. .

Saturday, March 28, 2009

ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 13-22 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên

:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 13
Một điều bất thường xảy ra phá tan dòng chảy đơn điệu của những ngày tù đáng ngán. Sáng hôm sau, thay vì mấy củ khoai hà lạnh ngắt, Sứ giả Hòa bình mang vào cho chúng tôi hai suất ăn sáng gói trong giấy báo.
Vào giờ này xà lim còn tối. Ðể tiết kiệm điện, ngọn đèn chang chang suốt đêm hành hạ chúng tôi lại tắt ngóm vào đúng lúc chúng tôi cần đến nó hơn cả. Trong ánh sáng mờ mờ rỉ qua cửa thông hơi tôi phát hiện bên trong mảnh giấy báo là hai cái bánh tí hon chỉ nhỉnh hơn quả chuối mắn một ít.
Ðành ăn mò vậy. Ăn mò có cái tốt của nó - mình không bị cảm giác gớm ghiếc khi nhìn thấy trong miếng ăn đang đưa vào miệng những vật đáng sợ - những mẩu rác hoặc những con mọt. Thời gian này mì viện trợ dồi dào để lưu cữu trong các kho ẩm ướt cho nên nếu không mốc thì cũng đầy mọt. Những con mọt đen trũi hiền lành chẳng có gì nguy hiểm cho hệ tiêu hóa, nhưng miếng mì luộc lẫn xác mọt vẫn làm tôi rùng mình.
Cầm chiếc bánh lọt thỏm trong tay tôi ngạc nhiên thấy nó còn ấm. Cắn miếng đầu tiên tôi còn ngạc nhiên hơn nữa : nó không phải là thứ bánh mì chua loét nào đó tôi thường gặp, mà là bánh mì trắng thơm phức, lại kẹp ba-tê hẳn hoi.
Và ngon ơi là ngon !
Tôi ăn ngấu nghiến. Cái bánh mì đáng yêu tan ra trong miệng như một giấc mơ.
Thật vậy, cái bánh mì ngon đến mức không thể tin được. Tôi nói như thế không phải trên quan điểm của người tù xà lim thường xuyên đói, thấy cái gì cũng ngon. Nó ngon thật sự, cho dù tôi có ở bên ngoài Hỏa Lò. Bột mì mềm và thơm, vỏ lại ròn, ba-tê tuyệt vời, đến nỗi tôi có cảm giác trong đời mình tôi chưa từng được thưởng thức một món điểm tâm nào ngon đến thế. Tiếc quá, nó hết quá nhanh.
Vào thời gian này thực phẩm ở Hà Nội "không được dồi dào", nói theo cách của các nhà chính trị. Tại các cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh chỉ có một thứ phở, lại là phở chỉ có bánh không có thịt, tục gọi là "phở không người lái(1)". Ðể ăn được một bát phở như thế còn phải xếp hàng rồng rắn, có khi cả nửa giờ mới tới lượt. Tất nhiên, ở đâu đó vẫn tồn tại những quán chui có đủ thứ : chim quay, gà tần hạt sen, vịt tần thuốc bắc, ba ba hồng xíu.. hoặc chuyên doanh tiết canh, lòng lợn.... Những quán chui này, dù là chui cũng không phải dành cho đám cán bộ ba cọc ba đồng chúng tôi. Cho nên nếu tôi có khen cái bánh mì ba-tê nọ là cực kỳ ngon thì cũng không phải ngoa ngôn.
Bữa ăn sang trọng giữa Hỏa Lò làm cho Thành ngạc nhiên không kém. Vừa thưởng thức dè xẻn cái bánh còn ấm trong buổi sáng lạnh giá anh vừa hỏi tôi :
- Lạ thật, sao bỗng dưng người ta lại giở chứng chiêu đãi chúng mình sang thế này ? Hay hết chiến tranh rồi mà nằm trong xà lim mình không biết ?
- Hòa bình thì Hỏa Lò này phải ồn lên chứ. Mới lại, hòa bình đâu có phải tin cần phải giấu.
- Hay là sắp có đoàn kiểm tra đến ?
- Người ta sợ cóc gì kiểm tra. Ðoàn nào cũng phải sợ Bộ Nội vụ.
- Ngộ có kiểm tra quốc tế kìa, Hồng Thập Tự chẳng hạn. Họ đến thăm tù binh, nhân tiện ghé qua xem tù mình sống ra sao ?
- Cái đó khó xảy ra lắm. - tôi cười cái giả thuyết hỡi ơi của Thành - Cho dù Hồng Thập Tự quốc tế có đề nghị. Người ta sẽ nói : chúng tôi giam tù thế nào là công việc nội bộ của chúng tôi, không khiến các người dây vào.
- Ừ nhỉ.
Chúng tôi đặt ra đủ mọi tình huống. Ðủ mọi dự đoán. Cái nọ phủ định cái kia. Chẳng cái nào có sở cứ.
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong tôi : rất có thể cái bánh mì liên quan tới bức thư của cha tôi chăng, tới thái độ ngoan ngoãn của tôi sau khi đọc bức thư chăng ?
Khốn nạn, thì ra nó là phần thưởng cho sự đầu hàng ! Tôi nghẹn ở cổ họng. Nước mắt tôi ứa ra.
- Cái bánh này ở ngoài kia giờ giá chừng bao nhiêu hở cậu ?
Thành hỏi sau khi những dự đoán đã cạn.
- Tôi không rõ. Tôi cũng chẳng biết nó bán ở đâu.
Bánh mì các loại kẹp thịt quay, giăm-bông hoặc ba-tê ngon nhất Hà Nội chỉ có ở hiệu Nguyên Sinh. Tôi đã có lần ăn ở hiệu này, cách đây cũng đã mấy tháng. Khẩu vị của tôi không thể nào thay đổi trong thời gian ngắn ngủi đó, thế mà tôi thấy cái bánh mì này còn ngon hơn bánh mì Nguyên Sinh nhiều. Chỉ có thể nghĩ đây là loại bánh mì đặc biệt, do một cơ sở đặc biệt được ưu tiên cung cấp nguyên liệu làm ra. Tôi là dân thường. Cán bộ như tôi không được hưởng những thứ không phải dành cho dân thường.
Người Hà Nội hồi đó đều biết thành phố có mấy cửa hàng cung cấp đặc biệt với sổ mua hàng đặc biệt. Cán bộ trung cao cấp mua ở cửa hàng Nhà Thờ, cán bộ tương đương thứ trưởng trở lên thì mua ở cửa hàng Tôn Ðản. Cửa hàng Hàng Trống chỉ phục vụ chuyên gia nước ngoài và cán bộ cao cấp, giám đốc cửa hàng này là bà em ruột Lê Ðức Thọ. Hàng hóa ở các cửa hàng cung cấp đặc biệt phần nhiều là đồ ngoại nhập mua bằng tiền viện trợ, không có bán ở ngoài, đã hiếm lại rẻ. Chỉ ở đây mới có sô-cô-la, phó-mát, vải đẹp, nước hoa vv. Do đó ngoài giá trị thực dụng phiếu mua ở các cửa hàng loại này còn có giá trị như niềm tự hào được khẳng định.
Tôi được nghe một đoạn đối thoại như thế này giữa hai bà vợ ông to :
- Chị đi đâu vậy ?
- Em đi Nhà Thờ.
- Chết chửa, chị vẫn còn phải đi Nhà Thờ à ? Em tưởng nhà chị được Tôn Ðản từ lâu rồi chứ. Nhà em có đã hai năm rồi. Chị phải nói anh xin gặp anh Sáu đi, thêm một bậc chuyên viên nữa có là bao, anh Sáu cho đấy, chị đỡ vất vả, tội nghiệp quá !
Tôn ti đẳng cấp phong kiến bị nguyền rủa từ khi có cách mạng được lập lại với cách giải thích nghe hợp lý nhưng khó lọt tai : để cho cán bộ lãnh đạo có sức khoẻ tốt đặng phục vụ nhân dân.
Người ta kháo nhau rằng ở Bắc Ninh, hay Bắc Giang không rõ, có mấy nông trường cung cấp đặc biệt dành cho Trung ương, chỉ ở đó mới còn lại giống lúa một thời nổi tiếng trong cả nước như tám thơm, tám xoan, nếp râu, nếp cái hoa vàng... nay hầu như đã tuyệt chủng trước cuộc xâm lấn có lãnh đạo của những giống cao sản cho gạo không ngon nhưng chắc dạ. Cũng chỉ ở mấy nông trường này mới có loại bò giống tốt cho sữa tươi ngon, lợn ỉ chính nòi thơm thịt, hoa quả toàn đặc sản. Tiếng là dành riêng cho Trung ương, nhưng cũng chỉ dành cho Bộ Chính trị với các đồng chí Trung ương cổ cánh thôi, chứ không phải ủy viên Trung ương nào cũng được hưởng. Cũng theo lời thiên hạ đồn thì chim bồ câu dành cho các vị được nuôi bằng đậu xanh để ăn cho bổ. Thức ăn cho Bộ Chính trị là các thứ quý hiếm này, do một bộ phận phục vụ riêng lo lắng.
Ăn cái bánh mì ngon tôi lại nhớ tới bữa rượu suông trên gác nhà Nguyễn Tuân ở đường Trần Hưng Ðạo. Ðó là bữa rượu tao ngộ. Nhà văn già túm được tôi lang thang gần Nhà hát Nhân dân bèn lôi tuột về nhà, chứ không có hẹn trước.
Ông đang lên cơn phiền muộn vì sự xuất hiện mới đây trên báo chí một con chữ kỳ cục.
- Anh xem đây, đọc đi rồi cho tôi biết ý kiến.
Ông quăng cho tôi một tờ báo chi chít những dấu sửa lỗi. Bài báo được Nguyễn Tuân chú ý bị ông sửa như sửa mo-rát(2). Cách sửa mo-rát của Nguyễn Tuân rất đặc biệt, không giống ai - từ trong khối chữ chạy ra lề những đường thẳng, đường gẫy, đường ngòng ngoèo, để kết thúc bằng những chữ, những từ, có khi cả một câu. Ðộ lớn của những lỗi phải sửa phụ thuộc ở tâm trạng nhà văn già. Khi ông bực lên thì một dấu phẩy phải thêm vào sẽ to bằng móng chân gà.
Tôi giả vờ chăm chú đọc.
- Tiếng Việt mình không đến nỗi nghèo, phải không nào ? - Nguyễn Tuân giận dữ - Ít nhất thì nó cũng không nghèo đối với trình độ mấy thằng cha cầm bút kém chữ thời nay. Trong tiếng Việt có chữ y có chữ thị. Y chỉ anh đàn ông, thị chỉ chị đàn bà, rành rành. Vậy mà mấy thằng phó tóm(3) thất học lại dám nghĩ rằng tiếng Việt ta bần hàn. Mới thương tình đẻ rặn ra cho nó một cái từ kép y thị để chỉ mụ đàn bà phạm tội. Khốn nạn thay cho cái tiếng Việt của ông cha ! Bất cứ thằng bỏ mẹ nào cũng đè nó ra mà hiếp được.
Mặt ông khổ sở như chính ông bị xúc phạm.
Tôi cười xòa. Tôi thích ngắm tình yêu chữ nghĩa của Nguyễn Tuân. Tất nhiên, tôi đồng ý với ông. Nhưng cũng tất nhiên, tôi, và cả lớp trẻ tụi tôi, chẳng bao giờ bị dằn vặt, chẳng bao giờ khổ sở như ông chỉ vì một con chữ. Ư`thì người ta đẻ ra một con chữ quái dị, đã chết ai đâu !
Ðể trêu chọc Nguyễn Tuân một chút cho vui, tôi rụt rè thưa với ông rằng ông không nên vội nổi nóng, biết đâu cái từ kép y thị mà các phó tóm nghĩ ra chửa biết chừng lại hay cũng nên. Nó có thể đắc dụng cho tiếng Việt để chỉ một ái nam ái nữ, hoặc một pédéraste(4) chẳng hạn. Vấn đề là liệu nó có tồn tại được không, có được nhân dân chấp nhận không. Từ ngữ cũng như con người, trước hết nó phải được sinh ra đã, sau đó là chuyện khác : nếu nó không chết yểu thì sống lâu khắc lên lão làng. Nguyễn Tuân trợn mắt, gắt ầm lên. Rằng ông không cần đến mấy thằng phó tóm nhảy vào lãnh địa văn chương chữ nghĩa vốn chẳng phải của chúng, rằng chẳng ai khiến chúng sáng tạo thêm cho tiếng Việt, rằng cái từ để chỉ pédéraste trong tiếng Việt đã có sẵn rồi.
Nói ra được nỗi bực bội rồi, vơi được nỗi phiền muộn rồi, Nguyễn Tuân trở lại tâm trạng vui vẻ thường nhật. Ông lục trong góc bàn lấy ra một chai rượu trong vắt, trịnh trọng rót hai ly. Tôi nhấp một ngụm. Ông chăm chú nhìn vào mặt tôi :
- Ngon không ?
- Thưa bác, tuyệt.
Nguyễn Tuân cười khúc khích, ghé vào tai tôi :
- Rượu bộ đấy !
Tôi ngẩn người. Rượu bộ, nó là cái gì ?
Tôi không phải con cháu Lưu Linh, nhờ các bậc đàn anh chỉ bảo cũng biết võ vẽ đôi chút về rượu. Nguyễn Tuân thích rượu làng Vân, nhưng phải do một lão nông người làng này cất kia, chứ người khác cất ông chê. Ông khen rượu Trương Xá, khen vừa phải, nói rượu Trương Xá ngon đấy, phải cái hơi gắt. Ông cũng thích rượu Kiên Lao mà cha tôi thường đặt mua để biếu ông. Ông nói rượu Kiên Lao ngọt giọng mà có hương thầm. Bây giờ ông lại khen một thứ rượu lạ hoắc, tôi chưa từng nghe nói.
Nguyễn Tuân khoái trá nhìn tôi :
- Anh không hiểu rượu bộ là gì hử ?
- Không ạ.
- Là rượu-do-Bộ-Công-an-nấu ! - Nguyễn Tuân nhấn mạnh từng tiếng - Tôi đặt cho nó cái tên rượu bộ để phân biệt với các thứ rượu quốc doanh với không phải quốc doanh khác. Việt Hùng vừa mới xách cho tôi hai chai. Thứ này đúng là hảo hạng, chỉ có loại rượu trên tiền, rượu không phải để bán mới ngon được như thế.
Ông giảng cho tôi một bài về những ngón nghề nấu rượu dân dã, về các loại men với đủ các vị thuốc Bắc thuốc Nam. Nghe Nguyễn Tuân nói thì có thể nghĩ ông là một tay nấu rượu lậu chuyên nghiệp. Mỗi lần đến chơi với Nguyễn Tuân là một lần tôi học thêm được một chút kiến thức ít người biết. Chỉ cần gãi đúng chỗ ngứa của ông. Phải cố mà nhớ nằm lòng, chớ có giở giấy bút ra ghi chép. Thấy anh ghi chép thì thể nào ông cũng sừng sộ :"Ðịnh ghi để báo cáo tôi đấy hử ?"
- Việt Hùng chầu này đến tôi luôn. Mình cứ sắp hết rượu là y như rằng nó xách rượu đến, tài thế ! - Nguyễn Tuân quay lại câu chuyện nói dở - Lần nào cũng một thứ này thôi. Cán bộ thường như mình tiền đâu mà lúc nào cũng rượu ngon ? Mình thì gặp chăng hay chớ, Văn Ðiển cũng ừ, Làng Vân càng tốt, miễn bạn đến nhà có rượu đãi ? Cái này không phải rượu bình thường, cái này gọi là "phương tiện công tác" đây, tôi nghĩ thế. Mới bảo nó :"Anh với tôi là bạn vong niên, mình gặp nhau nên nói chuyện văn chương chữ nghĩa, chuyện các thú chơi của các cụ ngày xưa, vui hơn. Ðừng nói chuyện chính trị, tôi nhức đầu". Nó tào lao một lát rồi về. Rượu thì để lại. Này, thằng ấy kiến thức rộng ra phết !
Từ rượu bộ, do tính chất chật hẹp của nó, chỉ một số ít người biết, mà phải là những người đã từng được Nguyễn Tuân hoặc Văn Cao đãi rượu kia, bởi vì Việt Hùng, theo tôi biết, chỉ biếu có hai ông mà thôi.
Việt Hùng làm việc ở Bộ Nội vụ, ở cơ quan nào trong bộ tôi không rõ, các ông bạn tôi cũng không rõ. Chúng tôi tế nhị không hỏi, Việt Hùng thì không tự nói ra. Là người quảng giao, có kiến thức rộng, Việt Hùng nhanh chóng đánh bạn với các văn nghệ sĩ loại cứng đầu và nửa cứng đầu như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Sáng, Ðặng Ðình Hưng, Tử Phác, Kim Lân vv... Mọi người xì xào rằng Việt Hùng là cá nổi làm nhiệm vụ cá chìm. Mình sợ quái gì, cứ thản nhiên mà chơi, anh em nói, cứ để cho Việt Hùng nó báo cáo. Còn hơn để mấy thằng cá chìm i tờ kiếm chuyện lập thành tích, mình có làm quái gì đâu mà sợ.
Nhưng nói cứng thế thôi, chứ trong quan hệ với Việt Hùng anh em văn nghệ sĩ vẫn cứ rợn rợn. Sau này, chơi với Việt Hùng lâu rồi, hiểu Việt Hùng kỹ hơn, tôi cho rằng cái sự cảnh giác thái quá đối với Việt Hùng của anh em chúng tôi hơi bệnh hoạn. Nỗi sợ hãi này nằm trong nỗi sợ hãi chung của dân chúng đối với cái chế độ hàm chứa rặt tai họa cho mỗi người mỗi nhà. Có lần Nguyễn Tuân rủ rỉ khuyên chúng tôi phải học thuộc cách chia véc-bờ (5)sợ ở mọi ngôi thứ : tôi sợ anh, anh sợ tôi, chúng ta sợ nó, nó sợ anh, chúng tôi sợ các anh, nó sợ chúng ta, chúng ta sợ chúng nó, các anh sợ chúng tôi vân vân..., cứ thế mà chia. Thuộc hết thì sống mới dễ.
Tôi quen Việt Hùng trong một thời gian không đến nỗi ngắn, đủ để hiểu một con người. Tôi nghĩ nếu số trời run rủi cho Việt Hùng làm bộ trưởng Công an thì còn tốt cho nước ta hơn nhiều so với đương kim bộ trưởng Trần Quốc Hoàn. Nhưng anh mãi mãi chỉ là một cán bộ làng nhàng, một chuyên gia sáng tác báo cáo, thỉnh thoảng được mời giảng bài cho một lớp huấn luyện. Anh là người tốt, nhưng trong một xã hội không đề cao lòng nhân ái, mà đề cao đấu tranh giai cấp và cảnh giác cách mạng, anh chỉ dám làm những điều tốt trong điều kiện chúng không làm thiệt hại đến mình. Việt Hùng có thể thành bạn thân của chúng tôi nếu anh không phải là công an. Tôi coi cái đó như một sự thiệt thòi cho cả hai bên, cho anh nhiều hơn cho chúng tôi.
Trước khi bị bắt vài ngày tôi có đến chơi nhà Việt Hùng. Anh tiếp tôi với vẻ mặt ngượng ngùng. Vụ khủng bố trắng đang làm xôn xao dư luận. Anh thấy mình chẳng đẹp đẽ gì khi đứng ở phía chính quyền. Tôi hỏi vỗ mặt :
- Thế nào, nhà chuyên chính vô sản, liệu tớ có bị bắt không đấy ?
Việt Hùng làm ra vẻ bận bịu với ấm trà để tránh cái nhìn sỗ sàng của tôi :
- Bộ phận mình không dính tới vụ đó. Ðây là việc của Ban tổ chức Trung ương...
- Nhưng công an thì đi bắt ?
Việt Hùng nhún vai.
Hôm ấy tôi quên khuấy không hỏi Nguyễn Tuân cái từ Việt chỉ pédéraste trong bữa rượu và rất ân hận đã không hỏi ông. Nó chắc chắn phải thú vị. Rượu bộ của ông êm quá, làm tôi say lúc nào không biết. Mà đã say thì tôi lười.
Tôi đã đi ra ngoài lề câu chuyện.
Có lẽ cái bánh mì ngon lành kia cũng được chế tạo tại một lò bánh đặc biệt, lò bánh mì bộ, nói theo cách của Nguyễn Tuân. Cả ba-tê cũng thế, nó là ba-tê bộ.
Cái bánh mì đã tiêu hết rồi Thành mới bình luận :
- Thứ này, cậu ạ, không phải thứ dành cho tù. Từ ngày vào đây tôi chưa bao giờ thấy nó.
Tôi im lặng.
- Tiêu chuẩn cao thế này chỉ dành cho tù đặc biệt thôi, đặc biệt thế nào tôi không biết, nhưng không thể có chuyện tù thường được ăn. Ngoài kia cậu chuyên viên mấy ?
- Chuyên viên đâu mà chuyên viên. Tôi cán sự ba.
- Sao ? Cậu mà có cán sự ba thôi ư ?
Tôi cười buồn.
- Thật mà. Giấu anh chuyện lương lậu làm quái gì.
- Thế thì đúng là cậu bị lườm rồi. Trình độ cậu phải chuyên viên chứ đâu có ở mức cán sự. Bướng, phải không ? Thế nhưng ở đây cậu được đối xử khác thường đấy. - Thành gật gù - Gì thì gì, người ta cũng coi cậu là tù đặc biệt, hoặc do chiếu cố, hoặc do sự vụ chưa rõ ràng. Hì hì, thế là tôi vớ bở - được ăn theo.
Chúng tôi đã thân mật hơn. Thành hơn tôi chừng dăm tuổi. Không nhớ từ lúc nào anh tự cho phép mình gọi tôi bằng cậu.
Tôi vẫn còn ngây thơ. Trong những dự đoán do cái bánh mì bộ gây ra thấp thoáng cả hi vọng được thả. Tôi nghĩ : nếu không định thả thì họ chiều tôi làm gì ? Tôi biết những nhà lãnh đạo của chúng tôi lắm, họ không bao giờ có tinh thần hiệp sĩ đối với kẻ thù. Trong họ không có khái niệm quân tử. Giỏi lắm thì họ cũng chỉ đạt mức đại tiểu nhân mà thôi.
Tất nhiên khả năng thả chúng tôi không thể loại bỏ. Dư luận, như một làn sóng ngầm mạnh mẽ, bị coi khinh đấy, bị đàn áp đấy, nhưng nó vẫn sống, vẫn tồn tại, và không phải nó không có sức làm nhà cầm quyền nao núng.
Nhân dân bị phản bội. Ðó là điều rõ ràng. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã thành công rực rỡ trong sự thay thế những ông chủ da trắng bằng những ông chủ da vàng. Cái khác là cách cai trị của những ông chủ mới tinh tế hơn những ông chủ cũ nhiều. Mọi sự bóc lột, đè nén giờ đây được tiến hành trong tiếng kèn hoan hỉ ngợi ca cuộc đời mới, trong cờ xí rợp trời, trong ánh lấp lánh của vàng mạ phủ lên mọi tối tăm, tủi nhục, tiếng rìu đao phủ chìm nghỉm trong khúc quân hành, và đám đông bị mê mẩn bởi những lời cổ vũ hùng hồn rầm rập kéo nhau đi tới miền đất hứa ở tít mù tầm mắt không nhận thấy máu đồng bào nhơm nhớp dưới chân mình.
Tôi đã đi trong đám đông bị thôi miên, trong cuộc lên đồng vĩ đại.
Người đầu tiên muốn thức tỉnh tôi là cô ruột tôi lấy chồng ở phủ Xuân Trường. Chồng bà, một ông chưởng bạ42, là một người yêu nước không cộng sản. Ông ủng hộ cách mạng từ hồi bí mật, tham gia tổng khởi nghĩa, trong kháng chiến chống Pháp vừa làm trong ban hội tề2 để giữ thế công khai vừa làm chủ nhiệm Việt Minh xã. Trong Cải cách ruộng đất, ông bị đưa ra đấu, bị vu là phản động, nhà cửa bị tịch thu, gia đình bị khủng bố. Ðến khi Ðảng sửa sai, ông chỉ còn kịp lết về đến nhà để tắt thở trong vòng tay vợ con.
Những việc xảy ra với cô tôi tôi không biết. Tôi đang học ở Liên Xô. Trở về Việt Nam, năm 1957, làm phim Ánh Sáng Tháng Mười nhân dịp kỷ niệm 40 năm cách mạng Nga, tôi mới gặp cô. Cô tôi khuyên tôi :
- Cháu phải tỉnh trí, chớ có nghe cộng sản. Cộng sản bất nhân lắm. Mình là người tử tế, phải biết chọn bạn mà chơi. Nghe ngon ngọt lắm vào rồi đi theo họ, hối không kịp !
Ðó là bà cô được chúng tôi, những đứa cháu bà, trọng nhất, yêu nhất. Cả họ phục bà tần tảo một mình dựng nên cơ nghiệp. Bà chẳng bóc lột ai, chẳng xin xỏ ai. Một trong những nguyên nhân làm cho bà trở nên giàu có là sự keo kiệt. Một con tôm giảo kho của bà đủ làm thức ăn cho tôi suốt bữa cơm - nó mặn khủng khiếp.
Cha tôi bần thần nghe tôi kể tâm sự của cô. Ông buồn : "Ðành rằng Ðảng có sai lầm, nhưng Ðảng đã thấy sai, đã nhận sai để sửa chữa. Không nên vì một sai lầm mà phủ nhận mọi công lao của Ðảng. Cô nói Ðảng bất nhân là không được. Nếu Ðảng là bất nhân thì sao bố lại ở trong hàng ngũ của Ðảng ?"
Tôi tin cha tôi. Tôi không nghe lời cô tôi khuyên. Khi con người bị xúc phạm thái quá thì phản ứng của họ cũng thái quá, tôi nghĩ thế. Chứ cô tôi chẳng có hằn thù gì với cách mạng. Năm cha tôi mười sáu tuổi, ông tự mình viết truyền đơn đi rải ở thị xã Thái Bình rồi bị bắt, chính cô tôi đã đánh đường qua đò Bồng Tiên đội gạo đi nuôi em. Kể chuyện cho tôi nghe, bà cười phô hàm răng đen nhưng nhức :"Bố ông dữ ra quỷ, làm cả nhà bạt vía. Ông bà hãi quá, bắt bác Cả đi lo cho ông em ra. May mà bố ông chưa đến tuổi, chứ không thì Tây nó cho rũ tù..."
Người thứ hai không còn tin ở chủ nghĩa cộng sản là vợ tôi. Vợ tôi theo học ngành kiến trúc Ba Lan vào những năm xảy ra những cuộc biểu tình đầu tiên của công nhân làm lung lay nền móng chế độ cộng sản ở đây. Vợ tôi không sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuộc tầng lớp trên, cũng không phải trong một gia đình trí thức. Qua những điều mắt thấy tai nghe ở nước này vợ tôi đi đến một kết luận bất ngờ :"Chủ nghĩa cộng sản không có tương lai, anh ạ. Nó không được lòng dân".
Người thứ ba cảnh tỉnh tôi là tiểu đoàn trưởng Ðích. Anh rơi vào tù trong trường hợp oái oăm : anh cho phép một chiến sĩ mượn com-măng-ca của đơn vị về quê cưới vợ. Người anh em kết nghĩa của chú rể, dân tộc Mường Tây Bắc mừng em nuôi một cục thuốc phiện bằng nắm tay để chú rể bán đi lo đám cưới. Chú rể bị bắt, hai phù rể bị bắt theo, thủ trưởng đơn vị bị coi là tòng phạm, lĩnh án năm năm tù. Từ nhà tù trở về Ðích thay đổi hẳn. Người ta bảo anh khiếu oan để trên xét lại vụ án, anh chẳng buồn viết đơn. Anh nói với tôi :"Tôi không bực vì cái án. Nhầm là chuyện thường, huống hồ trong vụ này tôi cũng có cái sai. Nhưng tôi sai là một chuyện. Cái cách đồng chí đối xử với nhau thế nào là chuyện khác. Nhà tù cho tôi thấy một điều : không có tình đồng chí ! Chúng ta nhầm. Bây giờ tôi mới hiểu : ông Hồ không phải đồng chí của ta, ông ấy cũng là vua như các ông vua khác, lại không phải vua hiền. Ông ấy biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương".
Tôi an ủi anh, nhưng không đồng ý với nhận xét của anh. Dưới quyền ông Hồ có những con quỷ mà anh gặp, nhưng không phải ông tạo ra chúng. Chúng có trong bất kỳ xã hội nào. Tôi nói, như cha tôi thường nói với tôi, rằng cách mạng là sự nghiệp của cả dân tộc, trong cách mạng không thể không có sai lầm, đó là bệnh sốt vỡ da của đứa trẻ đang lớn, rằng sai lầm sẽ ít dần cùng với sự trưởng thành, mà chẳng phải ai khác, chính chúng ta phải đóng góp để cho nó trưởng thành. Tôi thuyết phục anh dẹp nỗi ấm ức trong lòng để trở lại với công tác cách mạng. Anh phản bác, rồi anh nghe tôi.
Tôi nói với anh Nguyễn Thanh Ðịch, thư ký tòa soạn báo ảnh, nhận anh Ðích vào làm công tác buồng tối. Tờ báo chúng tôi hồi ấy đang cần người có học và tháo vát để giải quyết những khó khăn về kỹ thuật in tráng trong hoàn cảnh thiếu thốn. Anh Ðích là một nhiếp ảnh gia nghiệp dư hiểu nghề khá sâu, được các phóng viên kính trọng.
- Ông bảo đảm nhá ? - thư ký tòa soạn gặng.
- Tôi bảo đảm. - tôi trả lời.
Anh Ðích cần mẫn làm công việc nhà nước cho tới khi tôi bị bắt. Không tuyên bố lý do, người ta thải hồi anh. Sự thải hồi này không chứng tỏ tôi đã bảo đảm không đúng. Nó chỉ chứng tỏ anh bị thải hồi vì người bảo đảm cho anh là tôi.
Sau đó, anh Ðích thề độc không bao giờ đi làm lại cho Nhà nước cộng sản nữa. Anh sản xuất ô mai để bán, là công việc dễ hơn nhiều so với công việc buồng tối. Nghề làm ô mai không bị nhà nước ngăn chặn hóa ra rất có lời, anh nuôi được các con ăn học, tậu được nhà, nói chung gia đình anh sống sung túc.
Tóm lại, từ những điều trông thấy, nghe thấy tôi ngoan cố không chịu rút ra kết luận. Tôi đần và, như bây giờ người ta nói, tôi ngu lâu.
Bữa trưa chúng tôi có thêm món trứng tráng vàng rộm, mỡ nhuếnh nhoáng, bên cạnh tô rau muống tần đại dương tiêu chuẩn chung của tù như thường lệ. Thành thật hóm. Cái tên rau muống tần đại dương là do Thành đặt cho món rau luộc không ra luộc kho không ra kho của nhà tù. Thành nói rằng để sống được trong tù phải dự trữ cho mình đủ tinh thần hài hước.
- Này, lạ chưa, từ sáng đến giờ không nghe còi báo động, nhỉ ? - Thành đần mặt, suy nghĩ.
Trong xà lim chúng tôi chẳng biết gì về những việc đang xảy ra bên ngoài. Chiến tranh thế giới lần thứ ba có nổ ra chúng tôi cũng ngủ quên nó. Hòa bình trở lại chúng tôi cũng không biết. Theo quy định của trại giam tù xà lim không được đọc báo. Mảnh giấy gói bánh mì sáng nay là một mẩu báo năm ngoái.
Có thể xảy ra một sự kiện nằm bên ngoài mọi dự đoán sẽ dẫn tới việc tha hàng loạt tù nhân chăng ? Không, không thể có cái đó, chẳng bao giờ có được một sự kiện như thế, nó chỉ có trong truyện thần tiên.
Tôi xua đuổi quầy quậy cái hi vọng chực le lói. Bất cứ hi vọng nào trong tù cũng là hão huyền. Nó chỉ đẻ ra thất vọng. Như những bông hoa đực.
Bữa chiều, thay vào đĩa trứng tráng là đĩa thịt kho tàu. Chúng tôi ăn thịt kho tàu với mì luộc. Răng tôi nghiến lạo xạo hàng nghìn xác mọt cùng với câu hỏi khó nhá.
Ðúng vào lúc chúng tôi nghĩ đến hòa bình nhiều nhất thì còi báo động hú lên. Tôi nghe rõ tiếng rít lanh lảnh của những chiếc MIG-19 lao nhanh qua Hỏa Lò.

(1) Thứ phở không có thịt, chỉ có bánh phở chan nước dùng. Trong cuộc chiến tranh với Việt Nam người Mỹ thường dùng loại máy bay trinh sát không người lái. Phở không có nhân (theo nghĩa nhân = người) từ đó được gọi một cách mai mỉa là phở không người lái.
(2) Bản in thử để tác giả hoặc biên tập viên sửa lỗi của nhà in.
(3) Chỉ chung những người làm công an.
(4) Người luyến ái đồng tính, chỉ chung cả nam, nữ.
(5) Verbe, động từ (tiếng Pháp).


:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 14

Hách mở cửa, lấy tôi đi cung. Những tưởng sau câu chuyện tâm sự với tôi trong buổi cắt tóc, viên quản giáo sẽ hồ hởi gặp tôi, như những người lính cũ của một thời đã xa ngẫu nhiên gặp nhau, cho dù ở trong Hỏa Lò, nhưng không - y nhìn tôi hững hờ, xa lạ.
Trong phòng hỏi cung, lại một phòng khác, Huỳnh Ngự ngồi nghiêm chỉnh sau bàn làm việc. Y lạnh lùng ngước mắt đón tôi, cái nhìn lướt trên cặp kính trắng trễ xuống sống mũi.
- Anh khỏe chớ, anh Hiên ?
- Cảm ơn. Tôi bình thường. Bác vẫn khỏe ?
- Vẫn khỏe. Thời tiết mấy bữa rầy tốt, ấm lên rồi.
Mở đầu buổi làm việc bao giờ cũng là câu hỏi thăm xã giao. Cứ như thể chúng tôi quan tâm tới sức khỏe của nhau lắm, hoặc đang ra sức tập dượt để dự một cuộc thi lịch sự.
Sau đó mới đến công việc. Lần này y ra câu hỏi bằng giọng rất ôn tồn :
- Anh đã suy nghĩ về lời khuyên của ông già rồi chớ ?
Tôi mệt mỏi đáp :
- Tôi đã suy nghĩ.
Huỳnh Ngự quan sát tôi rồi tiến thêm một bước :
- Anh bằng lòng cung khai ?
Tôi nhìn y. Chuyện này tôi tưởng đã xong, sao y còn nhắc lại ? Thằng cha dai hoi quá. Y vẫn kiên nhẫn nhìn tôi, chờ đợi.
- Không. - tôi đáp, dứt khoát.
Tôi đã ở bước đường cùng rồi, sá gì chúng nó. Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất(1), cha tôi vẫn thường dạy. Ðóng kịch không có nghĩa là sẵn sàng chịu chúng trong bất cứ việc gì.
Huỳnh Ngự trừng mắt :
- Tại sao ?
- Tôi đã nói rồi. Tôi không phải phạm nhân. Ðã không phải phạm nhân thì lẽ đương nhiên không việc gì phải khai.
Huỳnh Ngự liếm môi. Một thoáng suy nghĩ, y nói :
- Nhưng báo cáo với Ðảng những điều Ðảng cần hỏi anh thì anh đồng ý báo cáo chớ ? Hay cũng không ?
Tôi gật đầu :
- Tôi sẵn sàng báo cáo với Ðảng những gì tôi biết.
Nhưng tao sẽ không báo cáo với Ðảng của mày những gì Ðảng của mày cần để hại người đâu, tôi rủa thầm. Ðừng có mơ !
Y cảnh giác với câu trả lời của tôi. Sau khi tin chắc tôi nói không có ẩn ý, y thở phào :
- Anh ngồi xuống đi !
Tôi ngồi.
Ðợi cho tôi yên vị, y từ tốn móc trong ngăn kéo bàn viết ra một xấp giấy trắng, trịnh trọng đặt nó xuống trước mặt tôi :
- Anh là chúa hay câu nệ chữ nghĩa. Mất thời giờ nhiều lắm. Thôi được, nói cho anh hay, Ðảng đã ra chỉ thị cho tụi tui tôi để các anh được tự do lựa chọn cách làm việc.
Tôi dò xét nhìn y. Trò gì thế này ?
- Bữa ni ta làm việc chính thức, theo kiểu khác. Những chi tui hỏi anh mọi ngày, chỉ là hỏi miệng, để có một cái nhìn chung, bao quát, về những điều anh biết và Ðảng sẽ hỏi anh. Chừ coi như anh đã quen, ta viết ra giấy. Các cụ gọi rứa là cái chi hè ? Khai bút !
Y nói với vẻ mặt hiền từ, như cách ông giáo làng nói với học trò trong ngày khai giảng. Nói chung, Huỳnh Ngự thay đổi thái độ nhanh như làm xiếc. Ðang vui vẻ đấy, y có thể bất thình lình gầm lên như phát điên.
- Tui nói khai bút là trúng chớ, nhà văn ?
Không thấy tôi tán thưởng, Huỳnh Ngự giảng giải :
- Khai bút chớ không phải khai cung, như vừa nãy tui dùng chữ có chỗ chưa chuẩn, tui đâu có là nhà văn, phải không ? Ta khai cái bút để báo cáo với Ðảng những điều Ðảng cần hỏi ở ta. Việc ni chỉ có một mục đích duy nhứt nhằm xây dựng Ðảng, làm cho Ðảng ngày thêm vững mạnh...
Lại bắt đầu bài hát muôn thuở ! Nhưng dù sao cũng đã có một sự lùi bước từ phía y. Y đã thôi không dùng từ khai cung.
- Tui thấy cần phải nói trước để anh hay, chừ là cơ hội cho anh đới công chuộc tội, là cơ hội cuối cùng để anh chứng minh lòng trung thành của anh với Ðảng. Vì vậy tui phải nhấn đi nhấn lại nhiều lần điều ni cho anh nhớ, đó là : trong sự báo cáo với Ðảng cái cơ bản, cái quan trọng nhứt, là phải thành khẩn, thành khẩn hết mình.
Ngừng lại vài giây để bắt tôi phải chú ý hơn nữa, y cúi xuống, ghé sát vào tai tôi mà thì thào bằng giọng tên âm mưu dặn dò đồng bọn.
- Nói để anh yên tâm, Ðảng đã chỉ thị cho tui : báo cáo của các anh là báo cáo mật, tuyệt mật...Ngoài tui ra, là người được anh Sáu giao trách nhiệm hướng dẫn các anh viết, không người mô được biết về những báo cáo này hớt. Từng báo cáo sẽ được dán kín lại rồi trình lên anh Sáu và Bộ Chánh trị...
Tôi ngơ ngẩn nhìn y. Tại sao những lời khai của chúng tôi, những kẻ có tội với Ðảng, lại phải giữ bí mật đến thế ? Mà giữ bí mật với ai kia chứ ?
- Anh không việc chi mà ngại : cứ mạnh dạn trình bày với Ðảng, trình bày hớt - từ những quan điểm sai trái cho tới những việc làm có hại cho cách mạng. Ðảng sẽ tha thứ cho anh một khi anh đã hối lỗi. Ðối với những người có liên quan, Ðảng yêu cầu anh không e dè, không nể nang. Phải báo cáo cho Ðảng biết về họ, cả tư tưởng, cả hành động, việc lớn việc nhỏ báo cáo tuốt. Cứ thẳng thừng mà báo cáo, cho dù người có liên quan là cha mẹ mình cũng mặc... Dứt khoát đứng về phía Ðảng, vì lợi ích của Ðảng mà chiến đấu là lập trường đúng đắn nhứt, có lợi cho mình nhứt...
Sau đoạn giáo đầu mang tính chất "đả thông", y lấy bút máy ra, vẩy vẩy mấy cái, lau ngòi bút vào vạt áo cho thông mực rồi mới cần mẫn đánh dấu từng trang.
- Uống nước đi, hút thuốc đi, rồi ta mần. - thấy tôi vẫn ngồi yên, Huỳnh Ngự ân cần nhắc - Trà ngấm rồi đó.
Trà sang. Hôm nay là Ba Ðình chứ không phải Hồng Ðào. Tôi vẫn thích Hồng Ðào hơn. Nó ít chất nhân tạo, đã được nước lại có hậu.
Tôi nhấm nháp từng ngụm nhỏ nước trà đặc, lẳng lặng quan sát Huỳnh Ngự. Cái con người còm cõi kia chắc đã từng làm thư ký cho một ủy ban huyện, hoặc nhân viên đánh máy ở một trung đoàn bộ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Chao ôi, y từng là đồng chí của tôi đấy, từng là chiến hữu của tôi đấy. Giả thử tình cờ gặp nhau trong một trận càn của địch, tôi dám nhường hầm bí mật của tôi cho y lắm.
"Không e dè, không nể nang..., cho dù có là cha mẹ mình cũng mặc !" Trong đầu tôi câu nói của Huỳnh Ngự ong ong bay lượn.
Nghĩa là anh cứ việc thoải mái mà làm chỉ điểm cho Ðảng. Ðảng là của nhân dân mà, của dân tộc mà. Vì lợi ích của Ðảng, để bảo vệ Ðảng, chỉ điểm cũng là một công tác vinh quang lắm chứ.
Vào thời gian này chỉ điểm nhan nhản khắp nơi, từ thôn xã cho tới các cơ quan đầu não. Khác với các bạn đồng nghiệp thuộc các chế độ khác, thuộc những thời đại khác, tên chỉ điểm xã hội chủ nghĩa có niềm tự hào đặc biệt. Nó tự hào vì được theo dõi không riêng những đối tượng của cách mạng mà cả các đảng viên kỳ cựu của Ðảng, cũng từ cấp cơ sở lên tới tận Trung ương. Ðủ hiểu Ðảng tin nó thế nào ! Nó được tưởng thưởng xứng đáng. Chỉ buồn nỗi không được khoe khoang chiến tích mà thôi. So sánh cái được với cái không được thì cái được lớn hơn nhiều.
Dùng phương pháp loại suy tôi phát hiện một số tên chỉ điểm trong giới văn nghệ sĩ qua những cuộc hỏi cung. May mắn cho tôi, và cho văn nghệ sĩ nói chung, không có gương mặt sáng giá nào làm chỉ điểm. Làm cái nghề đốn mạt này chỉ có những tên vô tài bất tướng bước vào văn nghệ qua ngả chính trị, những tên cơ hội đi bằng đầu gối, kiếm ăn bằng những bản văn tán dương chế độ. Có tên đã tập tọng viết lách, nhưng không sáng tác nổi cái gì cho ra hồn, tình nguyện cầm cây roi phê bình gác cửa văn nghệ cho Ðảng. Thậm chí có tên làm chỉ điểm cốt được vào Ðảng sớm một ngày. Tên khác săn tin trong anh em, ton hót với thượng cấp chỉ để kiếm thêm một bậc lương.
Khốn nạn, không làm là một nhẽ, phải ngồi im nghe kẻ chiêu mộ ba hoa về những quyền lợi mà Ðảng ban cho nếu anh ngoan ngoãn làm chó săn chim mồi là một nhẽ khác.
Nhục lắm !
Huỳnh Ngự kể cũng biết điều. Y không nói toạc ra rằng tôi phải đầu hàng và nhận làm chỉ điểm. Nói thế trắng trợn quá.Y muốn tôi bám lấy cái chính nghĩa y quẳng cho : vì lợi ích của Ðảng. Tôi giả vờ nghe theo. Sau đó hẵng hay.
Trong khi chờ đợi y nắn nót những giấy tờ cho cuộc khai bút tôi quan sát căn phòng vừa được đưa tới. Người Pháp không phải là tác giả của những căn phòng manh mún, thiếu tiện nghi được dùng làm nơi hỏi cung trong Hỏa Lò. Căn phòng tôi đang ngồi diện tích chỉ nhỉnh hơn xà lim một chút, lại không có cửa sổ, không có lỗ thông hơi, rất bí. Cách bố trí các phòng hỏi cung hiện nay phản ánh trung thành tính cách chủ nhân nó.
Nhìn căn phòng kín mít trong mê cung những phòng và hành lang của Hỏa Lò bất giác tôi nhớ tới anh Kỳ Vân. Anh có số phận hẩm hiu nhất, cuộc đời đối với anh bạc bẽo nhất. Khoảng một tháng trước khi anh bị bắt, vợ anh đi sơ tán gần Hà Nội bị chết đuối để lại mấy đứa con dại. Thời thuộc Pháp Kỳ Vân đã vượt khỏi nhà ngục này tới hai lần. Lần này dù có muốn anh cũng không vượt được nữa. Anh đã già. Các đồng chí của anh lại rút kinh nghiệm của những lần họ vượt ngục trước kia, kể cả hai lần vượt của anh, giữ Hỏa Lò chắc hơn, nghiêm ngặt hơn nhiều so với thời kỳ thuộc Pháp.
Khi nghe tôi báo tin Kỳ Vân bị bắt cụ Ðinh Chương Dương còn nhớ đủ cả tên họ anh :" Phạm Kỳ Vân chứ, cháu. Cháu nói Kỳ Vân, bác ngỡ là người khác. Chính bác đưa Phạm Kỳ Vân sang Tàu cho bác Hồ huấn luyện cách mệnh chứ ai, lúc bấy giờ Phạm Kỳ Vân còn nhỏ tuổi lắm, nhưng tinh thần cách mệnh thì lại rất lớn. Họ bắt bố cháu, bắt luôn cả Phạm Kỳ Vân hả ? Trời đất, đồng chí với nhau cả sao mà tàn tệ thế ?!"
Anh Kỳ Vân, theo lời cha tôi kể, và như bác Ðinh nhận xét, là người tuổi nhỏ chí lớn. Anh hoạt động cách mạng từ khi còn là học sinh, 21 tuổi đã là xứ ủy viên Ðảng cộng sản Ðông Dương. Tính theo bề dày cách mạng, hoạt động cùng với cha tôi, Kỳ Vân phải thuộc hàng cha chú tôi mới đúng, nhưng anh chơi với tôi cũng như chơi với Hứa Văn Ðịnh(2) ngang hàng, kiểu bạn bè, cậu cậu tớ tớ. Xem ra anh không có cái tính thích làm kẻ cả.
Anh nói về cha tôi :" Sở dĩ ông cụ cậu không có chức sắc trong Ðảng là vì hồi bí mật Ðảng chủ trương để ông cụ hoạt động công khai, có chân trong Trung ương hay là xứ ủy, bị Tây bắt nó xử dữ lắm, Ðảng không có người tháo vát như ông cụ để chắp nối liên lạc cho các cơ sở Ðảng(3). Ðến lúc có chính quyền rồi thì ông Cả(4) lại bắt ông cụ cậu giúp việc ông Hồ. Trường Chinh không thích ông cụ cậu là vì ông cụ thẳng tính, không chịu xu nịnh. Lê Ðức Thọ thì ghét ông cụ lắm lắm, thằng tiểu nhân ấy khi còn ở Sơn La với tụi mình bị ông cụ sạc cho mấy trận vì cái tính đâm bị thóc chọc bị gậy trong anh em. Chứ nó sao bì với ông nhà cậu được ! Khi ông cụ vào Nam ra Bắc làm cách mạng thì nó còn là học trò. Bọn Lê Ðức Thọ viện cớ ông cụ không có chức sắc, không đưa ông ấy lên. Mình biết ông cụ cậu từ hồi bí mật, mình biết cái tình ông ấy, ngay thẳng lắm, mà nóng lắm, không kiêng nể ai đâu, nhưng đối với bạn bè, đồng chí thì tình nghĩa rất mực, cho nên mình quý. " Tôi hỏi vì sao anh đã từng có chức sắc mà cũng không lên được, thì Kỳ Vân gõ cồng cộc vào đầu :"Tại cái này cứng quá. Ðào Duy Kỳ(5) với mình hồi băm chín lên án Trường Chinh sợ địch, thấy địch vừa tổng khủng bố đã co cẳng chạy, cho nên hắn để bụng, khi cách mạng thành công rồi không bỏ lỡ dịp nào không hành bọn mình".
Ngồi trong phòng, tôi rét run. Thời gian trôi, ăn uống kém, dự trữ trong người cạn dần, cho nên tôi thấy rét, chứ đám chấp pháp, quản giáo vẫn phây phây đi lại. Mà cũng có lẽ tại cái phòng làm việc lâu không có hơi người. Tôi tiếc căn phòng trông ra mảnh sân hẹp, nơi có cái vòi nước hỏng. Làm việc ở đấy thỉnh thoảng còn được rửa ráy, còn có cơ may ném được mảnh giấy báo tin cho gia đình, nhất là trong tay tôi bây giờ đã có giấy bút.
Sau khi đã đi tới thỏa thuận về chuyện tôi nhận viết báo cáo, Huỳnh Ngự thay đổi thái độ. Giữa chúng tôi không còn những cuộc cãi vã căng thẳng. Bàn trà được dọn ra, hơi nước bốc trên những cái chén sạch bong, hai bên bàn là hai người điềm đạm thủng thẳng trò chuyện.
Tôi hiểu : Huỳnh Ngự lùi một bước để đòi tôi cái lớn hơn, một món lại quả còn to hơn ăn cưới. Không phải y chỉ đòi ở tôi một bước xuống thang tương ứng mà một sự thối lui thật sự nếu không muốn nói thẳng là đầu hàng.
Về thực chất, báo cáo và cung khai là một. Nhận báo cáo có nghĩa là nhận cung khai. Tuy nhiên, cũng trong buổi làm việc này Huỳnh Ngự tế nhị mhấn mạnh sự phân biệt thực ra rất nhỏ bé giữa chúng tôi và tù thường : với tư cách người được xử lý nội bộ, một thứ phạm nhân nửa dơi nửa chuột, chúng tôi được đặt vào một vị trí khác với phạm nhân thường trong quan hệ với cán bộ chấp pháp.
Ngẫm ra cái máu sĩ diện trong con người ta cũng mạnh gớm ! Nếu Huỳnh Ngự cứ khăng khăng một mực bắt tôi cung khai thì vị tất tôi đã chịu. Cho dù sau bức thư của cha tôi tôi đã quyết định thôi không ngang ngạnh với y nữa. Y đoán trước được phản ứng của tôi, linh hoạt thay ngay cái từ cung khai bằng báo cáo, nghe êm tai hẳn.
Ðiều làm tôi ngạc nhiên là khu vực nhân sự mà Huỳnh Ngự quan tâm quá rộng.
- Anh có quen Tôn Thất Tùng(6) không hỉ ? - một hôm bỗng dưng Huỳnh Ngự hỏi tôi.
- Không thể nói rằng tôi quen giáo sư Tôn Thất Tùng được. - tôi đáp, thờ ơ - Ông thuộc hàng cha chú tôi, lại chơi với ông cụ tôi...
- Thì tui mới phải hỏi. - Huỳnh Ngự dặn ra một nụ cười hiền lành, nhưng trên mặt y nó chỉ đạt mức không độc ác mà thôi - Hồi trước Nghị quyết 9 Tôn Thất Tùng có viết một lá thơ, nội dung là một kiến nghị gởi Trung ương Ðảng, chắc anh đã đọc...
- Tôi có nghe nói thế.
- Chu cha, sao lạ vậy chớ ? Anh mà chỉ nghe nói !? - Huỳnh Ngự ngoẹo đầu, bĩu môi - Khó tin quá hà ! Thư đó ông cụ anh có trong tay, còn đưa hết người nầy người nọ đọc, mà anh không được đọc thì lạ quá.
- Tôi không được đọc có lẽ vì thời gian đó tôi không có mặt tại Hà Nội.
Huỳnh Ngự gật gù :
- Cứ cho là như vậy. Nhưng anh là nhà báo kia mà. Nhà báo thì phải biết mọi chuyện mới là nhà báo chớ. Người ta ồn cả lên vì bức thơ mà anh không biết. Hỏng. Tôn Thất Tùng viết bức thơ nầy trong loạt thơ gởi Trung ương nhằm gây áp lực buộc Trung ương phải thay đổi đường lối. Ngây thơ quá ! Trung ương cần chi tới ý kiến mấy anh khoa học dở hơi mà thơ với từ. Ông già sau rồi cũng không đưa anh đọc ?
- Không.
- Tui dám cá với anh nè, rằng anh có đọc, nhưng anh chối. Mà thôi, bỏ qua chuyện đó đi, anh có đọc hay không đọc không phải chuyện quan trọng.
Tôi cười trừ. Biết nói gì với y bây giờ ? Ðôi co với y, tôi biết rồi, là chuyện vô ích.
Một nguyên tắc của công an là không tin cái gì hết, cho dù mình có nói thực. Chỉ khi nào dùng đủ mọi cách rồi mà không khai thác được gì hơn thì người ta đành chấp nhận cái đã thu được,
Huỳnh Ngự chăm chú rót trà vào chén mình. Lẽ ra, trong bầu không khí không căng thẳng hôm nay y phải mời tôi mới đúng, nhưng y quên không mời. Dù đã cố gắng nhiều y vẫn chưa thành người lịch sự.
- Tui lấy làm lạ cho bọn trí thức các anh ! - sau khi thỏa mãn với chén trà cắm tăm(7), Huỳnh Ngự ngả người trên ghế, hai tay chắp trước bụng - Ðảng chiều như chiều vong, chẳng động đến các anh thì chớ, có sai sót chi cũng cho qua luôn, không thèm bắt bẻ, lại còn tạo mọi điều kiện thoải mái cho các anh làm việc, cho các anh hưởng mọi tiêu chuẩn hơn người, vậy mà các anh rửng mỡ đòi nhảy vô lãnh vực chánh trị, phát biểu lung tung vô trách nhiệm, đòi đường lối của Ðảng phải thế kia thế khác. Hết khôn thời dồn ra dại. Có người cầm tay dắt đi không muốn, muốn tự mình mò mẫm...
Trong chuyện bức thư tôi không nói dối y. Tôi tiếc không được đọc bức thư ấy. Hình như lúc đó tôi đi viết ở Thái Bình thì phải. Nghe nói bác sĩ Tôn Thất Tùng viết rất cảm động. Nhìn sang nước láng giềng, thấy tình cảnh trí thức bên đó bị đấu tố, bắn giết, tù đầy, ông lo lắng cho số phận trí thức Việt Nam, lo cho tương lai nền khoa học nước nhà. Ông muốn lấy lời tâm huyết khuyên can Ðảng đừng đi theo con đường Trung Quốc, bởi nó đem lại cho dân tộc những tổn thất không lường hết được và sự kéo lùi lịch sử nhiều năm.
- Tôn Thất Tùng có hay tới ông già anh không ?
- Tôi không rõ. Cũng có thể giáo sư đến chơi với ông cụ tôi mà tôi không biết. Tôi ở trên gác, ông cụ tôi ở dưới nhà.
- Cái nớ tui rõ. Vậy còn Tạ Quang Bửu. Anh biết chớ ?
- Cũng không. Tôi có phỏng vấn giáo sư Tạ Quang Bửu. Cái sự biết như thế không thể gọi là biết. Bài phỏng vấn sau bị xếp lại vì báo thiếu chỗ.
- Hình như tay nầy ăn nói cũng lung tung lắm, phải không ?
- Làm sao tôi biết được ! - tôi nhún vai - Khi nói chuyện với người không quen biết chẳng ai dại gì nói chệch đường lối của Ðảng, nhất là trong lúc này. Mọi câu trả lời phỏng vấn, theo kinh nghiệm của tôi, thường bao giờ cũng giống xã luận báo Nhân dân.
Huỳnh Ngự nhìn tôi cảnh giác. Y rất sợ bị xỏ lá mà không biết, hoặc về tới nhà mới biết.
Mặc cho Huỳnh Ngự nghĩ gì thì nghĩ, tôi điềm nhiên rót trà cho mình. Trà chát xít ở cổ họng.
-Vậy chớ Nguyễn Tuân, anh biết hay không biết ?
- Nguyễn Tuân thì tất nhiên tôi phải biết.
- Phan Kế An ?
- Tôi biết anh Phan Kế An.
- Anh sẽ viết một báo cáo về Phan Kế An chớ ?
- Tôi không biết Phan Kế An tới mức có thể nói gì về anh ấy.
- Còn Phan Kế Hoành ?
- Anh Hoành là bạn tôi.
Huỳnh Ngự hài lòng thấy tôi sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của y. Y mời tôi, đúng hơn là cho tôi, một điếu Ðiện Biên.
- Kể cũng lạ, lão khâm sai đại thần(8) thì cúc cung theo ta, mà mấy đứa con thì như giặc. - ngả người trên ghế, Huỳnh Ngự nhả khói lên trần - Anh có biết Phan Kế Hoành hắn giải thích bôi đen chế độ ra răng không ?
- Không. Khi anh Phan Kế Hoành dạy ở Ðại học Tổng hợp thì tôi ở Liên Xô. Vụ Nhân văn - Giai phẩm tôi chỉ được nghe kể lại. Mà hình như Phan Kế Hoành không liên quan tới Nhân văn - Giai phẩm.
- Hắn là Nhân văn - Giai phẩm một nửa. Hắn với hai thằng Bùi Quang Ðoài, Văn Tâm(9) ở trong nhóm Ðất Mới.
Tôi nói dối. Tôi biết chuyện Huỳnh Ngự vừa nhắc tới. Nó là thế này : sinh viên hỏi thầy Phan Kế Hoành chuyện báo chí nói nhóm Nhân văn - Giai phẩm bôi đen chế độ nghĩa là thế nào. Thầy Hoành bèn sai một nữ sinh xuống nhà bếp mượn cho anh cái chảo. Ðoạn, anh bảo cô sinh viên :"Em xoa bàn tay của em vào trôn chảo đi, xem tay em đen chưa nào, được rồi, bây giờ em xoa tay lên bảng ! Xoa đồng nghĩa với bôi. Bôi đen nghĩa là như thế !
Sau vụ này Phan Kế Hoành bị tước quyền dạy học. May, người ta còn nể cụ Phan Kế Toại, nên anh chỉ bị chuyển qua công tác khác.
Cái lối gọi cụ Phan Kế Toại xách mé như thế chỉ có ở những tên cán bộ hãnh tiến. Chúng không biết rằng việc một đại thần triều Nguyễn có mặt trong hàng ngũ cách mạng và kháng chiến là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, là tấm gương cho nhiều người trước kia làm việc trong chính quyền thuộc địa noi theo. Nhờ những nhân sĩ có tên tuổi như cụ Phan Kế Toại đứng bên những người cộng sản mà chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp thêm rạng rỡ, uy tín của Ðảng cộng sản được nâng cao.
- Còn Văn Cao ?
- Văn Cao thì tôi biết.
Huỳnh Ngự cười khẩy :
- Phải nói thân mới đúng chớ ! Anh với Văn Cao cùng một hội mà. Các anh gọi Văn Cao là cái chi nhỉ ? Tui nhớ rồi : ông tiên chỉ.
Thì ra y cũng biết cái biệt hiệu tếu mà chúng tôi đặt cho Văn Cao.
Cái cách hỏi cung của Huỳnh Ngự là thế : y nhảy lan man từ nhân vật này qua nhân vật khác, từ đề tài này qua đề tài kia, luôn giữ chặt người bị hỏi cung trong thế bị động.
Trong khi giữ vẻ mặt bình thản để trả lời những câu hỏi khó hiểu của Huỳnh Ngự, tôi luôn phải căng thẳng suy nghĩ : y muốn gì ?
Nghi ngờ Nguyễn Tuân, Văn Cao đã đành, hai ông vốn ngang bướng, không cân nhắc lời ăn tiếng nói. Khốn nỗi, bất cứ cái gì không phải từ Ðảng mà ra đều làm cho Ðảng khó chịu, ngứa ngáy chân tay, muốn đánh. Nhưng tại sao họ lại vơ cả Tôn Thất Tùng với Tạ Quang Bửu vào đấy ?
Tôn Thất Tùng là một nhà giải phẫu tài ba. Phương pháp mổ gan khô của ông được đồng nghiệp trên thế giới đánh giá như một sáng tạo độc đáo trong ngành giải phẫu. Tôi gặp Tôn Thất Tùng nhiều lần. Ông để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc về một trí thức ngang tàng. Trong một lần phỏng vấn ông, Tôn Thất Tùng tiếp tôi tại phòng làm việc trong bệnh viện Việt-Ðức. Thấy tôi nghiêng ngó ngắm bức tượng bán thân của chính ông đặt ngay sau bàn, sát tường, Tôn Thất Tùng mỉm cười pha chút khiêu khích :"Anh lấy làm lạ hả, nhà báo ?". Tôi đỏ mặt lên, không biết trả lời ông thế nào, cứ như thể tôi bị bắt quả tang đang nghĩ xấu về ông vậy. Thái độ bối rối của tôi làm ông thú vị. " Người ta có tượng của họ, sao mình lại không thể có tượng của mình ? Anh đồng ý thế không ?", ông nói.
Chữ người ta mà ông dùng là để chỉ ông Hồ Chí Minh. Không giấu giếm, cũng không cay cú. Ông ghét cái sự sùng bái, sự tôn vinh quá mức một con người, đưa con người đó lên hàng thánh nhân. Chừng ông thấy khắp ngang cùng ngõ hẻm đều có tượng ông Hồ Chí Minh, ông muốn chơi chướng, bèn thuê nặn tượng mình.
Không rõ nhà điêu khắc nào đã nặn bức tượng đó. Nó được làm giả chất liệu đồng hun và đặt nghiêm trang trên đế gỗ. Ðáng tiếc, trong bức tượng không có được những nét hóm hỉnh rất sinh động đặc trưng của nhà giải phẫu.
Giáo sư Tạ Quang Bửu hồi ấy làm chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước. Tòa soạn giao cho tôi viết một bài giới thiệu về ẹy ban, cái thai nhi hứa hẹn trở thành Viện Hàn lâm sau này. Tại văn phòng đảng ủy, tôi được phó bí thư hay ủy viên thường vụ tiếp, hình như tên là Lê Duy Văn thì phải, nếu tôi nhớ không nhầm. Người của Ðảng gày nhẳng, lộ hầu, áo sơ-mi nhàu nát bỏ ngoài quần, đang ngồi bên cái transistor Xiang Mao. Vào giờ ấy Ðài phát thanh Bắc Kinh đang truyền đi một văn kiện quan trọng. Trong thời kỳ sôi động của cuộc đấu tranh giữa hai đường lối đài Bắc Kinh đóng vai huấn luyện viên môn võ mồm. Trong những ngày ấy nó phát đi phát lại không mệt mỏi một giáo trình lê thê gồm những bài phê phán Liên Xô, được các nhà mác-xít nội hóa gọi là những quả đấm dành cho Khrusov.
Tôi được Lê Duy Văn tiếp niềm nở. Sau một tuần trà, chúng tôi nói chuyện tâm đắc như hai anh mác-xít chính cống (nghĩa là đặc sệt mao-ít).
- Tôi sẽ bố trí để đồng chí phỏng vấn hắn - anh ta tin cậy thì thầm - Ðồng chí gặp hắn cứ làm ra vẻ thân mật, trí thức cả với nhau ấy mà, hắn mắc câu ngay thôi, thằng cha vậy mà cả tin lắm. Thế rồi trong câu chuyện đồng chí mới đặt cho hắn mấy câu hỏi thế này thế này... Về bài báo giới thiệu ẹy ban xin đồng chí cứ viết theo tài liệu tôi đưa đây, nó được soạn sẵn cho các nhà báo nước ngoài. Cần thêm vào đấy cái gì thì thêm, cứ theo lập trường Ðảng ta là được...Phỏng vấn Tạ Quang Bửu xong, đồng chí ghi được gì xin chuyển cho chúng tôi, càng có nhiều chi tiết càng tốt.
Tôi muốn đập vào cái bản mặt mác-xít lê-nin-nít đểu cáng của anh chàng này một cái quá. Trông người mà nghĩ đến ta, chắc sau lưng tôi cũng chẳng thiếu những ông bạn quý hóa bước ra từ cùng một lò.
Trong tiếng Việt của ta cách xưng hô thực phong phú. Vào Hỏa Lò tôi mới biết ở đây, hay nói cho đúng trong ngành công an, có lệ bất cứ ai bị bỏ tù đều là thằng hết, còn ai chưa bị bỏ tù, nhưng có thể bị bỏ tù, thì gọi tên không. Cách gọi thằng, con trong ngôn từ chính trị có cội nguồn của nó. Nó xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính ông Hồ Chí Minh dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những bài viết trên báo Cứu Quốc : thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Xihhanúc, thằng Lý Quang Diệu, thằng Măng-đét Phrăng... Theo gương ông, về sau người ta gọi bất kỳ kẻ thù chính trị nào cũng bằng thằng hết : thằng Bảo Ðại, thằng Diệm, thằng Khánh, thằng Kỳ, thằng Thiệu...Cách gọi như thế được coi như sự khẳng định lập trường chính trị.
Ðể phân ranh giới, Huỳnh Ngự gọi những người bị bắt bằng thằng Giang, thằng Chính, thằng Kỳ Vân, thằng Minh Việt vân vân. Với bác sĩ Tôn Thất Tùng, nhà khoa học Tạ Quang Bửu, nhà văn Nguyễn Tuân, nhạc sĩ Văn Cao mà Huỳnh Ngự không gọi bằng thằng mà bằng tên trống không, không có tiếng ông đi trước. Theo tôi hiểu thì điều đó có nghĩa những trí thức lớn của đất nước tạm thời chưa bị coi là đối tượng của cách mạng nhưng không còn được nhà cầm quyền tôn trọng.
Tôi cho rằng Ðảng cộng sản Việt Nam đối xử với trí thức rất không công bằng. Trí thức Việt Nam thời ấy ngoan ngoãn lắm, dễ bảo lắm. Quằn quại trong thân phận nô lệ, khi đất nước giành được độc lập, họ tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Trong niềm tin đã được khẳng định qua Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, trí thức sẵn sàng làm bất cứ công việc gì Ðảng cần đến. Không ở đâu trong các nước xã hội chủ nghĩa có được một tầng lớp trí thức ngoan như thế. Trí thức ở các nước Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, Liên Xô, kể cả trí thức Trung Quốc cứng đầu hơn nhiều.
Ðảng tập hợp họ, bảo họ chỉnh huấn để củng cố và nâng cao lập trường thì họ thành tín như những cậu học trò nhỏ ngồi nghe cán bộ Ðảng dạy bảo. Ngỡ ngàng trước những tín điều lạ tai, lòng nhủ lòng rằng mình mang nhiều tư tưởng của các giai cấp bóc lột nên không hiểu nổi những điều Ðảng dạy, họ tin cậy đưa tay cho Ðảng dìu dắt, hùng hổ xỉ vả nhau về những khuyết điểm có thật và không có thật đối với cách mạng, cặm cụi viết những bản tự kiểm thảo trước Ðảng, hi vọng được Ðảng tha thứ mọi lỗi lầm, để được đi theo Ðảng tới chân trời cộng sản.
Ðảng bảo phải hạ phóng, ba cùng(10), thế là họ bỏ bàn giấy, phòng thí nghiệm, giảng đường, ba lô lên vai xuống nông thôn, chịu cực, chịu khổ, ba cùng với nông dân, ngày ngày tu dưỡng hòng có được những đức tính của người dân cày chẳng cần học hành cũng có...
Ðảng hô hào phóng tay phát động quần chúng làm Cải cách ruộng đất thì họ lăn lộn ngày đêm nơi bùn lầy nước đọng "thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ xâu chuỗi(11)". Cùng với đội với đoàn họ mẫn cán thực hiện định mức thành phần(12), tìm ra bằng được, cho đủ số kẻ thù theo chỉ tiêu của Ðảng đặt ra, hăng hái lôi bọn cường hào, ác bá ra đấu tố, ra pháp trường. Ðến khi Ðảng ngượng ngùng tuyên bố sửa sai thì họ mới ngã ngửa ra rằng họ, những trí thức, lẽ ra phải lấy nhân ái làm đầu, thì đã theo Ðảng nhúng tay vào máu. Do quá tin Ðảng họ nhắm mắt tuân theo, không suy nghĩ, ai ngờ cùng với chủ thuyết lấy đấu tranh giai cấp làm động lực tiến hóa, Ðảng đã gây ra vô vàn bi kịch trong đời sống một dân tộc hiền hòa.
Nhưng rồi bị Ðảng dẻo mỏ thuyết phục rằng sai lầm là nhất thời, thắng lợi là căn bản, họ lại lẽo đẽo theo Ðảng, dùng uy tín của trí thức lôi kéo nhân dân vào những phong trào lẩm cẩm, thậm chí phản khoa học, như cấy dày để tăng sản lượng lúa, cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng của lợn cho lợn mau lớn, tăng năng suất vận tải bằng một xe kéo nhiều rơ-moóc... Kịp tới khi những cánh đồng cấy dày chỉ cho rơm chứ không cho thóc, những con lợn bị cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng(13) lăn đùng ra chết tốt, những chiếc xe tải kéo nhiều rơ-moóc hỏng hàng loạt thì họ lại ngã ngửa ra lần nữa, chợt thấy Ðảng chẳng hề là trí tuệ và lương tâm thời đại như báo Ðảng quảng cáo, mà chỉ là một mớ tạp pí lù những kiến thức chắp vá học mót ở những thầy mo bên Tàu.
Vị trí của trí thức ở Việt Nam thật thảm hại. Số phận của họ cũng thảm hại không kém.
Vừa sử dụng vừa dè chừng trí thức, không thực lòng đoàn kết với họ, là sách lược của Ðảng. Cứ mỗi khi xuất hiện một biến cố chính trị là mỗi lần Ðảng phải căng mắt theo dõi mọi động thái của trí thức, tay lăm lăm dùi cui và còng số 8. Lần này cũng vậy. Sau vụ "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" ở Trung Quốc, vụ Nhân văn - Giai phẩm ở Việt Nam, sau những biến cố chính trị ở Hungari, Ba Lan, Tiệp Khắc, người ta còn đề cao cảnh giác hơn nữa đối với đám trí thức bất trị.
Những cuốn sách được viết ra dưới ánh sáng duy nhất của đường lối Ðảng vẫn bị xem đi xét lại nhiều lần trước khi được xuất bản. Hội họa là lĩnh vực các nhà lãnh đạo i tờ nhất, họ vẫn đòi xen vào để dạy bảo. Trường Chinh thân hành duyệt những cuộc triển lãm hội họa. Tôi còn nhớ chuyện bức Ô Quan Chưởng, được coi là một trong những tranh đẹp nhất của Bùi Xuân Phái, bị Trường Chinh nhận xét thế nào. "Hừm, thế này mà là tranh à ?! - chắp tay sau lưng, Trường Chinh đứng lâu trước bức tranh, ngắm nghía - Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam đang tiến lên chủ nghĩa xã hội hay là một thành phố chết ? Các đồng chí nhìn xem : phố Hà Nội không người, chỉ có nắng chang chang với hoa phượng rụng đầy như máu, có một chiếc xích-lô thì người đạp xích-lô cũng đi đâu mất... Giá mà xa xa, ở hậu cảnh có lấy vài cái cần trục chứng tỏ chúng ta đang xây dựng thì còn tha thứ được, đàng này... !" Bức tranh bị ông Trường Chinh loại khỏi cuộc triển lãm.
Bùi Xuân Phái gọi những bức tranh không bao giờ được triển lãm là tranh quay mặt vào tường. Anh vẽ chúng trên gian gác lửng tối mò ở Phố Hàng Thuốc Bắc. Thứ gác này mới xuất hiện vào cuối những năm 50, chia căn phòng thành hai theo chiều cao, đứng thẳng là đụng trần, đi lại phải lom khom. Dưới cái gác lửng của anh vừa là nhà ở, vừa là phòng ăn, vừa là phòng học của con cái. Tôi uống trà với anh trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn 60 oát trộn lẫn ánh sáng tự nhiên khuếch tán, ngắm những bức tranh quay mặt vào tường được anh lôi ra từng cái một.
Chẳng cứ tranh. Nhiều truyện ngắn cũng chung số phận. Chúng không bao giờ được nhìn thấy ánh sáng mặt trời mà chỉ tồn tại ở dạng kể. Kim Lân gọi chúng là những truyện ngắn xuất bản bằng mồm. Anh có một truyện ngắn kiểu đó, truyện Thằng Câm. Tourgueniev cũng có một truyện ngắn với đề tài tương tự, nhưng xem ra khó vượt nổi Kim Lân. Thằng Câm chẳng bao giờ ra đời. Cho đến lúc có thể viết được thì Kim Lân không còn hứng thú. Gặp anh tại Sài Gòn năm 1990, tôi nhắc anh truyện Thằng Câm thì Kim Lân cười buồn : khốn nạn cái số Thằng Câm nhà tôi nó vất vả, nó chết yểu là do thiên định, thôi thì để cho nó mồ yên mả đẹp, có dựng nó dậy cũng chẳng được, mà cũng chẳng ích gì.
Tôi buồn cho thân phận văn nghệ sĩ nước ta. Nào họ có muốn đấu tranh với ai. Họ chỉ muốn được sống yên để làm công việc mình yêu thích. Mà không được !
Lần này, vào thời điểm trào lưu dân chủ ào ào dâng lên tại các nước xã hội chủ nghĩa, trí thức Việt Nam lẳng lặng đứng về phía những người anh em của mình. Ðó là làn sóng ngầm bên dưới mặt nước phẳng lặng.
Ai cũng biết trí thức được đào tạo tại phương Tây hay tại các nước xã hội chủ nghĩa chẳng có gì đáng gọi là lực lượng, nhưng lại có tình yêu và lòng ngưỡng mộ của quần chúng. Trong mọi biến động lịch sử trí thức bao giờ cũng đi tiên phong. Mao thừa nhận tác dụng ngòi nổ của tầng lớp này trong cách mạng, nhưng khi cách mạng thành công, Mao nói, trí thức sẽ là vật cản bởi tính chất lừng chừng, dao động của nó. Trong những vụ nổi dậy ở Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, trí thức, nhất là trí thức trẻ - sinh viên và học sinh - ào ào xuống đường, kéo theo các tầng lớp khác. Tấm gương tầy liếp đó làm cho những nhà lãnh đạo Việt Nam luôn dè chừng trí thức.
Khẩu hiệu "trí, phú, địa, hào - đào tận gốc, trốc tận rễ" trong cuộc nổi dậy Xô-viết Nghệ Tĩnh bộc lộ tâm trạng hằn thù trí thức của những kẻ dốt nát. Tâm trạng này có chiều sâu lịch sử, từ những cuộc trấn áp tàn bạo cho tới những vụ đốt sách chôn học trò.
Ðòn đánh không trực diện nhằm vào trí thức lần này giáng xuống những người cộng sản thân trí thức. Ðó là những người cách mạng ý thức được nhược điểm của mình. Họ thừa nhận mình dốt, và họ tìm được sự bổ sung cho lỗ hổng kiến thức bằng sự liên kết chặt chẽ với trí thức.
Những người cộng sản thiếu học không hiểu rằng mục đích cuối cùng của cách mạng vô sản, theo Mác, không phải chỉ nhằm giải phóng thân phận nô lệ của người vô sản
mà là giải phóng con người nói chung, nhằm "đưa con người từ vương quốc tất yếu qua vương quốc tự do". Mác không tưởng trong hình dung xã hội tương lai, nhưng mục đích của ông đầy tính nhân đạo.
Ðánh vào những người cộng sản chủ trương dân chủ hóa xã hội, xóa bỏ chế độ toàn trị, là thủ tiêu chỗ dựa tinh thần của trí thức, thủ tiêu ý chí đấu tranh của trí thức, đặt trí thức vào đúng vị trí Ðảng muốn : vị trí của thằng hầu.
Duẩn-Thọ là những nhà chính trị không đần độn. Không cần ai dạy bảo họ cũng thấy trước được điều gì sẽ xảy ra cho vị trí kẻ cầm quyền dựa trên sức mạnh bạo lực. Họ biết quần chúng sớm muộn cũng sẽ biết bộ mặt thật của họ. Tương lai làm họ sợ hãi. Trong cơn sợ hãi họ tung đòn đánh trước.
Ông Bùi Công Trừng(14) nói với tôi :"Cháu nhớ lấy, ở đời dốt nát với hiểu biết như nước với lửa. Họ dốt (tức các nhà lãnh đạo), đã thế lại không chịu học, thánh nhân phải học sao còn là thánh nhân, thành ra đã dốt lại càng dốt thêm. Dốt ghét giỏi là lẽ thường tình. Trí thức nước mình còn khổ, chừng nào thằng dốt còn đè đầu thằng giỏi. Cái đó là bi kịch không phải của một mình nước ta mà của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Bác già rồi, số tận rồi, nghĩ mà thương các cháu".
Ông Bùi Công Trừng nằm trên giường bệnh thở oxy vẫn đọc sách. Tôi nhớ rõ ông là người gióng hồi chuông báo động sớm nhất về nạn phá rừng. Ngay từ cuối thập niên 50, khi vấn đề môi sinh chưa trở thành vấn đề gay gắt toàn cầu, ông đã viết những bài về việc phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. ÔNg phàn nàn với tôi : "Cháu ơi, tội ác của chúng nó lớn lắm - đất đai mình rừng vàng biển bạc thiệt, nhưng đâu phải vô tận. Giờ chúng hô hào tăng gia sản xuất tràn lan, dân được thể phá rừng quá xá. Mấy năm trước, cháu còn nhớ không, lên tới Ðoan Hùng đã là rừng rồi. Bây giờ đến tận Tuyên Quang còn là trung du ! Bọn chúng chỉ có phá là giỏi !". Ông để lại một tập sách dày gồm những suy nghĩ của ông về phát triển kinh tế địa phương, kết quả của những nghiên cứu sâu sắc và khoa học, đến tận thời kỳ "bung ra" (1979-1980) vẫn còn đắc dụng cho các tỉnh ủy.
Cuộc trấn phản đang diễn ra ở miền Bắc Việt Nam là bản sao của cuộc trấn phản trong và sau Ðại cách mạng văn hóa vô sản ở Trung Quốc. Trong tình hình đất nước đang có chiến tranh người ta giới hạn mục tiêu trong sự vô hiệu hóa một số ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên Trung ương có khả năng thế chỗ ban lãnh đạo đương thời một khi xảy ra biến động. Ðòn mạnh hơn được giáng xuống những người cộng sản ở cấp thấp hơn.
Charles Fourniau, nhà sử học Pháp có nhiều công trình nghiên cứu về Ðông Nam Á, đã từng chiến đấu bên cạnh nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1946-1954, trong một hội thảo bàn tròn vào cuối thập niên 70 đã huỵch toẹt ra rằng :"Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Kampuchea là những xã hội cùng chung một mô hình, chỉ khác nhau ở cấp độ mà thôi".
Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ không phải Mao Trạch-đông. Họ không có và chẳng bao giờ có được cái vĩ đại mà Mao có. May cho Việt Nam, trong chuyện hành hạ trí thức Duẩn-Thọ hành động còn rụt rè. Trí thức dưới thời Duẩn-Thọ chỉ bị hành hạ cho tới thui chột đi mà thôi. Lại một lần nữa Nguyễn Tuân có dịp để chơi chữ. Ông nói : " ê Cam-pu-chia Pôn-Pốt diệt chủng, ở ta êm nhiều, người ta chỉ tuyệt chủng thôi !".
Một đặc điểm của thời kỳ này là đường lối đánh đu giữa hai cọc. Trên những trang báo Nhân dân, và các báo khác cũng thế, cứ mỗi bài nói tới Liên Xô thì lại có một bài nói về Trung Quốc, với số dòng tương đương, với cỡ chữ tương đương, không bên nào được lớn hơn bên nào. Ðưấng lối này được giữ trong một thời gian dài trong cuộc xung đột ý thức hệ chủ yếu là nhờ ông Hồ Chí Minh. Vai trò "tôi là người giữa tôi chữa đôi bên" của ông, đáng tiếc, đã tỏ ra không bền. Vị thế trung dung sở dĩ tồn tại được một thời gian còn nhờ ở tâm trạng do dự của Lê Duẩn. Một mặt, Lê Duẩn sợ Mao Trạch-đông nổi nóng thấy Việt Nam không nồng nhiệt hưởng ứng cuộc chiến tranh tư tưởng do ông ta tiến hành chống Liên Xô. Mặt khác, Lê Duẩn sợ những người chủ mới của điện Kremli lạnh lùng thắt hầu bao lại. Những ý kiến đối nghịch ở trong nước không được Lê Duẩn tính đến, hoặc không được tính đến một cách nghiêm túc. Chuyện nội bộ Duẩn để cho Thọ toàn quyền. Cho nên mới có chuyện cùng một lúc Lê Duẩn thề thốt trung thành với Liên Xô, Lê Ðức Thọ bắt bọn xét lại hiện đại.
Có vẻ số dê tế thần của nước chư hầu chưa đủ làm vừa lòng Mao. Anh bạn nhà báo Hoa kiều tên là Lâm Âm cùng công tác với tôi tại báo ảnh, một Hồng vệ binh chính cống ở xa tổ quốc, đã bật ra điều này trong cơn tức giận. "Mao chủ tịch dạy rằng : đánh giá cán bộ phải căn cứ ở việc làm chứ không ở lời nói. - anh ta nói - Ðảng cộng sản Trung Quốc coi những kẻ ngoài miệng chống xét lại mà không làm việc gì chống xét lại cũng là một thứ xét lại ! Hết thảy bọn chúng đều là cỏ dại !"(15).
Tôi không làm chính trị. Tôi cũng chẳng có mưu toan làm lung lay ngai vàng của Duẩn-Thọ. Mộng lớn nhất của tôi là được sống yên lành để được làm công việc mà tôi yêu thích. Ngoài cái đó ra tôi chỉ vỏn vẹn là một anh tiểu trí thức Việt Nam đặc thù : một nhúm kiến thức tây học trộn với nắm tro tàn của tinh thần nho sĩ xưa mà thành.
Thôi được, đành phải nhu vậy. Cái thế không thể khác. Nhưng nhu là nhu tới mức nào đây ? Nhu quá là đầu hàng vô điều kiện.
Tôi biết mình chẳng bao giờ học được thói luồn cúi. Riêng sự phải lặng thinh nuốt nhục vào lòng đối với tôi cũng đã khó lắm rồi. Khó hơn chết. Cái chết chẳng có gì đáng sợ. Nó là cái tặc lưỡi, cái nháy mắt, sau đó là hết, là cõi hư vô.
Sống mới thực là khó.

