiện Việt Nam chiếm đóng Kampuchea. Việc đưa 200.000 quân Việt Nam vào Kampuchea và ở lì đất nước người ta mười năm là việc liên minh Duẩn - Thọ chủ trương, trong đó Thọ vừa là người khởi xướng, vừa là người thực hiện. Thế giới không bênh vực Khmer Ðỏ. Cả thế giới lên án Khmer Ðỏ vì tội ác diệt chủng. Người Kampuchea đã hoan hỉ đón quân đội Việt Nam vào Kampuchea đánh đuổi Khmer Ðỏ. Nhưng không phải vì thế mà họ hoan nghênh quân đội Việt Nam chiếm đóng nước họ. Hai việc khác nhau không thể nhập một, không thể lấy cái tốt nọ để che cái xấu kia.
Sự kiện Khmer Ðỏ tấn công vùng biên giới Tây Nam hoàn toàn không phải là lý do để Việt Nam đưa quân sang chiếm đóng đất nước người khác(13). Không một người Việt Nam nào muốn đưa con em mình đi chết ở đó. Nhưng bất chấp dư luận, Duẩn - Thọ cứ xua quân sang. Làm gì nhau tốt ? Rồi để quân lại đó, cũng làm gì nhau tốt ? Ðảm bảo cho hành động phiêu lưu quân sự này đã có Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt-Xô, thực chất là hiệp ước liên minh quân sự, ký ngày 3.11.1978. Ông chiếm Kampuchea đấy, thử đụng vào ông coi thử ? Ðàng sau ông là Liên Xô hùng mạnh với tiềm lực nguyên tử dồi dào, thằng nào muốn đụng đầu với Liên Xô cứ việc nhảy vào. Cũng giống như vụ Liên Xô chiếm đóng Afganistan, thế giới phản đối om xòm, nhưng chẳng ai dại gì thò tay vào ổ kiến lửa. Kể cả nước Mỹ.
Ai cũng thấy rằng sau những cuộc chiến tranh dai dẳng trên đất nước mình, các nhà lãnh đạo Việt Nam lẽ ra phải đủ tỉnh táo để chỉ làm một cuộc chiến tranh hạn chế khi Khmer Ðỏ cả gan vượt biên giới, tàn sát người Việt. Cùng lắm, có thể truy kích chúng, với mục đích răn đe, rồi rút quân về. Có thể để lại trang bị, vũ khí giúp nhân dân Kampuchea chống lại bọn diệt chủng. Gia dĩ có thể đào tạo cán bộ giúp họ. Và chỉ thế mà thôi. Nhân dân Kampuchea sẽ ghi ơn các chiến sĩ Việt Nam. Thế giới sẽ hoan nghênh Việt Nam biết xả thân giúp đỡ hàng xóm láng giềng trong cơn hoạn nạn.
Cuộc chiến tranh không tuyên bố ở Kampuchea đã xảy ra. Nó là cuộc chiến tranh không tuyên bố vì Quốc Hội không được hỏi ý kiến về cuộc chiến tranh này. Không hề có một cuộc biểu quyết nào tại Quốc Hội về việc đưa quân đội ra ngoài biên giới. Nhà nước Việt Nam không hề tuyên chiến với nước Kampuchea. Quốc Hội là cơ quan quyền lực tối cao của quốc gia, nhưng nó chẳng có quyền gì cả. Quốc Hội do Ðảng nặn ra, là tay sai của Ðảng, hơn nữa còn là tay sai bị khinh rẻ, đến nỗi Ðảng không cần dùng đến nó cho một việc hợp pháp hóa thông thường.
Thiếu tướng Hồ Quang Hóa, ủy viên Trung ương Ðảng, người được Thọ đưa lên và cũng do Thọ mà trở thành vật hiến tế trong vụ Xiêm Rệp (Siam Reap)(14) nói rằng vụ này cũng như mọi việc lớn việc nhỏ khác ở Kampuchea, đều do Lê Ðức Thọ chỉ đạo. Thái thú Lê Ðức Thọ phế truất Tổng bí thư kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pen Xô Van(15). Thái thú Lê Ðức Thọ đưa cô y tá Quân khu 7 Miên Xam On vào Trung ương Ðảng Nhân dân cách mạng Kampuchea. Cô gái dân tộc Kmer ở Việt Nam 26 tuổi lên chức vèo vèo : làm Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, rồi ủy viên Bộ Chính trị. Cô lên nhanh như thế, theo các cán bộ Việt Nam có mặt tại Kampuchea hồi ấy, là nhờ thường xuyên ra vào ngôi biệt thự sau điện Chăm Ca Mon để được thái thú "dạy dỗ".
Cần phải làm rõ sự thật này một cách dứt khoát : cuộc chiến tranh ở Kampuchea là cuộc chiến tranh của Ðảng cộng sản Việt Nam. Không phải là cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam.
Liên minh Duẩn - Thọ đã biến một dân tộc hiền hòa thành quân xâm lược.
Cũng có thể cãi cho Lê Duẩn chút ít, rằng trong việc này ông ta không phải là đầu vụ. Còn đang say sưa với chiến thắng 1975 và những chương trình lớn, nhiều ảo tưởng hơn thực tế, Lê Duẩn hầu như mặc Thọ muốn làm gì thì làm. Ông ta cũng chẳng thiệt. Cuộc phiêu lưu Kampuchea do Thọ lo toan, xét cho cùng, vẫn cứ mang lại cho Lê Duẩn thêm một vinh quang. Mà vinh quang thì không bao giờ thừa.
Lê Duẩn không biết trong lòng Thọ đang nung nấu mưu đồ lớn. Nếu Thọ thành công trong việc dựng nên một chính phủ Kampuchea vâng lời Thọ thì Thọ sẽ có thêm một sức mạnh quyết định trong mưu toan nặn ra một Liên bang Ðông Dương. Trong Liên bang này Thọ sẽ là đồng chí trên hết các đồng chí. Ðến lúc đó Lê Duẩn sẽ chỉ là bí thư một nước thành viên mà thôi.
Ðám đệ tử Lê Ðức Thọ quá hí hửng về tiền đồ sáng lạn đã để lộ mưu đồ đó ra ngoài. Văn Cao có kể cho tôi nghe chuyện người của Thọ đã gặp những nhạc sĩ nào để gợi ý họ viết quốc thiều cho Liên bang Ðông Dương. Những nhạc sĩ nhận lời được Lê Ðức Thọ mời cơm tại nhà. Ông Bùi Công Trừng có lần nói với tôi : "Thằng Thọ nhiều tham vọng lắm, cháu ơi. Quan sát kỹ động thái của nó cháu sẽ thấy : mọi việc nó làm đều dẫn tới một cái đích - hất Lê Duẩn. Mà không phải chỉ nhằm cái chức tổng bí thư đâu, cái đó chưa đủ cho lòng tham của nó. Nó còn muốn làm tổng bí thư Liên bang Ðông Dương kìa". Như vậy, từ những nguồn tin khác mưu đồ của Thọ cũng đã tới tai Bùi Công Trừng. Ông không ưa Lê Duẩn, nhưng không vì thế mà ông ưa con chuột chũi đang đào hầm dưới ghế Duẩn.
Khi Lê Duẩn phát hiện được mưu toan của Thọ nhằm phế truất mình thì Lê Duẩn căm Thọ lắm lắm. Ðến mức thẳng cánh đuổi Thọ ra khỏi nhà trong lần Thọ đến chia tay với tổng bí thư đang hấp hối. Người trong gia đình Lê Duẩn cho biết Duẩn gọi vỗ mặt Thọ là "thằng phản bội".
Cũng theo tướng Hóa, Lê Ðức Thọ đã lẩn trốn trách nhiệm trước vụ Xiêm Rệp, cũng như nhiều vụ khác nữa, viện cớ bận họp, bận chữa bệnh.
- Anh hãy tìm cho tôi một kẻ dám chống lệnh ông Sáu vào thời gian ấy. - tướng Hồ Quang Hóa nói với tôi trong một bữa cơm ở Sài Gòn - Không ai được phép tự ý làm một việc gì nếu không có lệnh ông Sáu.
Cuộc phiêu lưu quân sự được tiến hành theo sáng kiến và sự chỉ đạo của Lê Ðức Thọ đã làm cho khoảng 52.000 chiến sĩ chết trận, 200.000 chiến sĩ bị thương(16). Chẳng những thế, nó còn làm cho dân tộc Việt Nam bị nhục nhã trước thế giới trong bộ mặt kẻ xâm lược, bị tẩy chay, bị trừng phạt.
Nước Việt Nam được gì, mất gì ở Kampuchea ? Tại sao cho tới nay Ðảng cộng sản Việt Nam không dám nói tới, không có can đảm nhận lỗi trước những người láng giềng đau khổ để xóa đi một trang sử nhơ nhớp ? Thọ đã chết trước khi phải ra đứng trước vành móng ngựa một phiên tòa liên tịch hai nước, với tư cách tội phạm chiến tranh.
Người duy nhất đủ tư cách thay mặt Thọ hôm nay là Lê Ðức Anh.
(1) Chính khách Hoa Kỳ, sinh năm 1923, cầm đầu phái đoàn Hoa Kỳ trong cuộc hòa đàm tại Paris năm 1973.
(2) Máy bay dành riêng cho các vị lãnh tụ.
(3) Theo hồi ức của ông Ngô Thế Tân, Việt kiều ở Pháp, chồng họa sĩ Nguyễn Thị Lựu, thì vào những năm 1926-1927 khi ông Tân còn là học sinh trường Canh nông Tuyên Quang thì vào "một đêm trăng mờ mở cuộc họp đông chừng vài chục người trong một khu rừng nhỏ. Không ai nhìn rõ mặt ai. Tóm tắt lại đây là đại diện một đảng có mục đích hoạt động bằng đủ mọi cách để lấy lại độc lập cho tổ quốc... Mãi đến năm 1956-1957 khi tôi ở Pháp trở lại Hà Nội anh bạn Vũ Ðình Huỳnh mới cho tôi biết người đảng viên bí mật nằm rừng tuyển mộ đảng viên ở trường Canh Nông hồi đó chính là anh...Nay anh đã khuất mà tôi cũng chẳng hay hồi ấy anh ở đảng nào..." Theo các nhà cách mạng thế hệ già Lê Ðức Thọ hồi ấy còn là học sinh.
(4) Tên thật của Lê Ðức Thọ.
(5) Cả ở đây là lớn, to, đầy.
(6) Bộ com-lê âu phục.
(7) Chỉ cấp thấp nhất trong các ngành, ở địa phương chứ không phải ở Trung ương.
(8) Bí mật, do hai chữ đầu b và m.
(9) Màn bí mật che phủ cái chết của Ðinh Ðức Thiện chẳng có lợi gì cho nhà cầm quyền. Nhưng người ta đã bị nô lệ cho thói quen không công khai và cam chịu tác hại của nó.
(10) Bí mật mà ai cũng biết.
(11) Mười Vân xuất thân là một nông dân với học lực lớp 4, bắt đầu được thăng quan tiến chức từ khi làm đội trưởng đội Cải cách ruộng đất tại Hòa Bình.
(12) Những người chạy trốn sự cai trị của cộng sản, di tản bằng thuyền, được thế giới gọi bằng cái tên "thuyền nhân" (boat people), đông tới một triệu rưỡi nhân mạng, là một vết nhơ không thể nào tẩy sạch trên mặt Ðảng cộng sản Việt Nam. Phần lớn thuyền nhân đi từ miền Nam Việt Nam nhằm hướng Mã Lai, Indonesia, số ít đi từ Hải Phòng, vùng mỏ Quảng Ninh nhằm hướng Hongkong. Có thể hình dung những người chủ trương "phương án 2" đã thu được một số lượng vàng lớn đến thế nào. Mười Vân có tội đã nâng giá "mở cửa" từ hai ba cây vàng lên tới mười, mười hai cây vàng cho một đầu người ra đi, gây nên cơn tức giận có lý ở cấp trên của y. Cho nên y bị đưa ra làm vật hiến tế cũng đáng.
(13) Theo những người lính từ chiến trường Kampuchea trở về kể lại thì thời gian đầu người dân Kampuchea rất vui mừng chào đón quân đội Việt Nam tiến sang tiêu diệt Khmer Ðỏ để cứu sống họ. Nhưng việc quân đội Việt Nam ở lì đó năm này qua năm khác đã gây ra một hậu quả xấu xa, nó trở thành quân đội xâm lược, một thứ lính lê dương, và người Kampuchea đã chống lại nó, từ quân Khmer Ðỏ cho tới cả quân của chính phủ bù nhìn Heng Xomrin.
(14) Vụ phản tình báo đã đưa vào xiếc Bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam. Sự việc như sau : căn cứ vào tin đồn do Khmer Ðỏ, có sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Quốc, tung ra thì hầu hết cán bộ lãnh đạo tỉnh Xiêm Rệp đều đã làm việc cho Khmer Ðỏ. Bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam liền ra tay đàn áp, không cần hỏi ý kiến ban lãnh đạo Ðảng bạn. Hơn bốn chục cán bộ của chính quyền Hun Xen bị bắt, bị tra tấn thành thương tật, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Xiêm Rệp tự sát. Trong thời kỳ này Lê Ðức Anh là Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, Hồ Quang Hóa - tham mưu trưởng. Ðứng trên tất cả là Lê Ðức Thọ.
(15) Trước khi làm Tổng bí thư Ðảng cộng sản Kampuchea Pen Xô Van làm trưởng phòng quảng bá tiếng Khmer trong Ðài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
(16) Theo những nguồn tin quân sự đáng tin cậy.
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 32
Ðêm giữa ban ngày
Chương 32
Cảm giác dễ chịu về nơi ở mới là cảm giác đánh lừa. Chỉ vài tuần sống ở đây tôi đã thấy trại giam này là rất tồi tệ, ít nhất thì cũng đối với những tên tù xử lý nội bộ.
Về tổ chức trại quân pháp Bất Bạt giống Hỏa Lò, gồm trại chung và khu xà lim giam cứu. Cái khác là tất cả những người ở đây - cả tù lẫn người coi tù - đều thuộc bộ đội. Ðông nhất là đào binh phạm tội hình sự, còn đào binh vì sợ chết bỏ trốn về nhà thì được gom lại trong các tiểu đoàn kỷ luật. Chúng tôi là tù dân sự đầu tiên đến trại này.
Lê Ðức Thọ rất biết chọn chỗ cho chúng tôi - khu xà lim Bất Bạt nằm lọt thỏm trong một thung lũng rộng cách rất xa các khu dân cư.
ê đây hầu như không nghe được tiếng động của cuộc sống bình thường - không tiếng mõ trâu, không tiếng chó sủa, không cả tiếng cối xay ù ì quen thuộc nơi thôn dã. Khi anh Minh Việt bị đưa đi nơi khác, trong ngôi nhà bốn phòng chỉ còn lại một mình tôi. Và cái vắng lặng khôn cùng.
Người tù xà lim Hỏa Lò còn có thể căn cứ vào tiếng động từ các khu trại chung hay khu nhà bếp vọng lại, hoặc nghe ngóng động thái của bạn tù các phòng bên mà đoán được chuyện gì đang xảy ra bên ngoài, cho dù là những chuyện vớ vẩn, không dính líu gì đến mình. Những cái nhỏ nhặt ấy tạo ra sự thay đổi, giảm bớt sự nhàm chán. Bị tách rời hoàn toàn với thế giới bên ngoài là một khổ hình.
Phạm binh sống không khác trong quân ngũ là mấy. Họ được đi lại tự do trong phạm vi trại. Phạm binh bị giam trong xà lim cũng không có cảm giác của chúng tôi. Họ bị giam cứu có thời hạn, thường không quá vài tháng, chỉ đủ để hoàn cung. Họ hiểu rằng đây chỉ là nơi tạm bợ - sau đó sẽ là tòa án binh, là trại chung, thậm chí trường bắn, nhưng mọi sự là rõ ràng.
Trước mặt chúng tôi là một chân trời xám xịt. Không ai có thể nói cho chúng tôi biết thời hạn chúng tôi phải ở trong cái nhà tù khốn nạn này bao lâu, kể cả đám chấp pháp. Trong xà lim Bất Bạt chúng tôi giống những con thú bị nhốt. Những con chuột, không rõ là chuột cống hay chuột đồng, con nào con nấy béo núc ních mỗi khi chiều xuống lại tụ hội trước cửa sổ xà lim. Chúng nhởn nhơ đi lại, vẻ no đủ, thỉnh thoảng liếc nhìn con thú to ở trong cũi, vẻ khinh khỉnh.
Cái sự giam người vô thời hạn, lại giam trong xà lim, là một cách hành hạ tàn nhẫn. Khỏi cần nói tới mọi sự thiếu thốn trong nhà tù Việt Nam. Ðau răng, xin thuốc không có. Ðau bụng, khai hôm nay thì mai mới được thuốc chữa. Sốt hả, đợi đấy, sẽ có thuốc hạ nhiệt cho anh. Nhưng hôm nay thứ bảy rồi, phải sáng thứ hai ông y sĩ mới tới. Nhưng cái khổ nhất là đói. Ðói lắm. Ðói cồn cào. Ðói mờ mắt. Ðói run người.
Có lần tôi vớ phải khúc sắn ôi trong suất cơm độn, nhựa sắn nhầy nhụa như tinh dịch. Tởm quá, giận quá, tôi quẳng nó xuống hầm trú ẩn. Thế rồi đêm đến, bụng quặn lên vì đói, chịu không nổi, tôi lại phải sờ soạng trong bóng tối tìm khúc sắn vứt đi, lấy miếng giẻ cũng chẳng sạch gì lau cái nhựa gớm ghiếc ấy đi mà nhai trệu trạo chút tinh bột lẫn đất cát.
Nhai miếng sắn mà nước mắt ứa ra. Mà thèm một khúc ngoặt lịch sử, như trong chuyện thần kỳ, để bọn Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ có dịp đến ở đây, như tôi đang phải sống lúc này. Sắn đã thiu, tôi tưởng sẽ bị tháo tỏng, vậy mà lạ thay, không hề gì cả.
Dù sao mặc lòng, trại quân pháp Bất Bạt vẫn còn khá hơn Hỏa Lò. Trước hết, nó hơn ở chỗ tù được ăn cơm nóng chứ không phải thứ cơm nguội ngắt, đã thế còn bị chuột vầy. Ðịnh lượng gạo cho tù là chung trên cả nước, ở Bất Bạt không thể nhiều hơn, nhưng ở Hỏa Lò tiêu chuẩn bị ăn bớt, suất cơm ít hơn hẳn. Sở dĩ ở Hỏa Lò tôi không bị cái đói hành hạ là nhờ kho lương thực dự trữ của Thành.
Tại trại Bất Bạt, chúng tôi được hưởng chế độ chờ giải quyết. Ðảng giữ lời hứa, tuy muộn. Tôi được hưởng tiêu chuẩn thịt như ở ngoài. Một cân thịt được chia làm hai, cứ nửa tháng quản giáo công an(1) mang vào cho tôi một bát thịt kho tàu. Thịt kho mặn, có thể để ăn dần mà không thiu, nhưng ngay lần đầu tôi nếm thấy nó có vị đắng khác thường, không ra vị kẹo đắng ở nhà quê mà cũng không ra vị nước hàng ở tỉnh.
Tôi được đọc về những vụ đầu độc dẫn tới cái chết từ từ. Theo một giả thuyết của Tarlé(2) thì ở đảo Sainte-Hélène Napoléon bị đầu độc bằng những liều thạch tín rất nhỏ. Thấy món thịt kho đáng ngờ, tôi không ăn. Không ăn thì phải đổ đi, mà đổ đi thì tiếc lắm. Trong tù miếng thịt quý như vàng, ai không ở tù không biết được cái sự thèm thịt nó thế nào, nhìn thấy thịt nước miếng đã ứa ra rầm rầm. Nhưng không thể không đổ. Ðổ đi cũng phải khéo, sao cho quản giáo không biết, mỗi ngày đổ một ít vào bô, buổi sáng ra ngoài rửa mặt thì tống xuống hố thải. Suốt thời gian ở trại quân pháp Bất Bạt tôi không ăn miếng thịt nào.
Lần đầu tiên đổ đi những miếng thịt đã lâu không được ăn tôi bần thần suốt một ngày. Nhưng rồi tôi thắng được sự thèm khát. Nhưng không phải đơn giản có thế. Tôi phải đóng kịch bình thản, thậm chí vui vẻ nhận bát thịt quản giáo mang tới.
Nhớ lại lời Mác nói về sự giam lâu trong xà lim cá nhân nhằm làm con người mất trí, tôi tìm cách chống lại. Ngay từ khi ở Hỏa Lò tôi buộc mình tuân thủ một chế độ nghiêm ngặt - trừ những buổi bị gọi ra đi cung, tôi dùng thời giờ còn lại cho việc tổng duyệt kiến thức. Tôi ôn lại, từng mảng một, các lĩnh vực triết học, văn học, xã hội, chính trị... Công việc chiếm nhiều thời gian hơn tôi tưởng. Về triết học tôi đi từ triết học cổ đại Hi Lạp, La Mã, qua triết học Trung Hoa, triết học ấn độ, triết học cận đại, từ Socrate, Aristote(3) cho tới Berdiaev và Jean-Paul Sartre(4)...Về văn học tôi lần theo thời gian đi dần vào từng vùng địa lý, từng nước, suy ngẫm về bút pháp của từng nhà văn. Ðó là một công việc khá thú vị, một thứ viễn du tại chỗ. Nhiều lúc tôi mải suy nghĩ đến nỗi quản giáo mở cửa không hay. Sự suy ngẫm này làm cho tác phẩm của Hemingway, Erich Maria Remarque(5) sống động hẳn lên, lấp lánh dưới một ánh sáng mới.
Ðến khi có được hai cái ruột bút bi thì công việc dành cho cuốn sách choán hết thời gian của ngày tù. Cách tách mình ra khỏi sự đời, tự tạo ra việc để mà bận rộn, giúp cho tôi nghị lực sống. Nhiều lần giữa cuộc hỏi cung tôi giật mình nghe Huỳnh Ngự quát :"Tôi đang hỏi anh. Anh phải trả lời. Anh nghĩ cái chi mô rứa, hử ?".
Nhưng đó là Hỏa Lò. Còn ở Bất Bạt tôi bị bỏ quên dài dài. Có khi cả tháng. Không có ai để tâm sự. Không có cả Huỳnh Ngự để nghe y quát lác. Nếu không có việc viết sách thì đúng là phát điên được. Không hiểu anh em khác thế nào, nếu anh em không nghĩ ra cách chống lại thì gay lắm.
