. .

Sunday, March 22, 2009

Ngàn Giọt Lệ Rơi - Đặng Mỹ Dung (tiếp theo và hết)

từ chương 39 - 44 và chương Kết

$pageInChương 39

Ngày ba tôi rời Paris. Thái và tôi đưa ông đến phi trường. Trong khi Thái còn chạy kiếm chỗ đâu xe, ba tôi và tôi đi vô để trình vé ở quầy của hãng máy bay Aeroflot. Tôi không hiểu hết, khi ba tôi nói tiếng Nga với người đàn bà Nga ở sau quầy. Thái muốn ba tôi đi máy bay của hãng Air France, Nhưng ba tôi không chịu, chỉ muốn Aeroflot thôi. Điều này khiến tôi nhớ lời Rob, dặn tôi chỉ nên đi máy bay Mỹ thôi.
Chúng tôi ngồi chơi với ba tôi ở phòng đợi cho đến khi ông lên đường. Khi nhân viên hàng hàng không kêu tên ba tôi, ông không nhúc nhích mà nắm chặt tay tôi như không muốn rời.
Ông nhắc lại:
- Con săn sóc má giùm ba.
Chúng tôi cùng đứng lên, rồi ông ôm tôi thật lâu trước khi lên máy bay.
Tôi thấy mình như đứa trẻ mồ côi. Tôi đứng bên cửa sổ nhìn chiếc máy bay sắp sửa đưa ba tôi đi mất. Thái đứng cách tôi vài mét để chờ tôi. Trên đường về, tôi không biết nói gì với Thái.
Trước khi tôi rời Paris, Phan Thanh Nam đưa tôi đến gặp ông đại sứ của Hà Nội ở Paris. Nam dặn tôi kêu ông là “chú”. Càng tốt, có chú làm đại sứ của Cộng sản, có cơ hội lấy tin tức cho CIA.
Chúng tôi uống trà trong một phòng ấm cúng của toà đại sứ, và lắng nghe tất cả những câu hỏi của ông đại sứ. “Chồng cháu phải là người Mỹ tốt không?”. (Đối với cộng sản, một người Mỹ “tốt” là người chống chiến tranh). “Anh ấy làm nghề gì?” (việc tốt đối với cộng sản là không làm gì hại đến họ). Không thể nói đối với họ, nhưng tôi quan niệm là không nên nói ra nếu không nói thật được, thì đừng nói; không ai đánh mà sợ.
Tôi trả lời ông đại sứ:
- Thưa chú, chồng cháu yêu nước của anh như cháu yêu nước của mình. Điều an ủi là cháu biết anh ấy thông cảm, buồn cho đất nước mình.
Võ Văn Sung và Nam có vẻ phấn khỏi khi biết chồng tôi là một nhà khí tượng học, và đang làm việc cho đài khí tượng ở Honolulu. Đại sứ Võ Văn Sung nói:
- Một ngày nào đó, chồng cháu có thể giúp ba cháu khi ông cần.
Đại sứ Võ Văn Sung không để mất thì giờ nói chuyện quanh co, mà đi thẳng vô vấn đề. Ông hỏi tôi đã có bao giờ tham gia hoạt động của Mặt Trận chưa? Cũng như đối với mọi người, tôi cho ông biết cả gia đình tôi ở miền Nam đều hoạt động cho Mặt trận. Mặt Trận đã từng lấy đất của ông bà tôi làm căn cứ hoạt động, và vì thế người anh bà con rất trẻ của tôi đã bị giết. Tôi biết rằng những mất mát này chẳng có nghĩa lý gì đối với ông đại sứ. Có chăng, là máu của tôi hoa với máu của kẻ thù của cộng sản và trở thành thương binh một giò đứng trước mặt ông, thì may ra tôi mới là người có công với “Cách mạng”. Nhưng ông cũng cho tôi một dịp nữa, là cho tôi bắt đầu đóng góp, ông nói:
- Chú có một người bạn rất tốt ở Mỹ. Ông ta sống ở Francisco. Chú muốn cháu gặp ông ta ngay khi cháu về Mỹ.
Tôi tự hỏi, không biết các viên chiếc cao cấp của chính Hà Nội có xem bản đồ của nước thù địch của họ không. Ông cán bộ khoảng cách từ Hawaii đến San Francisco là bao xa không. Tuy vậy, tôi vẫn hỏi địa chỉ của người bạn tốt đó, và ghi vào sổ tay. Tôi còn xin ông đại sứ viết mấy chữ vô sau danh thiệp ông để giới thiệu tôi với người “bạn tốt”. Ông viết ngay, tôi có đủ mọi thứ cần thiết để có thể liên lạc với mạng lưới cộng sản ở nước Mỹ.
Người bạn mà ông đại sứ muốn tôi gặp ở San Francisco chính là người thành lập là chủ tịch của “Hội Việt kiều yêu nước” ở Mỹ. Một năm sau, tôi bay qua San Francisco gặp ông và thâm nhập vào hội này. Tôi còn hỏi ông đại sứ có “bạn nào ở Honolulu muốn tôi gặp không?, ông hãnh diện trả lời:
- Có thể mình cũng có nhiều nguồn ở Honolulu, nhưng hoạt động bí mật nên chú không rõ.
Tôi rời Paris về Hawaii với sự tin tưởng rằng tôi vẫn được cộng đồng người Viột thân Cộng tại Paris đón tiếp nồng hậu, và chắc chắn sẽ có nhiều cuộc gặp gỡ với Nam, Thái. Tôi không hứa hẹn gì trước khi từ biệt, nhưng tôi biết, Nam tin rằng tôi đã lọt vô lưới hoạt động của ông. Hôm tôi đến chào ông để về Mỹ, Nam nói:
- Chú biết rằng sự đóng góp sau này của cháu cho Cách mạng sẽ được những người có trách nhiệm trong nước biết. Điều này sẽ làm cho ba cháu vui lắm đó!

