. .

Thursday, July 9, 2009

SỨC BẬT SÁNG TRONG THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN - LM TRẦN CAO TƯỜNG

SỨC BẬT SÁNG TRONG THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN
LM TRẦN CAO TƯỜNG


Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện (trái) - Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (phải)



Trong cơn khốn khổ, nhiều người tìm nhiều lối giải thoát khác nhau. Ðây là một lối "giải thoát" thật độc đáo với điếu thuốc lào của một ông H.O. tên là Châu Còm trong cảnh tù đầy:


"Giờ giải lao, vứt cuốc, ngồi bệt xuống đất làm một bi. Hít vào, ếm trong phổi thật lâu cho khói thuốc ngấm vào máu chạy lên đầu. Lâng lâng, mơ màng, ngửa mặt nhìn trời cao mênh mông, ngọn gió mát vuốt ve da thịt, mùi đất thơm nồng, con người như thoát khỏi chốn trần ai ô trọc, quên cả nhọc nhằn, quên cả vợ con, quên cả thân phận mình. Ôi, bi thuốc lào giúp ta bay bổng vào cõi hư vô. Khói thuốc lào sạch ưu phiền, biến hận thù thành nhẫn nhục, để đấy, để đấy, ta không quên những ngày hôm nay, ta không quên lũ chúng mày! Ôi, khói thuốc lào yêu dấu, chỉ có mi an ủi được ta, thông cảm ta, khuyến khích ta, giúp ta vững tinh thần, vững hùng khí, chờ một ngày mai..." (Sài Gòn Nhỏ, tháng 6, 1994)

Người không biết hút thuốc lào bao giờ mà đọc đoạn trên cũng đủ thấy đã quá sức phải không? Nhưng nhà thơ Nguyễn Chí Thiện thì lại có lối giải thoát khác: những bài thơ nở hoa từ địa ngục trần gian. Ðây là lần đầu tiên tôi được hân hạnh gặp ông Nguyễn Chí Thiện trực diện, tuy vẫn từng gặp ông qua những vần thơ viết bằng máu, nước mắt, và đầy lửa. Mỗi người nhìn ông theo một góc độ khác nhau. Nhiều người gọi ông là một ngục sĩ với 27 năm tù qua những quằn quại khốn cùng, ví ông với Walesa của Ba Lan, với Vaclav của Tiệp Khắc, hay với Solzhenitsyn của Nga. Nhưng tôi muốn nhìn ông như một người Việt điển hình của niềm tin trong đạo sống Việt Nam: qua mọi ô trọc đen tối trầm luân vẫn hiện lên sức bật sáng giải thoát, vì trong mắt ông có sấm sét, trong tim ông có mặt trời, trong óc ông có nguyên tử, trong thơ ông có tia chớp, như ông diễn tả trong bài Trong Bóng Ðêm Ðè Nghẹt, và Hãy Cho Qua. Sức bật sáng này quả là tia chớp trong Hoa Ðịa Ngục.

1. SỨC BẬT SÁNG NHẬN DIỆN TỘI ÁC

Cuối năm 1980, lúc mà thảm cảnh vượt biên diễn ra khủng khiếp trên vịnh Thái Lan và màn đen quằn quại khốn cùng trong các trại tù, người tỵ nạn trên khắp thế giới nhận được tập thơ của Nguyễn Chí Thiện với nhiều nhan đề: Chúc thư của một người Việt Nam, Tiếng vọng từ đáy vực, Hoa địa ngục... Mọi người bàng hoàng nhận ra một sự thật là thảm cảnh không chỉ xảy ra cho người miền Nam sau năm 1975, nhưng cho cả những người ở miền Bắc từ mấy chục năm về trước như trường hợp Nguyễn Chí Thiện. Nếu ai còn mù mờ ảo tưởng thì được thơ Nguyễn Chí Thiện bật sáng để nhìn cho rõ quỉ ma hiện hình thật sự. Ông vừa là chứng nhân mà vừa là nạn nhân của những hiện thân tội ác mà ông gọi:
Là quỉ, là ma, là thú dữ,
Gian manh tàn ác đê hèn,
Lũ cưỡi đầu bóp cổ dân đen.
Ðể gọi chúng tiếng người không đủ chữ"
(Là Quỉ, 1969).

Tòa án quốc tế ở Nuremberg đã xử tội ác chống lại loài người của đám lãnh tụ Ðức Quốc Xã đầy thú tính. Thì nay thơ Nguyễn Chí Thiện đã cho thấy rõ cả một hệ thống vô luân mất tính người một cách quái gở xả ra từ đống rác châu Âu, đã hồ hởi biến con người Việt Nam thành khốn nạn hơn con vật, phá hủy diễn trình tiến hóa của lịch sử con người. Ðó là tội ác ghệ rợn nhất của thế kỷ này, của cả lịch sử mấy ngàn năm của Việt Tộc.