Nhưng cũng không thể bắt bộ não hoạt động suốt tháng suốt năm. Thỉnh thoảng tôi cũng cho nó nghỉ ngơi bằng cách làm vệ sinh căn phòng tới mức sạch bong, hoặc giở quần áo ra vá. Vì lý do sự bắt bớ chúng tôi không rõ ràng cho nên đi khỏi Hỏa Lò tôi phải trả lại quần áo tù (chúng tôi không phải là tù), còn lên tới Bất Bạt thì trại quân pháp, cũng lại theo quy định, không phát cho chúng tôi quân phục (chúng tôi không phải là phạm binh). Thế là tôi chỉ có hai bộ quần áo gia đình gửi vào, giờ đã rách bươm. Vá đi vá lại, miếng trước đè lên miếng sau, cái áo trở thành một thứ cà sa trăm mụn. Ðể khâu vá, tôi chế tạo một cái kim bằng cật bương, không có trôn, hơ trên lửa cho cứng, chỉ thì tước ở mảnh bạt chiến lợi phẩm trong trận chống càn Bretagne ở miền nam Nam Ðịnh năm 1952, vợ tôi dùng nó gói chăn màn quần áo gửi vào cho tôi. Chủ tấm bạt, một người lính của Trung đoàn cơ động số 4, còn để lại dấu tích của anh ta trong một vết máu không sao giặt sạch. Cuộc chiến tranh chống Pháp đã lùi xa vào quá khứ. Những ngày gian khổ, nhưng có tình thương anh em một nhà cũng đã trở thành dĩ vãng, thành chuyện cổ tích.
Một đêm, tôi giật mình choàng tỉnh vì tiếng cửa sổ bị đóng sập. Tôi trở dậy, mò mẫm trong cái hũ nút tìm cửa ra vào. Ngoài trời đen như mực. Một lát sau, qua lỗ thủng tôi nhìn thấy hai công an viên khiêng một cái cáng bước thấp bước cao men theo bức tường ngăn các khu nhà-xà lim, trong ánh đuốc bập bùng. Tôi căng mắt ra nhìn nhưng không nhận ra người nằm trên cáng là ai - ánh sáng vàng vọt lấp loáng trên cáng quá yếu. Chiếc cáng lắc lư trên con đường gập ghềnh. Người nằm trên cáng được phủ một tấm chăn sợi màu xẫm, bất động như một xác chết. Bằng vào mái tóc đen trên khuôn mặt để hở tôi chắc chắn không phải cha tôi, không phải tướng Ðặng Kim Giang - hai ông tóc bạc, lại hói trán. Có lẽ lại Phạm Viết rồi. Nếu như Viết chưa chết.
Sau mới biết người bỏ xác trong tù, thật ngược đời, lại không phải mấy ông già nhất, yếu nhất. Hai người không bao giờ trở về nữa là Phạm Viết và Kỳ Vân. Phạm Viết chết trong xà lim. Kỳ Vân được hưởng một cái chết sang hơn - khi hấp hối anh được mang tới một bệnh viện Hải Phòng. Anh trút hơi thở cuối cùng trên giường sắt nhà thương, bên những đồng chí công an không một phút lơ là canh gác. Sau khi được thả ra Trần Minh Việt, Ðặng Kim Giang bệnh tật đầy mình còn chống chọi được mấy năm nữa rồi mới chết. Riêng tướng Ðặng Kim Giang còn kịp đi tù lần thứ hai trước khi Ðảng họp Ðại hội lần thứ V vì tội "tán phát đơn khiếu nại làm mất uy tín của Ðảng"(6).
Nhà tù cho tôi thấy con người là một sinh vật kỳ lạ. Nó có thể sống được cả trong những điều kiện không phải cho con người.
Tôi cảm thấy sức khỏe sa sút trông thấy sau hai năm nằm xà lim. Nhớ có đọc đâu đó, rằng nhiều nhà cách mạng bị giam vận động bằng cách đi bộ, có người đi hai chục cây số mỗi ngày, tôi bắt chước họ. Ði bộ ở đây nghĩa là đi bách bộ trong lối hẹp giữa hai phản nằm trong xà lim (bốn bước tới bốn bước lui, đi nhanh thì hoa mắt vì quay lại quá nhiều. Tôi đặt mức đi tối thiểu mỗi ngày một chục cây số, không ngày nào bỏ, thế mà bắp thịt chân tay vẫn cứ teo dần, nhão dần. ấy là ngoài đi bộ tôi còn tập thể dục buổi sáng và tối nào trước khi đi ngủ cũng đều đặn luyện khí công và yoga.
Vì ăn uống không đủ chất, trong xà lim lại không có ánh sáng mặt trời, cho nên tôi bị đủ thứ bệnh tật hành hạ. Bệnh viêm họng hạt làm tôi ho sù sụ như một ông già. Máu cứ rỉ ra ở chân răng, lợi thường xuyên bị viêm, có lần nhai phải hạt sạn mà vỡ răng hàm. Dây thần kinh răng trơ ra ở chỗ vỡ, uống nước cũng buốt. Ăn phải nhai trệu trạo, lựa một bên hàm mà nhai. Một hạt cơm rơi vào chỗ răng đau cũng gây ra cơn nhức nhối cả buổi. Xin một nhúm muối để ngậm cũng khó. Ðau răng ở trong tù là khổ nhất, đau thì ráng chịu, đề nghị chấp pháp cho đi chữa thì chúng cười trừ. Tôi còn trẻ mà đã khổ, huống hồ anh em cao tuổi bị nhiều bệnh nặng, mạn tính, còn khổ biết chừng nào.
Chính trong những ngày này tôi sực nhớ tới cô tôi, một bà lang vườn thất học. Trong trường hợp người bệnh bị xuống sức quá nhiều mà mọi thứ thuốc của bà tỏ ra vô hiệu, cô Gái khuyên người bệnh dùng thứ thuốc dân dã rất đơn giản lại không mất tiền là "đồng tiện". Tôi đã nhiều phen cung cấp thứ "thuốc" đó cho các bà hàng xóm. Tôi đứng, mặt đỏ bừng vì ngượng, ngẩng mặt lên trời, cố gắng dặn từng tia ngập ngừng vào cái bát mà một bà ngồi xổm ngay bên chân tôi chìa ra. Trong tù đào đâu ra "đồng tiện", tôi đành dùng nước tiểu của chính mình. Thế mà bệnh lui mới lạ. Tôi khỏi dứt chứng đau họng hạt không phải chỉ ngay lúc đó mà cả nhiều năm sau. Chân răng ngừng chảy máu, cái răng vỡ đau đớn là thế mà cũng đỡ dần. Tôi đồ rằng trong nước tiểu có chất độc ở dạng vi lượng. Chất độc ngấm vào cơ thể gây ra sự chống lại mạnh mẽ, cơ thể phải huy động tức thì toàn bộ lực lượng phòng vệ để tiêu diệt kẻ thù, không phân biệt kẻ thù nào, do đó cùng với chất độc cần thải ra nhiều bệnh bị đẩy lui.
Cũng trong mối quan hệ bất đắc dĩ với đám chấp pháp thời gian ở Hỏa Lò tôi hiểu ra một điều quan trọng : bọn chấp pháp không hề sợ những người tù mạnh miệng dám cãi lại chúng, dám chửi bới chúng. Chửi chúng, chúng mặc - làm nghề hỏi cung chúng có đủ chất lì lợm nghề nghiệp. Người tù mạnh miệng dễ là anh hùng rơm lắm. Là người bốc đồng chính anh ta lại dễ bị bẻ gãy hơn người khác. Rốt cuộc anh ta mệt mỏi trước, bỏ cuộc trước, bởi sự lên gân thường trực, trong khi đó đối thủ vẫn lạnh lùng chờ anh ta tự gục ngã.
Nhưng bọn chấp pháp lại ngại người tù bình thản. Ðó là con người điềm đạm, lịch sự trong quan hệ với chúng, nhưng trong thâm tâm anh ta coi chúng là lũ nhân quần dưới tầm mắt. Gặp người bình thản chúng lúng túng, không biết phải ứng xử thế nào. Lúc đầu Huỳnh Ngự còn giễu cợt (hay đứng đắn không biết) dạy tôi luyện khí công, đến lúc thấy tôi thản nhiên với thân phận, coi nhà tù là nơi ở lâu dài, bình tĩnh rèn luyện thân thể, bình tĩnh trả lời mọi câu hỏi của y, không tỏ ra sợ hãi, y lúng túng, xử sự dò dẫm, như thể người mù gặp ngõ cụt.
Tôi bình thản được không phải vì tôi gan dạ, mà do tôi tuyệt vọng. Tôi nghĩ bọn phát-xít trước sau sẽ giết chúng tôi, việc của chúng là nghĩ cách giết thế nào cho gọn, cho êm mà thôi. Nếu rồi đây tôi ra khỏi được nhà tù của chúng thì không phải vì chúng có lòng tốt, chúng rộng lòng thương chúng tôi, hoặc chúng có lương tri, mà do thời thế buộc chúng phải mở cửa cho chúng tôi ra. Vì thế việc gì phải sợ chúng, phải cúi mình trước chúng.
Thỉnh thoảng lắm Huỳnh Ngự mới gọi tôi ra một lần. Cũng gọi là đi cung. Cũng hỏi tôi về một người, một việc ba lăng nhăng nào đó. Cho ra vẻ vụ án chưa kết thúc.
Tôi không hiểu Huỳnh Ngự sống ở Bất Bạt để trông coi tụi tôi, hay thỉnh thoảng mới lên đây. Chỉ biết trông y có vẻ mệt mỏi lắm. Chiến tranh vẫn kéo dài. Cuộc sống thì mỗi ngày mỗi khó khăn. Bằng những lời vắn tắt anh phạm binh gánh cơm thỉnh thoảng lại thông báo cho tôi biết tình hình sinh hoạt bên ngoài trại. Nạn đói xuất hiện ở Thanh Hóa. Trong mỗi gia đình sự thiếu ăn là chuyện thường ngày. Huỳnh Ngự cũng có một gia đình như mọi người. Người chồng phải công tác xa nhà sinh ra tình trạng hai bếp, ảnh hưởng không nhỏ đến ngân sách gia đình. Trong Huỳnh Ngự không còn cái khí thế hào hứng của ngày đầu ra quân chống chủ nghĩa xét lại hiện đại nữa. Y tã ra, sập sệ, thậm chí không cần che giấu vẻ ngao ngán.
Tội nghiệp, trước trận đánh y còn nhìn thấy phần thưởng dành cho người chiến thắng vẫy gọi. Nhưng trận đánh mãi không kết thúc, cái phần thưởng ngoạn mục thì cứ lơ lửng nơi tít tắp chân trời.
Tôi hiểu tâm trạng y. Lớp cán bộ chúng tôi, trong đó có cả tôi lẫn Huỳnh Ngự, đã quen sống bằng những lời hứa của các nhà lãnh đạo. Mà họ hứa thì hay lắm. Trong kháng chiến chống Pháp họ bảo : hãy kiên trì chiến đấu, hãy chịu đựng gian khổ, tới ngày chiến thắng chúng ta sẽ xây dựng một cuộc sống giàu có, hạnh phúc...
Kháng chiến thắng lợi rồi thì cuộc sống mỗi ngày mỗi xo rụi thêm, mỗi cực nhọc hơn. Họ lại động viên : chúng ta còn phải vất vả là do Mỹ-Diệm. Chúng ta phải tiếp tục cuộc chiến đấu để giải phóng đồng bào miền Nam ruột thịt, chúng ta phải thắt lưng buộc bụng xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải làm nhiệm vụ quốc tế với nhân dân Lào Miên anh em... Cuộc chiến đấu của chúng ta không phải chỉ cho hôm nay, nó còn cho ngày mai, cho muôn đời sau...Vân vân và vân vân.
Chúng tôi không nhận ra một sự thật rằng những nhà lãnh đạo chúng tôi là những người không có nghề nghiệp. Họ chỉ biết phá, chứ không biết xây. Họ không biết và cũng không thèm học cách cách quản lý xã hội sao cho ra nhiều của cải. Quen sống bằng chiến tranh, nhờ chiến tranh mà tồn tại, họ chỉ chú trọng xây dựng các lực lượng vũ trang để làm chiến tranh tiếp. Bằng tiền và vũ khí người khác. Liên Xô, nước đàn anh của phe xã hội chủ nghĩa liên tục đổ của vào Việt Nam. Ðến nỗi quốc hiệu CCCP(7) một thời được người Việt Nam hóm hỉnh diễn dịch thành Các Chú Cứ Phá, Càng Cho Càng Phá.. Những khoản viện trợ được rót vào một cái thùng không đáy. Sự quản lý kinh tế bằng các biện pháp hành chính làm cho đời sống cứ tồi tệ thêm mãi, èo uột thêm mãi, nhưng trong bất cứ báo cáo nào của ông thủ tướng vĩnh cửu cũng không thiếu câu đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước. Một bước là bao nhiêu, bước ngắn hay bước dài, ông không nói rõ. Không đem lại được cho nhân dân mỗi người một cân thịt một tháng, các nhà lãnh đạo hào phóng thế vào đó hai cuộc cách mạng toàn thế giới.
Nhà tù có cái tốt của nó. Nó cho con người thời gian suy nghĩ, nó kích thích bộ não lười biếng. Nhưng thôi, nghĩ về họ làm gì. Nghĩ thế đủ rồi. Ðủ để vĩnh viễn chia tay. Như nhà thơ nào đó đã viết :
Anh đi đường anh. Tôi đi đường tôi.
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Ðã quyết không mong sum họp nữa,
Bận lòng chi lắm lúc chia phôi.
Người có luân thường không thể tôn trọng Ðảng còn vì một lẽ : lúc nào Ðảng cũng chì chiết, cũng nhắc đi nhắc lại không mệt mỏi rằng các anh được sống, được làm việc là nhờ ơn Ðảng. Không có Ðảng đời anh là đời con chó. Cái sự kể công kỳ cục này được trắng trợn trưng ra ở mọi nơi, mọi lúc, kệch cỡm vô cùng, chối tai vô cùng, nhưng nó lại làm khoái con ráy các nhà lãnh đạo. Và họ ra sức khuyến khích sự ca ngợi Ðảng, tâng bốc Ðảng, tức là tôn vinh chính họ. Họ chỉ ca ngợi nhân dân khi nào họ yếu thế, họ mắc sai lầm, họ đang đứng trước nguy cơ đe dọa sự tồn tại của họ.
Còn nhớ một trong những buổi hỏi cung đầu tiên Huỳnh Ngự mắng tôi :
- Anh là cái thằng gần chùa kêu bụt bằng anh. Láo lắm ! Toàn dân ta một lòng tôn kính các vị lãnh tụ(8), vậy mà anh gan cóc tía, dám coi các vị không bằng nửa con mắt. Riêng tội nớ cũng đáng chết rồi. Nghĩ mà coi, không có Ðảng sao anh có ngày nay. Ðảng nuôi nấng anh, Ðảng dạy dỗ anh cho anh nên người, còn anh đã không nhớ ơn thì chớ, lại còn học đòi ba thằng phản động chống Ðảng....
Bình thường, khi y cao hứng lên thuyết giảng về chủ nghĩa Mác thì tôi ngồi im. Thôi thì mỗi người mỗi tật, y thích biểu diễn kiến thức mác-xít thì mặc y. Chẳng lẽ những hiểu biết bấy lâu tích cóp được lại để đó, trong khi trước mặt là một thằng thính giả muốn hay không cũng phải chịu chuyện ? Nhưng một hôm ngứa tai quá, tôi quạt lại :
- Bác nói không đúng. Nói thế không được.
- Cái chi không đúng ?
- Sinh ra tôi là cha mẹ, nuôi tôi cũng là cha mẹ. Nói Ðảng nuôi tôi làm sao lọt tai được ? Tôi thừa nhận như thế hóa ra tôi bất hiếu ư ? Người khác nghĩ thế nào không biết, chứ khi tôi bắt đầu tham gia cách mạng thì tôi mặc quần áo mẹ tôi may cho, miếng ăn thì do nhân dân chu cấp...
Huỳnh Ngự trợn trừng :
- Anh...anh dám ăn nói như vậy... hử ?
- Tôi nói thế không đúng hay sao ? Sự thật là như vậy. Khi Ðảng chưa nắm tài chính thì bộ đội tới làng nào làng đó nuôi. Ðóng góp thóc gạo, lập kho quân lương, góp tiền góp của cho kháng chiến - ai làm ? Nhân dân cả đấy.
- Hừ !
- Còn đến lúc chính quyền đã vững, đã có chế độ lương, thì tôi là công chức, tôi làm thì tôi được trả công, tức là tôi nuôi tôi chứ. Chuyện nhà nước cho tôi đi học Liên Xô cũng là chuyện bình thường, nước nào chả có - cần có cán bộ làm việc thì nhà nước nào cũng cử người đi học, đi tu nghiệp, theo chế độ đào tạo....
- Tui.... tui.... thiệt không ngờ anh... vô ơn bạc nghĩa đến... đến như vậy ! - y ré lên, lại bắt đầu nói lắp - Ðảng bắt... bắt anh thực không...không oan chút mô.
- Các cơ quan Ðảng sống bằng tiền của ai ? Của nhân dân ! Ðảng có bao nhiêu đảng viên ? Ðảng phí bao nhiêu một tháng ? Một năm Ðảng thu được bao nhiêu ? Tính dễ lắm ! Ðảng phí một năm, tôi biết, không đủ dùng cho một ngày Ðại hội. Lại còn tiếp khách, quà cáp cho các đoàn nước ngoài, tiền ở đâu ra ? Lấy của nhân dân cả đấy. Tôi có người quen làm ở Bộ Tài chính. Chị cho biết Bộ quản lý một ngân khoản đặc biệt. Trung ương lệnh lấy tiền thì chi, không ai được phép hỏi tiền lấy ra để làm gì. Mà ngân khoản đó không phải quỹ Ðảng đâu nhá. Ðấy là chuyện Trung ương. Các cơ quan Ðảng ở các cấp đều dùng kinh phí nhà nước cho mọi hoạt động, kể cả mua một cái xe ô tô cũng lấy từ kinh phí nhà nước. Là tiền của dân cả đấy. Phải nói ngược lại mới đúng : dân nuôi Ðảng, chứ Ðảng làm sao nuôi được dân ! Ngày trước, trong kháng chiến chống Pháp, tôi còn nghe Ðảng nói Ðảng ở trong lòng dân. Bây giờ không nghe nói thế nữa, chỉ nghe nói Ðảng lãnh đạo, Ðảng chăm lo cho dân, Ðảng là cha mẹ dân. Tôi, cũng như mọi cán bộ, cũng là dân, nhân dân chúng tôi nuôi Ðảng, chứ không phải Ðảng nuôi chúng tôi đâu, xin lỗi.
Huỳnh Ngự la hét rầm rầm, nhưng tôi hiểu : y muốn trốn chạy cái lý không thể bác.
- Giờ giữa tôi với Ðảng tình nghĩa đã hết. Còn bác, còn tôi, rồi ra bác sẽ thấy khi tôi chỉ làm cho cá nhân mình, không còng lưng phục vụ thằng nào nữa, cuộc sống của tôi ra sao. Chắc chắn nó sẽ là cuộc sống hơn hẳn khi tôi mang tiếng được Ðảng nuôi nấng.
Tôi biết : sống không dính tới Ðảng là khó : Ðảng đã nắm hết mọi đường sống của dân rồi. Nhất cử nhất động phải được Ðảng cho phép, ngay cả cái sự ở, sự đi, sự kiếm ăn của mình cũng phải được Ðảng cho phép mới được. Nhưng tôi sẽ sống như tôi muốn, dù cho cuộc sống có khó tới mấy. Tôi sẽ chữa xe đạp vỉa hè, tôi sẽ trồng rau, cấy lúa hoặc làm thợ may, thợ điện, thợ cắt tóc. Làm gì thì làm, chứ không khi nào tôi đi làm cho Ðảng nữa.
Tôi nhớ một buổi kiểm thảo tại cơ quan, nhà báo Hùng Thao gầm lên :"Nuôi cán bộ như lợn, mắng như chó, thời trước địa chủ đối với tá điền còn tử tế hơn !". Câu nói bật ra trong phút không kìm giữ làm anh khốn khổ. Người ta chẳng những không tha phê phán anh mà còn phê phán mạnh hơn nữa, sau đó anh còn bị trù dập một thời gian dài.
Quả nhiên, sau khi ra tù, không đi làm cho nhà nước nữa, đời sống gia đình tôi khấm khá hẳn lên, tinh thần cũng thoải mái, kể cả khi tôi làm thuê cho những người theo lý thuyết của các nhà mác-xít là những tên bóc lột. Những ông chủ cá thể xử sự có văn hóa hơn hẳn ông chủ lớn mà tôi phục vụ suốt đời.
(1) Quản giáo công an thỉnh thoảng mới tới, là người của Cục chấp pháp, chứ không phải người của Cục quản lý trại giam.
(2) Một nhà sử học xô-viết. Ông có viết một cuốn về cuộc đời của Napoléon, trong đó có nói tới giai đoạn bị đi đầy ở đảo Saint-Hélène.
(3) Aristote (384-322), Socrates (469-399 trước CN), các triết gia cổ đại.
(4) Jean-Paul Sartre (1905-1980), triết gia, kịch tác gia, nhà văn, nhà báo chính trị, ngọn cờ của chủ nghĩa hiện sinh ở châu Âu.
(5) Erich Maria Remarque (1898-1970), nhà văn Ðức quốc tịch Mỹ, nổi tiếng với những tiểu thuyết Mặt Trận Phía Tây Yên Tĩnh, Khải Hoàn Môn, Một Thời Ðể Sống Và Một Thời Ðể Chết.
(6) Ông Ðặng Kim Giang thọ 73 tuổi, bị tù thời Pháp thuộc 12 năm, thời xã hội chủ nghĩa 7 năm, tổng cộng tất cả những năm tù và quản thúc trong cả hai chế độ là 25 năm. Ông qua đời trong căn nhà dột nát rộng 14 mét vuông ở khu chùa Liên Phái, nơi trú ngụ của lớp cùng dân của xã hội - những bà đồng nát, những người phu quét rác không hộ khẩu và những đứa trẻ làm nghề móc túi.... Khi hấp hối vẫn có hai công an viên ngồi kèm. Bà Giang phải bảo họ đi ra cho ông được nhắm mắt.
(7) Viết tắt (tiếng Nga) Liên bang các nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết.
(8) Khái niệm lãnh tụ trong Huỳnh Ngự rất rộng. Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn cũng được y gọi là lãnh tụ.