***

Mấy tháng sau khi tôi trở về Hawaii, CIA thương lượng với hải quân, cho John đổi về Ngũ Giác Đài. Sau đó, CIA cho tôi sang Paris theo lời mời của ông chủ tịch của Hội Việt kiều yêu nước Huỳnh Trung Đồng. Trước đó. Thái có dặn tôi nên kêu chủ tịch bằng “anh”. Thế là tôi tới trụ sở gặp anh Huỳnh Trung Đồng. Đồng là một người cô đơn, trầm lắng, dáng người khắc khổ. Mỗi lần gặp anh, tôi có cảm tưởng như thân của anh ở đó, mà hồn của anh ở một nơi nào, đố ai biết, anh như một người phản chiến tranh, một người hết nghị lực. Anh còn có cái tật nói nhỏ, thì thầm như sợ có ai rình nghe.
Vào một buổi sáng tôi đến gặp anh Đồng, anh cho tôi xem tờ “Đoàn kết” do hội của anh xuất bản. Báo phát hành hai tuần một lần. Anh xin địa chỉ của tôi để anh gởi báo cho tôi sau đố. Tôi đề nghị anh gởi về hộp thơ của tôi ở Washington, D.C, cho tiện.
Như sực nhớ một điều gì quan trọng, anh lục lời trong hồ sơ”USA” cho đến lúc tìm ra một danh thiệp có đánh dấu ở một góc, lẩm bẩm đọc mấy chữ trên đó, rồi hỏi tôi có biết một người đàn bà Nguyễn Thị Ngọc Thoa không? Ba Thoa hiện sống ở Washington. D.C. Tôi trả lời rằng tôi mới dọn tới đó, nên chưa biết ai hết. Anh đọc tấm thiệp một lần nữa, rồi cho tôi biết về bà Thoa:

Bà này có chồng Mỹ, nhưng ông ấy là bạn của chúng ta. Bà tham dự phong trào chống chiến tranh rất sớm, vào đầu thập niên 60.
Tôi giả bộ khờ khạo nói:
- Vào những năm đó, em con ngủ kỹ, không có làm gì hết.
Đồng nói:
Tôi muốn cô gặp chị Thoa, kết bạn với chị ấy trước cái đã.
Tôi không mấy thích chuyện bắt con cá, nhử con tôm, nhớ lời dặn của Thái là phải kiên nhẫn, nên tôi gật đầu và giũ im lặng.
Trong buổi thăm viếng đó, anh Đồng đưa tôi đến trụ sở hội. Đó là một thư viện ở tấng dưới hầm, chứa đầy “Nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản”, và một nhóm thanh niên nghe một người đàn bà diễn thuyết. Nữ diễn giả dùng những từ cộng sản đầy mầu mè nhưng vô nghĩa, để giảng giải về cuốn sách mà mọi người đã đọc.
Trong một tủ kiếng gần lối ra vào của một phòng lớn lầu chánh, Đồng hãnh diện khoe với tôi “cây viết đã từng ký hiệp định Paris”. Sau đó, anh cầm một miếng kim loại mầu trắng đưa cho tôi xem. Trên miếng kim loại do có vẽ hình một nữ chiến sĩ, quần xắn lên tới đầu gối, vai mặt đeo một khẩu súng, tay bên trái có một sợi dây kéo một vật phía sau. Đồng giải thích:
- Đây là xác máy bay B-52 của Mỹ.
Rồi ông đưa cho tôi mảnh kim loại đó để xem cho rõ hơn. Tôi bỗng thấy hơi run run, nên không đưa tay ra đón nhận. Tôi chợt nghĩ tới các phi công Mỹ và những chiến binh khác. Tôi giận mình, vì không thể nói gì thay cho sự hy sinh của họ cho đất nước Việt Nam của mình.
Anh Đồng đưa cho tôi nhiều tài liệu để đem về Mỹ, đa số sách báo tuyên truyền của cộng sản bằng Anh ngữ. Tôi cám ơn ông về những tài liệu này, và nghĩ ngay trao hết cho CIA cùng với địa chỉ của bà Nguyễn Thị Ngọc Thoa, một người hoạt động cho phong trào phản chiến ở Washington D.C.
Ba tuần lễ tôi tiếp xúc với cộng sản và người Việt thân Cộng ở Paris, là thời gian xa nhà dài nhứt của tôi. Không ngày nào là tôi không gặp gỡ, chung đụng, chuyện trò, ăn uống với cộng sản. Tôi học ăn, học nói, hành động như một người thân cộng sản.
Qua chung trà, tách nước, tôi được tiếp xúc với người tỵ nạn Cộng sản, và những người trước kia đã nhiệt tâm ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam, nhưng sau 1975 họ đã biết sự thật phũ phàng, thì trở lại giúp đỡ những người tỵ nạn còn chân ướt chân ráo.