Từ vượn lên người mất mấy triệu năm
Từ người xuống vượn mất bao năm?...
Xin mời thế giới tới thăm
Những trại tập trung núi rừng sâu thẳm
Tù nhân ở truồng từng bày đứng tắm...
Loại vượn này không nhanh mà rất chậm
Khác vượn thời tiền sử xa xăm.
Chúng đói chúng gầy như những cái tăm
Và làm ra của cải quanh năm
Xin mời thế giới tới thăm.
(Từ Vượn Lên Người, 1967)



2. SỨC BẬT SÁNG LAY TỈNH LƯƠNG TRI NGƯỜI VIỆT

Năm 1948, trong khi toàn dân Việt đứng dậy chống thực dân Pháp để dành độc lập, nhà thơ Hoàng Cầm đã viết trong bài Ðêm Liên Hoan:

Xương tôi tôi bác nên cầu
Cho đàn con bước sang lầu Tự Do.
Vậy mà bao xương máu đã bị bội phản một cách phi lí. Một trăm năm người Việt cùng một bọc mẹ vùi giập nhau, làm con chốt cho những tham vọng quốc tế núp dưới mặt nạ chủ nghĩa, nói như kiểu nhà văn Doãn Quốc Sỹ: "bên kia không óc bên này không tim". Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã bật sáng trong Cuộc Cờ Nhân Loại (1975)

Ðáng thương chỉ có dăm thằng tốt
Bị thúc qua sông mấy kẻ về
Thua được xóa bầy bao thế hệ,
Cuộc cờ nhân loại tỉnh hay mê.
Thế kỷ 20 đang hát bài tạ từ để bước sang thiên kỷ mới. Thế giới đã tiến quá xa, vất lại đàng sau một Việt Nam cúi mặt nhục nhằn. Câu hỏi được đặt ra xoáy sâu vào tâm thức người Việt: Một trăm năm lầm lỗi sắp qua mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện gọi là "Cái Lầm To Thế Kỷ" có để lại bài học nào cho một trăm năm sắp tới của chúng ta hay không?

Và dĩ nhiên mỗi người không chỉ ngồi chửi bới đổ tội, hay tệ hơn, vẫn dửng dưng sống chết mặc bay, mà bỗng được sức bật sáng lay tỉnh nhận ra một điều quan trọng, đó là mình đang mang trách nhiệm trực tiếp đối với những tội ác này. Thờ ơ là đồng lõa, đáng bị nguyền rủa.

Vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối,
Vì muốn an thân, vì tiếc máu xương...
Cả những kẻ đã nằm trong mả
Và những bào thai trong bụng mẹ trót sinh ra
Chúng sẽ có quyền nguyền rủa lũ ông cha
Ðã để chúng sa xuống hầm tai vạ.
Lỗi lầm tại ai? Xét ra tất cả,
Mấy ai người đem hết tâm can...
Ai đứng dậy diệt trừ lũ quỉ,
Ai trái tim lân mẫn vạn dân tàn?
(Vì Ấu Trĩ 1975)
3. SỨC BẬT SÁNG KHƠI DÒNG SINH MỆNH VIỆT TỘC

Châu A¨ là nơi phát sinh những tôn giáo lớn cho thế giới, như Ấn Ðộ Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo... Nhưng không hiểu vì lý do bí nhiệm nào, hai nước ở hai mút đầu của Châu A¨ là Do Thái phía Tây và Việt Nam phía Ðông lại có chung một số phận khổ nạn nghiệt ngã khá giống nhau.

Qua những quằn quại thống khổ tột cùng, Do Thái đã đóng vai trò sử mệnh trong việc hình thành cái nôi phát sinh hai tôn giáo lớn của thế giới là Do Thái Giáo và Ki-Tô Giáo, và đã trở thành một dân đúng là được Ðức Chúa Trời tuyển chọn, sản xuất biết bao nhân tài cho thế giới. Liệu Việt Nam có mang một ý nghĩa và sử mệnh gì qua những bầm dập trầm luân suốt bao thế kỷ? Chả lẽ bằng ấy khốn cùng vẫn chưa đủ để lay động lương tri làm người? Chả lẽ mình không còn nghe được tiếng Mẹ Việt Nam nhắn gửi: đàn con Việt ơi, bằng ấy năm vùi giập đầy đọa nhau đã đủ chưa? Bằng ấy nhục nhằn đã đủ dồn sức bật sáng cho mình đứng dậy chưa?