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 33
Ðêm giữa ban ngày
Chương 33
Có vẻ như cái sự im ắng tại Bất Bạt chứng tỏ giai đoạn giam cứu đã kết thúc. Tôi sống trong tâm trạng chờ đợi : để xem Ðảng xử sự ra sao. Nhưng, giống như những con đom đóm, những tia hi vọng nhỏ nhoi lập lòe một thoáng rồi chìm nghỉm trong bóng đêm dày đặc. Những cuộc hỏi cung muộn mằn, càng về sau càng thưa, diễn ra uể oải, như thể cả người hỏi cung lẫn người bị hỏi cung đều quá mệt mỏi. Với vẻ mặt ngán ngẩm đời cạo giấy, Huỳnh Ngự máy móc đặt những câu hỏi vô duyên. Chẳng hạn, chợt nhớ ra, y bắt tôi khai về cuộc gặp gỡ vào ngày ấy tháng ấy giữa tôi với Rasid tại câu lạc bộ Quốc tế(1). Những sự kiện vớ vẩn như vậy chỉ có Trời nhớ được nó có hay không và nó đã diễn ra thế nào. Tôi từ chối không trả lời, nói tôi không nhớ, tù lâu quá trí nhớ tôi ngày một kém. Không nhớ thì thôi, y cũng không thúc bách, không bắt buộc tôi phải nhớ.
Ðáp lại câu hỏi của tôi liệu cứ dằng dai thế này mãi thì biết đến bao giờ vụ án mới kết thúc được thì, thay vì hét ầm lên để át giọng như trong những ngày đầu, Huỳnh Ngự tránh nhìn vào mắt tôi, ấp úng :
- Cán bộ cỡ tui sao biết được ! - y nhỏ nhẹ - Việc của Trung ương chớ có phải của cấp vụ cục đâu... Ngay cả cấp Bộ cũng không có thẩm quyền xử lý vụ các anh nữa là. Thôi thì anh hãy yên tâm chờ đợi. Cứ phải tin tưởng tuyệt đối ở Ðảng. Ðảng là cha mẹ. Ðảng trước sau cũng sẽ giải quyết thỏa đáng cho các anh.
Khi nói câu đó nét mặt y hiền hẳn đi, nụ cười miễn cưỡng làm hằn sâu hai đường pháp lệnh, trông tội nghiệp lắm. Mới có ba năm mà tôi thấy Huỳnh Ngự già đi nhanh quá. Y đã gày còn gày thêm. Mùa đông da mặt xám xịt, nhăn nhúm. Bộ dạ đen Tôn Trung-sơn bất ly thân chảy ra, bạc màu, mất tuyết, sờn nhiều chỗ. Có hôm tôi ngồi viết báo cáo nghe loáng thoáng bên tai Huỳnh Ngự và anh hương sư bàn chuyện thời sự - bìa nào, ô số mấy bán gì, ô thịt giờ bán đậu phụ, ô nước mắm thay bằng ma-gi, nhà nào có mấy bìa C, mấy bìa A(2)... Tôi nghe mà thương vợ ! Bức thư chót vợ tôi báo tin bị chuyển công tác vào Hà Ðông, tới một công trường xây dựng, hàng ngày đạp đi đạp về nuôi con, đi chợ xếp hàng với tấm bìa có những ô tí xíu...
Một hôm bỗng Huỳnh Ngự vào tận xà lim, hiền lành ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi ngạc nhiên - chẳng bao giờ tôi bắt gặp y xử thế như vậy. Thân thiện quá, tử tế quá ! Trước đây, trong bất kỳ trường hợp nào y cũng không quên nhấn mạnh sự khác biệt giữa người tù là tôi và y - người hỏi cung.
- Tui tới để... báo cho anh... một tin buồn.... - y nghẹn ngào - Bác của chúng ta... Bác đã... đã... Bác... mất rồi !
Thế là ông Hồ Chí Minh không còn nữa !
í nghĩ đầu tiên đến với tôi là cùng với cái chết của ông Hồ bọn chuyên quyền càng rảnh tay hoành hành. Nói gì thì nói, ông Hồ còn sống vẫn là một vật cản. Bởi vì ông đã hô hào đoàn kết, ông có đạo đức giả khi nói thế thì cũng vẫn còn hơn ông không nói, ông không đoàn kết thực thì ông cũng không cho phép cấp dưới bóc nốt cái vỏ của câu nói. Không còn quyền nhưng ông còn cái uy, cái thế buộc chúng phải nể. Có làm gì chúng vẫn phải ngó ông một cái, xem ông phản ứng ra sao.
- Bác mất hôm nào ? - tôi hỏi khẽ.
- Cách đây ba ngày - Huỳnh Ngự đáp, một giọt nước mắt lăn trên má.
Tôi nhẩm tính : bốn ngày trước là mồng 2 tháng 9, Tết Ðộc lập, trại được ăn một bữa tươi, thức ăn có thêm thịt rang mặn. Như vậy, ông Hồ qua đời vào ngày mồng 3(3).
Tin ông Hồ Chí Minh qua đời không làm tôi xúc động. Tôi không vui mà cũng chẳng buồn. Bây giờ đối với tôi ông là người dưng. Ông đã bị xóa sổ trong trí nhớ của tôi. Ông đã đi khỏi cuộc đời tôi.
Tôi cũng chẳng căm thù người đứng đầu cái nhà nước đang hành hạ tôi. Tôi biết, ông không phải là thủ phạm. Nói cách khác, không phải đầu vụ. Cũng không phải tôi muốn bào chữa cho ông Hồ. Khi ông đã kề đùi kề vế với Duẩn, với Thọ, thì mọi việc làm của họ ông đều có dự phần, vinh cũng như nhục. Nhưng tôi tin nhận xét của cha tôi - ông Hồ không phải người ác. Không hiểu sao ông lại làm ngơ để xảy ra vụ án thảm khốc này ?
Ðể tôn trọng nỗi đau khổ của Huỳnh Ngự, tôi vờ buồn bã, quay đi. Huỳnh Ngự thì lại nghĩ rằng tôi đau đớn lắm, tưởng tôi muốn giấu những giọt nước mắt yếu đuối, ra sức an ủi tôi. Rằng y biết rất rõ quan hệ thân thiết của gia đình tôi với ông Hồ. Rằng y đã báo tin cho cha tôi, ông già lặng đi, không nói được lời nào. Rằng Bác mất đi là nỗi đau đớn khôn nguôi trong lòng mọi người, là tổn thất vô cùng to lớn cho cách mạng Việt Nam, cho cả chúng tôi, những cán bộ đi theo cách mạng lâu năm chẳng may mắc tội với Ðảng. Nhưng phải biết biến đau thương thành sức mạnh. Với chúng tôi, niềm thương tiếc Bác phải biểu lộ trong sự thành tâm hối lỗi, ra sức cải tạo tốt để mau chóng trở về với hàng ngũ cách mạng, trở về trong lòng Ðảng.
Giá vào lúc khác chắc chắn câu nói lăng nhăng của y về cải tạo sẽ làm bùng lên một cuộc đấu khẩu. Nhưng lần này tôi im lặng. Tôi biết Huỳnh Ngự đang đau khổ thực sự trước cái chết của lãnh tụ vĩ đại. Không phải mình y, tôi nghĩ, trong những ngày này có bao nhiêu người đang thương khóc Bác Hồ.
Y lặng lẽ chia tay với tôi, ý tứ khóa cửa, cố không gây ra một tiếng động mạnh, như thể không phải y khóa cửa xà lim mà khép cửa phòng bệnh.
Thời gian chậm chạp trôi, với những ngày, những tháng giống hệt nhau...
Khi vừa bị chuyển tới trại quân pháp, tôi còn tiếp tục đánh dấu ngày tháng như khi còn ở Hỏa Lò với Thành, lâu dần rồi ngày đánh dấu ngày không, đâm ra lẫn lộn lung tung. Tôi chỉ chỉnh lại sự đo đếm thời gian bằng những ngày lễ tết, tù được ăn tươi, và mỗi lần gặp gia đình, nửa năm một lần. Mọi người trong gia đình tôi nghĩ rằng trong óc tôi bắt đầu có sự trục trặc. Tôi không cải chính - như thế mà tốt hơn. Thấy tôi dở điên dở dại bọn chấp pháp càng đỡ làm phiền.
- Trời ! - vợ tôi kêu lên - Anh không nhớ được bây giờ là tháng mấy nữa hay sao ?
Tôi nhìn thấy trong mắt vợ tôi nỗi tuyệt vọng vô bờ.
Ðể cho tôi khỏi quên thời gian vợ tôi mang cho tôi những cuốn lịch túi, nhưng chỉ cần lãng đi một ngày là tôi lại bắt đầu lẫn. Sau tôi không thèm đánh dấu ngày nữa mà chỉ nhớ áng chừng bây giờ là tháng nào thấy cũng đủ.
Cái sự đơn điệu của đời tù xà lim thật ghê gớm. Một cuộc cãi nhau với chấp pháp cũng là một cơ hội giải tỏa tinh thần. Nhưng không phải lúc nào cũng cãi nhau được. Nếu đám chấp pháp không chọc tôi bằng những lời lẽ xúc phạm thì tôi cũng chẳng cãi nhau với họ làm gì.
Sau cuộc chia tay với anh bạn bác sĩ không quen biết và Trần Minh Việt, tôi không được ở dưới một mái nhà với người nào trong vụ chúng tôi nữa. Những phạm binh đến rồi đi, không ai nói chuyện với ai. Nếu ở bên cạnh có người cùng vụ thì tôi biết ngay. Quản giáo bộ đội phụ trách người trong vụ chúng tôi mở cửa cho nhận cơm, cho ra tắm bao giờ cũng mở lần lượt hết phòng này tới phòng khác trong một ngôi nhà rồi mới sang nhà khác. Nếu anh ta mở cho tôi rồi đi ngay có nghĩa là tôi ở một mình. Quản giáo phụ trách phạm binh không có nhiệm vụ mở cửa cho chúng tôi. Anh ta đi riêng, mở cửa cho những người tù mà anh ta quản lý.
Anh quản giáo bộ đội khoảng ba mươi tuổi, mặt mũi hiền lành, quần áo chững chạc, nhưng lại quá ít lời, chẳng bao giờ nói một câu. Không thể nào dò hỏi anh ta được điều gì. Có hỏi xin thuốc thì anh ta cũng chỉ ừ hữ rồi lặng lẽ khóa cửa lại. Trông cung cách thì thấy anh ta đoán được chúng tôi là ai, do đó mà trong cách đối xử thấy có phần trọng vọng.
Tôi có Arlequin ở chung là trong thời kỳ này.
Một hôm quản giáo cho ra tắm, tôi đang giội nước ùm ùm bên cạnh cái bể chứa sát tường nhà giam thì bỗng thấy một sinh vật bé xíu, đen xì cuống quít nhảy loi choi dưới chân mình. Nhìn kỹ, thì ra một con cóc vừa mới đứt đuôi nòng nọc.
Tôi nhìn anh chàng quản giáo. Anh ta vẫn chắp tay sau lưng nghênh trời nghênh đất. Tôi tắm vội tắm vàng, vừa kỳ cọ vừa dùng chân lùa con cóc về phía cửa xà lim. Nó nhảy tránh chân tôi, lao bạt mạng về hướng tôi muốn. Lối vào xà lim tối om, hẳn con cóc nghĩ đó là chỗ lẩn tránh tốt. Tôi kết thúc buổi tắm sớm hơn thường lệ, cứ để đầu ướt đẫm chạy thẳng vào phòng, tự mình khép cửa lại. Anh chàng quản giáo trợn mắt, không hiểu vì sao hôm nay tôi lại có thái độ lạ lùng như vậy.
Ðể cho con cóc nhỏ bé không thể chui ra ngoài qua khe cửa, tôi lấy cái áo rách chèn kín cái khe đó. Những ngày đầu tôi rất lo nó chết đói : tôi không biết nuôi cóc bằng cái gì. Nhưng trong xà lim con cóc vẫn sống nhăn và lớn lên rất nhanh. Ðể ý quan sát thì ra nó ăn kiến. Ðàn kiến trú ngụ trong xà lim vợi hẳn.
Sự bận rộn với con cóc làm cho cảnh sống của tôi dễ chịu hơn. Bây giờ hàng ngày tôi có được cái thú ngồi im lặng trên phản mà quan sát nó nhảy nhót qua lại trên khoảng đất trống giữa cái phản và cánh cửa.
Con cóc xấu xí nhưng chăm chỉ chẳng mấy khi ngồi yên một chỗ. Suốt ngày nó tha thẩn nhảy tới nhảy lui, thỉnh thoảng lại đớp lia lịa những con kiến vô hình trong bóng tối.
Tôi buộc phải đặt chân rất thận trọng mỗi khi bước xuống đất kẻo dẫm chết nó. Mà tôi phải xuống đất nhiều lần trong một ngày để tập thể dục, đi bách bộ mươi, mười lăm phút giữa giờ làm việc.
Nhà cầm quyền cuối cùng đã cho phép tôi được nhận mấy cuốn sách : một cuốn từ điển giải nghĩa tiếng Nga và hai cuốn tiểu thuyết Liên Xô bằng tiếng Pháp. Từ điển là để tra cứu, nhưng với tôi nó là cuốn sách để đọc, để nghiền ngẫm. Tiếng Pháp của tôi vốn tồi, gặp từ nào không hiểu thì bỏ qua, gặp lại nó vài lần thì dựa vào văn cảnh mà đoán nghĩa. Tôi mải mê đọc đến nỗi nhiều khi quản giáo mở cửa mới giật mình biết rằng đã tới giờ ăn sáng hoặc ăn chiều. Ðến khi có hai cái ruột bút bi thì tôi còn bận hơn nữa với việc viết cuốn Miền Thơ ấu. Tôi phải chia công việc ra, lúc viết lúc đọc, thay đổi công việc cho óc khỏi mệt. Không thể viết nhanh được vì phải tiết kiệm giấy : tôi chỉ có trong tay một số vỏ thuốc lá và vỏ giấy từ những cái kẹo gia đình gửi cho.
Con cóc cũng chẳng buồn để ý tới tôi. Nó còn bận kiếm ăn. Ðược cái giống kiến kém trí khôn. Chúng không hề để ý tới hiểm họa đang rình rập bên cạnh. Thậm chí chúng thản nhiên giăng hàng đi ngay trước mặt con cóc, thỉnh thoảng bị mất vài con nhanh như chớp mà không biết.
Kể ra kiếm được con chuột nhắt con để nuôi thì vui hơn. Hồi còn nhỏ ở nhà quê tôi nuôi đủ thứ : chim sẻ, chim gi, sáo sậu, sáo đen, sáo đá... Chưa bao giờ tôi nghĩ mình sẽ nuôi một con chuột làm bạn, đừng nói gì một con cóc. Với chim sẻ, chim gi thì dễ bắt lắm - chỉ cần theo dõi những con chim bố mẹ tha rác làm tổ dưới mái nhà, chịu khó chờ ít lâu là chắc chắn bắt được chim con vừa vỡ bọng cứt. Với giống sáo thì nhiêu khê hơn. Phải lấy cót cuộn lại thành một cái ống dài ở cuối phình ra với một cái giỏ thủng, cho vào trong đó ít rơm, bọc kín lại bằng chiếu rách, rồi buộc vào một cành ngang, chọn sao cho tránh hướng mặt trời chiếu vào tổ là thể nào cũng có đôi sáo bố sáo mẹ chọn làm tổ.
Trong các giống chim gần người tôi thích chim gi hơn cả. Con chim bé bỏng với bộ lông màu gụ và cái mỏ sừng mập mạp nếu được nuôi từ lúc bé tí thì luyến chủ vô cùng. Nó không rời tôi nửa bước. Khi lớn hơn, đã có thể tự kiếm ăn, thì nó cũng bay xa, nhưng chỉ cần gọi "tơri, tơri.i.i..." là nó đã tự đâu xà xuống trước mặt. So với sẻ và các loại sáo, chim gi thông minh hơn. ấy là tôi nghĩ thế, chứ giữa loài chim với nhau tiêu chuẩn thông minh chắc phải khác. Một con chim bỏ loài để theo người hẳn bị chúng chim coi là xuẩn ngốc.
Chao ôi, giá mấy thằng cha độc tài ở nước tôi có được cái đức độ của Sa hoàng thì may biết mấy! Chúng tôi sẽ được phát vãng như những nhà cách mạng Nga lên một vùng rừng núi nào đó, kiểu Sibir(4) hoang vu, chứ không phải nằm mốc ra ở đây. Trong cuộc sống phát vãng đáng mơ ước đó tôi sẽ buộc tổ sáo trên những cành xoan, hoặc của bất cứ cây gì. Tôi sẽ nuôi những con sáo con mép vàng hoe bằng cào cào châu chấu và cơm nguội cho tới khi chúng khôn lớn. Trong tuổi thơ của tôi, rất tiếc, tôi chưa một lần bóc lưỡi cho sáo để chúng nói được tiếng người.
Ðành nuôi con cóc xấu xí kia vậy. Những ngày đầu nó còn lẩn tránh tôi, mỗi khi tôi tới gần là nó vội vã nhảy đi. Lâu dần rồi cu cậu cũng quen, không đến nỗi xa lánh tôi như trước. Thậm chí thỉnh thoảng tôi có vuốt ve nó, nó vẫn ngồi im. Người ta nói khi đụng vào cóc, da nó sẽ tiết ra một loại mủ độc, chạm vào thì bị lở loét. Con cóc của tôi chẳng tiết ra chất gì hết. Chắc nó không muốn hại tôi. Quen thêm chút nữa, tôi đặt nó vào lòng bàn tay rồi đưa lên tận mắt ngắm nghía. Nó cũng mặc. Chỉ tiếc nó không biết nói, tôi có nói gì nó cũng không thèm đáp, chỉ giương đôi mắt thao láo ra nhìn lại.
Cuộc sống trong khu xà lim lặng lẽ trôi. Gió vẫn thổi, mây vẫn bay, tôi vẫn ngồi đó, Trong khu biệt giam bên cạnh chiều chiều vẳng tới tiếng ngâm thơ khe khẽ, không rõ là của ai. Từ cửa sổ phòng tôi có thể nhìn thấy một chút xíu phần trên cửa sổ, từ đó vẳng ra tiếng ngâm thơ, nhưng người ở trong cũng không thể ngó thấy tôi. Nhặt được một mẩu gương vỡ tôi bắt ánh mặt trời buổi sáng chiếu hắt sang cửa sổ đó, hi vọng một chút ánh sáng sẽ lọt được vào trong phòng. Quả nhiên người ở trong bắt được tín hiệu của tôi, anh ta gõ vào chấn song mấy hồi liền để trả lời. Lính gác chạy xồng xộc đến nhưng không bắt được quả tang chúng tôi liên lạc với nhau, đứng ngơ ngẩn một lát rồi bỏ đi.
Một hôm, cả khu xà lim náo động hẳn lên vì những tiếng gào thét ầm ĩ, những lời chửi rủa tục tằn. Một lát sau qua lỗ thủng ở cửa tôi nhìn thấy một người tù bị nhét giẻ vào miệng, mặt đỏ gay vì khó thở hoặc vì tức giận. Anh ta xoạc cả hai chân ra để chống lại, không chịu đi, nhưng hai tay lính gác trẻ hơn và khỏe hơn vẫn lôi xềnh xệch anh ta đi được, chắc hẳn để tống vào một thứ xà lim kỷ luật kiểu như ca-sô(5) Hỏa Lò. Anh tù còn trẻ, mặc quần áo bộ đội.
Lợi dụng những người lính gác đã đi ra ngoài khu xà lim, người ở ngôi nhà trên đã bắt được tín hiệu của tôi kêu lên :
- Ai đó ? Kỳ Vân đây !
- Chào anh ! Hiên đây ! - tôi đáp lại.
- Vững vàng nhá !
- Nhất định rồi. Anh khỏe chứ ?
- Khỏe lắm ! Ðừng tin lũ bịp ! Chúng nó dựng vụ đấy !
Kỳ Vân nói dối. Anh yếu hơn chúng tôi nhiều. Nghe giọng anh thì biết. Với tiêu chuẩn ăn uống ở trại không ai có thể khỏe được. Anh lại không được tiếp tế nhiều như cha con tôi. Gia đình tôi dù sao cũng còn khá hơn gia đình anh. Các con anh sống được là may, nói gì đến tiếp tế cho bố. Tất nhiên, những gia đình cùng chung cảnh ngộ cũng không quên chăm sóc các con anh, nhưng xin tiếp tế cho anh thì không được - không đời nào Lê Ðức Thọ cho phép. Các con anh còn nhỏ quá, lại đang đi học, không thể đi thăm và tiếp tế cho anh.
Ðó là lần cuối cùng tôi gặp Kỳ Vân.
Nếu bọn Duẩn-Thọ cho chúng tôi ở cùng nhau để trông nom nhau, săn sóc nhau thì chắc gì Phạm Viết, Kỳ Vân đã chết thảm trong tù.
Con cóc lớn nhanh như thổi. Mới hôm nào còn là một con cóc bé xíu, bé đến nỗi tôi không cảm thấy trọng lượng của nó khi đặt nó lên tay, thế mà mới hai ba tháng sau nó đã chầm chẫm, trở thành một con cóc thanh niên lực lưỡng.
Ðến giai đoạn này cu cậu bắt đầu thay da : màu đen mất dần, xuất hiện những mảng loang lổ màu nâu đất xen lẫn màu vàng thẫm. Lũ kiến vợi đi trông thấy. Ðể nuôi con cóc tôi phải nhịn một ít đường cát tiêu chuẩn để nhử thêm kiến vào phòng. Giống kiến xem ra không có óc suy xét, thấy đâu có ăn là kéo đến liền. Theo vệt nước ngọt được tôi vẽ từ cửa sổ hạ xuống tận nền nhà chúng rùng rùng kéo đàn kéo lũ từ bên ngoài tràn vào, bổ xung nguồn lương thực cho chàng cóc. Món ăn cu cậu thích hơn cả là kiến đen, nhưng thỉnh thoảng đổi món cu cậu cũng xơi kiến lửa. Cóc không thích kiến hôi, có thể vì chúng bé quá, mà cũng có thể vì chúng hôi quá.
Vì những mụn vá rất nghệ thuật theo phong cách siêu thực trên tấm áo mới của con cóc tôi đặt cho nó cái tên Arlequin, nhân vật nổi tiếng của sân khấu hài kịch Italia. Tôi nhìn dáng đi nghiêng ngả chông chênh tức cười của con cóc mà hình dung ra những chàng Arlequin vui tính nhảy nhót trên sân khấu Moskva, Leningrad, hình ảnh gắn liền với một thời đã mất.
Tôi nhớ trong một cuốn sách khoa học thường thức người ta viết rằng cóc không nghe được tiếng người mà chỉ bắt được âm thanh thuộc âm vực hoặc rất thấp hoặc rất cao. Thế mà Arlequin nghe được tiếng tôi gọi. Mỗi khi tôi vỗ tay, khẽ kêu lên "Arlequin !" là nó quay đầu lại nhìn tôi, cặp mắt mở to, chớp chớp.