(1) "Ðắc chí, dữ dân do chi, bất đắc chí, độc hành kỳ đạo, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử vị chi đại trượng phu", nghĩa là "lúc đắc chí thì cùng với dân mà hành đạo, không đắc chí thì hành đạo một mình, khi giàu sang không ham mê tửu sắc, lúc nghèo hèn không dời đổi tiết tháo, trước uy vũ không khuất phục" (Sách Mạnh tử, Ðằng Vân công Hạ)
(2) Nhà văn (1933-1995), nhà biên kịch.
(3) Theo các đồng chí cũ của cha tôi kể lại thì công tác chính của cha tôi trong thời kỳ bí mật là chắp nối các cơ sở Ðảng, vận động trí thức.
(4) Một trong những bí danh của Nguyễn Lương Bằng.
(5) Nguyên bí thư xứ ủy Bắc kỳ.
(6) Tôn Thất Tùng, được Nhà nước Việt Nam tặng danh hiệu anh hùng lao động, một nhà giải phẫu tài năng, nổi tiếng trong giới phẫu thuật gia trong nước và thế giới.
(7) Trà pha thật đặc, nói thậm xưng là cắm que tăm vào mà que tăm vẫn đứng chứ không đổ.
(8) Cụ Phan Kế Toại năm 1945 là Khâm sai đại thần của chính phủ Nam triều. Ði với cách mạng, cụ giữ chức bộ trưởng Bộ Nội vụ (công việc khác với Bộ Nội vụ bây giờ). Họa sĩ Phan Kế An là con trưởng cụ Phan Kế Toại, nhà nghiên cứu sân khấu Phan Kế Hoành là con thứ.
(9) Khi có vụ Nhân văn - Giai phẩm Bùi Quang Ðoài và Văn Tâm (nhà nghiên cứu văn học, nhà thơ) ở trong nhóm Ðất Mới của sinh viên, lập trường gần với nhóm Nhân văn - Giai phẩm.
(10) Hạ phóng, từ ngữ đặc Trung Quốc, có nghĩa đi xuống dưới, xuống cơ sở, xuống với dân. Ba cùng : cùng ăn, cùng ở, cùng lao động.
(11) Vận động bần cố nông đấu tranh với địa chủ bằng cách từ một nông dân bị bóc lột nhiều nhất, nặng nề nhất lôi kéo các nông dân khác.
(12) Trong Cải cách ruộng đất ở Việt Nam, người ta không xuất phát từ tình hình cụ thể của địa phương mà định mức thành phần, bất kể có phù hợp hay không, chẳng hạn người ta đề ra là 5% địa chủ thì đội cải cách cứ phải tìm ra cho đủ số.
(13) Những người tò mò có thể tìm thấy trong thư viện những bài báo cổ động cho những phong trào lẩm cẩm này trong chính báo Nhân dân những thập niên 50-60.
(14) Bùi Công Trừng(1902-1977) là một nhà cách mạng cộng sản thuộc lớp kỳ cựu, tốt nghiệp Ðại học Phương Ðông Moskva, ủy viên Trung ương Ðảng, cựu tù nhân Côn Ðảo, phó chủ nhiệm ỷy ban Khoa học Nhà nước đầu thập niên 60.
(15) Lâm Âm về sau cũng bị bắt (không có án) khi Trung Quốc tấn công Việt Nam. Nghe nói rồi anh được thả, hiện sống tại Sài Gòn.


:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 15

Trên nền cuộc đấu tranh giữa hai đường lối với rất nhiều vấn đề của phong trào cộng sản quốc tế trong hai thập niên 50 và 60 nổi bật lên sự lựa chọn, hoặc nói cho đúng hơn, cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng tổ chức xã hội : dân chủ và độc tài.
Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô đặt trước các đảng cộng sản sự lựa chọn không thể thoái thác : hoặc là chủ nghĩa xã hội kiểu Stalin, hoặc là chủ nghĩa xã hội cách tân đi về phía dân chủ ?
Lê Duẩn, nhà lãnh đạo toàn quyền vào những năm đó, không cần suy nghĩ nhiều, chọn tư tưởng Mao và mô hình Trung Quốc làm nền tảng cho cách cai trị. Ðó là sự lựa chọn duy nhất có thể có đối với Lê Duẩn, sự lựa chọn bẩm sinh, thích hợp nhất. Có anh nhà quê ra tỉnh nào mà lại thích thú những sự phiền toái, những cái đòi hỏi phải động não trong đời sống thành thị. Vốn là một nhân viên bẻ ghi đường sắt trước khi trở thành nhà độc tài, Lê Duẩn tất nhiên muốn chỉ bằng một cú gạt là bắt được con tàu quốc gia chạy theo hướng mình muốn.
Nhưng hoàn cảnh Việt Nam lúc ấy buộc ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Việt Nam, bất kể xu hướng của nó thế nào, phải khôn khéo giữ bề ngoài trung dung, không dám ngang nhiên chửi bới Liên Xô, chửi bới trào lưu dân chủ đang dâng cao trong thế giới cộng sản.
Thế là vào cuối năm 1963(1) xuất hiện Nghị quyết 9, một nghị quyết nửa dơi nửa chuột, không có lập trường rõ ràng đối với cuộc xung đột tư tưởng đang diễn ra gay gắt trong lòng phong trào cộng sản quốc tế. Trong nghị quyết này Ðảng Việt Nam vừa nói chống chủ nghĩa xét lại hiện đại vừa nói chống chủ nghĩa giáo điều(2), với câu chữ kín kẽ, rất kinh viện, trong một hệ khái niệm độc đáo, khó mà hiểu được người viết nghị quyết muốn gì. Liên Xô đọc cũng không thể bực mình, Trung Quốc đọc cũng không thể tức giận. Theo lời đồn thì tác giả của cái nghị quyết nước đôi này, hay nói cho đúng hơn, người chấp bút nó, là nhà kinh viện Trường Chinh, đã nhoài người ra giúp rập chủ soái Lê Duẩn đóng thật đạt màn kịch "em chã, em chã" với cả hai bên tranh chấp.
ấy thế mà cái Nghị quyết 9 lươn lẹo, được nhào nặn bởi chủ gánh xiếc ngôn ngữ Trường Chinh, lại ra đời không được thông đồng bén giọt như các nghị quyết khác, theo thông lệ bao giờ cũng được "nhất trí" thông qua bằng những cánh tay giơ cao. Khốn thay, trong giai đoạn này đã xuất hiện làn sóng ngầm của xu hướng dân chủ trong Ðảng, được cả một số ủy viên Trung ương tán thành. Nghị quyết 9 là cái Lê Ðức Thọ và đàn anh Lê Duẩn cần có để trấn áp trào lưu dân chủ nọ. Nó phải được ra đời, bằng bất cứ giá nào. Và, về đại thể, Duẩn-Thọ đã thành công.
Trong Nghị quyết này, mặc dầu lời lẽ mù mờ, lập trường mao-ít của liên minh Duẩn-Thọ, là rõ ràng đối với bất cứ ai không mù.
Sợ các đảng viên hiểu lầm, Trường Chinh giải thích thêm trong một cuộc họp phổ biến Nghị quyết 9 cho các cán bộ cao cấp vào tháng giêng năm 1964 rằng "Cần lưu ý các đồng chí một điều là Nghị quyết 9, do tình hình phức tạp trong phong trào cộng sản quốc tế không thể viết hết ra những điều cần nói. Cần đặc biệt lưu ý rằng thực chất của Nghị quyết 9 chỉ có thể phổ biến bằng miệng, điều đó là : đường lối đối ngoại và đối nội của Ðảng và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Ðảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc". Cách phổ biến bằng miệng, sợ hãi sự ghi ra rõ ràng trong văn bản chứng tỏ tính nội kín của ban lãnh đạo Ðảng thời kỳ ấy. Làm ra vẻ có sự phân công quốc tế trong việc đánh xét lại, Lê Ðức Thọ nói cho rõ hơn nữa trong một cuộc họp khác: "Chống chủ nghĩa xét lại hiện đại về mặt lý luận ta để cho Ðảng cộng sản Trung Quốc làm, còn về mặt tổ chức thì ta tự làm lấy".
Cuộc đánh xét lại bằng nước bọt bắt đầu. Khắp nơi người ta chửi bới thằng trọc(3), chửi Liên Xô hèn, Liên Xô sợ Mỹ, Liên Xô phản bội. Một việc mua bán bột mì thông thường của Liên Xô trong khi nước này thiếu hụt lương thực được coi như một thất bại thảm hại trên mặt trận nông nghiệp. Những cổ động viên bóng đá quên bẵng tinh thần thể thao, gào khản giọng trên sân cỏ trong một trận đấu giao hữu :"Oánh bỏ mẹ bọn xét lại đi !". Những người không đồng tình, lỡ miệng nói câu nào không giống lập trường của Ðảng lập tức bị chụp cho cái mũ xét lại hiện đại.
Với Nghị quyết 9 Ðảng cộng sản Việt Nam phân hóa thành hai cực - một bên là những người chủ trương chủ nghĩa xã hội dân chủ pháp trị, đòi kiến tạo một xã hội công dân có nhân quyền, bên kia là Ðảng cầm quyền kiên trì một chủ nghĩa xã hội chuyên chế.
Ðó là những ngày không thể nào quên.
Dương Bạch Mai, con hổ dữ chống lại đường lối thân Trung Quốc đột tử khi ông đang dự cuộc họp Quốc Hội tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Vào lúc giải lao, các đại biểu kéo nhau đi uống bia ở bar, ông Mai thết trước các bạn một chầu bia mừng sinh nhật ông hôm sau. Ông ngã xuống. ly bia chưa cạn. Khi xe cấp cứu đến, bác sĩ Tôn Thất Tùng định nhảy lên cùng đi tới bệnh viện thì hai thanh niên lực lưỡng áp sát ông :"Mời bác sĩ quay lại tiếp tục cuộc họp Quốc Hội, việc nước quan trọng hơn". Chiếc xe cấp cứu phóng đi trước khi Tôn Thất Tùng hiểu chuyện gì xảy ra với ông, hai thanh niên kia là ai và tại sao họ lại ngăn cản ông đi cùng xe để săn sóc bạn ông ?
Cái chết của Dương Bạch Mai gợi nên một nghi vấn. Ông ngã xuống đúng vào lúc ông sắp sửa đọc một diễn văn nảy lửa chống lại đường lối xây dựng xã hội trại lính kiểu Mao Trạch-đông, đòi Ðảng phải cải thiện đời sống cho dân chúng, đòi thực hiện dân chủ trong nội bộ Ðảng, trong xã hội, và hàng loạt vấn đề khác. Bài diễn văn ông đút trong túi áo để đọc trước Quốc Hội biến mất. Nhà báo Thái Hồng, rất thân với Dương Bạch Mai, được đọc bản thảo diễn văn mấy hôm trước đó nói rằng đó là một tuyên ngôn cháy bỏng, hùng hồn và cực hay. Ðược tin ông Mai mất đột ngột, bà Mai từ giã các cháu học sinh miền Nam ở Thủy Nguyên về Hà Nội để làm ma cho chồng. Ngôi nhà của ông bà bị công an gác. Bà phải làm dữ mới vào được nhà mình. Trong nhà đồ đạc bị lục soát tung tóe.
Dương Bạch Mai là một trong những nhà lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam(4). Ông cũng là một trí thức yêu nước của đất Nam bộ. Ông từng du học Pháp, gia nhập Ðảng cộng sản Pháp năm 1926. Trong cuộc nổi dậy mang tên Nam kỳ Khởi nghĩa ông được ủy ban khởi nghĩa dự kiến làm thủ tướng chính phủ cách mạng. Năm 1935 Dương Bạch Mai trúng cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn trước sự bực bội của chính quyền thuộc địa. Dương Bạch Mai cũng là một trong những nhân vật chủ chốt của tờ La Lutte, tờ báo cách mạng đầu tiên có sự bắt tay giữa những người cộng sản và những người tờ-rốt-kít thuộc nhóm các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch(5).
Tính cương trực, nóng nảy, chịu ảnh hưởng nặng những tư tưởng dân chủ của Ðại cách mạng Pháp, đã quen với cách xử thế bình đẳng kiểu phương Tây, ông không được lòng những nhà lãnh đạo gốc Bắc. Chính Dương Bạch Mai chứ không phải ai khác đã vực dậy cả Ban chấp hành Trung ương bạc nhược sau thất bại Cải cách ruộng đất.Hội nghị cán bộ Trung ương kiểm điểm công tác Cải cách ruộng đất diễn ra trong bầu không khí ảm đạm trước viễn cảnh một miền Bắc tiêu điều, thù hận. Dương Bạch Mai đã đứng lên, cao giọng hát bản Internationale(6), mọi người hát theo ông, và Hội nghị lấy lại được tinh thần.
Ông Phạm Ngọc Thạch(7), trong một câu chuyện vui tại nhà tôi hồi đầu thập niên 60, nói với ông Dương Bạch Mai :
- Mấy chả không ưa mầy, vì mầy thẳng ruột ngựa, nghĩ sao nói dzậy, làm mấy chả mếch lòng, mới lôi cái vụ mầy hợp tác với đám tờ-rốt-kít ra mà rêu rao.
- Thì mầy cũng bị mấy chả rêu rao là có thời thân Nhật đó thôi. Chơi với tờ-rốt-kít thì mầy cũng chơi chớ bộ. - ông Dương Bạch Mai cười ngất - Nè, cẩn thận đó, sổ đen của mấy chả chỉ có ghi thêm vô chớ không có xóa đi đâu nghen",
Theo cha tôi, thái độ của những người lãnh đạo Ðảng cộng sản Việt Nam đối với những người tờ-rốt-kít là không thể hiểu được. Họ có thể đoàn kết với bất cứ ai khác, trừ những người tờ-rốt-kít, thậm chí cả trong những hành động cụ thể chống lại nhà cầm quyền thuộc địa. Ðể giải thích thái độ bất cộng đới thiên này, người ta dẫn ông Hồ Chí Minh : "Ðối với bọn tờ-rốt-kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của phát-xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị" (trích báo cáo của ông gửi Quốc tế Cộng sản cuối năm 1939). Quả ông Hồ có viết như vậy. Lập trường cứng rắn này của ông được những người nghiên cứu tiểu sử ông giải thích bằng sự cần thiết phải thanh minh trước một Quốc tế đa nghi dưới sự chỉ đạo của Stalin sắt thép. Hồi ấy Quốc tế nghi ngờ lập trường cách mạng vô sản của ông Hồ, cho rằng nó không vững chãi. Ông cần sự ủng hộ của Quốc tế cho mục đích giải phóng dân tộc hay ông cần tiền để sống qua ngày trong khi còn lang bạt nơi đất khách quê người, mà Quốc tế là nguồn cấp đỡ ? Ðó là điều không ai biết.
Ông Dương Bạch Mai nói với tôi rằng ông không được lòng ông Hồ Chí Minh. Dương Bạch Mai có cái tật sống quá thẳng. Ông ngang tàng, không chịu gò mình vào tôn ti trật tự phong kiến, ông bạt mạng trong lời ăn tiếng nói. Ðã quen với những lời tâng bốc, xưng tụng, ông Hồ Chí Minh có không ưa ông cũng phải.
Trường Chinh cũng không ưa Dương Bạch Mai. Ðiều này không khá hiểu. Trong Trường Chinh có mặc cảm của kẻ ngã ngựa. Sau sai lầm Cải cách ruộng đất ông đinh ninh ai cũng coi thường mình. Dương Bạch Mai phản đối Nghị quyết 9 thì Trường Chinh lại coi là ông phản đối mình.
Lê Duẩn đặc biệt không ưa Dương Bạch Mai. Theo nhận định của những người từ Nam bộ ra Bắc tập kết thì sự không ưa này không phải vì nguyên do chính trị. Cái chính là Lê Duẩn biết mình chẳng bao giờ có được cái mà Dương Bạch Mai có - sự nổi tiếng với tư cách một thủ lĩnh có trí tuệ. Dương Bạch Mai nói về Lê Duẩn : "Cháu để ý tới cái thằng cha ấy làm chi ! Tâm trí bậc nam nhi là để cho sự nghiệp, thằng này thời chỉ lo kiếm chác vinh quang và quyền lực, lúc nào cũng nơm nớp sợ người khác hơn mình. Sự nghiệp và vinh quang là hai thứ khác nhau, như ngôi nhà với nước vôi phủ bên ngoài nó, cháu à !"
Dương Bạch Mai, nếu còn sống chắc sẽ chịu chung số phận với chúng tôi. Không phải chắc, mà chắc chắn.
Từ khi có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, ông chống lại việc đưa nước Việt Nam vào quỹ đạo chủ nghĩa Mao. Ông gọi chủ nghĩa Mao là món tạp pí lù(8) của thổ phỉ. Giữa lúc ngành tuyên truyền Việt Nam đưa Mao Trạch-đông lên hàng thánh sống thì ông ngang nhiên gọi Mao là tên đao phủ của đại pháp trường Trung Quốc. Ông giải thích tình hình loạn lạc hiện tại ở nước láng giềng bằng lập luận rằng vào đầu thập niên 30 giai cấp công nhân Trung Quốc chủ yếu tập trung ở các thành phố duyên hải, trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng những đại biểu ưu tú của giai cấp này đã chết dần chết mòn trong Vạn lý trường chinh, và thay vào chỗ của họ là bọn cường đạo thảo khấu thu nạp ở dọc đường. Cho nên khi biên khu Thẩm-Cam-Ninh, Tân-Ký-Sát hình thành thì về thực chất Ðảng cộng sản Trung Quốc đã là một đảng thổ phỉ, đứng đầu là thành phần vô sản lưu manh. Những người cộng sản bị Mao Trạch-đông và Khang Sinh thủ tiêu dần. Người còn sống sót thì bị ám hại trong những "cuộc vận động cách mạng" thường trực. Chính cái đó dẫn tới tình trạng bất ổn liên miên trong nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa.
Những nhận định ngược đời của Dương Bạch Mai làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam hết hồn. Sở dĩ ông chưa bị đụng tới là vì ông có danh tiếng, có uy tín lớn trong quần chúng.
Dương Bạch Mai qua đời khi đang là ủy viên Ban Thường vụ Quốc Hội, phó chủ tịch Hội Việt-Xô hữu nghị. Sau này, nhân vụ tướng Hoàng Văn Thái rồi tướng Lê Trọng Tấn thay nhau đột tử đúng lúc chuẩn bị nhậm chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng dư luận lại nhắc tới cái chết đáng ngờ của Dương Bạch Mai nhiều năm về trước.
Ngày đưa tang ông, văn nghệ sĩ và trí thức nghèo của Hà Nội chung nhau một vòng hoa để bày tỏ lòng thương tiếc ông, Người của mọi người. Vũ Huy Cương và Dương Tường(9) đứng ra thu tiền phúng.
Tôi thay mặt anh em văn nghệ sĩ có xu hướng dân chủ mang vòng hoa tới trụ sở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở ngã tư Tràng Thi - Quán Sứ. Anh em cử tôi làm việc đó vì tôi là loại vua biết mặt chúa biết tên rồi, có muốn giấu cũng không được, còn người khác thì không nên lộ mặt làm gì. Khi tôi ngồi xe xích lô chở vòng hoa đến đấy thì đã có cả một đám đông cá chìm lăng xăng ở ngoài đường và trong sân. Thấy vòng hoa lớn quá, lớn hơn nhiều so với vòng hoa của chính phủ viếng ông, với dải băng chạy ngang "Kính viếng hương hồn đồng chí Dương Bạch Mai, người cộng sản suốt đời trung thành với lý tưởng" bọn cá chìm ập tới. Hai tên lực lưỡng xăng xái xông tới khiêng giúp tôi, không phải để đặt vòng hoa trước linh cữu mà để đưa thật nhanh vào một chỗ khuất nẻo. Tôi còn đang lúng túng chưa biết xử trí ra sao thì Bửu Tiến(10) xuất hiện. Anh cùng tôi đưa vòng hoa ngược trở lại, đặt nó bên những vòng hoa khác. Trước linh cữu Dương Bạch Mai anh nghẹn ngào đọc bài thơ chia tay :"Hoa mai mừng sinh nhật. Hôm nay đành viếng anh...." Trở ra, Bửu Tiến mắt đẫm lệ : "Chúng nó trắng trợn quá ! Tởm quá !".
Khi xe tang chuyển bánh, tôi đi ngay sát linh cữu, lòng tràn ngập niềm thương tiếc bác Mai của tôi, mà tôi được biết từ những ngày Tháng Tám sôi nổi(11). Ði sau tôi là Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, hai cái mặt nạ đóng cứng nét vĩ đại tự tạo. Quần chúng tràn ngập ngã tư Quán sứ, lặng lẽ tiễn chân ông, làm thành một dòng người kéo dài cả cây số(12)
Bửu Tiến những ngày sau đó trầm lặng hẳn. "Cái chết bi thảm của ông Mai là dịp cho tôi rà soát lại mình, anh nói. Mình có nên cứ hèn mãi để mà sống dai không ?".
Tôi với Bửu Tiến gần nhau nhiều trong những ngày chỉnh huấn chuẩn bị đi học nước ngoài, đầu năm 1954. Mọi người nằm trong danh sách cán bộ của Tuyên giáo Trung ương lựa chọn cho đi học vẫn phải trải qua sự sàng lọc. Bửu Tiến đã không qua được cửa ải thành phần - anh là người trong hoàng tộc.
Ngô Y Linh, Nguyễn Ðình Nghi, Lê Thanh Ðức, Ngô Mạnh Lân, Lê Ðăng Thực, Nguyễn Quang Tuấn, Trường Nhiên(13) và tôi vượt qua được cửa ải đó. Chúng tôi tiếc thay cho Bửu Tiến. Anh là một nhà biên kịch tài hoa, một diễn viên xuất sắc. Trong bữa sôi sắn đạm bạc thay cho tiệc chia tay tại Khu học xá (nay là khu tập thể sinh viên trường Ðại học Bách khoa) Bửu Tiến dặn tôi :"Cố mà học. Chúng mình có mắt mà sờ soạng như sẩm, hiểu biết thì bằng cái óc chim sẻ, không có học không làm nghệ thuật được đâu". Anh là người rất hồn nhiên, rất cả tin. Năm 1956 anh cũng hăng hái theo Ðảng đánh các bạn đồng nghiệp trong vụ Nhân văn - Giai phẩm, nhưng vào những năm 60 anh sám hối: "Mình ngu như bò. Lẽ ra phải nghĩ bằng cái đầu của mình, thì lại tin rằng đã có sẵn những cái đầu sáng suốt của các vị ấy, chẳng cần phải suy nghĩ nữa. Còn hơn bò". Tôi ra tù, Bửu Tiến lo lắng tìm mọi cách giúp đỡ tôi trong những ngày đầu tiên trở lại với cuộc sống bình thường.
Huỳnh Ngự không quên nhắc lại tội của tôi trong đám tang Dương Bạch Mai, nhưng với giọng độ lượng :
- Thằng Mai chết rồi, thôi để cho hắn mồ yên mả đẹp, không nói tới nữa. Nhưng tội khiêu khích của anh trong đám tang hắn thì không thể bỏ qua. Thằng chống Ðảng mà các anh làm như là anh hùng, rõ không biết dơ. Mà anh có biết hắn bị khai trừ khỏi Ðảng ngay cả khi hắn đã chết rồi không ?
Tôi biết. Cả Hà Nội đều biết. Tôi còn nhớ ngày ấy đã có bao nhiêu lời dè bỉu dành cho hành động đê mạt của Ðảng cộng sản đối với một đảng viên đã khuất. Bọn Duẩn-Thọ khai trừ ông khi nắp áo quan chưa đóng lại. Vì sợ ông. Và vì căm thù ông.
Trong những ngày học tập Nghị quyết 9, tôi không rời mẩu băng đen được gắn trong đám tang Dương Bạch Mai trên ngực. Những tên cơ hội không bỏ lỡ dịp hỏi kháy :
- Anh để tang ai vậy ?
- Một người thân. - tôi nhìn thẳng vào mặt họ.
Nhưng có những người đến nắm tay tôi, nói khẽ :
- Xin chia buồn cùng anh. Ðó là cái tang chung cho tất cả chúng ta.
Trong phòng vệ sinh, một người mà trước đó tôi không hề chú ý tới giả vờ đi tiểu để được đứng gần tôi.
- Tôi xấu hổ. - anh thì thầm - Tôi hèn. Anh khinh tôi cũng được, anh chửi tôi cũng được, nhưng xin anh thông cảm cho tôi - tôi có bốn đứa con nhỏ và một người vợ bệnh tật...Nếu không tôi đã không xử sự như vậy.
Trong buổi học tổ trước đó anh ta hùng hổ lên án "bọn phản bội xét lại hiện đại", như một người "mác-xít - lê-nin-nít" chính cống.
Cái chế độ làm cho con người hèn đi không thể là chế độ xứng đáng với con người. Con người cần phải được sống trong tư thế đứng thẳng, đầu ngẩng cao. Lời thú nhận của người bạn tự nhận là hèn nhát cho tôi thấy chúng tôi không đơn độc. Nhà cầm quyền có thể làm cho người ta sợ, nhưng không thể làm cho người ta vì sợ hãi mà yêu họ.
Không hề có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối ở nước ta, tôi nghĩ. Về thực chất nó là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa cái Ðẹp và cái Xấu, giữa ý muốn đề cao Con Người và mưu toan hạ thấp Con Người, đẩy con người xuống hàng trâu ngựa, hàng robot, hàng "cái đinh ốc không rỉ của cách mạng".
Lớp học Nghị quyết 9 dành cho chúng tôi là lớp cho cán bộ ngoài Ðảng, phần lớn là trí thức trong các cơ quan văn hóa. Lác đác có một số đảng viên do bận công tác còn rớt lại từ những đợt học trước và một số nữa tuy đã học rồi cũng vẫn đến không hiểu để làm gì. Chúng tôi được phát mỗi người một cuốn nghị quyết có đánh số, được đọc tại chỗ, không được ghi chép, không được mang ra khỏi phòng.
Lưu Quý Kỳ, hướng dẫn viên, vui vẻ bắt tay tôi :
- Có định phát biểu gì không ?
- Mọi sự đã quyết định rồi, còn gì mà phát biểu ?- tôi nói.
- Còn thắc mắc thì cứ nói. - Lưu Quý Kỳ cười hề hề - Các anh ấy cho bảo lưu mà.
Bảo lưu tức là được phép giữ lại ý kiến mà không bị trừng phạt, là sự chiếu cố của Ðảng. Tuy nhiên, phải ghi nhận rằng dù sao mặc lòng sự xuất hiện danh từ bảo lưu cũng đã là một cái mới trong sinh hoạt xã hội dưới sự lãnh đạo của Ðảng, một dấu hiệu dân chủ. Có điều sau đó những người bảo lưu nếu không bị bắt thì cũng bị trù dập, trừ những ai vội vã xin rút lại ý kiến và lập công chuộc tội.
Tôi giơ tay xin phát biểu. Từ trên bục giảng Lưu Quý Kỳ hấp háy một con mắt nhìn xuống. Anh có cố tật nháy một mắt, nó thường gây ra hiểu nhầm, làm cho người ta nghĩ rằng anh tán thưởng hoặc khuyến khích.
- Tôi có thắc mắc, đề nghị hướng dẫn viên giải thích...
Lưu Quý Kỳ lại nháy mắt với tôi. Hình như anh còn mỉm cười. Nhưng hội trường im phăng phắc. Những nhà mác-xít chân chính vênh váo nhìn tôi.
Tôi nhũn nhặn trình bày rằng trong nghị quyết có ghi : ở các nước không có giai cấp vô sản hoặc giai cấp vô sản chưa hình thành cũng có thể thành lập chính đảng mác-xít lê-nin-nít, coi như đó là một luận điểm sáng tạo của Ðảng. Ðiều này tôi không hiểu.
Lưu Quý Kỳ giang hai tay, nhún vai. Anh ngạc nhiên tại sao tôi lại không hiểu một điều đơn giản như thế. Tôi đề nghị được lên bục trình bày - ở đó có cái bảng đen, tôi nói tôi viết ra thì anh sẽ hiểu vì sao tôi thắc mắc.
Tôi viết lên bảng bằng chữ to câu định nghĩa của Lênin về đảng cộng sản : "Ðảng cộng sản là chính đảng của giai cấp vô sản", và hỏi Lưu Quý Kỳ :
- Tôi nhớ câu này của Lênin có đúng không, anh Kỳ ?
Lưu Quý Kỳ gật đầu. Anh lại nháy mắt liên hồi nhưng tôi cảm thấy mặt anh căng thẳng.
- Anh không phản đối Lênin trong định nghĩa này chứ ?
Lưu Quý Kỳ ngúc ngắc cái đầu rồi đáp :
- Tất nhiên là không.
Tôi quay xuống lớp học :
- Có ai phản đối Lênin không ?
Mọi người ngơ ngác. Phản đối Lênin ? Có mà điên.
Tôi nói tiếp :
- Ðồng chí Lênin có nói : trong mọi cách chứng minh, chứng minh bằng toán học là con đường ngắn nhất. Tôi xin phép được dùng cách hoán vị trong toán học để các đồng chí thấy vì sao tôi thắc mắc. Như vậy, khi giai cấp vô sản không có, tức là nó không hiện hữu, tôi hoàn toàn có thể hoán vị nó bằng một ký hiệu toán học biểu thị sự không có là số không.
Khi con số không được thay vào cụm từ giai cấp vô sản thì định nghĩa của Lênin trở thành rất quái dị : Ðảng cộng sản là chính đảng của 0 (con số không)".
Một tràng cười rộ lên. Nhưng nó cũng tắt ngay, rất nhanh. Lưu Quý Kỳ tái mặt. Những tên xét lại nháy mắt với tôi, rạng rỡ. Lưu Quý Kỳ cho nghỉ giải lao. Về sau có người cho tôi biết Lưu Quý Kỳ lật đật đi gọi dây nói cho ai đó, có lẽ cho Tố Hữu.
Hôm sau, Lưu Quý Kỳ gọi tôi ra một chỗ khuất :
- Cậu dại quá ! Những cái như thế không nên nói ra chỗ đông người. Mình không kịp ngăn cậu lại...
Anh nói chân tình. Với tôi, Lưu Quý Kỳ bao giờ cũng chân tình, kể cả trong lúc gay gắt nhất của cuộc đấu tranh giữa hai đường lối. Tại sao lại như thế, tôi không hiểu. Cảm tình cá nhân là cái không phải trong trường hợp nào cũng giải thích được.
- Thì anh bảo được bảo lưu mà. - tôi phân trần - Huống hồ tôi có dám nói ý kiến ngược nào đâu, tôi chỉ nêu một thắc mắc.
Anh nhìn tôi, một bên mắt lại nháy liên hồi.
- Thắc mắc chết người thế thà đừng thắc mắc.
Lưu Quý Kỳ là người không dễ hiểu. Những anh em tập kết kể trong miền Nam Lưu Quý Kỳ là đệ tử ruột của cả Ba Duẩn lẫn Sáu Búa. Khi Ba Duẩn lên án cải lương ủy mị, đã không có tác dụng động viên bộ đội chiến đấu thì chớ, còn làm họ yếu lòng, Lưu Quý Kỳ nhanh nhảu lập tức ra lệnh nghiêm cấm không cho hát cải lương nữa. Chuyện những nhà mác-xít nay cấm cái này mai cấm cái kia không phải là chuyện lạ. Các nhà lãnh đạo miền Bắc cấm tranh hội họa siêu thực, đa đa, lập thể, cấm nhạc trữ tình, nhạc buồn, gộp chung vào thành "nhạc vàng", cấm viết văn có "biểu tượng hai mặt(14)" thì ở miền Nam các bậc thế thiên hành đạo cấm có một thứ nhạc cải lương thôi còn ít. Khốn nỗi, ai cũng biết nhân dân Nam bộ yêu mến cải lương như thế nào, và lệnh cấm cải lương gây ra một phản tác dụng dữ dội. Nhiều người bỏ kháng chiến trở về thành chỉ vì ở vùng kháng chiến không có cải lương. Người ta còn kể khi nhận được các tài liệu lý luận văn nghệ nào từ miền Bắc gửi vào Lưu Quý Kỳ đọc xong, ghi chép xong là đốt ngay, không cho ai được đọc nữa. Thế là anh độc quyền những lý luận văn nghệ xã hội chủ nghĩa để dạy dỗ các văn nghệ sĩ không bao giờ được tiếp cận những tài liệu nọ. Ai cũng nghĩ rằng với quan điểm mao-ít cực đoan, Lưu Quý Kỳ phải trù tôi lắm, phải ghét tôi lắm, nhưng hoàn toàn không phải thế, trước sau Lưu Quý Kỳ vẫn dành cho tôi những tình cảm tốt.
Chính Lưu Quý Kỳ có lần rủ tôi ra một tờ báo châm biếm kiểu như tờ Crocodile (Cá Sấu) của Liên Xô :
- Mình đã trình bày dự kiến với các cụ rồi. Về cơ bản các cụ tán thành, nhưng chỉ cho phép đánh tới cấp tỉnh thôi, không được phép đánh lung tung. Trung ương thì chừa ra, các cụ bảo thế, đánh cả Trung ương có mà loạn. Có một tờ báo như vậy ở nước mình thì những tên cơ hội, những tên lạm quyền mới sợ, không dám mặc sức tung hoành. Mình nhắm cậu làm thư ký tòa soạn...
Giám đốc Sở Báo chí Trần Minh Tước (nhà báo Xích Ðiểu) tán thành sáng kiến của Lưu Quý Kỳ, nhưng không mặn mà cho lắm. Làm một tờ báo châm biếm có nghĩa là đặt mình vào một hiểm họa - bất cứ kẻ có tật nào cũng sẵn sàng giật mình. Mà những kẻ có tật thì lại quá sẵn. Chẳng may tờ báo có câu nào nhằm trúng, hoặc không nhằm mà trúng, một vị lãnh đạo thì chết. Bên cạnh Trần Minh Tước khôn ngoan, tôi thấy Lưu Quý Kỳ thật thà và ngây thơ trong chính trị (hiểu theo nghĩa mưu mô). Tôi không nhận lời. Một tờ báo như thế ra đời là hay lắm, sẽ được hoan nghênh lắm. Nhưng tôi không nhận vì tôi không chịu được sự nửa vời.
Tôi cảm ơn Lưu Quý Kỳ đã nhắc nhở tôi về cái dại của tôi. Tôi nói tôi lấy làm tiếc đã nêu ra một thắc mắc dở hơi, chẳng để làm gì, chẳng có ích cho ai. Nhưng đã trót rồi, có muốn cũng chẳng vớt vát lại được. Lưu Quý Kỳ an ủi tôi, anh nói anh sẽ tìm cách ỉm nó đi, hoặc trình bày nó theo cách khác, sao cho đỡ gai góc.
Trong cách nói của Lưu Quý Kỳ tôi hiểu anh muốn cho tôi biết tôi phải cẩn thận, phải biết giữ mồm giữ miệng. Bắt bẻ Trung ương là tội khi quân, tội tầy đình, và tôi sẽ khốn đốn vì nó.

(1) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9, họp vào 11.12.1963.
(2) Vào thời gian đó thông thường nói chống chủ nghĩa xét lại được hiểu là chống Liên Xô (theo cách nói Trung Quốc), chống chủ nghĩa giáo điều được hiểu là chống Trung Quốc (theo cách nói Liên Xô).
(3) Chỉ bí thư thứ nhất Ðảng cộng sản Liên Xô Nikita Khrusov.
(4) Dương Bạch Mai (1904-1964), nhà cách mạng nổi tiếng của Nam kỳ. Thời thực dân Pháp cai trị Ðông Dương Nam kỳ được đặt dưới sự cai trị trực tiếp của Pháp, Trung kỳ được mẫu quốc cho tự trị, Bắc kỳ thuộc chế độ bảo hộ (protectorat). Những điều kiện của cuộc vận động cách mạng trong từng kỳ có khác nhau.
(5) Cả ba ông này đều bị Việt Minh sát hại vào tháng 9 năm 1945. Nói chung, chủ nghĩa Trotsky (theo tên của Lev Trotsky, tên thật là Lev Davidovich Bronstein, một nhà mác-xít, bạn chiến đấu của Lênin) không có ảnh hưởng trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Trên thực tế không ai hiểu chủ nghĩa Trotsky là gì, kể cả những người cộng sản. Họ chống chủ nghĩa Trotsky hùa theo Quốc tế 3 chứ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa Stalin với chủ nghĩa Trotsky nằm bên ngoài và quá xa mục tiêu giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.
(6) Quốc tế ca, bài ca của phong trào cộng sản quốc tế, mở đầu bằng câu :"Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian !"
(7) Trong Cách mạng Tháng Tám ông Phạm Ngọc Thạch dẫn đầu phong trào Thanh niên Tiền phong ở Nam bộ. Sau khi ra Bắc họp Quốc Hội nước Việt Nam thống nhất năm 1946 ông ở lại làm công tác y tế. Ông giữ chức bộ trưởng bộ Y tế trong một thời gian dài. Một bộ trưởng giản dị, làm việc hết mình, được phong Anh hùng lao động. Người ta thường gặp ông trong các quán phở bình dân vào những giờ khuya, một mình, không có bảo vệ, lái xe (ông tự lái), cần vụ...như các bộ trưởng khác.
(8) Món hổ lốn, gồm nhiều thứ linh tinh, không theo một kiểu cách nào.
(9) Dương Tường, nhà thơ cách tân, bạn thơ của Trần Dần. Trong vụ "nhóm xét lại chống Ðảng" anh bị nghi ngờ có liên quan với những người bị bắt, nhưng người ta chỉ thẩm vấn anh vài lần rồi tha.
(10) (1918-1992) Nhà viết kịch, nghệ sĩ sân khấu nổi tiếng, bắt đầu từ Ðoàn kịch kháng chiến Liên khu 4. Trong thời kỳ có vụ Nhân văn - Giai phẩm anh đứng về phía chính quyền phê phán các văn nghệ sĩ bị dính vào vụ này, sau đó anh tỉnh ngộ, thẳng thắn xin lỗi anh em.
(11) Ngay sau cuộc Khởi nghĩa Tháng Tám dẫn tới sự thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một phái đoàn các nhà lãnh đạo Nam Bộ đã ra Hà Nội. Hầu hết những người trong phái đoàn đều ở nhà tôi, ở ngã tư Trần Hưng Ðạo (Gambetta) và Phan Chu Trinh (Rialand).trong đó có các ông Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Công Tường, Cao Hồng Lãnh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tây...Năm 1946 gia đình tôi
(12) Trong một buổi giỗ ông Dương Bạch Mai tại Sài Gòn, thiếu tướng Tô Ký nói :"Thành phố này phải có một con đường mang tên Dương Bạch Mai. Trong khi người ta lấy tên những kẻ không xứng đáng với một ngọn cỏ để đặt tên cho một phố thì người ta lại lờ đi những con người đã kéo theo mình cả khối quần chúng đông đảo đấu tranh cho độc lập dân tộc". Những người có mặt hôm ấy hiểu ông muốn nói kẻ không xứng đáng với ngọn cỏ là Nguyễn Chí Thanh, mà tên được đặt cho một con đường lớn tại thành phố Hồ Chí Minh.
(13) Những văn nghệ sĩ đầu tiên được cử đi học nước ngoài. Ngô Y Linh, Nguyễn Ðình Nghi, Trường Nhiên học nghệ thuật sân khấu (Trung Quốc), Lê Thanh Ðức, Ngô Mạnh Lân học hội họa (Liên Xô). Ngô Y Linh về sau trở thành một nghệ sĩ lớn của ngành sân khấu Việt Nam với tên hiệu Nguyễn Vũ.
(14) Cách nói bóng gió, không rõ ràng.