Do Thái đã mang được sử mệnh nhờ một niềm tin: từ cảnh tang thương mồ mả đầy xương trắng ngổn ngang, tiên tri Êgiêkiên đã vẽ lên thị kiến một cuộc đứng lên đầy sinh khí của đoàn người sống lại, và đã thành công trong việc khắc ghi niềm tin này vào tâm khảm những kẻ mất nước khi họ phải đường đầu với một tương lai mịt mù đen tối của dân tộc họ; từ cảnh lưu đầy Babylon sầu thảm, tiên tri Isaia đã gieo vào tâm thức người Do Thái tha hương một viễn kiến phục hưng rực sáng, và đã đưa ra cả một kế hoạch thực hiện.

Sử mệnh và sinh mệnh nào dẫn người Việt mình vào thiên kỷ 3? Ðây phải là niềm tin vào nhân phẩm của con người hiện hữu trên mặt đất, được Tạo Hóa tác thành với cõi tâm đong đầy tình thương yêu kỳ diệu "người với ta tuy hai mà một, ta với người tuy một mà hai", chứ không phải là những con vật kinh tế của Karl Marx vô thần đầy thú tính, duy con vật, chỉ biết giành giật hành hạ nhau. Ðây phải là niềm tin vào dòng sức sống Việt Nam vẫn tiếp tục chảy tới hòa nhập với dòng sông Vĩnh Hằng: đã có một Việt Nam khổ nạn thì phải có một Việt Nam phục sinh. Ðó là lẽ Ðạo. Không một cường lực ác độc hay bất cứ hiện thân cho quỉ dữ tham sân si nào có thể tàn phá hoặc cản ngăn được. Ca dao Việt đã nói lên niềm tin kiên quyết này:

Dù ai nói ngược nói xuôi,
Ta đây cứ vững đạo Trời khăng khăng.

Xương máu bao nhiêu người đã gục ngã nằm xuống không phải là vô ích, nhưng kết tụ thành tinh anh cho lớp người còn lại đứng dậy mà làm một cái gì cho Việt Tộc mình. Và từ cảnh mất hướng cụt đường trong đêm đen, người Việt tan tác khắp nơi bỗng thấy được viễn kiến của niềm tin Việt Ðạo, thấy được sức đứng dậy như Nguyễn Chí Thiện Trong Bóng Ðêm Ðè Nghẹt (1976). Ðây quả là bài thơ tiêu biểu nhất của ông chuyển được chất lửa của tia chớp viễn kiến Egiêkiên và Isaia trong Kinh Thánh có sức bật sáng trong cảnh lưu đầy Việt Nam thời mới:

Trong bóng đêm đè nghẹt
Phục sẵn một mặt trời
Trong đau khổ không lời
Phục sẵn toàn sấm sét
Trong lớp người đói rét
Phục sẵn những đoàn quân
Khi vận nước xoay vần
Tất cả thành nguyên tử.
Ðúng là trong mắt ông có sấm sét, trong tim ông có mặt trời, trong óc ông có nguyên tử, trong chân ông có đoàn quân. Ðã đến lúc chiếc xe lịch sử chuyển bánh, "khi vận nước xoay vần" thì không một sức mạnh nào cản trở được nữa. Là vì trong mắt người Việt vẫn luôn có tia chớp của niềm tin và hy vọng này, không trốn chạy như đà điểu chui đầu vào cát, nhưng vẫn kiên trì phấn đấu và bước tới với đầu cao mắt sáng như Nguyễn Chí Thiện:

Nghĩa là khi ta sống ở trên đời
Ðời lang sói ta càng không thể trốn
Phải chiến đấu giữa muôn trùng nguy khốn
Góp phần thất bại với tương lai
Ðó cũng là tia chớp của ngày mai
Dù mất hút trong trời đêm hiện tại
Tôi thừa nhận tia chớp này vĩ đại.
(Hãy Cho Qua 1975)
Ðúng rồi, trong mắt và trong thơ Nguyễn Chí Thiện có tia chớp này, tin tưởng kiên quyết, bền bỉ, dai dẳng, có sức bật sáng, góp phần mở lối cho dòng sinh mệnh Việt Tộc chảy tới đi vào năm 2000.

Người Do Thái có lễ nghi tuyên thệ trên đồi Massada nơi cha ông họ đã thà chết chẳng thà đầu hàng: Massada không bao giờ thất thủ lần thứ hai. Người Việt đã khắc ghi lời thề với hồn thiêng sông núi ở đền Hát Môn của Hai Bà Trưng, và hôm nay vang dội trong thơ Nguyễn Chí Thiện:

Trụ đồng gẫy, núi Giao Chỉ vẫn còn cao
Ngọn Cẩm Khê vẫn đầy, dòng sông Hát vẫn chảy.



LM TRẦN CAO TƯỜNG

(Mấy lời giới thiệu trong buổi nói chuyện của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tại New Orleans ngày 15 tháng 3, 1997)

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...