Ngẫm ra con người ta không phải chỉ có các bản năng được gọi là cơ bản như bản năng sinh tồn, bản năng tự vệ, bản năng truyền giống... mà còn có một bản năng ít được chú ý là bản năng cầu bầu. Không hiểu sao tôi lại thích cái từ đã chết này. Các cố đạo Y-pha-nho, Bồ-đào-nha ghi nhận từ cầu bầu trong tiếng Việt thế kỷ thứ 19 và đưa nó vào những cuốn kinh bổn sớm nhất bằng tiếng Việt với nghĩa che chở, chăm nom, săn sóc, giống như từ patronage trong tiếng Pháp. Khi anh gặp một người yếu đuối đang cần sự che chở, trong lòng anh nảy ra ý muốn giúp đỡ kẻ đó, ấy là trong anh bản năng cầu bầu lên tiếng đấy. Năm 1956 tôi được xem một cuốn phim Pháp nhan đề Porte des Lilas, với Jean Gabin thủ vai Juyjuy, một anh chàng lộc ngộc kém trí khôn. Một tên gangster chạy trốn cảnh sát lạc vào khu phố nghèo, nơi nhân vật của chúng ta đánh bạn với một anh chàng thất cơ lỡ vận có biệt hiệu Nghệ Sĩ. Tên gangster hành hai người đến nơi đến chốn : ngồi yên tại nơi ẩn nấp y bắt họ dội nước cho y tắm, dọn bữa cho y ăn, đi mua transistor cho y tập thể dục buổi sáng,... Ðã thế y còn quyến rũ cô gái bán bar thơ ngây mà anh chàng lộc ngộc của chúng ta thầm yêu trộm nhớ. Cho tới một hôm, Nghệ Sĩ hộc tốc chạy tới lay tỉnh anh ta, mặt mày rạng rỡ :
- Dậy, dậy đi, mày !
Juyjuy phẩy tay, ọ ẹ :
- Ðừng có phá ! Ðể tao ngủ.
- Dậy, dậy ! Nó đi rồi !
- Ðứa nào đi rồi ? - mắt nhắm mắt mở Juyjuy hỏi lại.
- Còn đứa nào vào đấy nữa ! Nó đi rồi !
Juyjuy ngẩn người ra một lát. Rồi hiểu ra nó là ai, anh ta thở dài :
- Thôi, thế là từ nay chẳng còn ai cần đến tao nữa !
Bản năng cầu bầu chính là cái đó.
Không phải chỉ nhu cầu có bạn trong cảnh cô đơn mà người tù xà lim nuôi những con vật chẳng ai nuôi làm cảnh bao giờ. Con người cần có ai đó để mà săn sóc. Nói cách khác, nó cần được thấy có ai đó cần đến nó, để được thấy nó đang hiện hữu và hiện hữu có ích. Tình cảm đó là hạt nhân Thiện nằm trong mỗi chúng ta.
Tôi cảm thấy đỡ đơn chiếc hơn nhiều khi có Arlequin ở bên. Nhưng càng lớn lên Arlequin càng bướng bỉnh. Nhiều lần tôi gọi, nó không tới nữa, mà cứ ngồi yên trong nỗi trầm tư của nó, chỉ một mình nó biết nó nghĩ gì.
Một hôm, vào buổi trưa tôi bắt gặp Arlequin đang ì ạch trèo lên bức tường gai góc. Nó thở dốc, cái bụng phập phồng. Tôi tiếp tục giấc ngủ chập chờn trong cái nóng đầu hè. Tỉnh dậy, tôi thấy Arlequin đang giãy giụa dưới đất. Hình như cu cậu vừa bị ngã một cú trời giáng. Tôi nghĩ đó là trò nghịch ngợm của trẻ con, không đáng để ý.
Nhưng những cuộc phiêu lưu của vận động viên leo núi diễn ra ngày một nhiều thêm. Những cú ngã cũng nặng nề hơn. Bức tường xà lim Bất Bạt, như tôi đã kể, lổn nhổn vẩy vữa cứng và sắc, gây ra những vết xước khá trầm trọng cho Arlequin - trên bộ cánh đẹp đẽ của nó, nhất là ở chỗ da bụng mịn màng, xuất hiện những cái sẹo nhem nhuốc.
Cho tới một buổi trưa đang ngủ say chợt thức giấc tôi thấy Arlequin hì hục trèo lên cao bằng cách bám vào những vẩy vữa rồi đi ngang về phía cửa sổ. Thì ra nó muốn bỏ trốn.
Tôi nổi giận. ớt nhất thì cũng đã mấy tháng trời chúng tôi chung sống cùng nhau, vậy mà nó tệ, muốn bỏ tôi mà đi. Chẳng phải là tôi đã nhịn phần đường của mình để nuôi nó sao ? Tôi nhoài người vớ cái chổi quét một nhát thật mạnh. Arlequin bay bổng lên rồi rơi bịch xuống đất. Nó giãy giụa một hồi, rồi nằm thẳng cẳng, phơi cái bụng xây xát. Ðã tưởng nó chết, nhưng nó vẫn sống. Tỉnh lại, nó bực bội nhảy vào một góc tối.
Arlequin giận tôi. Từ hôm đó tôi gọi nó không thèm nhảy lại nữa.
Mùa hè ở Bất Bạt nóng lắm. Mặc dầu ở trên đồi cao, nhưng những hôm trời lặng gió trong xà lim nóng như trong lò lửa không kém xà lim Hỏa Lò là mấy. Tấm phản mộc dày là thế mà cong hẳn lên trong cái nóng khô khấc, thỉnh thoảng lại phát ra những tiếng tí tách của gỗ nứt. Không đường chạy trốn, tôi quằn quại trong cơn thiêm thiếp của sinh vật hấp hối. Bây giờ không phải là những người lính gác đóng cửa sổ lại không cho phép tôi nhìn ra ngoài, mà tự tay tôi phải đóng lại để cho mắt khỏi nhức nhối bởi cái nắng chói chang đang thiêu đốt khoảnh đất trần trụi trước mặt.
Trong một buổi chiều nóng bức như thế, tôi choàng tỉnh như bị đánh thức. Linh tính báo cho tôi biết trong xà lim chỉ còn lại một mình tôi.
Arlequin đã đi rồi !
Mắt nhắm mắt mở, tôi gọi ầm lên " Arlequin ! Arlequin !". Ðáp lại tiếng gọi tuyệt vọng của tôi chỉ có im lặng mênh mông.
Nghe tiếng tôi kêu lớn, mấy anh lính gác xồng xộc chạy lại. Nhưng ngó nghiêng một lát, chẳng thấy có chuyện gì xảy ra, họ bỏ đi. Tôi nghe tiếng một người vẳng lại :
- Lại một thằng nữa phát điên !
- Nóng bỏ mẹ thế này, chúng nó chưa chết là giỏi rồi ! - có tiếng cười hô hố.
- Còn nóng kéo dài chúng nó còn điên nhiều...
Bọn khốn kiếp, tôi chửi thầm. Nhưng tôi chả còn tâm địa nào nghĩ tới họ. Tôi còn đang đau khổ vì sự bỏ đi của Arlequin. Tôi chui xuống gầm phản, sờ soạng tìm trong mọi xó xỉnh của cái hầm trú ẩn tối om lởm chởm đá răm và cuội. Nhưng đó là cuộc tìm kiếm vô vọng - Arlequin đã đủ lớn để không thể chui vào những lỗ nhỏ có rất nhiều trong lòng đất laterit.
Mệt mỏi, tôi nằm vật ra phản. Nước mắt tôi chảy ra. Tôi nhớ Arlequin như nhớ một con người.
Buổi chiều tôi bỏ cơm. Viên quản giáo bộ đội ái ngại :
- Anh ốm à ?
- Vâng.
- Phải ăn để giữ sức khoẻ chứ.
- Anh báo cháo giùm tôi.
Anh ta khép cửa lại.
Trong xà lim vắng lặng hẳn. Cứ như thể Arlequin còn đó thì xà lim không vắng vẻ đến thế. Tôi cảm thấy hụt hẫng. Không còn nữa tiếng sột sạt khe khẽ khi Arlequin di chuyển trên nền xi măng, chỉ có thể nghe thấy được nếu rất chú ý. Không còn cái bóng nhỏ lui cui lúc chỗ này lúc chỗ kia trong cái cũi người nay còn lại mình tôi.
Về chiều trời oi nồng như chưa bao giờ oi nồng đến thế. Miệng đắng ngắt, tôi vật vã trên tấm phản mãi khô cong, không sao ngủ nổi. Trong cơn mơ màng tôi nghe tiếng đàn cóc đông đảo bên ngoài xà lim kêu rộn rã. Có vẻ chúng hoan hỉ đón mừng Arlequin thoát vòng tù ngục.
Tôi lịm đi khi cơn mưa rào giội xuống xối xả.
Trong giấc mơ tôi thấy Arlequin trở về. Không phải con cóc mà là một chàng trai cường tráng. Không phải xà lim mà ở một nơi nào đó không rõ rệt, không ra là ở ngoài đời, cũng không ra ở trong tù.
- Tôi quay lại để từ biệt anh ! - Arlequin nói - Tôi không thể ra đi mà không chào anh một lời...
Tôi nhỏm dậy.
Giữa hai chúng tôi là những song sắt. Hiện thực trở lại một nửa, lờ mờ.
- Sao chú nỡ bỏ tôi mà đi, hở Arlequin?
- Tại sao ư ? - Arlequin đăm đăm nhìn tôi, cái nhìn thương xót - Chẳng lẽ anh lại không hiểu nổi một điều đơn giản như thế sao ?!
Tôi cảm thấy cay cay nơi sống mũi, cái nhìn nhòa đi.
- Tôi có đối xử với chú quá tồi tệ đâu, Arlequin ? Tất nhiên, tôi cũng có lúc nóng nảy, nhưng đó là khuyết điểm có thể bỏ qua cho nhau được...
- Ồ, chuyện đó tôi quên rồi ! Anh đối với tôi rất tốt, tốt lắm. Tôi không quên anh đã nuôi tôi lớn lên, tôi cũng không quên những gì anh đã làm cho tôi, tôi hiểu tấm lòng của anh đối với tôi... Những cái đó làm sao quên được ! Nhưng thú thực, có một điều tôi không hiểu nổi : vì sao anh có thể ở mãi trong cái chuồng này mà không chán. Tôi thì tôi không thể sống như thế được.
Tôi nhìn cái xà lim, ngôi nhà của tôi.
- Không phải tôi muốn thế. - tôi kêu lên - Tôi bị cầm tù, Arlequin hiểu không, tôi bị cầm tù...
- Và anh muốn cầm tù tôi cùng với anh ?
- Tôi không cầm tù Arlequin, tôi chỉ muốn Arlequin ở cùng tôi thôi. Không có Arlequin tôi buồn lắm.
Arlequin nói, ngậm ngùi :
- Tôi cũng muốn ở cùng anh, nhưng rất tiếc, không thể được. Tôi là một con cóc. Không con vật nào muốn sống trong lồng, trong chuồng, anh có hiểu như thế không ? Sống như thế không phải là sống. Chúng tôi không cầm tù nhau như các anh, loài người ... Không biết và không nỡ. Tôi biết : các anh nghĩ rằng loài người các anh là sinh vật thượng đẳng, các anh coi các anh cao hơn các loài khác, nhưng tôi nghĩ các anh lầm. Hoàn toàn không phải thế...
Tôi không biết nói gì với Arlequin. Tôi buồn nỗi mình thuộc một loài mà cả đến con cóc cũng không thèm kính trọng.
Arlequin đưa tay cho tôi :
- Anh ở lại nhé, nếu anh không thể ra được. Vĩnh biệt anh !
Tôi nắm chặt tay Arlequin không rời. Nhưng bàn tay Arlequin cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho tới khi trở thành bàn tay của con cóc bé nhỏ đã ở cùng tôi, con vật xấu xí dễ thương đã là niềm vui của tôi trong mấy tháng trời. Tôi nhắm mắt lại vuốt ve bàn tay nhỏ bé nhưng nó đã tuột khỏi tay tôi.
Tôi choàng tỉnh. Mở mắt ra thì trời đã rạng. Không khí mát và ngọt sau cơn mưa rào ùa vào lồng ngực. Chung quanh tôi là sự tĩnh lặng của vô cùng. Qua song sắt nhà tù tôi nhìn thấy bầu trời nhợt dần, bóng đêm mất đi nhường chỗ cho một ánh hồng cảm thấy được chứ chưa nhìn thấy được đang dâng lên từ phương Ðông. Ðầu óc tôi bừng sáng trong một tia chớp từ bên trong, những ý nghĩ trở nên rõ ràng như chưa bao giờ rõ ràng như thế. Nỗi buồn mất đi không để lại dấu vết, Thế chỗ nó là một niềm vui không tên, trong sáng.
Ðó là phút mà con người đặt tên là mặc khải.
Tôi nghĩ tới Lênin và hiểu rằng ông đã sai biết bao nhiêu khi đặt tự do nằm trong phạm trù ý thức.
Bằng sự ra đi của nó Arlequin chứng minh điều ngược lại : tự do nằm trong phạm trù bản năng.
(1) Câu lạc bộ dành cho người nước ngoài, phần nhiều là người thuộc đoàn ngoại giao.
(2) Các loại bìa tiêu chuẩn thực phẩm.
(3) Ngày tạ thế của ông Hồ Chí Minh không phải là 3 tháng 9, mà 2 tháng 9. Bộ Chính trị đã quyết định sửa lại ngày để ngày Quốc Khánh không phải ngày tang, như sau này họ bào chữa. Do bị nhiều nhân chứng vạch trần hành động tự ý này khoảng tháng 11.1990, Ban chấp hành Trung ương đã phải ra thông báo chính thức thanh minh việc cắt xén di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh và thừa nhận ngày tạ thế của ông là 2.9.
(4) Vùng băng giá phía đông nước Nga, nơi phát vãng tù chính trị. Những nhà cách mạng Tháng chạp, và sau này V.I.Lenin và nhiều đồng chí của ông đã bị đi đầy ở vùng này.
(5) Từ tiếng Pháp cachot, ở Hỏa Lò là một phòng giam ngầm dưới đất, rất chật hẹp, tối tăm và bẩn thỉu. Theo những người tù đã từng ở cachot thì tù bị kỷ luật giam vào đây không đứng được, không nằm được, chỉ có thể ngồi trong tư thế lom khom, bên cạnh cái bô cứt đái nồng nặc mùi khai thối, đêm không dám ngủ để khỏi bị chuột cống cắn. Thời xã hội chủ nghĩa cachot vẫn được dùng nhưng may, tôi chưa có hân hạnh nếm mùi.
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 34
Ðêm giữa ban ngày
Chương 34
Cùng một lúc cửa sổ các nhà-xà lim theo nhau đóng sập lại rầm rầm, tiếng lính gác chạy sầm sập. Sau đó là im lặng hoàn toàn. Chỉ còn tiếng gió hú trên đồi, quanh quất giữa bàn cờ những ô biệt giam.
Xà lim tối om. Tôi rón rén bước ra phía cửa ra vào để nhìn qua lỗ thủng ra ngoài.
Thường cho tù ra đi cung người ta không đóng hết mọi cửa sổ mà chỉ đóng ở những nhà nào có tù đi ngang. Khi các cửa sổ bị đóng hết có nghĩa là sự kiện bất thường. Tôi phải chờ một lúc mới nghe tiếng cánh cổng tôn rên rỉ mở ra xa xa, tiếng đế giày sàn sạt trên sỏi, rồi mới tới đoàn người. Ði đầu là những tên bảo vệ lăng xăng. Theo sau chúng là các quan chức líu ríu vây quanh một nhân vật bệ vệ. Tôi nhận ra bộ trưởng Bộ Nội Vụ Trần Quốc Hoàn.
Ðây là lần thứ hai kể từ khi bị giam tôi nhìn thấy tên Béria(1) của Việt Nam.
Lần đầu là ở sân Hỏa Lò, lúc Huỳnh Ngự lấy tôi đi cung. Cũng một đoàn rầm rộ như thế này. Hoàn đi thẳng một mạch từ cổng vào tới khu ngách trái của Hỏa Lò, gần nơi diễn ra những cuộc hỏi cung. Tôi đoán Hoàn vào giải quyết chuyện gì đó trong vụ chúng tôi. Sau này, cha tôi tính ngày tháng để nhớ lại, ông nói có lẽ đó là hôm Hoàn vào gặp ông để yêu cầu ông chấm dứt cuộc tuyệt thực kéo dài đã mười ngày. Gương mặt lầm lì, cái nhìn vô cảm, nhân vật thứ hai trong ngành chuyên chính vô sản sau Lê Ðức Thọ gợi nghĩ tới một con sâu róm. Khi tôi đi ngang, Hoàn liếc xéo tôi, như nhìn một con vật trong đàn gia súc.
Cuộc đi thăm của Hoàn lần này chắc chắn liên quan tới vụ chúng tôi. Bất Bạt là trại không thuộc quyền Bộ Nội Vụ. Hoàn tới đây hẳn lại để gặp ai đó trong số những tên tù cao cấp bướng bỉnh. Chứ không phải để gặp những tên tù lèm nhèm như tôi. Tôi thuộc loại con sâu cái kiến, loại không được các đại quan tính đến.
Hình như bất cứ người cầm bút nào cũng có lần gặp trạng thái kỳ cục này : mạch văn đang trôi chảy bỗng ì ra khi gặp một nhân vật mà ngòi bút khước từ không muốn viết về nó. Chuyện đó đã xảy ra với tôi khi tôi đụng tới Trần Quốc Hoàn. Tôi đã tính bỏ, không viết về Hoàn nữa. Y không xứng đáng được nhắc tới trong cuốn sách, bởi y không có quan hệ trực tiếp với tôi trong quá trình vụ án, Hoàn không có vai trò trong câu chuyện tôi muốn thuật lại cùng bạn đọc. Trong vụ án này, mặc dầu tên Trần Quốc Hoàn được ghi như một trong những nhân vật chủ chốt, Hoàn chỉ là tay sai cho Lê Ðức Thọ. Tay sai là tay sai, cho dù có là bộ trưởng. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi thấy vẫn phải viết. Bức tranh xã hội Việt Nam vào thập niên 60 thiếu Hoàn sẽ mất đi một mảng điển hình.
Tôi không có lần nào tiếp xúc riêng với Trần Quốc Hoàn. Cùng ngồi tù với cha tôi ở Sơn La, nhưng Hoàn không nhập được vào khối các cựu tù nhân bè bạn với cha tôi. Những người này sau Cách mạng Tháng Tám vẫn thường qua lại thăm nhau. Hoàn chỉ tới ngôi nhà chúng tôi ở 65 Nhà Rượu đôi ba lần là cùng trong thời kỳ bí mật. Kháng chiến thành công rồi không bao giờ tôi thấy Hoàn tới nữa. Ðối với tôi điều đó có nghĩa Hoàn không thuộc số người mà cha tôi coi là bạn. Cha tôi phân biệt bạn và đồng chí. Những người cộng sản hiển nhiên là đồng chí, nhưng không hiển nhiên là bạn của ông. Bạn bè của ông đông, đủ loại, trong đó có nhiều người không phải là cộng sản, thậm chí có xu hướng trái ngược với cha tôi, như ông Tiến cố tôi đã có dịp nhắc tới ở trên, hoặc các ông Hoàng Văn Chí, ông Phan Tử Nghĩa, Nguyễn Văn ỏi... theo xu hướng xã hội. Mỗi khi gặp nhau họ tranh luận ầm ĩ khi nhận định thời cuộc, cãi nhau về chủ trương, nhưng khi mẹ tôi đã dọn cơm lên thì bầu không khí lại trở về vui vẻ, nhộn nhạo tiếng cười và những câu nói đùa bất tận.
Khoảng đầu những năm 60 Trần Quốc Hoàn bỗng nổi bật lên như một tên mao-ít cuồng nhiệt, một hung thần xã hội chủ nghĩa. Khắp nơi, người ta xì xào về những lời tuyên bố của Hoàn, coi như Hoàn là cái phong vũ biểu cho thời tiết chính trị của đất nước. Hoàn được gán cho cái biệt hiệu "Béria của Việt Nam" chính là trong thời kỳ này, thời kỳ bắt đầu những cuộc tấn công hùng hổ và ầm ĩ vào chủ nghĩa xét lại hiện đại, không phải vì những cuộc bắt bớ (lúc đó chưa xảy ra) mà vì những lời dọa dẫm được hào phóng ban phát trên các diễn đàn. Tôi có lần hỏi cha tôi Trần Quốc Hoàn là người thế nào. Cha tôi có vẻ không bằng lòng câu hỏi của tôi.
- Con phải cẩn thận. - cha tôi càu nhàu - Tình hình nước ta không đơn giản. Nói động tới Trần Quốc Hoàn là nguy hiểm lắm đấy. Con đã ở Liên Xô thời kỳ Ðại hội XX, con thừa hiểu tình hình bên đó ngày trước là thế nào. Bố nói phải cẩn thận là trong ý nghĩa đó. Béria dù sao cũng còn là một hạ sĩ quan trong quân đội Nga hoàng, còn có học đôi chút, chứ Trần Quốc Hoàn thì hoàn toàn vô học. Hồi Sơn La anh em tù nhận xét hắn tham ăn tục uống, đã thế lại có tính tắt mắt, nhưng coi đó là khuyết điểm sinh hoạt, chỉ nhắc nhở hắn rồi bỏ qua. Trong đời thường mà thế, ắt trong công việc không thể đàng hoàng. Hắn tiểu nhân, mà đó là một tư chất đáng sợ. Hắn chấp nhặt lắm đấy. Và không từ việc gì không dám làm. Nhất là bây giờ hắn lại ở trong Bộ Chính trị, tuy là ủy viên dự khuyết, trên hắn lại có Lê Ðức Thọ đỡ đầu.
- Thế những người biết hắn đâu cả mà không ai dám can ngăn ?
Cha tôi thở dài :
- Hồi cuối năm 1954 các cố vấn Trung Quốc phát biểu không đồng ý cho bác Lê Giản lãnh đạo ngành Công an, cụ Hồ nghe theo. Sau đó ít lâu, một hôm ông Cụ có hỏi bố : "Chú thấy liệu Trần Quốc Hoàn có đảm đương được trách nhiệm bộ trưởng Bộ Công an không ?" Bố biết can cũng chẳng được, nên chỉ trả lời qua quít : " Tôi ở Sơn La với anh ấy mấy năm tôi biết, trình độ văn hóa cũng như trình độ kiến thức anh Hoàn này kém lắm. Mà trông nom một bộ quan trọng như Bộ Công an(2), theo tôi nghĩ, phải có người giỏi, có học thức, sao Bác không giao cho ai khác ?".