Vũ Thư Hiên
Đêm Giữa Ban Ngày
Chương 16

Theo dõi đường đi của một cuốn sách xem nó hình thành như thế nào từ những dòng đầu tiên đôi khi cũng thú vị chẳng kém gì đọc một cuốn sách.
Tôi bắt đầu viết cuốn sách này từ mùa hè năm 1985, tại Sài Gòn.
Sau khi được ra tù tôi háo hức muốn vào ngay thành phố mà địa danh của nó lôi cuốn tôi từ tuổi thơ bởi những câu chuyện của người lớn, bởi cuốn Cô Gái Bình Xuyên của Hồ Dzếnh, nhưng vào năm 1976, một năm sau khi đất nước thống nhất dân hai miền vẫn chưa được tự do đi lại. Nhiều người miền Bắc muốn vào Nam phải mua giấy phép, thường là giấy giả, để đi. Tôi không thể đi theo cách ấy được. Người bình thường có bị bắt vì dùng giấy tờ giả thì cũng không đến nỗi bị giam lâu, chứ tôi mà rơi vào tay nhà cầm quyền với tội ấy thì rầy rà lắm, tôi có thể bị bắt lại. Những người tù được tha trong vụ "nhóm xét lại chống Ðảng" vẫn bị quản thúc theo lệnh miệng của Lê Ðức Thọ, của Trần Quốc Hoàn và của những cấp trên nào khác không biết. Công an địa phương nói, không giải thích, với ngón tay trỏ chỉ lên trời : "Trên lệnh như vậy ! Các anh có muốn đi đâu phải xin phép".
Nhờ sự giúp đỡ của anh Mai Lộc(1), trước công tác cùng tôi ở Việt Bắc, tôi được Cục Ðiện ảnh cấp cho một công lệnh đi vào Nam công tác. Lúc ấy đã là tháng 12 năm 1979.
Ðó là chuyến đi nhớ đời, rất vất vả từ việc xin cấp Thông hành thay cho Chứng minh nhân dân mà tôi chưa có, tới việc mua vé máy bay. Vào tới tận Chợ Bến Thành rồi tôi mới tin là mình không bị cản lại.
Cuộc sống ở Sài Gòn khác xa cuộc sống ở miền Bắc, mặc dầu Sài Gòn 1979 đã không còn giống thời nó là "hòn ngọc minh châu trong ỏ Ðông". Chế độ tem phiếu đã được áp dụng. Bữa cơm của dân chúng đã phải độn bo bo, chẳng khác gì ở Hà Nội. Nhưng Sài Gòn vẫn sầm uất, vẫn nhộn nhịp, vẫn cố gắng để có cuộc sống riêng, chứ không sống theo chỉ thị. Thành thử nếu gọi cảnh Sài Gòn 1979 là tiêu điều thì không biết phải gọi cảnh Hà Nội bằng gì cho đúng.
Người Hà Nội tiếp tục vào Sài Gòn kìn kìn khuân ra tivi, tủ lạnh và trăm thứ bà dằn khác. Những người lính chiến thắng leo lên xe tải trở về miền Bắc với cái ba lô lép kẹp, bên ngoài lủng lẳng một con búp bê xấu như ma lem. Cán bộ Sài Gòn nhận xét rằng thị trưởng Sài Gòn, ông Võ Văn Kiệt(2), rất muốn đưa Sài Gòn lên, nhưng Trung ương kìm lại, không muốn Sài Gòn vượt Hà Nội xa quá. Dù vậy, chính sách Nhà nước khi vào tới miền Nam cũng bớt khắc nghiệt và Sài Gòn vẫn cứ là một thành phố dễ chịu.
Vì lẽ đó năm 1983, được bạn bè ở Sài Gòn khuyến khích tôi chuyển cả gia đình vào đây, nơi chính quyền địa phương đối xử với dân chúng ít khe khắt hơn so với Hà Nội gần mặt trời. Tôi biết đưa gia đình vào Sài Gòn là liều, vì chúng tôi không có và không thể có hộ khẩu. Nhiều người can tôi đừng phiêu lưu, đi như thế tôi tự đặt mình vào thế kẹt, người ta bắt nạt thế nào cũng phải chịu. Nhưng tôi đã quyết đi là đi.
May cho tôi, do ý thức được thân phận mình mà thận trọng lời ăn tiếng nói, cho nên không xảy ra chuyện gì. Trong các văn nghệ sĩ Sài Gòn cũ tôi chỉ gặp gỡ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhà văn Vũ Hạnh, nhà báo Nguyễn Nguyên, mấy anh đạo diễn sống dưới chế độ cũ nay đang làm cho Xưởng phim Giải phóng : Lê Hoàng Hoa, Bùi Sơn Duân, Lê Trác, Ngô Anh Giang...Họ là những người có học, có tay nghề, nhưng lúng túng không biết dùng tài năng của mình thế nào trong hệ thống khái niệm hoàn toàn khác.
Mấy năm nay nghe nói chuyện hộ khẩu không còn khe khắt như trước, chỉ trong trường hợp đặc biệt, khi cần áp dụng với ai đó người ta mới lại giở nó ra, coi như nó vẫn tồn tại. Trong những năm 80 hộ khẩu là vấn đề rất gay go. Nghĩ lại cái thân không hộ khẩu hồi ấy phải chịu lụy thế nào mà ớn.
Nhân tiện cũng phải nói rằng cách quản lý dân bằng hộ khẩu không phải sáng kiến của những người phát-xít và những người cộng sản. Nó do Thương quân Vệ Ưởng, tướng quốc thời Tần Hiếu-công nghĩ ra(3). Tần Hiếu-công mất, thái tử lên ngôi, sai người bắt Thương quân Vệ Ưởng. Thương quân bỏ trốn. Tới một thành nọ, muốn vào nhà trọ, người nhà trọ không biết đó là Thương quân, nói :"Theo phép của Thương quân, cho người không có giấy chứng nhận (giấy chứng minh) trú ngụ thì bị liên lụy". Thương quân thở dài mà rằng :"Than ôi ! Cái tệ hại của kẻ làm pháp lệnh đến như thế ư ! (Sử ký, Tư Mã Thiên). Có sách viết Thương quân bị bắt, đem xử trảm. Dân chúng căm giận Thương quân đến nỗi hồi trống hành quyết chưa dứt thì trên pháp trường chỉ còn lại một vũng máu - bách tính mỗi người một dao ào ào xông vào xẻo thịt ông mang về ăn cho hả giận.
Theo "luật" hộ khẩu của Việt Nam (mà ở mọi nước xã hội chủ nghĩa khác cũng thế), mỗi người dân phải đăng ký cư trú tại một địa phương. Tên anh ta được ghi vào một cuốn sổ gọi là sổ hộ khẩu. Con anh ta ra đời sẽ được ghi vào đó, gọi là nhập hộ khẩu. Nhà có người chết phải khai ngay với chính quyền để xin cắt hộ khẩu. Muốn thay đổi chỗ ở phải xin cắt quyền cư trú ở nơi cũ rồi xin quyền cư trú ở nơi mới, gọi là chuyển hộ khẩu. Xin đi, cắt hộ khẩu, thì dễ. Xin đến, gọi là nhập hộ khẩu, mới khó, nhất là nhập vào những thành phố lớn. Cán bộ vào ở hẳn Sài Gòn công tác dăm bảy năm rồi chưa được nhập hộ khẩu là chuyện thường. Vợ tôi là một trường hợp như thế. Làm việc tại Sài Gòn từ 1983 cho tới 1991, về hưu rồi vẫn chưa được nhập hộ khẩu. Mà đây không phải rắc rối do ngành công an. Còn một cơ quan khó hiểu nữa, chắc hẳn bắt chước mô hình Trung Quốc, tên là Ban tổ chức chính quyền. Nó cũng làm cái việc duyệt hộ khẩu cho cán bộ.
May mắn làm sao, ngay trong lần đầu tới Sài Gòn tôi lại làm quen được với một anh công an trẻ có máu văn chương và hơn thế, có quan hệ thân tình với các vị lãnh đạo Công an thành phố. Biết hoàn cảnh tôi khó khăn, anh bạn nhường cho tôi một căn hộ hai phòng. Anh có vài chỗ như thế trong thành phố.
Ðó là chuyện sau. Hồi mới đưa vợ con vào tôi ở nhờ lầu hai nhà biên kịch Thái Hồng tại số nhà 65 đường Nghĩa Thục, quận 5.
Thái Hồng trước cùng làm báo ảnh Việt Nam với tôi. Chúng tôi có một tình bạn kỳ cục, cãi nhau một trận rất dữ rồi mới thân nhau. Là cán bộ miền Nam tập kết, đến năm 1965 Thái Hồng được chọn đi B. Khi cái gọi là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối nổ ra, Thái Hồng cũng có ý kiến ngược như tôi, cũng được chụp một cái mũ xét lại. May cho anh, nó không phải loại mũ lớn, cho nên việc xét cho đi B tuy có chật vật, rồi cũng qua. Hồi ấy phàm ai là cán bộ tập kết đều nhao lên đòi về Nam. Không khí ngột ngạt và cuộc sống khó khăn ở miền Bắc làm người ta ngấy đến tận cổ. Trong hoàn cảnh chiến trường, chuyện xét đi xét lại không phải chuyện quan trọng, nhưng anh cũng vẫn cảm thấy bị chú ý. Ban tổ chức Trung ương đã dặn, người ta phải cảnh giác với anh, (bọn xét lại là dễ theo địch lắm). Nhờ được "bảo vệ", không có dịp cọ xát với địch ở cự ly gần để có thể bị bắt, Thái Hồng về tới Sài Gòn hoàn toàn lành lặn, không một vết xây xát.
Tin tôi bị bắt đến với Thái Hồng khi anh đang ở trong sình lầy Ðồng Tháp Mười. Anh hiểu tôi, không tin tôi làm điều gì quấy, anh cũng hiểu đám lãnh đạo Trung ương, anh xót xa cho tôi. Chính anh cũng sợ sẽ bị một viên đạn từ phía sau lưng. May cho anh, chuyện đó đã không xảy ra. Gặp lại nhau giữa Sài Gòn giải phóng chúng tôi mừng hết lớn, như người sống sót qua trận dịch.
Nơi ở mới của tôi nằm trên lầu 6 một cao ốc gần chợ Bến Thành có tên là cư xá Nguyễn Thái Bình. Cư xá đầy ắp dân, ồn ào như tổ ong bò vẽ. Nó vốn là một khách sạn vừa mới xây xong chưa kịp khai trương thì chủ đã bỏ chạy ra nước ngoài, tháng 4 năm 1975.
Anh công an nhà báo giới thiệu tôi với anh công an hộ khẩu, còn gọi là công an khu vực, một người Nghệ An hiền lành, vui tính, dáng thấp tè, tròn như hạt mít. Dưới quyền cai quản của anh công an này là cái cư xá nói trên. Anh sẵn sàng giúp đỡ mọi người chút ít để nhận quà nhiều nhiều. Những người ở chui hồ hởi biếu xén anh những món quà, theo ngôn ngữ pháp lý Việt Nam là trên mức tình cảm. Vợ tôi, với tư cách bộ trưởng Bộ Ngoại giao gia đình, rất biết cách thu xếp để giữ một quan hệ tốt đẹp với anh công an khu vực, nhờ đó mà anh quên đi cho chúng tôi sự ở chui. Vả lại, chẳng riêng gia đình tôi, trong cư xá còn khối người ở chui khác.
Lòng tốt có cái giá của nó. Nhờ lòng biết ơn của dân chúng ở chui chẳng mấy chốc anh công an khu vực đã làm chủ một ngôi nhà nho nhỏ giữa trung tâm thành phố. Anh đưa được cả nhà vào Sài Gòn, mở một tiệm chơi bi-da cho cả người lớn lẫn trẻ con, thu nhập nghe nói cũng khá.
Ðể tỏ lòng cảm ơn anh công an nhà báo đã vì duyên nợ văn chương mà cho tôi một chỗ trú ngụ, tôi trần lực giúp anh viết vài kịch bản điện ảnh, mấy truyện ngắn hình sự, tất cả đều tầm phào trừ một tiểu thuyết về tên tướng cướp nổi tiếng một thời được xuất bản với số lượng lớn và bán chạy. Anh được vào Hội Nhà văn, được ông bộ trưởng mời cơm và vỗ vai.
Thế là cuối cùng trong cuộc sống tha hương tôi đã có điều kiện tạo ra một góc riêng cho cái gia đình tội nghiệp của tôi. Vợ tôi mừng chảy nước mắt. Lầu 6 tuy cao thật, bù lại nó rất mát. Tôi chui vào phòng trong, đóng cửa lại, cặm cụi mổ cò trên cái máy chữ Olympia mới tinh mà vợ tôi mua cho sau nhiều ngày chống cự kịch liệt với nỗi tiếc rẻ những đồng tiền đầu tiên dành dụm được.
Vợ tôi rụt rè khuyến khích tôi thực hiện ý định. Rụt rè vì vợ tôi vẫn chưa hết sợ tôi sẽ bị bắt đi lần nữa. Bài học mà chúng tôi thu được qua vụ bắt bớ năm 1967 là ở Việt Nam con người không có quyền gì hết.
Tháng 10 năm 1981 Hoàng Minh Chính bị các đồng chí của anh bắt lần thứ hai. Anh bị bắt vì cả gan đòi "khởi tố công dân Lê Ðức Thọ phạm tội lạm dụng chức quyền hãm hại người vô tội, chà đạp những quyền tự do dân chủ của nhân dân".
Theo lệnh của Lê Ðức Thọ, ỷy ban nhân dân tỉnh Hải Hưng ra quyết định số 272 tập trung cải tạo đối với Hoàng Minh Chính. Quyết định này ra sau khi Hoàng Minh Chính đã bị bắt rồi, với ngày tháng đặt ngược.
Ai cũng biết Hoàng Minh Chính mang hộ khẩu Hà Nội, như vậy người ký quyết định phải là chủ tịch Hà Nội mới đúng. Lê Ðức Thọ lo bác sĩ Trần Duy Hưng cứng đầu không chịu ký một lệnh bắt lăng nhăng chăng ? Hay Thọ nghĩ ở Việt Nam không có việc gì không thể làm được ? Thì đấy, Thọ có ở trong quân ngũ ngày nào đâu, cứ khơi khơi ứng cử và khơi khơi trúng cử đại biểu đảng trong quân đội mỗi lần Ðại hội Ðảng đấy thôi.
Thanh gươm Damocles vẫn treo lơ lửng trên đầu những tên tù"xử lý nội bộ".
Tôi biết con mắt đa nghi của nhà cầm quyền chưa rời khỏi tôi chừng nào tôi chưa làm cho họ tin được rằng tôi đã sợ, tôi xa lánh chính trị. Họ đã được thấy tôi đúng như họ muốn. Tôi chỉ đến với những tổ hợp sản xuất, những nhà buôn, tôi lao vào kiếm tiền. Chế tạo cái mặt nạ không khó. Chỉ cần phải giữ mình, không để cho màn kịch thành sự thật.
Cha tôi cũng được phép vào chơi với con cháu trong Nam. Trước chỉ có mình mẹ tôi được phép thôi. Xin nhắc lại thêm một lần rằng lệnh cấm tự do đi lại đối với những người dính dáng tới vụ "nhóm xét lại chống Ðảng" chỉ là lệnh miệng, chúng tôi chỉ được nghe phổ biến chứ không được đọc. Có nghĩa là bây giờ có nói ra chuyện này, nhà cầm quyền vẫn có thể chối bay chối biến, có khi còn vu cho tôi dựng chuyện cũng nên. Anh Trần Ðĩnh, biên tập viên báo Nhân dân, tuy không bị bắt, nhưng bị buộc về hưu non vì có quan điểm xét lại, thậm chí không được phép bay vào Sài Gòn để đưa tang cha.
Chúng tôi chỉ bắt đầu thấy dễ thở khi ở Liên Xô dâng lên làn sóng glasnost (công khai) cùng với chủ trương perestroika (xây dựng lại) do tổng bí thư Mikhail Gorbachov(4) khởi xướng. Nó trùng hợp với thời kỳ hậu Lê Duẩn, thời kỳ cuộc tranh chấp ngôi vị tổng bí thư giữa ủy viên Bộ Chính trị Lê Ðức Thọ và quyền tổng bí thư Trường Chinh diễn ra quyết liệt trước Ðại hội VI (12/1986).
Lê Ðức Thọ, người thiết kế kiêm đạo diễn chính của Ðại hội VI, hay Ðại Hội của Ông Sáu, như người ta giễu cợt, tin tưởng ở chiến thắng lắm. Lúc có mặt ở tỉnh này, lúc đi thăm huyện kia, con người kém mười lăm phút đầy tổng bí thư ân cần thăm hỏi đồng bào, đồng chí, quan tâm tới mọi mặt đời sống của họ, không có gì giống cái ông Sáu Búa đầu ngành chuyên chính vô sản cả.
Ngay từ giai đoạn chuẩn bị Ðại hội đã thấp thoáng những dấu hiệu báo trước một sự cứng đầu đối với mưu toan của Thọ. Những cuộc bầu đại biểu đi dự Ðại hội diễn ra trong không khí căng thẳng.
Sự kiện lớn nhất trong thời kỳ này là Ðại hội Ðảng toàn quân (9.1986), trong đó đại tướng Võ Nguyên Giáp và đại tướng Lê Trọng Tấn được số phiếu cao nhất, còn người nắm thực quyền trong quân đội là đại tướng Văn Tiến Dũng lại không đủ số phiếu để trở thành đại biểu chính thức trong đoàn đại biểu đông tới 72 người. Các tướng khác mà ai cũng biết thuộc cánh Duẩn-Thọ như Chu Huy Mân, Ðặng Vũ Hiệp, Lê Ngọc Hiền cũng chung số phận.
Thất bại của Lê Ðức Thọ chứng tỏ Thọ đã hết thời. Vũ khí vô địch trước đây của Thọ là Ban tổ chức Trung ương không còn khống chế được Ðảng, kể cả với quỷ kế "kiểm tra tư cách đại biểu", để loại ra ngoài tất cả những ai ngang bướng, để chỉ cho người cùng phe lọt vào Ðại hội.
Giận dữ và hổ thẹn thấy mưu đồ chiếm ngôi vị cao nhất không thành, theo cách không ăn thì đạp đổ, Lê Ðức Thọ nằng nặc đòi quyền tổng bí thư Trường Chinh phải từ bỏ ý định tranh cử, viện cớ cả hai đã cao tuổi, không nên tham gia triều chính nữa. Nếu Trường Chinh ứng cử, thất bại của Thọ sẽ không chỉ đáng buồn mà là bi kịch. Nó sẽ là mối nhục không sao gột sạch của con người uy phong lẫm lẫm một thời.
Tuân lệnh Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng năm lần bẩy lượt đến tận nhà Trường Chinh, có hôm từ tinh mơ, thuyết phục ông thôi không tranh cử nữa. "Nếu anh cứ tranh cử thì sẽ nổ ra xung đột nội bộ, Ðảng ta tan nát mất", nước mắt nước mũi giàn giụa Phạm Văn Ðồng vật nài. Cuối cùng Trường Chinh đồng ý. Ông hiểu câu nói của Phạm Văn Ðồng là lời nhắn gửi nghiêm túc của Lê Ðức Thọ. Không phải vì lo Ðảng tan nát mà Trường Chinh đồng ý, ông lo nếu không nghe lời Thọ thì chính ông sẽ tan nát. Con người như Lê Ðức Thọ sẵn sàng làm tất cả khi cay cú.
Ðại hội VI kết thúc bằng sự lên ngôi của một nhân vật không mấy tiếng tăm là Nguyễn Văn Linh, bí danh Mười Cúc. Câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về hai anh nông dân và con sò được thiên hạ nhắc tới nhiều trong thời kỳ này.
Cả Lê Ðức Thọ lẫn Trường Chinh hậm hực lui vào hậu trường, với chức danh cố vấn. Vị thủ tướng thâm niên cao nhất thế giới Phạm Văn Ðồng cũng rút khỏi chính trường, nhưng không hậm hực. Ông là người biết điều, ông không bao giờ dám tơ tưởng vị trí cây vĩ cầm thứ nhất trong dàn nhạc.
Phạm Văn Ðồng vốn lành, người ta đưa ông vào chính trường thì ông vào, người ta đưa ông ra thì ông ra. Trong cương vị thủ tướng, ông làm theo lời chỉ bảo của Bộ Chính trị, dù đứng đầu Bộ Chính trị là Trường Chinh hay Lê Duẩn, rồi phân bua với mọi người :"Tôi là thủ tướng lâu nhất thế giới, cũng là thủ tướng khổ nhất thế giới. Làm thủ tướng thật, tôi chẳng có quyền gì hết. Bộ trưởng hay thứ trưởng có phải do tôi chọn đâu, họ làm không tốt thì không phải lỗi ở tôi". Ông Ung Văn Khiêm(5) bình luận : "Anh chàng nầy có một cái tội, mà tội rất lớn : đó là biết mình không có quyền làm bất cứ cái chi không có phép Ba Duẩn với Sáu Thọ mà lại không dám từ chức." Ông Trần Văn Giàu(6) hóm hỉnh : "Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ cái ghế".
Tôi được nghe Phạm Văn Ðồng nói chuyện nhiều lần. Ông tỏ ra là người hiểu nhiều biết rộng, nhưng tôi ít thấy ai nói chuyện vô duyên như ông. Trong những diễn văn lòng thòng nhai đi nhai lại những cụm từ nhàu nát bao giờ cũng rộ lên những tràng cười tự hưởng ứng không đúng lúc và đúng chỗ, những tràng pháo tay tự vỗ, kêu gọi mọi người vỗ theo. Sau khi trở thành cố vấn, Phạm Văn Ðồng vẫn còn mắc bệnh thích đăng đàn diễn thuyết, với những "huấn thị" chẳng cái gì ăn nhập với cái gì. Sau khi nghe một bài "huấn thị" như thế trong cuộc họp trí thức thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1986 hay 1987, Mai Lộc vốn rất sùng kính Phạm Văn Ðồng buồn rầu nói với tôi "Thần tượng của tôi sụp đổ rồi. Không ai mời, ông ta cứ đòi đến, leo lên bục mà ba hoa, chẳng ai buồn nghe mà vẫn cứ nói".
Sau những năm ở tù, tôi càng chán ngán những nhà lãnh đạo đất nước. Tôi cho rằng họ không còn khả năng hiểu nhân dân muốn gì.
Tôi cũng không hiểu Hoàng Minh Chính. Một năm trước Ðại hội V (1982), anh vẫn còn kiên trì thuyết phục tôi viết kiến nghị gửi Ðại hội :"Bây giờ là lúc cậu cần đem sức mạnh của ngòi bút vào việc đấu tranh cho dân chủ.Viết thư cho Ðại hội, đánh máy thành nhiều bản gửi tới tận từng khối đại biểu, đánh thức họ, đòi họ phải đứng lên tranh đấu". Tôi không nghe anh : "Những gì anh và tôi muốn nói đồng bào biết cả rồi, có điều trong hoàn cảnh hiện nay người ta hoặc sợ không dám nói, hoặc chán không muốn nói mà thôi. Ðánh đuốc lên giữa trưa nắng, anh muốn soi giúp người ta cái gì ?"
Từ khi ra tù Hoàng Minh Chính liên tục viết hết kiến nghị này đến kiến nghị khác đòi Ðảng xem xét lại vụ án. Ban lãnh đạo Ðảng căm ghét anh, quên mất rằng bằng những kiến nghị ấy Hoàng Minh Chính thể hiện một niềm tin lỗi thời ở Ðảng. Ðể anh khỏi quấy rầy, Lê Ðức Thọ ký một nhát, cho Hoàng Minh Chính đi nằm nhà đá.
Ý định viết một cuốn sách về vụ án và những năm tháng trong tù được tôi ấp ủ từ lâu - ngay từ những ngày đầu tiên trong xà lim Hỏa Lò. Bản thân vụ án, theo tôi nhận định lúc ấy, và càng về sau càng tin chắc mình đúng, là một mưu mô bẩn thỉu của Lê Ðức Thọ. Thời gian cho tôi sự bình tĩnh, cho tôi khoảng cách cần thiết để quan sát, để tầm nhìn được bao quát hơn. Trong những ngày khốn khó của đời mình tôi cố gắng bình thản tách khỏi cái tôi nạn nhân để quan sát môi trường trong đó tôi bị đặt vào, suy ngẫm về những sự kiện. Không ai có thể nói thay chúng tôi về những năm đen tối. Mà cần phải nói về chúng.
Tôi phải bắt đầu cuốn sách kẻo quá muộn. Trí nhớ có thể phản bội nếu không đánh động nó, bắt nó phải tỉnh thức. Vả lại sự theo dõi chúng tôi đã lỏng lẻo hơn trước. Cái sự tôi ngồi nhà cặm cụi dịch thuê, viết thuê không còn gây ra chú ý. Thậm chí người ta còn cho phép tôi viết với điều kiện ký tên khác.
Nhớ lại cuối thập niên 70, khi tôi vừa được trả tự do, đi đâu một bước cũng phải thận trọng, nói một câu là phải ngó trước ngó sau và không chỉ uốn lưỡi bảy lần - không khí nghi kỵ, mối đe dọa thường trực đè nặng lên tôi. Mi Lan, con gái đầu của tôi, mặc dầu đỗ thủ khoa trong kỳ thi tốt nghiệp cũng không được đi nước ngoài tu nghiệp theo chính sách, là chuyện đương nhiên đối với các sinh viên khác, chỉ vì tội cha có tiền án tiền sự.
Cái tốt nhất mà Ðảng làm được trong giai đoạn hậu Duẩn - Thọ là thả Hoàng Minh Chính ra khỏi nhà tù. Nhưng đó đã là thời kỳ tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nắm quyền. Nếu không có sự quyết đoán của ông thì không biết đến bao giờ các vị thực hành chuyên chính vô sản mới chịu thả Hoàng Minh Chính. Vào thời kỳ đó Nguyễn Văn Linh nổi bật như một ngôi sao sáng. Người ta tin rằng sau khi bị Lê Ðức Thọ gạt khỏi Bộ Chính trị năm 1982, ông thấm đòn, và trên cương vị tổng bí thư, ông sẽ đổi mới thật.
Nguyễn Văn Linh, theo cha tôi nhận xét, là người hiền lành, chân thật. Ông cũng đã trải qua nhà tù đế quốc, có tinh thần cách mạng kiên định, là người thực hiện chứ không phải người sáng tạo.
Dưới thời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện một số tác phẩm dám nói lên sự thật, tuy không nhiều. Tiếc rằng sự thèm khát được nói lên sự thật bị đè nén lâu ngày đã át đi nỗ lực tìm tòi bút pháp mới, phong cách mới. Những phóng sự, bút ký đại loại như Cái Ðêm Hôm ấy Ðêm Gì của Phùng Gia Lộc vừa ra đời lập tức được ca ngợi như một tác phẩm văn học có giá trị trong thời đổi mới.
Chính là nhờ có Nguyễn Văn Linh mà các văn nghệ sĩ bị buộc tội oan trong vụ Nhân văn - Giai phẩm mới được phép xuất hiện trở lại với người đọc. Không có Nguyễn Văn Linh thì Dương Thu Hương(7) không thể xuất bản được Bên Kia Bờ ọo Vọng, Thiên Ðường Mù, cho dù sau đó chị có bị trấn áp, bị bỏ tù rồi được thả ra, được xin lỗi, sau này còn được cầm hộ chiếu đi Paris. Vào thời Duẩn - Thọ chắc chắn Dương Thu Hương còn nằm xà lim dài dài trước khi người đọc được cầm trong tay những cuốn sách của chị.
Tiếc thay, sau khi phấn khởi thổi bùng lên làn gió đổi mới, chính Nguyễn Văn Linh lại bị cảm lạnh bởi chính làn gió ấy, ông ân hận đã kêu gọi văn nghệ sĩ tự cởi trói, dũng cảm nói lên sự thật. Sau sự cởi trói do ông khởi xướng đã ra đời hàng loạt bài báo, cuốn sách nói về những nỗi bất công kéo dài năm này qua năm khác, tất nhiên dưới sự lãnh đạo của Ðảng, mặc dầu người viết không nói thẳng ra.
Ði vào lối mòn của các đời tổng bí thư trước, Nguyễn Văn Linh đồng nhất mình với Ðảng, cho nên khi Ðảng bị người ta vạch xấu là ông chạnh lòng. Ðã thế ông lại còn bị các đồng chí bảo thủ sợ hãi trước sự sụp đổ của Ðông Âu cộng sản kiên quyết chống lại đường lối đổi mới của ông. Họ trách móc ông, họ phê phán ông hữu khuynh. Nguyễn Văn Linh đùng đùng quyết định : thôi, không đổi mới nữa.
Dù sao mặc lòng, so với thời kỳ Duẩn-Thọ, hoặc thời kỳ Trường Chinh quyền tổng bí thư, mức độ tự do tinh thần mà nhân dân được hưởng trong thời đổi mới có thể nói một trời một vực. Quần chúng thất vọng, nhưng họ sẽ ghi nhớ những gì Nguyễn Văn Linh đã làm cho họ trong cơn bốc đồng. Chính trong cơn bốc đồng ông đã trở thành người của dân chúng, một hạnh phúc không dễ gì ông được hưởng.
Chúng tôi được hưởng status quo(8) trong đời sống chính trị, nghĩa là chúng tôi có tội, chúng tôi được Ðảng khoan hồng cho được ở nhà với vợ con, nhưng chúng tôi không được làm gì hết.
Một số ít người trong vụ "nhóm xét lại chống Ðảng" thậm chí còn được trên giải quyết cho hưởng lương hưu trí. Bằng cách bố thí cho một chút quyền lợi vật chất, ban lãnhđạo mới muốn chấm dứt những khiếu nại liên tục nhiều năm làm họ nhức đầu. Trước khi tôi đi Nga, lần đầu tiên sau hơn ba mươi năm không bước chân ra nước ngoài, một anh cán bộ Ban tổ chức Trung ương đã vào Sài Gòn gặp bác sĩ Phan Thế Vấn và tôi để phổ biến cho chúng tôi quyết định của Ðảng. Anh Vấn thay mặt hai chúng tôi nói :"Quỹ lương hưu là trích từ lương của những người làm việc mà thành, mà chúng tôi thì đã bị tước quyền được làm việc từ nhiều năm. Không làm việc mà hưởng lương lấy từ túi những người làm việc là bất lương, người tự trọng không thể nhận một đồng lương như thế". Việc chúng tôi từ chối ân huệ của Ðảng làm cho chị Vấn và vợ tôi lo lắng. Nhưng sau đó không có chuyện gì xảy ra. Thời này đã khác thời trước.
Mọi người quan tâm tới vận mệnh đất nước đều biết rằng triều đại Lê Duẩn - Lê Ðức Thọ là triều đại thiết lập và khẳng định chuyên chính vô sản, hay nói cho đúng hơn, chuyên chính vô sản lưu manh(9), theo định nghĩa của chính Mác về giai cấp. Ðó là triều đại của sự áp đặt trắng trợn ý muốn ngông cuồng của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ lên mọi mặt đời sống đất nước, từ việc bắt bớ công dân không cần xét xử, việc chia lại các tỉnh một cách xuẩn ngốc, lấy huyện làm đơn vị kinh tế cơ sở, cho tới việc đưa quân đi chiếm đóng nước láng giềng Kampuchea. Áp đặt là phép trị dân mang tính chiến lược. Không áp đặt được thì khủng bố.
Việc nhà nước đối xử với công dân không cần có luật pháp, hoặc dùng luật pháp lờ mờ để giải thích nó theo ngụy biện là đặc điểm chung của các nước xã hội chủ nghĩa. ê Việt Nam tình hình không có gì tốt hơn.
Trước những hành động tùy tiện của chính quyền nhiều nhà tư pháp đã đề đạt với Ðảng xây dựng một nền tư pháp đàng hoàng. Lãnh đạo Ðảng thẳng tay gạt bỏ những đề nghị đúng đắn của họ. Ðảng không cần đến thứ pháp lý tư sản. Luật gia Trần Công Tường, mà tôi được biết từ năm 1946, nói với tôi :"Không hiểu sao mấy chả sợ pháp luật đến thế ? Pháp luật làm ra là để bảo vệ chính mấy chả mà." Tôi nghĩ ông thừa hiểu tại sao. Pháp luật, nếu nó được tôn trọng, sẽ tước bỏ sự tùy tiện, sẽ bó tay bọn độc tài. Pháp luật không thể là cái gì hơn một vật trang sức. Với một Ðảng đặt mình cao hơn nhân dân, thì mọi việc làm của các lãnh tụ Ðảng phải được coi là hiển nhiên đúng.
Trong thực hành tư pháp những nhà lãnh đạo i tờ chủ trương không cần có chứng cứ. Chỉ cần lời khai là đủ. Nguyên tắc trọng chứng hơn trọng cung trong công tác xét xử mặc nhiên bị coi là nguyên tắc tư sản. Bị phản bác, họ lui bước, bắt các nhà tư pháp phải coi chứng hay cung cũng là chứng cả. Ông Vũ Văn Mục, biện lý thời thuộc Pháp, khi kể cho tôi nghe một số vụ án oan cũng như cách xử án của các quan tòa cách mạng chưa hề qua trường lớp chuyên môn, đã kêu lên : "Xử án mà cung với chứng coi ngang nhau thì người dân thấp cổ bé họng sống làm sao nổi hở trời ? Quan trên bảo tôi : "không có chứng thì dựa vào cung mà xử, nghĩ ngợi lôi thôi làm gì !" Khinh mạng dân đến thế là cùng. Tôi đem chuyện này than phiền với một ông rất to thì ông ta còn dạy tôi :"Các anh học luật thời trước là lôi thôi lắm ! Phải nhớ rằng tòa án của ta là tòa án chuyên chính vô sản, vì lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động mà làm. Với bọn phản cách mạng các anh cứ theo đường lối chính sách của đảng mà xử". ê Hỏa Lò, nghe chuyện vụ án của Thành và những vụ án khác mà anh kể cho tôi nghe, tôi càng hiểu thêm cái chuyện chứng và cung này.
Trong những năm bị giam tôi đã nhiều phen rà soát lại những việc làm của mình xem mình có lỡ phạm tội gì mà do ngu dốt không biết là tội không, nhưng vô ích - tôi chẳng tìm ra một cái tội nào hết, tôi muốn nói một cái tội mà Lê Ðức Thọ có thể đưa ra chứng cứ. Cho dù một chứng cứ nhỏ. Thành ra họ cứ một mực ép tôi nhận một cái gì đó, xét cho cùng là muốn nặn ra một cái cung để mà buộc tội.
Sự khăng khăng khẳng định việc làm sai trái của những triều đại trước là đúng, là hợp lý, không chứng tỏ ý muốn đổi mới, mà chứng tỏ ý muốn duy trì trật tự cũ. Một sự kế thừa hủ lậu và vị kỷ. Mà sự sai trái cho tới ngày đó đã rành rành. Trong sự ngoan cố này không khó khăn gì để nhận ra bóng dáng những tay chân trung thành từng chịu ơn mưa móc của triều đình(10).
Thời gian trôi. Ðã qua đi nhiều cơ hội để giải quyết vụ án không tiền khoáng hậu và không lối thoát ra, nhưng những nhà lãnh đạo mới cứ một mực phớt lờ.
Nhưng lịch sử có trí nhớ. Nếu lịch sử đánh mất trí nhớ, nó không còn là lịch sử. Một chế độ muốn coi là mới, hoặc đổi mới, nghĩa là khác trước, thì nó phải thanh toán sòng phẳng với quá khứ để bước vào tương lai. Nhân dân đòi chính quyền đổi mới phải giải quyết những án oan tồn đọng, không phải nhằm thanh toán món nợ cũ, mà để khẳng định thêm một lần rằng từ nay những sự việc tương tự sẽ không bao giờ được lặp lại.
Chúng tôi hi vọng tình hình mới sẽ buộc chính quyền phải tự đổi mới, tự nâng mình lên ngang tầm những nhiệm vụ lớn lao đang đòi được giải quyết, trước hết là nhiệm vụ phục hồi nền kinh tế tan hoang trong chiến tranh. Sau khi đất nước đã thống nhất, đây chính là lúc tốt nhất để thủ tiêu nền chuyên chế, xây dựng một Nhà nước công dân, một xã hội dân chủ pháp trị.
Tiếc thay, người ta đã chẳng làm gì theo hướng đó.
Bạn bè trong nước viết thư cho tôi biết ông Ðỗ Mười(11), đương kim tổng bí thư, cũng như ông tổng bí thư tiền nhiệm, tuyên bố Ðảng không thay đổi nhận định đối với vụ "nhóm xét lại chống Ðảng".
Mà đó không phải là ai khác cái ông Ðỗ Mười năm xưa, khi xảy ra vụ nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng đã sửng sốt kêu lên :"Tại sao lại bắt anh Huỳnh, anh Giang ? Những người cách mạng như thế sao có thể đổ cho người ta chống Ðảng được ? Bậy quá ! Bậy quá !" Người cháu ruột của ông kể cho tôi nghe như vậy ít ngày trước khi tôi bị bắt. Anh là người thật thà, không thích chuyện làm quà. Mà anh đơm đặt làm gì ? Ông Ðỗ Mười hồi ấy chẳng là cái gì hết. Mọi người đều biết ông đang dưỡng bệnh. Mà bệnh của ông là bệnh tâm thần, nói nôm là điên, không ai dám nói chắc ông sẽ khỏi. May, ông không la hét om xòm, không đánh trẻ con hay chọc ghẹo đàn bà, không hoa chân múa tay lảm nhảm, chỉ trèo tường leo cây, lúc tỉnh lúc mê, tha thẩn trước cửa nhà. Ông không lạ gì cha tôi và ông Ðặng Kim Giang. Họ cùng hoạt động với nhau tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ trong thời bí mật. Trong câu chuyện với những đồng chí cũ, khi nhắc tới Ðỗ Mười, cha tôi bao giờ cũng tỏ ra quý mến ông, khen ông kiên định cách mạng, không sợ gian khổ, tính nết lại thực thà, tiếc cho ông không được học hành nhiều, do đó không cáng đáng nổi những nhiệm vụ cần đến kiến thức.
Tôi không được biết ông, chỉ nghe tiếng ông. Trong hàng ngũ những nhà cách mạng hoạt động trước 1945, ông là người hiền lành, ít nói, chịu nghe lời bề trên. Ông cũng nổi tiếng kiên quyết, đã nói là làm. Với Ðảng, ông có công trạng. Chính ông đã kiên quyết đập tan sự "trỗi dậy" của giai cấp tư sản miền Bắc trong cuộc cải tạo công thương nghiệp những năm 1959-1960. Cũng ông đã phá tan nền công nghiệp nhẹ miền Nam trong cuộc cải tạo tư sản sau chiến thắng 1975.
Chỉ có thể giải thích sự thay đổi thái độ của Ðỗ Mười đối với vụ"nhóm xét lại chống Ðảng bằng cách lập luận rằng hồi ấy ông nói thế vì ông không tỉnh trí, còn bây giờ ông khỏi rồi, ông đã sáng suốt, cho nên ông nghĩ khác.
Những người gần ông nói rằng do ít học nên ông thường làm theo những gì cấp dưới soạn sẵn. Ðám đàn em ông lại không có thiện chí muốn lập lại lẽ công bằng cho các đồng chí bị oan. Những Ðào Duy Tùng, Nguyễn Ðức Bình, Trần Trọng Tân mà Ðỗ Mười dựa vào trước kia đã mao-ít, nay còn mao-ít hơn nữa trong sự sáng tạo ra một chủ nghĩa Mác kỳ cục, đầy tính chất ngụy biện, chẳng có gì giống chủ nghĩa Mác kinh viện. Mọi việc làm của họ chỉ nhằm bảo vệ vị trí lãnh đạo độc tôn của Ðảng, hay là của họ thì cũng thế. Cái gọi là đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng kinh tế thị trường có điều tiết, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ra đời chính là trong thời kỳ này.
Cha tôi đã nhận định sai về con người Ðỗ Mười. Ông chỉ không sai khi nói rằng trước Cách mạng Tháng Tám Ðỗ Mười làm nghề hoạn lợn chứ không phải phu hồ, thợ sơn gì sất như được ghi trong tiểu sử chính thức :"Nói mọi nghề đều quý thì làm hoạn lợn cũng quý chứ sao, xưng công nhân làm quái gì ! Người không biết thì thôi, người biết họ cười cho mất mặt. Thế không phải khôn, mà dại". Các nhà cách mạng biết Ðỗ Mười cũng xác nhận nghề hoạn lợn của ông, chỉ nói thêm rằng ông hoạn vụng, có lần hoạn chết lợn của người ta, bị đuổi chạy chí chết. Kể ra ông dại thật. Nói dối chỉ làm ông mất giá trị. Lịch sử Việt Nam không thiếu những nhân vật xuất thân từ những thành phần không danh giá. Một triều đại vẻ vang như nhà Trần khởi nghiệp từ những người dân chài, có sao đâu.
Nhưng thôi, tôi lại đi lan man khỏi điều muốn nói mất rồi.
Cũng dưới thời Ðỗ Mười tên xét lại hiện đại Hoàng Minh Chính được thả ra sau lần giam giữ cuối cùng vẫn bị tiếp tục hành hạ về tinh thần trong cuộc sống quản thúc. Không hề có một thiện ý lật lại trang sử để xem xét vụ án, cũng không có một biệt đãi nào, dù là biệt đãi chui, dành cho những người bị giam giữ trái phép nhiều năm, để đền bù phần nào những đau khổ và thiệt thòi mà họ và thân nhân đã phải chịu đựng trong những năm đó(12).
Thời gian là thầy thuốc tốt. Nó giúp tôi quên và đôi lúc tôi cũng quên được những ngày đen tối. Chỉ có trí nhớ vô thức là bướng bỉnh. Ðêm đêm thỉnh thoảng tôi lại nằm mơ thấy mình ở trong trại giam. Tỉnh dậy, tôi bàng hoàng, toát mồ hôi lạnh. Mà đã quá nhiều năm trôi qua kể từ ngày tôi rời khỏi địa ngục. Tôi đã tưởng những giấc mơ khủng khiếp sẽ phải mất hẳn vào một lúc nào đó, nhưng nhà tù Việt Nam vẫn dai dẳng bám lấy tôi cho tới tận bây giờ, ngay khi tôi đang ở giữa Paris, Moskva hay Varsava.
Cha tôi hài lòng với ý định của tôi viết cuốn hồi ký. Trên cái gác vợ chồng tôi mới kiếm được trong Sài Gòn, cha tôi cởi trần trùng trục, cái quạt nan trong tay, ngồi bệt trên sàn gạch men lần giở những trang bản thảo đầu tiên.
Năm 1985, sức khỏe cha tôi đã sút kém lắm. Những năm biệt giam và lưu đầy cộng với nỗi đau tinh thần làm ông kiệt sức. Mắt ông mờ hẳn, đọc rất chóng mỏi. Những trang bản thảo lem nhem, đầy những đoạn sửa chồng chéo nhau, làm ông mệt. Nhưng cha tôi đọc chăm chú, thỉnh thoảng còn vẫy tôi đến bên để nói vài nhận xét về chữ nghĩa, nhắc tôi sửa một đoạn mà theo ông là thiếu khách quan, không công bằng hoặc chưa được chính xác. Tối tối cha tôi thủ thỉ kể cho tôi nghe một số sự kiện trong lịch sử cách mạng mà ít người biết, thuộc loại cơ mật của Ðảng. Một số sự kiện đã được dùng trong cuốn này.
Với Ðảng của ông, cha tôi đoạn tuyệt hoàn toàn. Sở dĩ ông có được thái độ như vậy là vì trước nay ông không bao giờ coi Ðảng là vật tổ, là totem. Ông coi Ðảng chỉ là công cụ, là phương tiện để những người cách mạng thực hiện sứ mạng của mình. Ông không kêu than, hờn giận, không ngoái nhìn quá khứ để tiếc nuối cuộc đời phí phạm. Ông không chửi Ðảng vì ông hiểu trong Ðảng có nhiều người yêu nước chân chính mà trong thâm tâm ông vẫn coi họ là đồng chí.
Trước Ðại hội VI (1986), trước bữa cơm chiều, cả nhà chưa ngồi vào mâm, chỉ có hai cha con với cút rượu và đĩa lạc rang thường lệ, cha tôi đang uống bỗng thừ người ra một lát rồi nói :
- Con ạ, những ngày gần đây bố suy nghĩ nhiều về tương lai đất nước mình. Con có biết bố đi đến kết luận gì không ? Kết luận của bố là thế này : muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết : ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của Ðảng cộng sản. Ðảng đến nay đã hết là đội quân tiên phong của cách mạng giải phóng dân tộc rồi. Bây giờ nó trở thành chướng ngại vật trên đường phát triển của dân tộc. Kẻ nào trong lúc này đặt quyền lợi của Ðảng lên trên quyền lợi của Tổ quốc là kẻ phản bội Tổ quốc.
Tôi sửng sốt. Tôi có thể chờ đợi ở cha tôi bất cứ ý nghĩ nào khác, nhưng không phải ý nghĩ ấy. Cần phải có dũng khí vượt qua nỗi đau mới đoạn tuyệt được với quá khứ dứt khoát đến như vậy.
- Con có hiểu vì sao lâu rồi bố không về quê không ? - một hôm khác, cha tôi buồn rầu nói - Bố nhớ làng xóm lắm. Nhưng bố xấu hổ. Sau này con về, nhớ nói bố xin lỗi bà con. Bố đi làm cách mạng không phải để mọi người phải sống cuộc sống như thế này. Là con người, ai cũng vậy, không khổ vì thiếu thốn bằng khổ vì nhục. Một chế độ hạ nhục con người không phải là chế độ nhân dân ta lựa chọn.
Cha tôi là một người cổ. Tuy không giỏi Hán học, ngược lại, còn chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây, nhưng nhìn vào thần thái của ông, cách ứng xử của ông, bạn bè mặc nhiên xếp ông vào lớp nho sĩ cuối cùng từ lâu đã nhạt nhòa trong quên lãng. Mẹ tôi thuộc một số thơ ông làm khi còn trẻ, hai người mới quen nhau, mới yêu nhau, bà thường đọc lại cho chúng tôi nghe. Tôi đặc biệt nhớ bài dưới đây bởi khẩu khí hào hùng của nó :
Nghĩ cho tôi lại ngán cho tôi.
Ðời có bao nhiêu sắp nửa rồi.
Nước mất, nhà tan còn sống mãi,
Sông mòn núi lở cứ ngồi thôi.
Giang sơn chan chứa hai hàng lệ,
Nòi giống lau nhau mấy hạng người.
Chẳng biết rồi ra sao thế nữa...
Kiếp mình há phải kiếp trò chơi.
Cho dù nhà cầm quyền hiện nay có đối xử với tôi rộng rãi đến mấy thì tôi cũng vẫn phải viết về những ngày đen tối nọ. Tôi không coi việc viết về những năm tháng trong nhà tù xã hội chủ nghĩa là sự phản bội lòng tốt của họ đã khoan dung không giết tôi khi tôi còn nằm trong chuồng của họ. Tôi dùng từ lòng tốt ở đây theo khái niệm Việt Nam, nơi ngày xưa gia đình tử tù còn phải mang lễ vật đến tạ ơn đao phủ đã mài đao cho sắc để nhát chém được ngọt.
Tôi viết vì tôi không thể quên lời cha tôi dặn trong lần tôi ra Hà Nội thăm ông năm 1988 khi ông còn tỉnh táo :
- Con viết đến đâu rồi ? - cha tôi hỏi.
- Con viết chậm lắm.
- Không cần nhanh. Nhưng không được bỏ dở. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào con cũng phải hoàn thành cuốn sách.
- Con sẽ không bỏ dở.
- Bố thấy trong người yếu lắm rồi. - cha tôi thở dài - Chà, nếu bố còn khỏe ! Có nhiều điều bố cần phải viết ra cho đồng bào biết. Nhưng không còn sức nữa. Bố kỳ vọng ở con. Ðó là trách nhiệm, con ạ, là trách nhiệm.
Ông gắng gượng ngồi dậy, đặt tay lên vai tôi, nhìn vào mắt tôi :
- Không phải vì mục đích vạch tội ai mà con làm việc này, không phải vì mục đích ấy. Mục đích lớn hơn : qua vụ án này con phải để nói lên điều khác, điều rất quan trọng đối với dân tộc ta. Nhân dân ta cần phải hiểu để tránh xa vết xe đổ. Nước mà không có dân chủ, không có luật pháp, hoặc luật pháp chỉ là xảo ngôn, là mảnh đất màu mỡ cho thể chế độc tài, cho sự lộng hành tùy tiện của những tên độc tài...
Tôi hiểu tâm trạng cha tôi. Ông đã khoan thứ cho kẻ thù. Nhưng ông không ngơi lo lắng cho đất nước trước viễn cảnh xám xịt của một nền chuyên chế.
Rạng sáng ngày 3 tháng 5 năm 1990 cha tôi lặng lẽ qua đời.
Ôm xác cha đang nguội dần trong tay, tôi cay đắng nghĩ về tính không vĩnh hằng của đời người, về ý nghĩa cuộc sống và cái chết. Cha tôi đã bỏ cả đời ông vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đau đớn thấy kết quả những hy sinh của ông và các đồng chí đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh thiêng liêng bị bọn cơ hội trắng trợn tước đoạt - thay vào ách nô lệ cũ nhân dân phải sống dưới một ách nô lệ khác. Ông đau đớn nhìn thấy mình trong thân phận kẻ chiến bại. Hơn thế, ông chết đi mang theo mặc cảm có tội với dân, với nước. Ðó là nỗi khổ tâm không sao giải tỏa được trong ông.
Thế là sau Phạm Viết, Kỳ Vân,Trần Minh Việt Ðặng Kim Giang, cha tôi đã không chờ được tới ngày lịch sử sang trang, tới ngày lẽ công bằng được trả lại.
Còn nhớ ngày ông Ðặng Kim Giang hấp hối trong căn nhà lá ọp ẹp nằm trong khuôn viên chùa Liên Phái.
- Bác đừng chết bây giờ ! - tôi ghé sát vào tai ông, thì thầm kêu lên - Cố lên bác, chết bây giờ là thua keo nữa đấy, bác. Bác đừng cho thằng Duẩn thằng Thọ sướng. Bác chết đi, chúng nó sướng lắm đấy. Cố mà sống, bác ơi !
- Bác đang cố đây !
Ông gượng cười với tôi. Giọng ông đã yếu lắm, nghe không còn rõ, nhưng nụ cười của ông vẫn là nụ cười trước kia, chất phác và hồn nhiên làm sao !
Tôi ngồi bên ông, nắm chặt tay ông, tôi muốn truyền sức sống của tôi cho ông.
- Cháu ơi ! - lát sau ông thều thào gọi tôi.
- Dạ !
- Sinh hữu hạn, tử bất kỳ, cháu ạ ! - ông kéo tay tôi lên ngực ông, dưới bàn tay tôi trái tim người lính của ông đập chậm chạp và mỏi mệt trong lồng ngực trơ xương - Con người không chống nổi mệnh trời. Bác sẽ cố, nhưng nếu không cố được...
Tôi cúi xuống sát mặt ông để nghe cho rõ. Có thể đó là những lời cuối cùng ông nói với tôi :
-... đến lượt các cháu...phải gắng sức... vì đất nước...
Tôi hiểu ông muốn nói gì.
- Vâng, thưa bác. Cháu xin hứa với bác.
Tôi hôn lên trán ông, để rơi xuống đó một giọt nước mắt xúc động.
Ông mất ít ngày sau, khi tôi đã trở lại Sài Gòn.
Ông là người được nhân dân yêu mến. Ðồng bào các vùng ông hoạt động thời bí mật vẫn nhớ ông. Hồi ông mới được thả có người dân Ðình Bảng lén lút đạp xe về Hà Nội thăm ông. "Dân chúng cháu nhớ bác, sai cháu mang về biếu bác mấy con vịt để bác bồi dưỡng". Bước vào nhà anh ta vui vẻ khoe với ông. Nói rồi te tái chạy ra ngoài tháo cái bọc trên đèo hàng xuống. Vừa mở cái bọc ra, anh ta bưng mặt khóc òa :" Vịt chết hết cả rồi, bác ơi ! Cháu phải mang giấu cho bác, mới bỏ chúng nó vào bao tải cho người ta khỏi thấy, khốn trời nóng quá chúng nó chết ngộp hết rồi !". Tướng Giang cũng nước mắt dòng dòng.
Tôi vẫn phải rất cẩn thận khi viết. Mỗi khi có khách tới tôi phải dọn dẹp thật nhanh chồng bản thảo rồi mới bước ra phòng ngoài. Sợ nhất là những ông bạn thân tình. Vừa bước qua cửa là họ đã xộc thẳng vào phòng trong với tôi để được cởi bỏ áo quần mà nằm xuống sàn cho mát. Tôi lấy làm buồn không dám tin một ai. Kinh nghiệm nhà tù cho tôi biết những điều bí mật bị lộ ra bao giờ cũng từ những người thân chứ không phải những người qua đường.
Những trang vừa viết xong lập tức được mang đi cất giấu ở nhà những bạn tin cẩn, là những nơi tôi ít lui tới, do đó nằm ngoài sự chú ý của công an. Cái sự viết từng mẩu một, trong tâm trạng căng thẳng, làm tôi mệt. Lại còn phải kiếm sống nữa. Hồi đó tôi làm thuê cho các tổ hợp, khi thì giải quyết giùm họ một vấn đề kỹ thuật, khi thì đi kiếm nguyên liệu cho sản xuất. Thời gian còn lại cho cuốn sách rất ít. Tôi thấy trước nó sẽ có một khuyết tật mà các nhà văn rất kỵ là không có một mạch văn nhất quán. Ban đêm tiếng lách cách của máy chữ vang xa làm vợ tôi lo ngại.
- Anh gõ khe khẽ chứ.
Tôi thở dài, nhớ tới lời nhắc nhở thường xuyên của anh bạn tù xà lim. Tôi cố gõ khẽ hơn, nhưng cái máy chữ của tôi không bao giờ học được cách thì thào.

(1) Một trong những con chim đầu đàn của nền điện ảnh của Việt Nam độc lập, nguyên cục trưởng Cục điện ảnh của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
(2) Sinh năm 1922, có bằng thành chung thời thuộc Pháp, được bầu vào Trung ương Ðảng cộng sản Việt Nam năm 1958, phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng từ 1982 đến 1991, chủ nhiệm ỷy ban Kế hoạch Nhà nước từ 1982 đến 1988. Thủ tướng chính phủ từ năm 1991.
(3) "Ưởng sai chia dân thành từng nhóm, năm hộ, mười hộ, bắt họ củ soát nhau và bị ràng buộc vào nhau. Ai không tố giác kẻ gian thì bị chém ngang lưng... (Thương quân liệt truyện, Sử ký).
(4) Sinh năm 1931. Nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên bang Xô-viết.
(5) Ung Văn Khiêm (1907-1991), nguyên bí thư xứ ủy Nam kỳ, nguyên bộ trưởng Bộ Ngoại Giao.
(6) Nhà sử học. Một trong những nhà cách mạng cựu trào của Nam Bộ.
(7) Nhà văn nữ, nổi tiếng với những tác phẩm mang cái nhìn mới đối với xã hội. Bị trấn áp, bắt tù, rồi được thả.
(8) Nguyên trạng.
(9) Lumpenproletariat, từ của Mác.
(10) Sự tùy tiện của những người làm án thật rõ ràng. Ta hãy xem lại trình tự công việc của họ :
- Tháng 7 năm 1967, vụ án bắt đầu với việc bắt giam Hoàng Minh Chính, Phạm Viết.
- Tháng 11 năm 1968 (ngày 14) Ban chỉ đạo chuyên án mới được thành lập, tức là hơn một năm sau.
- Tháng 3 năm 1971 Bộ Chính trị nghe Lê Ðức Thọ báo cáo, tức là gần bốn năm sau.
- Tháng 2 năm 1972 Ban Chấp hành Trung ương mới được nghe Lê Ðức Thọ báo cáo, tức là gần năm năm sau.
- Ngày 27.1.1972 Trung ương Ðảng khóa III đã ra quyết định về việc " Hội nghị Ban chấp hành Trung ương (khóa III, hội nghị 20) nhất trí phải thi hành kỷ luật về Ðảng và kỷ luật hành chính (những người bị bắt trong vụ án) tùy theo trường hợp nặng nhẹ một cách nghiêm minh theo đúng chính sách xử trí của Ðảng, không đưa ra truy tố trước pháp luật". (theo sự giải thích trong công văn của Trung ương Ðảng khóa VII số 260-CV/TW, ngày 30.6.1995, có nghĩa là Trung ương Ðảng khóa III đã ra quyết định ... trước khi nghe báo cáo về vụ án.
(11) Ðỗ Mười (tên thật là Nguyễn Cống) - đương kim tổng bí thư Ðảng cộng sản Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp là bí thư khu ủy kiêm chính ủy quân khu tả ngạn. Là người ít học, nhưng nổi tiếng kiên định trong đấu tranh chống thực dân, giỏi dân vận, tác phong giản dị.
(12) Tôi viết những dòng này khi Hoàng Minh Chính chưa bị bắt thêm một lần nữa (lần thứ ba) và bị xử án một năm tù giam vì tội "lạm dụng những quyền tự do dân chủ", thời tổng bí thư Ðỗ Mười.



:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 17

Huỳnh Ngự không vội vã mở đầu công việc hàng ngày.
- Nào, bây chừ anh viết cho tui một cái báo cáo, ngắn thôi, một hai trang là đủ. - y nói, giọng ngọt sớt.
Tôi nhìn y, chờ đợi.
- Về Nguyễn Lương Bằng.
Tôi ngẩn người, tưởng mình nghe không rõ.
- ???
- Phải. Về Sao Ðỏ.
Trời hỡi, đây là Trại giam Hà Nội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay Hỏa Lò của Chính phủ Bảo hộ ?
Ðó là sự thật. Y nói với tôi bằng giọng nghiêm túc. Tôi không nghe nhầm. Ðúng là người ta đang ra lệnh cho tôi viết một bản khai về Nguyễn Lương Bằng, như về một tên đồng vụ.
Chuyện gì đang xảy ra bên ngoài những bức tường đá Hỏa Lò ? Chẳng lẽ người như Nguyễn Lương Bằng cũng đã bị bắt ? Không, không thể thế được. Nếu Nguyễn Lương Bằng đã bị bắt Huỳnh Ngự sẽ nói bằng giọng khác, với những từ khác. Y sẽ nói đại loại :"Nè, bây chừ anh viết cho tôi một báo cáo về thằng Nguyễn Lương Bằng. Anh biết hắn quá mà !".
Hay là... Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã làm đảo chính ?
Khi còn ở ngoài tôi đã nghe người ta thì thào với nhau về khả năng Lê Ðức Thọ truất quyền Lê Duẩn một ngày nào đó. Bề ngoài quan hệ Duẩn - Thọ có vẻ khăng khít đấy, thân thiết đấy, nhưng quan sát sự lộng hành của Thọ những người tinh ý cho rằng chẳng chóng thì chầy liên minh này sẽ tan vỡ. Dấu hiệu rạn nứt đầu tiên mà tôi thấy là thái độ coi thường Lê Ðức Thọ của anh con rể Lê Duẩn, trước cùng học với tôi ở Moskva. Ai cũng biết mật thám riêng của Thọ đầy rẫy khắp nơi, Thọ không thể không biết thái độ của người nhà Lê Duẩn đối với mình.
Khôi hài thật, nếu như Lê Duẩn cũng bị đưa vào đây, ở xà lim bên cạnh.
Tôi suy nghĩ rất lung. Tại sao Huỳnh Ngự, một tên nhãi nhép tính về thâm niên cách mạng so với Nguyễn Lương Bằng lại dám bắt tôi làm bản khai về bậc tiền bối mà y xách mé gọi bằng tên trống không ? Phải có một cái lý nào chứ ? Chẳng gì hiện tại Nguyễn Lương Bằng vẫn đường đường là Trưởng ban Kiểm tra Trung ương, về mặt chính quyền còn là chủ nhiệm ỷy ban Thanh tra của chính phủ.
Ðầu thập niên 60 cha tôi đang làm vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ Ngoại giao thì bỗng có quyết định của Trung ương cử đi học trường Ðảng cao cấp Nguyễn ỏi Quốc.
Việc cha tôi phải rời Bộ Ngoại giao liên quan tới bộ trưởng Ung Văn Khiêm. Ông là người có học, như phần đông những nhà mác-xít đầu tiên của Nam Bộ. Uy tín của ông trong hàng ngũ cách mạng cao hơn Lê Duẩn nhiều. Ðiều này trở nên bất lợi cho ông khi Lê Duẩn thành tổng bí thư. Lê Duẩn không ưa Ung Văn Khiêm, luôn thọc gậy bánh xe, tìm cách tống Ung Văn Khiêm về hưu. Vụ bản Tuyên bố chung Hồ Chí Minh ký với lãnh tụ đảng cộng sản Tiệp Khắc Novotny(1) do Ung Văn Khiêm thảo, Hồ Chí Minh duyệt rồi ký, sau bị Lê Ðức Thọ đổ riệt trách nhiệm cho một mình Ung Văn Khiêm để đưa ông ra khỏi Bộ Ngoại giao. Trong việc này bàn tay Lê Duẩn rất rõ.
Nhưng đó là chuyện về sau. Hồi đó ông Ung Văn Khiêm thấy cha tôi cứ phải giữ chức vụ trưởng mãi là không hợp lý, mới đề xuất cha tôi làm thứ trưởng. Bộ Chính trị không hài lòng về việc này. Tại sao Bộ Chính trị không hài lòng thì không ai biết. Có người cho rằng Lê Duẩn không ưa lời nói ngược, mà cha tôi lại thẳng tính. Có thể ông vô tình nói ra một lời chỉ trích đối với Lê Duẩn. Hoặc giả, đó là do Lê Duẩn không ưa Ung Văn Khiêm, điều này có vẻ có lý hơn. Người ta nhận xét mọi việc Ung Văn Khiêm làm đều không được Lê Duẩn ủng hộ. Cả hai giả thuyết, theo tôi biết, đều có căn cứ.
Ðưa đi học Nguyễn Ái Quốc là cách nhẹ nhàng buộc cán bộ rời chức vụ. Cha tôi cũng biết như vậy. Học xong khóa Nguyễn Ái Quốc, cha tôi chuyển sang công tác tại ỷy ban thanh tra của chính phủ. Ông Nguyễn Lương Bằng kéo ông về làm với mình.
Trong công tác thanh tra cha tôi tìm ra bằng chứng về sự lộng hành vi phạm các chế độ tài chính của Nhà nước ở một số nhân vật lãnh đạo. Ông đề nghị đưa việc này ra ánh sáng. Ông Nguyễn Lương Bằng vội gạt đi :
- Việc tế nhị, ta phải xin ý kiến Bác đã.
Cha tôi nói :
- Ðây là việc có chứng cứ rành rành, anh việc gì mà ngại. Ðảng đã phân công chức trách cho ta thì ta làm, hà tất lúc nào cũng phải xin ý kiến Bác. Anh lành quá, anh Cả ạ. Ðảng giao cho anh thanh kiếm để anh bảo vệ sự trong sạch của Ðảng mà anh không dám dùng nó thì nó thành thanh kiếm rỉ mất thôi !
Tôi tình cờ được nghe mẩu đối thoại trên khi đưa nước sôi lên cho cha tôi pha trà tiếp ông Cả.
- Thấy việc bất bình mà ngoảnh mặt đi đã là tồi. Ðược giao chức trách bảo vệ dân mà thấy kẻ xâm phạm quyền lợi của dân thì bó tay ngồi đấy, sợ đụng phải chúng nó quan to chức lớn còn tồi hơn. - cha tôi than thở với ông Ðặng Kim Giang - Tình cảnh như thế thì mày tính, tao còn ngồi đấy làm gì ? Tao nói thẳng với Sao Ðỏ :"Không dám làm việc theo lương tâm là làm trái lương tâm. Người quân tử không hành đạo là trái đạo ! Anh để tôi về hưu".
Tôi biết Nguyễn Lương Bằng từ năm tôi lên mười. Một hôm cha tôi trở về khuya, mặt đăm chiêu. Ông nói nhỏ với mẹ tôi :"Anh Sao Ðỏ vượt ngục rồi !"
- Anh ấy hiện ở đâu ? - mẹ tôi lo lắng.
- Ðang đợi xem sao. Tụi nó lùng dữ lắm. Treo giải thưởng một vạn đồng Ðông Dương cho cái đầu Sao Ðỏ.
- Ðã có chỗ trốn cho anh ấy chưa ?
- Mình phải lo cho anh ấy thôi !
Mẹ tôi nói rằng không thể để Sao Ðỏ ở nơi nào khác, mọi chỗ đều không an toàn, đều nguy hiểm. Phải đưa ông về nhà mình. Ðó chính là chỗ mật thám ít ngờ nhất - chúng không nghĩ Nguyễn Lương Bằng lại về nhà người bạn tù vừa được tha.
Hôm sau cha tôi mang về tờ Tin Mới với dòng nhắn tin trong mục Rao Vặt :"Ông Cả Hà Ðông hiện ở đâu, về nhà ngay, cả nhà đang đợi ông".
Một người đàn ông gày gò, đen đủi tới nhà tôi vào ban đêm rồi ở lại hẳn. Căn phòng nhỏ, nơi ở của chị Tường(2), người trông chúng tôi, được dọn dẹp lại dành riêng cho ông, lũ trẻ chúng tôi không được phép ra vào. Chúng tôi được bố mẹ dặn đi dặn lại rằng người ở trong nhà chúng tôi tên là Bác Cả Hà Ðông và cấm chỉ không được nói với ai bác đang ở đây. Chị Tường ngoan đạo đã được cha mẹ tôi huấn luyện để biết cách bảo vệ cán bộ.
Tên gọi Bác Cả Hà Ðông còn lại rất lâu trong trí nhớ của chúng tôi. Bí danh Ông Cả, Anh Cả của ông Nguyễn Lương Bằng có từ ngày đó. Nếu nó có trước chắc cha tôi đã không dám dùng nó trong mục Rao Vặt để tìm ông.
Cha tôi đem về nhà một cái máy thu thanh Phillips, để nó trong phòng bác Cả. Ðêm đêm cái mắt thần của nó ánh lên màu xanh lục trong vắt rất đẹp. Chính quyền thuộc địa bắt dân phải mang máy thu thanh đến Nha Bưu chính để kẹp chì không cho nghe đài ngoại quốc, chỉ được nghe đài Hà Nội và Sài Gòn. Cái máy Phillips không đăng ký, không bị kẹp chì, vẫn bắt được mọi đài trên thế giới. Ðêm đêm bố mẹ tôi và bác Cả Hà đông ngồi rất khuya, áp tai vào bên loa nghe tiếng thì thào của nó. Bác Cả ở nhà tôi mấy tháng liền, cho tới khi vụ vượt ngục nhạt dần mới bỏ đi. Mẹ tôi sắm cho ông đủ lệ bộ để thành một ông chánh tổng hoặc lý trưởng ra tỉnh : ô Lục Soạn, áo the thâm, giày Gia Ðịnh...
Khi Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La ông được một thanh niên người Thái trắng dẫn đường. Ðưa ông đi khỏi địa phận Sơn La xong, trở về nhà anh bị Pháp bắt đem chặt đầu. Tôi đã tới bản Giảng, cách nhà tù Sơn La vài cây số, vào mùa thu năm 1965, để thăm gia đình anh thanh niên nọ. Trong ngôi nhà sàn xiêu vẹo chỉ còn lại bà mẹ anh, một bà lão lẩm cẩm, điếc lác, hỏi năm câu mới trả lời được một, câu trả lời lại chẳng ăn nhập gì với câu hỏi. Bác Cả Hà Ðông của tôi chưa một lần trở lại bản Giảng để thăm hỏi bà lão tội nghiệp.
- Tôi biết rất ít về ông Nguyễn Lương Bằng. - tôi nói với Huỳnh Ngự - Từ ngày hòa bình lập lại ông ít đến nhà tôi.
- Anh nói sai rồi. Nguyễn Lương Bằng đến nhà anh nhiều nhất đấy.
Tôi nhún vai :
- Tôi làm sao biết được ông ấy đến nhà ai nhiều nhà ai ít.
- Nhưng anh sẽ viết chớ ?
- Tôi biết viết gì về ông ấy. Chuyện quan điểm(3) không phải chuyện để ông Nguyễn Lương Bằng nói với tôi.
Huỳnh Ngự tủm tỉm cười. Y ngả người trên ghế, đôi mắt lim dim.
- Tui có bảo anh viết dài đâu. Viết ít cũng được. Chỉ vài dòng cũng là báo cáo, miễn là báo cáo cho xác thực. Không cứ điều chi mình trực tiếp biết mới báo cáo. Anh cứ viết tuốt tuột những chi anh nghe được ở người khác, ông già kể lại chẳng hạn. Hoặc những chi ông già nói chuyện với người nào về Nguyễn Lương Bằng mà anh nghe thấy...
- Tôi nghe người ta nói nhiều về ông Nguyễn Lương Bằng. - tôi nói, làm ra vẻ thiện chí.
- Họ nói những chi ?
- Chẳng hạn, ông là người rất liêm khiết, tuy hơi lẩm cẩm. Thời bí mật ông giữ quỹ Ðảng, buồn cười lắm, ăn một hào ông cũng ghi sổ, qua đò mất một xu cũng ghi, mật thám mà bắt được cuốn sổ ấy thì chúng biết hết ông đi những đâu, ăn cơm đầu ghế hay ăn ở cơ sở không mất tiền...
- Cái nớ khỏi cần đưa vô báo cáo. - Huỳnh Ngự nhăn mặt - Anh nghe ông già nói chi về quan điểm của Nguyễn Lương Bằng ?
Cha tôi rất quý Nguyễn Lương Bằng. Kỷ niệm về tình bạn của hai người tại nhà tù Sơn La còn lại một tấm ảnh cỡ 6x9, cả hai còn trẻ trong bộ quần áo cánh trắng với hàng số tù trên ngực. Tấm ảnh, nếu nó may mắn, chắc còn được giữ lại trong Viện bảo tàng cách mạng. Tôi nói nếu nó may mắn vì sau khi cha tôi bị bắt mọi hiện vật có dính dáng tới ông trong bảo tàng đều bị bỏ đi. Những hình ảnh của cuộc Cách mạng Tháng Tám có ông trong đó không thể bỏ được thì bị sửa lại, sao cho không nhận được người trong ảnh là ai. Kể cả những thước phim hiếm hoi mà kiều bào ta ở Pháp ghi lại về chuyến đi của phái đoàn Việt Nam sang dự Hội nghị Fontainebleau cũng bị sửa lại, mặc dầu sửa phim xi-nê khó hơn sửa ảnh nhiều. Tấm ảnh ông Võ Nguyên Giáp và cha tôi di duyệt đội quân Giải phóng từ chiến khu Tân Trào về Hà Nội cũng bị sửa, cha tôi biến thành người khác.
Tại nhà tù Sơn La ông Nguyễn Lương Bằng làm y sĩ, gọi bằng phe-mì(4). Bề ngoài công việc của ông là trông nom tù ốm, bề trong ông là người lãnh đạo tù nhân chính trị. Ban lãnh đạo tù nhân chạy cho cha tôi chân thư ký bàn giấy để việc liên lạc giữa các banh(5) được thuận tiện. Nội vụ trong tù đều do Ban đại diện tù nhân sắp xếp. Cùng tù với cha tôi có nhà cách mạng Tô Hiệu nổi tiếng, các ông Ðặng Kim Giang, Hoàng Minh Chính, Lưu Ðộng, Kỳ Vân - những người sau này bị bắt giam trong vụ nhóm xét lại chống Ðảng - và cả hai hung thần của họ là Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn.
- Chuyện nhà tù Sơn La thì tôi có nghe. - tôi nói với Huỳnh Ngự - Chuyện quan điểm của ông Nguyễn Lương Bằng thế nào thì không nghe ai nói gì.
- Hoàn toàn không ? Nè, anh Hiên, tui nghe anh cũng muốn tin mà thấy khó tin quá. Tui muốn anh nói tui nghe nhận xét của riêng anh thôi về thái độ chánh trị của Nguyễn Lương Bằng, nói đại thể thôi, không cần đi sâu vào chi tiết. Trúng cũng được, mà trật cũng không sao. Chẳng lẽ khi Nguyễn Lương Bằng đến nhà anh chơi mà anh lại không ngồi tiếp khách cùng ông già, không nghe ổng nói chi về quan điểm, đường lối ?
- Ðâu có chuyện vô lễ như vậy được ! Khách của cha là khách của cha, con cái không được phép hóng chuyện, không được phép nói leo. Gia giáo ở miền Bắc là thế !
- Mỗi gia đình có phép tắc của nó. Ðối với cha tôi, tôi mãi mãi là đứa trẻ. Nghe người trong nhà kể lại thì bác cả tôi khi đã đi làm rồi, có con cái rồi vẫn bị ông nội tôi đánh đòn bằng phất trần khi có lỗi.
Tôi nói dối. Tôi là đứa trẻ hư. Tôi bị cha tôi mắng nhiều về cái tật hóng chuyện người lớn. Chính nhờ thói xấu này mà trong trí nhớ của tôi còn giữ lại được những chuyện nên nhớ.
- Anh cứ viết ra những gì anh biết. Tui sẽ gợi ý thêm.
Tôi thở dài, chán ngán.
Thôi được, tôi sẽ viết về Sao Ðỏ, người anh hùng thời thơ ấu của tôi. Viết những kỷ niệm không bao giờ phai nhòa về ông trong trí nhớ. Vào phút đó trước mắt tôi hiện lên hình ảnh ông Cả Hà Ðông quần ống thấp ống cao đi khỏi nhà tôi, xách theo mấy viên ngói trong mảnh vải thay tay nải. Ðó là ông đóng vai một người nhà giàu ở quê ra, được ai mách bảo tới nhà tôi mua đống ngói xếp ở lối cổng, ngoài đường nhìn vào ai cũng thấy. Vai kịch không chắc chắn lắm, vì đống ngói không phải của nhà tôi mà của nhà ông Trần Trọng Kim(6) ở sát nách, chung sân. Chẳng may mật thám hỏi thì phiền, may, chúng để ông đi qua không nghi ngờ.
Tôi trở về xà lim, ngồi yên lặng. Thành ngạc nhiên :
- Cậu sao buồn vậy ?
- Tôi mệt. - tôi trả lời cho qua chuyện.
Còn trời, còn đất, còn non nước,
Có dễ ta đâu mãi thế này !
Thành lại ngâm thơ. Anh biết tôi đau, và anh không muốn chạm vào vết thương của tôi. Tôi nằm xuống, gối đầu trên đôi tay. Tôi nghe trong tiếng ngâm thơ buồn bã của Thành có âm hưởng của giọng hát ru con quen thuộc của vùng đồng bằng quê hương. Tôi cảm thấy được vỗ về, an ủi.
Tôi đắm chìm trong những suy nghĩ miên man. Không, tất nhiên tôi sẽ không nói điều gì làm hại bác Cả Hà Ðông. Rõ ràng ông đang bị mưu hại. Người ta muốn những lời khai của tôi, với tư cách con của bạn ông, trở thành bằng chứng buộc tội ông trong quan hệ với cha tôi. Quan niệm về tội trong chủ nghĩa xã hội lạ lắm - nếu Nguyễn Lương Bằng biết quan điểm chính trị của cha tôi mà không báo cáo với Ðảng là ông có tội.
Cuộc hỏi cung dẫn tôi về quá khứ gian khổ của những chiến sĩ cách mạng thời kỳ bí mật. Hình ảnh những cuộc vây bắt, những tiếng thì thào trong đêm của những người đang bị truy lùng, những người tù bị xích tay từng cặp xuống bến Phương Lâm qua thị xã Hòa Bình trong buổi sáng có sương mù trên sông Ðà, cha tôi bên kia tấm lưới sắt Hỏa Lò...lướt qua trước mắt tôi. Những người cách mạng năm xưa đã xây dựng nên cái gì vậy ?
Theo cái que chỉ của thợ cả, những người thợ rèn ngày đêm quai búa, hình dung mình đang làm nên bông hoa hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng khi ngẩng đầu lên để lau mồ hôi đầm đìa trên mặt họ chợt nhận ra rằng trước mặt mình không phải bông hoa, mà là cái cùm kiên cố.
Cho đồng bào. Và cho chính họ.

(1) Tổng bí thư Ðảng cộng sản Tiệp Khắc (Tchekhoslovakia, trước khi chia thành Cộng hòa Tchek và Cộng hòa Slovenia) từ năm 1953. Vì đường lối Sta-lin-nít, Novotny bị thay bằng Dubchek vào năm 1968. Bản tuyên bố chung nói trên được viết theo tinh thần Hội nghị 81 Ðảng cộng sản và công nhân năm 1960.
(2) Về sau này do được ông Nguyễn Lương Bằng báo cáo ghi công, chị Tường được nhận danh hiệu "có công với cách mạng", còn mẹ tôi thì không. Mẹ tôi cũng chẳng suy nghĩ nhiều về chuyện này. Bà cho vậy cũng được, cũng phải, cần ghi công những người đã giúp đỡ cách mạng, còn mình đã là người cách mạng rồi, không phải ghi công làm gì. Thành thử trong những dịp đại lễ chị Tường được đứng trên lễ đài xem duyệt binh, còn mẹ tôi thì đứng ngoài đường Phan Chu Trinh xem đoàn quân duyệt binh về qua.
(3) Hồi ấy nói tắt quan điểm là hàm nghĩa quan điểm đối với hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế.
(4) Do tiếng Pháp infirmier.
(5) Khu giam giữ, bagne theo tiếng Pháp.
(6) Thủ tướng chính phủ Việt Nam năm 1945 do vua Bảo Ðại lựa chọn và trao trách nhiệm lập chính phủ. Nhà tôi hồi ấy ở số 65 phố Sergent Larrivé (phố Nhà Rượu, tức Nguyễn Công Trứ bây giờ), nhà ông Trần Trọng Kim ở số 67.





:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 18

Cái làm cho tôi suy nghĩ nhiều hơn cả trong những ngày tù đầu tiên là : lý do gì đã làm cho Lê Duẩn cấu kết với Lê Ðức Thọ trong việc làm bất minh, thậm chí không hợp với tính cách anh chị của Lê Duẩn là vu vạ để trấn áp những người chưa từng chống lại họ ? Không phải lúc nào khác, mà lúc này ?
Tôi biết quá ít về tổng bí thư Lê Duẩn. Tôi không có dịp gần gụi nhà lãnh đạo nổi tiếng quyết đoán để có nhận định riêng. Những nhận xét của người khác về nhân vật lịch sử này không làm tôi hài lòng. Con người trong đời thường bao giờ cũng thật hơn, đúng hơn, giống họ hơn nhìn họ trong trạng thái trưng diễn.
Tôi chỉ là nhà báo ở cấp bậc cuối cùng trong nấc thang đánh giá cán bộ theo mức độ tin tưởng của Ðảng. Trong số rất ít phóng viên được thoải mái ra vào cung đình chỉ có Thép Mới(1) là người gần Lê Duẩn hơn cả. Trong kháng chiến chống Pháp anh cũng được Trường Chinh sủng ái. Các nhà lãnh đạo có thói quen không dùng đệ tử của người tiền nhiệm, thế mà Lê Duẩn vẫn tiếp tục sử dụng Thép Mới, đủ hiểu Lê Duẩn tín nhiệm anh thế nào. Một mình anh được Lê Duẩn dành cho cái vinh dự không ai có được là chấp bút cuốn Thời Thắng Mỹ. Ðó là bản anh hùng ca xưng tụng vị tổng bí thư anh minh một mình một ngựa lãnh đạo cuộc kháng chiến tới ngày toàn thắng. Hình ảnh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh trong cuốn sách nhập nhòa như mấy cọng tầm gửi.
Cuốn sách gây ra nhiều tranh cãi. Người ta nói nó bóp méo lịch sử.
Những người gần Lê Duẩn nói rằng bệnh "kiêu ngạo cộng sản" trong con người Lê Duẩn đã có ngay từ khi Lê Duẩn nắm quyền lãnh đạo tại miền Nam. Cộng với bệnh "kiêu ngạo cộng sản" là bệnh độc tài, độc đoán, coi thường quần chúng.
Song song với Thời Thắng Mỹ. trong những năm sau chiến tranh có cuốn Ðại Thắng Mùa Xuân của đại tướng Văn Tiến Dũng do Hồng Hà, em ruột Thép Mới, sau làm tổng biên tập báo Nhân dân chấp bút. Cuốn này bị các nhà lãnh đạo phê phán mạnh mẽ tuy nó cũng giống Thời Thắng Mỹ ở chỗ ca ngợi chính tác giả trong chiến thắng. Cái Lê Duẩn làm được thì Văn Tiến Dũng không được phép. Một cuốn khác của đại tướng Hoàng Văn Thái, hồi ký Những Năm Tháng Quyết Ðịnh, được cả chính giới và người đọc bình thường đánh giá là nghiêm túc. Vai trò nhân dân được nhắc đến nhiều hơn cả trong cuốn Kết Thúc 30 Năm Chiến Tranh của Trần Văn Trà. Những sĩ quan có mặt trong suốt cuộc chiến cho nó là cuốn sách chân thực nhất, trong đó tác giả muốn nhìn lại và khách quan đánh giá các sự kiện chứ không phải muốn khoe mẽ. Cuốn sách vừa in ra đã bị Lê Ðức Thọ cấm lưu hành.
Tôi có lần gặp thượng tướng Trà tại nhà riêng của ông, khi viên tư lệnh trận đánh chiếm Sài Gòn đang cùng các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng dùng Câu lạc bộ những người Kháng chiến cũ đấu tranh cho đổi mới, đòi mở rộng tự do dân chủ. Cuộc gặp gỡ tại nhà riêng của ông ở đường Pasteur để lại trong tôi ấn tượng dễ chịu - Trần Văn Trà chính là nhà lãnh đạo mà những người cộng sản cấp tiến muốn có. Ông biết nghe, biết tranh luận bình đẳng, biết rút lui ý kiến trước lẽ phải. Tiếc thay, như đối với những người bình thường bỗng nổi bật lên một cách không ngờ tới trong những tình huống không dự kiến, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ không ưa Trần Văn Trà. Họ bèn cho ông ngồi chơi xơi nước.
Tướng Trà đã được giới thiệu trước tôi là ai, ông nói ông không hề biết gì về vụ trấn áp "nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng" ở miền Bắc, khi xảy ra vụ án ông đang bận tổ chức đường dây trên biển để chuyển vũ khí vào Nam. Ông đòi tôi kể cho ông nghe về vụ án, tôi chỉ kể qua, tôi đã ngán kể về nó. Ông nói hồi ấy ông cũng nghe có một thông báo vắn tắt của Trung ương, ông không ngờ sự việc lại trầm trọng như vậy. Ông rủ tôi tham gia tờ Truyền Thống Kháng Chiến. Tôi nói tôi không tin những tiếng nói trung thực sẽ được lắng nghe. Ðiều tôi tin chắc là tờ báo sẽ bị đóng cửa, không nay thì mai, và những người làm báo không thể tránh khỏi bị khủng bố, là điều ông cần tiên liệu, không nên để xảy ra. Tướng Trà không đồng ý với tôi. Ông cho rằng bây giờ tình hình đã khác trước, bây giờ Ðảng đã thấy cần thiết phải có sự góp ý với Ðảng của nhiều người nhằm mau chóng xây dựng lại đất nước.
Những chuyện xảy ra sau đó chứng tỏ cái nhìn không lạc quan của tôi là đúng. Tờ Truyền Thống Kháng Chiến bị cấm, những người chủ trương tờ báo bị làm khó dễ, thậm chí bị bắt. Về sau không hiểu tại sao chính tướng Trà lại ra tuyên bố lên án tờ Truyền Thống Kháng Chiến. Việc này, dù ông làm trong tình thế bị ép buộc, đã làm vấy bẩn danh tiếng của ông.
Tôi có gặp lại Thép Mới vài lần sau khi anh rời miền Bắc vào sống hẳn trong Sài Gòn, khoảng cuối những năm 80. Nghe nhiều người chê Thời Thắng Mỹ về sự không trung thực, tôi hỏi anh nghĩ gì về dư luận đó. Ðang vui chuyện, Thép Mới quay ra nhìn tôi như nhìn một thằng bới móc. Sau khi tin rằng tôi không có ý xấu, Thép Mới vui vẻ trở lại, anh mỉm cười tội nghiệp :"Cậu chưa viết theo com-măng(2) bao giờ à ?". Rõ ràng anh không muốn thừa nhận đứa con tinh thần đã trót dại đẻ ra.
Thép Mới từng là một nhà báo tài ba. Tôi đọc bản dịch tuyệt hay cuốn Thời Gian ỷng Hộ Chúng Ta của Ilya Erenburg do Thép Mới dịch trong kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi, những người lính trẻ, coi Thép Mới như thần tượng. Tôi quen Thép Mới từ ngày đó. Năm 1956 chúng tôi gặp lại nhau tại Moskva. To béo hơn trước, không còn vẻ ngượng ngùng khi hỏi người khác về văn phong của mình, Thép Mới hỏi tôi có đọc mấy bài báo anh mới viết hay không. Tôi không tiện nói với anh về cảm giác của tôi - những bài báo của Thép Mới mỗi ngày một oang oang, với những câu chữ sáo rỗng. Thép trong anh rỉ rồi. Thép Mới cho tôi biết anh vừa cưới vợ. Vợ anh hóa ra là một bạn gái thời học trò của tôi. Chúng tôi uống rượu mừng ngay trong phòng anh tại khách sạn Belgrad. Ba mươi năm sau, anh già xọm, mắt mờ, má chảy xệ, đã bỏ vợ, đã lấy vợ mới, nhưng chẳng có gì để khoe.
Kể cũng nên nói vài dòng ở đây về cái sự phỏng vấn lãnh tụ. Thường thì chẳng có báo nào tự dưng phỏng vấn các vị. Nếu có nhu cầu quảng bá ý kiến của nhà lãnh đạo Ðảng thì văn phòng lãnh tụ tự sáng tác ra một cuộc phỏng vấn rồi gửi nó cho báo Ðảng. Các báo khác sẽ đăng lại bài này. Còn khi có phóng viên nước ngoài xin phỏng vấn thì anh ta sẽ được mời tới gặp lãnh tụ, hai bên nói chuyện tầm phào một lát, chụp ảnh chung, những câu phỏng vấn được để lại, những câu trả lời anh ta sẽ nhận sau. Những bài phỏng vấn của Winfred Burchet(3) gửi đi từ Hà Nội những năm chiến tranh được chế tạo đúng như thế. Trong khi chờ đợi, Burchet tối tối đi uống rượu mời ở Métropole hoặc Splendid (Hòa bình), hoặc đi ăn chim quay với Nguyễn Tuân ở phố Tạ Hiền. Bài phỏng vấn rồi được gửi đi bằng télex của Việt Nam Thông tấn xã, không mất tiền.
Người ta phải làm như vậy vì các vị lãnh tụ sợ nói ngẫu hứng dễ bị hớ. Ðem so bài nói chuyện của Lê Duẩn với cũng bài ấy được đăng trên tờ Nhân dân thì thấy chúng khác nhau một trời một vực. Tôi được nghe Lê Duẩn vài lần, cảm giác của tôi là chán. Bài nói cương giọng bình dân, đôi khi lăng nhăng, lẩm cẩm đến nỗi người nghe không hiểu ông tổng định nói gì, thế nhưng bài đăng báo thì đặc giọng hàn lâm, với rất nhiều trích dẫn các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác. Sau mới biết những viên thư ký của lãnh tụ là tác giả.
Theo lời kể của những người biết gốc gác đương kim tổng bí thư thì Lê Duẩn quê ở Triệu Phong, Quảng Trị, con một gia đình khá giả. Lê Duẩn đã học qua bậc tiểu học, có hồi làm đường sắt, giữ chân bẻ ghi, những người tâng bốc gọi là thư ký hỏa xa. Cũng theo họ, từ nhỏ ông tỏ ra có tư chất thông minh. Thông minh như thế nào thì họ dẫn ra nhiều chuyện làm bằng, tiếc thay, những bằng chứng ấy lại không chứng tỏ một hệ số thông minh cao đáng kể. Ðành phải mở một cái ngoặc đơn để nói rằng người Việt ta thường hay lầm lẫn hai khái niệm thông minh và láu cá. Chúng có ranh giới khá nhòe nhoẹt. Người thông minh thường không làm nổi cái mà kẻ láu cá làm được. Ngược lại, tên láu cá có gắng mấy cũng không nghĩ ra cái mà bộ óc thông minh có.
Ðược trực tiếp gặp gỡ các nhà cách mạng Việt Nam, được quan sát họ ở khoảng cách gần, tôi hiểu họ là ai. Phần nhiều họ là những người yêu nước, xuất thân từ những tầng lớp dưới, do ý thức được thân phận nô lệ mà theo chân các nghĩa sĩ Cần vương, Ðông kinh Nghĩa thục và những người cách mạng lớp đàn em có xu hướng cộng sản. Trước khi vào Ðảng cộng sản họ là thành viên của các tổ chức Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội, Tân Việt cách mạng đảng, Ðông Dương Cộng sản Liên đoàn. Kiến thức học đường của họ gồm có một chút chữ Hán, một chút quốc ngữ, cả hai chút này không đủ dùng cho sự tiếp cận triết học phương Tây, mà chủ nghĩa Mác lại bắt nguồn từ đó, với phép biện chứng Hégel làm cơ sở. Những tác phẩm chính bản của Mác và Engels chưa từng tới Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp. Những người có học nhất trong những nhà mác-xít Việt Nam chỉ được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác qua những cuốn giáo trình nhập môn. Lác đác có vài người được đọc dăm ba cuốn khảo cứu nghiêm túc chủ nghĩa Mác bằng tiếng Pháp. Trường Chinh là một trong những người hiếm hoi đó.
Chủ nghĩa Mác thường được nói tới ở Việt Nam thực chất là chủ nghĩa Lênin, hay là chủ nghĩa Mác theo cách diễn dịch của Lênin, tước bỏ phần khoa học (nghiên cứu về hàng hóa trong chủ nghĩa tư bản, về giá trị và giá trị thặng dư), nhấn mạnh khía cạnh cách mạng bạo lực, đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Những khía cạnh này cũng không được Ðảng nói tới trong thời kỳ bí mật. Thời kỳ đó Ðảng chỉ nói nhiều tới đấu tranh phản đế, giành độc lập. Cướp được chính quyền rồi, thiết lập nhà nước Cộng hòa Dân chủ rồi, bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp rồi người ta cũng chưa nói tới. Chỉ sau khi đã ăn sống nuốt tươi chủ nghĩa Mao người ta mới nhấn mạnh mấy thứ đó.
Chủ nghĩa Lênin là do Stalin đặt ra, từ léninisme là do Stalin dùng đầu tiên, để trình bày không phải tư tưởng của Mác về thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội cộng sản, mà là quan điểm của Sta-lin về những vấn đề này, cho nên gọi là chủ nghĩa Stalin mới đúng. Những nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Việt Nam chỉ được tiếp xúc với những ấn phẩm do Liên Xô cung cấp. Những trước tác thời Mác trẻ ít được biết đến. Nguyên do là chúng không được giới học giả Liên Xô quan tâm, hoặc giả họ biết đấy nhưng không dám nêu lên những luận điểm yêu tự do ngỗ ngược của Mác, là những cái không hợp ý Stalin. Hậu quả là những nhà nghiên cứu đàn em không có sách để đọc. Trong Mác có hai con người, Mác trẻ và Mác già. Mác trẻ là người dân chủ và thực tiễn, Mác già thiên về tư biện, mà là tư biện khiên cưỡng, ý muốn thuyết phục đi trước sự lý giải cần có.
Cả hai cái đó - chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin hiểu đúng và hiểu không đúng, đều không phải là chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. ê Việt Nam có một chủ nghĩa cộng sản không dính dáng gì tới Mác hoặc Lênin hết. Nó là chủ nghĩa cộng sản bình dân. Nó kêu gọi đấu tranh cho một xã hội không có người bóc lột người, một cuộc sống tự do, công bằng và hạnh phúc, một địa cầu không biên giới. Ðó chính là chủ nghĩa cộng sản mà cha mẹ tôi theo, là cái mà ông bà muốn trao lại cho chúng tôi. Chủ nghĩa cộng sản này còn giữ tên gọi cũ hay mang tên mới trong tương lai, theo tôi nghĩ, sẽ mãi mãi còn với loài người với tư cách một ước mơ. Chính chủ nghĩa Mác dung tục và thô thiển, chứ không phải chủ nghĩa Mác hàn lâm hoặc chủ nghĩa Mác cường đạo, mới là cái hữu ích cho phong trào giải phóng dân tộc. Hấp lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Có người nô lệ yêu nước nào lại từ chối một viễn cảnh huy hoàng như thế ? Vào thời cha mẹ tôi phần lớn những người cách mạng đều tự hào nhận mình là cộng sản. Chính sự lầm lẫn này về sau đã sinh ra một nghịch lý : những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam thường tỏ ra là những chiến sĩ tài ba khi họ ít được học chủ nghĩa Mác, còn khi bập bõm chủ nghĩa Mác rồi thì họ lại sa vào hết sai lầm này tới sai lầm khác.
Giữa hai cha con tôi đôi khi cũng có những cuộc trò chuyện về lý thuyết cách mạng. Cha tôi nói rằng trong công tác bí mật bề bộn, vừa phải lẩn trốn địch vừa vận động quần chúng, tổ chức và chắp nối các cơ sở cách mạng (là công việc chính trong hoạt động của ông), ông không có thời giờ đọc hết một tác phẩm nào của Mác hoặc Engels. Ông chỉ bắt đầu đọc Mác sau khi hòa bình lập lại. Ðọc một cách vất vả. "Những cuốn sách quá khó hiểu đối với bố, ông nói. Bố ít học, lại không có năng khiếu về triết. Xét cho cùng, bố chỉ có thể là con kiến thợ của cách mạng mà thôi. Cho nên thế hệ các con có điều kiện để nghiên cứu thì ráng nghiên cứu cho kỹ các lý thuyết xã hội học. Lý thuyết là lý thuyết, nó không thay thế được thực tiễn, nhưng không thể bỏ qua không nghiên cứu những gì các thế hệ đi trước nếu không muốn sa vào những sai lầm lẽ ra có thể tránh được". Người thường giảng cho cha tôi nghe về triết học là ông Trần Ðức Thảo(4). Ông đến ăn cơm với cha tôi, bộ quần áo nhàu nát nhiều ngày không giặt và bốc mùi, say sưa nói về những vấn đề thuộc những tầng trời xa lắc. Xong bữa, ông chiếu cố bước xuống trần thế, giải thích cho cha tôi những khái niệm của Mác, thỉnh thoảng lại chêm vào những lời bình chướng tai đối với tư tưởng chính thống đang ngự trị trong Ðảng cộng sản. Cha tôi chăm chú nghe, chỗ nào chưa hiểu, ông hỏi lại. Cha tôi kém hiểu biết, nhưng ông không giáo điều. Ông thường lấy hình ảnh con ngựa nhà đòn, với hai miếng da che mắt, chỉ nhìn thấy một đường để khuyên chúng tôi không được nhìn một chiều, nghe một tiếng.
Tôi hiểu các nhà lãnh đạo qua cha tôi. Phần lớn họ thuộc thế hệ cha tôi, trạc tuổi cha tôi. Họ có tiểu sử na ná như nhau, tất cả đều là những người yêu nước trước khi thành cộng sản. Họ nhập vào hàng ngũ cộng sản mà không hiểu chủ nghĩa cộng sản là gì. Chỉ cần biết chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho công cuộc giải phóng dân tộc là đủ. Trong đám đồng chí của mình cha tôi thuộc số ít những người tương đối có học, vậy mà ông còn phải thú nhận sự dốt nát của ông về học thuyết cộng sản. Ðủ thấy những người kia cũng chẳng hiểu biết hơn ông bao nhiêu, nếu như trời không phú cho cho họ trí thông minh lớn hơn. Bi kịch xảy ra cho cha tôi bắt nguồn từ đây - do ý thức được sự dốt nát của mình, ông chịu khó đọc, chịu khó học, để rồi kiến thức mà ông thu lượm được cuối cùng lại tách ông khỏi những đồng chí tự thị.
Lê Duẩn sớm tham gia các hoạt động chống Pháp, được các bậc cách mạng đàn anh dìu dắt vào đường cộng sản, có thời đã làm bí thư xứ ủy Trung kỳ, tham gia khởi nghĩa Nam kỳ, từng bị đi đầy Côn đảo. Theo nhận xét của các ông Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm thì Lê Duẩn là người cực đoan về tính cách, phóng túng trong hành xử. Ngay tại Côn Ðảo, nơi những người tù không phân biệt xu hướng phải nương tựa nhau để chống lại kẻ thù chung, Lê Duẩn không chịu hòa hợp với những người yêu nước không cộng sản khác - những người tờ-rốt-kít, những đảng viên Quốc dân đảng. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Lê Duẩn còn lâu mới được coi là ngang hàng với những nhân vật nổi tiếng trong phong trào cách mạng miền Nam như Trần Văn Giàu, Phạm Văn Bạch, Dương Bạch Mai...Những nhà cách mạng trí thức khi ra Hà Nội họp Quốc Hội và tham gia chính phủ đoàn kết dân tộc với tư cách đại diện miền Nam thành đồng bị kẹt lại ở miền Bắc vào thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Vắng mặt họ Lê Duẩn mới dần dần từ những chức vụ khiêm tốn bước lên địa vị người lãnh đạo kháng chiến Nam bộ.
Cần phải thừa nhận rằng Lê Duẩn là người lãnh đạo giỏi. Những người bạn miền Nam tập kết của tôi nói về "anh Ba Duẩn" với giọng kính trọng và tự hào. Niềm tự hào này kéo dài không lâu. Sau khi "anh Ba" trở thành tổng bí thư, ông không làm gì được cho họ hơn là đẩy họ tới những miền hoang vu để khai hoang, lập ra các nông trường, khuyến dụ họ họp thành những tập đoàn sản xuất nhỏ nhoi để tự nuôi thân. Ðến lúc ấy thì họ giận dữ. Khi con người nổi giận thì lẽ công bằng không còn nữa. Thay vì ca ngợi họ nguyền rủa ông. Tôi tin niềm tự hào trước kia của họ hơn những lời nguyền rủa sau này. Lê Duẩn hay bất kỳ ai khác ở địa vị ông đều không thể làm gì hơn cho những người từ miền Nam màu mỡ ra miền Bắc nghèo khổ vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài chín năm.
Bằng vào những câu chuyện kể của họ khi họ còn ngưỡng mộ "anh Ba" thì Lê Duẩn là người độc lập trong suy nghĩ, có biệt tài tổ chức, trong chỉ đạo có vẻ chặt chẽ nhưng lại linh hoạt, thoáng đấy mà nghiêm đấy. Hồi kháng chiến chống Pháp, mặc dầu ở xa Trung ương, những chủ trương chủ trương của ông đề ra vẫn khớp với chủ trương của Trung ương trong mọi mặt. Người ta sùng bái ông, gọi ông là Cụ Hồ miền Nam.
Thật vậy, trong một số lĩnh vực Lê Duẩn không sao chép những chủ trương của Trung ương Ðảng đóng trong rừng già Việt Bắc mà làm theo cách của mình. Trong khi miền Bắc được sự chỉ đạo trực tiếp của các cố vấn Trung Quốc ầm ầm bước vào Cải cách ruộng đất theo hình mẫu Cải cách thổ địa của Trung Quốc thì ở miền Nam Lê Duẩn kiên quyết không cho tiến hành Cải cách ruộng đất, tránh cho cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam những tổn thất chắc chắn là rất lớn. Một sự cưỡng lại cấp trên như thế không thể làm cho tổng bí thư Trường Chinh hài lòng.
Hiệp nghị Genève 1954 chia nước Việt Nam thành hai miền Nam Bắc. Tại Ðại hội Ðảng lao động Việt Nam lần thứ III năm 1960, trước sự sa sút trầm trọng uy tín của Ðảng vì những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, và cũng để xoa dịu nỗi bất bình trong quần chúng, chức vụ tổng bí thư do chủ tịch Ðảng Hồ Chí Minh tạm kiêm nhiệm một thời gian nay được chính thức trao cho Lê Duẩn(5).
Mọi người đều ngạc nhiên trước kết quả của Ðại hội. Trong kháng chiến chống Pháp Võ Nguyên Giáp là nhân vật lãnh đạo đứng hàng thứ ba, chỉ sau có Hồ Chí Minh và Trường Chinh. Trường Chinh ra đi, chức tổng bí thư mặc nhiên phải thuộc về Võ Nguyên Giáp, ai chả nghĩ thế. Nhưng sự đời lại diễn ra theo cách khác. Theo nhận xét của những người cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên thì cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều lo ngại ông tướng đã có quá nhiều vinh quang sẽ trở nên không dễ bảo sau cuộc đảo lộn ngôi thứ. Mà cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều muốn giữ lại vị trí trước kia của họ về thực chất, cho dù danh nghĩa không còn. Cần phải chọn một người có vị trí và uy tín kém hơn Võ Nguyên Giáp. Do biết ơn người cất nhắc mình, người đó sẽ vừa ngoan ngoãn vừa trung thành. Lê Duẩn thích hợp hơn cả với vai trò đó. Trong điều kiện đất nước chia hai, mà trước mắt là mục tiêu thống nhất đất nước thì đưa một người từng lãnh đạo miền Nam lên làm tổng bí thư cũng là lý do dễ thuyết phục. Tôi tin cách lý giải này hơn là cách lý giải của những người cho rằng Lê Duẩn được chọn vì có thâm niên ở tù cao hơn tướng Giáp.
Ðó là may mắn trời cho đối với Lê Duẩn. Theo truyền thống lãnh tụ suốt đời Trường Chinh sẽ chẳng bao giờ rời khỏi ghế tổng bí thư nếu như không xảy ra những tổn thất rùng rợn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Không phải những đồng chí nghiêm khắc trong Ðảng mà những oan hồn Cải cách ruộng đất đã quật ngã không thương tiếc vị lãnh tụ đứng ở vị trí thứ hai trong Ðảng, người mà chân dung đã được treo ở khắp các công sở, trong mọi nhà, được tung hô vạn tuế không kém Hồ Chí Minh là mấy(6).
Nhưng cũng từ đây Lê Duẩn bắt đầu những sai lầm làm mất đi uy tín đã có trong quần chúng, dù mới chỉ trên một phần đất nước.
Quyền lực là một thứ ma túy cực mạnh. Nó đã thấm vào máu thì con người mất hết tỉnh táo.
Miền Bắc cho đến khi ấy hoàn toàn nằm trong tay lớp cán bộ do Trường Chinh đào tạo. Tình hình này không thể không làm cho tân tổng bí thư lo ngại. Như một kỵ sĩ bất ngờ phải nhảy lên lưng con ngựa của người khác, Lê Duẩn lúng túng, lo con ngựa sẽ không phục tùng tay cương của chủ mới. Cần phải tìm người tháo gỡ tình hình. Sự lựa chọn rơi vào Sáu Búa Lê Ðức Thọ.
Là người miền Bắc, được Trường Chinh cử vào Nam năm 1947 với tư cách ủy viên thường vụ Trung ương Ðảng để nắm Trung ương cục miền Nam, nhưng Lê Ðức Thọ đã không một lần tranh được chức bí thư miền. Cũng có lúc hục hặc với Lê Duẩn, nhưng sau đó ý thức được thân phận mình trên đất lạ, Lê Ðức Thọ lại tìm sự liên minh với Ba Duẩn để trở thành Sáu Búa. Ðược bầu vào Bộ Chính trị trong Ðại hội III, Lê Ðức Thọ chính thức giữ chức Trưởng ban Ban tổ chức Trung ương (mặc dầu trước đó đã tạm nắm vài năm) thay cho Lê Văn Lương phải ra đi do những sai lầm Chỉnh đốn tổ chức. Cái chuồng ngựa của Lê Văn Lương được phá đi. Thay vào đó là một hệ thống tổ chức hoàn toàn mới.
Hệ thống này không biết do chính Thọ nghĩ ra hay do quân sư nào mách nước, là đứa con lai mang hai dòng máu Gestapo-Stasi và Khang Sinh (Kang Sheng)(7). Theo nguyên tắc mới của Thọ mọi việc tổ chức và nhân sự nhất nhất phải qua sự kiểm tra của Ban tổ chức Trung ương. Mỗi đảng viên phải làm lại lý lịch, căn cứ vào thành phần xuất thân và quá trình công tác mà được ngành tổ chức đặt vào vị trí này hay vị trí khác. Thậm chí các đại biểu được các cấp bộ đảng bầu ra để đi dự Ðại hội Ðảng cũng phải trải qua một kỳ kiểm tra ngặt nghèo tư cách đại biểu. Với một quy chế như thế nền dân chủ trong Ðảng chỉ là một nền dân chủ bị thiến. Nhưng về mặt khác thì đây thật là một tổ chức hoàn hảo mà bất cứ tên độc tài nào cũng muốn có.
Sự lựa chọn của Lê Duẩn là sáng suốt. Không ai có thể bằng Lê Ðức Thọ trong số những người miền Bắc đã nhiều năm làm việc ở miền Nam dưới quyền Duẩn. Thêm nữa, được Lê Duẩn cất nhắc Thọ chắc chắn phải mang ơn Duẩn. Thọ chính là người duy nhất cần có để tạo dựng một bộ máy cai trị vững chắc, loại trừ ảnh hưởng của Trường Chinh.
Thọ không phụ lòng tin cậy của đàn anh. Một mặt, dưới sự chỉ đạo của Thọ đội ngũ cán bộ mau chóng được sắp xếp lại theo ý muốn của Lê Duẩn. Những người tỏ ra quá trung thành với Trường Chinh dần dần bị thuyên chuyển khỏi những chức vụ quan trọng, thay chân họ là những đệ tử ruột của Thọ, tức của Duẩn.
Sự cải cách bộ máy quyền lực vô hình trung đã đem lại cho Thọ ảnh hưởng mỗi ngày một lớn, tạo ra một quyền lực nhị trùng trong thực tế. Mặt này là mặt Lê Duẩn không lường trước.
Người ta ví triều đại Lê Duẩn như thời Vua Lê - Chúa Trịnh. Vào những ngày lễ, ngày tết cứ trông số xe cộ đậu trước cung Vua và phủ Chúa mà biết quyền lực thực sự nằm trong tay ai. Mọi quan chức trong Ðảng cũng như trong chính quyền (mà hai cái chỉ là một) đều lệ thuộc ngành tổ chức có hệ thống dọc từ Trung ương xuống đến cơ sở. Việc thuyên chuyển, bổ nhiệm, cách chức nhất nhất đều liên quan trực tiếp tới Ban tổ chức Trung ương, mà người quyết định tối hậu là Sáu Búa. Cho nên nếu số xe cộ đến chầu chực trước phủ Chúa có nhiều hơn trước cung Vua cũng là chuyện thường tình.
Lê Duẩn hiểu ra cơ sự khá muộn màng. Vua Lê mới không biết rằng Ban tổ chức Trung ương, hay phủ Chúa, quyền lực còn lớn hơn cả Vua. Ban tổ chức Trung ương nhúng
tay vào mọi việc lớn nhỏ, sai phái mọi quan chức, chỉ đạo các địa phương(8). Vì cơ quan tổ chức quan trọng như vậy cho nên các vụ trưởng trong Ban tổ chức Trung ương được Thọ cho ăn lương (của Nhà nước) theo cấp chuyên viên 9, nghĩa là ngang lương bộ trưởng các bộ quan trọng (bộ trưởng các bộ làng nhàng chỉ ăn lương chuyên viên 7, chuyên viên 8).
Bên dưới Ban tổ chức Trung ương là Bộ Nội Vụ. Nó là bộ máy thực hành trấn phản, được Thọ trao cho đệ tử ruột là Trần Quốc Hoàn. Tôi sẽ nói tới mối quan hệ chủ tớ Thọ-Hoàn vào lúc khác. Nó là một chuyện thú vị, không phải chuyện thọc mạch đời tư, nhờ đó ta thấy cơ cấu băng đảng trong một nhà nước chuyên chế hình thành như thế nào.
Một hôm Hoàng Minh Chính đến chơi nhà Lê Ðức Thọ gặp lúc Thọ đang nổi nóng vì một bà vụ trưởng. Bà ta đang vật nài thư ký riêng của Thọ xin gặp Thọ.
- Con mẹ ngu hết chỗ nói ! - Thọ bực bội lớn tiếng trong khi tiếp Hoàng Minh Chính - Nó lải nhải suốt, một xin Ðảng xét, hai xin Ðảng xét. Mẹ kiếp, tao chưa có thời giờ xem lại nhân sự các Bộ, nó đã đâm đơn hết cửa này đến cửa khác. Tao chưa duyệt thì đừng có hòng. Nó phải hiểu Ðảng là tao, là tao đây này ! Còn đi xin ở chỗ nào nữa ?
Bà này, tất nhiên, đã tính sai. Rồi bà ta cũng được làm thứ trưởng "Ba đảm đang"(9), Hoàng Minh Chính cho biết, sau một cuộc tạ tội đầy nước mắt với "Anh Sáu".
Những đảng viên kỳ cựu biết bản chất của Thọ, thấy Thọ nắm quá nhiều quyền lực, lại được Lê Duẩn ưu ái, lấy làm lo cho Ðảng, đặt mọi hi vọng vào Trường Chinh, hi vọng cựu tổng bí thư sẽ tìm cách ngăn cản sự lộng hành của Thọ.
Nhưng Trường Chinh hoặc không biết âm mưu sâu xa của Thọ, hoặc ý thức được thế yếu của mình, luôn tỏ ra khiêm tốn và nhường nhịn, khép nép đứng ké vào liên minh Duẩn-Thọ như một kẻ thua cuộc biết điều. Chí ít thì người ta cũng không bao giờ thấy ông có thái độ khó chịu với kẻ đang chễm chệ ngồi trên ngôi vị vốn dĩ thuộc về ông.
Cho đến lúc xảy ra vụ xung đột giữa hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế vị thế của Lê Duẩn đã vững lắm. Cũng vào thời điểm này Lê Duẩn bắt đầu cảm thấy e ngại những ý kiến bất bình của các đảng viên kỳ cựu đối với cách lãnh đạo tự quyền, phớt lờ những chuẩn mực sinh hoạt dân chủ tối thiểu, của ông ta. Việc Lê Duẩn chống những nghị quyết của Ðại Hội XX về thực chất là sự bảo vệ quyền lực độc tôn.
Cần phải chặn đứng trào lưu đòi tự do dân chủ âm ỉ đã được Thọ phát hiện. Khẩu hiệu bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin là lá bài tốt. Nó cho phép Ba Duẩn bóp chết mọi mưu toan phá hủy chế độ độc tài. Nó gìn giữ sự an toàn của ngai vàng.
Nhưng không thể trắng trợn theo Bắc Kinh. Ðể chủ soái vui lòng, các lý thuyết gia nội hóa múa bút tạo nên hệ lý thuyết riêng của Lê Duẩn, gồm mấy điểm chủ chốt : một là xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên tinh thần làm chủ tập thể, hai là tinh thần cách mạng tiến công - tiến công không ngừng, tiến công liên tục, lấn tới từng bước, đánh đổ từng bộ phận của chủ nghĩa đế quốc dựa trên sức mạnh kết hợp của ba dòng thác cách mạng. Với tư cách lý thuyết gia hàng đầu của cách mạng Việt Nam, thái thượng hoàng hụt cũng ra công giúp rập Lê Duẩn trong mưu toan trở thành một trong những nhà kinh điển mác-xít cấp châu lục trong giai đoạn mới, để chứng minh Lê Duẩn không phải mao-ít. Trường Chinh tự lột xác hay bị lép vế, là điều đến nay còn là bí mật.
Hoàng Minh Chính kể khi Nikita Khrusov nổ phát súng đầu tiên vào chế độ toàn trị và cá nhân Stalin, vào đầu năm 1956, Trường Chinh còn tỏ ra rất hăng hái ủng hộ cuộc cách tân chủ nghĩa xã hội. "Chủ nghĩa xã hội không thể cùng tồn tại với tệ sùng bái cá nhân. - Trường Chinh nói - Chủ nghĩa xã hội là dân chủ, sùng bái cá nhân là phản dân chủ, hai cái như nước với lửa, chỉ có thể là cái này hoặc cái kia, không thể hai cái cùng một lúc. Ðồng chí Khrusov làm thế là phải lắm, mà dũng cảm lắm". Quan điểm này Trường Chinh không phải chỉ nói với một Hoàng Minh Chính.
Cũng theo Hoàng Minh Chính thì trong thâm tâm Trường Chinh không hài lòng với sự sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh, mà ông ta nhận định là có, tuy ở mức độ không đến nỗi trầm trọng. Còn theo một số người biết Trường Chinh nhiều hơn thì Trường Chinh là người háo danh ghê gớm, nhưng háo danh một cách kín đáo. Ông ta cần chống sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh để kiến tạo sùng bái cá nhân mình. Vì lẽ đó ông ta đã tán thành Khrushov.
Nhà báo Trần Ðĩnh có thời gian giúp việc Trường Chinh cho rằng đặc điểm nổi bật trong con người Trường Chinh là chủ nghĩa giáo điều, kinh viện. Chủ nghĩa xét lại (hiện đại hay không hiện đại là chuyện tầm phào, chuyện ngôn từ khẩu chiến lăng nhăng của đám mao-ít) chưa đủ vững chắc để trở thành giáo điều mới, cho nên Trường Chinh dễ dàng bỏ nó để chạy theo chủ nghĩa thực dụng. Tôi nghĩ rằng nhận xét của anh gần với sự thật.
Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp kiến thức về chủ nghĩa Mác của tôi, cũng như của nhiều anh em khác, chỉ gói tròn trong một mớ chắp vá từ những cuốn triết học nhập môn của Politzer, Trần Văn Giàu, Ðào Duy Anh (Hình nhi thượng học và Hình nhi hạ học). Ngoài ra, có hai trước tác cũng được kể như sách gối đầu giường là cuốn Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam và cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi(10) của Trường Chinh.
Vào thời kỳ này sách rất hiếm, dùng sách phải rất cẩn thận - chỉ cần sơ ý một chút là những trang giấy bản mủn ngay ra trên tay. Nếu chẳng may nhà in đóng thiếu vài trang thì chúng tôi, những kẻ ham đọc, phải cần mẫn chép tay những trang thiếu để dán bù vào cho đủ. Tôi đã chép không biết bao nhiêu trang sách trong thời kỳ đó.
Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp(11) của Roger Garaudy(12). Ðọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh. Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville. Tiếp đó là sự phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi. Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông, trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay. Tôi vẫn chịu ơn ông Trường Chinh về những gì tôi đã học được trong hai cuốn sách của ông, đặc biệt về văn chính luận. Cách hành văn của Trường Chinh không những đẹp mà còn trong sáng, dễ hiểu. Còn chuyện như thế có phải đạo văn hay không lại là chuyện khác. Nguyễn Du lấy cốt Ðoạn Trường Tân Thanh mà làm ra Kiều, nhưng không phải vì thế mà người ta coi Kiều là tác phẩm đạo văn.
Nếu hai tác phẩm của Trường Chinh là đạo văn thì cuốn Sửa Ðổi Lề Lối Làm Việc của ông Hồ Chí Minh cũng là đạo văn nốt. Nó là bản diễn nôm cuốn Chỉnh Ðốn Văn Phong của Mao Trạch-đông cộng một chút Sự Tu Dưỡng Của Người Ðảng Viên Cộng Sản của Lưu Thiếu Kỳ.
Hình như khi mình chưa đủ sức tự làm lấy thì bắt chước người không phải là xấu. Học giả Nguyễn Văn Ngọc(13) khi viết bài :"Tính hay bắt chước của người mình" cũng chỉ mới phàn nàn thôi, chứ cũng không có ý lên án. Tệ nhất là cái khác, như danh họa Picasso nói :"Bắt chước không xấu, tự bắt chước mới xấu".
Ðáng buồn là sau này, khi Ðảng cộng sản Việt Nam bớt bắt chước người ngoài thì lại sa vào thói quen tự bắt chước, mà lại tự bắt chước rặt những cái xấu.
Tôi đã đi lan man khỏi chủ đề.
Một câu hỏi khác được đặt ra là : vậy thì, trong tình hình vị thế của Lê Duẩn đã vững vàng như thế, ông ta cần gì phải trấn áp những người có ý kiến ngược ?
Anh Phùng Mỹ, cán bộ Viện Triết học, trong khi bị giam chung cùng với tôi tại trại Tân Lập, cho rằng chúng tôi chẳng qua là vật hiến tế của Lê Duẩn dâng lên ban thờ Mao Trạch-đông. Ðường lối đánh đu giữa hai cọc, chính chuyên với hai chồng cùng một lúc đã hết thời của nó, chẳng còn lừa được ai. Ban lãnh đạo Ðảng quyết định bắt chúng tôi để chứng tỏ Việt Nam có đường lối đối ngoại độc lập, vừa có tác dụng xoa dịu Mao, vừa làm mình làm mẩy trước Liên Xô.
Trong chuyện đường lối của Ðảng cộng sản Việt Nam thời kỳ ấy, với tất cả sự rối rắm làm nhiều người hiểu theo nhiều cách khác nhau, tôi nhớ tới nhận xét của nhà báo Liên Xô Evguéni Kobélev nói với tôi vào giữa thập niên 60 :"Lê Duẩn tỏ ra thân Liên Xô nhiều quá là không có lợi cho Việt Nam đang chống Mỹ". Tôi cười, không tranh luận. Tôi biết, trong thời kỳ này Kobélev đã đánh mất tính độc lập suy nghĩ của người làm báo. Ông đang viết cuốn Bông Sen Việt Nam ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh, ông được các nhà lãnh đạo Việt Nam ưu ái. Cũng có cái nhìn tương tự Kobélev, khi nhân viên KGB ở Việt Nam báo cáo về cho ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Liên Xô biết dường như có một âm mưu đảo chính bất thành vừa xảy ra tại Hà Nội, tức là nhân viên này chẳng biết quái gì về những việc xảy ra. Báo cáo của KGB chỉ chứng tỏ Liên Xô không hề nhúng tay vào chuyện âm mưu đảo chính, như Lê Ðức Thọ vu cáo. Về bản báo cáo của KGB tôi chỉ được biết vào năm 1993, do chị Inna Malkhanova, một nhà Việt Nam học người Nga kể lại. Chị được nghe nội dung bản báo cáo nói trên vào năm 1968, được đọc nguyên bản năm 1991, khi có điều kiện tiếp cận những kho tư liệu mật và tối mật của Ðảng và Nhà nước xô-viết.
Trong thực tế, theo tôi, cuộc đấu tranh về quan điểm, đường lối mang tính chất dung tục, tính chất đời thường hơn người ta nghĩ. Trong nỗi lo lắng về quyền lực của Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp lồ lộ như một hiểm họa. Chính vì thế mà Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ bao giờ cũng nhất quán trong mục tiêu hạ uy thế tướng Giáp. Cả hai hiểu rất rõ rằng vị trí cao nhất trong Ðảng lẽ ra phải thuộc tướng Giáp, chứ không thuộc về họ và tướng Giáp là người bất cứ lúc nào cũng có thể thay thế họ một khi họ trượt chân.
Trong cách tính toán của Duẩn - Thọ có sự đánh giá quá cao đối thủ !
Họ quá lo sợ trước uy tín của tướng Giáp trong quân đội. Họ quá lo sợ trước vầng hào quang người chiến thắng Ðiện Biên trong dân chúng. Tội thay, trên thực tế tướng Giáp không phải là đối thủ của cả Lê Duẩn võ biền lẫn Lê Ðức Thọ mưu lược. Chiến lược đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận của Lê Duẩn chưa kịp đem ra dùng cho tướng Giáp thì tướng Giáp đã cài số lùi rồi.
Tôi đã nói tới chuyện nhà cầm quyền e dè trí thức như thế nào. Ðúng là trong thời gian này trí thức có hướng về Võ Nguyên Giáp thật. Người ta tin tướng Giáp, bởi vì ông đã từng là "giáo sư trường Thăng Long", chẳng gì cũng là trí thức, là người có học, chứ không phải loại dùi đục chấm mắm cáy.
Nhưng tướng Giáp lại chẳng phải như người ta nghĩ. Ông đã phụ lòng tin của trí thức. Thậm chí khi những đòn chuyên chính vô sản giáng xuống những người thân cận của ông, những chiến hữu của ông, ông đã không dám hé răng nói một lời, mà chỉ ngoan ngoãn né qua một bên, mặc cho Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ muốn làm gì thì làm. Như một kẻ vô can, ông hiền lành khoanh tay nhìn cuộc khủng bố trắng diễn ra trước mắt.
Bây giờ thì ai cũng biết những người bị bắt trong vụ "nhóm xét lại chống Ðảng" không hề có liên quan gì với tướng Giáp trong bất cứ mưu mô nào. Việc Lê Ðức Thọ đính họ vào tướng Giáp là sự ngụy tạo hoàn toàn. Âm mưu đảo chính không hề có. Thọ làm những việc đó chỉ để vu vạ cho tướng Giáp, để hạ bệ tướng Giáp, kẻ thù tiềm tàng, kẻ thù khả dĩ của Duẩn-Thọ mà thôi.
Những người bị Ðảng coi là xét lại biết rõ Võ Nguyên Giáp chẳng đại diện cho ai. Ông chưa từng và không hề là đối cực của liên minh Duẩn-Thọ. Chưa bao giờ ông dám chống lại những chủ trương của liên minh này. Ông có những bực mình nho nhỏ với Lê Duẩn, là chuyện có thật, nhưng không hơn. Ông có đưa ra một số vấn đề hiện đại hóa quân đội, tức là có đi ngược tí chút với đường lối lấy chiến tranh du kích chống chiến tranh hiện đại của đương kim tổng bí thư và tướng Nguyễn Chí Thanh, nhưng ông không dám hé răng nói lấy một lời về dân chủ và tự do là những vấn đề cốt lõi của mọi phong trào phản kháng.
Ðiều làm tôi phải suy nghĩ là : nếu Duẩn-Thọ muốn dùng chúng tôi làm dê tế thần trong đền thờ Mao thì thời điểm 1967 đâu có phải là thời điểm đẹp nhất để dâng hương. Ðáng lẽ phải làm việc này sớm hơn nhiều, từ đầu năm 1964 kia, bởi vì đó mới là thời điểm Mao và ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Trung Quốc cần Việt Nam có thái độ dứt khoát trong cuộc xung đột quan điểm giữa hai cường quốc xã hội chủ nghĩa.
Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ đã không bắt chúng tôi vào cuối năm 1963, hoặc 1964, hoặc chậm hơn nữa - 1965. Họ đã không làm gì hết. Họ tử tế, nhân đạo với các đồng chí chăng ? Họ tôn trọng luật pháp, chỉ bắt khi đã hội thật đầy đủ những cái theo họ là chứng cứ chăng ? Ðó là điều không ai biết. Có vẻ như họ cắn răng chịu đựng bọn xét lại ngang tàng dám cãi bướng bề trên thêm mấy năm nữa, tới tận 1967 mới xuống tay.
Hóa ra không phải thế.
Duyên do là giữa canh bạc quốc tế mà hai tay chơi khát nước Duẩn-Thọ lao vào với vận mệnh Tổ quốc giắt lưng, cả hai bỗng giật mình thấy xì thẩu láng giềng đang sa vào bĩ cực. Bắc Triều Tiên bắt đầu đánh trống lảng. Anbani đột nhiên lừng chừng, lập trường chẳng ra ngô cũng chẳng ra khoai. Mặc dầu quan hệ Cuba-Liên Xô lủng củng, nhưng Cuba không ngả về phía Trung Quốc. Ông luật sư Fidel Castro thừa hiểu rằng ở Trung Quốc không có gì của chủ nghĩa Mác, rằng dưới sự lãnh đạo của ông giáo làng ở Hồ Nam cả một đại lục mênh mông đang biến thành một chảo tạp pí lù lổn nhổn thịt xương đồng chí. Các đảng cộng sản mất dần uy tín trong quần chúng, đảng viên ra đảng ngày một nhiều. Trong Ðảng Lao động Việt Nam cũng xuất hiện sự phân hóa về quan điểm quốc tế, sự hoài nghi đường lối thân Trung Quốc của ban lãnh đạo Ðảng.
Nhưng Duẩn-Thọ là người cẩn thận. Họ không dại gì tỏ ra cứng đầu với ông đồng chí nông dân vùng Ukraina vốn nóng tính. Ngộ nhỡ ông ta nổi cơn giận lôi đình cắt giảm những khoản viện trợ khổng lồ cho cuộc chiến tranh ngày một tốn kém thì sao ?
Chỉ từ đầu năm 1967 trở đi, sau khi biết chắc chắn rằng Leonid Brezhnev không phải là Khrusov, rằng đồng chí Brezhnev ưa các cuộc liên hoan trao huân chương hữu nghị và sưu tầm xe ô tô du lịch hơn là những cuộc cãi vã đã kiên quyết đưa Liên Xô trở về lối cũ, họ mới dám xuống tay diệt trừ hậu họa(14).
Ðến đây kẻ đánh lên tiếng kẻng báo động về một đường lối sai lầm mới bị hạ ngục.

(1) Tên thật là Hà Văn Lộc, một nhà báo tên tuổi trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
(2) Ðơn đặt hàng (commande, tiếng Pháp)
(3) Phóng viên làm việc cho nhiều tờ báo Úc, thân Mao.
(4) Nhà triết học, từng ở Pháp nhiều năm, xu hướng mác-xít, tác giả Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng), Paris 1951. Từng làm chủ nhiệm bộ môn triết ở Ðại học tổng hợp Hà Nội, đề xướng hạt nhân duy lý, bị cấm giảng dạy, nhưng được phép sống vất vưởng trong sự đe nẹt và o ép.
(5) Từ năm 1956 Trường Chinh đã không còn là tổng bí thư Ðảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức - chủ tịch Ðảng và tổng bí thư. Tân tổng bí thư chỉ được bầu chính thức trong Ðại hội III (1960).
(6) Hồi ấy đã có một bài hát khá phổ biến, tôi không nhớ tên tác giả, với những lời lẽ như sau :"Sông núi này bừng lên xanh tươi vui đón Ngày mai. Ta đón chào Tương lai ta vẫy tay chào đồng chí. Ta hoan hô Người Anh Cả Trường Chinh. Bao năm lo cho đất Việt tự do ..."
(7) Ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản Trung Quốc phụ trách tổ chức và an ninh.
(8) Theo điều lệ Ðảng, Ban tổ chức Trung ương là cơ quan trông nom công việc tổ chức và nhân sự của Ðảng. Ðáng chú ý là Ðảng Công nhân Dân tộc Xã hội chủ nghĩa Ðức (mà ta quen gọi là Ðảng Quốc Xã) cũng lập ra một cơ quan tương tự là Gestapo (Geheime Staatspolizei) để bảo vệ Ðảng Quốc Xã và nhà nước phát-xít. Lúc đầu (1933) Gestapo chỉ là bộ phận chính trị của nước Cộng hòa Weimar, sau phình to ra với quyền lực vô biên. Mục đích của Gestapo (cũng như của các thứ Ban tổ chức Trung ương nói trên) là tiêu diệt mọi lực lượng chính trị chống đối nhà nước phát-xít. ê Liên Xô cơ quan có chức năng tương tự là KGB (Komitet Gosudarstvennoi Bezopasnosti) với một chút khác biệt : về danh nghĩa nó trực thuộc Hội đồng bộ trưởng, trong thực tế nó thực hiện những mệnh lệnh trực tiếp từ Bộ Chính trị của Ðảng, phối hợp chặt chẽ với MVD (Bộ Nội Vụ). Sự tương đổng này cho ta thấy cơ cấu nhà nước phát-xít và nhà nước xã hội chủ nghĩa có giống nhau.
(9) Ba đảm đang - phong trào do Ðảng cộng sản đề xướng, nhằm động viên lực lượng phụ nữ phục vụ chiến tranh.
(10) Tháng 7 năm 1948 tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ II, Trường Chinh đọc bản báo cáo nổi tiếng : Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam. Cuốn Trường Kỳ Kháng chiến Nhất định Thắng lợi ra đời vào giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
(11) Le Marxisme et la Renaissance de la culture Francaise, Edit. Sociale 1946 (?).
(12) Nguyên ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản Pháp, trong thập niên 60 tuyên bố tự do sáng tác, không cần đến Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa, trong cuốn Chủ nghĩa Hiện Thực Không Kiềm Tỏa (Réalisme Sans Rivage), bị các giới chức văn hóa Việt Nam lên án dữ dội, coi như một thứ hoa độc trong văn học.
(13) (1890-1942), tác giả nhiều sách giáo khoa, sách giới thiệu văn học dân gian và văn học cổ Việt Nam.
(14) Tháng 10 năm 1964 Nikita Krusov bị hạ bệ, nhưng ở Liên Xô về đường lối đối nội và 61 ngoại dường như không có gì thay đổi. Trung Quốc vẫn gọi bộ ba Leonid Brezhnev, Aleksei Kosyghin, Nikolai Podgorny là "cỗ xe tam mã của tên xà ích giấu mặt" (chữ dùng của tờ Pekin Information). Do đó ban lãnh đạo Ðảng Việt Nam vẫn còn e ngại, chưa dám thẳng tay đàn áp những người cộng sản đòi mở rộng dân chủ.


:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 19

Cứ như sự giải thích của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương Ðảng khóa VI (1986-1991) vào tháng 11.1991 thì từ đầu những năm 60 Ðảng đã phát hiện một nhóm chống Ðảng mà hạt nhân gồm ba người : Ðặng Kim Giang, Vũ Ðình Huỳnh, Hoàng Minh Chính; rằng nhóm này từ tháng 9 năm 1963 đã chủ trương phá hoại Hội nghị Trung ương lần thứ 9, âm mưu truất bỏ Trung ương nhằm lập ra một Trung ương mới...
Ðể tăng thêm tính thuyết phục người ta dẫn đoạn trích lời khai của Hoàng Minh Chính : "Ngay từ khi mới thành lập, tổ này (tổ lãnh đạo 3 người) đã mang đầy đủ tính chất và nhiệm vụ của Ban chấp hành Trung ương tương lai" mà mục tiêu là "truất bỏ Trung ương đi, quyết định ra đường lối mới và bầu ra Trung ương mới để điều hành".
Ai cũng biết rằng cái Ban Tư tưởng - Văn hóa chẳng có nghĩa gì, bản thân nó. Nhưng nó là cái mà ta phải lắng nghe, bởi vì nó phát cái ngôn chính thức của ban lãnh đạo Ðảng.
Khốn nạn, những người đứng đầu một đất nước có bốn ngàn năm lịch sử mà nghĩ như thế đấy, mà tuyên bố bằng giấy trắng mực đen như thế đấy ! Cứ như thể họ đang hoa chân múa tay ở Châu Quỳ(1) chứ không phải đang ngự trong những dinh thự đủ tiện nghi hiện đại giữa đất Thăng Long ngàn năm văn vật.
Ôi chao, mấy ngài là cái gì mà ghê gớm vậy ? Mà thiêng liêng vậy ? Ðến mức không phải dân đen con đỏ mà chính những đảng viên bầu ra mấy ngài cũng không có quyền, không được phép nghĩ đến sự thay thế các ngài bằng người khác ? Trong khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa quyền bầu thì có, quyền bãi miễn thì không, biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Nhưng không có quyền là một chuyện. Ðây lại là có tội kia. Thế nào là phá hoại Hội nghị Trung ương ? Bắn đại bác vào nơi Trung ương đang họp chăng ? Hay đặt mìn ?
Hoàn toàn không có chuyện như vậy. Thậm chí nếu đa số ủy viên Trung ương đề nghị một Ðại Hội bất thường để bầu ra một Trung ương mới, là việc không lạ ở các đảng phái khác, thì ở đây người ta đã tri hô lên rằng có âm mưu lật đổ.
Cứ cho rằng Hoàng Minh Chính đã có những ý nghĩ phản loạn đi, thậm chí đã có một kế hoạch lật đổ được tìm thấy trong chuồng xí nhà ông ta đi. Thử hỏi ở nơi nào trên trái đất này, trong thời đại này, những người tự xưng là văn minh lại dám ngang nhiên xử tội con người dựa trên những ý nghĩ của họ, nhất là khi họ đang nằm trong tay cơ quan công an, hoặc dựa trên lời khai của người khác về họ, mà người khác này cũng đang ở trong trại giam nốt ?
Cách luận tội như vậy chỉ có được trong một xã hội mông muội mà thôi.
Tôi, với tư cách tù nhân trong cái gọi là vụ án "nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng", thế tất tôi phải là người thuộc nhóm đó, là điều rõ ràng như hai với hai là bốn. Vậy mà tôi phải ở tù chín năm và chờ thêm mười tám năm nữa mới được Ðảng cho biết nhóm đó chủ trương cái gì (!). Vui thật !
Buồn cười nữa là cả hai vị tổng bí thư kế tiếp nhau - Nguyễn Văn Linh và Ðỗ Mười - không ai bảo ai đều cùng khăng khăng một mực khẳng định rằng Ðảng vô cùng sáng suốt của các vị không sai một li ông cụ nào trong việc giải quyết vụ "nhóm xét lại chống Ðảng".
Có lẽ trí nhớ của người già không được tốt cho lắm, cho nên cả hai vị đều quên những gì xảy ra tiếp theo, khi những người tù được thả, khi vụ án coi như được khép lại.
Tôi kể lại cho các vị nghe nhá ? Rồi sau đó các vị cứ cho quân đi thẩm tra xem có đúng vậy không, tôi bịa chuyện hay sự thật đúng là như thế ?
Khoảng đầu thập niên 80 Lê Ðức Thọ, bậc tiền bối của hai vị, đã lặng lẽ cho quân đến gặp từng người trong vụ án. Hoàng Minh Chính, Lưu Ðộng, Lê Trọng Nghĩa, Trần Thư, Hoàng Thế Dũng...đều được Ðảng của Thọ (chứ không phải Nhà nước) quyết định cho lĩnh một thứ lương không ra lương, trợ cấp không ra trợ cấp, gần giống như lương hưu, trừ anh Phan Thế Vấn và tôi đã từ chối không nhận như đã nói ở trên.
Cha tôi cũng được Thọ mời đến nhà. Không hiểu hai người trò chuyện những gì trong bữa cơm tối chắc chắn không ngon lành, trở về cha tôi nói :"Thằng Thọ nói thối lắm, không ngửi được. Nhưng thôi, nó đã biết lỗi, thì mình cũng không nên chấp nhặt". Thọ lại mời mẹ tôi tới. Thọ nói muốn khôi phục mọi quyền lợi cho cha tôi. Mẹ tôi không nhận :"Anh làm thế tôi còn mặt mũi nào nhìn những anh em bị oan ức khác. Không, nếu anh thực lòng muốn giải quyết thì phải giải quyết cho tất cả mọi người."
Năm 1985 Thọ tới gặp ông Ung Văn Khiêm tại Sài Gòn. Ông Khiêm kể :"Nó tới, tao đang tắm cho heo. Bác gái báo tin, tao biểu cứ để cho nó đợi, con heo quan trọng hơn. Tắm heo xong, tao lên nhà, nó vẫn ngồi đó. Anh Ba, nó nói, Bộ Chính trị muốn mời anh trở lại gánh vác việc nước". Tao biểu nó :"Nếu đất nước lại lâm nguy, chẳng cần ai kêu Ba Khiêm nầy cũng chống gậy tới xin Nhà nước một việc vừa sức mình cùng bà con đánh giặc. Còn bây giờ đất nước thanh bình, mình già rồi, nghỉ đi cho con cháu làm, kẻo chúng nó chửi mấy thằng già mắc dịch, già hổng trót đời, còn tham quyền cố vị". Thọ đỏ mặt cáo từ.
Ông Ba Khiêm bằng lòng trở lại Ðảng. Theo thủ tục, ông phải làm lại lý lịch. Ông đọc cho cô thư ký được người ta cử tới ghi :"Chiến đấu liên tục vì sự nghiệp giải phóng dân tộc từ 1930 với tư cách người cộng sản. Bị Ðảng khai trừ năm 1968..." Mấy tay cán bộ tổ chức Ðảng đọc bản lý lịch, tá hỏa đòi ông bỏ đoạn đó đi cho thì ông đáp :"Thằng Ba Khiêm nầy trước nay sống quang minh chánh đại, chưa dối Ðảng một lần, đây là việc Ðảng làm, là việc có thiệt hẳn hoi, mà lại biểu Ba Khiêm nói hổng có, là cớ làm sao ?".
Thời thế đã khác. Kể từ ngày Hồng quân Trung Hoa theo lệnh Ðặng Tiểu Bình vượt biên giới sang đất ta để dạy "cho Việt Nam một bài học" ngành truyền thông Việt Nam quay ngoắt 180o chửi bới chủ nghĩa Mao và những nhà lãnh đạo Trung Quốc sau Mao hết lời. Tôi còn nhớ cảm giác khi được đọc cuốn Chủ Nghĩa Mao Không Có Mao của Nhà xuất bản Thông tin Lý Luận năm 1982. Tôi rùng mình trước sự tráo trở. Cứ như trước đây họ chưa từng nuốt chửng từng lời của Bác Mao vĩ đại !
Lê Ðức Thọ ân hận với việc làm tàn nhẫn lúc trước, hoặc hiểu rằng mình đã đi quá xa trong sự vi phạm luật pháp mà có biện pháp giải quyết như trên, cũng là điều không ai biết. Chỉ biết rằng ở Việt Nam chẳng có cơ sở pháp lý nào để trả lương hưu cho những tội phạm đã nhiều năm không làm việc. Chính quyền làm cách nào để hợp pháp hóa khoản tiền ấy cũng không ai biết, là chuyện tù mù.
Nhưng thôi, ta hãy quay lại với những ngày cuối năm 1967.
Viết xong bản báo cáo về Nguyễn Lương Bằng, tôi mệt thừ.
Tôi phải cố gắng vượt qua mình, vượt qua cảm giác nhục nhã. Sau, tôi xót xa thương nhà cách mạng Sao Ðỏ, bác Cả Hà Ðông của tôi.
Huỳnh Ngự hài lòng ra mặt. Nếu tôi đã chịu viết báo cáo về Nguyễn Lương Bằng, có nghĩa tôi sẽ chịu viết về những người khác.
Một điều nữa làm tôi thắc mắc là không hiểu sao ông Nguyễn Lương Bằng hiền lành là thế mà cũng bị chúng để ý ? Chắc chắn ông không phải là người chống lại chúng, kể cả khi chúng lộng hành, vượt qua phép nước. Phải có một lý do nào chứ ?
Tôi nhớ rất lâu câu chuyện ông kể cho chúng tôi, những đứa cháu bé bỏng của ông, về lần đầu ông qua Thượng Hải : "Bác mới từ trong nhà vệ sinh công cộng ở ngoài phố bước ra thì thấy có một cô lật đật chạy đến tươi cười chìa cho bác cái khăn tay thơm phức. Bụng bảo dạ : sao mà ở đây người ta lịch sự thế không biết ! Hóa ra không phải. Bác vừa cảm ơn, định bỏ đi thì cô ta níu chặt lại, nói líu lô một tràng. Bác không biết tiếng Tàu, không hiểu cô ta nói gì, cô ta xí xộ hồi nữa rồi lấy tay chỉ vào túi bác. Thì ra người ta chực ở chuồng xí đưa khăn cho mình lau tay là để kiếm tiền, các cháu ạ. Bác lúng túng, chẳng biết đưa bao nhiêu cho phải, thôi thì đưa tuốt cho cô ta số tiền bác dành ăn bữa trưa. Tiếc đứt ruột !". "Thế rồi bác nhịn bữa trưa à ?", chúng tôi hỏi. "Thì nhịn vậy chứ sao ?! Bác chưa tìm thấy người của mình, lúc ấy phải dè xẻn từng xèng(2), các cháu ạ".
Thời gian ở lại nhà tôi sau cuộc vượt ngục Sơn La, ông cư xử với lũ trẻ chúng tôi như một ông bác thật sự. Lúc mới về đến Hà Nội, gày rộc và xanh lướt, ông còn chịu ăn những món riêng mẹ tôi nấu cho để bồi bổ sức khỏe, sau đó ông nhất định không ăn nữa, "để cho các cháu, tôi khỏe chán", ông nói. Trong bữa ăn ông ý tứ nhường cho chúng tôi món chúng tôi thích, mẹ tôi giục ông ăn ông chỉ cười xòa, chứ không đụng đũa. Lúc nào rỗi rãi ông lại bày trò cho chúng tôi chơi, kể chuyện cổ tích cho chúng tôi nghe. Trò của ông không hay và đơn điệu, chuyện của ông phần lớn chúng tôi đã được nghe, nhưng chúng tôi thích quanh quẩn bên ông bởi vì chúng tôi cảm được tình yêu của ông dành cho chúng tôi. Ngược lại, ông cũng được chúng tôi yêu mến. Hồi đó, tuy nhiều tuổi hơn cha tôi, ông vẫn độc thân.
Nguyễn Lương Bằng là người khiêm nhường. Ông không nổi bật trong đám đông, không phải chỉ hồi đó mà cả sau này, khi ông đã giữ những chức vụ quan trọng trong Nhà nước. Tính ông thế. Trong những cuộc họp Ðảng tại nhà tôi Nguyễn Lương Bằng ngồi nép trong một góc với nụ cười rất hiền, như thể ông bẽn lẽn, trong khi các đồng chí của ông nói nhiều và hùng hồn, nhất là ông Hạ Bá Cang. Vì tôi là đứa trẻ cho nên người lớn không ngó ngàng gì đến tôi, tôi học bài bên cạnh họ khi họ họp và tha hồ quan sát. Hạ Bá Cang là đối cực của Nguyễn Lương Bằng. Lùn tịt, hói đầu, ông không ngồi mà đứng tựa vào lò sưởi, chân nọ vắt qua chân kia, thỉnh thoảng mới phát biểu, đã nói thì nói dài, nói dai, không cho ai xen vào. Hạ Bá Cang khôn lắm, ông thường chờ cho mọi người nói xong mới nói, gay gắt sửa lại ý kiến của họ. Hạ Bá Cang thích vượt lên trên người khác, không cho phép ai cãi lại. Ông muốn mình phải là con công trong đàn gà. Nguyễn Lương Bằng không thế, ông sẵn sàng làm gà, miễn không phải tham gia tranh luận. Ông không thích lý thuyết. Nó không hợp với tạng ông. Nó quá sức ông. Nhưng đó là điều sau này tôi mới hiểu.
Những năm đầu kháng chiến chống Pháp Nguyễn Lương Bằng làm giám đốc Công ty Bắc Thắng ở Tuyên Quang. Ông làm công tác kinh tài cho Ðảng từ hồi bí mật. Cha mẹ tôi là hai người cộng sự.
Bề ngoài Công ty Bắc Thắng chuyên sản xuất lương khô cho bộ đội. Những cái bánh nướng hình khối chữ nhật nhỏ hơn bìa đậu phụ một chút bằng bột đậu xanh trộn bột gạo có pha đường ăn rất ngon. Bề trong, công ty lo toan mọi khoản chi tiêu cho chính phủ kháng chiến. Công ty mua gom thuốc phiện ở các vùng Tây Bắc, Việt Bắc, rồi bán qua Thái Lan lấy tiền mua súng đạn cho bộ đội. Chính phủ vừa mới tuyên bố xá mọi thứ thuế, lại không có nguồn thu này khác cho nên việc buôn ma túy trở thành nguồn thu nhập chính. Tôi lấy làm ngạc nhiên khi chẳng thấy một ai nói tới hoạt động này trong những hồi ký cách mạng và kháng chiến.
Lao vào hoạt động kinh tế, Nguyễn Lương Bằng chìm đắm trong đó, chẳng được biết đến, không có tên tuổi trong nhân dân xứng với vị trí và uy tín của ông với tư cách một nhà lãnh đạo.
Nhưng người Pháp không quên ông. Mùa hè năm 1947 địch lần ra dấu vết những hoạt động của Nguyễn Lương Bằng. Bốn máy bay Spitfire quần đảo bên trên kho thuốc phiện của ông ở cây số 7 đường Tuyên-Hà, bắn "đui-xết" (12,7 ly) không ngừng cho tới khi cái kho cháy trụi. Vụ thiệt hại rất lớn - hơn bốn tấn thuốc phiện biến thành khói. Ông gày rộc đi sau trận oanh kích bất ngờ. Hôm đó tôi ở gần cái kho bị cháy. Mùi thuốc phiện cháy gây gây, ngầy ngậy lan đi rất xa. Ông Nguyễn Lương Bằng đi chân đất bụi phủ bạc phớ lủi thủi trên con đường hàng tỉnh, mặt bệch như xác chết.
Sau năm 1947 tôi không gặp ông trong một thời gian dài.
Gặp lại ông vào tháng 10 năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, chính phủ kháng chiến trở về thủ đô giải phóng, tôi ngỡ ngàng. Trông ông khác hẳn ông Nguyễn Lương Bằng ngày trước. Trong bộ đồ Tôn Trung Sơn bằng kaki Mỹ, chễm chệ trong chiếc Pobeda sang trọng, ông đến thăm mẹ tôi và lũ cháu của ông. Mặt phương phi, tiếng sang sảng, ông vui vẻ hàn huyên với mẹ tôi về những ngày gian khổ đã qua.
Tôi còn gặp ông nhiều lần khi ông làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên Xô. Thỉnh thoảng, khi nào được nghỉ học tôi lại ghé thăm ông. Là người quen hoạt động, vai đại sứ ngồi một chỗ với những bữa tiệc khoản đãi liên miên làm ông chán ngán. Trong bộ pi-gia-ma nhàu nát ông ngồi ủ rũ trong phòng ngủ, bên chồng bản tin tiếng Việt, không bước chân ra ngoài. Một hôm ông giữ tôi lại ăn cơm. Bữa ăn chỉ có hai bác cháu. Nguyễn Lương Bằng uể oải nhai từng miếng. Ðột nhiên, ông đăm chiêu bảo tôi :"Cháu nhớ lấy điều này để sau biết cách mà sống : đàn bà, cháu ạ, một người thì đoàn kết, hai người thì chia rẽ. Ðừng bao giờ tin có hai người đàn bà ở chung mà lại thương yêu nhau". Tôi ngạc nhiên. Ông nói với tôi chuyện ấy để làm gì. Hóa ra trong đại sứ quán vừa có vụ cãi lộn - một bên là bà đại sứ, một bên là cô văn thư hay quản lý chi đó.
Mặc dầu đã về hưu cha tôi thỉnh thoảng vẫn đến chơi với ông. Những cuộc gặp gỡ càng về sau càng thưa dần. Từ nhà ông về, cha tôi buồn thiu. Tôi đoán hai người không có sự nhất trí trong nhiều vấn đề, đặc biệt là những vấn đề thời sự về đường lối trong phong trào cộng sản. Khi các bạn hỏi ông về quan điểm của Sao Ðỏ thì ông chỉ cười xòa rồi lảng qua chuyện khác.
Cha tôi không hiểu Nguyễn Lương Bằng. Ông vốn yêu bạn. Do yêu bạn, ông kỳ vọng ở bạn quá nhiều. Lẽ ra cha tôi phải biết Nguyễn Lương Bằng là người thế nào. Ông Bằng chưa bao giờ quan tâm tới lý thuyết, cho dù là lý thuyết cách mạng. Tính tình quá lành, ông không thích hợp với bất kỳ cuộc đấu tranh nội bộ nào. Việc ông lúng túng trong cuộc xung đột giữa hai người đàn bà là một thí dụ.
Huỳnh Ngự vắt chân chữ ngũ đọc báo cáo của tôi về Nguyễn Lương Bằng, thỉnh thoảng gật gù cái đầu. Tôi biết, nội dung bản báo cáo không thể làm y hài lòng, y chỉ mới hài lòng về sự thuần phục của tôi thôi.
- Anh uống trà đi kẻo nguội.
Y mời tôi. Chúng tôi cùng uống. Trà nóng hổi, ngát hương.
Nhưng tôi chẳng có tâm địa nào để thưởng trà. Tôi nhìn Huỳnh Ngự đọc bản báo cáo tôi vừa hoàn thành, cố đoán thái độ của y. Nhưng mặt y là cuốn sách viết bằng thứ ngoại ngữ tôi không biết. Có lúc tôi đã nghĩ y muốn thử gân tôi, xem tôi chịu y tới mức nào.
Nhưng xem ra không phải. Y hỏi nghiêm túc. Ðúng là Nguyễn Lương Bằng bị nghi ngờ thật. Hẳn bề trên Huỳnh Ngự hẳn cho rằng cha tôi và Nguyễn Lương Bằng thân nhau, thì có thể moi ở tôi những điều bí mật giữa hai người. Cha tôi không nói, nhưng do khờ dại tôi sẽ nói.
Trong báo cáo tôi miêu tả một Nguyễn Lương Bằng tận tụy với dân với nước, rất mực liêm khiết. Ðó là sự thật. Tôi không nói tới một Nguyễn Lương Bằng ngày càng hồng hào và đẫy đà, quay mặt đi trước cuộc sống. Có lần tôi kể cho ông nghe về đời sống lầm than của dân chúng ở những vùng tôi đi qua, ông tỏ vẻ không tin. Tôi rủ ông :"Bác cải trang rồi vi hành đi cùng cháu, như ngày trước bác cháu mình vẫn đi cùng nhau ấy, cháu sẽ chở bác đi bằng xe máy, cháu đi xe máy thạo, cháu không làm ngã bác đâu, bác sẽ xem xét cuộc sống của đồng bào bây giờ ra sao rồi tự rút ra kết luận". Ông nghe, cười trừ.
Tôi cũng không nói tới nhận xét của các đồng chí cách mạng cao niên về tính dao động, lưỡng lự giữa các quan điểm đối lập, không dám quyết đoán khi cấp trên chưa ra lệnh ở ông. Nói nhược điểm của ông ra cho công an biết để chúng lợi dụng hay sao ?
Một bản báo cáo như thế chẳng có giá trị gì. Nó như vị hoài sơn trong thang thuốc bắc, tính lành, không công cũng không phạt.
Nhờ những cuộc hỏi cung tôi hiểu ra rằng trong cái tranh tối tranh sáng của tình hình từ lâu vốn không rõ ràng giữa lợi ích của cách mạng và quyền sống của con người, giữa cái buộc phải tạm thời hy sinh cho thắng lợi cuối cùng với cái bị chà đạp đã có những cái vòi bạch tuộc nhầy nhụa mò mẫm kiếm chác.
Mặc dầu đã nắm trọn quyền hành trong tay, liên minh Duẩn-Thọ trong giai đoạn này chưa đủ tự tin để muốn làm gì thì làm. Riêng đối với Nguyễn Lương Bằng, họ vẫn còn chút e dè. Dù sao ông cũng là người nổi tiếng chính trực, liêm khiết, lại đang cầm thanh kiếm bảo vệ sự trong sạch của Ðảng. Tôi đoán họ sợ ông sẽ nhân danh chức trách của mình mà xông vào đòi thanh tra vụ án, đòi đưa vụ án ra trước Ban chấp hành Trung ương và chuyện sẽ thành rùm beng. Phải chăng việc bắt tôi phải khai về Nguyễn Lương Bằng để lộ ra nỗi lo ngại ấy ?
Nếu nghĩ như vậy thì họ lầm to.
Họ không hiểu Nguyễn Lương Bằng. Như một nghịch lý, nhà cách mạng kiên cường Sao Ðỏ lại không phải là người đáng ngại đối với bất kỳ ai. Tại sao lại như vậy, tôi không hiểu, nhiều người không hiểu. Ông sợ đấu tranh sẽ dẫn tới mất đoàn kết ? Hay ông sợ cái gì khác ? Chỉ biết rằng trong Cải cách ruộng đất, khi những người từng có liên hệ với ông để ủng hộ cách mạng bị đấu tố, bị bắn giết, bị bức tử, bị cầm tù, ông biết cả đấy, ông nhìn thấy cả đấy, ông linh cảm thấy Ðảng sai đấy, nhưng ông chỉ dám thổ lộ với cha tôi, thế thôi, chứ không hơn. Lẽ ra phải lớn tiếng phản đối, chí ít thì cũng phải can ngăn những kẻ lộng hành thì ông lại im lặng, không dám động ngón tay út để cứu người vô tội. Mà ông sợ cái gì kia chứ ? Trường Chinh tuy không trọng ông về học thức nhưng rất nể ông vì quá trình hoạt động và uy tín cách mạng.
Tâm sự với ông Lê Giản, cha tôi nhận xét người tù Nguyễn Lương Bằng có thừa dũng khí đấu tranh với Coussot, nhưng lúc cần đứng về phía lẽ phải để bảo vệ nhân dân thì ông quan lớn Nguyễn Lương Bằng lại trùm chăn, chẳng dám hé răng. Mà tiếng nói của Nguyễn Lương Bằng là tiếng nói có trọng lượng, được những người lãnh đạo lắng nghe. Nghe cha tôi than phiền, Lê Giản cười buồn bã. Từ lâu, Lê Giản nói, ông đã biết Nguyễn Lương Bằng là người thế nào. Nguyễn Lương Bằng đọa ra thế, theo ông, là do trình độ hiểu biết kém, đã lười suy nghĩ lại quá ỷ lại vào Hồ Chí Minh. Trong khi Hồ Chí Minh chưa có ý kiến, Nguyễn Lương Bằng chui vào cái vỏ ốc ý thức tổ chức để trốn tránh trách nhiệm cá nhân, trốn tránh lương tâm.
Tôi cũng không trông đợi nhiều ở Nguyễn Lương Bằng. Tôi nghĩ ông không phải là người vì tình bạn thân thiết với cha tôi, với các bạn tù Sơn La cũ, vì những kỷ niệm đã trôi tít mù xa vào quá khứ mà dám đối mặt với Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ. Tôi biết, trong thâm tâm, ông tin chắc các đồng chí của ông không phản bội cách mạng. Nhưng bị Lê Ðức Thọ xuyên tạc, ông nghĩ họ sai về quan điểm đối với cuộc đấu tranh giữa hai đường lối mà Ðảng đã có nghị quyết, cho nên mới bị coi là phản cách mạng. Bây giờ không cứ theo Tây mới là phản cách mạng. Bây giờ cứ không đồng ý với Trung ương đã là phản cách mạng rồi. Nếu không phải là phản cách mạng thì sao Bác lại đồng ý để cho bắt ? Có nghĩa các đồng chí ấy bị bắt là phải. Lập luận ấy tiện lợi cho ông. Nó bẻ hết răng cái lương tâm vốn đã móm mém.
Ông cũng không có tham vọng làm Bao Công. Ðể làm Bao Công phải có cả khí phách lẫn uyên bác. Nguyễn Lương Bằng không có cả hai. Chao ôi, trải qua bao nhiêu gian truân khổ ải làm cách mạng để rồi phải sống run rẩy trước những đồng chí hôm qua, để bị những đồng chí hỉ mũi chưa sạch khinh rẻ - thân phận nhà cách mạng Sao Ðỏ mới thảm hại làm sao, mới đáng thương làm sao !
Tiếp theo báo cáo về Nguyễn Lương Bằng, Huỳnh Ngự mới bắt tôi viết tiếp những báo cáo khác về Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang, Trần Minh Việt...mà theo tôi, lẽ ra y phải bắt tôi viết từ lâu trước đó. Tôi viết lăng nhăng những báo cáo nhạt nhẽo, chỉ để chứng tỏ tôi không bướng, bảo tôi viết thì tôi viết. Hơn thế, tôi còn tỏ ra sốt sắng hoàn thành những yêu cầu do Huỳnh Ngự đề ra. Nhưng hiểu biết của tôi có hạn, tôi không thể viết gì hơn những điều tôi biết. Huỳnh Ngự đành chịu.
Tôi không ngạc nhiên nghe Huỳnh Ngự hỏi về Võ Nguyên Giáp :
- Anh Hiên nè, lâu nay anh có gặp đại tướng lần nào không nhỉ ?
- Ðại tướng nào ?
- Còn giả cách ! Ðại tướng của các anh ấy ! Tôi muốn được nghe ít chuyện về đại tướng của các anh.
Y hỏi tôi bằng giọng nhẹ nhàng, như thể chẳng có gì quan trọng, nhân tiện thì hỏi.
Tôi cho rằng Huỳnh Ngự thấy tôi bướng, y hiểu với tôi phải hỏi cung theo cách khác, mềm dẻo, nhẹ nhàng muốn tốt, bởi vì tôi mà khùng lên thì tôi sẽ không nói gì hết, dục tốc bất đạt. Tôi biết trước sau gì y cũng đặt câu hỏi đó ra. Tôi có ý chờ. Biết tôi có quan hệ gần gụi với tướng Ðặng Kim Giang, Huỳnh Ngự không thể không khai thác mối quan hệ đó, chửa biết chừng tôi lại cho họ một cái gì dẫn tới tướng Giáp cũng nên.
Câu hỏi của Huỳnh Ngự đánh động trí tưởng tượng, bắt tôi tìm kiếm, nhớ lại, sắp xếp những sự kiện, phân tích chúng, dựng nên những giả thuyết để cuối cùng có được bức tranh toàn cục hữu lý, với tư cách câu trả lời lô-gích cho những thắc mắc.
Cần phải ngược dòng thời gian về với cuộc kháng chiến chống Pháp để hình dung toàn bộ bối cảnh lịch sử.
Ðêm 19 tháng 12 năm 1946 nước Việt Nam vừa mới tuyên bố độc lập buộc phải bước vào một cuộc chiến đấu không cân sức. Nước Pháp được Ðồng Minh giải phóng chưa kịp hồi sức đã hối hả trở lại với Ðông Dương màu mỡ. Cái gọi là quân đội Ðồng Minh vào Việt Nam giải giáp quân Nhật bại trận đã không ủng hộ chính quyền non trẻ của Việt Nam thì chớ, ngược lại, còn tận tâm giúp đỡ các lực lượng muốn thủ tiêu nó. Quân đội Tưởng Giới-thạch trên miền Bắc giúp Việt Nam Quốc dân đảng. Quân đội Anh-Ấn vào miền Nam Việt Nam mang theo quân Pháp.
Trong hoàn cảnh ấy, Hồ Chí Minh đã đi một nước cờ táo bạo - ký Hiệp định 6.3.1946, thỏa thuận cho các lực lượng viễn chinh Pháp vào thay thế các lực lượng Ðồng Minh. Cần phải thoát khỏi ngay lập tức đám ma đói từ bên Tàu, lực lượng thổ phỉ này bất cứ lúc nào cũng có thể biến thành một trận hồng thủy từ phương Bắc tràn xuống. Lấy bọn xâm lược rành rành đẩy bọn xâm lược giấu mặt ra ngoài, tranh thủ thời gian để bước vào cuộc kháng chiến không thể tránh né.
Những lực lượng chống Việt Minh la ó :"Hồ Chí Minh bán nước ! Hồ Chí Minh là tay sai cho ngoại bang !". Chủ tịch Hồ Chí Minh phải thề trước đồng bào rằng ông không bán nước. Bài toán Hồ Chí Minh giải không phải mọi người đều hiểu. Nước Pháp vừa thoát khỏi cuộc chiếm đóng của Ðức trong Thế chiến còn yếu, còn nghèo, lại ở xa, sẽ là kẻ thù dễ chịu hơn nhiều so với kẻ thù đông đúc ở sát nách.
Bắt đầu những năm gian khổ của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do tuổi trẻ tiến hành. Lớp người làm ra cuộc Cách mạng Tháng Tám lúc bấy giờ chỉ ở độ tuổi trung bình 20-30. Người lãnh đạo cao niên nhất của Cách mạng khi bước vào kháng chiến chống Pháp mới có 56 tuổi, đã được tôn vinh là Cha già Dân tộc.
Ðó là thời gian tràn đầy chất lãng mạn tuyệt vời chỉ có được trong những cuộc cách mạng đúng nghĩa cách mạng. Người ta sẵn sàng bỏ nhà cửa, bỏ vợ con, bỏ tất cả để đi theo tiếng gọi cứu nước.
Trong những năm gian khổ của cuộc vật lộn sống chết với kẻ thù không hề xảy ra chuyện sát phạt lẫn nhau trong hàng ngũ những người lãnh đạo. Của đáng tội, có hồi người ta cũng xì xào về cái chết của trung tướng Nguyễn Bình. Ông bị bắn chết trên đường ra Việt Bắc họp, trong một trận phục kích của quân đội Pháp, vào năm 1951. Ðồn rằng những người không ưa ông (trong đó có bí thư miền Lê Duẩn) buộc ông ra Việt Bắc để dự một cuộc họp thực ra không cần tới ông, rồi kín đáo mách bảo lộ trình của ông cho địch. Không một cứ liệu, không một nhân chứng nào khẳng định vụ này(3). Tại căn cứ địa Việt Bắc, trong các cơ quan đầu não của kháng chiến ngự trị một không khí đoàn kết và thân tình, nhân tố không thể thiếu được để chiến thắng.
Sau khi Hà Nội được giải phóng, các cơ quan Ðảng và nhà nước từ rừng thẳm Việt Bắc đã trở về đóng tại thủ đô tràn ngập ánh điện thì bóng đen của những mưu mô cung đình mới bắt đầu chập chờn trên những dinh thự kín cổng cao tường.
Mọi sự bắt đầu kể từ khi cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh bị mất uy tín trước con mắt ngưỡng mộ của quần chúng cách mạng. Thất bại của Cải cách ruộng đất, như một đòn số mệnh, bất thình lình giáng xuống đầu hai lãnh tụ của cuộc kháng chiến vừa thắng lợi.
Vào thời kỳ này, có tin đồn rằng đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ giữ chức tổng bí thư thay cho Trường Chinh, rằng nay mai ông sẽ được phong nguyên soái.
Trong hàng ngũ lãnh đạo Võ Nguyên Giáp nổi bật lên như một nhân vật tài ba và sạch sẽ, chưa từng vướng vào những khuyết điểm có mùi máu. Vì những đặc điểm đó mà chính ông chứ không phải ai khác được Trung ương Ðảng cử ra tạ tội trước đồng bào ở sân vận động Hàng Ðẫy sau sai lầm trong Cải cách ruộng đất.
Võ Nguyên Giáp gặp may. Không rõ có phải Hồ Chí Minh và Trường Chinh tính trước không cho quân đội được hưởng thêm một vinh quang nữa sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ hay không, nhưng sau khi hòa bình lập lại (năm 1954) nó không được tham gia vào cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất, hứa hẹn đem lại một Ðiện Biên phủ dưới ruộng(4). Nhờ đó mà quân đội không phải chịu chung với Ðảng những lời nguyền rủa.
Tin đồn lịm dần, sau đó tắt ngấm. Ðùng một cái, không phải Võ Nguyên Giáp mà Lê Duẩn, một tên tuổi gần như không được nhân dân biết đến trên miền Bắc, được bầu vào chức vụ tổng bí thư thay Trường Chinh. Võ Nguyên Giáp cũng chẳng được phong hàm nguyên soái. Ðại tướng ngày càng ít xuất hiện trước công chúng. Còn hơn thế, thay vào sự hiện diện của Võ Nguyên Giáp là một đại tướng mới toanh, chưa hề được quân đội tôn trọng là đại tướng Nguyễn Chí Thanh.
Võ Nguyên Giáp bị thất sủng.
Tin đồn lan nhanh trong quân đội và nhân dân. Nguyên nhân thất sủng là cái gì thì trong một thời gian dài chẳng ai biết. Mãi về sau, cũng theo những nguồn tin không chính thức, người ta mới biết rằng ông bị mất tín nhiệm vì cơ quan tổ chức của Ðảng lục được trong thư khố của Pháp một lá đơn của cậu học sinh Võ Nguyên Giáp gửi quan toàn quyền Ðông Dương xin học bổng du học, với những lời lẽ quỵ lụy không thể chấp nhận được đối với người cách mạng. Ban tổ chức Trung ương không cần phân biệt cậu học trò Võ Nguyên Giáp với nhà cách mạng Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp rõ ràng tình nguyện làm tay sai cho thực dân. Ðồn rằng nếu không chiếu cố tới công lao hãn mã của đại tướng từ thời kỳ bí mật, và đặc biệt trong chiến thắng Ðiện Biên Phủ thì tướng Giáp đã bị lột lon và đuổi ngay khỏi Ðảng.
Những người thạo chuyện cung đình nói rằng trong vụ này đã nhìn thấy móng vuốt một nhân vật mới xuất hiện nhưng đã tỏ ra có bản lĩnh cao cường là Lê Ðức Thọ.
Lúc ấy chưa ai nhìn thấy Duẩn và Thọ liên kết với nhau thành cặp bài trùng. Mọi việc Thọ làm đều có sự chỉ đạo của Duẩn.
Dư luận không đồng tình với cách Ðảng đối xử với đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chẳng qua chỉ tại đại tướng Võ Nguyên Giáp quá nổi tiếng, người ta nói thế. Nổi tiếng quá sinh ra ghen ghét. Sau chiến thắng Ðiện Biên và Hiệp định Genècve về Ðông Dương, các phương tiện truyền thông ngày đêm ca ngợi sự lãnh đạo tài ba của Ðảng, Bác và tổng bí thư Trường Chinh. Khốn nỗi để khuếch trương chiến quả không thể không trích báo chí phương Tây, mà báo chí phương Tây thì lại quen trình bày cuộc chiến ở Ðông Dương như một cuộc đấu tay đôi giữa hai ông tướng. Thành thử hình ảnh tướng Giáp cứ lồng lộng trên nền cờ chiến thắng, che lấp cả Ðảng lẫn Bác, lẫn Anh Cả Trường Chinh. Có thể nói rằng các đài phát thanh phương Tây đã góp phần làm cho cuộc đời tướng Giáp thêm cay đắng.
Vào khoảng năm 1964, giữa lúc cuộc đấu tranh giữa hai đường lối đang diễn ra quyết liệt thì bỗng ồn lên tin tướng Giáp lén lút liên lạc với Nikita Khrusov, bị Ðảng phát hiện. Tin đồn nói rằng Ban tổ chức Trung ương đã có trong tay bằng chứng : một bức thư của Khrusov gửi tướng Giáp. Cũng theo tin đồn thì hồi ấy Duẩn và Thọ đã định làm to chuyện, đưa vấn đề ra trước Trung ương, nhưng ông Hồ gạt đi, nói tướng Giáp báo cáo với ông chuyện Khrusov gửi thư rồi. Việc mới yên. Rồi lại có tin tướng Giáp vẫn bí mật liên lạc với đại tá Lê Vinh Quốc, nguyên phó chính ủy sư đoàn thép 308, người được coi là cánh tay phải của ông, đã xin cư trú chính trị tại Liên Xô(5).
Cái chính là ban lãnh đạo mới không ưa Võ Nguyên Giáp. Không ưa thì dưa có ròi.
Như mọi người lính trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, cảm tình của tôi ở về phía vị tướng gắn bó với quân đội từ ngày nó được thành lập trong rừng già Việt Bắc.
Dường như có liên quan với tướng Giáp, một loạt cán bộ cao cấp trong quân đội cũng bị bắt. Anh Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục 2 (Cục tình báo quân đội) kể rằng họ mời anh đi họp rồi đưa thẳng đến trại giam. Trung tá Trần Thư bị bắt ngay tại tòa soạn báo Quân đội Nhân dân. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, trưởng Ban Thống nhất Trung ương, tuy không bị bắt, nhưng vì có quan điểm xét lại, cũng bị treo giò, ngồi chơi xơi nước. Nhiều cán bộ khác bị buộc nghỉ việc để hàng ngày tới nơi thẩm vấn. Tất cả, như sau này tôi mới biết, đều phải trả lời những câu hỏi về tướng Giáp. Nổi bật lên như một người hùng trong chiến dịch chống xét lại là đại tá Kinh Chi, được cán bộ quân đội mệnh danh là con béc-giê nòi của Thọ.
Cần phải chặn đứng làn sóng đòi tự do dân chủ trước khi quá muộn.
Ngòi nổ của biến cố, nếu không vững tay để nó xảy ra, nằm trong tầng lớp trí thức. Ðảng biết rằng đánh thẳng vào trí thức là khó. Khốn nỗi, không đánh không được. Không đánh thì chiều hướng dân chủ sẽ lấn tới. Vấn đề đặt ra là đánh như thế nào mà thôi.
Trong bối cảnh những sự việc như thế câu hỏi về tướng Giáp là điều dễ hiểu.
Tôi bình thản đáp :
- Ông Giáp không tới nhà tôi lần nào kể từ khi hòa bình lập lại. Không cần hỏi cơ quan an ninh cũng thừa biết ông Giáp có tới hay không.
Hỏi tôi về tướng Giáp là thậm vô lý. Tôi có thể trả lời được gì khi gặp ông lần đầu tôi còn là đứa trẻ, còn mấy lần sau là người lính ở cấp bậc gần cuối cùng ?
Khốn nỗi, số phận oái oăm lại cứ thích bắt tôi phải làm nhân chứng cho những sự kiện kia, và câu hỏi của Huỳnh Ngự cho tôi biết mặt sau cuộc trấn áp những người cộng sản là cái gì.
- Chuyện thời kháng chiến ta bỏ qua. - Huỳnh Ngự nói - Mấy năm gần đây chẳng có lẽ anh không gặp Võ Nguyên Giáp lần nào ? Bữa đại tướng của các anh rẽ vào thăm Lê Liêm hình như anh cũng ở đó mà ?
Huỳnh Ngự còn chưa gọi Võ Nguyên Giáp hoặc Lê Liêm bằng thằng, tôi nhận xét.
Cái vòng nghi ngờ lan rộng hơn tôi tưởng. Không biết còn bao nhiêu người bị nó thâu tóm vào trong ?
Tôi lắc đầu, chán ngán :
- Tôi nhắc lại : tôi không gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp lần nào kể từ khi về Hà Nội.
- Tui có khẳng định mô, tui chỉ hỏi thôi. Có anh bảo có, không anh bảo không. Miềng làm việc với nhau phải hiểu nhau, thường khi chuyện vãn như vầy mà ra vấn đề đó. Chẳng hạn, về đại tướng của các anh, trên cũng không có ý hỏi anh về ổng, anh thì biết gì về ổng, mà muốn anh báo cáo những chuyện chung quanh ổng, thậm chí những chuyện không liên quan trực tiếp tới ổng, chuyện người khác kìa, chỉ cần có dính dáng tới ổng là được ...
Tôi im lặng.
- Chẳng hạn, anh nghe thấy người ta nói chi về ổng, ở nhà anh, khách tới thăm ông già nói chuyện ... Chuyện đại tướng là chuyện thời sự mà.
Tôi thì có thể báo cáo gì về đại tướng Võ Nguyên Giáp ?
Từ khi có sự rạn nứt trong phong trào cộng sản quốc tế, Võ Nguyên Giáp bị liên minh Duẩn-Thọ lặng lẽ liệt vào loại pro-soviétique(6). Tại nhiều cuộc nói chuyện với cán bộ Lê Duẩn không bỏ lỡ dịp tốt nào không công kích "quan điểm xét lại của một số đồng chí sa sút lập trường, sợ đụng đầu với bọn đế quốc quốc tế, làm nô lệ cho vũ khí luận, quên mất rằng yếu tố quyết định chiến tranh là sức mạnh chính nghĩa, là sức mạnh nhân dân".
Ðó là sự vu khống. Mà là vu khống trắng trợn. Hơn ai hết, tướng Giáp hiểu tác dụng của du kích chiến mà ông là người trực tiếp chỉ huy trên một địa bàn rộng lớn. Cũng hơn ai hết ông biết đánh giá vai trò người lính trong chiến tranh. Nhìn quang cảnh chiến trường, tướng Giáp nói với tướng Giang vào ngày De Castries đầu hàng : " Xem kìa, bộ đội ta mới anh dũng làm sao ! Họ đã chịu đựng biết bao nhiêu gian khổ để có chiến thắng này. Kẻ chiến thắng trên chiến trường, anh Giang ơi, bao giờ cũng là người lính".
Cái gọi là quan điểm xét lại là nhãn hiệu thông dụng. Nó được gán cho bất kỳ ai có ý kiến ngược với ban lãnh đạo Ðảng. Sau nó còn được mở rộng ra tới những người bướng bỉnh, dám cãi lại cấp trên. Con người được gọt hết gai góc, được sửa lại cho tròn như một hòn bi, giống hệt những hòn bi khác.
Nguyễn Chí Thanh cũng gay gắt lên án những quan điểm sai lầm về chiến tranh của bọn xét lại. Mặc dầu không chỉ đích danh, người nghe hiểu ông tướng muốn chỉ ai. Nguyễn Chí Thanh chưa hài lòng với vị trí người lãnh đạo tối cao của quân đội do tướng Giáp xây dựng. Trong khi tướng Giáp chỉ còn là một đại tướng làm vì, ngồi chơi xơi nước. Nguyễn Chí Thanh ghen tức với uy tín mà tướng Giáp có trong lòng mỗi người lính, là cái chẳng bao giờ ông ta có được.
Tôi gặp Nguyễn Chí Thanh lần đầu, giữa một cử tọa khép nép, tại nhà riêng ông Ngô Ðức Mậu, chủ nhiệm báo ảnh Việt Nam. Tôi ngồi trong một góc nhìn viên đại tướng ngồi dãi thải trong ghế bành mây, mắt vè vè nhìn mọi người, như thể trước mặt ông là một lũ vô loài. Nguyễn Chí Thanh viết. Nghe thiên hạ đồn nhiều về tài hùng biện của Nguyễn Chí Thanh, tôi chăm chú nghe ông ta nói. Nguyễn Chí Thanh không nói mà giảng. Ông thường đưa ra một định đề chắc nịch, sau đó mới triển khai nó, chứng minh tính đúng đắn của nó, bằng lời lẽ bình dân pha những tiếng đệm còn bình dân hơn. Thời gian này các cơ quan đang phải học tài liệu "Chống chủ nghĩa cá nhân" do Nguyễn Chí Thanh viết. Trong tài liệu này Nguyễn Chí Thanh phán bảo mọi người phải xóa bằng sạch cá nhân mình trong tập thể, rằng con người cá nhân là đáng ghét, nó không là cái gì trước tập thể lớn lao. Những cuộc gặp gỡ tiếp theo với Nguyễn Chí Thanh để lại trong tôi ấn tượng ngược lại những lời răn dậy của ông ta - chính Nguyễn Chí Thanh mới là kẻ cá nhân chủ nghĩa cao nhất.
May cho dân tộc ta, viên tướng hãnh tiến qua đời trước khi trở thành một lãnh tụ độc đoán. Trong ông ta, ngoài tham vọng trở thành vĩ nhân còn có những nét tàn bạo của tên quân phiệt. Tuy nhiên, phải nhận rằng Nguyễn Chí Thanh có hấp lực mạnh mẽ đối với bầy nô lệ tự nguyện. Khi Nguyễn Chí Thanh nói, nhiều người nghe đờ đẫn nhìn ông ta như những con chuột bị rắn hổ thôi miên.
Một hôm ông Ngô Ðức Mậu bảo tôi :
- Này, anh Thanh bảo anh đọc đi rồi viết một bài phê phán thằng cha này. Hắn viết bố láo lắm.
Ông đưa cho tôi một cuốn sách mỏng. Ðó là cuốn Vào Ðời của Hà Minh Tuân(7). Tôi mang về nhà, đọc một mạch cuốn tiểu thuyết vừa mới ra lò nhưng đã có nhiều tiếng xì xào trong giới phê bình. Tôi ngạc nhiên. Cuốn sách không lôi cuốn tôi bởi văn chương. Về bút pháp nó kém xa Hai Trận Tuyến và là bước lùi về tay nghề của Hà Minh Tuân. Quả là cuốn Vào Ðời có chạm tới một vài chuyện được gọi là những mặt tiêu cực của xã hội, là cái mà nền văn học quan phương không cho phép nói tới. Sự đụng chạm này cũng chỉ sơ sơ thôi chưa có gì nặng nề so với thực tế mà tôi biết. Chính chỗ yếu này đã làm cho tác phẩm không xứng đáng bị công kích.
Tôi từ chối gợi ý của Nguyễn Chí Thanh viết bài phê bình Hà Minh Tuân.
Tôi quen Hà Minh Tuân, hiểu anh chẳng có ý gì khác ngoài mong muốn viết một cái gì đó cho thực thà, không dối trá. Nhưng anh lại không biết nói bóng gió, anh cứ thẳng ruột ngựa tương ra, cứ bê nguyên xi sự thật vào tác phẩm, thành thử người ta dễ chạm nọc.
Sau thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm là thời kỳ của những cuốn sách xuôi chiều, được viết theo cái mà những môn sinh của A. Jdanov gọi là "đơn đặt hàng của cách mạng". Cuộc khủng bố văn nghệ sĩ năm 1956 đẻ ra sự sợ hãi được nhuộm màu trung thành. Mọi người đều nghiêm khắc và kỹ lưỡng kiểm duyệt tác phẩm của mình trước cả người kiểm duyệt chuyên trách của Ðảng.
Tôi trả Ngô Ðức Mậu cuốn sách, nói rằng nó không phải là cuốn sách hay để phải viết bài phê bình, còn nếu có những điểm không tốt về chính trị thì đó là lỗi của nhà xuất bản, và ông Nguyễn Chí Thanh có thể khiển trách người đã cho nó ra đời. Bệnh sính văn chương là bệnh phổ biến trong các nhà lãnh đạo Việt Nam.
Trong cuộc "đánh" Nhân văn - Giai phẩm, khởi đầu từ việc tống nhà thơ quân đội Trần Dần vào cải hối thất, Nguyễn Chí Thanh, lúc ấy là chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, là người rất hăng hái. Phụ tá cho Nguyễn Chí Thanh là nhà văn Vũ Tú Nam.
Vào hồi ông ta xui tôi đánh cuốn Vào Ðời của Hà Minh Tuân, Nguyễn Chí Thanh không còn làm công tác chính trị trong quân đội, nhưng máu kiểm duyệt vẫn chảy trong huyết quản và ông ta ngứa nghề. Ít lâu sau Nguyễn Chí Thanh tự tay đánh tôi bằng việc phê phán tính người chung chung, chủ nghĩa nhân đạo chung chung, phi giai cấp, cào bằng ranh giới địch ta trong kịch bản phim Ðêm Cuối Cùng, Ngày Ðầu Tiên, tại một hội nghị cán bộ trung cao quân đội.
Nguyên trưởng ty văn hóa Hà Tĩnh, họa sĩ Hoàng Nguyên Kỳ cho tôi biết ông Ngô Ðức Mậu, chủ nhiệm báo ảnh Việt Nam, trước là thầy học của Nguyễn Chí Thanh. Chính Nguyễn Chí Thanh cứu ông Ngô Ðức Mậu khi ông nằm trong trại giam trong Chỉnh đốn tổ chức. Ông kêu ầm lên khi trông thấy Nguyễn Chí Thanh đi ngang: "Anh Thanh ơi, anh Thanh ! Cứu thầy với !"
Chuyện Hoàng Nguyên Kỳ kể thật khó tin. Nó khó tin ở chỗ ông thầy học cũ rất khúm núm trước tên học trò nay là đại tướng. Tôi tin Hoàng Nguyên Kỳ không bịa. Ông thầy khúm núm trước học trò làm quan to không lạ, nhưng ông quan học trò tự nhiên như không trước thái độ quỵ lụy của ông thầy ở một nước có truyền thống tôn sư trọng đạo hàng nghìn năm thì lạ lắm.Viên tướng nông dân, theo lời truyền tụng của những người ngợi ca Ðảng, xuất thân tá điền, trưởng thành trong nhà tù, là xứ ủy viên Trung kỳ vào thời kỳ bí mật, chủ nhiệm Việt Minh Trung bộ những năm tiền khởi nghĩa, đến năm 1948 đã là Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo lời người khác, đáng tin hơn, thì Nguyễn Chí Thanh chẳng hề làm tá điền, cũng không phải thành phần cố nông, mà là một "tay chơi" vùng Phong Ðiền, Thừa Thiên. "Tay chơi" theo cách nói dân dã thời trước Cách mạng Tháng Tám là ăn cướp, nhưng là dạng ăn cướp nghiệp dư, thỉnh thoảng mới họp nhau lại đi kiếm chác rồi giải tán, ai về nhà nấy. Nguyễn Chí Thanh chắc chắn có được học hành chút đỉnh, nếu không sao lại có thầy học ? Là cố nông, lại hoạt động cách mạng liên tục, làm sao Nguyễn Chí Thanh có thời gian để học, dù là tự học, để biết khá rõ về Tôn Tử, Clauzevitz, Napoléon, Lâm Bưu, Jukov..., như lời một chứng nhân có thời gian ở gần ông xác nhận. Trung tá Trần Thư, người cùng vụ với tôi còn kể rằng trình độ tiếng Pháp của Nguyễn Chí Thanh không đến nỗi tồi, ông ta thậm chí còn biết chơi chữ bằng tiếng Pháp.
Sau khi Nguyễn Chí Thanh chết, tên ông ta được đặt cho đường phố, chân dung ông ta được in trên những con tem. Thế rồi bỗng nhiên người ta im lặng hẳn về viên đại tướng lừng danh quá cố và tên tuổi Nguyễn Chí Thanh chìm vào quên lãng.
Chuyện này có nguyên nhân. Số là hai năm trước cái chết của Nguyễn Chí Thanh (1967), ông Ðặng Xuân Thiều trong lúc hấp hối đã cho mời một số đồng chí ở Trung ương đến để trối trăng về vụ Nguyễn Chí Thanh phản bội xưng khai, làm vỡ một số cơ sở Ðảng. Ông chỉ ra những nhân chứng :" Trước đây chúng tôi không nói vì thấy Nguyễn Chí Thanh vẫn tích cực tham gia công tác cách mạng, thôi thì việc quá khứ rồi, bỏ qua đi cho hắn, cho hắn có cơ hội đới công chuộc tội. Sau đó thì không nói được nữa - Bác và Bộ Chính trị quá tín nhiệm hắn, cho hắn phụ trách toàn việc lớn, nói ra lại vạ vào thân. Nay tôi sắp chết, phải nói lại việc này kẻo tủi cho vong linh các đồng chí đã hy sinh không được ai nhắc nhở, tên phản bội thì lại được ca ngợi như anh hùng".Trung Ương kiểm tra lại thấy đúng mới lẳng lặng dẹp cái sự xưng tụng kia đi. Chỉ còn một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh là còn giữ tên Nguyễn Chí Thanh. Người ta chưa thay vì ngượng, chẳng lẽ lại cho "bọn ngụy" biết tại sao phải thay lại tên đường.
Xin quay lại chuyện tướng Giáp.
Lẽ ra, cha tôi làm công tác quân sự cùng với tướng Giáp, nếu như không có một quyết định mới của Trung ương. Quyết định này liên quan tới cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa cha tôi với ông Hồ tại hội nghị Tân Trào (cuối tháng 7, đầu tháng 8 năm 1945). Cha tôi kể ông rất ngạc nhiên trước sự thiếu hiểu biết về tình hình trong nước của ông Hồ. Chẳng hạn, ông hỏi cha tôi :"Có phải cụ Huỳnh Thúc Kháng đầu Tây rồi phải không ?". Cha tôi nói không phải, ông vừa mới gặp cụ Huỳnh hai tháng trước, cụ rất kiên định cách mạng. Ông Hồ Chí Minh hỏi chuyện cha tôi cả một buổi và hài lòng thấy cha tôi biết nhiều về nhân sĩ trí thức. Trong cuộc họp Trung ương cuối tháng 8.1945 ông Nguyễn Lương Bằng đề nghị cha tôi rời công tác quân sự để giúp việc ông Hồ thì Trung ương nhất trí. Cha tôi có ghi lại nội dung cuộc họp đó, hình như vào ngày 28 tháng 8 thì phải, trong hồi ký "Tháng Tám cờ bay".
Nói đến Võ Nguyên Giáp, cha tôi nhận xét ông Giáp có nhược điểm hay tránh né khi xảy ra bất đồng ý kiến. Với vẻ ngoài bình thản, pha chút cao ngạo, nhiều người tưởng ông kiêu ngạo đặt mình trên những cuộc tranh luận. Thực ra, ông bao giờ cũng sẵn sàng chịu lép vế trước người đối thoại hùng hổ. Tất nhiên, ở cương vị của ông số người dám áp đảo và áp đảo được ông không nhiều.
Cha tôi kể : năm 1949, khi Trung ương ra nghị quyết "Tích cực cầm cự, chuyển mạnh sang tổng phản công" do Trường Chinh thảo, Võ Nguyên Giáp không thông, nhưng cũng không cãi lại. Theo nguyên tắc Võ Nguyên Giáp phải triệu tập một hội nghị cán bộ quân sự trung cao cấp để phổ biến nó dưới dạng một báo cáo của Bộ Tổng tư lệnh. Cha tôi không có mặt trong buổi báo cáo đó. Nghị quyết ông đọc rồi, nghe lần nữa ông không muốn. Theo cha tôi, nghị quyết này phản ánh ý muốn đốt cháy giai đoạn của Trường Chinh. Ông Hồ biết cha tôi không thông, giải thích :"Thì mình có nói cụ thể thời hạn tổng phản công là bao giờ đâu mà lo. Kháng chiến cực nhọc nhiều rồi, cũng phải động viên quần chúng phấn khởi nhìn về tương lai chứ".
Trong nhiều vấn đề kháng chiến quan điểm cha tôi gần với Võ Nguyên Giáp. Hai ông không đồng tình với khẩu hiệu tiêu thổ kháng chiến của Trường Chinh, cho rằng chỉ vườn không nhà trống là đủ. Nếu cần thì trên một bãi hoang địch cũng lập nên đồn bốt, thậm chí cả một tập đoàn cứ điểm, không cần thì một thành phố nguyên vẹn chúng cũng chẳng màng. Sau mới thấy vườn không nhà trống là đúng. Vinh, Thanh Hóa, Tuyên quang, Thái Nguyên chỉ còn là đống gạch vụn, nơi thì Pháp không tới, nơi chúng tới rồi lại rút đi.
Trong hội nghị cán bộ quân sự họp ở Phú Thọ nói trên, sau khi báo cáo ở hội trường trở về Võ Nguyên Giáp ngồi phịch xuống bên cha tôi, lúc ấy đang nằm ở lán :
Thấy Võ Nguyên Giáp buồn thiu, cha tôi hỏi :
- Có chuyện gì thế ?
- Mình rõ to đầu mà dại. - Võ Nguyên Giáp thở dài - Thằng Thận đúng là xúi chó vào bụi rậm. Mình biết trước sẽ khổ vì cái nghị quyết của nó. Y như rằng, vừa mới đọc xong báo cáo, chưa kịp ngồi xuống đã bị Nguyễn Sơn nó đập cho một trận tơi bời, vuốt mặt không kịp.
Ông thuật lại cho cha tôi nghe Nguyễn Sơn(8) đập ông như thế nào. Cha tôi cười rũ.
- Nhưng nó đập đúng chứ ? - cha tôi hỏi.
- Ðúng ! - Võ Nguyên Giáp hồn nhiên thừa nhận - Mới cay.
Thiếu tướng Nguyễn Sơn nổi tiếng ngang tàng, không kiêng nể một ai, khi nóng lên lại hay văng tục. Trên hội trường Nguyễn Sơn nói thẳng vào mặt tổng tư lệnh :"Nói tổng phản công vào lúc này là chẳng biết cái đếch gì về quân sự... Thử điểm lại mình coi, có cái cóc khô gì trong tay mà đòi tổng phản công ! Tổng phản công cái cục c... !!"
Tôi được nghe cha tôi kể chuyện này vào thời kỳ đang diễn ra Hội nghị Trung ương lần thứ 9. Tiếng nói của tướng Giáp là tiếng nói có trọng lượng. Nếu ông kiên quyết, vị tất Bộ Chính trị đã lái được Trung ương vào con đường mao-ít.
Ông Hồ, theo mọi người nhận xét, không thân Trung Quốc. Phạm Văn Ðồng sẽ ngả theo đa số. Trường Chinh sau khi chịu thảo nghị quyết theo ý Lê Duẩn hiển nhiên sẽ đứng về phía Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ.
- Rồi xem Văn(9) nó có dám chống lại thằng Duẩn với thằng Thọ không ? - cha tôi nói - Tính nó vậy đấy, đứa nào to mồm là nó im. Chán lắm !
Sự việc diễn ra như cha tôi tiên đoán. Võ Nguyên Giáp im lặng ngay từ đầu, trong cuộc họp Bộ Chính trị đi trước hội nghị Trung ương.
Ðầu tháng 12 năm 1963 tướng Lê Liêm xin gặp chủ tịch nước để trình bày với ông mối lo ngại trước viễn cảnh Việt Nam bị cuốn vào cuộc đấu tranh giữa hai cường quốc xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh này hoàn toàn không cần thiết đối với nước Việt Nam đang có chiến tranh. Ông phàn nàn chuyện những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của khối tuyên giáo như Tố Hữu, Hoàng Tùng, Lưu Quý Kỳ... đi khắp nơi chửi bới Liên Xô, mà Liên Xô là nước đang giúp Việt Nam chống Mỹ.
Ông Hồ trầm ngâm nghe tướng Lê Liêm trình bày rồi nói :
- Vừa nhận người ta là anh em, xin viện trợ của người ta năm này qua năm khác, lại vừa chửi người ta thì xấu quá.
- Nhưng bản dự thảo nghị quyết lại là thế.
- Ra hội nghị chú cứ nói. Tôi ủng hộ.
Ngày hội nghị họp, Lê Liêm đơn độc đọc tham luận chống lại đường lối thân Trung Quốc trước một cử tọa lạnh lùng. Võ Nguyên Giáp ngồi im, đầu cúi, thỉnh thoảng lại cựa quậy trên ghế. Lê Duẩn bĩu môi. Lê Ðức Thọ hầm hầm. Khi Lê Liêm kết thúc bản tham luận, bầu không khí đã nặng nề còn nặng nề hơn nữa. Ông nhìn ông Hồ Chí Minh, chờ đợi một lời ủng hộ, nhưng ông Hồ tránh ánh mắt của ông, quay đi nơi khác(10).
- Ðiều tôi không ngờ là Bác đã hứa, nhưng lại không giữ lời. - Lê Liêm kết luận - Tôi không hiểu được, vì lẽ gì ? Hôm tôi gặp Ông Cụ nghe tôi chăm chú, suy nghĩ một lát rồi mới trả lời, chứ không phải Ông Cụ trả lời bộp chộp, hứa đãi bôi... Có một cái gì đó không hiểu được.
Chúng tôi ngồi lặng lẽ trước cái bàn rộng trong phòng khách, trong ánh sáng chập choạng của chiều tàn. Căn phòng tối dần, nhưng Lê Liêm không bật điện.
Ðó là lần gặp cuối cùng. Chẳng bao giờ tôi còn gặp ông nữa.
Tôi nhớ lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, mùa thu năm 1952, trên đỉnh dốc Cun. Sau dốc Cun từ Hòa Bình đi Vụ Bản có một quãng trống dài bốn cây số, nơi máy bay địch hay xuất kỳ bất ý sà thấp bắn vào người đi đường, bất kể đi một mình hay đông người, đi bộ hay bằng xe đạp. Nhiều người bị chết ở quãng này, vì vậy nó được đặt tên là Cửa Tử. Từ khu 3 đi Việt Bắc tôi vượt qua Cửa Tử lúc sẩm tối, rồi dừng lại nghỉ qua đêm trên đỉnh dốc để đổ dốc lúc mờ sáng. Trong số khách dừng chân trong cái quán nhỏ cùng chúng tôi, có một người đàn ông trẻ, trắng trẻo, với gương mặt sáng sủa. Thấy tôi mê mải đọc sách bên bếp lửa, ông ngồi ghé bên cạnh :
- Ðồng chí có cuốn gì đấy ?
Tôi lật bìa cho ông xem. Ðó là cuốn Mùa Xuân ở Sakenne bằng tiếng Pháp. Mắt ông ta sáng lên.
- Cho tôi ngó qua một chút nhé, được không ? - mắt sáng lên, ông ta rụt rè đề nghị.
Có bảo vệ đi cùng, ông này ít nhất cũng trung đoàn trưởng hoặc trung đoàn phó, loại kễnh đây, tôi nghĩ.
- Tôi có cuốn này cũng hay lắm, hay là ta đổi cho nhau ? - trả lại tôi cuốn sách ông ta gạ.
Ông mang tới cuốn La Jeune Garde (Ðội Thanh Niên Cận Vệ) của Fadéev(11). Nó là cuốn sách rất quý hồi ấy. Nếu đổi, tôi là người có lợi. Nhưng bỏ dở cuốn Mùa Xuân ở Sakenne đang đọc dở tôi không muốn. Tôi nói nếu tới sáng tôi đọc xong tôi sẽ đổi cho ông. Ông sai bảo vệ mang cho tôi cái đèn bão được bọc kín trong giấy đen được chọc thủng một lỗ cho ánh sáng lọt ra vừa đủ để đọc sách.
Chúng tôi chia tay vào rạng sáng. Ðến lúc ấy tôi mới biết ông là cục trưởng Cục Dân quân Lê Liêm. Hồi ấy lớp thanh niên chúng tôi háo hức đọc tác phẩm văn học xô-viết lắm. Nhưng sách Liên Xô lúc bấy giờ hiếm. Lác đác có mấy cuốn : Ðội Thanh niên Cận vệ của Fadeev, Người Mẹ của Gorky, Tinh Cầu của Kazakevich, Con đường Ðau khổ của Alexis Tolstoi... Sau này, khi Lê Liêm từ quân đội chuyển sang công tác dân sự, làm thứ trưởng Bộ Văn hóa phụ trách điện ảnh, chúng tôi mới gặp lại nhau. Nhắc lại cuộc gặp gỡ trên dốc Cun ông kêu ông thiệt - cuốn Le Printemps à Sakenne nhạt phèo.
Ðể lãnh đạo ngành điện ảnh cần phải có kiến thức rộng, nhất là kiến thức chuyên môn, mà Lê Liêm lại không có. Không giống một số cán bộ cờ đến tay là phất bừa, không biết cũng lãnh đạo tạt, Lê Liêm yêu cầu tôi soạn bài giảng theo cách tóm tắt, giới thiệu cho ông đặc trưng của nghệ thuật thứ bảy, lịch sử điện ảnh thế giới và nói chung mọi vấn đề văn hóa nghệ thuật. Ông nghe chăm chú, ghi chép cẩn thận như một cậu học trò.
Ðể hiểu âm nhạc ông tự học nhạc lý, nhờ một nhạc công dạy dương cầm và trở thành một nhạc sĩ nghiệp dư không tồi. Tôi chưa gặp cán bộ cấp cao nào chịu học hỏi như ông. Lê Liêm là gương mặt tiêu biểu cho những người cộng sản tôn trọng trí thức. Họ ý thức được rằng nếu không dựa vào trí thức thì chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ là một ảo ảnh sán lạn trong đầu đám đông bần cố. Nhờ ham học, Lê Liêm luôn tiếp cận cái mới, cái tiến bộ, không bao giờ bảo thủ. Ông không có thái độ kỳ thị đối với những văn nghệ sĩ bị Ðảng trù dập.
- Thiên hạ mỗi người mỗi ý, chưa biết ý nào hơn ý nào. Chân lý phát ra từ miệng quân vương hay từ miệng con điếm đều có giá trị ngang nhau. - Lê Liêm nói - Một khi nó đã là chân lý.
Báo cáo của tôi về đại tướng Võ Nguyên Giáp bị Huỳnh Ngự chê ỏng chê eo. Tôi nói rằng tôi không thể bịa.
- Ai biểu anh phải bịa ? Nhưng anh không thành khẩn. Tui biết, có nhiều điều đúng là anh không biết thiệt, nhưng có những điều chắc chắn anh phải nghe người khác nói mà anh không chịu báo cáo. Cái nớ, xét cho cùng, chỉ thiệt cho anh thôi !
Không hiểu nếu tôi khai thật với y rằng những người mà y gọi là xét lại hiện đại không hề có ảo tưởng về tướng Giáp thì thái độ của y sẽ ra sao ? Tôi chắc y không tin. Nhưng sự thật là như vậy. Chẳng ai đặt hi vọng vào tướng Giáp cả.
Huỳnh Ngự đọc xong, bắt tôi ký vào từng trang như thường lệ.
- Tui đã nói với anh không biết bao nhiêu lần rằng anh phải viết vô đây cả những tin đồn, vậy mà cả lần này nữa anh cũng không viết. - y lầu bầu - Anh quên thật, anh không hiểu hay anh không muốn hiểu ?
Còn một điều nữa y không biết, mà tôi cũng không muốn nói cho y biết, là tướng Giáp rất đơn độc. Trong quan hệ cá nhân ông không được coi là bạn tốt. Không thể chỉ ra được ai là bạn thân của ông trong đời sống riêng cũng như trong đời hoạt động cách mạng. ê cương vị đại tướng ông bị cấp dưới chê là hách dịch. Người ta nhận xét tướng Văn Tiến Dũng đối xử với những người giúp việc có tình người, hơn hẳn tướng Giáp.
- Trong nầy anh không viết một dòng nào tới chuyện bọn Ðặng Kim Giang, Lê Giản, Lê Liêm, Bùi Công Trừng... đừng nói chi tới Võ Nguyên Giáp. Ðám ấy thể nào mà chả động tới ông tướng của họ, đúng không ?
Huỳnh Ngự ngày một lấn tới. Y muốn tôi phải phụng sự ngành công an như một tên chỉ điểm chính cống kia.
- Nhưng khách tới nhà thời anh cũng phải điếu đóm cho ông già chớ ? Nhứt định anh phải nghe được, không chuyện nầy cũng chuyện khác, không thể không có cái đó.
Khi nào giở trò bắt nọn là y như rằng y phải nhìn chằm chằm vào tận mặt tôi, đôi mắt gián nhấm hấp háy qua cặp tròng xây xát. Tôi phải nhịn thở để tránh hơi hôi thối phả ra từ miệng y.
- Tôi nói nhiều lần rồi : gia giáo miền Bắc không cho phép con cái hóng chuyện người lớn. - tôi nói - Vả lại, tôi cũng không có ý định nghe lỏm để nói lại với ai.
"Có biết tao cũng chẳng nói với mày !", đó là câu tôi muốn nói với y hơn cả.
- Thôi được, tui nói thẳng ra với anh : có lúc mô, ở nơi mô anh nghe thấy mấy kẻ tôi vừa nhắc tên - y dằn từng tiếng, thở phì phò - đả động tới hai chữ ni không ?
Tôi nhìn chằm chằm vào bộ mặt căng thẳng của y.
- Hai chữ gì ?
- Ðảo chính !