Người tiến cử Trần Quốc Hoàn nắm Bộ Công an là Lê Ðức Thọ. Trường Chinh tán thành. Ông Hồ hỏi ý kiến cha tôi cũng chỉ để tham khảo. Cho dù ông có thấy cha tôi nói phải ông cũng không nghe theo được. Còn cha tôi thì cho rằng để trả lời cho một câu hỏi của ông Hồ về nhân sự ông nói thế đã là nhiều. Thường ông kín đáo, không hay nhận xét về người này người khác. Không phải vì sợ hãi, hay nể nang, mà vì thận trọng.
Ông cho rằng con người ta lúc thế này lúc thế khác, không phải bất biến, lấy một giai đoạn mà nhận định cho cả cuộc đời con người là không nên. Ðấy là nói chung, chứ riêng trường hợp này ông không nói còn vì e ngại thế lực của Lê Ðức Thọ. Năm 1955, khi Cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức bị phát hiện sai lầm, Lê Ðức Thọ được thay Lê Văn Lương, thì thế lực Thọ đã mạnh. Cha tôi sợ, nói thẳng ra là như thế. Như một bệnh truyền nhiễm bắt đầu lan rộng, cái sợ không chừa cả ông. Cái khí phách còn lại của tinh thần nho sĩ chỉ còn lại ở chỗ ông đủ nghị lực để giữ mình không dây vào những việc làm bạc đức, một thứ khí phách mà vài thập niên sau được đặt tên là chủ nghĩa makeno.
Vào năm 1965, nhân người nhà một viên chức chế độ cũ bị bắt tìm đến ông nhờ ông can thiệp giùm, cha tôi nhận lời đi gặp Trần Quốc Hoàn. Cha tôi biết rõ người bị bắt, ông này là người đúng đắn, trước đã có công giúp đỡ cách mạng. Chắc hẳn do tính tình nóng nảy, không biết giữ gìn lời ăn tiếng nói mà ông này bị bắt. Lúc ấy cha tôi đã về hưu, không còn quyền chức gì để có thể trực tiếp giúp đỡ ông. Cha tôi đến với Trần Quốc Hoàn, nghĩ Trần Quốc Hoàn sẽ nể tình bạn tù cũ mà nghe ông xem xét lại vụ án. Nhưng ông lầm. Hoàn tiếp ông, hứa hẹn bâng quơ, nhưng rồi việc đâu bỏ đó.
Không giúp được người oan ức cha tôi rất buồn.
- Thằng lưu manh khó lòng trở thành người tử tế. - ông than phiền với ông Ðặng Kim Giang - Mình quá tin ở khả năng cải tạo của môi trường đối với con người, hóa ra không phải như vậy.
Ông Giang an ủi cha tôi :
- Cậu không giúp được người ta thì cũng đừng dằn vặt mình quá. Ai chịu trách nhiệm được thay kẻ khác ?
Ông Ðặng Châu Tuệ(3) hôm đó có mặt thở dài :
- Thời bây giờ khác trước rồi. Nghĩ nhiều đến số phận dân chúng lúc này là lạc hậu lắm, chúng mày ơi. Bây giờ người ta nghĩ tới những cái khác kia - cái chức, cái quyền, cái lợi. Cách mạng mà rồi thế này ư ? Tao ngấy đến tận cổ.
Tôi nghe được mẩu đối thoại ấy, nhưng tôi không nghĩ cha tôi nói theo nghĩa đen. Một nhà cách mạng làm tới chức vụ cao như thế sao lại có thể là một tên lưu manh được ?
Bộ Nội Vụ, trung thành với tính chất bí hiểm của nó, không hay tổ chức những cuộc gặp gỡ các nhà báo, nếu có thì chỉ là những cuộc họp báo hạn hẹp để nghe một cán bộ cấp vụ phổ biến chủ trương hoặc công bố kết quả một chiến dịch, một vụ phá án gián điệp chẳng hạn. Cho nên các nhà báo ít có dịp tiếp xúc với Trần Quốc Hoàn. Tôi chỉ thỉnh thoảng được gặp, nói cho đúng là nhìn thấy Hoàn, trong một số buổi khánh tiết long trọng, ở những cuộc đón tiếp ở địa phương mà tôi tình cờ có mặt. Trong các nhân vật lãnh đạo ở Việt Nam thời bấy giờ Trần Quốc Hoàn có bộ mặt khả ố nhất, theo tôi. Có thể người khác thấy Hoàn theo cách khác, nhưng tôi thì tôi thấy đúng như vậy. Hay vì Hoàn là bộ trưởng công an nổi tiếng tàn bạo mà tôi nhìn ra thế chăng ? Từ ngày Trần Quốc Hoàn lên làm bộ trưởng thì trên miền Bắc không có mấy gia đình không có người thân trong gia tộc ở tù.
Trần Quốc Hoàn thường xuất hiện cùng lúc với Lê Quốc Thân. Béo núc ních, cổ rụt, hai mắt ti hí, giống hệt một con lợn, là phó của Hoàn. Thứ trưởng Lê Quốc Thân được người ta biết đến như một tên bất nhân. Trần Quốc Hoàn còn học được vài đường đạo đức giả ở đàn anh Lê Ðức Thọ, chứ Lê Quốc Thân ngu độn chỉ biết kêu gọi dùng bàn tay sắt. Ðược Ðảng tâng bốc là thanh kiếm và lá chắn(4) chiến đấu vì sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Ðảng, bảo vệ nhân dân, ngành công an Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Hoàn và Lê Quốc Thân nhanh chóng trở thành một đạo kiêu binh. Ðến nỗi, những cán bộ công an có công tâm phải thốt lên :"Cái sự coi mỗi công dân là một tù nhân dự khuyết mở đầu cho một thời đại khốn nạn. Rồi đây chúng ta sẽ phải trả giá cho sự thất nhân tâm này". Tôi được nghe, được đọc một số bài nói chuyện với cán bộ ngành công an của Lê Quốc Thân. Những bài báo này, theo nhận xét của giới trí thức, vừa ngu xuẩn vừa sặc mùi bạo lực. Tôi là người yêu chủ nghĩa xã hội, và tôi lấy làm xấu hổ cho cái chủ nghĩa xã hội mà tôi theo vì những bài phát biểu thiếu văn hóa đó.
Khoảng từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp phương châm bắt nhầm còn hơn bỏ sót được người ta nói tới nhiều, như thể đó là đường lối tốt nhất để bảo vệ cách mạng. Tôi cũng là người chăm đọc sách mác-xít, nhưng trong những đoạn văn viết về chuyên chính vô sản tôi không thấy những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác nói tới một phương châm như thế. Bắt nhầm còn hơn bỏ sót là sự biện minh cho những hành động tùy tiện của nền độc tài. Nó cực kỳ giản tiện và vô cùng dễ chịu cho tên độc tài củng cố địa vị thống trị. Nó cho phép tên độc tài thoát khỏi mọi ràng buộc, vô trách nhiệm trước sinh mệnh đồng loại. Trên thực tế nó đã trở thành phương châm hành động của công an nhiều nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là các nước châu Á (ở các nước châu Âu, sau Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô, tình hình đã có thay đổi theo chiều hướng dân chủ). Cán bộ thực hành chuyên chính vô sản tha hồ bắt oan, tha hồ giết oan đồng bào họ. Vạn nhất có bị phát hiện họ sẽ được chuyển sang công tác khác, được bảo hiểm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Kết quả là không biết bao nhiêu thường dân vô tội trở thành nạn nhân của cái phương châm bất nhân bạc ác này. Mà nói thường dân làm chi, đến những cán bộ cấp khá cao như anh Tạ Ðình Ðề, nguyên đội trưởng Biệt động thành Hà Nội, cũng bị đem ra "làm thịt" theo chủ trương nói trên của Hoàn(5). Tôi biết Tạ Ðình Ðề từ năm 1949 khi học trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Tôi ở đại đội 3, đóng bên đại đội Lê Hồng Phong gồm các sĩ quan cấp đại đội và tiểu đoàn về học khóa 6 trong chủ trương chính quy hóa quân đội. Tạ Ðình Ðề ở đại đội Lê Hồng Phong. Chúng tôi gặp nhau hàng ngày, tôi hiểu tính cách của anh. Anh là người có tinh thần đồng đội, lại thẳng thắn, không biết nịnh bợ. Trong triều đại Lê Duẩn những người có tính cách như thế trước sau cũng bị gạt ra khỏi guồng máy. Sau khi được trắng án, Hoàn và Thân còn nhiều lần mưu toan đưa anh trở lại nhà tù nhưng không thành công.
Ông Nguyễn Tạo, thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp, là phó tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam thời ông Lê Giản làm tổng giám đốc, biết rõ tiểu sử Trần Quốc Hoàn.
- Bố anh không nói theo nghĩa bóng đâu. Nghĩa đen đấy. - ông trả lời thắc mắc của tôi - Chả là thằng này đích thực lưu manh, anh ạ.
Năm 1992, tôi rời Việt Nam lần chót thì ông Nguyễn Tạo còn sống. Tôi hi vọng ông còn sống lâu để có thể kể câu chuyện kỳ lạ này cho nhân dân nghe.
Không thể nào tưởng tượng nổi - một bộ trưởng, hơn nữa, một ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản, lại là một tên lưu manh xuất thân ! Và tên lưu manh này đã đứng trên đỉnh cao quyền lực làm mưa làm gió nhiều năm trong bộ máy trấn áp của Ðảng. Cũng chính tên lưu manh này đã cùng "đại huynh" của nó thực hiện vụ hãm hại chưa từng có trong lịch sử đất nước những trung thần của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Câu chuyện ông Nguyễn Tạo kể được ghi lại như sau :
Trong một thôn nghèo bên một thị trấn heo hút thuộc miền núi Nghệ An có một đôi vợ chồng nghèo hiếm muộn, có độc một mụn con trai. Họ kiếm sống bằng nghề đi rừng kiếm dây leo về bện rế mang ra chợ bán, đắp điếm lần hồi, với hi vọng rồi đây đời con mình sẽ khá. Tuy nghèo khổ, hai người vẫn ăn nhịn để dành cho con trai theo học trường tiểu học phố chợ. Thằng bé loắt choắt được bạn cùng lớp gọi là Cảnh con, không đến nỗi quá tối dạ, khốn nỗi cũng chẳng thông minh, học thì lười, ăn cắp thì chăm.
Lớn lên một chút Cảnh con nổi tiếng cả thị trấn và một vùng xung quanh về tật ăn cắp vặt. Học đến cours préparatoire(6) thì bị đuổi học vì hạnh kiểm xấu. Từ đó Cảnh con lêu lổng như một con mèo hoang. Nhà nào sơ hở là nó lẻn vào, cuỗm của họ từ cái quần lót cho tới cái nồi đồng. Bị bắt, bị đánh, năm ngày ba trận, nhưng nó vẫn chứng nào tật nấy, càng ngày càng lì, càng trở thành bất trị. Cha mẹ nó bị xóm giềng chửi bới, nguyền rủa, bị bắt đền, bị đe dọa. Ðứa con hư trở thành gánh nặng, thành nỗi khổ tâm không sao thoát khỏi của đôi vợ chồng nhà nọ. Nỗi giận dữ của dân phố chợ nhằm vào Cảnh con cũng ngày một tăng lên. Rồi tới một lúc không ai còn có thể chịu nổi nữa.
Họ gặp may. Ðúng lúc có người mộ phu tới, viên trưởng thôn liền hớn hở giao ngay thằng ăn cắp oắt con cho họ. Vừa được tiền, lại vừa nhẹ mình. Thường người đi phu được lĩnh ở thầy ký mộ phu một khoản rõ ràng, khoảng năm đồng Ðông Dương nhưng đám chức sắc ăn chẹn, người đi phu chỉ được lĩnh một nửa, có khi còn ít hơn. Chức sắc ở địa phương bao giờ chả muốn đuổi khỏi địa phương mình những phần tử thanh tích bất hảo, bây giờ ta gọi là làm trong sạch địa bàn.
- Lúc bấy giờ Cảnh con chừng bao nhiêu tuổi, thưa bác ? - tôi hỏi.
- Khoảng mười lăm, mười sáu. - ông Tạo đáp - Thời trước là tuổi đi làm được rồi. Cảnh con được đưa sang Lào, tới một vùng có mỏ vàng, làm phu. Công việc phu đãi vàng rất đơn giản : đào đất ở những chỗ có mạch vàng rồi đem ra suối đãi. Dụng cụ đãi là một cái chảo lớn, dân đãi vàng gọi là pa-tê.
- Công việc phu đãi vàng ngày trước có khó nhọc lắm không, thưa bác ?
- Làm phu tất nhiên là khổ rồi. Nhưng phu đãi vàng cũng không đến nỗi khó nhọc so với phu mỏ, phu đồn điền. Cái khổ nhất của phu đãi vàng là bệnh sốt rét ngã nước. Họ sống rải rác trong rừng, từng tốp một, mỗi tốp vài chục người. Ðứng đầu mỗi tốp có một cai trông coi gọi là xú-ba-dăng(7). Tiếng là đãi cát ra vàng, nhưng lương phu thấp lắm, chỉ đủ sống, ít có ai hết giao kèo còn dành được tiền mang về nhà. Người đi phu thường không có ý định quay về - ở nông thôn thời bấy giờ còn khổ hơn đi phu. Anh đọc Tắt Ðèn rồi chứ ?
- Thưa, đã.
- Nông thôn lúc bấy giờ đúng như cụ Ngô Tất Tố tả. Nhiều người còn đi phu xa hơn, sang tận Nouvelle Calédonie hoặc Nouvelles Hébrides(8), ta gọi là Tân Ðảo và Tân Thế Giới, làm công nhân khai thác kền ở Chiepagui...
Các đồng chí ta ở Thái Lan lúc bấy giờ đã có Thanh niên Cách mạng Ðồng chí Hội hoạt động tương đối mạnh. Chính quyền Thái đối đãi với Việt kiều cũng nhẹ nhàng, họ không gây khó dễ cho các tổ chức cách mạng Việt Nam mà họ thừa biết là có cơ sở rộng khắp trên đất họ. Có thể nói đó là sự ủng hộ đáng quý. Cách mạng Việt Nam nhờ Thái Lan nhiều. Chỉ từ khi phái cực hữu Thái Lan lên nắm quyền thì cách đối xử với các tổ chức cách mạng Việt Nam mới xấu đi. Xét cho cùng, là lỗi tại mình. Ai lại nhờ đất người ta mà lại đi vận động dân Thái chống chính quyền ngay trên đất họ của họ. Thời kỳ mà tôi đang nói tới ngoài việc phát triển hội viên trong kiều bào tại chỗ, Hội Thanh niên cách mạng còn triển khai tổ chức của mình trong kiều bào ở Lào, Miên.
Khái niệm công nhân trong Hội Thanh niên bấy giờ rất đơn giản - bất cứ ai bán sức lao động chân tay đều là công nhân tuốt, đều là đối tượng để kết nạp vào Hội. Chứ đám phu đãi vàng đâu có là công nhân công nghiệp theo cách phân định thành phần của Mác, như các anh bây giờ hiểu. Vậy, các đồng chí Thanh niên cách mạng phát triển tổ chức vào đám phu mỏ vàng nọ. Người ta phát triển vào Cảnh con. Mà phát triển vào hắn cũng phải. Chỉ có mình hắn biết đọc biết viết trong đám phu mù chữ. Cảnh con thường viết thư thuê cho các bạn phu lấy tiền.
Chuyện bắt đầu từ đây. Ðồng chí phụ trách phát triển Cảnh con, tôi không nhớ tên, thiếu cảnh giác, trong lúc tâm sự con cà con kê đã nói với Cảnh con tên tuổi một số đồng chí. Tôi nghĩ anh này lo xa, lại có chút lãng mạn nữa - vạn nhất mình có bị địch bắt, có bị hy sinh thì Cảnh con còn biết người này người kia để liên lạc. Mấy đồng chí mà anh ta nói đến về sau đều bị bắt hoặc bị bắn chết trên đường rừng nằm trên biên giới Thái-Lào. Không ai biết vì sao họ bị lộ, nhưng Cảnh con sau đó cũng mất hút.
- Cảnh con bán các đồng chí cho Pháp ?
- Hồi ấy có nghi vấn như vậy. Nhưng không có bằng chứng. Nghi thì để bụng, vậy thôi. Nghe nói có đồng chí bị bắn, chạy thoát, lúc hấp hối có trối trăng lại, nói Cảnh con là tên phản bội.
- Sao họ không báo cáo tổ chức ?
- Một lời nói của một người không thể là bằng chứng. Vả lại, công tác cách mạng thì lu bu, có thể có ai đó đã báo cáo, nhưng người nghe báo cáo rồi cũng chết nốt chẳng hạn. Như tôi cũng chỉ nghe nói lại, mà không từ gốc, làm sao có thể báo cáo được. Ðến khi biết đồng chí Trần Quốc Hoàn ngày nay chính là thằng Cảnh con ngày trước thì những người biết hoặc có nghe việc này không dám nói nữa. Cảnh con đã ở trong Trung ương rồi, lại còn vào Bộ Chính trị nữa. Nói ra mất mạng như bỡn. Ðành nín lặng.
- Hồi ấy Cảnh con bỏ trốn vì sợ tổ chức biết ?
- Ðiều đó có thể lắm.
Sau khi Cảnh con trốn khỏi Lào, hắn trở thành một tên ăn cắp vặt ở các chợ Hà Nội. Theo lời những tên lưu manh già, trước đó có hồi Cảnh con còn đi theo một đám cướp ở Hải Dương, nhưng vì nhát gan nên bị chúng đuổi, không cho theo. Không còn đường nào, Cảnh con mới bò về Hà Nội, nhập vào đám móc túi, giật dọc. Nhưng ở trong đám này hắn ta cũng bị coi là một tên thuộc hạng bét, loại vét đĩa(9), như cách gọi của dân lưu manh bây giờ.
Ăn cắp ở quê còn được, chứ ăn cắp ở thành phố khó lắm, dân thì tinh, phú-lít(10) đầy đường. Nhưng không ăn cắp thì đói. Cảnh con mới xin nhập vào đám tiểu yêu cầm cờ đám ma, dưới trướng một tên anh chị ở phố Hàng Chợ Gạo. Bọn cầm cờ đám ma cũng là một dạng lưu manh, từ trong đám lưu manh chuyên nghiệp mà ra, như kiểu thầy tu xuất.
Mỗi băng cầm cờ thường được một nhà đòn(11) thu dùng. Trong số các nhà đòn hồi ấy có nhà Louis Chức rất nổi tiếng. Ðám tang do các nhà đòn thời trước ổ chức to lắm, sang lắm. Có minh tinh nhà táng xênh xang, màn che ngù rủ, ngựa cũng vận áo tang hai màu đen trắng, cũng đội kèn bú-dích(12) diễu hành trước linh cữu, trên xe tang ngất ngưởng một anh xà ích ăn vận chẳng khác gì đại tướng nhà ta bây giờ, theo đúng kiểu tây.
Tang chủ nào giàu có là có ngay băng cầm cờ đến xin phục vụ. Cách xin cầm cờ chúng thường là thế này. Mấy đứa lực lưỡng nhất bọn, xăm trổ đầy mình, mặt mũi bặm trợn, chít khăn tang hẳn hoi, kéo nhau đến gặp tang chủ. Lũ cô hồn xông thẳng vào nhà, quỳ lạy trước linh cữu, khóc lóc, kể lể, tuồng như trước đây chúng chịu ơn người quá cố, nay đến để giả nghĩa, xin được bảo vệ đám ma ân nhân. Tại sao lại phải bảo vệ ? Tại vì cụ nhà tuy ân dày đức trọng thật đấy, nhưng, chúng nó nói, thiên hạ trăm người trăm ý, cụ nhà có ăn ở tốt mấy cũng không phải là không có kẻ thù, chúng con biết có kẻ định bụng phá đám tang của cụ cho nên chúng con phải đến ngay, vì tình sâu nghĩa nặng với ân nhân ...
Tang chủ biết chúng nói láo, nhưng ngậm bồ hòn làm ngọt : không cho chúng cầm cờ thì chính chúng chứ chẳng phải kẻ thù nào sẽ phá đám, thôi thì đành để cho chúng "bảo vệ". Nghĩa tử là nghĩa tận. Công cầm cờ do vậy mà rất cao : một lá đại kỳ (cờ lớn) 1 đồng, cờ phướn từ 3 hào tới 4 hào (giá một tạ gạo hồi ấy khoảng 5 đồng, hơn 5 đồng một tí). Loại tiểu yêu như Cảnh con chỉ được cầm cờ phướn thôi, đại kỳ không đến lượt. Mà đã là tiểu yêu thì cũng chẳng được hưởng trọn tiền. Tang chủ cho năm hào thì đàn anh lấy ba, thương tình lắm cũng lấy hai. Lại nữa, không phải ngày nào cũng có đám tang nhà giàu để được cầm cờ. Chưa kể đến chuyện băng cầm cờ Hàng Chợ Gạo còn phải giành giật, tranh khách với băng cầm cờ chợ Ðồng Xuân và những băng khác. Nói tóm lại, Cảnh con sống dặt dẹo, bữa no bữa đói, khổ sở lắm.
Tình cờ một hôm Cảnh con đọc mục rao vặt trên báo Ðông Pháp thấy nhà in Tân Dân tìm thợ sắp chữ, mừng quá, bèn ba chân bốn cẳng chạy đến xin việc. Chủ nhà in sát hạch thấy được, mới cho vào làm. Tôi nhắc lại : thời thuộc địa dân mình ít học lắm. Trong làng đỗ được cái certificat đã là oai rồi, đã là thành phần trí thức rồi, đã được dân làng vị nể rồi. Thời kỳ tập sự, gọi là học việc, lương công nhân chẳng được là bao, giỏi lắm đủ ăn, nhưng cũng vẫn là có lương, còn hơn sống phập phù với bọn cầm cờ đám ma. Cảnh con ra sức làm, được chủ khen.
Nhưng chẳng bao lâu sau, chứng nào lại tật nấy, Cảnh con lại xoay ra ăn cắp. Ai cũng tưởng làm nhà in thì chẳng xoay xở được gì, ngờ đâu lại vớ bở. Chữ in làm bằng hợp kim antimoine, ta thường gọi là chữ chì, hồi ấy được dân đúc gang ở phường Ngũ Xã rất chuộng, mua với giá cao. Chả là đang lúc Tây cấm nghề đúc đồng (đồng là nguyên liệu chiến lược, mẫu quốc cấm dân thuộc địa đúc đồng để đưa về Pháp đúc đạn), cho nên dân Ngũ Xã phải quay ra đúc chảo gang. Chảo lớn thì phom(13) lớn, gang nóng chảy nguội quá nhanh thì chảo nứt, phải pha thêm một chút antimoine cho nó đông cứng chậm lại mới đúc được. Cảnh con liền ăn cắp chữ in đem bán. Trường Chinh hồi ấy cần chữ in cho báo Ðảng, cho người đi gặp Cảnh con để mua, nhưng hắn ta không bán. Một kí lô chữ in bán cho dân Ngũ Xã được sáu đồng, người của Trường Chinh chỉ trả có năm với lại năm rưỡi, đời nào hắn bán. Thằng Cảnh con này khôn như rận".
- Nghĩa là vào thời kỳ Mặt trận Bình dân Cảnh con không hoạt động gì cho cách mạng ?
- Hoạt động gì trong khi nó còn bận ăn cắp ?!
Ði đêm lắm có ngày gặp ma, Cảnh con bị bắt quả tang trong lúc trên vai còn cả bị chữ in. Chả là nhà in mất nhiều chữ quá, xót của, mới thuê thám tử tư đi điều tra. May cho Cảnh con, hắn bị tống ngục trúng lúc Mặt trận Bình dân vẫn còn cầm quyền. Thời kỳ này, sau cuộc đi thăm Ðông Dương của các nghị sĩ cộng sản và xã hội, nhất là sau cuốn Ðông Dương Cấp Cứu của bà André Viollis, các lực lượng phái tả của Pháp lên án mạnh chính quyền thuộc địa trong việc giam giữ tù chính trị, cho nên chế độ sinh hoạt cho tù chính trị được cải thiện hơn trước nhiều.
Không biết được ai mách giúp bảo giùm mà thằng ăn cắp chữ in liền khai với Sở Liêm Phóng rằng hắn là nhà ái quốc, chữ in hắn lấy là để cho các tổ chức cách mạng in báo, in truyền đơn. Cảnh con chắc khai cũng lăng nhăng lắm, hắn có liên lạc với ai đâu mà bảo hoạt động. Thế mà hắn được đưa sang bên chính trị, mới lạ. Tại Sơn La hắn nói với tổ chức Ðảng rằng hắn là người trong tổ chức, viện tên những đồng chí Thái Lan trước đây đã kết nạp hắn (nay đã chết hết), xin được kết nạp lại. Tổ chức nhờ bên ngoài xác minh, thấy quả có những đồng chí tên tuổi đúng như vậy, bèn cho hắn sinh hoạt. Lê Ðức Thọ cũng kết tình thầy trò với hắn ta từ đó
- Chẳng lẽ Trường Chinh hoặc những đồng chí gần Trường Chinh không nhớ chuyện Cảnh con từ chối không bán chữ in cho họ ?
- Nhớ thì cũng thế thôi. Có lục chuyện ấy ra Cảnh con cũng thiếu gì cách chống chế. Nguyên tắc bí mật chẳng hạn, chưa bắt được liên lạc thì biết ai là ta ai là địch. Theo nguyên tắc đó Cảnh con có quyền không biết Trường Chinh là ai, nói gì người của Trường Chinh cử tới gặp. Sau, Cảnh con đã làm to rồi, có ai biết chuyện cũ cũng im thin thít, không dám hó hé. Chỉ tội bọn lưu manh tép riu, hồi Cách mạng Tháng Tám chúng bị giết vô số kể, là lệnh của Trần Quốc Hoàn đấy.
- Hoàn muốn bịt miệng những người biết quá khứ của hắn ?
- Tất nhiên.
- Hồi ấy ai nắm công tác tổ chức, thưa bác ?
- Chẳng có ai. Hoặc có thì cũng là phân công miệng với nhau, bảo nhau mà làm, mỗi người một mảng việc, mỗi người một địa phương. Ngay các chức vụ trong Trung ương cũng vậy, nhiều khi ới nhau mà giao, ai gần thì gọi. Nói chung là phải tự động giải quyết. Ðấy, như Văn Tiến Dũng đấy. Có hồi anh ta mất liên lạc với Ðảng, chẳng được tổ chức phân công việc gì, nhưng anh ta cứ đi các nơi xây dựng cơ sở, kết nạp đảng viên như thường. Cho tới khi bố anh đi tìm được thì Văn Tiến Dũng đã có sẵn một mớ chi bộ của anh ta rồi.
- Có phải hồi chú Văn Tiến Dũng đóng giả nhà sư không ?
- Ðấy là hồi sau, khi đã bắt được liên lạc. Phải công nhận Văn Tiến Dũng kiên trì cách mạng lắm. Chưa bắt liên lạc lại với đồng chí thì tự nghĩ ra việc mà làm. Văn Tiến Dũng đúng. Nhưng nếu bắt bẻ thì có cái chi không bắt bẻ được, Văn Tiến Dũng làm thế gọi là vô tổ chức, vô kỷ luật rồi, phải không ? Tổ chức Ðảng trong những năm ấy chẳng chặt chẽ gì. Vả lại số đảng viên bấy giờ ít lắm, đâu có như bây giờ, thêm được một người là quý. Là đảng viên trước đây có nghĩa là tù đầy, là máy chém...
- Bác nghĩ Cảnh con rồi sau cũng giác ngộ cách mạng ?
- Ai biết được ?! Cũng có thể là như thế - con người ta thay đổi.... Mà cũng có thể không... Tôi chỉ tin một điều : con người ta rất khó thoát khỏi bản chất của nó, khó lắm.
Tôi trách cha tôi nhiều. Lẽ ra ông phải cho tôi biết những điều ông biết, nhưng ông đã lảng tránh.
Tôi nhớ một buổi chiều thu 1964, cha tôi đột nhiên bảo tôi :
- Con lấy xe đưa bố đi một lát.
Hôm ấy tôi có một cái hẹn, nhưng đành phải bỏ - trong gia đình tôi sự không tuân lời người trên là lỗi nặng. Ðành phải dịch cái hẹn sang ngày khác để đưa cha tôi đi. Ông ngồi sau chiếc Jawa 05 thấp tè, vốn không được thiết kế để chở hai người, hai chân khuỳnh khuỳnh. Nhưng ông chịu khó ngồi lắm, không kêu ca. Năm ấy cha tôi không còn đi được Mobylette nữa, dắt xe ra cửa, cái xe kéo ông theo làm ông ngã dúi dụi. Trước đó, khi còn làm ngoại giao có tiêu chuẩn xe hơi ông cũng chỉ đi xe Mobylette của riêng, do bạn bè ở Pháp gửi cho. Ông bảo : "Nước ta còn nghèo, xe cấp cứu cho đồng bào còn chẳng có, mình đi một mình một xe hơi làm gì, phí phạm !". Có hôm tới dự kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga ở đại sứ quán Liên Xô lính gác (Việt Nam) không cho ông vào chỉ vì ông đi Mobylette.
Cha tôi sai tôi chở ông lên đường Cổ Ngư cũ về phía Chèm. Tới dốc lên đê, ông bảo tôi dừng xe. Châm một điếu thuốc, ông chọn chỗ cỏ sạch để ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên ông.
Ráng chiều bắt đầu nhuộm đỏ mặt hồ Tây và một phần hồ Trúc Bạch. Gió nồng ẩm mang theo hương dong nước ngọt bị vứt lên bờ và hương lá mục ngai ngái.
- Con nhớ lấy chỗ này, quãng gốc cây thứ tư và thứ năm từ trên đê đổ xuống - cha tôi chỉ tay về phía trước - Nơi này đã xảy ra một tấn thảm kịch mà rồi đây con phải tìm hiểu để mà viết. Nó là tấn thảm kịch có tính chất tượng trưng cho một sự đổ vỡ lớn của một nền đạo đức và rộng ra, của một thời đại ...
Mắt cha tôi mờ đi. Giọng ông đứt quãng.
- Con không hiểu bố muốn nói gì ...
- Lúc này con không hiểu cũng được. Hiểu bây giờ vừa sớm, vừa nguy hiểm. Việc của bố là đánh động trí nhớ của con, bắt nó ghi lại một lời nói không rõ ràng để đừng quên, sau này ... Thôi, ta về.
Trên đường về nhà cha tôi không nói thêm lời nào nữa. Tôi cũng không dám hỏi. Nếu cha tôi đã không nói, có nghĩa là hỏi cũng vô ích.
Ông Nguyễn Tạo đã giải đáp cho tôi câu hỏi đó, nhiều năm về sau :
- Bố anh không muốn kể vì vào thời kỳ câu chuyện xảy ra bố anh không còn làm việc với Bác Hồ nữa, bố anh e mình không nắm rõ, không trực tiếp biết sự việc, không biết chi tiết, kể sẽ không đầy đủ, không khách quan. Hoặc giả, bố anh sợ anh biết câu chuyện quá sớm thì hại cho anh, tôi không rõ ... Nhưng bố anh muốn anh biết để có lúc anh sẽ phải viết ra. Bố anh bảo tôi kể cho anh nghe cũng không ngoài ý đó.
- Bác biết ?
Ông gật đầu :
- Không phải chỉ mình tôi biết. Còn có người khác biết. Số cán bộ công an ở cấp vụ trưởng hồi bấy giờ đều biết cả...
- Vậy chuyện gì đã xảy ra ở dốc Chèm, thưa bác ?
- Một vụ án mạng oan khuất.
- Ở chính nơi bố cháu chỉ cho cháu ?
- Ở đó. Có một người đàn bà bị xe cán chết, hay nói cho đúng hơn, xác của người đó.
- Một hiện trường giả ?
- Chính là như vậy. - ông ngậm ngùi - Người đàn bà này bố anh cũng biết, tên là Xuân, quê ở huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng. Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa, được Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương tuyển vào trông nom sức khoẻ cho Bác Hồ...
- Thời gian nào, thưa bác ?
- Sau khi hòa bình lập lại, khoảng năm 1955...
- Cùng được Trần Ðăng Ninh tuyển một lúc với cô Xuân còn có hai người em gái cô ta, một em ruột, một em họ, cũng là con cái gia đình gốc gác cách mạng cả. Họ được bố trí ở trong một ngôi nhà ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, sát đường Quang Trung. Thông thường, Trần Quốc Hoàn tự thân đưa cô Xuân vào gặp Bác rồi đưa về...
- Mỗi lần như vậy bà ta ở lại bao lâu ?
- Không chừng. Có khi chỉ một đêm, có khi đôi ba hôm ... Cô Xuân rất được lòng Bác. Họ có với nhau một con trai, được đặt tên là Trung, Nguyễn Tất Trung. Về sau trước khi Bác mất Bác ủy thác thằng Trung cho Vũ Kỳ chăm sóc, coi như con nuôi...
Tôi sững sờ. Lại thêm một bí mật tôi được biết trong những bí mật cung đình được giữ rất kín.
- Như vậy, có thể coi như bà Xuân là bà hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Việt Nam ?
Ông cười chua chát :
- Có thể coi là như vậy. Và là bà hoàng hậu bất hạnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất hạnh vì không một ngày được thừa nhận là hoàng hậu, vì đẻ ra đứa con không được gọi cha ruột của nó bằng cha... Tất cả diễn ra trong sự lén lút nhục nhã, như thể đó là tội lỗi.
- Ai đã giết bà Xuân ?
- Ðừng vội. Ta hãy ghi nhận sự việc này : vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm(14). Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Ðức, được nhận dạng. Ðó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn.
- Tại sao lại Trần Quốc Hoàn ?
- Bởi vì cô Xuân là người của cơ quan trực thuộc Trung ương, việc xảy ra phải báo cáo ngay cho Trần Quốc Hoàn biết.
- Rồi sau thì sao ?
- Chưa hết. Sau, em ruột của cô Xuân bị điều đi học một lớp y tá ở Thái Nguyên, rồi bị đưa về Cao Bằng điều trị bệnh... thần kinh. ớt lâu sau xác cô nổi lên ở một cây cầu trên sông Bằng Giang... Cô em gái họ cũng biến mất. Như vậy là cùng một thời gian, cùng một sự việc, có tới ba người thiệt mạng.
- Những đầu mối đều bị bịt ?
- Tất nhiên. Nhưng những lý do dẫn tới những cái chết đã bị lọt ra ngoài.
- Về những cái chết này không có ai điều tra hết ?
Ông Tạo cúi mặt xuống.
- Không.
- Tại sao, thưa bác ?
- Tại vì thủ phạm là một nhân vật quá to để có thể đụng tới.
- Trần Quốc Hoàn ?
- Phải. - ông thở dài - Tất cả những người biết việc này đều có lỗi với hương hồn cô Xuân và hai cô em, tất cả đã không dám làm gì để rửa mối hận cho họ. Tất cả đã cúi đầu trước guồng máy, trước uy tín của Ðảng có thể bị mất đi vì vụ bê bối này. Mọi người đều lầm khi nghĩ như vậy...
- Vì sao Trần Quốc Hoàn giết bà Xuân ?
- Ðó là một câu chuyện dài. Khi Bộ Nội Vụ, vì công tác bảo vệ, bố trí cho mấy chị em cô Xuân ở ngôi nhà của Bộ ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, thì chỉ có vài người biết họ là ai. Trong ngôi nhà này còn hai gia đình cấp vụ khác ở cùng. Thời gian trước khi cô Xuân bị giết ít lâu, Trần Quốc Hoàn thường tới đó. Việc Trần Quốc Hoàn tới thăm rồi cưỡng hiếp cô Xuân, cô em của cô Xuân biết, có nói lại cho người yêu của mình ở quê. Anh này về sau có làm đơn tố cáo gửi Trung ương.
- Và Trung ương im lặng ?
- Không phải anh ta gửi ngay lập tức. Ngay lập tức thì anh ta cũng bị giết ngay, mà mãi về sau này...
- Cụ Hồ không có ý kiến gì về mấy cái chết oan khuất đó ?
Ông Nguyễn Tạo đăm chiêu suy nghĩ.
- Có nhiều điều chúng ta không biết được. - ông nói, giọng bùi ngùi - Tôi nghĩ thân phận Bác lúc ấy cũng tội nghiệp lắm. Biết nói với ai ? Với Lê Duẩn chăng ? Hay Lê Ðức Thọ ? Hay nói thẳng với Trần Quốc Hoàn ? Tôi nghĩ Bác là con người, Bác cũng biết đau khổ. Nhưng cái thế của Bác buộc Bác phải im lặng...
- Nghĩa là, theo bác, ông Hồ không có lỗi ?
- Trong mấy cái chết nói trên ? Không.
- Nhưng sự im lặng trước cái chết của họ ? Ông Hồ cũng không có lỗi ? - tôi gặng - Bỏ ra ngoài mối quan hệ tình cảm, chỉ nói tới cái chết oan khuất của một con người, với tư cách đồng bào ?
- Thế hệ các anh khắc nghiệt trong sự phán xét. - ông thở dài - Tôi hiểu các anh. Các anh vô can. Chúng tôi thì không. Chúng tôi tự đặt mình trong sự ràng buộc với Ðảng, với những quyết định của nó, dù sai dù đúng. Chúng tôi lo lắng cho uy tín của Ðảng. Chúng tôi cảm thấy nhục nhã nếu Ðảng bị phỉ báng. Ðảng là cuộc sống tinh thần của chúng tôi, là danh dự của chúng tôi. Bác cũng vậy. Ông Cụ cũng đau đớn lắm chứ. Ông cũng là con người. Như mọi người. Các anh khác. Các anh chỉ nhìn thấy một lẽ công bằng, đòi phải có nó, đòi mọi sự phải sòng phẳng. Cái đó là phải thôi. Ðúng, chứ không sai. Nhưng có nên như vậy không nhỉ ? Hay là cần phải độ lượng hơn, thông cảm hơn với sự yếu đuối của con người ? Dù họ có là ai đi chăng nữa...
(1) Beria Lavrenti Pavlovich (1899-1953), đồng hương với Stalin, năm 1938 được Stalin giao cho phụ trách NKVD (tiền thân của KGB, Nha An Ninh Quốc Gia), phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô năm 1941, vào Bộ Chính trị năm 1946. Tháng 12.1953 bị hành quyết vì tội phản bội tổ quốc.
(2) Bộ Nội vụ hiện nay. Khi mới thành lập ngành công an Việt Nam cơ quan này mang tên Nha Công an Việt Nam. Sau năm 1954, nó được đổi thành Thứ bộ Công an, rồi Bộ Công an.
(3) Một nhà cách mạng lão thành. Trong kháng chiến chống Pháp ông làm chủ tịch ẹy ban kháng chiến hành chính tỉnh Ninh Bình, sau 1954 làm tại Tòa án tối cao.
(4) "Kiếm và mộc" là biểu tượng của ngành công an Liên Xô.
(5) Tạ Ðình Ðề, chỉ huy trưởng Ðội Biệt động thành Hà Nội, nhân vật huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 3. Sau chiến tranh ông làm giám đốc xưởng sản xuất vợt bóng bàn ngành đường sắt. Bị đưa ra tòa xử vì tội "chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa". Chưa bao giờ trong chế độ xã hội chủ nghĩa lại có một cuộc xử án mà quần chúng ủng hộ bị can kéo tới làm áp lực với Tòa đông đảo như trong vụ xử án Tạ Ðình Ðề. Ông được xử trắng án. Khi không buộc tội được Tạ Ðình Ðề "tham ô", Tòa hỏi Tạ Ðình Ðề tại sao lại thu nạp nhiều kẻ có tiền án tiền sự (tù được tha) vào xưởng của ông, Tạ Ðình Ðề thản nhiên trả lời :"Họ là những người đáng thương. Ai còn có tình người thì phải giúp đỡ họ".
(6) Lớp 2, hệ tiểu học thời Pháp thuộc, còn gọi là lớp dự bị, trên lớp Ðồng ấu (enfantin).
(7) Từ tiếng Pháp surveillant = giám thị.
(8) Hai quần đảo ở Nam Thái Bình Dương. Nouvelle Calédonie bị Pháp chiếm năm 1853, nay còn là lãnh thổ hải ngoại của Pháp. Nouvelle Hébrides bị Bồ Ðào Nha chiếm năm 1606, sang tay Anh và Pháp năm 1906, năm 1980 tuyên bố độc lập, đổi tên là Cộng hòa Vanuatu.
(9) Tiếng lóng của lưu manh : lính đú = loại lưu manh không chuyên nghiệp, đàn đúm theo đuôi); vét đĩa, lính vét đĩa, lính vét = loại lưu manh ở hàng cuối cùng, không đáng được tôn trọng.
(10) Từ tiếng Pháp police = cảnh sát.
(11) Như công ty dịch vụ mai táng ngày nay.
(12) Từ tiếng Pháp musique = âm nhạc.
(13) Khuôn, do chữ forme tiếng Pháp.
(14) Ông Nguyễn Minh Cần, vào thời gian đó là phó chủ tịch ỷy ban hành chính Hà Nội, phụ trách Văn giáo và Ngoại thành nhớ lại : " Hôm đó (vào mùa xuân năm 1957) tôi đang thường trực thì anh Nguyễn Quốc Hùng, thành ủy viên, tới báo cáo có vụ xe cán chết người trên đường Nhật Tân, công an báo cáo người bị cán đã là một xác chết. Anh em công an nói chiếc xe mang biển số của Phủ Chủ tịch... Mấy hôm sau tôi có hỏi anh Trần Danh Tuyên, bí thư thành ủy, về vụ này (theo phân công, anh Tuyên bí thư phụ trách công an), thì anh ta nói "Vụ đó giải quyết xong rồi ". Anh Nguyễn Quốc Hùng là cán bộ công an thời ông Lê Giản, sau bị Trần Quốc Hoàn đẩy ra ngoài. Theo anh Hùng cái chết này có uẩn khúc, anh nói cần phải tìm hiểu".
:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 35
Ðêm giữa ban ngày
Chương 35
- Sắp xếp đồ đoàn ! - viên quản giáo nói.
Y đứng đuồn đuỗn trong khung cửa vừa được mở ra, thân hình lỏng khỏng in những nét sắc lên nền trời trắng bệch.
Lại chuyển chỗ, tôi nhìn y chán ngán. Chuyển phòng hay chuyển trại đây ?
Cuối năm 1971 quản giáo bộ đội không mở cửa cho chúng tôi nữa. Thay chân họ là một tay công an. Anh chàng trẻ măng, mặt mũi hiền lành, có phần hơi ngây ngô, với giọng nói ràn rạn của cậu bé vừa vỡ tiếng. Trong chiếc sơ-mi màu trứng sáo, quần âu màu lam thẫm, y giống học sinh năm thứ nhất trường trung cấp nông lâm hơn là quản giáo trại giam.
Anh tù đưa cơm thì thào báo cho tôi biết cha tôi và tướng Giang đều đã bị đưa đi khỏi chỗ cũ, hình như tới một nơi nào đó cũng nằm trong khu vực trại này, nhưng anh không có phận sự tới đó, không biết có đúng như vậy không. Mấy ngày sau anh tù tốt bụng cũng biến mất. Người đưa cơm mới ít lời đến nỗi tôi tưởng anh ta câm điếc, hỏi gì anh ta cũng một mực lắc đầu.
Tức là có tình hình mới, nhưng cụ thể là cái gì thì không sao đoán được.
Cuốn tiểu thuyết - hồi ký hình thành dần. Tôi đang mê mải miêu tả thú đi câu trong những cái ao làng. Tôi viết với niềm hưng phấn ít gặp, khi toàn bộ con người tôi, từng tế bào nhỏ bé, say sưa ngụp lặn trong hồi ức về những ngày xưa đầm ấm với tất cả tâm trạng náo nức chỉ có trong tuổi ấu thơ. Hồi tôi lên sáu, năm 1939, cha tôi đi tù Sơn La, mẹ tôi bận hoạt động, cho nên tôi phải về quê nội ở với bà cả cha tôi, một bà cô già ngoan đạo, sống trọn đời đồng trinh. Trong nỗi buồn sống xa gia đình, đi câu là cái thú lôi cuốn tôi nhiều nhất, đem lại cho tôi nhiều niềm vui nhất. Tôi bồi hồi sống lại tuổi thơ trong ngôi làng bình dị nơi châu thổ sông Hồng. Chìm đắm trong hồi ức nhiều lúc tôi quên bẵng mình đang ở tù. Ðưa mình về với kỷ niệm tuổi thơ là cách chạy trốn thực tại tuyệt vời.
Ðể tiết kiệm những mẩu giấy hiếm hoi lấy được từ những vỏ bao thuốc lá, giấy gói kẹo, tôi phải nhẩm mỗi câu trong đầu nhiều lần trước khi đặt bút, mà lại phải viết nắn nót bằng những chữ li ti như những con kiến gió kia, cho đỡ tốn diện tích. Cái ruột bút bi lại quá nhỏ, chỉ cần lơi ra một chút, tức thì nó lọt xuống kẽ tay.