(1) Trại điều dưỡng bệnh tâm thần gần Hà Nội.
(2) Tiền trinh, đơn vị tiền tệ nhỏ nhất, bằng 1/10 xu.
(3) Cha tôi và bè bạn ông, những người biết Nguyễn Bình, nói rằng Nguyễn Bình có mâu thuẫn với những người lãnh đạo Trung ương cục miền Nam (Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ). Do đó ông bị điều ra Bắc và hy sinh dọc đường trong tình trạng không được bảo vệ đầy đủ và lộ trình của đoàn bị lộ. Vấn đề được đặt ra là kẻ nào đã báo cho Pháp biết lộ trình của đoàn ? Nhiều người nói bàn tay Lê Duẩn trong vụ này là rõ ràng, nhưng lại không chỉ được ra chứng cứ. Cho tới nay cái chết của Nguyễn Bình vẫn là một dấu hỏi chưa có giải đáp.
(4) Ðáng chú ý là tuy Trường Chinh tiến hành Cải cách ruộng đất theo bài bản Cải cách thổ địa của Trung Quốc, nhưng ông ta đã bỏ đi lực lượng quân đội là lực lượng nòng cốt.
(5) Hồi đó cùng xin cư trú chính trị một lúc với đại tá Lê Vinh Quốc còn có một số cán bộ Ðảng được cử đi học tại Trường đảng cao cấp Liên Xô, học viện quân sự Frunze như thượng tá Văn Doãn (biệt hiệu Doãn Bụt), tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, phó chủ tịch ỷy ban hành chính Hà Nội kiêm phó bí thư thành ủy Hà Nội Nguyễn Minh Cần.
(6) Thân Liên Xô.
(7) Trong kháng chiến chống Pháp Hà Minh Tuân là một chính ủy sư đoàn trong đại đoàn 312. Sau khi hòa bình lập lại anh chuyển sang làm công việc xuất bản, giữ chức phó giám đốc Nhà xuất bản Văn Hóa.
(8) Nguyễn Sơn (1908-1956) tên thật là Vũ Nguyên Bác, quê Gia Lâm Hà Nội. Năm 1927 tham gia Ðảng cộng sản Trung Quốc, tham gia Quảng Châu Công xã, làm tổng biên tập báo Kháng Ðịch. Ðược bầu vào Ban chấp hành Trung ương Ðảng cộng sản Trung Quốc, dự hội nghị Tuân Nghĩa khi Mai Trạch-đông lên nắm quyền lãnh đạo. Là vị tướng nước ngoài duy nhất trong Hồng quân Trung Hoa.
(9) Bí danh của Võ Nguyên Giáp .
(10) Tôi không nghe ông Lê Liêm nói tới ông Bùi Công Trừng trong Hội nghị 9. Theo tôi nhớ thì hôm Trung ương họp ông Trừng ốm nằm trong bệnh viện Việt Xô. Ông Dương Bạch Mai có tới nơi họp, xin vào dự thính, nhưng không được chấp thuận, chuyện này ông Mai có kể lại cho tôi nghe. Việc các cán bộ Trung ương được dự thính trong các cuộc họp của Trung ương đã có tiền lệ, không phải nhất thiết không được.
(11) Nhà văn xô-viết, ủy viên Trung ương Ðảng Cộng sản Liên Xô, ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới.


::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 20

Thế là cuối cùng người ta đã đi tới câu hỏi không thể không đặt ra. Tôi nghĩ lẽ ra nó phải là câu hỏi đầu tiên khi người ta đưa tôi vào Hỏa Lò.
Nó chính là cái trục, mọi việc đều phải xoay quanh nó, dính vào nó. Không có nó, không thể làm ra một vụ án lớn. Ðể bắt giam một loạt cán bộ có tiếng tăm, trong đó có cả những bậc lão thành cách mạng, bọn Lê Duẩn, Lê Dức Thọ không thể đưa ra một tội danh tầm phào như "nói xấu chế độ"(1) được, mặc dầu với tội danh này đã có không biết bao nhiêu công dân phải nằm trong các trại tập trung năm này qua năm khác.
Xem xét tính hiện thực của một âm mưu đảo chính, tôi đặt hai vấn đề.
Một là, những mâu thuẫn nội tại trong xã hội trong thời kỳ ấy có phát triển tới mức nổi lên nhu cầu thay thế chế độ hiện hữu hoặc thay thế ban lãnh đạo đương nhiệm bằng một cuộc đảo chính không ?
Câu trả lời là không. Nhân dân thấy bức bối dưới sự cai trị hà khắc nhưng vẫn cố gắng chịu đựng, tự an ủi rằng mọi sự khó chịu là nhất thời, là do chiến tranh, chiến thắng rồi cuộc sống sẽ khác.
Hai là, nếu âm mưu đảo chính là có thì ai là người muốn đảo chính và thực sự có khả năng làm đảo chính ?
Trước hết, cái gọi là những lực lượng phản động chống chế độ gồm những người có quá khứ liên quan với chính quyền thuộc địa, những thành viên các đảng phái có thật và không có thật, đều đã bị tiêu diệt hết bởi lưỡi gươm không khoan nhượng của chuyên chính vô sản. Mọi mưu toan chống đối đều bị bóp chết từ trong trứng. Không có, và không thể có chuyện những lực lượng đó làm đảo chính.
Chỉ còn lại những người cộng sản không thuộc dòng chính thống và bị dòng chính thống nghi ngờ. Chỉ họ mới có khả năng tập hợp quần chúng quanh mình như quanh một ngọn cờ đại nghĩa. Cũng chỉ họ mới có khả năng làm đảo chính.
Trong thực tế, như một nghịch lý, những người này lại chẳng bao giờ nghĩ tới đảo chính cả. Trong họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài sự lựa chọn hai lấy một : hoặc là chủ nghĩa xã hội phi dân chủ như xã hội hiện tại, hoặc là chủ nghĩa xã hội dân chủ chưa hiện hữu, đòi hỏi ở họ những cố gắng và quyết tâm cách tân.
Nhưng đất nước lại đang có chiến tranh, một cuộc đảo chính sẽ là nhát dao đâm vào lưng người chỉ huy cuộc chiến là Ðảng cộng sản, cho tới bấy giờ vẫn là đảng của họ. Ðảo chính có thể làm mất đi chính chủ nghĩa xã hội để có cơ may dân chủ hóa nó. Cho nên mặc dầu có nhiều điều bất đồng với nhà cầm quyền trên nhiều mặt những người bị vu là có âm mưu lật đổ chưa bao giờ nghĩ tới lật đổ.
Như thế, chỉ còn lại những người đang đứng trên đỉnh cao quyền lực tự đảo chính mà thôi. Tạo ra một cuộc đảo chính trong tưởng tượng để gạt bỏ những đối thủ có khả năng thay thế mình một sớm một chiều cũng là đảo chính.
Riêng việc cho đến tận bây giờ những người lãnh đạo Ðảng cộng sản vẫn còn phải dài lời biện bạch về một vụ bắt bớ xảy ra ba chục năm trước đủ thấy họ lúng túng tới mức nào trước dư luận xã hội. Những người lãnh đạo Ðảng còn phải biện bạch còn chán, chừng nào họ còn ngồi được trên ghế của mình mà biện bạch. Tôi dùng từ họ ở đây để chỉ lớp đệ tử đã dây máu ăn phần trong quá khứ, lớp lãnh đạo mới lên run rẩy trước viễn cảnh bị tước đoạt địa vị ăn trên ngồi chốc vừa kiếm được. Ðó là lớp trợ thủ và hậu bị đang kế tục sự nghiệp của những kẻ chủ mưu vụ đảo chính thật, thủ phạm chính của vụ trấn phản tàn bạo mở đầu năm 1967, chứ không phải những kẻ đó nay đã chết rồi.
Họ sợ vụ án bị xới lên sẽ dẫn tới thắng lợi của xu hướng dân chủ pháp trị, tới sự cáo chung không tránh khỏi của nền độc tài Ðảng trị.
Nhà cầm quyền rêu rao rằng những người bị bắt sở dĩ có lập trường đối lập với Ðảng là do bất mãn, công thần, do đòi hỏi hưởng thụ. Một sự bịp bợm trắng trợn.
Sự thật là : làn sóng chống đối đã hình thành một cách tự phát, từ bản năng bị đè nén, từ nhân phẩm bị chà đạp.
Ðó chính là sự vùng lên của con người tự trọng đòi quyền sống, quyền làm người.
Nhưng dưới triều đại sắt thép của Duẩn-Thọ, sự vùng lên của những cán bộ bất tuân chỉ mang dáng dấp một cuộc vận động âm thầm cho những ý kiến của mình, mong chúng được lãnh đạo chấp nhận. Nghĩa là một cuộc đấu tranh hòa bình nhất, hiền lành nhất, không xứng đáng với bất cứ sự đàn áp nào.
Lê Duẩn quá cẩn thận trong việc bịt miệng đồng chí. Chỉ bằng những nghị quyết dựa trên đa số áp đảo, dựa trên những mánh khóe xảo quyệt của bộ máy tổ chức, bất cứ Ðại hội Ðảng(2) nào cũng chẳng mang lại được cái gì mới, đừng nói gì các Hội nghị Trung ương.
Câu hỏi được đặt thêm là : Lê Duẩn - Lê Ðức Thọ cần gì phải dựng nên một màn kịch nhằm bôi nhọ các nhà cách mạng lão thành mà cuộc đời chiến đấu của họ đã chứng minh lòng trung thành vô hạn với cách mạng và vì thế không thể bôi nhọ nổi, trừ cách cả vú lấp miệng em ?
Tổng hợp các dữ kiện tôi có, câu trả lời có tính thuyết phục cho câu hỏi đặt ra ở trên là thế này : sự hấp tấp vẽ ra một vụ đảo chính bất thành rõ ràng được tính toán như một đòn phòng ngừa nhằm vào đối thủ tiềm tàng đang nằm trong thế cờ có thể trở thành đối thủ thật sự lúc nào không biết.
Mối lo của liên minh Duẩn-Thọ không phải các cán bộ lão thành, tuy thoạt nhìn bề ngoài có vẻ là như vậy. Những người đó chỉ là mối lo cụ thể, thấy được bằng mắt thường. Mối lo thật sự làm cho Duẩn-Thọ ăn không ngon ngủ không yên chính là trí tuệ Việt Nam nằm trong những nhân vật cách mạng tiên tiến và tầng lớp trí thức, một lực lượng hàm chứa mối đe dọa lớn lao của một trào lưu âm ỉ không bao giờ tắt đòi tự do và dân chủ.
Ðối thủ tiềm tàng này sẽ gạt bỏ họ, kẻ đại diện cho nền chuyên chế bị dân chúng vừa sợ hãi vừa ghê tởm, một khi xuất hiện tình thế cách mạng, thường liên quan với một biến động thế giới.
Những nhà cách mạng lão thành và các trí thức có tên tuổi chính là ngọn cờ duy nhất có hấp lực mạnh mẽ đối với quần chúng khát khao dân chủ và nhân quyền. Ngọn cờ này có khả năng trở thành một sức mạnh bất ngờ lật ngược tất cả nếu như tình hình quốc tế trở nên bất lợi cho Trung Quốc, cũng là bất lợi cho Việt Nam, là điều Duẩn-Thọ đủ thông minh để hiểu rằng không phải không thể xảy ra. Tháng 12 năm 1963, khi họ cho ra Nghị quyết 9, tình thế không hề giống như cuối năm 1967.
Ðể đối phó với tình huống xấu nhất, nghĩa là thất bại của đường lối Mao Trạch-đông với những Ðại nhảy vọt, Ðại cách mạng văn hóa vô sản sẽ dẫn tới sự thay đổi ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Trung Quốc, hoặc nặng nề hơn, thay đổi cả thể chế xã hội Trung Quốc, và tất nhiên, ở Việt Nam lúc đó cũng sẽ diễn ra một sự thay đổi tương tự, người ta đi nước cờ liều - bắt giam hàng loạt cán bộ, trong quân đội cũng như ngoài quân đội, cho ra vẻ có một âm mưu đảo chính thật.
Những bài bản của Mao trong việc loại trừ các tướng lĩnh, những người có khả năng thế chân Mao, được Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ coi như bảo bối. Người có khả năng ngồi vào ghế của họ là Võ Nguyên Giáp và các cán bộ được xếp vào cái gọi là Ðoàn cán bộ Trung ương(3). Cách tốt nhất để tiêu diệt đối thủ là dựng ra một âm mưu đảo chính. Ðể dựng ra một vụ âm mưu đảo chính không cần, không nhất thiết cần có bằng chứng (tất nhiên, tạo ra được những bằng chứng giả thì tốt hơn). Chỉ cần nửa kín nửa hở, sao cho nó tồn tại trong dân chúng bị bưng tai bịt mắt như một tin đồn có sở cứ, còn với nạn nhân của vụ trấn phản thì chỉ cần nặn ra được vài lời khai của đôi ba người nhát gan rằng họ có nghĩ tới, có trò chuyện với nhau về một âm mưu đảo chính là đủ.
Hoàng Văn Hoan lầm to khi cho rằng Lê Duẩn theo Khrushov chống Mao, Lê Duẩn là xét lại. Trên thực tế, Lê Duẩn gần với Hoàng Văn Hoan hơn bất cứ ai trong ban lãnh đạo Ðảng thời kỳ đó. Cả hai đều là Tiểu Mao về tư tưởng. Cả hai cùng có chung một định hướng chính trị, một hình dung về thể chế xã hội, một cách cai trị. Họ không chơi được với nhau, không chung sống được với nhau, là do những cái khác. Hoàng Văn Hoan còn có trong mình nhân cách nhà nho, ông thích mô hình xã hội Mao vì cho rằng chỉ có nó mới bảo đảm chắc chắn cho thắng lợi của cách mạng vô sản, trong khi Lê Duẩn đã là người thực dụng của thời hiện đại, Lê Duẩn thích nó vì nó bảo đảm cho ông ta ngồi yên trên ghế độc tài. Những người biết Lê Duẩn nói rằng Hoàng Văn Hoan nhận xét chính xác về tính cách của Lê Duẩn. Theo Hoàng Văn Hoan, Lê Duẩn có tham vọng vô độ. Việc Lê Duẩn vội vã gạt Hồ Chí Minh ra khỏi quyền bính bộc lộ tham vọng này. Trong hành động Lê Duẩn là người duy lý, không thừa nhận tình nghĩa, không hợp tác được với ai mà không nghĩ tới chuyện hất cẳng họ. Lê Ðức Thọ có không trung thành với Lê Duẩn sau này cũng chỉ là sự đi trước đối thủ một bước mà thôi. Chuyện màu sắc chính trị của Lê Duẩn thay đổi như da tắc kè nhông lại là chuyện khác, nó thuộc về tính lá mặt lá trái của Lê Duẩn(4).
Khi chúng tôi bị khóa tay đưa vào Hỏa Lò, Lê Duẩn vừa đi Liên Xô về. Tại điện Kremli Lê Duẩn lớn tiếng khẳng định quê hương Cách mạng Tháng Mười là Tổ quốc thứ hai của những người cộng sản Việt Nam, thề thốt sẽ bảo vệ tình hữu nghị giữa hai nước như con ngươi của mắt. Cùng lúc, ở trong nước ngành tuyên truyền ra sức ngợi ca chế độ toàn trị, hăm dọa trấn áp những ai muốn Việt Nam đi theo con đường dân chủ hóa vừa được hé mở tại Liên Xô, gọi họ là những phần tử pro-soviétique. Tại những cuộc thuyết giảng nội bộ đám đệ tử Lê Duẩn tiếp tục chỉ trích những nghị quyết của Ðại hội XX, gọi giai đoạn sau Khrushov là chủ nghĩa xét lại Khrushov không có Khrusov, đồng thời mập mờ đưa đẩy vài ba câu chống Mao, trong khi đó thì bộ máy trấn phản thì được lệnh hoạt động hết tốc lực để thu gom đám xét lại vào xà lim.
Trước khi bị bắt tôi đã nghe những tin đồn về sự lủng củng giữa những người anh em ruột thịt Trung-Việt. Ông Hồ Chí Minh có câu nói nổi tiếng về mối tình hữu nghị khăng khít ấy :"Việt Nam với Trung Quốc như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh". Sau này, khi hai bên day tay mím miệng đấm đá nhau rồi, đã cầm súng nã đạn vào nhau rồi, người ta mới tạo ra một nghĩa bóng cho nó, rằng Ông Cụ nhà ta giỏi lắm, nhìn xa trông rộng lắm, Cụ không ví hai nước Trung Việt như cái gì khác mà lại ví như môi với răng thì thông minh thật : môi hở đúng là răng lạnh, nhưng răng mà cắn thì môi đau, chứ ngoài cái sự mếu máo ra môi chẳng làm gì được răng hết(5).
Duẩn-Thọ không ngu để bình thản ngồi yên chờ cái kết cục chắc chắn sẽ tới : buộc lòng thừa nhận sai lầm trong sự lựa chọn đường lối mao-ít. Thừa nhận mình sai trong việc lãnh đạo đất nước có nghĩa là thời của mình đã hết. Hậu quả không tránh khỏi là nhân sự trong ban lãnh đạo Ðảng phải thay đổi : kẻ sai phải ra đi nhường chỗ cho người khác.
Mà cái sai lớn cứ lừng lững hiện hình, mỗi lúc một rõ nét. Mặc dầu Ðảng ra sức bưng bít mọi tin tức, nhưng nhờ thói quen hiểu ngược lại những gì phương tiện truyền thông độc quyền công bố, nhờ những người Trung Quốc chạy loạn bị bắt tại các tỉnh phía Bắc kể lại, mọi người đều biết ở nước Trung Quốc láng giềng đang xảy ra chuyện gì. Người Việt Nam không cần biết đường lối chính trị của Mao đúng hay sai, họ hiểu chính trị theo cách thực dụng của đời thường. Chẳng ai muốn sống như những người anh em bên kia biên giới đang phải sống : trong cuộc chiến nồi da nấu thịt thường trực, trong đạo lý suy đồi : con tố cha, vợ tố chồng.
Trong nhân dân loan truyền nhiều tin đồn về việc quân Trung Quốc lập nhiều kho vũ khí bí mật trong các hang động ở miền núi. Ðể làm gì khi vũ khí trực chiến có thể để trong các lán gần các vị trí chiến đấu ? Những vùng đóng quân của Trung Quốc chiếm diện tích rộng hơn mức cần thiết để làm gì ? Tại vùng mỏ Quảng Ninh quân Trung Quốc ngang nhiên bắt giữ các chuyên gia địa chất Liên Xô đi lạc vào vùng đóng quân của họ. Chỉ đến khi chính quyền Việt Nam can thiệp tích cực những chuyên gia này mới được thả. Trở về Hà Nội họ nói thẳng với thủ tướng Phạm Văn Ðồng : "Nếu đến Việt Nam công tác công dân Liên Xô phải xin visa(6) của Trung Quốc thì xin các đồng chí báo trước để về sau những việc tương tự không xảy ra nữa".
Ðó là chuyện thật mà giới báo chí chúng tôi được biết. Thuộc về những tin đồn còn có chuyện quân Trung Quốc và các đoàn chuyên gia Trung Quốc sang Việt Nam mang theo gia phả để tìm của. Những kho vàng cực lớn được đào lên, đúc thành xẻng cuốc, sơn đen đi để chuyển về Tàu. Người ta kể kỹ sư và công nhân Trung Quốc giúp Việt Nam xây dựng Nhà máy nhiệt điện Ninh Bình đã khoanh vùng quản lý của họ rộng một cách phi lý. Sau mới biết họ làm thế để tìm kho vàng được chôn giấu từ thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai. Mà không phải chỉ ở một Ninh Bình có chuyện đó. Chuyện người Tàu để của thuộc lĩnh vực huyền thoại, lĩnh vực chuyện dân gian truyền khẩu qua nhiều thế kỷ, tôi được nghe nhiều từ thuở còn thơ. Không hiểu người Tàu có mang gia phả sang tìm của và có tìm được hay không, nhưng những tin đồn về vụ này chẳng cần có bằng chứng vẫn được nhân dân tiếp nhận như những tin xác thực, khỏi cần kiểm tra.
Việc Ðảng cộng sản Việt Nam mời quân đội Trung Quốc vào nước mình là chuyện mọi người đều biết. Sở dĩ tôi phải nói cho chính xác "Ðảng cộng sản Việt Nam mời" vì sự kiện quân đội Trung Quốc có mặt ở miền Bắc Việt Nam trước nay được hiểu như do Nhà nước Việt Nam mời vào. Thực sự không hề có một văn bản Nhà nước nào xác nhận vụ đó, cho dù Nhà nước Việt Nam trước nay vẫn là tay sai của Ðảng. Thỉnh thoảng Việt Nam Thông tấn xã lại phải ra một tuyên bố cải chính các nguồn tin nước ngoài về sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại Việt Nam.
Trong công việc viết báo tôi thường có mặt ở những địa phương có quân Trung Quốc đóng(7), được nghe nhiều lời phàn nàn về chuyện Ðảng và Nhà nước để quân Trung Quốc vào. Người ta tin cậy hỏi tôi như hỏi một cán bộ hiểu biết, hi vọng tôi giải đáp cho họ câu hỏi nhức nhối đó. Khốn nạn, tôi có thể nói được gì cho họ trong khi chính tôi cũng không hiểu nổi những quyết định tự quyền của Duẩn-Thọ(8), mà theo chúng tôi, chỉ có những thằng điên mới hành động như thế !
Trong số những nhà cách mạng lão thành có hòa thượng Thiện Chiếu, rất danh tiếng trong giới tăng lữ và Phật tử Nam bộ. Ông là người yêu nước không đảng phái, bị chính quyền thuộc địa đày ra Côn Ðảo. ê đây nhà sư có những cuộc tranh luận nẩy lửa và kéo dài với những người cộng sản về con đường tương lai của dân tộc. Giáo sư đỏ Bùi Công Trừng đã thuyết phục được Thiện Chiếu, nhà sư quyết định gia nhập Ðảng cộng sản. "Hổng có tổ chức nào tốt hơn cho công cuộc giải phóng dân tộc lúc bấy giờ", ông nói. Kháng chiến chống Pháp kết thúc, ông tập kết ra Hà Nội. Nhờ có Hán học uyên thâm, ông được cử sang Bắc Kinh làm chuyên gia Việt ngữ cho Nhà xuất bản ngoại văn Trung Quốc.
Vào năm 1963, trước khi có nghị quyết 9, từ Bắc Kinh Thiện Chiếu viết thư về cho Trung ương :"Tôi muốn chắp cánh bay về phương Nam để cấp báo các đồng chí biết rằng chớ có tin Mao Trạch-đông. Nó là một con ác quỷ...". Ông bị triệu về nước, sống một mình trong một căn phòng nhỏ. Tết Ất Tỵ (1965), thứ trưởng Bộ Văn hóa Hà Huy Giáp tới thăm ông, hỏi ông sao Tết đến mà hương lạnh khói tàn thì ông già Thiện Chiếu đi cuồng trong căn phòng hẹp mà kêu lên :"Còn vui chi mà nói chuyện Tết nhứt ! Tết này ta tưởng nhớ tới Quang Trung ! Tổ tiên đổ biết bao nhiêu xương máu mới đuổi quân xâm lược ra ngoài bờ cõi, nay con cháu rượu thịt rước chúng vào nhà, ta ăn Tết sao đang !" Thứ trưởng họ Hà thấy ông già ăn nói bặm trợn hãi quá, đặt vội quà Tết lên bàn, rông thẳng.
Nhà báo Thái Hồng thường tới thăm sư Thiện Chiếu, thỉnh thoảng kéo tôi theo. Cha Thái Hồng là một nhà cách mạng đàn em của sư Thiện Chiếu, cho nên nhà sư rất quý anh. Gặp nhà sư tôi có cảm giác như gặp một hiệp sĩ Trung cổ. Ông có cốt cách nho sĩ, cái cốt cách vừa thư thái vừa ngang tàng, thà chết không cúi đầu. Trong ông nhức nhối tấn bi kịch của thế hệ cha chú tôi : một mặt ông vẫn tin vào Ðảng của ông, mà quá khứ huy hoàng của nó cho phép ông được tự hào, mặt khác là sự thoái hóa nhục nhã của nó trong hiện tại mà ông không thể nhắm mắt để không thấy. Ông nói ra chính kiến của ông ở bất cứ đâu, với bất cứ ai, không nể nang, không biết sợ. Nghe nói Lê Ðức Thọ muốn trị ông già bướng bỉnh lắm, nhưng Lê Duẩn ngần ngại chi đó không cho phép.
Ðó là quang cảnh thời kỳ trước khi có vụ bắt bớ nhóm xét lại chống Ðảng. Miền Bắc sống trong bầu không khí ngột ngạt.
Mấy buổi làm việc tiếp theo Huỳnh Ngự đeo chặt tôi như một con đỉa. Y một mực xoáy vào chuyện đảo chính. Phỉnh phờ có, dụ dỗ có, hăm dọa có. Mọi mánh khóe được sử dụng chỉ cốt nặn ra một lời thú nhận rằng tôi có nghe ai đó, bất kể là ai - tướng Ðặng Kim Giang, tướng Lê Liêm, cha tôi, Hoàng Minh Chính, hoặc một nhân vật nào khác thuộc khối quân đội, không kể cấp bậc, nói tới hai từ này.
- Tui đã nói rồi, nói nhiều lắm rồi, - Huỳnh Ngự ghé sát vào tai tôi mà khuyến dụ, mà chì chiết bằng cái giọng rin rít - rằng anh không cần phải nhớ chính xác ai nói, nghe loáng thoáng cũng được, cũng cứ báo cáo cho Ðảng ... Việc của chúng tôi là tìm hiểu thêm, làm rõ thêm, rồi bổ sung vào báo cáo của anh cho đầy đủ...
- Nhưng tôi có nghe ai nói gì đến đảo chính đâu !
- Thời mới phải nghĩ. Con người ta ai cũng vậy, nghe mà không chú ý thời quên, nhưng bình tĩnh mà nhớ lại thời nhớ ra... Anh cũng phải nghĩ tới ngày về với gia đình chứ.
- Tôi không có gì để nói.
- Vậy thời anh rũ tù. Hiểu chưa : rũ tù !
Tôi không buồn cãi lại. Tôi không hề có ý định làm anh hùng. Chẳng ai cần tới sự dũng cảm của tôi. Nguyên nhân của sự dũng cảm bất đắc dĩ là tôi không sợ chết. Cuộc sống của tôi chẳng đẹp đẽ đến nỗi phải bám chằng chằng lấy nó. Tất cả những gì diễn ra trước mắt làm tôi chán ngán đến cùng cực. Sau sự việc xảy ra với tôi, tôi tin rằng có những người trở thành anh hùng chỉ vì không thiết sống.
Huỳnh Ngự làm tôi mệt quá. Tôi sẵn sàng đầu hàng y nếu như y hài lòng chỉ với một lá cờ trắng. Nhưng không hơn. Tôi không thể nghe theo y để bước qua cái ngưỡng đạo đức mà một người tự trọng không thể bước qua.
Tôi đoán Huỳnh Ngự, cũng như cả bọn chấp pháp tay sai của Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã thất bại trong cố gắng ép cung, mớm cung những người trong vụ, và giờ đây họ hi vọng rằng với sự non dại của tôi, tôi sẽ cho họ cái khẩu chứng mà họ cần để dùng nó ép tiếp cha tôi và những người khác.
Tội của tôi trong con mắt Huỳnh Ngự không phải chỉ có thế. Tôi còn nhiều tội tầy trời khác.
- Anh là láo lắm, anh dám kêu Mao chủ tịch, lãnh tụ giai cấp vô sản toàn thế giới bằng Mao xếnh xáng. - một lần giữa buổi hỏi cung y quát tôi - Ðúng vậy không ? Hay anh lại cãi, lại biểu tụi tui vu cho anh ?
Ai báo cáo với bọn chúng chuyện này nhỉ ?
Tôi nghi đó là nhà thơ Hoàng Nguyên Kỳ, bí thư chi bộ tờ báo chúng tôi. Tôi chơi thân với Hoàng Nguyên Kỳ, chỉ với anh tôi mới dám nói bạt mạng, không giữ gìn. Bí thư chi bộ có trách nhiệm báo cáo về tình hình cơ quan cho tổ chức và cho công an. Anh làm công việc của anh. Mà cũng có thể không phải anh, tôi không dám nói chắc. Trong cơ quan nào chả có người của công an gài vào.
Nhạo báng lãnh tụ là tội rất nặng. Là dân thường mắc phải tội này bị tập trung cải tạo là cái chắc. Lãnh tụ không phải chỉ có Hồ Chí Minh hay Trường Chinh trước kia hoặc Lê Duẩn bây giờ, Lênin hay Stalin, mà Mao cũng lãnh tụ, Kim cũng lãnh tụ, cả Ceaucescu cũng lãnh tụ nốt. Với Huỳnh Ngự thì Trần Quốc Hoàn cũng là lãnh tụ luôn.
- Ðúng, tôi có nói như vậy. - tôi nói.
Huỳnh Ngự khoan khoái :
- Có vậy chớ ! Tui tưởng cả chuyện nầy anh cũng chối.
- Nhưng ai đã báo cáo chuyện vớ vẩn ấy với cơ quan an ninh ? Mỗi câu nói nằm trong một văn cảnh có một nghĩa cụ thể. Chuyện nói cho vui cũng đôn lên thành tội được.
- Anh muốn biết người nói làm chi ? - Huỳnh Ngự lườm tôi - Người ta thấy anh sai thời người ta báo cáo. Vừa là bảo vệ cách mạng, vừa để uốn nắn cho anh. Dám gọi Bác Mao như vậy thiệt bậy quá, bậy quá !
Tôi chẳng biết nên nói gì với y.
- Có gì đâu. - đành phải nghĩ ra một cách giải thích - Tôi đi qua Trung Quốc nhiều lần, thấy ở bên ấy người ta gọi nhau là xếnh xáng, nghe cũng vui vui. Nghĩa của nó là tiên sinh, chứ không có gì xấu. Nói tào lao với anh em tôi cũng bắt chước gọi các vị ở bên Tàu là xếnh xáng. Tôi nghĩ gọi chủ tịch Mao Trạch-đông là Mao xếnh xáng cũng như gọi Mao tiên sinh thôi, có gì là bất nhã đâu.
Huỳnh Ngự xì một tiếng :
- Chỉ được cái vụng chèo khéo chống ! May cho anh, nếu ở Trung Quốc chắc anh không còn sống được tới hôm ni. Có khi chết không toàn thây.
Tôi may thật. Nếu là người Trung Quốc chắc tôi đã bị giết. Nghe nói bên ấy mạng người không bằng con ngoé. Một anh bạn tôi trên đường quá cảnh Trung Quốc về Việt Nam đã mắt thấy loạn Hồng vệ binh là thế nào.
Bắc Kinh nhung nhúc những toán quân trong đồng phục bộ đội nhưng khác màu. Ðó là những đứa trẻ mải mê chơi trò cách mạng, với vũ khí là gậy gộc cộng với tay chân ngứa ngáy. Chúng hò hét om xòm trên đường phố, tay vung cao Mao tuyển đỏ rực màu máu(9). Trống phách ầm ầm. Dân chúng chạy ngược chạy xuôi, mặt nhớn nhác trong thành phố lòe loẹt đại tự báo giống như một nhà táng khổng lồ.
Lúc tàu dừng ở ga Vũ Xương, một đám nhóc Hồng vệ binh tràn lên các toa. Hỏi giấy, biết anh người Việt, chúng tha, chỉ hành người Trung Quốc, khảo Mao tuyển(10) khắp lượt. Tưởng chúng đi là xong, nhưng không phải. Tàu sắp chuyển bánh lại thấy một nhóm Hồng vệ binh khác mặt đỏ bừng bừng lao lên rượt theo một người đàn ông đứng tuổi. Bị chúng tóm được, ông ta vừa kịp hô rầm lên "Mao chủ tịch vạn tuế !", "Ðảng cộng sản vạn tuế !" thì đã bị bắn chết tươi. Không ai biết ông ta phạm tội gì. Cái xác cứ nằm mãi trước phòng vệ sinh, hai cẳng chân đen đủi thò ra ngoài quần rung rung theo nhịp tàu chạy. Hành khách ngồi im thin thít, không ai dám rời chỗ để giảm đi sự căng thẳng trong bụng và trong lòng. Nhân viên đường sắt sợ xanh mắt. Không ai dám dọn cái xác đi. Ðưa xuống một ga nào đó trên đường có thể bị buộc tội cảm tình với phái hữu. Vứt xuống trong khi tàu chạy thì không nỡ.
Nói chung, tình hình Trung Quốc trong Ðại cách mạng văn hóa vô sản vô cùng rối ren, thứ tình hình được gọi là loan xi pa chao, nghĩa là loạn xị bát nháo. Dân chạy loạn Hồng vệ binh kể bên Tàu không như ta hình dung. Không có một thứ Hồng vệ binh đồng nhất. Có loại Hồng vệ binh rất ác, có loại ác vừa, có loại ác ít. Thảng hoặc mới gặp Hồng vệ binh hiền. Bọn Hồng vệ binh đặc biệt ác đi đến đâu phá phách đến đó. Chúng xông vào chùa chiền, lăng tẩm đập phá không tiếc tay. Sách báo trong các thư viện bằng tiếng nước ngoài bị lôi ra đốt sạch, trong đó có những sách quý mà nhiều thế hệ trí thức Trung Quốc tốn không biết bao nhiêu công sức và tiền bạc mới gom được. Một giám đốc thư viện phải quỳ xuống, rập đầu vái chúng như tế sao : "Trăm lạy các tiểu tướng ! Ngàn lạy các tiểu tướng ! Xin các tiểu tướng giết tôi, nhưng tha cho, đừng đốt sách !". Chúng dong những giáo sư đầu bạc khắp phố phường, sỉ nhục họ vì họ phạm tội đầu độc sinh viên bằng những tư tưởng phi vô sản. Chúng lấy thắt lưng quật nát tay một sinh viên nhạc viện vì anh này trốn hạ phóng, sợ lao động chân tay. Anh sinh viên sau trốn sang Anh, được giải thưởng vĩ cầm quốc tế.
Mao là một thầy phù thủy vĩ đại. Chỉ ông ta mới biết cách tạo ra thứ âm binh - vệ binh kỳ lạ như thế.
Anh Vũ Bội Kiếm, bạn thân của tôi thời tiểu học, kể rằng trước khi về nước anh liều mạng đến chia tay với thầy học, một chuyên gia khí tượng cỡ thế giới. Liều mạng, vì ông giáo sư đang bị đấu như một phần tử phái hữu. Mới qua có mấy tháng mà ông già đi cả chục tuổi. Gày rộc, hốc hác, ông ngồi ủ rũ trong căn phòng tối, không dám bật điện. Tiếp Vũ Bội Kiếm, ông khóc tức tưởi dặn anh về đến Việt Nam phải lập tức báo cáo ngay cho lãnh đạo nước mình biết việc đang xảy ra ở đây. Chớ để Việt Nam sa vào vết xe đổ, ông nói, kẻo có ngày nền khoa học trẻ của các anh bị san bằng để rồi phải khởi sự từ đầu. Về nước, Vũ Bội Kiếm hiểu rằng có nói cũng chẳng ai nghe, mà còn nguy hiểm. Trên báo Nhân Dân(11), dưới những hàng tít đậm, thành tích đập phá của Hồng vệ binh dưới sự lãnh đạo của Mao chủ tịch vẫn được ca ngợi hết lời.
Chẳng riêng Vũ Bội Kiếm, anh là thần dân quá bé nhỏ để có thể kêu thấu cửu trùng, những cán bộ không kém phần mao-ít về quan điểm nhưng trung thực về tư cách như phó tổng biên tập Việt Nam Thông tấn xã Lê Chân sau khi đi thăm Trung Quốc đã làm bản tường trình gửi Trung ương, đề nghị Trung ương thận trọng với những kinh nghiệm Trung Quốc. Bản tường trình bị bỏ vào sọt rác, người báo cáo bị gọi lên xát xà-phòng(12) vì tội có cái nhìn sai lạc đối với thực tế cách mạng ở nước đàn anh. Thật ra, trong bản tường trình Lê Chân cũng không dám phê phán Ðại cách mạng văn hóa vô sản đâu, anh chỉ khách quan trình bày những gì anh thấy - cảnh lộn xộn tại Bắc Kinh, những giáo sư bị sinh viên đánh đập, những di tích lịch sử ở Di hòa viên, ở Cố cung, Thiên đàn, Thập tam lăng bị Hồng vệ binh phá phách. Anh trích lời phát biểu của các sinh viên Bungari, Anbani, Rumani mà anh gặp. Họ lên án hành động man rợ của Hồng vệ binh và quyết định rời Trung Quốc, vì ở đây đang diễn ra sự hủy diệt bất cứ cái gì là văn hóa. Tôi được đọc bản tường trình của Lê Chân. Không ngờ con người bị chúng tôi liệt vào loại mao-ít như anh lại có dũng khí viết sự thật như thế. Một năm trước, khi tôi cùng với anh đi thăm nông trường Sao Vàng ở Thanh Hóa, Lê Chân còn hào hứng tán dương Ðại cách mạng văn hóa vô sản, cho rằng sứ mệnh của giai cấp vô sản là "phải đập tan mọi cái cũ để xây cái mới".
Vũ Bội Kiếm còn kể cho tôi nghe những chuyện thực mà như bịa ở Trung Quốc. Tại trường đại học Thanh Hoa, Giang Thanh(13) nhảy lên diễn đàn vò đầu bứt tai kể nỗi khổ của bà ta trong gia đình chồng. Bà tố cáo lũ con chồng miệt thị bà, hành hạ bà, nhất là đứa con dâu cả. Cho dù những chuyện đó có thật cũng không phải cái để phô ra công chúng. ê bên Tàu khác : Giang Thanh là lãnh tụ Hồng vệ binh, xúc phạm Giang Thanh là xúc phạm Hồng vệ binh.
Trên diễn đàn trường này, Hồng vệ binh Bắc Kinh to tiếng chửi bới Hồng vệ binh Ðường Sơn ỉa bậy, biến thủ đô thành một nhà xí hôi thối. Hồng vệ binh Ðường Sơn giằng lấy micrô chửi lại, nói không phải họ bậy, mà Hồng vệ binh Thiên Tân bậy. Hồng vệ binh Thiên Tân nhẩy lên chửi Hồng vệ binh Ðường Sơn nói láo, rút Mao tuyển ra chỉ vào một trang. Lời Mao chủ tịch dạy rành rành: "Không điều tra không có quyền phát ngôn". Hồng vệ binh Ðường Sơn gạt người Thiên Tân ra, cũng chỉ vào Mao tuyển :"Người nói không có tội, người nghe phải sửa mình". Giằng co chán, chửi nhau chán, họ choảng nhau. Cảnh sát thổi còi te te nhảy vào, cũng lại rút Mao tuyển để giở một trang khác, đọc to cho mọi người cùng nghe, trong đó cũng lại Mao chủ tịch dạy rằng : "Mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân không phải là mâu thuẫn địch ta, phải giải quyết bằng thương lượng".
Trung Quốc dưới thời Mao Trạch-đông trị vì không bao giờ có được một thời kỳ bình ổn lâu dài. Thỉnh thoảng Mao Trạch-đông và đám đệ tử ông ta lại quậy một chặp, làm cho đất nước nát như tương trong một phong trào nào đó, khi tam phản, khi ngũ phản, khi thất bát phản, không còn biết đàng nào mà lần.
Không biết có phải các nhà lãnh đạo Việt Nam quay lưng lại với thực tế hay vì quyền lợi riêng làm cho mù quáng, nhưng trong một thời gian dài họ khăng khăng coi đường lối Mao Trạch-đông là đúng(14).
Huỳnh Ngự thấy có trách nhiệm phải soi sáng cho cái đầu bị thịt của tôi. Y kiên nhẫn giảng giải cho tôi hiểu vai trò của các đảng mác-xít - lênin-nít trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, đặc biệt là vai trò của Ðảng cộng sản Trung Quốc và Ðảng Lao động Việt Nam. Cứ như y thì chỉ có hai đảng là thực sự tích cực trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin. Y thóa mạ các đảng cộng sản Pháp, í, Tây-ban-nha, chỉ trích các đảng cộng sản Triều Tiên, Rumani, Anbani.
Trên báo chí thế giới đã có nhiều bài viết về chuyện tẩy não trong nhà tù xã hội chủ nghĩa. Không biết với người khác thế nào, chứ với tôi những bài thuyết giảng bữa đực bữa cái chen vào giữa buổi hỏi cung là hành động tẩy não duy nhất. Không có chuyện bắt người bị tẩy não học thuộc lòng, chỉ có sự nói dai như chão rách của kẻ tẩy não về chủ nghĩa Mác, về đường lối chính sách của Ðảng, sự dọa nạt về hậu quả sẽ đến với anh nếu anh không thông. Nghe chướng tai quá, đôi lần tôi nhẹ nhàng bác Huỳnh Ngự điểm này điểm khác, cố gắng nói cho y nghe đôi chút về chủ nghĩa Mác chính bản, thì y hét rầm lên :"Anh vô đây không phải để cãi lý với tui. Tui không lý luận với anh !".
Hét rồi y lại ôn tồn :
- Anh phải hiểu rằng đường lối của Ðảng ta trước sau như một là kiên quyết dắt dẫn nhân dân ta thẳng tiến trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ðường lối của Ðảng là duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt. Ðảng kiên quyết tiêu diệt mọi kẻ thù bên ngoài cũng như bên trong, không cho chúng phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Mọi biểu hiện xét lại, hữu khuynh đều là nấm độc, là cỏ dại, phải nhổ bằng hết. Tui tiếc cho các anh, đi theo Ðảng đã nhiều năm, lẽ ra phải trung thành rất mực, phải tự hào về Ðảng ta, về nhân dân ta thì các anh lại nghển cổ hớp từng lời lếu láo của bọn phản bội xét lại hiện đại...
Y thở dài thương tôi ngu.
Vào cuối giờ một buổi hỏi cung, tôi vờ giương đôi mắt nai vàng lên nhìn y rồi hỏi bằng giọng ngập ngừng :
- Thưa bác, căn cứ những điều bác hỏi tôi, tôi mới chỉ đoán phỏng, xin bác giải đáp cho tôi rõ : phải chăng ở ta có một âm mưu đảo chính thật ?
Huỳnh Ngự quắc mắt lên, nhìn tôi chằm chằm.
- Ðó chính là cái anh phải khai ra, chớ không phải cái để anh hỏi tui. Ðừng có vờ vĩnh.
- Tôi không biết thật mà. Chỉ sau khi được bác hỏi tôi mới hiểu rằng có cái đó...
- Tui chỉ hỏi anh có khi mô anh nghe thấy ai nói tới hai tiếng đảo chính không mà thôi. Rõ chưa ?
Khó hiểu quá. Y muốn tôi khai về âm mưu đảo chính, mà khi tôi nhắc lại lời y thì y giãy nảy, không dám khẳng định.
- Rõ rồi. Sở dĩ tôi phải hỏi lại là vì tôi chưa từng nghe thấy từ miệng những người tôi quen hai chữ ấy.
Huỳnh Ngự cười nhạt.
- Vậy mà thằng Kiến Giang(15) lại nói khác anh đó...Tui muốn tin anh, nhưng trong trường hợp này tui tin thằng Kiến Giang hơn. Nói chung, anh chưa bao giờ khai báo trước mọi người được một điều gì. Toàn người ta khai rồi, mới đến lượt anh.
- Anh Kiến Giang nói cái gì ?
- Thằng Kiến Giang khai khi hắn nói, anh có mặt.
- Tôi nhắc lại một lần nữa : tôi không nghe thấy ai nói tới đảo chính. Cả Kiến Giang, tôi cũng không nghe. Nếu anh Kiến Giang nói thế thì cứ đem hai bên ra đối chất. Ðối chất là cách tốt nhất để tìm ra sự thật.
Huỳnh Ngự cười xuê xoa :
- Thôi, thôi, nếu hắn nói không đúng thời biểu là không đúng, việc chi mà bực bội. Tôi chỉ đặt câu hỏi, anh nghe, suy nghĩ rồi trả lời. Coi như tôi ra cho anh cái đầu bài. Lúc nào anh nhớ ra, nghĩ lại, thấy trả bài được thì trả bài. Bất cứ lúc nào - ban ngày, buổi tối, nửa đêm. Anh chỉ cần nói với ông quản giáo để ông quản giáo báo lại cho tui biết.
Thấy tôi trở về đăm chiêu hơn mọi ngày, Thành hỏi :
- Cậu làm sao vậy ?
- Lại cãi nhau. - tôi thác qua chuyện khác - Tôi vẫn chưa được viết thư về nhà. Tới hôm nay gia đình tôi vẫn chưa biết tôi ở đâu. Khốn nạn, chúng nó bày trò bắt cóc tôi để làm gì kia chứ ?
- Mặc kệ đời đi, cậu ơi !- Thành ái ngại - Nghĩ ngợi làm quái gì. Mà đâu phải chỉ người ta gây ra cho cậu. Cậu cũng gây ra cho cậu đấy chứ...
- Anh vẫn cho rằng tôi có tội nên người ta mới bắt ? - tôi bực bội - Anh vẫn không tin ?
- Không phải. Tôi muốn nói nhân nào thì quả ấy. Chúng ta xây dựng nên chế độ này chứ có phải nó từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất mọc lên đâu... Thôi thì ráng mà chịu cái quả sinh ra từ cái nhân ta gieo. Chung quanh ta là bốn bức tường bê-tông cốt sắt. Có chết ở nơi này cũng chẳng ai biết, suy nghĩ phỏng có ích gì ?
Một câu hăm dọa chăng ?
Xem ra Thành không có ý ấy. Anh bình thản quay mặt vào tường chuẩn bị cái nghi thức trang trọng cho điếu thuốc lào. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi hút thuốc lào mặt anh nghiêm trang hẳn, trông đến tức cười. Nhờ Thành, biết đâu đấy, thuốc lào đạo cho Việt Nam sẽ hình thành, như một thiền sư Nhật Bản đã sinh ra trà đạo cho đất nước mặt trời mọc.
Tôi đã ở đây bao lâu rồi ? Nửa tháng, hai mươi, hai mươi nhăm ngày ?
Tôi quên thời gian rồi sao ? Có vẻ tôi quên thật. Nhờ quên được tôi mới chịu đựng nổi cảnh tù ngục, rất nặng nề trong thời gian đầu. Nhưng sao lại thế nhỉ ? Chẳng lẽ ý chí đã giúp được tôi chìm vào quên lãng ? Không, ý chí chỉ giúp tôi tập trung tư tưởng cao độ để đối phó với những mánh khóe của Huỳnh Ngự. Chứ giờ đây, nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy hình ảnh vợ tôi, hai đứa con tôi hiện lên với đầy đủ những nét thân thương. Nhưng rõ hơn cả là hình ảnh mẹ tôi. Bà như đang đứng trước mặt tôi, trong xà lim. Tôi nhìn rõ những sợi tóc bạc của bà, những nét nhăn trên trán, đôi mắt cương nghị và cái nhìn trìu mến. Không có ai trên đời nhìn tôi như thế. "Chết đứng hơn sống quỳ, con ạ !", mẹ tôi nói.
- Nghĩa là ta phải sống thế nào ?
- Tôi muốn nói : con người phải ý thức được phận mình. - Thành thủng thẳng - Mình đã rơi vào đây thì cứ cầm bằng chết rồi là hơn. Có thế sống mới dễ. Thật đấy, đã vào đây con người không còn là người nữa. Cứ như thể Hỏa Lò là một lằn ranh, bước qua nó mình hết là mình. Có lẽ mục đích của nhà tù là thế. Nó làm cho mình có cảm giác rời bỏ cái thế giới mà mình sống, rời bỏ hẳn, không trở lại...
- Chỉ có nhà tù ta mới như vậy. Nhà tù khác đâu có thế.
- Tôi không biết ở các nhà tù khác thế nào, nhưng tôi nghĩ trên thế giới chắc cũng có những nhà tù giống nhà tù mình.
Tôi hiểu anh muốn ám chỉ nhà tù của phát-xít Ðức.
Buổi tối, tôi nghe có tiếng búa đóng giống như tiếng đóng nắp ván thiên.
- Anh đã thấy những cái chết trong xà lim chưa ?
- Thấy chứ. Tội nghiệp lắm.
- Nó thế nào ?
- Còn thế nào nữa ! Tù xà lim chết một mình một bóng. Không ai vuốt mắt, không rửa tội, thậm chí muốn chia tay với các bạn tù cũng không được. Một cái giấy báo tử, thế là hết. Không giải thích. Không chia buồn. Ðã có một con người. Rồi không có nó nữa. Tù chết đã có tù sống chôn. Trong nghĩa địa tù. Mạng con người, cậu ơi, ở nước ta rẻ lắm.
- Người ta không khám nghiệm y tế để kết luận về nguyên nhân cái chết sao ?
Thành cười gằn, khe khẽ.
- Sẽ có một biên bản chứ. Một mảnh giấy ghi loằng ngoằng vài chữ, do một y sĩ bổ túc(16) ký tên. Mà cũng chỉ làm để đấy, người nhà không đòi thì cũng chẳng ai cho xem. Phần nhiều người ta không dám đòi, đòi xem biên bản là thiếu tin tưởng ở Ðảng ...
Tôi nghĩ tới cái chết của tôi. Tôi cho rằng không nên ngu để sống một đời tù không biết đến ngày về.
- Thế cho nên chẳng suy nghĩ làm gì cho thêm đau lòng. Ðời tù nó thế. Biết điều để chấp nhận thì sống nhẹ nhàng hơn. Không biết điều, cứ giãy giụa chỉ tổ trầy da sứt vẩy...
Chúng tôi nằm im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ.
Anh không có ý dọa tôi. Chẳng qua ở xà lim lâu người ta dễ thành triết gia vườn.

(1) Trong bộ Luật hình sự không có tội danh này. Tuy nhiên nó được sử dụng tùy tiện, như rất nhiều tội danh khác, đại loại như tội nói xấu lãnh đạo, tội xuyên tạc chính sách của Ðảng và Nhà nước, hoặc tội lợi dụng quyền tự do dân chủ...
(2) Theo cách thức họp Ðại hội được Ban tổ chức Trung ương đề ra thì các đại biểu được các cấp cơ sở bầu đi dự Ðại hội còn phải qua cái gọi là xét duyệt tư cách đại biểu rồi mới được công nhận là đại biểu chính thức. Việc xét duyệt tư cách đại biểu thuộc thẩm quyền Ban tổ chức Trung ương. Bằng cách đó Thọ gạt ra ngoài bất cứ ai không được lòng ban lãnh đạo Ðảng đương nhiệm, để ban lãnh đạo này tiếp tục nắm quyền trong khóa sau.
(3) Chỉ các cán bộ có thâm niên công tác cách mạng, lực lượng kế cận, thường được bổ xung vào Trung ương khi khuyết, không phải một tổ chức.
(4) Xem cuốn "Giọt Nước và Biển Cả".
(5) Hóa ra không phải Hồ Chí Minh là người đầu tiên ví Việt Nam và Trung Quốc như môi với răng. Vào tháng 4.1941, khi những người cách mạng Việt Nam tổ chức Ðại hội thành lập "Việt Nam dân tộc giải phóng đồng minh hội" ở Tịnh Tây (Hoa Nam), chủ nhiệm hành dinh khu Tây Nam của quân đội Tưởng Giới-thạch là Lý Tế-thâm có gửi đến một bức trướng với bốn câu thơ mừng :
Trung-Việt dân tộc
Thuần xỉ quan thiết
Tiền sỉ đồ tồn
Duy thiết dữ huyết
Hoàng Văn Hoan dịch ra tiếng Việt :
Hai dân tộc Trung-Việt
Như môi răng quan thiết
Rửa nhục mưu sống còn
Chỉ có sắt và huyết
(Hoàng Văn Hoan - Giọt nước trong biển cả, tr.154, in tại nước ngoài, không rõ Nhà xuất bản).
(6) Thị thực xuất cảnh, nhập cảnh.
(7) Quân Trung Quốc đóng trên lãnh thổ toàn khu mỏ Quảng-Ninh, toàn khu tự trị Việt Bắc, một phần khu Tây Bắc và dọc theo quốc lộ 1 tới tận Yên Sở (Nam Hà Nội).
(8) Sự kiện Bác và Trung ương yêu cầu Mao chủ tịch cho quân đội Trung Quốc vào bảo vệ miền Bắc Việt Nam (Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả, sách đã dẫn) đến nay mọi người đều đã biết .Tinh thần bảo vệ Tổ quốc theo kiểu mời giặc vào nhà còn thể hiện trong việc thủ tướng Phạm Văn Ðồng thừa nhận lãnh hải do Trung Quốc tuyên bố trong một công hàm gửi Tổng lý Quốc vụ viện Chu Ân Lai năm 1958 chính là khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chỉ cốt để hai quần đảo không lọt vào tay chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
(9) Về cuối cuộc Ðại cách mạng văn hóa vô sản Hồng vệ binh có cả súng, nhưng đến lúc đó Mao Trạch-đông đã phải vội vã giải tán đám âm binh lộn xộn, sợ chúng làm loạn, quật chết thầy.
(10) Người dân Trung Quốc trong Ðại cách mạng văn hóa vô sản buộc phải thuộc lòng Mao tuyển. Người đi chợ mà không thuộc một đoạn trích Mao tuyển thì không được vào chợ. Có nhiều người tối dạ, phải đứng ngoài mà học cho thuộc lấy một đoạn Kinh thánh Ðỏ để được vào.
(11) Cơ quan ngôn luận của Trung ương Ðảng lao động Việt Nam.
(12) Phê bình, mắng mỏ.
(13) Vợ chính thức sau cùng của Mao Trạch-đông.
(14) Nhưng tới đầu những năm 80, họ lại nói rằng "những người xét xử (vụ "tứ nhân bang giao") đổ riệt mọi tội lỗi trong cách mạng văn hóa cho Lâm Bưu và bè lũ bốn tên, trong khi chính Mao là người "đích thân phát động và lãnh đạo cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản", rằng trong suốt quá trình xử án Giang Thanh một mực khai là "tôi làm theo chỉ thị của Mao chủ tịch". Họ nói "Ðặng (Tiểu Bình) và những người tán dương tư tưởng Mao Trạch-đông đều đã được hun đúc trong chủ nghĩa dân tộc sô-vanh" (trích trong cuốn Chủ nghĩa Mao không có Mao" Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội 1982).
(15) Nguyên tỉnh ủy viên Quảng Bình, phó tổng biên tập hay ủy viên biên tập tạp chí lý luận của Ðảng, tờ "Học tập". Ông bị coi là một lý thuyết gia trong "nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng". Do sau khi ra tù vẫn tiếp tục viết những bài báo phê phán sự du nhập có hại chủ nghĩa Mác và mô hình cách mạng vô sản kiểu Stalin vào Việt Nam ông bị đưa ra tòa và chịu 15 tháng án treo vì..."tiết lộ bí mật nhà nước" vào năm 1996, trong vụ xử những người dân chủ Hà Sĩ Phu, Lê Hồng Hà.
(16) Trong chế độ xã hội chủ nghĩa có nhiều bác sĩ, kỹ sư không học qua hệ chính quy mà chỉ qua những lớp bổ túc. Những cán bộ y tế loại này thường xuất thân từ những thành phần cơ bản - công nhân, nông dân, có lý lịch trong sạch hoặc nhờ có họ hàng bà con với những người có quyền chức (tương tự tầng lớp đặc quyền đặc lợi được gọi là nomenklatura ở Liên Xô cũ).




:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 21

Người Pháp có câu "Muốn giết con chó, hãy đổ cho nó có bệnh dại".
Thoạt nhìn, có vẻ sự đổ vấy cho đối thủ tội âm mưu đảo chính là kế hay, nhưng xét kỹ thì thấy nó không vẹn toàn.
Trong bối cảnh cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, nếu như có một âm mưu đảo chính ắt người ta phải nghĩ tới bàn tay nước ngoài. Trung Quốc không đảo chính một chính quyền thân hữu. Nước ngoài đây chỉ có thể là Liên Xô. Một sự vu vạ có thể gây ra rắc rối to với nước đang là nguồn viện trợ lớn nhất cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Không ai biết trước được Liên Xô sẽ phản ứng thế nào.
Cho nên khi đặt vấn đề có âm mưu đảo chính do Liên Xô xúi giục, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ, về thực chất, đã cả gan đặt vận mệnh đất nước lên chiếu bạc. Hơn nữa, họ còn coi thường ý dân. Lẽ ra họ phải biết, mà có lẽ họ biết nhưng không thèm quan tâm, rằng mô hình xã hội trại lính kiểu Trung Quốc chưa bao giờ là hấp dẫn đối với nhân dân Việt Nam.
Tuyên bố xử lý nội bộ đối với nhóm xét lại chống Ðảng là việc không có chủ định trước. Nó là cái được nghĩ ra trong lúc bấn, để đối phó với dư luận. Không một nhà cầm quyền nào coi âm mưu đảo chính là chuyện vặt. Cách nói xử lý nội bộ cũng vô duyên. Tất cả đều tầm phào, như chuyện con nít. Nhưng hậu quả của nó lại không tầm phào chút nào.
Âm mưu dựng vụ không phải bắt đầu cùng với vụ bắt bớ. Nó được nghĩ đến từ lâu, nhưng nghĩ chưa được chín, cho nên làm được tới đâu hay tới đó. Chỉ nhìn vấn đề theo cách ấy ta mới hiểu vì sao tin đồn Nikita Khrusov gửi thư riêng cho Võ Nguyên Giáp được loan truyền từ mấy năm trước. Trong bối cảnh quốc tế hồi ấy một bức thư như thế, nếu nó có thật, phải được hiểu là sự khuyến khích, là lời cam kết ủng hộ tướng Giáp trong mọi hành động, không trừ cả việc lật đổ chính quyền(1).
Tôi đã nhận xét trong một đoạn trên rằng trong thời gian ấy những người bị coi là thuộc "nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng" không hề hướng về tướng Giáp. Về đường lối đối ngoại thậm chí họ còn ủng hộ Lê Duẩn, tin tưởng ở lập trường trung dung mà ngoài miệng ông ta tuyên bố. Ðổ cho họ về phe tướng Giáp, cùng tướng Giáp mưu mô lật đổ là hết sức bậy, là nói lấy được.
Sau khi ra tù tôi được biết hồi ấy phần lớn dư luận cho rằng Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ đồng tình dựng ra vụ này. Nhưng cũng có người nói Lê Duẩn bị lừa, Lê Duẩn trông gà hóa cuốc, rằng ông ta bị đánh lạc hướng. Mà kẻ đánh lạc hướng Lê Duẩn, chủ trương vụ trấn áp không phải ai khác ngoài Lê Ðức Thọ.
Những người bênh vực Lê Duẩn nói rằng hồi ấy còn đang bận bịu với đại sự : ông ta đang rắp ranh trở thành lý thuyết gia mác-xít, nếu không đạt được cỡ quốc tế thì cũng cỡ khu vực. Luận điểm ở các nước không có giai cấp vô sản hoặc giai cấp vô sản chưa hình thành cũng có thể thành lập chính đảng mác-xít - lê-nin-nít ra đời cùng một lúc với các chủ thuyết ba dòng thác cách mạng, làm chủ tập thể là trong giai đoạn này.
Có thể là như thế.
Ngành tuyên truyền hồi ấy bơm Lê Duẩn lên hết mức. Ðồn rằng trong một cuộc hội đàm Việt-Xô, Lê Duẩn đập bàn quát mắng Khrusov. Tôi hỏi Khamiđulin Rashit(2) thì Rashit cười ầm nói rằng làm gì có chuyện ấy, chính anh dịch trong cuộc hội đàm ấy mà.
Chưa hết. Người của Thọ nói Thọ có đủ bằng chứng rằng chính đại sứ Liên Xô Sherbakov đứng đàng sau cuộc đảo chính bất thành(3).
Tôi không tin Liên Xô có ý muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Ðại hội XX trước hết là công việc của những người cộng sản Liên Xô, chống sùng bái cá nhân Stalin cũng là công việc của Ðảng cộng sản Liên Xô, chứ không nhằm chống sự sùng bái lãnh tụ ở các nước khác. Phản ứng dây chuyền trong việc chống sùng bái cá nhân là phản ứng đương nhiên, được cổ vũ bởi sự kiện Ðại hội XX mà thôi. Trong những năm 60 Liên Xô có đủ chuyện trong nhà để mà đau đầu.
Việc tra hỏi ngầy ngà về âm mưu đảo chính kéo dài cả tháng. Tôi phát mệt với những câu hỏi của Huỳnh Ngự. Thế rồi lại thấy im.
Tưởng đến đó là xong, nhưng không phải. Ðùng một cái, Huỳnh Ngự quay lại với đề tài cũ. Giữa một buổi hỏi cung bình thường, y bỗng nổi cơn quát nạt ầm ĩ. Khi quát tháo, giọng y bốc cao, the thé như giọng một tên lại cái :
- Anh còn muốn ở Hỏa Lò nầy tới bao lâu nữa hử ? Tui hớt kiên nhẫn với anh rồi. Tui tưởng đâu anh đã hiểu ra tội lỗi của anh trước Ðảng, anh sẽ thành khẩn khai báo, hóa ra không phải. Anh vẫn chó đen giữ mực, vẫn ngoan cố... Không muốn về nữa hử ?
Chao ôi, quát thì quát, anh chàng thư lại này vẫn còn ảo tưởng có thể thí dỗ tôi bằng một cái bong bóng xà phòng. Y muốn tôi nghĩ y cáu với tôi chỉ vì trên nóng lòng nóng ruột muốn thả tôi lắm rồi, còn tôi thì quá ngu ngốc nên không hiểu, cứ trơ trơ như gỗ. Huỳnh Ngự có cái dễ thương của y. Trong những ngày lao đao nhất của tôi, thỉnh thoảng y lại cho tôi một trận cười.
- Tôi chỉ có thể nói sự thật và chỉ có sự thật mà thôi. Nếu tôi nhớ không lầm chính bác đã nhiều lần nói với tôi rằng Ðảng không đòi hỏi gì hơn ở tôi ngoài sự thật...
- Ðừng có chơi chữ với tui, hiểu chửa ? - Huỳnh Ngự vỗ mạnh xuống bàn. Cái vỗ của y quá yếu, nó gây ra một tiếng bẹt thảm hại - Tôi đi guốc trong bụng các anh đó. Ðừng có thấy Ðảng đối xử tử tế với anh mà tưởng bở, tưởng Ðảng buộc phải nương nhẹ còn kiêng nể bọn xét lại hiện đại quốc tế ... Lầm to ! Lực lượng mác-xít - lênin-nít trên thế giới là vô địch, anh hiểu chưa ? Vô địch. Sự thật ?! Một khi anh đã không chịu thừa nhận những lỗi lầm của mình thì cái sự thật của anh chẳng bao giờ giống được sự thật của Ðảng. Mà chỉ có sự thật của Ðảng mới là sự thật, là chân lý. Cái sự thật của anh ấy à, nó không đáng giá một đồng xu keng...
Tôi nổi khùng :
- Nếu chỉ có sự thật của Ðảng mới được các anh coi là sự thật thì hà tất các anh phải hỏi tôi làm gì cho mất thời giờ. Các anh cứ việc viết cái sự thật ấy ra mà lu loa rằng tôi đã thú nhận. Mà có lẽ các anh đã lu loa với mọi người như thế rồi, bây giờ các anh muốn tôi tự tay viết, tự tay ký, để chìa ra làm bằng chứng, phải không ? Ðừng hòng !
Bên cạnh Huỳnh Ngự có thêm một người lạ mặt. Ðó là một người đứng tuổi, tầm thước, với cặp mắt thông minh trên gương mặt sáng sủa của một trí thức thành thị. Anh ta lẳng lặng theo dõi cuộc đấu khẩu, không tỏ thái độ rõ ràng.
- Thế thì để tui nói cho anh hay cái sự thật Ðảng biết về anh ! - Huỳnh Ngự gầm lên - Anh là một-tên-gián-điệp-của-bọn-xét-lại..
Huỳnh Ngự giúp tôi bình tĩnh trở lại. Tiếng gầm của con mèo làm tôi bật cười :
- Sao ? Anh nói cái gì, tôi không hiểu. Thật mà, tôi không hiểu khái niệm này. Ra còn có một tội danh như anh nói kia đấy... Thường trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia người ta nói tới tội làm gián điệp cho một quốc gia khác, chứ không ai nói gián điệp cho bọn này hay bọn kia...
- Anh muốn nói cho rõ hơn hả ? Ðược, tui sẽ nói rõ : anh là gián điệp-của-bọn-xét-lại-hiện-đại-Liên-Xô, anh làm gián điệp cho Liên Xô. Thế nào, anh có đủ can đảm nhận tội nớ không ? Hay cái nớ cũng không phải là sự thật của anh ? Cơ quan an ninh có đủ bằng chứng. Chính thằng Rasiđ đã thú nhận tất cả, tại phòng nầy nầy, cả thằng thầy nó nữa, thằng Sherbakov... Bọn xét lại Liên Xô đã phải xin lỗi vì thọc tay vào công việc nội bộ của Việt Nam. Các anh ngu dốt không biết, chớ cơ quan an ninh Việt Nam biết hớt mọi âm mưu của bọn xấu người nước ngoài. Lần này đến cả tên trùm lật đổ Mikoian cũng phải rợn tóc gáy. Chúng nó đều không ngờ...
Tôi muốn cười phá lên. Ghê chưa, bọn tiểu quỷ bây giờ nhảy bàn độc, nhổ bọt vào những đấng bậc mà trước mặt họ chúng khúm núm.
- Anh không tin ? Anh muốn biết bằng chứng ?
- Sao lại không tin ? - tôi cười vui vẻ - Tôi tin lắm chứ. Tôi tin rằng cơ quan an ninh phải có bằng chứng trong tay mới dám nói thế, còn bằng chứng ấy thế nào lại là chuyện khác. Trong những việc hệ trọng thế này đâu có thể xưng xưng nói ra cho sướng miệng mà được ... Những lời buộc tội không dựa trên bằng cớ xác đáng có thể dẫn tới những hậu quả tai hại vì chúng liên quan tới một quốc gia trước nay vốn không phải thù địch, hơn nữa lại là một nước anh em viện trợ cho ta nhiều hơn bất cứ nước nào khác...
Huỳnh Ngự chồm tới, ghé sát vào mặt tôi. Lòng trắng mắt y đỏ ngầu, vằn lên những tia máu. Tức giận không làm cho mắt y đỏ cạch như thế, tôi nghĩ. Thôi chết, y bị nhiễm dịch đau mắt đỏ rồi. Nạn dịch ghê gớm hoành hành dữ dội từ mấy tháng trước, tôi cũng đã bị. Nhưng trận dịch đã tắt, không hiểu sao y còn mắc. Lẽ ra y không nên ở đây lý sự lằng nhằng với tôi mà đến khám ở Viện Mắt.
- Ðược, tui sẽ cho anh biết những bằng chứng ấy. Ngay bây chừ. Ngay lập tức. - y rít lên - Chỉ vì Ðảng nhân đạo khoan dung cho những đứa con lầm đường lạc lối nên tui mới còn kiên nhẫn làm việc với anh mà thôi ...
- Có nghĩa là nếu Ðảng không khoan dung thì tôi đã bị bắn bỏ ? Tôi phải hiểu như thế chứ gì ?
- Nè đừng có chọc giận tui nghen. Sự kiên nhẫn nào cũng có giới hạn. Nhơn tiện tui cũng nói cho anh hay : không phải vô cớ Ðảng lịnh cho bắt anh ở giữa đường...
- Tôi không hiểu. Bắt giữa đường hay bắt tại nhà thì có gì khác nhau ? Bắt ở đâu cũng là bắt. Hẳn phải có lý do nào đó khiến Ðảng phải dùng cách bắt cóc...
- Anh lầm. - Huỳnh Ngự lửng lơ - Cái đó có nguyên nhân của nó, mà nguyên nhân ấy không nằm ngoài lòng tốt của Ðảng đối với gia đình anh. Anh cứ nghĩ kỹ khắc hiểu(4)...
- Tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn lượng bao dung và tình thương rộng lớn mà Ðảng dành cho gia đình chúng tôi - tôi cố ý chọn những từ ngữ khách sáo nhất để có thể mai mỉa nhiều nhất - Nhưng với tư cách người bị buộc tội tôi cũng rất muốn biết những bằng chứng kết tội mình. Biết đâu đấy, những bằng chứng ấy lại là ngụy tạo, do những tên bất lương cung cấp cho Ðảng nhằm mục đích tâng công thì sao ?
- Ðừng có láo ! - vừa dịu giọng được vài phút, Huỳnh Ngự lại sửng cồ - Anh bảo ai bất lương ? Anh bảo ai tâng công ?
- Những kẻ chạy theo thành tích bằng bất cứ giá nào ấy. Chẳng lẽ trong hàng ngũ cách mạng hết sạch những tên cơ hội rồi sao ?
Huỳnh Ngự ngớ ra một giây. Trong các tài liệu tuyên huấn Ðảng không ngớt chửi rủa bọn cơ hội. Tôi có chửi bọn cơ hội cũng là chửi phụ họa theo Ðảng mà thôi.
Người đàn ông ngẩng mặt lên nhìn tôi.
- Ðược, lúc ni tui không thèm đôi co với anh chuyện đó. Ðể đó sau. Chừ anh trả lời tui : ngày nớ giờ nớ (y giở sổ tay và đọc rõ ngày giờ với vẻ đắc ý) anh gặp thằng Rashit tại quán An Thái kế bên rạp Tháng Tám(5) để bàn chuyện chi ? Anh có chối rằng anh không gặp hắn không ?
- Việc gì phải chối ! - tôi nhún vai - Chẳng lẽ tôi lại không được phép gặp gỡ bạn bè là công dân một nước anh em sao ?
- Không được phép. Ðảng đã nghiêm cấm tiếp xúc với người nước ngoài.
- Rất tiếc, tôi chưa được biết Ðảng đã ra một sắc lệnh như thế.
- Anh xỏ lá hả ? - Huỳnh Ngự dậm chân quát - Ðừng tưởng tôi không hiểu cái lối xỏ lá của anh. Ðảng không bao giờ ra sắc lệnh. Nhưng Ðảng là Ðảng lãnh đạo, Ðảng quyết và Nhà nước thực hiện.
- Kể cả sắc lệnh của Nhà nước, xin lỗi, của Quốc hội, tôi cũng chưa được đọc.
- Không phải sắc lệnh, mà là chỉ thị. - Huỳnh Ngự nhăn nhó - Nó đã được phổ biến đến từng cơ quan...
- Tôi hiểu rồi. Chỉ thị này là chỉ thị mật, không được đăng báo, nếu đăng tôi đã biết. Không thấy cơ quan tôi nói gì về chuyện này. Mà cũng có thể khi chỉ thị được phổ biến thì tôi lại không có mặt ở tòa soạn. Chả là tôi thường xuyên đi công tác địa phương...
Tất nhiên, tôi biết cái chỉ thị mật sặc mùi bế quan tỏa cảng của Phạm Văn Ðồng. Cái chỉ thị nhà quê này làm cho những người trước kia học tại Liên Xô và các nước Ðông Âu phải chạy trốn các bạn học cũ khi vô tình chạm trán họ trên đường phố Hà Nội.
- Ta trở lại vấn đề : anh gặp Rashit bàn những chuyện chi ?
Cách của Huỳnh Ngự là thế - vừa mới quát nạt phút trước phút sau y đã chuyển ngay sang giọng bình thường để quay lại với câu hỏi bỏ dở.
- Bàn chuyện gì ? - tôi nhún vai - Chúng tôi chẳng bàn chuyện gì hết.
- Anh nói dối !
- Nếu cái gì tôi nói cũng bị coi là nói dối thì còn nói nữa làm gì, vô ích.
- Ðược, anh nói gì cũng được. Tui nghe.
- Tất nhiên, bên ly cà phê chúng tôi cũng nói chuyện tào lao, không thể không có chuyện đó. Nhưng đó là chuyện trời đất nắng mưa, không đáng kể ra đây...
- Tui cũng muốn nghe cả những chuyện nớ.
- Ðược thôi, đại loại tôi hỏi thăm Rashit về các bạn cũ - chả là chúng tôi có những người bạn chung...
- Hừm, chi nữa ?
- Chuyện mấy năm nay Moskva xây dựng thêm nhiều, Rashit nói, bây giờ tôi sang chắc không nhận ra nơi tôi ở cũ.
Huỳnh Ngự cười nửa miệng.
- Có vậy thôi ư ?
- Ðáng tiếc, hôm ấy chúng tôi lại chẳng nói chuyện gì khác...
Tôi biết hôm ấy có cá chìm theo. Khi tôi và Rashit ngồi trong quán cà phê, chúng lảng vảng bên ngoài. ê vị trí đó chúng không thể nghe được chúng tôi nói gì với nhau, giả định rằng chúng biết tiếng Nga. Ðể có thể nghe lén ở khoảng cách xa, bọn cá chìm phải được trang bị tốt. Nhưng đám phái khiển(6), được chọn từ những mối quan hệ huyết thống của gia đình Hoàn, chỉ thạo buôn lậu chứ ra nước ngoài chẳng những đã không thu thập được tin tức tình báo cần thiết, mà còn không mua sắm được phương tiện hiện đại cần cho hoạt động nghiệp vụ. Ðiều này giải thích vì sao về sau này Trần Quốc Hoàn mất hai năm không bàn giao nổi công tác tình báo cho bộ trưởng mới Phạm Hùng. Lịch sử còn ghi nhận thêm hai sự kiện đáng xấu hổ cho Hoàn : đó là khi quân Polpot vượt biên giới Tây Nam đánh vào Tây Ninh, khi quân Trung Quốc tràn qua biên giới phía Bắc. Trong cả hai biến cố lớn ngành an ninh đã không báo trước được cho Trung ương lấy một ngày.
Tôi lấy làm tiếc đã không kể được cho Huỳnh Ngự nghe câu chuyện giữa tôi và Rashit. Y không đủ trí tuệ để hiểu được sự thật. Tính đinh ninh, cố chấp làm y mù lòa.
Câu chuyện hôm ấy đáng được kể lại ở đây, vì nó liên quan tới cái gọi là tình quốc tế vô sản. Rashit hỏi ý kiến tôi về một số yêu cầu viện trợ đang làm anh băn khoăn. Chẳng hạn, phía Việt Nam đưa ra con số tổn thất về phương tiện vận tải quá lớn. Theo thỏa thuận, Liên Xô phải đảm bảo cho Việt Nam một số đầu xe hoạt động trên toàn chiến trường Nam Bắc, Mỹ bắn hỏng bao nhiêu phải lập tức bù lại bấy nhiêu cho đủ. Cầu cũng vậy, Mỹ đánh gục cầu nào là phải có ngay sắt thép lắp lại ngay lập tức để bảo đảm vận chuyển bộ đội và súng đạn cho chiến trường. Theo tinh thần này Việt Nam yêu cầu Liên Xô cung cấp một lượng thép cầu rất lớn, tính theo loại có kết cấu trung bình thì đủ để xây dựng một cây cầu có chiều dài tổng cộng ... 80km (!)
Rashit nói :
- Nhiều quá ! Của cải Liên Xô đâu phải vô tận. Cũng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được. Tôi không biết sẽ phải giải thích với chính phủ tôi ra sao đây, mà đó là công việc tôi phải làm...
Tôi hiểu : con số không khiêm tốn. Nhưng trong tôi tư tưởng bản vị thắng lẽ công bằng. Tôi không muốn Liên Xô giảm số sắt thép viện trợ.
- Nếu chỉ nói riêng về cầu không thì quả có quá đáng. - tôi trả lời - Trong con số này chắc người ta đã tính gộp cả những nhu cầu khác thuộc cầu đường, chẳng hạn làm thanh chắn cho các đường ngầm qua suối, làm pông-tông(7). Việt Nam, cậu biết đấy, có quá nhiều sông suối...
Rashit vốn nhiệt tình với Việt Nam. Anh gật gù rồi nói có thể tôi có lý.
Câu chuyện hôm đó là thế. Nhưng có nói ra với Huỳnh Ngự cũng vô ích. Trong khối óc bã đậu của y những người xô-viết có mặt tại Hà Nội đều là những tên xét lại hiện đại, những tên địch, và y đang vênh vang tự hào về chiến thắng của quan thầy y trong cuộc chiến tưởng tượng.
ê đây kể cũng nên mở ngoặc đơn để nói về một sự bất công. Dư luận thế giới nói nhiều về những mưu toan bá quyền của Liên Xô. Người ta dẫn ra các thí dụ về việc Liên Xô
hy sinh một số nước láng giềng như Tiệp Khắc, Ba Lan trong thế chiến thứ hai, việc can thiệp vào nội bộ các nước ở Ðông Âu để đàn áp những cuộc nổi dậy của dân chúng tại các nước đó, tham gia cuộc chiến dai dẳng tại Afganistan(8), can thiệp vào cuộc chiến tại Việt Nam, Angola...
Những việc đó có thật. Nhưng bên cạnh và bên trong những toan tính vị kỷ của các nhà lãnh đạo xô-viết còn một sự thật khác bị cố tình không nhắc tới, nhất là sau khi Liên Xô tan rã. Sự thật đó là : trong những người xô-viết bình thường có thật một niềm tin ở tinh thần quốc tế vô sản. Họ tự hào thực hiện nghĩa vụ người cộng sản đối với phong trào giải phóng dân tộc, với nhân loại. Vì một chủ nghĩa bá quyền xô-viết mà phủ nhận công lao của các chiến sĩ Hồng quân đã hy sinh mạng sống để tiêu diệt chủ nghĩa phát-xít là vô ơn.
Cũng như vậy, không thể vì những mưu toan của một Lê Duẩn, một Lê Ðức Thọ mà xóa sạch những hy sinh của các chiến sĩ Việt Nam trong cuộc chiến chống bọn diệt chủng Polpot. Trong chuyện này quốc vương Sihanuk còn công bằng hơn những người căm thù bất cứ cái gì là cộng sản. Mặc dầu không bằng lòng chính quyền Hà Nội trong nhiều vấn đề ông vẫn ghi nhận sự thật là : nếu không có người Việt Nam thì thảm họa diệt chủng ở Camphuchia còn lớn hơn nhiều.
Những vấn đề lịch sử thường rất phức tạp, không thể suy nghĩ theo cách đơn giản : có không có, phải không phải.
Mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa hiện tồn, sự xuất hiện cũng như sự tan rã của nó, để lại cho nhân loại nhiều điều suy ngẫm. Ước mơ về một xã hội công bằng trong tình thương yêu không mất đi cùng với sự mất đi của một mô hình. Chủ nghĩa cộng sản, với tư cách một ước mơ, sẽ còn tồn tại. Loại ra ngoài những hành động tàn bạo xảy ra trong điều kiện những thành quả cách mạng bị tước đoạt, xã hội mang tên cộng sản với nghĩa một xã hội tự do và công bằng, không còn cảnh người bóc lột người, bốn biển là anh em, chẳng lẽ không phải và không được phép là một xã hội mong muốn ?
Nhưng thôi, ta hãy quay lại với cuộc khẩu chiến của tôi trong Hỏa Lò.
Huỳnh Ngự đi đi lại lại một lát rồi đột ngột dừng bên cạnh tôi, ngọt nhạt :
- Tui hiểu, anh muốn tôi phải chìa bằng chứng ra rồi mới chịu nói hớt chớ chi ? Nè, cái đó, tui báo trước cho anh biết, chỉ có hại cho anh chớ không có lợi đâu. Anh không tin hử ? Anh coi thường đối thủ của mình hơi nhiều đó. Bây giờ đã là năm 1967 rồi, đâu có còn là năm 1945. Ngành an ninh của ta đã lớn mạnh. Anh thấy đó, cho dù anh có được chúng nó huấn luyện kỹ tới mấy, kết cục anh vẫn thua tụi tui như thường.
Thì ra trong cái đầu cằn cỗi của y Trường Ðại học Ðiện ảnh Moskva một lần nữa lại nổi lên như một Trung tâm huấn luyện tình báo. Chẳng thế mà y cứ hỏi đi hỏi lại về chương trình học ở trường này, bắt tôi nói kỹ, bắt tôi viết, về từng môn học, về từng giáo sư. Tôi hiểu : bằng những câu hỏi triền miên Huỳnh Ngự muốn tôi bị rối trí lộ ra những cái không nhất quán để y thọc sâu, khai thác tiếp.
Tự nhiên tôi thấy mệt. Có lẽ do áp huyết tụt. Tôi mắc chứng áp huyết thấp, nhưng chẳng bao giờ tôi tìm cách chữa nó. Tôi còn trẻ, bệnh tật chưa làm phiền tôi bao nhiêu. Cái mệt mỏi bất thần ập đến làm tôi không muốn kéo dài cuộc đấu khẩu. Tôi chán ngán cúi xuống. Im lặng tràn ngập căn phòng.
Không nhìn lên, tôi nghe Huỳnh Ngự cao giọng :
- Bây chừ anh còn muốn cãi nữa không ? Tui sẵn sàng nghe anh cãi. Còn cái sự thật nào nữa thì đưa ra đây coi thử ? Tui chẳng cần phải dối anh làm chi, tui nói có bằng chứng là tui có bằng chứng. Ðủ cả : muốn hình chụp có hình chụp, muốn băng ghi âm có băng ghi âm... Nào, chừ anh muốn coi hay muốn nghe ? Hay muốn cả hai.
Tôi chẳng muốn gì hết. Tôi chỉ muốn có một phép mầu nào đó giúp tôi biến khỏi nơi này, để khỏi phải thêm những lời xuẩn ngốc của một tên mắc chứng chuyên chính cuồng.
Huỳnh Ngự tưởng đã chế ngự được tôi. Y vênh vang như một kỵ sĩ cuối cùng đã thuần phục được con ngựa bất kham.
- Có vậy chớ ! - y thở phào - Chẳng lẽ anh cứ ngoan cố mãi.
Y tưởng tôi gục rồi, tôi sẽ nhận cái tội y muốn tôi nhận.
Ai cũng biết rằng đối với nhà cầm quyền ngoài cái tội tuyên truyền chống chế độ mơ hồ, chỉ còn có tội làm gián điệp cho nước ngoài là tiện lợi hơn cả. Chẳng cần phải vất vả chứng minh, cứ có lời nhận tội là đủ, là đã có thể mang tội nhân ra xử rồi.
Tôi không được trực tiếp nghe những thông báo nội bộ của Lê Ðức Thọ. Văn Cao dự họp Ðảng ở Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật, được nghe phổ biến về những thông báo trên. Anh kể lại cho tôi không những nội dung mà cả cách dùng từ ngữ trong những thông báo nọ. Chúng là sự sáng tạo ở cấp độ cao lối nói mơ hồ, tạo ra những khoảng không bao la cho sự hiểu ngầm.
Trong thông báo số 1, Lê Ðức Thọ nói rằng Ðảng (chứ không phải Nhà nước) đã quyết định bắt giam một số tên cầm đầu của một nhóm phản bội. Bản thông báo kêu gọi những ai có liên hệ với nhóm này đến báo cáo với Ban tổ chức Trung ương Ðảng (hãy mau mau lập công, hỡi các đồng chí !). Thông báo số 2 có vẻ cụ thể hơn. Lê Ðức Thọ cho trích một số lời thú tội của những người bị bắt, nhận có liên hệ với người nước ngoài, lạy lục van xin Ðảng khoan thứ. Sự bịa đặt quá lố, làm mẹ tôi phải kêu lên :"Bọn mất dạy, bố của các con không bao giờ nói những lời hèn hạ như thế ! Các con chớ tin lời chúng nó".
Mặc kệ Huỳnh Ngự nỉ non, tôi ngồi im. Cơn buồn ngủ ập đến làm tôi ngáp chảy nước mắt.
Huỳnh Ngự lại hiểu sự im lặng của tôi theo nghĩa khác.
- Chừ anh hiểu cả rồi chớ ? Hiểu thiệt chớ ?
- Vâng, tôi đã hiểu... - tôi ngán ngẩm đáp và nghe thấy y cười ré trên đầu tôi.
Thằng đần, tôi rủa thầm. Từ khi vào tù tôi thích nói những câu hai nghĩa. Tôi nói hiểu là theo cách của tôi, không phải theo cách của y.
Huỳnh Ngự tự thưởng cho mình một điếu Ðiện Biên bao bạc.
- Tui biết, tui biết chớ, chẳng chóng thì chầy anh cũng sẽ hiểu ra. Ngoan cố là vô ích, bởi vì Ðảng biết tất, biết từng hành động sai trái của anh, bởi vì tai mắt của Ðảng ở khắp mọi nơi...
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi ! Ðảng là Chúa Trời "ở khắp mọi nơi thông biết mọi sự". Ðảng là Phật nghìn tai nghìn mắt. Ðảng quyền lực vô biên !
- Ðảng còn hỏi anh là để cho anh có cơ hội phản tỉnh, để cho anh do đào sâu suy nghĩ mà hiểu thấu lỗi lầm, rồi tự mình trình bày với Ðảng...Thành khẩn khai báo là thước đo lòng trung thành với Ðảng... Ðánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại...
Tội nghiệp cho Huỳnh Ngự. Y quá vội sung sướng.
- Mừng cho anh hôm ni đã vượt qua được bản thân để thú nhận tội lỗi của mình với Ðảng. - y độ lượng mỉm cười, đặt tay lên vai tôi - Xét cho cùng, cũng chẳng con đường nào khác. Vả lại, anh theo Ðảng từng ấy năm, được Ðảng giáo dục dạy dỗ, chẳng lý nào anh lại không tiếp thu được điều chi. Trong thời gian tới tui hi vọng anh sẽ tiếp tục khai báo với Ðảng những chi mà bọn xấu người nước ngoài mưu toan gây hại cho nước ta...
Tôi ghê tởm cảm thấy trên vai mình chất nhày trên da loài bò sát. Ðể Huỳnh Ngự không nhận thấy mặt tôi nhăn nhó, tôi lí nhí đáp lại một câu không rõ.
- Bác Ngự ạ, cảm ơn bác chí tình khuyên răn, nhưng...
Huỳnh Ngự chững lại :
- Còn nhưng cái chi ?
- Thế này, tôi sẵn sàng nhận tội trước Ðảng... - tôi cố ý nói chậm, từng tiếng một, bằng giọng thật điềm đạm - bởi vì, thú thực, cái mà Ðảng coi là tội thì trong quan niệm của tôi ..., ồ không, xin bác đừng ngắt lời, xin hãy nghe tôi đã...
Huỳnh Ngự nuốt nước bọt. Y nhìn xoáy vào mắt tôi :
- Nói đi, đừng có vòng vo Tam quốc.
- Tôi sẵn sàng nhận tội làm tình báo cho Liên Xô...
- Tốt ! - Huỳnh Ngự phán.
-... bởi vì trong khái niệm của Ðảng tôi đã dại dột mắc vào tội đó...
- Tốt !
- Tôi nhận còn vì một lẽ nữa : tôi coi sự được đứng trong hàng ngũ các chiến sĩ tình báo xô-viết là một vinh dự.
- Hừm !
- Vâng, đúng thế, tôi coi là vinh dự. Với tôi, không có cách nhìn khác. Những chiến sĩ tình báo xô-viết đã lập chiến công to lớn trong cuộc chiến đấu của loài người chống họa phát-xít. Họ xả thân vì quyền sống của nhân loại, họ ngã xuống như những anh hùng...
- Hừm !
- Nhưng nếu như tôi không nhận mình là người trong hàng ngũ những người anh hùng ấy, mặc dầu lòng tốt và sự khó nhọc của bác, thì xin bác đừng giận : ở đây không phải chuyện chạy tội hoặc giả tôi không dũng cảm nhận việc mình làm... Nguyên nhân ở đây khác : tôi là một con gà lương thiện không thích được cắm lông công.
Tôi đứng lên, tỏ ý cuộc nói chuyện đến đấy đã chấm dứt.
Huỳnh Ngự trợn mắt, đờ đẫn nhìn tôi. Y không chờ đợi một phản ứng đầy miệt thị như thế. Người của bộ máy chuyên chính vô sản quen đè bẹp mọi kẻ thù bàng hoàng trước một tên tù non choẹt nhưng không thể bẻ gãy.
Người đàn ông mỉm cười, hoặc tôi có cảm tưởng anh ta mỉm cười.
Huỳnh Ngự run bắn lên. Trong cơn tức giận ập tới không tìm được lời đối đáp. Y còn tức giận hơn nữa vì trong phút ấy y không chỉ mất mặt với mình tôi - sự mất mặt lần này lại diễn ra trước thuộc cấp.
- Ðưa hắn vô trở lại xà lim ! - y hét lên, trở lại nguyên hình - Hắn muốn chết rục xương trong Hỏa Lò ni thì cho hắn toại nguyện ! Không có nương nhẹ chi với hắn hớt ! Từ mai các anh cắt hớt cho tôi ! Cắt ! Cắt hớt !
Vơ vội vã những tài liệu trên bàn, những ngón tay nhợt nhạt run lên, y nhét tất cả vào cặp, đùng đùng bỏ ra ngoài.
Còn lại người đàn ông và tôi. Giữ nguyên nụ cười khó hiểu trên môi, anh ta lững thững đưa tôi đi qua sân Hỏa Lò vắng vẻ tới cái tiền phòng, từ đó tôi trút bỏ áo quần đời thường để bước vào cuộc sống tù ngục.
Sau buổi làm việc không vui vẻ ấy cái bánh mì bộ tuyệt trần cũng vĩnh viễn ra đi. Cái chữ "Cắt hớt ! Cắt hớt !" của Huỳnh Ngự té ra có nghĩa là như vậy.
Thành không oán tôi về sự ra đi đột ngột của cái bánh mì đáng yêu. Anh an ủi tôi :
- Cậu lại gây gổ với họ rồi ! Thời tiết Hỏa Lò thay đổi như thế này là chuyện thường. Ðừng ngạc nhiên. Mà cũng đừng lo lắng.

(1) Trong hồi ký của mình ông Khrusov không hề nói tới một mối quan hệ riêng nào với ông Võ Nguyên Giáp, ông cũng chẳng đả động gì đến một bức thư nào gửi cho đại tướng Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp, trong những hồi ký lẻ tẻ của ông, cũng không thấy nói tới một bức thư như thế. Trong chuyện bịa ra bức thư này, chủ yếu cho nó chạy trong luồng dư luận ngồi lê đôi mách, ác ý của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ là rõ ràng.
(2) Bí thư thứ hai đại sứ quán Liên Xô tại Việt Nam vào những năm 60. Sau, Khamiđulin Rashit giữ chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô tại Phnôm Pênh, rồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô, rồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên bang Nga tại Hà Nội.
(3) Mãi tới Hội nghị Trung ương lần thứ 20, khóa III (tháng 1.1972) Trung ương Ðảng mới có kết luận về "nhóm xét lại hiện đại" như sau : "Ðây là một vụ án rất nghiêm trọng, có mục đích, có biện pháp tiến hành, nhằm lật đổ cơ quan lãnh đạo của Ðảng, đồng thời họ tổ chức hoạt động tình báo cho nước ngoài và được nước ngoài chỉ đạo chặt chẽ..." (Trích Nghị quyết số 219A ra ngày 27.1.1972. Tôi gạch dưới.V.T.H.) Như vậy là hơn bốn năm sau khi bắt người Lê Ðức Thọ mới lợi dụng Trung ương tuyên bố tội trạng (!), mà là tội trạng bịa đặt. Cũng không nói tới đảo chính nữa, chỉ nói tới lật đổ ban lãnh đạo Ðảng mà thôi.
(4) Cho đến nay tôi vẫn còn bán tín bán nghi : rất có thể hồi ấy Lê Ðức Thọ không chủ trương bắt tôi thật, mà chỉ định bắt dọa thôi. Thế mới biết Thọ tùy tiện đến mức nào trong việc đối xử với công dân.
(5) Rạp Majestic cũ.
(6) Tình báo viên được cử ra nước ngoài dưới những vỏ bọc khác nhau để thực hiện nhiệm vụ.
(7) Phao ghép làm cầu qua sông, suối.
(8) Trong những năm 1979-1989 Liên Xô đã mang quân chiếm đóng Afganistan (con số được công bố là 118.000 lính) "theo yêu cầu của nước bạn" để ủng hộ chính quyền thân Liên Xô, với những nhân vật lãnh đạo được lần lượt dựng nên và truất bỏ : Noor Taraki, Hafizullah Amin, Babrak Karman, Muhammad Najibullah.


:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 22

Dù sao mặc lòng, kể từ hôm ấy coi như tôi bị mất việc ở cơ quan tình báo xô-viết. Huỳnh Ngự cũng lờ tịt, không quay lại với đề tài bị thối lần nào nữa.
Tôi hiểu mình đã tước của các nhà chuyên chính vô sản một con bài quan trọng. Không phải đó là sự tước đi lý do buộc tội tôi, có lẽ là lý do duy nhất, hoàn toàn không phải thế. Ðiều đó không làm họ suy nghĩ. Chẳng cần phải vò đầu bứt tai nghĩ cách buộc tội tôi người ta vẫn có thể tống tôi vào xà lim như thường. Cái chính là họ mất đi kỳ vọng dùng tôi làm tấm ván bắc cầu vào nhà người khác - Võ Nguyên Giáp, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Lê Liêm và các nhà cách mạng lão thành bị bắt trong vụ này.
Nhưng Huỳnh Ngự không cho tôi nghỉ ngơi.
Bắt đầu cuộc đánh vật mới về những nhân vật quan trọng. Tôi bình tĩnh, khiêm tốn nói tôi chẳng biết gì về họ. Huỳnh Ngự phát chán. Y để họ đấy đã, chuyển qua hỏi tôi về những người mà theo tôi, chẳng mấy liên quan tới chủ nghĩa xét lại hiện đại.
Tính Tào Tháo(1) của nhà cầm quyền không phải là điều mới lạ. Nhưng nghi ngờ bất cứ ai, không căn cứ trên một chứng cứ nào thì thật quá đáng. Ðó là sự phỉ báng trắng trợn những người cùng chung hàng ngũ mà họ hàng ngày vẫn tay bắt mặt mừng, vẫn gọi bằng đồng chí.
Tôi xin kể một câu chuyện làm thí dụ.
- Anh ghê thiệt đó, chẳng kém ủy viên Bộ Chính trị bao nhiêu đâu. Ngồi tại Hà Nội mà có nhãn tiến(2) dâng tận miệng, ghê thiệt ! - Huỳnh Ngự bỗng dưng nói một câu bâng quơ trong tuần trà thông lệ, trước khi bước vào cuộc hỏi cung.
Tôi nhớ ra : cách đây ít lâu anh Lê Quý Quỳnh, bí thư tỉnh ủy Hưng Yên, có gửi cho tôi một bó nhãn tiến làm quà. Thì ra việc ấy cũng đến tai nhà chức trách. Anh Lê Quý Quỳnh cho cán bộ mang tới cơ quan chứ không mang tới nhà riêng. Thế mới biết chẳng có gì mà bọn chỉ điểm không báo cáo. Nói chuyện này ra Huỳnh Ngự muốn khoe sự hiểu biết thần thông quảng đại của cơ quan công an hay còn có ý gì khác ?
- Tui cần một báo cáo về Lê Quý Quỳnh. - y nói tiếp, mặt lạnh tanh.
Tôi còn đang ngỡ ngàng thì còi báo động đột ngột hú lên, cắt ngang buổi làm việc. Huỳnh Ngự lật đật ôm hồ sơ chạy ra ngoài.
Bom Mỹ cứ việc rơi trúng Hỏa Lò đi, chẳng sao hết. Tôi có một cuộc đời đẹp đến nỗi chẳng buồn tiếc nó làm gì ! Thành nói Hỏa Lò là nơi an toàn nhất Hà Nội, máy bay Mỹ không bao giờ ném bom vào nơi có tù binh Mỹ. Theo lệnh quản giáo, tù xà lim phải chui vào gầm phản khi có báo động. Chúng tôi chưa một lần chui xuống đó.
Còi báo động chỉ làm tôi nhớ nhà. Nhớ lắm ! Từ nhà tôi tới Nhà Hát Lớn thành phố chỉ ba bước chân. Mỗi lần còi báo động trên nóc Nhà Hát Lớn hú lên là các con tôi phải bịt chặt tai lại.
Huỳnh Ngự quay trở vào, xếp lại hồ sơ lên bàn. Cuộc hỏi cung tiếp tục.
- Tôi biết gì về anh Lê Quý Quỳnh để có thể nói về anh ấy ?!
- Anh biết quá đi chớ. Không dưng Lê Quý Quỳnh gởi nhãn tiến cho anh ? Thứ nhãn quý ni, anh thừa biết, chỉ dành riêng cho Bác và Bộ Chính trị, đâu phải bí thư tỉnh muốn cho ai thì cho.
Thì viết.
Tôi lùi bước theo cách của tôi. Giờ Huỳnh Ngự muốn bắt tôi viết gì tôi cũng viết. Có thể coi việc viết những báo cáo này là cách tiêu thời gian trong tù lắm chứ. Bọn mao-ít chẳng sử dụng được những báo cáo của tôi để hại ai đâu. Tôi thừa khôn để không trao cho chúng vũ khí hại người.
Tôi viết rằng Lê Quý Quỳnh là một trong những bí thư tỉnh ủy ít ỏi mà tôi được gặp. Hiếm có một bí thư tỉnh ủy gần dân như anh. Anh không mấy khi có mặt ở cơ quan tỉnh ủy mà lăn lộn hàng ngày với dân, giải quyết những vấn đề nảy sinh tại chỗ. Ðám nhà báo tìm anh rất khó. Tôi quen anh lần đầu vào mùa thu năm 1963 trong khi đi viết về Hưng Yên, không phải về Hưng Yên đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà về vùng đất "thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến" ngày xưa. Lê Quý Quỳnh tiếp tôi trong phòng làm việc, nơi mọi vật bị bụi phủ một lớp dầy. Vừa cầm giẻ lau qua quít cái bàn để lấy chỗ tiếp khách, Lê Quý Quỳnh vừa nói :"Nhà báo ạ, nếu anh được một bí thư tỉnh tiếp tại một bàn giấy bóng lộn thì anh hãy cảnh giác - anh đang hỏi chuyện một tên quan liêu đấy !".
- Tại sao anh không viết về khẩu hiệu "Hưng Yên mở hội làm giàu" của Lê Quý Quỳnh ? Mấy bận anh đi làm việc cho tòa soạn về Hưng Yên, chúng tôi biết, anh thường đi với Lê Quý Quỳnh tới các xã, ăn cùng mâm, nằm cùng giường với anh ta, thể nào Lê Quý Quỳnh cũng nói chuyện quan điểm với anh, đúng thế chứ ?
Lại quan điểm !
Tôi nhìn thấy trên những bức tường ở Hưng Yên khẩu hiệu này. Chúng bị xóa lem nhem nhưng vẫn còn đọc được. Vì khẩu hiệu "Hưng Yên mở hội làm giàu" Lê Quý Quỳnh bị nguyên tổng bí thư Trường Chinh gọi lên Trung ương cạo(3) cho một mẻ đến nơi đến chốn. Mở hội làm giàu là cái gì ? Phục hồi chủ nghĩa tư bản, hử ?
Lê Quý Quỳnh tính vốn lành, Trường Chinh vừa quát là anh nhận lỗi liền. Vẻ phiền muộn, anh nói với tôi trong chuyến đi dọc đường số 5 rằng lỗi của anh chẳng phải cái gì khác ngoài ý muốn cho dân Hưng Yên của anh có được một cuộc sống tốt hơn, để xóa đi câu nói đau lòng "Oai oái như phủ Khoái xin cơm". Hưng Yên có mật độ dân số cao nhất miền Bắc. Số người tha phương cầu thực cũng đông nhất miền Bắc. Ăn mày Hưng Yên nhan nhản trên đường phố Hà Nội, thỉnh thoảng Công an Hà Nội lại gom vào một chỗ, chất lên xe trả Lê Quý Quỳnh.
Người lành như anh chẳng dám ngang nhiên vượt rào. Anh có cách tính toán thực tế, rất nông dân của anh, là muốn khai thác những lợi thế tiềm tàng khác của đất đai ngoài khoản ruộng năm phần trăm(4) mà Ðảng còn dành cho nông dân, để cho nông dân tỉnh anh được sống khấm khá hơn một chút. Anh thú nhận có giấu giếm làm thí điểm khoán sản phẩm ở một vài đội sản xuất và khoe rằng đó là phương án rất có lợi.
Kim Ngọc, bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú, theo tôi nhớ, còn đi sau Lê Quý Quỳnh trong sáng kiến khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ nông dân, tính về thời điểm khởi đầu cuộc thí nghiệm. Trường Chinh lập tức cách chức Kim Ngọc. Lê Quý Quỳnh mới khoán chui đã bị xỉ vả, bị đá lên(5), thì Kim Ngọc bướng bỉnh dám một mình cho "khoán hộ" trên diện rộng(6) có mất chức bí thư tỉnh ủy cũng đáng.
Lê Quý Quỳnh kết thúc cuộc đời hoạt động cách mạng của anh bằng chức hội trưởng Hội những người nuôi ong.
Cơ chế khoán tới hộ lao động không phải xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam. Nếu như tháng 1.1962 Mao Trạch-đông đã lên tiếng phê phán cơ chế này thì hẳn ở Trung Quốc nó đã có trước đó ít nhất cũng một năm. Trường Chinh là người chăm chú nghiền ngẫm các trước tác của Mao, ông có kiên quyết chặn đứng mưu toan của Kim Ngọc cũng không lạ.
Từ bản báo cáo nhạt như nước ốc về Lê Quý Quỳnh và một số nhân vật trong Ðảng, tôi bị Huỳnh Ngự quay sang bắt khai về các văn nghệ sĩ quen biết : nhà thơ Dương Tường, nhà báo Mạc Lân, các nhà điện ảnh Huy Vân, Vũ Huy Cương, kịch sĩ Bửu Tiến, các nhà văn Châu Diên, Hứa Văn Ðịnh, Xuân Khánh, Phù Thăng và nhiều người khác. Cứ như tôi là cán bộ tổ chức Hội Nhà văn không bằng.
Người tôi khẳng định đã nằm đâu đó trong Hỏa Lò là Vũ Huy Cương. Sau khi được thả, gặp anh tôi mới biết tôi đoán sai một chút - Cương bị giam trong Sở Công an, trước kia là Sở Liêm phóng, chứ không bị đưa vào Hỏa Lò. Người ta bắt Vũ Huy Cương chỉ cốt để hỏi về Hoàng Minh Chính. Vũ Huy Cương kể thời gian đầu anh còn được ở trong một căn phòng không có khóa ngoài, báo động còn được chạy ra hầm trú ẩn cơ quan. Sau đó, tất nhiên, anh cũng bị giam như chúng tôi ở các trại. Tội giao du với Hoàng Minh Chính làm cho Vũ Huy Cương phải ở tù sáu năm, cộng với ba năm lưu đầy ở địa phương, không khác Hoàng Minh Chính đầu vụ một chút nào.
Ðã quen với những câu hỏi ngớ ngẩn, tôi vẫn phải ngạc nhiên khi Huỳnh Ngự đòi tôi khai về Dương Tường. Anh là bạn thân nhất của tôi. Dương Tường là nhà thơ. Trong chúng tôi anh ít quan tâm chính trị nhất, nếu không nói là chẳng thèm đoái hoài tới nó. Trong hai nhà sáng lập chủ nghĩa Mác anh thích Engels vì Engels khoái chuyện tình dân gian Tristan và Iseul. Anh không thích Mác vì Mác chỉ thích các saga mang chất anh hùng ca viking vùng Scandinave(7). Là người mơ mộng, anh chìm đắm trong cái đẹp của những con chữ, những vần điệu của thứ thơ không dễ hiểu đối với cả dân đen lẫn trí thức, đối lập với thơ hạt lúa củ khoai.
Châu Diên, tác giả tập truyện ngắn "Con nhện vàng" được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam đầu những năm 60 thì chỉ ham nghiên cứu. Vào thời kỳ nảy ra cuộc đấu tranh giữa hai đường lối tôi ít gặp Châu Diên. Anh học ở Trung Quốc vào thời gian những trò lẩm cẩm của họ Mao chưa đạt tới đỉnh cao vĩ đại. Chắc hẳn anh lại lỡ lời ở đâu đó về Mao chủ tịch kính mến nên mới bị Huỳnh Ngự hỏi đến.
Xuân Khánh chủ trương nhà văn không cần hư cấu, cuộc đời như nó có đã thừa đủ chất liệu cho nhà văn rồi, viết cả đời không hết. Nhưng viết thực về cuộc đời là trái với phương châm hiện thực xã hội chủ nghĩa rồi, làm sao in ? Những nhà lãnh đạo quốc gia thì lại chỉ thích một thứ hiện thực, gọi là hiện thực trong chiều hướng đi lên, tức là không viết về cái xấu (nó là tạm thời) đang tồn tại, mà chỉ viết về những cái cũng đang tồn tại nhưng báo hiệu những cái sẽ có trong tương lai mà Ðảng hứa hẹn. Trong khi những cái sáng lạn thuộc về tương lai chưa kịp lấp ló ở chân trời mơ ước thì nhà văn phải viết về người tốt việc tốt cho quần chúng noi gương. Viết theo lời Ðảng dạy như thế khó lắm, bởi vì nó nhạt lắm. Cho nên sau cuốn Rừng Sâu, là cuốn được cấp trên khen, anh không viết nữa. Hẳn có bản thảo nào của anh rơi vào tay công an, cho nên người ta mới vặn vẹo tôi về anh.
Mạc Lân nóng như Trương Phi, ăn nói bặm trợn, bị vào sổ đen là chuyện đương nhiên. Anh là con trai cả nhà văn Lê Văn Trương(8). Thân sinh anh ở trong thành rồi vào Nam, còn anh nhập bộ đội rồi đi Nam tiến đến tận Sài Gòn. Trong kháng chiến chống Pháp anh ở cùng đơn vị với nhà thơ Dương Tường, nhà báo Tất Vinh, có thời gian cùng công tác với Việt Phương(9), Trần Dần. Anh có hoàn cảnh gia đình trục trặc, phải nuôi một lũ con đông, đâm ra rành nghề viết thuê. Những người muốn làm nhà văn mà không có tài thường tìm đến anh để thuê anh viết. Viết thứ văn nhảm nhí ấy anh viết "như bổ củi". Anh chỉ viết chậm những gì anh tâm đắc.
Hứa Văn Ðịnh viết rất nhiều. Làm việc ở Xưởng phim Việt Nam, anh ít khi tới cơ quan, mà làm việc ở nhà, cho mình nhiều hơn cho nhà nước. Tôi không biết Hứa Văn Ðịnh viết vào lúc nào, nhưng thỉnh thoảng gặp nhau anh lễ mễ khuân cả yến bản thảo ra khoe. Trong những sáng tác không được in của anh có những đoạn cực hay, chỉ có thể thấy ở những nhà văn bậc thầy. Anh bị công an để ý chỉ vì anh chơi thân với Kỳ Vân. Ngoài ra người ta chẳng có cơ sở gì để nghi anh hết.
Tôi nói các bạn tôi chẳng liên quan gì tới chủ nghĩa xét lại hiện đại thì điều đó chỉ đúng với quan niệm của tôi. Với các nhà chấp pháp đầy cảnh giác thì khác. Những người bạn tôi giống tôi ở chỗ không ai muốn sống như người Trung Quốc, với vòng Kim Cô của chủ nghĩa Mao trên đầu. Họ đều là những nhà văn bị cớm. Những cây đa cây đề của nền văn học quan phương đã che hết ánh sáng mặt trời và họ không còn điều kiện để lớn lên trước mắt bạn đọc.
Tôi còn nhớ nhà văn Phù Thăng từ vùng mỏ trở về Hà Nội gặp tôi :"Tao đến để mày giải thích cho tao nghe : tao đọc các tài liệu Trung Quốc thấy đúng ra phết, có lý lắm, dễ hiểu lắm, thuyết phục lắm, thế mà những thằng bạn tao cho là thông minh lại bịt mũi nói thối không ngửi được. Vậy trong cuộc cãi vã ầm ĩ cả thế giới này mày cho bên nào đúng ?". Tôi cẩn thận trả lời rằng chỉ có một bên không được nói tới là đúng - đó là cuộc đời. Anh hỏi tiếp : trong cái tương đối hiện có tôi thấy cuộc sống ở đâu tốt cho con người hơn. Tôi nói tôi thích cuộc sống ở Liên Xô hơn, ở đó đã có bóng dáng một nền dân chủ. Chúng tôi nói chuyện suốt đêm. Sáng ngày ra Phù Thăng lại lên đường, đen đủi, nhếch nhác, nhưng vẫn như bao giờ, rất đáng yêu. Anh là người hóm hỉnh, thích đùa, bút hiệu Phù Thăng của anh là sự đọc ngược hai chữ thằng phu. Chả là tên cúng cơm của anh là Phu. Phù Thăng may mắn hơn các nhà văn bị cớm bạn anh - anh đã có cuốn Phá Vây dày cộp.
Huy Vân, căn cứ những câu hỏi đặt ra của bọn chấp pháp, cũng có nhiều khả năng bị bắt. Về Huy Vân chúng chỉ hỏi miệng, chứ không bắt tôi viết. Sở dĩ chúng không vặn vẹo tôi về anh là vì mấy năm cuối cùng trước khi tôi bị bắt chúng tôi ít khi gặp nhau. Quả nhiên tôi đoán đúng. Huy Vân bị bắt, rồi được thả ra, cũng sau sáu năm giam cầm, mặc dầu anh cũng không hề thuộc nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng như bất cứ ai trong nhóm này. Trong bọn xét lại hiện đại bị bắt anh quen tôi và Vũ Huy Cương, trong bọn xét lại hiện đại không bị bắt mà chỉ bị trấn áp anh quen ủy viên Trung ương Lê Liêm, đều do những quan hệ nghề nghiệp. Bộ phim đầu tay và cuối cùng của anh là Một Ngày Ðầu Thu, được thực hiện với sự trợ giúp của đạo diễn Liên Xô Agida Ibraguimov, là một bộ phim không tồi trong giai đoạn điện ảnh Việt Nam chập chững bước vào lĩnh vực phim truyện.
Cuộc sống trong xà lim cứ thế trôi - một chuỗi lê thê những cuộc hỏi cung, ngày này qua ngày khác, lãng nhách, nhạt phèo. Nói cho đúng, thời gian đầu không phải là như vậy. Cảm giác bất cần chỉ xuất hiện khi tôi trở nên lạnh lùng với số phận. Ðã trót sa chân vào đây rồi tôi chẳng có thể làm gì hơn là ngồi rung đùi chờ xem sự thế xoay vần đến đâu.
Nhân nói về những cuộc hỏi cung lăng nhăng diễn ra trong Hỏa Lò tôi lại nhớ tới một chuyện nói lên cái hèn của lớp trí thức chúng tôi hồi ấy. Một hôm, Huỳnh Ngự bắt tôi khai về nhà báo Vũ Kiện(10). Tôi giật mình. Chẳng lẽ cả Vũ Kiện cũng bị bắt ? Anh là người cẩn trọng lắm mà. Tôi quen Vũ Kiện khá thân. Về quan điểm chính trị Vũ Kiện gần chúng tôi. Tôi trọng anh vì anh sắc sảo trong nghề, giỏi nhiều ngoại ngữ, là người thiên kinh vạn quyển. Trước khi tôi bị bắt mấy ngày Vũ Kiện gặp tôi còn nói :"Mấy hôm nay có ai bị nữa không ? Chúng mình rồi lần lượt cũng bị hết, chẳng đứa nào thoát đâu. Chủ nghĩa nhà quê (anh nói tiếng Tây : le campagnardisme) không bao giờ đội trời chung với trí thức. Nó chỉ công nhận có một thứ trí thức nông nô thôi". Hồi học Nghị quyết 9 Vũ Kiện có đọc cho tôi nghe một bài thơ do anh sáng tác :
Mấy năm nay bị chứng nhức đầu,
Tìm thầy thuốc hóa ra loạn thị.
Cái thằng mình hèn nào láo thế.
Nhìn những bậc bệ vệ nghiêm trang
Thành toàn một phường ba lăng nhăng.
Tôi khoái bài thơ của anh. Khi Huỳnh Ngự hỏi tôi về Vũ Kiện, tôi chợt nhớ tới bài thơ hóm hỉnh ấy và tủm tỉm cười. Huỳnh Ngự hỏi tôi cười cái gì.
- Tôi buồn cười vì câu hỏi. Vũ Kiện không phải là người đáng nghi ngờ, nếu cơ quan an ninh muốn biết ý kiến tôi về anh ấy. Bác gặp Vũ Kiện bao giờ chưa nhỉ ? Chưa hả ? Thế thì cứ gặp anh ấy đi đã, sau hãy hỏi tôi. Nếu đến lúc ấy bác vẫn thấy cần phải hỏi.
- Anh nói vậy nghĩa là thế nào ?
- Bởi vì Vũ Kiện không phải người ta. Anh ấy là người nước ngoài.
- Giỡn hoài.
- Xin lỗi, chúng tôi quen nhìn Vũ Kiện như một người châu Âu, một người Pháp. Tôi biết anh ấy không nhiều, nhưng chỉ cần một lần gặp thôi cũng đủ thấy Vũ Kiện chẳng có quan điểm chính trị nào, trừ một cái là làm sao cho mình phải giống người Pháp, một thứ francophile(11) chính hiệu. Ðến nói chuyện với chúng tôi anh ấy cũng nói với kiểu cách và điệu bộ người Pháp nữa là...
Nhìn vào mắt Huỳnh Ngự tôi biết y không tin tôi bao nhiêu, nhưng cũng không ngờ vực nhiều lắm.
Huỳnh Ngự còn quay lại với cái tên Vũ Kiện vài lần nữa, nhưng lần nào tôi cũng tìm cách bịa ra vài giai thoại vui vui để gạt đi và gạt đi được.
Vậy mà khi ra khỏi nhà tù tôi mới biết rằng trong thời gian chúng tôi nằm xà lim, nhà báo này tuyên bố khắp nơi rằng sở dĩ Ðảng bắt chúng tôi là vì chúng tôi chống Ðảng có tổ chức. Cứ xem anh ta thì biết, anh vẫn bảo lưu quan điểm của anh, nhưng Ðảng đâu có bắt, lại còn cho đi nước ngoài. Tôi ngờ rằng Vũ Kiện cũng bị gọi tới Bộ Nội vụ như một số anh em có vấn đề, nhưng ông Tây to xác của chúng tôi không có lá gan cần có. Ông được bề trên vỗ vai khen ông thành khẩn, được hứa những tiêu chuẩn ưu tiên ưu đãi, rồi được dạy bảo cách ăn nói về vụ nhóm xét lại chống Ðảng. Ông làm theo lời khuyên, được tưởng thưởng như Ðảng hứa - một chuyến đi nước ngoài, không nhớ là Cộng hòa Dân chủ Ðức hay Bungari gì đó. Ðược Ðảng cho đi nước ngoài là một ân huệ lớn. Vì ân huệ ấy có nói vài điều trái với lương tâm kể cũng đáng. Nhưng cái trái lương tâm lớn nhất mà kẻ sĩ không thể làm thì Vũ Kiện làm tỉnh queo, không biết ngượng, Anh đổ cho bạn mình chống đối có tổ chức, tức là, như các cụ nói, nối giáo cho giặc. Hơn ai hết, Vũ Kiện biết rõ tôi và các bạn anh bị bắt chẳng hề có một tổ chức chống đối nào. Nếu có một tổ chức như vậy thì trong đó không thể thiếu Vũ Kiện. Hơn thế, anh phải là một trong những người đứng đầu.
Tôi không ân hận đã bảo vệ Vũ Kiện. Tôi không thể làm khác, cho dù có biết ở ngoài kia anh đang tuyên bố bậy bạ về chúng tôi theo sự mách bảo của trên. Cách sống cơ hội là cách sống mang tính thời đại. Tôi còn nhớ năm 1966, Vũ Kiện từ Thanh Hóa về, anh kể cho tôi nghe chuyện người ta dựng huyền thoại về một anh hùng thiếu nhi như thế nào. Có một nhà báo nào đó trong phút ngẫu hứng đã dựng nên câu chuyện một chú bé cứu bạn bị thương dưới mưa bom bão đạn và vì thế hy sinh. Người ta làm ầm lên về người anh hùng tí hon, như một phát hiện về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Vũ Kiện đang ở Thanh Hóa, anh đến ngay địa phương có người anh hùng, anh phát hiện sự thật là không có hai trận đánh bom liền nhau, như vậy không thể có chuyện vị anh hùng thiếu nhi kia cứu bạn giữa bom đạn được. Trở về Hà Nội anh chê bai sự không trung thực của các cơ quan tuyên truyền. Không biết có phải vì sự chê bai ấy mà anh được nhà thơ Tố Hữu mời cơm tối hay không, nhưng anh đã ăn và khoe ầm ĩ với bè bạn về bữa cơm vinh dự. Sau đó ít lâu một cuốn sách thiếu nhi được ra đời về người anh hùng không có thật nọ mà tác giả lại chính là... Vũ Kiện. Gặp tôi, Vũ Kiện quên mất chuyện bữa trước, khoe cuốn sách mới in, tôi hỏi anh nhuận bút "lừa già dối trẻ được bao nhiêu ?" thì Vũ Kiện sượng sùng nói sang chuyện khác. Anh không tặng tôi cuốn sách mang theo trong xà cột.
Trường hợp Vũ Kiện không phải là trường hợp duy nhất, nhưng là trường hợp điển hình. Một số người, may mắn là không nhiều, trong lớp trí thức cứng đầu cứng cổ, trước rất thích giao du với chúng tôi, vậy mà chúng tôi vừa bị bắt vội vã phân trần rằng họ không hề có quan hệ với chúng tôi. Thậm chí họ không dám giáp mặt vợ con những người bị bắt để nói một câu hỏi thăm sức khỏe. Thì ra cái tiếng thơm là người dũng cảm dám đối lập với chính quyền chỉ là bộ cánh để cho họ chưng diện chừng nào chính quyền chưa vung lên cái dùi cui.
Cha tôi rất quý các trí thức về nước năm 1945 trong dịp phái đoàn chính phủ sang Pháp. Trong số đó ông đặc biệt cưng bác sĩ Trần Hữu Tước. Chính ông thuyết phục Trần Hữu Tước trở về Việt Nam. Ông thương Trần Hữu Tước đã có gan bỏ cuộc sống sung sướng ở nước ngoài để về với đồng bào, chịu đựng khó khăn, thiếu thốn. Ông săn sóc Trần Hữu Tước như săn sóc đứa em út, ông lo chuyện vợ con, nhà cửa cho Trần Hữu Tước. Ông này mỗi khi giận vợ lại chạy sang với cha tôi, ăn dầm nằm dề trong nhà chúng tôi dăm bữa nửa tháng là thường. Ðến khi cha tôi bị bắt, Trần Hữu Tước biến mất, không hề lai vãng, không hề thăm hỏi. Cha tôi bị đau răng, nằm trong tù ông tưởng đâu vẫn có thể nhờ cậy người bạn thiết, nhắn các em tôi gặp Trần Hữu Tước nhờ ông lo thuốc gửi vào. Em gái tôi tìm gặp Trần Hữu Tước trong bệnh viện Bạch Mai, ngay tại khoa Tai Mũi Họng của ông, nhưng ông bạn thân mến của cha tôi tìm mọi cách thoái thác, không những không gửi thuốc, mà còn không gửi một câu hỏi thăm, viện cớ bận họp, chuồn thẳng.
Tôi không trách Trần Hữu Tước nhiều - hoàn cảnh xã hội làm cho nhiều người thành như thế. Nhưng tôi cũng không thân mật được với ông nữa. Tôi gặp Trần Hữu Tước lần cuối tại khách sạn Bến Nghé (Sài Gòn), năm 1983. Chúng tôi đi ngang nhau như những người không quen biết. Ông ngượng ngùng nhìn tôi, có vẻ ông muốn tiến đến bắt tay tôi, nhưng nỗi hổ thẹn giữ chân ông lại, còn tôi thì cũng không vượt qua được mình.
Sau khi ra khỏi nhà tù chúng tôi không bao giờ chủ động đến với ai. Trong sự xa lánh này có cả nỗi hờn mát lẫn lòng tự ái. Tôi không căm ghét, không thù hận những người quay lưng lại nỗi đau khổ của gia đình tôi, nhưng tôi không chơi với họ nữa. Mất thời giờ.
Nói chung, hồi ấy tôi bắt đầu học được cách nhìn độ lượng đối với nhân quần. Tôi hiểu ra rằng chúng tôi chỉ là con cháu loài tinh tinh ngu độn bị những con đầu đàn ranh ma lợi dụng. Những con này sau khi thành chủ nhân liền bắt đồng loại làm tôi đòi. Ðược dạy dỗ bằng roi vọt kèm với mồi thưởng để làm các công việc mà chủ muốn, lũ tinh tinh xấu số
giành giật nhau từng miếng ăn được bố thí, cắn xé nhau để được hưởng một đoạn xích dài thêm. Khả năng bỏ chạy không còn, vậy thì việc gì phải thương hại con nằm bên ?
Huỳnh Ngự làm việc với tôi thưa dần. Thay chân y là một người đàn ông có dáng trí thức mà tôi nhắc tới ở trên.
- Tôi tên là Hoàng. - anh ta tự giới thiệu.
Tôi có cảm tình với Hoàng ngay từ buổi đầu gặp gỡ. Gương mặt sáng sủa của anh ta làm tôi yên lòng. Trông bề ngoài của Hoàng có thể thấy y thuộc về nhóm tinh tinh phát triển cao trong bầy tinh tinh nô lệ. Hoàng làm công việc Huỳnh Ngự thường làm, nhưng y làm khác hẳn, từ tốn, nhã nhặn.
Tôi lập tức cảnh giác với anh ta. Ðàng sau vẻ ngoài không hăng hái vì lợi ích của Ðảng, biết đâu lại chẳng là sự tính toán khôn ngoan của một khối óc có nhiều nếp nhăn hơn óc con tinh tinh Huỳnh Ngự.
Làm việc với Huỳnh Ngự một thời gian, tôi hiểu tính y. Xét cho cùng, y mộc mạc, không nhiều thủ đoạn, chiều y cũng chẳng khó. Chỉ cần viết những báo cáo dài thượt đầy ắp sự kiện vô thưởng vô phạt với những câu chữ ồn ào biểu lộ sự thành khẩn hết mình theo công thức thời thượng là y hài lòng
Hoàng đọc báo cáo của tôi với nụ cười khó hiểu.
- Anh có khi nào nghĩ tới chuyện những mối quan hệ xã hội hình thành như thế nào không ? Này, nghiên cứu chuyện đó cũng thú vị đáo để đấy.
Tôi không hiểu y muốn nói cái gì.
- Mối quan hệ giữa Ðảng và đảng viên chẳng hạn...
- ???
- Tôi để ý tới chuyện này, và thấy trong cách nhìn nhận nó có nhiều điều chưa rõ ràng. Quan hệ giữa Ðảng và đảng viên, xét cho cùng, chẳng qua là quan hệ hợp đồng. Hai bên thỏa thuận với nhau thực hiện một công việc nào đó, và mối liên hệ hỗ tương được thiết lập...
Tôi đỏ mặt. Liều lượng những lời ca ngợi Ðảng được cho vào bản báo cáo vừa mới nộp cho Hoàng có hơi cao quá mức cần thiết, do thói quen làm việc với Huỳnh Ngự. Nhưng cái sự hô khẩu hiệu rầm rĩ để đánh trống lảng đã không lừa được anh ta.
Tôi thấy cần phải nói thêm một chút về những bản gọi là báo cáo của tôi. Sau khi quyết định lùi bước, thôi không đôi co với Huỳnh Ngự về tính hợp pháp của việc giam giữ nữa, nói cách khác tôi đã chịu vào khuôn vào phép, thì lẽ đương nhiên tôi phải chấp nhận các tập tục xã hội chủ nghĩa trong quan hệ đối với Ðảng. Một trong những tập tục đó là phải bày tỏ sự trung thành của mình trong những lời ồn ào tôn vinh Ðảng mỗi khi có dịp. Tập tục này bắt nguồn từ những năm 50, khi khởi đầu cuộc vận động giảm tô giảm tức.
Từ Cải cách ruộng đất trở đi tập tục này lan rộng và ăn sâu trong sinh hoạt của dân chúng. Người dân mở miệng là "Nhờ ơn Ðảng, Chính phủ". Người ta nói "Nhờ ơn Ðảng, Chính phủ, mùa màng năm nay khá, gia đình em tạm đủ ăn", "Nhờ ơn Ðảng, Chính phủ, nhà em vừa sinh thằng cu". Quen miệng, người ta còn nói : "Nhờ ơn Ðảng, Chính phủ, cái mụn chốc thằng cu nhà em đỡ rồi, em lấy cao nhà ông lang Sửu đấy ạ!" Trong nhân dân, cũng vào thời kỳ này, xuất hiện câu ca dao thú vị, nói rất trúng cách tuyên truyền của Ðảng về những thành tựu lãnh đạo :
Mất mùa là tại thiên tai,
Ðược mùa là tại thiên tài Ðảng ta.
Thấm nhuần tập quán được vun trồng từ thập niên này qua thập niên khác, lũ tinh tinh hiện đại tự nguyện xóa sạch bản thân để tuân theo Ðảng ngõ hầu được Ðảng thương đến. Ðảng là Ðấng Tối Cao, như Chúa Trời. Ðảng còn hơn cả Chúa Trời nữa, vì Chúa Trời vô hình vô ảnh, còn Ðảng là có thực, cũng như những nhà tù của Ðảng là có thực, Ðảng là người quyết định hết thảy, Ðảng cho thì có, Ðảng lấy thì mất.
Ðùng một cái, nghe người của Ðảng, lại là "cán bộ thực hành chuyên chính vô sản", nói một câu lạ tai, tôi sững sờ nhìn y.
Hoàng lấy thế làm thú vị, y nháy mắt với tôi :
- Anh không thấy thế là đúng à ?
Tôi lo ngại một cái bẫy. Tất nhiên, cái bẫy này chẳng nguy hiểm. Nó không đụng tới một cái gì cụ thể, nhiều nhất chỉ là một sự thăm dò tư tưởng. Nhưng vẫn cứ phải cẩn thận - ở Việt Nam tư tưởng sai là tội, người ta trừng trị tư tưởng là chuyện thường ngày ở huyện(12). Hơn thế, mình nhận tư tưởng sai thì ắt phải khai tiếp đã chia sẻ tư tưởng ấy với ai, có khi lại làm hại người khác.
- Cũng có thể là như thế. - tôi nói lấp lửng - Ðiều đó hoàn toàn đúng ở các hình thái xã hội trước kia. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa nội dung quan hệ này có khác, xuất phát từ một hệ khái niệm khác. Mối quan hệ giữa Ðảng và đảng viên ở đây được đặt trong một bối cảnh đặc biệt, nó mang tính chất khác thường, có thể nói một tính chất thiêng liêng...
- Anh muốn nói mối quan hệ ấy mang tính chất tôn giáo ? - giọng tưng tửng, Hoàng hỏi.
Thằng cha giỏi, tôi nghĩ.
- Tôi không khẳng định, nhưng về mặt nào đó những mối quan hệ thiêng liêng có nét giống nhau.
- Có lý, có lý lắm.
- Tính chất thiêng liêng thể hiện trong sự thần thánh hóa vai trò của tổ chức thế tục, trong sự đặt ra nhiều hy sinh hơn hưởng thụ trong cuộc chiến đấu cho những mục tiêu thực ra không mấy thiêng liêng như cơm áo, việc làm, nhà ở...
- Anh đồng ý với tôi rồi đấy : quan hệ giữa đảng và đảng viên chỉ là quan hệ hợp đồng - Hoàng cười tủm tỉm - Hợp đồng là hợp đồng, nó chẳng có gì thần thánh, chẳng có gì thiêng liêng. Trên đời này chỉ có một mối quan hệ thiêng liêng - ấy là quan hệ huyết thống. Quan hệ máu mủ ruột rà là cái không thể chế tạo ra, không thể mua sắm được... Nhưng thôi, ta trở lại với công việc. Này, nhân tiện anh có thể nói gì về quan hệ giữa Văn Cao và Nguyễn Ðình Thi cho chúng tôi biết không nhỉ ?
- Anh đang hỏi cung hay hỏi vì tò mò ?
- Tôi đang làm việc với anh.
- Tôi nghĩ rằng nếu anh quan tâm đến mối quan hệ giữa hai người thì cách tốt nhất là hỏi thẳng họ.
- Tôi lại nghĩ rằng nếu anh có cho tôi biết chút ít thêm vào những gì chúng tôi đã biết rồi cũng chẳng chết ai. Ðảng yêu cầu anh đóng góp ý kiến cho Ðảng mà. Có khi những câu chuyện của anh lại có tác dụng làm sáng tỏ những điều chưa được Ðảng hiểu đúng cũng nên.
Cách hỏi cung của Hoàng là như vậy. Anh ta không hùng hục đi thẳng tới đích, mà thủng thẳng mời tôi cùng dạo bước trên những câu chuyện mung lung rồi bỗng đột ngột rẽ vào đề tài mà y muốn biết. Nắm được phong cách làm việc của Hoàng, tôi tương kế tựu kế thỉnh thoảng lại nhân vui chuyện thọc một mũi thăm dò. Tôi muốn qua Hoàng tìm hiểu thái độ của Ðảng đối với vụ chúng tôi, và đối với văn nghệ sĩ nói chung, trong giai đoạn hiện tại. Tại sao lại không kể cho anh ta nghe những điều xét cho cùng là vô thưởng vô phạt ?
Một hôm tôi kể cho Hoàng nghe chuyện xảy ra trong cuộc chỉnh huấn cho văn nghệ sĩ tại ấp Hoàng Cao Khải thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm. Trong cuộc đấm ngực tập thể Nguyễn Ðình Thi lên diễn đàn xỉ vả Văn Cao và câu nói "trong giọt nước có cả trời xanh" của anh. Chửi xong, từ diễn đàn bước xuống Nguyễn Ðình Thi ôm lấy Văn Cao thì thầm "Văn hiểu cho mình, cái thế mình phải thế !". Văn Cao kể cho tôi nghe câu chuyện này, với một ánh buồn trong mắt. "Trước cách mạng nó đâu đến nỗi thế. Nó là thằng anh hùng, bây giờ cam phận làm con giun".
Câu chuyện nhiều người biết, có nói ra cũng chẳng hề gì.
Hoàng chăm chú nghe rồi nói, giọng bùi ngùi :
- Có vẻ tinh thần nho sĩ Bắc hà chẳng còn lại bao nhiêu trong giới văn nghệ sĩ các anh, phải thế không ?
Hoàng không tỏ ra muốn bảo vệ Nguyễn Ðình Thi. Y không phủ nhận câu chuyện thực. Thái độ y bàng quan.
- Nguyễn Ðình Thi không phải nho sĩ. - tôi nói - Nguyễn Ðình Thi là con người hiện đại. Những người hiện đại không hành xử theo cách của nhà nho, họ không cần tới thứ
tinh thần cổ xưa ấy, nhất là những người cộng sản. Ðối với Nguyễn Ðình Thi lợi ích của Ðảng là cao nhất.
- Anh nghĩ rằng những người cộng sản không cần tới nhân phẩm ?
- Tôi nghĩ rằng những người cộng sản không có nhiều khả năng lựa chọn. Họ làm những việc xét thấy có lợi cho Ðảng, cho sự nghiệp của Ðảng.
Hoàng lại nhếch mép cười. Một lần nữa y hiểu ý ngầm trong câu nói của tôi và tôi giật mình.
-Anh có quan hệ thân tình với Nguyễn Ðình Thi, phải không ?
- Không.
Tôi bao giờ cũng trọng Nguyễn Ðình Thi vì phổ tài hoa của anh. Nó rất rộng. Có lẽ trong thập niên 40 chỉ có hai người đa tài như thế : Văn Cao và Nguyễn Ðình Thi. Những bài hát của Nguyễn Ðình Thi làm mê mệt lớp thanh niên chúng tôi một thời. Hát về Hà Nội tôi chưa thấy bài nào hay hơn Bài Hát Của Người Hà Nội. Thơ của anh cũng gợi nhiều. Nguyễn Ðình Thi trong thơ như cá tung tăng trong nước, không cần phải lên gân lập trường "Ðêm đêm rì rầm nghe tiếng đất, Những buổi ngày xưa vọng nói về..." "Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh, Soi đường chiến sĩ giữa đèo mây. Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh, Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa rừng cây...". Nhưng Nguyễn Ðình Thi mà tôi biết cũng là người yếu đuối, anh luôn lúng túng trước những ngã ba ngã tư của cuộc đời và tình yêu. Có thể tôi nhầm, nhưng giả thử tôi có nhầm thì cái nhầm cũng không lớn.
Nhớ một đêm tháng 10 mát mẻ năm 1954, vài ngày sau khi tiếp quản thành phố Hà Nội, chúng tôi ở cùng nhau trong khách sạn Splendid(13), Nguyễn Ðình Thi qua phòng tôi rủ tôi đi chơi. Chúng tôi lững thững thả bộ từ Lý Thường Kiệt qua chợ Hôm rồi rẽ sang Trần Xuân Soạn. Ðang đi, Nguyễn Ðình Thi đột ngột rẽ vào Triệu Việt Vương hay Bùi Thị Xuân tôi không nhớ. ê đầu phố anh rủ tôi ngồi xuống bậc thềm một ngôi nhà, đau đáu nhìn sang ngôi nhà trước mặt chìm trong bóng tối của giàn hoa giấy um tùm.
- Không biết bây giờ ai ở trong nhà này. - Nguyễn Ðình Thi thở dài - Trước đây là nhà người yêu mình...
Anh rủ tôi đi tiếp :
- Mình đã đi đi lại lại không biết bao nhiêu đêm trên vỉa hè này. Người ta viết nhiều về mối tình đầu, dường như nó lớn hơn bất kỳ mối tình nào khác. Ðiều có thật là con người không thể quên được mối tình đầu, cho dù nó thoảng qua, cho dù nó không sâu sắc. Trong điều kiện nó là mối tình đích thực...
Khi chúng tôi về tới khách sạn, trời đã khuya. Hà Nội còn đang trong thời kỳ giới nghiêm. Không đội tuần tra nào bắt gặp chúng tôi.
- Anh có biết về mối tình của Nguyễn Ðình Thi với Madeleine Riffaud không ?
- Anh hỏi cung ?
Hoàng cười hiền lành :
- Cung gì đâu, chúng ta đang nói chuyện vãn mà. Anh không thích trả lời thì không cần phải trả lời.
- Tôi biết hai người thân nhau trong thời gian chị Riffaud tới Việt Nam. Không rõ có phải là một mối tình không, tôi không được nghe anh Thi tâm sự chuyện đó, nhưng nếu có thì cũng chỉ là một mối tình thoảng qua, nhiều chất hữu nghị hơn là tình yêu...
Ðêm hôm ấy đi dạo với tôi về, Nguyễn Ðình Thi sang phòng Madeleine, tôi về phòng tôi. Hồi ấy có nhiều tiếng xì xào về mối tình Việt-Pháp của anh. Nếu anh không phải là Nguyễn Ðình Thi thì lôi thôi to. Anh sẽ bị buộc tội hủ hóa, tội luyến ái bất chính, là thứ tội nặng đối với cán bộ, khó tránh khỏi bị thi hành kỷ luật. Nguyễn Ðình Thi được hưởng ngoại lệ. Trường Chinh, và nói chung các nhà lãnh đạo chủ chốt, rất quý anh.
Tôi không thích những lời xì xào ấy. Tôi quý Madeleine vì tình yêu khó giải thích của chị đối với Việt Nam. Madeleine yêu đất nước của những dòng sông nồng nàn phù sa bằng tình yêu bản năng chứ không phải bằng tình yêu quốc tế vô sản, như thể nó là nơi chôn nhau cắt rốn của chị vậy. Cùng ở Việt Nam vào thời gian này còn có Helena Lemanska và Roman Karmen. Helena Lemanska có cái nhìn đồng cảm dịu dàng của người Ba Lan Thiên Chúa giáo đối với một Việt Nam mới được phát hiện, bình dị mà nồng thắm, có pha trộn chút ít tính chuộng lạ. Từ Moskva Karmen đến với Việt Nam như anh đã đến với Tây-ban-nha trong cuộc chiến đấu của những người Cộng hòa chống lại bọn phát-xít, với hai tư cách : nghệ sĩ và chiến sĩ cộng sản(14).
Madeleine Riffaud ước ao"Rồi đây đũa ngọc mâm vàng có nhau". nhưng mộng không thành. Vì sao không thành, tôi không biết. Có thể vì Nguyễn Ðình Thi không thể bỏ vợ. Mà cũng có thể do Ðảng của anh cấm. Madeleine Riffaud xa Việt Nam và mối tình của hai người chìm vào quên lãng.
Mùa hè năm 1967 tôi có một buổi dạo phố tình cờ với Nguyễn Ðình Thi. Anh vừa ra khỏi trụ sở Nhà xuất bản Văn học nằm trên đường Hai Bà Trưng thì gặp tôi.
- Sao dạo này không thấy cậu viết gì ? - Nguyễn Ðình Thi hỏi tôi.
- Có gì đâu, cái đầu tôi nó không ổn. Tôi có những ý nghĩ vô kỷ luật. Sau Ðường Số 4 bị lên án vì chủ nghĩa ấn tượng mà tôi không có, thậm chí không hiểu nó là gì, đến Ðêm Mất Ngủ bị ông Tố Hữu gọi là "bất mãn với chế độ hiện hành", rồi Ðêm Cuối Cùng Ngày Ðầu Tiên bị ông Nguyễn Chí Thanh đánh, tôi chán, không muốn viết nữa...
Nguyễn Ðình Thi cười khe khẽ. Tôi quen với cách cười của anh. Cười để không nói, ai hiểu thế nào cũng được.
- Thảo nào cậu vắng bóng hẳn. Không viết thì có đọc được nhiều không ?
- Thì tôi còn làm gì nữa ngoài đọc ? Tôi đang mê châu Phi.
- Châu Phi à ? Mà tại sao lại châu Phi ?
- Văn xuôi ở đại lục này nhiều chất thơ, nhiều triết lý dân dã cội nguồn, chứ không phải triết lý tư biện, không tả chân, không giải thích, đọc thú lắm. Anh đọc mấy cuốn Con Báo, Ông Giê-su Khốn Khổ ở tỉnh Bomba chưa ?
- Chưa. Mình dạo này ít đọc lắm.- Nguyễn Ðình Thi thở dài - Toàn bận những chuyện không đâu. Ði lên thỉnh thị, đi xuống truyền đạt. Họp và họp. Thậm chí mình không biết có những cuốn ấy. Hay lắm à ?
- Tuyệt vời ! Tôi không kỳ thị chủng tộc. So sánh nền văn học của những người anh em da đen tôi thấy xấu hổ cho nền văn học của chúng ta. Toàn một thứ thuyết giảng dài dòng, minh họa thô thiển...
Nguyễn Ðình Thi trầm ngâm một lát. Sau một quãng tản bộ dài, anh nói khẽ :
- ê các nước khác cần phải có tài mới thành nhà văn...
Tôi hiểu đoạn cuối của câu nói :"... còn ở nước ta thì không ". Nguyễn Ðình Thi có lối nói như thế - người nghe phải tự hiểu lấy điều anh không nói.
Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm trong kháng chiến chống Pháp. Giữa câu chuyện Nguyễn Ðình Thi hỏi tôi :
- Cậu thấy Vỡ Bờ của mình thế nào ?
Tôi lúng túng. Câu hỏi thẳng đòi một câu trả lời thẳng. Tôi không muốn làm Nguyễn Ðình Thi mất lòng.
- Tôi không thú Vỡ Bờ.
- Có thể nói rõ thêm được không ?
- Nó cũng là sự thuyết giảng. Mà thừa. Nó rõ ràng không phải là nhu cầu nội tâm của anh. Ðọc qua cũng thấy tác giả không viết cũng chẳng sao. Không cảm thấy sự thúc bách buộc anh phải viết. Thêm nữa, tôi không thích cách anh chấm phẩy, xuống dòng trong cuốn này. Không chỉnh. So với Xung Kích là sự thụt lùi. Tôi thích thơ của anh hơn. Nó là tiếng lòng anh, đích thực, nó nói thay cho tiếng lòng tôi, tiếng lòng của người đọc...
Chúng tôi im lặng đi bên nhau một lúc lâu. Lúc chia tay Nguyễn Ðình Thi nói, giọng buồn hẳn :
- Lẽ ra mình chỉ nên làm nhạc. Âm nhạc - đó mới là chỗ của mình.
Cái sự lúng túng không tìm ra chỗ của mình có trong tâm trạng nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam. Mọi người, sau khi đặt số phận mình vào bàn tay dìu dắt của Ðảng đều phải gò mình vào cái tôi chung, cái tôi tập thể, là một cái tôi vô hình vô ảnh, chui vào trong đó để tự biến mình thành nó. Trong cái tôi tập thể này ai cũng thấy vướng víu, không thoải mái. Nhưng đã tự nguyện chấp nhận nó rồi, người ta đành buông tay, mặc cho mọi sự xuôi dòng. Nhưng con người là con người, có những lúc nó không làm chủ được mình, trong trường hợp cái tôi đích thực bất thình lình vùng lên, thúc bách đòi lại vị trí tự nhiên của nó, đòi được là nó.
Năm 1962, hoặc 1963 tôi không còn nhớ rõ, Nguyễn Ðình Thi cho ra vở kịch Con Nai Ðen có chất ngụ ngôn nói bóng gió chuyện những người thành đạt quay lưng lại với bè bạn thời gian khổ. Sự bóng gió trong vở kịch, theo anh em cầm bút đánh giá, nhẹ tới mức bằng không, thế nhưng những nhà lãnh đạo vẫn không hài lòng và vở kịch bị đánh(15). Cùng trong khoảng thời gian ấy, hoặc sau đó ít lâu, Kim Lân viết Con Chó Xấu Xí và Vũ Tú Nam cho ra Văn Ngan Tướng Công. Cả hai con vật này cũng bị đánh nốt. Người ta giải thích rằng Kim Lân ví Ðảng như ông chủ, còn trí thức như con chó. Ông chủ hắt hủi con chó khi nó ghẻ lở gày còm, ông chỉ quan tâm tới nó khi thấy nó hứa hẹn những đĩa luộc, đĩa dồi và nồi nhựa mận bốc mùi ngào ngạt. Con chó khốn khổ thì cứ một mực trung thành với chủ cho đến chết. Miêu tả thân phận con chó còi cọc đói khổ trên nền xám của nông thôn Việt Nam Kim Lân có ngòi bút cực hay. Còn Văn Ngan Tướng Công thì bị buộc tội ám chỉ Ðảng bay không biết bay, bơi không biết bơi, chỉ nỏ mồm cạc cạc.
- Chớ có viết về những con vật ! - Kim Lân nói - Không hiểu sao cứ nói chuyện súc vật là y như rằng có người động lòng. Mà nhiều, mới chết chứ !
Không rõ các nhà văn tác giả bôi nhọ Ðảng bao nhiêu, nhưng chính các nhà phê bình mới là người có công vạch ra những cái xấu của Ðảng. Không có các nhà phê bình thì người đọc bình thường chưa chắc đã hiểu nhà văn định móc máy cái gì. Bên Trung Quốc vào thời gian này cũng có những nhà văn kỳ tài trong chuyện nói xỏ Ðảng như Ðặng Thác, Ngô Hàm, Liêu Mạt-sa của Nhân Dân Nhật Báo Bắc Kinh. Những chuyện ngụ ngôn kiểu mới dưới đề mục Yến Sơn Dạ Thoại ("Chuyện canh khuya dưới chân núi Yến") và Tam Gia Thôn ("Thôn ba nhà") là những áng văn rất thú vị. Ðọc họ hay thì thấy hay, nhưng không hiểu hết ý họ muốn nói, nếu như không có những nhà phê bình chỉ ra những ý ngầm cho mình thấy.
Trong nhà thơ lớn Chế Lan Viên sự lủng củng giữa cái tôi bản năng, cái tôi tự nhiên, với cái tôi được Ðảng nhào nặn, được nhà thơ tự ép mình mà thành, kéo dài không chỉ vài năm mà cả cuộc đời. Tôi quý Chế Lan Viên thông minh và tôi thích thơ anh. Nhưng những bài thơ chính trị của Chế Lan Viên thì tôi chịu không nổi. Tôi đánh giá cao bao nhiêu những lời thơ tâm tình : "Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ. Nơi nào qua mà lòng chẳng yêu thương. Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn", thì tôi ngán bấy nhiêu những lời ngợi ca chiến tranh (dù là chiến tranh giải phóng) của anh : "Hỡi những con thỏ hòa bình đang tìm nơi gặm cỏ. Súng ta nổ cũng là vì ngươi đó !(16)"
Mùa thu năm 1965, tôi gặp Chế Lan Viên ở Ðồng Hới. Hồi ấy khi mặt trời lặn rồi, cả khu 4 chìm trong bóng tối mịt mùng, duy nhất có thị xã này còn điện. Vượt qua những khúc sông trước kia có cầu Bùng, cầu Phủ, Chánh Hòa, Lý Hòa... tôi đạp mải miết về phía vòm sáng trên nền trời đêm. Vừa thở ra khoan khoái khi đi vào vùng sáng của nó thì lại giật nẩy mình vì một tiếng thét lớn :"Ðứng lại!". Tưởng gặp trạm gác dân quân, tôi vội xuống xe. Ðã thò tay vào túi để lấy thẻ nhà báo thì một người đội mũ lá sùm sụp từ một ụ chiến đấu to đùng bước ra :
- Vũ Thư Hiên hử ?
Ðó là Chế Lan Viên. Anh cười hà hà, mặt rạng rỡ :
- Nửa tháng nay mình phục ở đây mà chẳng gặp ma nào trong cánh ta cả. Nhìn thấy Vũ Thư Hiên mình mừng quá. Mới quát lên một tiếng cho vui.
Anh lôi tuột tôi về nhà khách tỉnh ủy. Nhà khách xây lưng ra sông Nhật Lệ xa xa, phong cảnh hữu tình, nhưng vắng tanh vắng ngắt. Ngoài Chế Lan Viên và tôi chẳng còn khách nào khác. Mờ đất nhà bếp đã nấu xong cơm trưa, úp lồng bàn để đấy cho chúng tôi, rồi kéo nhau đi sơ tán. Cơm chiều chúng tôi tự nấu. Chúng tôi hì hục xách nước tưới cho những chậu cảnh xơ xác thay cho tập thể dục sáng rồi mò tới quán bánh bèo duy nhất còn lại trong thành phố. Chủ quán, một bà già hom hem, vừa dọn bàn vừa than phiền bánh bèo bây giờ thiếu tôm bông và không có nước mắm Ô Long. Có hôm thiếu bột hay thiếu cái gì khác bà chủ dọn món cháo sườn băm thay cho bánh bèo rồi tự động bớt tiền cho chúng tôi.
Buổi tối, chúng tôi nằm mỗi người một giường gần nhau, vừa vỗ muỗi vừa chuyện vãn. Một hôm tôi hỏi Chế Lan Viên :
- Này, anh Chế, theo anh, thơ và từ của Mao Trạch-đông có hay lắm không mà thiên hạ tán tụng om xòm đến thế ?
Chế Lan Viên cười hức hức :
- Thơ phú gì cái thằng cha ấy ?! Vũ Thư Hiên thấy hay à ?
Anh bao giờ cũng gọi tôi đủ tên họ.
- Thơ phú là chuyện tôi mù tịt, mới phải hỏi anh.
Chế Lan Viên hạ một câu xanh rờn :
- Làm đến hoàng đế nước Tàu rồi thì cục cứt của hắn thiên hạ cũng khen tuốt.
Tôi ngẩn người. Chẳng lẽ đó là tác giả của câu thơ ca ngợi hai lãnh tụ vĩ đại : "Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao ! " ?
Mãi cho tới khi các di cảo của Chế Lan Viên được xuất bản tôi mới hiểu được tâm trạng nhà thơ mà tôi yêu mến. Anh có nội tâm bị giằng xé bởi nhiều mâu thuẫn : là đảng viên, anh muốn trở thành người tuyên truyền đắc lực cho Ðảng của anh, là con người anh muốn cái khác. Bằng trái tim nhà thơ anh bất bình với những bất công, phi lý, anh đồng cảm với nỗi đau của nhân dân không có tự do, nhưng người cộng sản trong anh ngăn lại, không cho anh nói ra.
Trong những câu chuyện không đề với tôi, người đối thoại độc nhất của anh trong nhà giao tế Ðồng Hới năm ấy, Chế Lan Viên nói rằng anh rất thích Nazim Hikmet(17), nhưng tôi biết anh tin tôi mới nói thế chứ với người khác anh không dám vì Hikmet đã cả gan chửi Stalin vĩ đại :"Ðĩa súp của ta ria hắn cũng thọc vào".
Nhưng đấy là chuyện thơ phú. Giới cầm bút kêu ca nhiều về cách hành xử của Chế Lan Viên trong đời thường. Người ta nói anh thích những mưu mô chính trị, anh là tên cơ hội. Chẳng hạn như trường hợp anh khuyên Nguyên Ngọc đến đầu thú Tố Hữu sau khi bị nhà thơ của chế độ đập tơi bời bản Ðề dẫn(18) do Nguyên Ngọc dự thảo để làm báo cáo chủ chốt trong Ðại hội nhà văn lần thứ ba. Trả lời Chế Lan Viên, Nguyên Ngọc nói : "Tôi không thấy có gì để phải nhận lỗi với ông Tố Hữu. Nếu cần gặp ông Tố Hữu tự tôi sẽ đi, không khiến ông phải dẫn". Trong quá trình chuẩn bị Ðại hội Nhà văn lần thứ tư người ta lại bắt gặp một bức thư đánh máy ký tên Chế Lan Viên nói lại chuyện cũ "Nguyên Ngọc khóc lóc nhận khuyết điểm với anh Tố Hữu"(19).
Cuộc đời Chế Lan Viên, một tài năng lớn của thi ca Việt Nam, cho ta thấy nhà văn hay nhà thơ không thể cứ đưa tay cho người dắt mà đi đến bờ đến bến được. Không những thế, cái sự đưa tay cho người dắt dễ làm hỏng mình lắm, dễ đánh mất mình lắm, nhất là khi trót dại trao thân gửi phận cho một sự dắt dẫn ngu đần. Người nghệ sĩ cảm nhiều hơn biết, nhìn bằng tim nhiều hơn bằng mắt. Thay thế sự mẫn cảm của nghệ sĩ bằng bộ óc duy lý, chủ quan, hơn nữa lại là bộ óc đi mượn thì tránh sao khỏi bị mù lòa.
Nói đến Chế Lan Viên tôi lại nhớ tới số phận một nhà thơ Việt Nam khác, một nhà thơ của quần chúng, Hữu Loan. Không ai trong thế hệ chúng tôi không biết bài Màu Tím Hoa Sim của anh. Mặc dầu bài thơ trong kháng chiến chống Pháp không được in, nhưng trong sổ tay của người lính nào cũng có bài thơ bất hủ ấy. Lần đầu tiên bài Màu Tím Hoa Sim được in là trong tờ Trăm Hoa. Hồi ấy Hữu Loan đang giữ một chức vụ cao, tất nhiên lương cũng cao tương xứng. Nhìn thấy tính chất bẩn thỉu của vụ án, Hữu Loan thôi việc. Anh không muốn dây vào những việc làm đốn mạt không xứng với kẻ sĩ, mà còn ở lại triều đình dù muốn dù không anh sẽ bị dây vào. Việc treo ấn từ quan làm anh trở thành một kẻ bất hợp tác, gần như một tên phản động. Ngay cả cuộc sống dân thường anh chọn cũng không phải là cuộc sống bình yên. Nhà cầm quyền không tha cho anh tội không theo họ. Anh bị sách nhiễu đủ đường, kể cả khi anh chỉ còn là một người đánh giậm, một người làm xe thồ, một nông dân, ở Thanh Hóa.
Gặp nhau ở Sài Gòn năm 1988, Hữu Loan buồn phiền bảo tôi : "Khổng tử đúng mới buồn chứ : "Ðời đục ta trong làm sao được ! " Thân mình, thôi chẳng nói làm gì, vì muốn lương tâm trong sạch nên mình mới chọn con đường làm dân, nghèo mà thanh thản. Nhưng các con mình vì thế mà không được học hành, thì mình sai mất rồi". Cũng năm ấy anh cùng nhà thơ Bùi Minh Quốc và nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự làm một chuyến ngao du xuyên Việt để vận động trí thức, văn nghệ sĩ đấu tranh cho dân chủ.
Tôi im lặng. Tôi cũng lúng túng trong cách hành xử chẳng kém gì anh - sống thế nào bây giờ ?
Sau vụ Nhân văn - Giai phẩm nhiều trí thức chọn cách tu tại triều đình, nhưng cách này xem ra cũng không ổn. Người ta không cho phép anh được đứng giữa các xung đột, hoặc lảng ra ngoài. Người ta kéo anh vào bằng được, buộc anh phải có lập trường rõ rệt.
Cho nên tôi không lấy làm lạ khi thấy trong vụ đánh Nhân văn - Giai phẩm có cả những tên tuổi đáng kính của nền văn nghệ như Tú Mỡ, Thế Lữ..., có cả một bức thư của 304 văn nghệ sĩ và cán bộ văn hóa gửi Ban chấp hành Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam lên án nhóm Nhân văn - Giai phẩm chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa, chống Ðảng và chống nhân dân. Cái sự đánh hội đồng, đánh hôi bị người đời phỉ nhổ hồi ấy trở thành chuyện thường tình. Ðảng đã giúp văn nghệ sĩ cắt bỏ cảm giác xấu hổ như cắt khúc ruột thừa. Tôi không loại trừ tình cảm kính yêu thật sự đối với Ðảng, nỗi bất bình thấy Ðảng bị xúc phạm, nhưng sau này tôi được biết trong đại đa số trường hợp đó là sự bảo vệ nồi cơm.
Trong giai đoạn có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, một hôm chúng tôi đang tụ tập tại nhà Thanh Châu, Kim Lân bỗng nháy tôi ra ngoài sân nói khẽ :"Này, ông cẩn thận cái mồm đấy nhá. Trong cuộc họp vừa rồi ở Hội (Văn Nghệ) Ðỗ Nhuận nói hiện nay có một số văn nghệ sĩ trắng trợn tuyên truyền cho chủ nghĩa xét lại đấy. Rồi dẫn tên ông, Phan Kế An với vài người nữa ra làm ví dụ. Nguy chứ chẳng phải chơi đâu". Tôi ngạc nhiên quá. Tính lại ngày giờ thì đúng, ngay sau cuộc họp mà Kim Lân nói, Ðỗ Nhuận đến tòa soạn rủ tôi đi uống cà phê để bàn chuyện tôi viết bài giới thiệu nhạc kịch Cô Sao. Trước đó tôi đã được anh mời xem nháp vở nhạc kịch anh mới viết. Tôi không thích vở này. Nó không nhuyễn. Nhưng tôi nhận lời giới thiệu nó trên báo - dù sao cũng là một cố gắng của nhạc sĩ trong một loại hình sân khấu chưa quen với khán giả Việt Nam. Chúng tôi ngồi cả giờ với nhau ở cà phê Lâm. Hoàn toàn không có gì chứng tỏ Ðỗ Nhuận đang phải ngồi với một kẻ thù của cách mạng cả. Sau tôi kiểm tra lại thấy đúng thật, Ðỗ Nhuận có nói như vậy. Mà anh là nghệ sĩ đàn anh của chúng tôi, tham gia cách mạng từ trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, từng bị tù đầy vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, người để lại những bài hát hằn sâu trong trí nhớ chúng tôi : Chiều Tù, Hận Sơn La, Côn Ðảo(20)...
Trong không khí tù hãm của nền văn nghệ bị trói ai cũng phải tìm cách thích nghi với cách sống gò bó. Ðỗ Nhuận chỉ quá nhiệt tình trong sự thích nghi ấy. Trong một Ðại hội Nhà văn Nguyễn Tuân khéo léo chê lối viết văn lê thê, rồi dẫn thí dụ tiền nhân viết văn ngắn mà hay như thế nào để chửi bọn xu nịnh. Ông kể chuyện Cái Rắm. Rằng một hôm nhà vua đang ngự triều bỗng đánh rắm, tả quan lắng tai rồi tâu :"Muôn tâu bệ hạ, nghe như tiếng đàn tiếng sáo", hữu quan hít hà rồi tâu :"Muôn tâu bệ hạ, ngửi như mùi huệ mùi lan". Nhà vua nghe tâu sướng tai lắm, nhưng rồi đâm lo :"Phàm thiên hạ đánh rắm thời phải thối, nay trẫm đánh rắm lại không thế, e trẫm băng đến nơi". Tả hữu mặt chảy dài. May sao nhà vua lại phát ra một cái tiếp. Tả quan vươn cổ ra tâu:" Muôn tâu bệ hạ, thối ạ !" Hữu quan cũng không kém :" Muôn tâu bệ hạ, không những thối mà còn thối lắm ạ !". Tố Hữu mặt đỏ bừng. Hoài Thanh giận lắm, từ đó không bao giờ giàn mặt Nguyễn Tuân nữa.
Văn Cao đặt cho Hoài Thanh cái biệt hiệu chef des claqueurs(21). Mỗi lần lãnh tụ nói chuyện, Hoài Thanh ngồi ở hàng đầu, chực sẵn để khi lãnh tụ xuống giọng chấm câu hoặc hết đoạn thì đứng lên vỗ tay làm gương cho cử tọa vỗ theo. Tôi không hiểu tác giả Thi Nhân Việt Nam. Ông hiển nhiên có một chỗ trên chiếu dành cho bậc lão làng văn chương, ông còn muốn gì nữa ?
Một lần tôi đến nhà Hoài Thanh để xin ông một bài viết về thơ Tố Hữu.
- Thưa bác, - tôi nói - bình thơ Tố Hữu không ai qua mặt được bác. Có thể nói bác là chuyên gia độc nhất vô nhị về thơ Tố Hữu, cho nên tòa soạn chúng tôi muốn xin bác một bài...
- Anh nói đúng lắm ! - Hoài Thanh cười vui vẻ - Không một ai dày công nghiên cứu để có quyền nói về thơ Tố Hữu như tôi. Thơ Tố Hữu mở ra không phải một dòng thơ, mà một biển thơ, một thời đại thơ... Từ Tố Hữu thơ Việt Nam bước vào một chân trời mới... Mênh mông lắm !
Trong các cuốn Văn tuyển người ta đưa cả thơ Sóng Hồng vào, có những bài chỉ trên mức vè thôn xóm một chút, chỉ vì nhà thơ Sóng Hồng chính là ông Trường Chinh đáng kính. Nhiều nhất vẫn là thơ Tố Hữu. Ðến nỗi trong một buổi Tố Hữu đến giảng tại Trường Nghiệp vụ Văn hóa, kịch sĩ Bửu Tiến phải đứng lên xin hỏi :
- Thưa anh Tố Hữu, theo anh thì thơ anh hay hay thơ cụ Nguyễn Du hay ?
Nhà thơ khiêm tốn trả lời :
- Tôi không dám so sánh tôi với cụ Tiên Ðiền. Thơ của tôi chưa được kiểm chứng qua thời gian, nó là thơ thời hiện tại. Cần phải có một khoảng cách mới đánh giá được...
- Vậy tại sao trong các kỳ thi tuyển, thi tốt nghiệp học sinh không học thơ Nguyễn Du mà chỉ học thơ anh mới có hi vọng đỗ ? - Bửu Tiến hỏi tiếp - Lâu nay đề thi nào cũng là thơ Tố Hữu cả, trò nào không học thơ Tố Hữu tất trượt.
- Cái này không phải lỗi tại tôi. Các đồng chí phải đấu tranh với Bộ Giáo dục.
Bửu Tiến cười nhạt :
- Bộ Giáo dục chúng tôi không ngại. Nhưng cái chính là muốn đấu tranh chúng tôi phải biết tránh đâu(22)...
Có vẻ Hoàng không ác cảm với tôi. Y không có ý muốn hạ nhục tôi bằng thái độ kênh kiệu như Huỳnh Ngự. Mỗi buổi làm việc bao giờ Hoàng cũng chiêu đãi tôi dăm ba câu chuyện phiếm. Ðại loại Hoàng kể cho tôi biết ở ngoài kia rạp nào chiếu phim gì, có vở kịch nào mới, xem được hay không xem được. Hoàng sắc sảo trong cách nhận định tác phẩm, chứng tỏ một trình độ học vấn khá. Tôi thích làm việc với Hoàng, nhưng cũng cảnh giác với cái thích của mình. Không phải ngẫu nhiên người ta cử Hoàng làm việc với tôi.
Mà cảnh giác là phải. Hoàng dễ dàng đồng ý với tôi trong cách nhìn nhận vấn đề này hay vấn đề khác, nếu có tranh cãi thì cũng theo cách bình đẳng, tôn trọng người đối thoại. Ngoài công việc hàng ngày anh ta phải hỏi và tôi phải viết, chúng tôi còn thời gian cho những câu chuyện vãn, chẳng hạn về những sự kiện lịch sử không mấy dính dáng tới thời hiện tại.
- Anh nghĩ thế nào về chiến dịch Thập Vạn Ðại Sơn ? Tôi thì tôi không tán thành ý kiến cho rằng đó là một hành động quân sự được thực hiện trong tinh thần quốc tế vô sản. - một hôm nhân nói tới anh Hoàng Thế Dũng, Hoàng đột ngột rẽ sang chuyện thời kháng chiến chống Pháp - Xét cho cùng, chẳng qua cách mạng Việt Nam cần bảo vệ lưng mình. Một động cơ nói thẳng ra là bản vị. Anh không đồng ý à ? Anh thử nghĩ xem : lúc ấy Hồng quân Trung Hoa chưa xuống tới Hoa Nam, quân đội Tưởng lại ở sát nách, cho nên ta phải đánh gấp Thập Vạn Ðại Sơn để ngăn bọn này tràn sang một khi Hồng quân từ phía Bắc tấn xuống. Bọn Pháp đang yếu thế, còn đang phải chống đỡ những cuộc tấn công của ta, cho nên chúng sẵn sàng cho quân Tưởng vào Việt Nam...
Hoàng có lý. Nhưng sự kiện Quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng một phần đất Trung Quốc vẫn cứ là niềm hãnh diện của Việt Nam. Người Trung Quốc không muốn nói tới Thập Vạn Ðại Sơn thì ta lại càng phải nhắc cho họ nhớ trong công cuộc chiếm lại lục địa có sự đóng góp xương máu của các chiến sĩ Việt Nam. Ðáng tiếc, do sự nể nang đối với Trung Quốc, cho tới nay chưa có một tác phẩm nào nói tới chiến dịch Thập vạn đại sơn cho xứng đáng, ngoài vài bài báo do chính Hoàng Thế Dũng viết sau khi ra tù.
Do cách hỏi khôn khéo, nhiều lần Hoàng đưa tôi vào ngõ cụt. Một cán bộ công an lành nghề như Hoàng thì phải biết tôi không thành khẩn.
Ðược cái những câu hỏi của Hoàng không vượt ra ngoài những địa hạt những câu hỏi của Huỳnh Ngự, phần lớn là hỏi thêm, hỏi bổ sung. Tôi phải căng óc ra để trả lời không bị tiền hậu bất nhất.
Với bạn bè có khả năng bị bắt, nhưng không biết liệu họ đã bị bắt chưa, hoặc không bị bắt mà chỉ bị thẩm vấn, tôi thận trọng. Nếu tôi sơ ý để lộ ra chi tiết vô thưởng vô phạt đối với vụ án, nhưng lại là cái chỉ có chúng tôi biết với nhau, mà thấy công an biết thì bạn tôi sẽ tưởng tôi đã khai, đâm ra mất tinh thần, khai lung tung.
Cần phải nhắc lại một lần không thừa rằng tôi chẳng hề có một hành động chống chế độ nào hết. Các bạn tôi cũng vậy. Tội lớn nhất của chúng tôi là dám nói ngược giáo điều chính thống, cho dù chỉ nói khẽ. Tôi tin bọn chấp pháp thừa biết thế, nhưng họ tin rằng Ðảng làm đúng - cần phải đè bẹp bất kỳ biểu hiện chống đối nào, cho dù nhỏ bé nhất. Cách xử lý những người khác chính kiến kiểu Lênin đối với Berdiaev(23) không thể có ở Việt Nam.
Một hôm, nhân hỏi tôi về Hoàng Minh Chính, Hoàng đột nhiên ghé sát mặt tôi :
- Tôi khuyên anh đừng nhọc lòng bảo vệ Hoàng Minh Chính. Anh không biết đấy thôi, chứ Hoàng Minh Chính có mưu đồ lớn lắm, anh ta muốn lật đổ Trung ương bằng một Ðại hội bất thường (Hoàng không nói đến đảo chính), trước hết bằng cách gây ảnh hưởng ngay trong Bộ Chính trị, vận động Trung ương chống lại Bộ Chính trị, bầu ra ban lãnh đạo mới... Anh thì chúng tôi biết, anh chỉ mải chuyện văn chương, anh không biết mưu đồ ấy. Anh tưởng nếu rồi đây Hoàng Minh Chính làm tổng bí thư anh ta sẽ dành cho anh một chức bộ trưởng chăng ? Ðừng hòng. Với Hoàng Minh Chính anh chẳng là cái gì. Một con tốt trong nước cờ phiêu lưu, chấm hết. Tại sao anh nhất định không chịu nói về những điều anh biết ? Hoàng Minh Chính có quan hệ mật thiết với đám cán bộ bất mãn trong quân đội, họ gặp gỡ nhau ở cả trong nhà anh, điều đó anh biết quá đi chứ, nhưng anh không chịu nói ra. Anh nói Hoàng Minh Chính không có liên lạc với Võ Nguyên Giáp nhưng mặt anh lại thú nhận rằng có rồi đó. Tại sao anh không thể thành thực với tôi, dù chỉ một lần này ?
Tôi cười :
- Hoàng Minh Chính làm gì là việc của anh ấy, tôi không có trách nhiệm phải quan tâm. Anh ta coi tôi là con tốt hay con xe cũng là việc của anh ấy. Tôi nghĩ anh hiểu tôi : tôi không thích làm con tốt hay con xe của bất cứ kẻ nào, trên bất cứ bàn cờ chính trị nào. Riêng với anh, tôi cũng muốn anh thành khẩn với tôi, dù chỉ một lần : anh cần gì ở tôi ?
- Hãy trở lại với điều tôi vừa hỏi anh : có hay không ?
- Không biết.
- Anh sẽ không nói lại chứ ?
- Tôi sẽ nói y như thế. Với bất cứ ai, ở bất cứ đâu.
Hoàng nhìn chằm chằm vào mặt tôi :
- Anh toát mồ hôi rồi đó. Anh không thấy trên mặt anh mồ hôi rịn ra đó sao ?
Tôi cười phá :
- Tôi đánh giá anh cao hơn đấy. Tôi lầm, đáng buồn. Vừa nãy, nhờ ơn nhà bếp tôi được ăn bát cháo nóng, vì thế trên mặt tôi có mồ hôi, đơn giản là vậy.
Hoàng ngượng ngùng quay đi :
- Anh vẫn chưa trả lời tôi. - tôi nhắc - Nói đi : anh cần gì ở tôi ?
- Tôi cần gì ? Tôi chỉ muốn anh thành khẩn báo cáo những gì Ðảng hỏi.
Tôi cười nhạt :
- Anh nói dối. Giọng của anh không thật thà khi nói câu đó. Nhưng thôi, anh không muốn trả lời cũng được, tôi cũng chẳng có quyền đòi hỏi ở anh sự thực thà. Tôi mến anh, vì đối với tôi anh người hơn. Anh không tự giới thiệu, nhưng tôi biết anh là cấp dưới của Huỳnh Ngự, lương của anh thấp hơn lương Huỳnh Ngự...
Hoàng chăm chú nhìn tôi :
- Anh nói thế có ý gì ?
Tôi nhìn vào mắt anh ta :
- Ðúng là lương anh thấp hơn chứ ?
- Anh nói tới lương của tôi để làm gì ?
- Ðể nói rằng tôi đánh giá anh cao hơn thủ trưởng của anh. Anh nói rằng ngành của anh là một ngành đặc biệt. Nhưng theo tôi, nó chỉ đặc biệt ở chỗ nó có quá nhiều quyền hành, phần còn lại nó giống ngành tuyên giáo mà tôi biết, trong ngành này chủ nghĩa thành phần cũng được đẩy tới đỉnh cao nhất, ở đó những người cấp dưới thường giỏi hơn cấp trên. Chúng ta đều là cán bộ cả. Trong cuộc sống được cào bằng, tình cảnh chúng ta chẳng khác nhau là bao. Tôi hình dung anh có một gia đình đông đúc. Chị chắc là giáo viên, ba cọc ba đồng. Các cháu ăn cơm phải nhìn nhau, không đứa nào dám gắp quá tiêu chuẩn, không đứa nào được phép ăn hơn đứa nào...
- ???
- Tôi đã thẳng thắn nói với anh rồi : tôi không biết nhiều về anh Hoàng Minh Chính. Ðó là sự thật. Rất có thể anh Hoàng Minh Chính có nhiều chuyện giấu tôi, hoặc giả anh ấy thấy không cần nói với tôi. Vì thế mà tôi không biết. Ngoài ra, xin anh hiểu cho điều này : tôi không phải kẻ đưa chuyện, vì thế có những điều tôi biết nhưng tôi thấy chẳng cần nói lại với anh làm gì...
- Anh đánh giá anh hơi cao đấy. Anh không nói người khác sẽ nói. Và họ đã nói rồi.
- Tôi không cần biết ai sẽ nói. Tôi không nói là đủ. Bởi vì tôi chẳng có gì để nói. Hoàng Minh Chính không rủ tôi vào một tổ chức nào. Anh ấy cũng không rủ tôi làm đảo chính. Nhưng tôi biết, các anh rất muốn tôi nói một cái gì tương tự cho anh Chính, đúng thế không ? Cái ấy thì không được. Không bao giờ.
Hoàng nhếch mép cười.
- Có cái này thì được, tôi sẵn sàng nói : đó là tất cả những gì thuộc về tôi, thuộc về một mình tôi. Anh có thể đề đạt với tôi bất cứ điều gì có lợi cho anh. Chẳng hạn, tôi sẽ nhận tôi là Việt Quốc, Việt Cách, Ðại Việt hay là cái gì đó anh muốn... Tôi sẽ ký, thật đấy. Giờ đây tôi chẳng còn gì để mà mất. Lịch sử không mù. Nó sẽ tìm ra sự thật, nó sẽ lên tiếng, không phải trong tương lai gần thì trong tương lai xa. Còn ngay bây giờ anh sẽ được lên lương, chị và các cháu sẽ bớt được một phần vất vả. Ðây là việc tốt, có thể là việc tốt cuối cùng mà tôi có thể làm cho ai đó...
Hoàng gầm lên, đập mạnh tay xuống bàn :
- A, anh dám láo hả ? Láo !
- Chính anh láo !
Tôi tức lắm rồi, tôi đập bàn còn mạnh hơn. Bộ đồ trà nhảy lên, mấy cái chén rơi loảng xoảng xuống nền gạch, vỡ tan.
Hoàng chồm tới :
- Mày sẽ biết tay tao !
Nhìn bộ mặt đỏ gay của Hoàng, nhìn nắm đấm chực vung lên của anh ta, tôi nghĩ anh ta sẽ đánh tôi. Tôi lùi lại, tay vung lên cái ghế ba nan.
- Này, báo trước cho mày biết, nếu mày tiến thêm một bước thì hối không kịp đấy ! - tôi chẳng buồn giữ lịch sự nữa - Hãy nghĩ tới vợ con mà dừng lại ! Nếu mày chết ở đây người bị thiệt sẽ không phải là Ðảng của mày đâu mà là vợ con mày đấy !
Không biết có phải tại ánh mắt của kẻ sẵn sàng liều mạng hay tại cái gì khác đã làm cho anh ta tỉnh ra, nhưng Hoàng dừng lại ngay tức khắc sau câu nói của tôi. Như một con rối hết cót, anh ta rũ ra, lẳng lặng bỏ đi. Tôi hạ cái ghế xuống.
Một lát sau Hoàng quay lại với bộ trà mới, chắc lấy từ một phòng khác. Anh ta cặm cụi thu dọn các mảnh vỡ mang đi rồi trở về hí hoáy với cái tầu ngầm(24). Chờ cho nước sôi, Hoàng pha ấm trà mới. Nhìn thẳng vào mắt tôi, anh ta nói, giọng trầm hẳn xuống :
- Tôi thành thật xin lỗi anh. Vừa rồi tôi có nóng.
Hoàng dám nhìn thẳng vào mắt tôi, có nghĩa là anh ta thành thật.
Tôi lặng lẽ nâng chén trà lên miệng, chứng tỏ tôi cho qua chuyện vừa rồi.
Tôi cũng cảm thấy một chút xấu hổ. Cơn giận dữ trào lên, nguyên nhân không phải ở tôi, nhưng tôi đã không kiềm chế được nó.
- Tôi cũng lấy làm tiếc. - tôi nói - Lẽ ra chúng ta có thể nói chuyện với nhau bình tĩnh hơn. Dù sao chúng ta cũng đã từng là đồng chí của nhau... một lúc nào đó, trước kia.
Tôi nói thật lòng. Trong câu nói của tôi không có bóng dáng của sự đạo đức giả, của mánh khóe chính trị. Tôi muốn được nhìn thấy ở Hoàng một con người. Người có đầu óc như Hoàng mà ở phía những tên vô sản lưu manh thì thật đáng tiếc.

(1) Nhân vật trong sử Trung Quốc, nổi tiếng về tính đa nghi.
(2) Một giống nhãn rất quý ở Hưng Yên, ngày nay chỉ còn lại vài cây, nghe nói rất khó nhân giống, có tên là nhãn tiến do nhãn này ngày xưa chỉ được dùng để tiến vua.
(3) Mắng mỏ, phê phán.
(4) Tại miền Bắc Việt Nam những năm đó, ruộng đất không phải thuộc nhà nước dưới dạng các nông trang tập thể đều thuộc hợp tác xã, nông dân chỉ được trồng tỉa trên 5% được Nhà nước để lại cho. Vậy mà ở nhiều nơi, thu hoạch trên đất 5% này còn lớn hơn thu hoạch được chia trong hợp tác xã.
(5) Một cách nói thời ấy. Ðể loại trừ đối thủ hoặc kẻ mình không ưa, người ta hất ra ngoài các chức vụ đang nắm giữ, cho về hưu non hoặc dùng cách khác có hiệu quả tương tự, gọi là đá xuống, đá đi, nhưng cũng có thể đưa lên chức vụ cao hơn để ve vãn, nhưng là chức vụ hữu danh vô thực nhằm vô hiệu hóa, gọi là đá lên.
(6) Trong chuyện khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ nông dân, các ban lãnh đạo Ðảng kế tiếp nhau đã đi chậm sau ông Kim Ngọc gần hai chục năm (!). Chỉ thị số 100 của Trung ương Ðảng khóa IV được ban ra mãi tới năm 1981 mới khẳng định cách làm này là có tác dụng kích thích sản xuất.
(7) Truyện dân gian truyền khẩu ở thế kỷ thứ 13 lưu truyền trong các dân tộc Anglo-Saxon. Bản dịch đầu tiên sang tiếng Việt của Vũ Ngọc Phan có tựa đề : "Chàng Tiễu Nhiên và nàng Mị cơ". Viking là những thương gia kiêm hải tặc trên vùng biển Scandinave vào khoảng các thế kỷ 9-11. Saga là hình thức chuyện thơ dân gian nhiều chất anh hùng ca của Băng Ðảo (Iceland) và Na Uy.
(8) Nhà văn nổi tiếng trước Cách mạng với những tiểu thuyết về những người hùng đơn độc trong đời thường.
(9) Nhà thơ, nổi tiếng với những câu "Ai bảo trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ ? Ðồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ ? " trong tập thơ Cửa Mở bị đánh vào thập niên 70.
(10) Không phải tên thật.
(11) Người mê nước Pháp, văn hóa Pháp một cách mù quáng, thiên vị.
(12) Một lối nói chỉ sự việc rất bình thường, không có gì đặc biệt, có xuất xứ từ tên một cuốn ký sự "Chuyện thường ngày ở huyện" của nhà văn Liên Xô Ovetchkine.
(13) Sau đổi tên thành khách sạn Hòa Bình.
(14) Helena Lemanska làm bộ phim Cây Tre Việt Nam ("Bambuk mój brat" - Cây tre, người anh em của tôi). Roman Karmen làm phim Việt Nam Trên Ðường Thắng Lợi ("Boriushisia Vietnam" - Việt Nam chiến đấu). Madeleine Riffaud trở về Paris viết Ðôi Ðũa Ngọc (Baguettes de jade).
(15) Sau đó, vào khoảng cuối 1980 đầu 1981 Nguyễn Ðình Thi còn bị đánh tiếp về vụ viết kịch "Nguyễn Trãi ở Ðông Quan".
(16) Chế Lan Viên lấy hứng từ một bài nói chuyện nội bộ của Lê Duẩn, trong đó Lê Duẩn nói :"Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta...". Nói chung, nhiều bài thơ của Chế Lan Viên đi sát một cách tuyệt vời các đường lối và chính sách của Ðảng.
(17) Nhà thơ lớn của Thổ Nhĩ Kỳ.
(18) Khi ấy nhà văn Nguyên Ngọc đang là bí thư Ðảng đoàn Hội Nhà văn. Bản Ðề Dẫn được viết ra như là báo cáo chính thức của ban lãnh đạo Hội trước Ðại hội Nhà văn lần thứ III.
(19) Theo lời chứng của nhà thơ Bùi Minh Quốc.
(20) Ðỗ Nhuận (1922-1991) là một nhạc sĩ cách mạng tên tuổi của Việt Nam.
(21) Trưởng ban vỗ tay.
(22) Theo tôi nhớ thì Bửu Tiến là người đầu tiên nói lái đấu tranh thành tránh đâu.
(23) Nikolai Alexandrovich Berdiaev (1847-1948), triết gia của chủ nghĩa hiện sinh Cơ Ðốc. Một thời theo chủ nghĩa Mác, năm 1898 bị chính quyền Nga hoàng bỏ tù hai năm và lưu đầy ba năm. Berdiaev ủng hộ Cách mạng Tháng Mười, nhưng lại chỉ trích chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa bôn-sê-vích. Trong thời gian ngắn dạy tại trường Ðại học Quốc gia Moskva ông truyền bá triết thuyết của mình bất chấp sự cấm đoán của chính quyền xô-viết, nhưng Lênin chỉ trục xuất khỏi nước Nga chứ không giết (1922).
(24) Một kiểu đun nước bằng điện dùng 2 lưỡi dao cạo thay cho dây may-so.


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 23-35 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 36-41 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY Thay Lời Cuối -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên



No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...