Cái khó lớn nhất trong việc viết cuốn sách là làm sao giấu được những bản thảo đã viết xong. Bởi vì những khi tôi đi khỏi phòng giam tới nơi hỏi cung các quản giáo có thể vào phòng lục soát, là việc người ta thường làm. Nhưng họ đã không tìm ra, không phải vì tôi tài giấu, mà vì họ lười. Chẳng ai hơi đâu chui xuống gầm phản để tìm cả, mà những trang bản thảo của tôi nằm chính ở dưới đó, trong cái khe giữa tấm gỗ và trụ bê tông. Tôi giấu rất cẩn thận, ngụy trang thật khéo, nhưng tôi không tin rằng nếu người ta quyết tâm tìm cũng không thể tìm ra. Tôi không sợ kỷ luật của trại giam, Thành cho tôi biết người giấu giấy bút trong tù có thể bị tống vào ca-sô, nhưng tôi sợ bị tước đoạt công việc mà tôi muốn làm. Công việc này mang lại ý nghĩa cho thời gian ở tù, cho tôi thấy tôi vẫn độc lập được đối với quyền lực của bọn độc tài.
Viên quản giáo đến đột ngột. Những con cá trê bóng nhãy đen như bóng đêm còn đang quẫy trong đầu tôi. Tôi chỉ kịp giấu mẩu bản thảo xuống dưới chiếc áo rách mà tôi giả vờ vá hết ngày này qua ngày khác, thì y đã mở xong cửa.
- Chuyển phòng ? - trống ngực đánh thình thịch, tôi hỏi lại y.
- Sắp xếp đồ đoàn !
Y không trả lời vào câu hỏi, lười biếng nhắc lại.
Tôi còn đang lúng túng, chưa biết xoay xỏa thế nào với mấy mẩu bản thảo nằm bên dưới tấm áo rách nếu như y cứ đứng ỳ ra đấy chờ tôi thu dọn, nhưng thật may, nói xong y quay ra, khóa cửa lại.
Tôi thở phào.
Khi y trở lại thì tôi đã giấu xong những gì phải giấu. Ði cùng với viên quản giáo trẻ là viên hương sư Thanh Hóa. Cũng tử tế như lần đưa tôi từ Hỏa Lò lên Bất Bạt viên hương sư xách hộ tôi đồ đoàn, giờ đây đã lỉnh kỉnh chăn màn, quần áo, với những gói lớn gói bé quà gia đình tiếp tế.
Chúng tôi bước ra ngoài trời nắng, người nọ theo chân người kia qua những ô xà lim im lìm, cửa sổ khép kín, trên con đường nhỏ lạo xạo sỏi đá.
Chuyển trại rồi, tôi nghĩ, tim đập mạnh.
Viên hương sư dẫn tôi về phía chiếc com-măng-ca đỗ trong bóng mát một cây bàng.
Cái mà tôi lo nhất là bị khám đồ. Cái thủ tục rất khó chịu được nghiêm túc thực hiện ở bất cứ trại nào, lúc đi cũng như lúc đến, không có ngoại lệ. Trong lần chót gặp gia đình tôi đã chuyển được một số chương đầu tiên của cuốn sách ra ngoài. Bây giờ chỉ còn lại vài chương được cất trong mấy bao thuốc lá rỗng ruột.
Một người tù đã ngồi sẵn trên ghế sau. Nước da trắng trong, thứ nước da chỉ có ở những người sống lâu trong xà lim thiếu ánh sáng, hai tay bị còng phía trước, anh ta có vẻ như vừa qua một trận ốm. Cảm thấy cái nhìn chăm chú, anh tù quay đầu lại, dò xét nhìn tôi. Viên hương sư leo lên xe, ra hiệu cho tôi chuyển đồ cho y sắp xếp. Sắp xếp xong, y chỉ cho tôi leo lên ngồi bên anh tù. Trước khi bước xuống y rút còng tay. Tôi đưa tay cho y. Mọi việc diễn ra trong im lặng, không ai nói với ai một câu.
Một tiếng cách lạnh lẽo. Hai cổ tay tôi bị khóa chặt. Tôi đưa hai tay lên, ngắm nghía cái còng. Trên nền thép trắng có khắc những chữ Nga viết tắt tên nhà máy sản xuất ra nó. Tôi mỉm cười cay đắng : âu cũng là một sự mỉa mai của số phận. Người ta buộc tội tôi làm gián điệp cho Liên Xô, nay lại khóa tay tôi bằng một cái còng số 8 của Liên Xô.
Lát sau tôi thấy Lê Thanh Tài lững thững đi tới, khẩu súng săn dài thượt trên vai. Không thèm nhìn đến chúng tôi, cũng không nói một câu, y ngồi lên ghế trên, bên cạnh tài xế, khẩu súng gác bên cạnh. Ðó là một một khẩu Verney Caron hai nòng, cỡ 12 ly. Thấy tôi chăm chú nhìn khẩu súng, y gườm gườm nhìn tôi rồi kẹp chặt nó giữa hai đùi.
Chiếc com-măng-ca rời trại Bất Bạt nhằm hướng Bắc. Ðến bến phà Trung Hà, chúng tôi được phép xuống xe, đi bộ.
Trước mắt tôi hiện lên toàn cảnh dòng sông ngầu đục phù sa cuồn cuộn chảy và những làng mạc xanh rì xa tít tắp bên kia. Tôi bước thấp bước cao xuống dốc, cố ý đi thật chậm trên vệ sông thoai thoải để ngắm cảnh. Sau thời gian quá dài trong xà lim đây là lần đầu tiên tôi được thấy một chân trời. Nguyễn Tuân sẽ cười tôi lắm đây : rõ ngợm, cái đường gẫy khúc với những mảng xanh nhấp nhô thế kia mà thằng Hiên nó dám gọi là chân trời !
Trong những ngày kháng chiến chống Pháp Nguyễn Tuân đã lên một cơn thèm chân trời đến điên khùng cũng ở một vùng bán sơn địa như thế này đây. Ông lồng lộn, ông vùng vẫy hòng thoát khỏi sự bủa vây của núi rừng Việt Bắc trùng điệp. Từ đèo Re, đèo Kháng Nhật, ông thượng ba-lô lên vai, về xuôi. Ðến gần Hà Nội, ông cất công leo lên tận đỉnh Tam Ðảo, chui qua những tầng mây xốp để ngóng nhìn cái chân trời mong muốn. Nhưng chẳng thấy nó đâu. Nguyễn Tuân rầu rĩ. Ông thở dài kết thúc bài bút ký về cái sự thèm khát chân trời không ai hiểu được : "Thèm một người bạn tâm tình ! Thèm một người đàn bà !".
Bây giờ tôi chẳng có gì hết. Không một người bạn tâm tình. Không một người đàn bà ! Không cả quyền được thèm. Tất cả đều quá sang đối với tôi. Bây giờ thế kia đã là chân trời rồi, một chân trời mà tôi mơ ước, cho dù nó gãy khúc.
Những người phu phà gày gò gồng mình lên chống sào cho con phà rời bến. Khi con phà hướng mũi về bên kia sông, tôi đăm đăm nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy bên mạn phà mà thấy lòng mình buồn rượi. Tôi gập mình xuống, khỏa tay. Tên công an cảnh giác vội bước tới. Nhưng tôi có định nhảy xuống đâu. Tôi chỉ muốn được nhúng tay trong cái mênh mông nước mát một chút, một chút thôi. Biết đến bao giờ tôi mới lại được vùng vẫy trong một dòng sông quê hương như dòng sông này ? Có lẽ chẳng bao giờ nữa ! Những người Do Thái trên đường tới các các lò thiêu trong Thế chiến thứ 2 chắc hẳn có ý nghĩ giống tôi.
Nhìn sang anh bạn tù ngồi ủ rũ bên mạn, tôi thấy anh kín đáo giấu đôi tay bị còng dưới cái quạt giấy trước cái nhìn tò mò của hành khách qua phà. Tôi cứ để nguyên đôi tay bị còng trên đùi. Việc gì mà xấu hổ. Sau này, biết đâu đấy, sẽ có ai đó trong bọn họ nhớ lại cảnh này và đoán ra họ gặp ai. Tôi nhìn thấy cả những ánh mắt lạnh lùng, thậm chí ghê sợ - hẳn người ta nghĩ chúng tôi là những tên sát nhân. Nhưng lẫn vào những ánh mắt lạnh lùng tôi bắt gặp cả những cái nhìn thương hại.
Con đường chúng tôi đi, hẹp và gập ghềnh, luồn trong những rừng nứa đồi tranh bất tận, qua những những bản làng thưa thớt, những vạt thực vật bị cháy thui, những triền cỏ úa xác xơ dưới mặt trời gay gắt.
Ðầu năm 1947 tôi đã có dịp qua địa phận này, nhưng hồi ấy tôi còn là đứa trẻ. Quá nhiều năm đã qua kể từ ngày ấy. Thế mà trong trí nhớ bập bõm vẫn ghi lại một cái tên ỏi Mỗ. Tôi biết bên kia Trung Hà có con đường dẫn tới sông Thao, con sông đã đi vào ca dao như một lời cảnh cáo :
Sông Thao nước đục người đen,
Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về...
Như vậy, có lẽ chúng tôi đang tiến sâu vào địa phận Phú Thọ. Phía trước chúng tôi mỗi lúc một nhiều thêm đồi núi và rừng non rừng già.
Giữa đường, thỉnh thoảng Lê Thanh Tài lại bảo tài xế dừng xe để y bắn chim. Anh hương sư và lái xe lẽo đẽo theo chân thủ trưởng. Quan trên đi khỏi là tên quản giáo chưa có ria mép liền leo tót lên ghế trên, tiếp tục cuộc ngủ gật.
Lòng xe rất nóng và ngột ngạt. Chúng tôi không dám tự tiện xuống xe. Tôi sợ những viên đạn rình một hành động thiếu suy nghĩ của chúng tôi để bay ra khỏi nòng.
Mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tôi bực bội chửi đổng. Người bạn tù nhìn tôi. Tôi hỏi nhỏ :
- Anh tên gì nhỉ ?
- Tôi là Mỹ, Phùng Mỹ.
Khi chưa bị bắt tôi có nghe tên Phùng Mỹ. Huỳnh Ngự cũng có lần hỏi tôi có quen Phùng Mỹ không, nhưng khi tôi nói tôi không quen thì y cũng không hỏi thêm. Cơ quan an ninh không đến nỗi quá tồi để không biết những mối quan hệ của tôi.
- Như vậy, anh bị bắt cùng đợt với anh Chính ?
- Phải. Còn ông ? Bị bao giờ ? - liếc nhìn lên ghế trên, chỗ anh chàng quản giáo đang gà gật, anh thì thầm.
- Tháng 12 năm 1967. - tôi đáp.
- Nghĩa là... Có phải Vũ Thư Hiên đấy không ?
- Phải.
Mặt Phùng Mỹ tươi rói.
- Tại sao anh biết ? - tôi hỏi.
- Tôi đoán. Trong vụ chúng ta có hai người trẻ nhất là Vũ Huy Cương và ông. Tôi chơi với Cương. Người trẻ mà tôi không quen thì đúng là Vũ Thư Hiên rồi.
- Anh có đoán được chúng ta đang bị đưa đi đâu không ?
- Không biết !
Những lời thì thào của chúng tôi làm cho anh chàng quản giáo tỉnh giấc.
- Này, cấm nói chuyện đấy nhá ! - y cằn nhằn.
Không được nói chuyện thì chúng tôi ngủ gật cùng với y vậy. Trong trạng thái mơ màng tôi nghe thấy tiếng súng đì đẹt xa xa.
Lê Thanh Tài quay về với mấy con chim cu rừng xanh mướt. Y đặt chiến lợi phẩm vào giữa hai ghế trên, sau phanh tay. Những con mắt đen láy mở to ngơ ngác :"Sao lại thế này ? Chúng tôi làm gì mà các người giết chúng tôi ?!".
Tôi tỉnh hẳn. Nhìn những con chim ngoẹo đầu bất động mà thương. Tôi đưa tay vuốt mắt cho mấy con chim tội nghiệp. Nhưng vuốt thế nào thì vuốt, không như mắt người, mắt chim vẫn mở trừng trừng. Lê Thanh Tài nhếch mép cười giễu.
Trời vừa tối là tôi lịm đi trong giấc ngủ mê mệt, không buồn nhìn ra bóng tối mịt mùng hai bên và vệt sáng đèn pha quét trên con đường rừng đầy ổ gà.
Chúng tôi tới đích vào nửa đêm. Mắt nhắm mắt mở bước xuống xe, tôi thấy mình trong một cái sân rộng - một khoảng không rộng rãi với những ngôi nhà trắng lên thành những hàng đều đặn trong ánh sáng yếu ớt những ngọn điện vàng vọt và ánh trăng hạ tuần, với bức tường sáng mờ mờ bao quanh. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là một trại giam.
Vừa xuống xe Lê Thanh Tài lập tức biến ngay vào bóng đêm. Viên hương sư cần mẫn giúp chúng tôi hạ đồ lề. Bâu quanh chúng tôi là những bộ cảnh phục hoàng thổ thấp thoáng trong ánh sáng chao đảo của mấy cây đèn bão. Khệ nệ đồ lề trên cả hai vai và hai tay, chúng tôi được đưa vào nhà giam. Không có sự khám xét nào. Sau khi chỉ cho chúng tôi chỗ ngủ - hai cái giường tầng thênh thang trong một ngôi nhà dài bằng nhà năm gian ở thôn quê, đám âm binh lặng lẽ khóa trái cửa lại, bỏ đi.
- Có lẽ chúng nó cho hai thằng mình ở với nhau... - Phùng Mỹ mừng rỡ - Ông nghĩ thế nào ?
- Cũng chưa biết được. Ðể rồi xem. - tôi nói.
Thành dặn tôi : trong tù không được ngạc nhiên, không vội vã mừng rỡ, cũng không hốt hoảng hoặc buồn rầu trước bất cứ điều gì. Phải bình thản đón nhận tất cả - cái may cũng như cái rủi. Người tù bình thản thì mới đối phó được với những hoàn cảnh oái oăm mà mình không lường trước được.
Chúng tôi dọn chỗ ngủ ở tầng trên, bên cạnh một cửa sổ. Từ đó nhìn ra là một khoảng trời đen mênh mông với một mảnh trăng nhợt nhạt. Tính toán số giờ ngồi trên xe, tôi đoán mình đang ở một nơi nào đó thuộc địa phận Phú Thọ.
Ðám âm binh để lại cho chúng tôi một cây đèn dầu hỏa. Tôi dùng cây đèn rọi vào mọi ngõ ngách trong ngôi nhà. Tôi không thích người ta ghi âm những cuộc nói chuyện của tôi với Phùng Mỹ. Mà họ có thể làm chuyện đó lắm. Phùng Mỹ không hiểu tôi định tìm gì, nhưng anh hào hứng tham gia cuộc khảo sát. Chúng tôi phát hiện một mẩu bút chì giấu kín trong một mộng giường, một số que diêm kẹp trong một vỏ bao xẹp lép. Ở đầu một hồi là chuồng xí, có một hộc nước đủ cho hai người tắm rửa thoải mái. Trên tường, ở đôi chỗ tôi đọc được những dòng chữ ghi ngày tháng và một cái tên lặp đi lặp lại nhiều lần : Tân Lập. Tân Lập có nghĩa là Mới Dựng Nên, Mới Lập Ra. Vậy thì trước đây phải là một rừng hoang.
- Ở đây có điện !
Phùng Mỹ reo lên, chỉ cho tôi thấy một ngọn đèn lủng lẳng trên cao, dưới một sợi dây cứng quèo, to quá khổ.
Ngày hôm sau, chúng tôi vẫn không bị chuyển đi. Một viên quản giáo lầm lì dẫn theo một anh tù tự giác mang vào cho chúng tôi xoong nồi, gạo, muối và rau, bát đĩa, đủ cho một cái bếp tối thiểu.
- Các anh nấu lấy mà ăn. Gạo nước hàng ngày sẽ được cung cấp vào buổi sáng.
Y nói rồi quay ra.
Chúng tôi có cả một ngôi nhà thênh thang. Ðang bị tù túng trong xà lim, chúng tôi mặc sức chạy nhảy, vừa cười ha hả vừa đánh đu trên giường tầng như hai đứa trẻ. Cần phải luyện lại những bắp thịt đã nhão nhoét. Tôi ngạc nhiên thấy sức mạnh cơ bắp của mình sau thời gian dài ở Bất Bạt không đến nỗi quá tồi. Thì ra những thế cầu kỳ của hatha yoga đã giúp tôi giữ gìn cơ thể khỏi bị tàn phá bởi cuộc sống trong xà lim. Không những thế, cuộc sống chung hai người rõ ràng là một sự giải tỏa tinh thần. Chúng tôi nói chuyện say sưa, ngày này qua ngày khác. Bằng nhiều cách kiểm tra vòng vèo tôi khẳng định Phùng Mỹ đang ở với tôi là Phùng Mỹ thật, không phải một tên chỉ điểm mạo danh. Tuy vậy, tôi cũng không vội cởi mở. Phùng Mỹ quá hồn nhiên, tôi nhận xét. Người như anh không dễ dàng đối phó với bọn chấp pháp khi bị chúng dẫn vào bẫy. Biết đâu đấy, chúng để cho chúng tôi ở với nhau một thời gian rồi lại tách ra, tiếp tục khai thác từng người một. Cho tới lúc ấy chúng vẫn chưa kiếm được ở tôi một bằng cớ nào khả dĩ có thể dùng để buộc tội, trừ cách cả vú lấp miệng em. Hơn nữa, những sơ xuất trong khi trò chuyện với nhau về các anh em còn ở ngoài có thể mang tai họa lại cho họ.
Khu nhà dành cho chúng tôi cách sân trại một khoảng trống. Sáng nào chúng tôi cũng bị quả bom quái ác đánh thức, mặc dầu chúng tôi có thể ngủ cho tới đẫy giấc, tới khi quản giáo mở cửa đưa tiêu chuẩn thức ăn và gạo vào. Quản giáo cũng chẳng vội vàng đưa thức ăn cho chúng tôi. Y cũng chẳng buồn vào sâu trong nhà. Mở cửa cho chúng tôi ra sân xong, y bảo tù tự giác bỏ thức ăn cho chúng tôi ở cổng, rồi bước ra, khóa lại. Ðứng trong khu biệt giam chúng tôi có thể nghe thấy tù chuyện trò xôn xao trên đường ra sân trại tập họp sáng. Ðiểm danh xong, tù đi xong, cả khu trại giam lại vắng tanh vắng ngắt..
Cuộc gặp gỡ với Phùng Mỹ cho tôi hiểu thêm nội dung và tình tiết của vụ án. Cho tới khi ấy tôi chỉ biết lơ mơ, hay nói cho đúng hơn, chẳng biết gì về nó. Theo cách các chấp pháp hỏi tôi thì nhà cầm quyền có vẻ quan tâm nhiều tới những người có quan hệ với đại sứ quán Liên Xô, và muốn hướng những bản cung vào việc buộc tội chúng tôi làm gián điệp.
Phùng Mỹ cho tôi biết anh có giao du với mấy cán bộ đại sứ quán Liên Xô, bị theo dõi, rồi bị bắt. Trong tù anh bị hỏi cung liên tục về mối quan hệ bị cấm. Anh thú nhận bừa đã chuyển cho một người bạn Liên Xô nội dung Nghị quyết 9 mà anh chép lại sau khi dự lớp học. Theo lời Phùng Mỹ thì Phạm Viết cũng ra vào đại sứ quán Liên Xô nhiều lần. Theo các chấp pháp cho biết thì dường như Phạm Viết có tổ chức một cuộc gặp mặt giữa đại sứ Sherbakov với ông Ðặng Kim Giang và cha tôi. Trong cuộc gặp hai ông đề nghị Liên Xô phải tỉnh táo trước những hành động không thân thiện của một số cán bộ Việt Nam đối với Liên Xô, đừng vì thế mà làm ảnh hưởng xấu tới tình hữu nghị giữa hai dân tộc, đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp Việt Nam chống Mỹ. Chuyện này tôi không biết. Cha tôi không kể cho tôi nghe(1). Không thấy Phùng Mỹ nói gì về Biên bản hội đàm Việt-Trung mà anh chuyển cho phía Liên Xô, như sau này người ta nói đến như một cái tội của anh. Mà anh thì làm sao có được cái biên bản tối mật đó.
Chắp nối những câu chuyện của Phùng Mỹ với những câu hỏi của Huỳnh Ngự, tôi hiểu rằng chẳng có chuyện ban lãnh đạo Ðảng lo lắng cho bí mật Nghị quyết 9 bị tiết lộ. Cả triệu người được biết về nghị quyết thì không có gì còn là bí mật cả. Cái mà người ta muốn biết là có thể khai thác cái gì dùng được làm cớ để buộc Võ Nguyên Giáp vào tội âm mưu đảo chính hay không ?
- Ông có nghe anh em mình nói tới đảo chính bao giờ không ? - tôi hỏi Phùng Mỹ.
- Làm quái gì có chuyện đó.
- Thế tại sao người ta xưng xưng nói rằng có.
Phùng Mỹ cười :
- Họ muốn nặn ra cái đó.
- Họ có hỏi ông về âm mưu đảo chính không ?
- Có chứ.
- Nghĩa là có thể có, nhưng chúng ta không biết ? - tôi gặng.
- Tôi tin chẳng có gì hết. Nếu có tôi phải biết. Chúng nó bịa.
Tôi kể cho Phùng Mỹ nghe về cuộc khủng bố trắng của Stalin những năm 30 mà tôi được đọc trên các tạp chí Liên Xô. Phùng Mỹ biết tiếng Nga không giỏi lắm, cho nên anh ít đọc, ít biết về những vụ án oan trong thời kỳ Ðại khủng bố. Tôi muốn anh rút kinh nghiệm của những người xô-viết để biết cách đối phó trong nhà tù Việt Nam. Anh rất tâm đắc chuyện những người xô-viết thoát xử bắn, được thả ra lại sẵn sàng lên đường ra trận.
- Chúng mình cũng vậy thôi ! - Phùng Mỹ buồn rầu nói - Nếu đất nước bị xâm lăng thì chúng mình có khước từ bảo vệ nó không ? Chúng mình lại phải cầm súng, biết rằng bảo vệ đất nước cũng là bảo vệ ngai vàng của các vị lãnh tụ kính mến. Khốn nạn thật !
- Bi kịch thời đại. Biết làm thế nào ?
Sự suy ngẫm về những gì xảy ra ở Liên Xô, ở Trung Quốc, và bây giờ ở Việt Nam cho tôi thấy cái gọi là bàn tay đế quốc chỉ là cái cớ muôn thuở để gây ra những cuộc sát phạt nội bộ. Nguyên nhân chính là một số người bứt khỏi hàng ngang để chiếm lấy địa vị lãnh đạo phong trào cách mạng thấy cần phải củng cố quyền lực đã đạt được. Họ vu cho đồng chí hôm trước là tay sai đế quốc, hữu khuynh, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, xét lại, tả khuynh, hữu khuynh...tùy theo trí tưởng tượng của họ phong phú hay nghèo nàn. Cựu học sinh chủng viện Stalin trịnh trọng ban phát án tử hình do các ủy ban an ninh vài người ký, rồi cho các đồng chí đi ô tô ra pháp trường. Cựu hương sư Mao Trạch-đông mê kinh kịch không chịu thiếu trống phách : Mao còn cho dong Lưu Thiếu-kỳ, Trần Nghị, Bành Ðức-hoài đội mũ cao mà đi chán chê trong tiếng thanh la não bạt, trong tiếng hô đả đảo rầm trời rồi mới cho phép họ được mục rữa trong ngục thất. Xem ra các hình thức trấn áp của Duẩn -Thọ còn nhẹ nhàng hơn nhiều.
Cái sự cho chúng tôi ở hai người với nhau, được tự do trong khuôn khổ một xà lim rộng, được nấu nướng lấy, có vẻ như một sự nới lỏng. Nhưng kèm theo sự nới lỏng là một âm mưu không lấy gì làm sạch sẽ.
Càng ở lâu với Phùng Mỹ tôi càng thấy anh khác Trần Quốc Thành. Thành điềm đạm bao nhiêu thì Phùng Mỹ nóng vội bấy nhiêu. Trước hiện tượng nào Phùng Mỹ cũng có sẵn, ngay lập tức, một nhận định, một kết luận. Thành thì bao giờ cũng lật đi lật lại vấn đề chán chê, xem xét kỹ mặt này mặt khác của nó, rồi mới thận trọng đưa ra một giả thuyết cho người đối thoại cùng suy nghĩ với mình. Cuộc sống chung giữa hai người khác cá tính đã cho thấy mặt trái của nó : chúng tôi thỉnh thoảng cũng có một cuộc cãi vã nho nhỏ do bất đồng ý kiến.
Tôi không muốn người ta được sung sướng thấy chúng tôi hục hặc với nhau. Tôi thương Phùng Mỹ. Cũng như tôi, anh không phải nhà chính trị. Về khía cạnh này anh là người bị oan. Anh chỉ không oan trong tình cảm đối với họ mà thôi - anh không yêu họ một chút nào. Anh sớm nhìn thấy tính cách cai trị độc tài làm thui chột mọi suy nghĩ độc lập. Mà chỉ có sự suy nghĩ độc lập mới mang tính sáng tạo.
Tôi nói với Phùng Mỹ :
- Không phải vô cớ mà người ta cho chúng mình ở chung với nhau. Họ nghiên cứu chán ra rồi. Họ biết chúng mình có tính cách khác nhau, dễ va chạm nhau. Họ muốn chúng ta ghét nhau, căm thù nhau. Ðó là một mánh khóe tiêu diệt kẻ thù.
- Ðúng ! - Phùng Mỹ đồng ý - Ðúng lắm !
- Tôi đề nghị thế này : để đối phó với âm mưu của chúng nó, ta phải tự đặt ra chương trình làm việc cho kín thời gian một ngày, người nào làm việc người nấy, chỉ trò chuyện một lát trước khi đi ngủ. Như thế chúng ta sẽ chẳng bao giờ cãi nhau, đơn giản vì không có thời giờ để cãi nhau. Tôi hiểu ít về triết học, ông thì lại có thời gian là giảng viên môn này, tôi đề nghị ông dạy tôi. Còn nếu ông quan tâm tới văn học thì tôi cũng có thể thuyết trình ông nghe một số vấn đề. Như vậy có ích hơn.
Phùng Mỹ tán thành.
Một hôm, viên quản giáo tự giới thiệu là cán bộ phụ trách giáo dục trại vào gặp chúng tôi. Ðó là một anh chàng đẹp trai, tầm thước, về sau mới biết không phải là người của trại Tân Lập, mà của Bộ Nội vụ. Y vui vẻ hỏi thăm sức khoẻ (tiết mục nhàm chán nhưng nhất thiết phải có trong những cuộc gặp gỡ giữa hai bên) rồi mở cặp.
- Hôm nay tôi đến để phổ biến cho các anh một quyết định quan trọng. - y rút ra một tờ giấy, định đưa cho chúng tôi, nhưng rồi lại cất vào cặp - Mà thôi, chẳng vội gì, để các anh ăn Tết Ðộc Lập cho vui vẻ đã...
Lại một quyết định mới nữa, tôi nghĩ. Chúng nó toan tính cái gì mà thay quyết định xoành xoạch, như thay quần lót vậy ?
Phùng Mỹ lo lắng. Bữa cơm chiều anh ăn kém đi một bát.
- Chúng nó định làm gì đây ? - anh tư lự đặt câu hỏi.
Tôi đã chai lì rồi, tôi mặc kệ, chúng muốn giở trò gì thì giở.
- Nếu mọi sự tùy thuộc ở ý muốn của chúng ta thì chiều nay tôi mời ông đi ăn chim quay với tôi ở Tiểu Lạc Viên. - tôi nói - Còn khi chúng ta sống tùy thuộc ở chúng nó thì tốt nhất là quên chúng nó đi...
Phùng Mỹ vẫn băn khoăn :
- Không hiểu có quyết định gì mà nó đã định đưa cho chúng ta rồi lại không đưa ?
Biết nói thế nào cho Phùng Mỹ yên tâm đây ?
- Ông không nghĩ đó có thể là một màn kịch à ?
Phùng Mỹ ngẩn người. Rồi vỗ trán đánh bốp :
- Có lẽ lắm. Nếu không, tại sao hắn không nói ngay mà lại bảo để cho chúng ta ăn Tết cho vui vẻ đã ? Hiểu rồi ! Loi de suspension d'intérêt(2), có thế mà mình không nghĩ ra !
Nói thế, nhưng Phùng Mỹ lo lắm. Còn mấy hôm nữa mới đến 2 tháng Chín. Trong những ngày chờ đợi Phùng Mỹ ủ rũ, trông mà thương. Nhà cầm quyền thật độc ác với trò chơi của họ. Cái lối mèo vờn chuột không quân tử chút nào.
Qua mồng 2 tháng Chín cũng chẳng thấy viên quản giáo đẹp trai bước vào khu biệt giam. Mãi tới rằm tháng Chín mới thấy y dẫn xác đến.
- Quyết định mới của Ðảng đối với vụ các anh là thế này. - y nói, hàm răng trắng bóng lên trong nụ cười tươi tắn - Các anh không bị xét xử theo luật pháp mà được hưởng lệnh tập trung cải tạo. Mỗi lệnh có thời hạn 3 năm. Sau một lệnh, nếu các anh cải tạo tốt Ðảng sẽ cho các anh về đoàn tụ với gia đình. Bằng không, các anh sẽ ở thêm một lệnh nữa, rồi một lệnh nữa... Tất cả tùy thuộc ở thái độ cải tạo, tốt hay không tốt.
Phùng Mỹ nhìn tôi. Tôi nín lặng, chờ viên quản giáo nói tiếp.
- Lệnh tập trung cải tạo được ký ngày... - y nói một ngày thángmà tôi bỏ ngoài tai - Các anh có quyền được khiếu nại, được viết đơn lên Trung ương xin khoan hồng. Chúng tôi sẽ nhận và chuyển lên trên cho các anh(3).
Thấy chúng tôi vẫn im lặng, y hỏi lại :
- Tôi có mang giấy bút cho các anh đây. Nếu các anh muốn làm đơn, tôi sẽ để lại.
- Cảm ơn. - tôi nói - Chúng tôi không viết.
- Cái đó tùy các anh. Tôi khuyên các anh nên viết.
Tôi mỉm cười.
- Căn cứ quân hàm của anh, tôi chắc anh phải là đảng viên có thâm niên...
- Ý anh muốn nói sao ?
- Tôi muốn nói rằng nếu như vậy anh phải được biết có một chỉ thị của Ban Bí thư liên quan tới chế độ tập trung cải tạo...
- ???
- Chỉ thị này nói rõ rằng chế độ tập trung cải tạo không được áp dụng cho các cán bộ đã tham gia cách mạng trước Tháng Tám năm 45 và các cán bộ đã tham gia kháng chiến chống Pháp... Tôi chắc anh đã được đọc chỉ thị đó ?
Viên quản giáo chớp mắt liên hồi. Y không biết trả lời thế nào : có thể y chưa được đọc thật, nhưng nhận mình chưa đọc hoặc tệ hơn, không được đọc, thì điều đó có nghĩa là nhận mình kém, mình không phải người được Ðảng tin cậy.
- Anh đọc rồi chứ ? - tôi gặng.
- Phải.
Tôi cười :
- Thế thì anh bảo chúng tôi khiếu nại mà làm gì ?! Trường hợp này các cụ gọi là thế nào nhỉ ? Tôi nhớ ra rồi : nhổ đấy rồi liếm đấy. Có nói cũng bằng thừa.
Viên quản giáo tái mặt. Tôi nghĩ y sẽ có một hành động lỗ mãng với tôi, nhưng y chỉ lặng thinh bỏ đi.
Chúng tôi chỉ còn biết chờ đợi. Chờ đợi một cái gì không biết.
Hàng ngày, vào buổi sáng chúng tôi tắm rửa, làm vườn, rồi quay vào nhà học tập. Ðược nấu nướng lấy, lại có thêm rau tươi tự trồng, lại được tắm nắng tùy thích, sức khoẻ chúng tôi phục hồi nhanh chóng, nước da không còn bủng beo như trước.
Tôi vẫn giấu kín bản thảo Miền Thơ Ấu. Không phải tôi không tin Phùng Mỹ. Nhưng một sự sơ ý của anh sẽ làm mất đi kết quả của rất nhiều thời gian làm việc của tôi. Hơn nữa, nếu người ta đã cảnh giác thì khó mà viết lại lần nữa. Nhưng giấu thì phải ngừng viết, cũng không được. Cho nên đành cho Phùng Mỹ đọc. Hóa ra anh là một nhà phê bình văn học sắc sảo. Nhiều chương trong Miền Thơ Ấu đã được viết ra dưới ảnh hưởng những nhận xét của anh.
Phùng Mỹ sốt sắng truyền đạt cho tôi những kiến thức triết học. Nhưng nghe anh giảng vài buổi tôi nhận thấy tầm hiểu biết của giảng viên môn triết ở đại học ta nghèo nàn quá. Phùng Mỹ chắc chắn không phải giảng viên tồi. Có thể anh còn là giảng viên khá nữa là khác. Tôi không trách anh không đáp ứng được yêu cầu của tôi. Lỗi tại nền giáo dục. Nó không đòi người thầy giáo dạy môn này có kiến thức uyên bác. Nếu ông thầy thuộc lầu chủ nghĩa Mác trong những giáo trình được biên soạn lại, với hai môn duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng, thì thế đã là đủ. Biết thêm anh sẽ trở thành kẻ đa thư loạn thị, anh không còn là thầy tốt được nữa. So với đòi hỏi của nền giáo dục Phùng Mỹ biết nhiều hơn cần thiết, nhưng hiểu biết thừa này lại không đủ cung cấp cho tôi điều gì mới. Anh không biết được bao nhiêu về triết học cổ ấn Ðộ và những trường phái triết học phương Tây hiện đại. Trong tình hình bế quan tỏa cảng về văn hóa, trí thức khoa học xã hội ở Việt Nam có bị hạn hẹp về kiến thức cũng là chuyện bình thường. Nền đại học Liên Xô về mặt này, theo tôi nghĩ, còn khá hơn đại học Việt Nam. Bằng chứng là tôi không học khoa triết, nhưng các giáo sư Liên Xô đã cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản và một phương pháp tư tưởng không đến nỗi tồi.
Nhờ hiểu rõ mục đích của việc ghép những người có có tính khác nhau ở chung với nhau, chúng tôi biết cách tổ chức cuộc sống để không để xảy ra một cuộc cãi lộn nào. Chẳng bù với những anh em không ý thức được âm mưu của nhà cầm quyền. Sau những ngày đầu mừng rỡ được ở cùng nhau, cái xà lim hai người còn tệ hơn xà lim một người nhiều.
Tôi được chứng kiến cảnh đó sau khi chuyển từ khu biệt giam trại A sang khu biệt giam trại B, ít lâu sau.
Khu biệt giam trại B nhỏ hơn hẳn khu biệt giam trại A. Trong một căn nhà dài thượt, vốn là khu xà lim kỷ luật, người ta cắt ra hai đầu hồi mỗi bên bốn xà lim, phá tường ngăn và hành lang của chúng đi, thế là thành hai phòng biệt giam. Nhưng đó là sau khi ở một thời gian rồi chúng tôi mới biết, chứ khi mới chuyển đến vào ban đêm, chúng tôi chẳng biết mình được đưa đi đâu, đang ở đâu. Sau mới biết trong hai phòng biệt giam ở hai đầu hồi đều được dùng để giam tù trong vụ chúng tôi.
Phòng của chúng tôi nhỏ hơn trước rất nhiều. Mảnh vườn cũng bé tí xíu, đất lại toàn sỏi đá. Chúng tôi ra sức cải tạo nó bằng cách xin đào một hố đổ phân và nước tiểu ngay trong vườn (nếu không tù tự giác sẽ phải đưa bô đi đổ ở xa), rồi dùng thứ phân này bón cho cây trồng. Với những củ khoai lang được phát, để cho mọc mầm chúng tôi nhân giống lên thành một luống rau khoai lang xum xuê, những quả ớt mang theo từ khu biệt giam cũ cũng cho chúng tôi một loạt cây sai quả.
Những xà lim bên cạnh vẫn được dùng, thỉnh thoảng lại có tù được đưa vào. Những người tù kỷ luật không nằm lâu trong xà lim, thường chỉ một tuần hoặc hai tuần họ lại được ra nhường chỗ cho người khác. Họ không dám nói chuyện với chúng tôi, có lẽ không hiểu chúng tôi là ai, chỉ đoán rằng chúng tôi là loại tù nguy hiểm, liên lạc với chúng tôi chỉ mang họa vào thân.
Một đêm, chúng tôi nghe từ phòng bên có tiếng gọi :
- Các chú ơi, các chú !
Chúng tôi im lặng. Tiếng một đứa trẻ. Nó gọi chúng tôi hay gọi ai ? Tiếng gọi kiên trì lặp lại một lần nữa, rồi một lần nữa.
- Chào cháu ! - tôi lên tiếng đáp.
- Tại sao các chú lại ở đây ?
Tôi và Phùng Mỹ nhìn nhau. Biết giải thích cho cháu bé thế nào ?
- Chuyện dài lắm. Các cháu không hiểu được đâu.
Từ một xà lim khác vọng lại giọng khàn khàn của một người lớn tuổi :
- Ð...m...! Có cái đéo gì mà không hiểu được. Chính trị nà cùng chứ cái đéo gì mà rộn ?
Chúng tôi không trả lời y. Phùng Mỹ cười đau khổ. Là nhà giáo anh xa lạ với mọi biểu hiện của các nền văn hóa hè, văn hóa chợ. Không bao giờ tôi thấy anh văng tục, kể cả khi tức giận nhất.
- Chính trị, phải không các chú ?
- Phải. Thế còn cháu.
- Cháu là lưu manh.
Giọng khàn khàn lại vang lên :
- Mày thì nưu manh cái đéo gì hở Hán Còi ? Ðừng có sĩ, mày còn nâu mới được nà nưu manh, mày chỉ là thằng nính đú, thằng nính vét thôi, Hán Còi ạ ! Cho dù mày có gan cho tóe me(4) thằng Tín Nác.
Hán Còi van vỉ :
- Thì em có dám mẽ đâu. Em nói chuyện với mấy chú cho đỡ buồn thôi.
Giọng khàn cười hô hố.
- Lói đi ! Hôm lay các ông ấy đi xem xi-lê, còn nâu mới vào... Dưng mà mày giỏi đấy ! Thằng Tín Nác tỏi củ tỉ do tay mày cũng đáng, đéo thằng lào thương !
Hán Còi tiếp tục câu chuyện với chúng tôi :
- Các chú bị mấy năm hở các chú ?
- Chưa xử, cháu ạ ! Không biết là bao nhiêu. Thế cháu bị xử bao nhiêu năm ?
Hán Còi im lặng một lúc lâu.
- Án của cháu là án tù mù, các chú ạ.
- Tù mù là thế nào ? - Phùng Mỹ hỏi.
- Các chú không biết án tù mù là thế nào hay sao ?
- Không.
- Tức là án cao su, các chú ơi. Nó chỉ dãn ra, chẳng bao giờ co vào...
Một lát sau nó lại nheo nhéo :
- Các chú ơi, các chú làm nghề gì ?
- Chú dạy học ! - Phùng Mỹ nói.
- Còn chú kia ?
- Cũng thế.
Hán Còi nói như nói một mình, giọng não nuột :
- Mẹ cháu cũng dạy học. Mẹ cháu là cô giáo...
Chúng tôi lặng đi. Không ai nói thêm câu nào nữa, kể cả giọng khàn khàn ở cuối phòng.
Tôi thấy cay cay ở mắt. Từ giường bên Phùng Mỹ chăm chú nhìn tôi :
- Ông khóc đấy à ?
Tôi chùi nước mắt :
- Mình xấu hổ.
Phùng Mỹ quay mặt đi. Tôi úp mặt xuống gối, mặc cho nước mắt tha hồ chảy. Tôi thấy mình có lỗi trong việc Hán Còi bị án tù mù.
Hán Còi còn quay lại với chúng tôi nhiều lần, không phải vì bị kỷ luật. Nó tới vì cảm giác lưu luyến chúng tôi, lưu luyến các chú nhà giáo. Ngoài Hán Còi ra, trong thời gian ở khu xà lim này, còn có một cháu nữa cũng hay nói chuyện với chúng tôi là cháu Bông. Bông làm lái xe, bị tập trung cải tạo vì làm mất hàng của Nhà nước mà Nhà nước không biết ai lấy, lấy lúc nào. Vì không tìm ra thủ phạm, kẻ tình nghi chỉ có mình Bông, cho nên Bông cũng bị tù mù.
- Thế cháu bị oan à ?
- Không, không oan. Cháu lấy ! - Bông thú nhận - Thằng nào cũng lấy, cháu không lấy cũng dại.
Về sau, nghe lời khuyên của tôi Bông chịu khó theo lớp học trong tù. Cháu quyết tâm làm lại cuộc đời. Ra tù rồi, tôi được nghe vợ tôi kể lại có một ông mang con đến tạ ơn, nói nhờ tôi khuyên bảo mà con ông thành người. Vợ tôi không nhớ tên ông ta. Tôi khuyên nhiều đứa trẻ đi học, không phải một mình Bông, nhưng tôi ngờ đó là Bông và bố cháu.
Không biết các nhà lãnh đạo hồi ấy có tin thật ở khả năng cải tạo con người bằng cách đưa họ vào tù không ? Dường như họ tin thật như vậy. Chẳng thế mà những nhà tù cứ theo nhau mọc lên như nấm mùa xuân.
Một người tù lâu năm lại có cái nhìn khác hẳn về cách cải tạo này. Ông ta nói với tôi :"Mấy thằng bé thằng nào vào tù rồi cũng hỏng. Anh còn ở lâu, anh sẽ thấy. Cứ tha ra là y như rằng chúng trở lại. Tôi gặp chúng nó nhiều lần lắm, gọi là vào đồn ra phủ cứ như cơm bữa. Ở ngoài, chúng chưa đến nỗi hư lắm đâu, nhưng khi vào tù rồi, lại là thứ tù không biết ngày về, chúng không còn trông đợi ở cái gì nữa, chúng hư thật lực, hư cho bõ, đứa nọ truyền cái hư cho đứa kia, càng hư thêm. Nhà tù là một trường đại học đào tạo những công dân mất dạy".
Ông ta nhận xét đúng. Hoàn toàn đúng.
Với bi kịch Cải cách ruộng đất Trường Chinh là một người cộng sản sai lầm. Với chữ ký đặt dưới Nghị quyết của Ban thường vụ Quốc Hội để đưa công dân vào tù không cần xét xử Trường Chinh là một tên phát-xít.
(1) Tội chống Nghị quyết 9 được ghi : "Ðến Hội nghị Trung ương lần thứ 9 thì hoạt động chống đối có tổ chức của họ bộc lộ rõ : Ðặng Kim Giang, Hoàng Minh Chính, Vũ Ðình Huỳnh đã phân công nhau để vận động một số cán bộ, đảng viên viết kiến nghị gửi Trung ương, đồng thời in sao tán phát đến tận nhiều người". Cũng theo Ban bảo vệ chính trị nội bộ thì Hoàng Minh Chính sau khi chuyển các bí mật nhà nước cho nước ngoài (Liên Xô) đã gửi đơn xin cư trú chính trị tại nước ngoài (Liên Xô) và "chúng ta đã biết được điện của lãnh đạo nước ngoài gửi cho sứ quán của họ ở Hà Nội dặn trả lời thận trọng cho Hoàng Minh Chính nếu họ và gia đình tìm được cách nào rời khỏi Việt Nam tới được Liên Xô thì họ sẽ được sống và làm việc tại Liên Xô (!)"(VTH gạch dưới). Ðiều bịa đặt này trái hẳn với báo cáo của nhân viên KGB tại Hà Nội báo cáo về cho điện Kremli rằng "dường như có một âm mưu đảo chính đã bị phát giác tại Hà Nội".
(2) Luật kích thích sự chú ý (tiếng Pháp), một thủ pháp trong kịch nghệ.
(3) Theo tài liệu lưu hành nội bộ của Ban tư tưởng-văn hóa Trung ương, đề ngày 20 tháng 3 năm 1994 thì "Do những tội nạn đã rõ ràng của Hoàng Minh Chính, ngày 18 tháng 10 năm 1971 Bộ Chính trị và cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã quyết định xử trí đối với Hoàng Minh Chính :" Khai trừ khỏi Ðảng, cách chức viện trưởng Viện Triết học, ủy ban Khoa học Nhà nước, tập trung và cải tạo". Lệnh tập trung cải tạo được tuyên bố cho tôi và Phùng Mỹ có trước tháng 9 năm 1971, tức là trước cả quyết định của Bộ Chính trị với tên đầu vụ Hoàng Minh Chính. Anh Trần Thư cho biết khi được thả, người ta đọc cho anh nghe một lúc ba lệnh : lệnh tạm giam 3 năm ký tháng 12.1967 (khi bị bắt), lại tạm giam 3 năm lần thứ hai ký tháng 12.1970, và lệnh tạm tha ký tháng 6.1973. Anh có cảm tưởng cả ba lệnh được ký cùng một ngày, nhưng đề ngày tháng khác nhau.
(4) Tiếng lóng của lưu manh : tóe me = làm đổ máu, chỉ sự đâm, chém.
ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 36-41 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên
ĐÊM GIỮA BAN NGÀY Thay Lời Cuối -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên
.
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...