***

Trở về Washington, D.C, tôi cho Rob biết là chúng tôi nên liên lạc với những người mà ông chủ tịch của Việt kiều yêu nước ở Paris giới thiệu, vì đây là những điệp viên của Cộng sản Hà Nội hoạt động tại Mỹ, đặc biệt là Nguyễn Thị Ngọc Thoa. Nhưng Rob cực lực phản đối. Ông nói:
- Phản gián không phải là việc của chúng ta. CIA không có trách nhiệm về chuyện này.
Tôi không đồng ý với Rob vì hai lý do. Một là, ông đại sứ Võ Văn Sung và chủ tịch Huỳnh Trung Đồng đã giới thiệu họ cho tôi. Thứ hai, họ là cái chìa khoá để mở những cửa ra vào những nơi mà CIA và tôi muốn thâm nhập. Nếu tôi không gặp những người này, thì khi trở lại Paris gặp họ, tôi đâu có đề tài gì để trao đổ với mấy ông Cộng sản này. Rob thì nghĩ khác, anh nói chừng đó tính sau, tuỳ cơ ứng biến, phản gián là việc của FBI, không phải chuyện của mình.
Tôi nói:
- Rác sau nhà mình, nếu mình không quét, thì việc làm của mình có lợi ích gì cho nước Mỹ, khi mình cứ chạy hết cái địa cầu này để săn tin của địch?
Nhưng ông lại nói:
- CIA không được phép tuyển dụng người Mỹ để hoạt động trên đất Mỹ, nếu không được phép đặc biệt của Bộ tư pháp!
Thì ra CIA đã làm trái luật khi tuyển dụng tôi, một công dân hoạt động tại nước Mỹ. Luật của người lập ra khác hẳn vấn đề thiên nhiên; bởi vì người lập ra, thì người có thể thay đổi, để thích ứng với hoàn cảnh. Tôi cho Rob biết ý nghĩ của tôi, và khuyên anh nên bàn lại với thượng cấp của anh, để họ thương lượng với Bộ Tư pháp.
Rob hứa sẽ suy nghĩ về đề nghị của tôi, và dặn tôi cứ theo đúng nguyên tắc. Có thể tôi vẫn phải nghe lời ông, nhưng muốn ông hiểu tầm quan trọng của vấn đề. Vì vậy, tôi nói:
- Nếu anh không báo cho FBI biết về người đàn bà Việt Nam đó, tôi sẽ báo. Nếu không được, tôi sẽ nhờ chồng tôi chuyển tin tức này đến cho FBI.
Có lẽ như vậy dễ dàng hơn, vì John đang làm cho cơ quan tình báo Hải quân, dưới quyền đô đốc Bobby Inman. Rob phản ứng:
- Nếu cô làm như vậy, tôi sẽ đuổi cô.
Ông nói bằng một giọng cứng rắn. Tôi liền phá lên cười:
- Trước hết, anh phải chánh thức mướn tôi, rồi mới có thể đuổi tôi được.
Trên thực tế, dù đã làm việc cho CIA và cung cấp nhiều tin tức giá trị, tôi vẫn chỉ là một nhân viên không lương, căn bản là tự nguyện. Làm gián điệp không phải là cái nghề để sinh nhai. Có thể lời nói thẳng của tôi đã làm Rob chột dạ, nên đáp:
- OK, có lẽ cô và tôi nên ngồi xuống để nói chuyện việc làm của cô.
- Có như vậy anh mới có quyền đuổi tôi khi công việc không xuôi chèo mát mái. Nghề tình báo không phải lúc nào cũng xuôn sẻ, êm ru như ba tuần vừa qua đâu. Tôi có thể vui vẻ làm với anh, nhưng tôi cũng là một con chồn hôi khi bị ăn hiếp đó! Anh nên nhớ cái tánh xấu này của tôi.
Hải quân chuyển chồng tôi về Washington. Anh làm việc ở Ngũ Giác Đài dưới sự lãnh đạo của đô đốc Bobby Inman trùm tình báo của Hải quân Mỹ. Ở Washington, tôi và Rob Hall thường gặp nhau ít nhứt mỗi tuần một lần, khi thì ở tiệm ăn Marco Polo, trong vùng Vienna để ăn trưa, khi ở Springfield ăn điểm tâm ở McDonald; lại có khi chỉ gặp ở bãi đậu xe của một trung tâm buôn bán thuộc quận Fail để trao đổi với nhau một vài tin tức. Chúng tôi thảo luận về việc đối phó với Phan Thanh Nam, Huỳnh Trung Đồng và Phạm Gia Thái ở Paris cùng những người khác, để chuẩn bị cho những công tác tương lai. Chúng tôi nghiên cứu một kế hoạch lợi dụng chỗ quen biết với Huỳnh Trung Đồng, như một cây cầu để gặp ngoại trưởng Hà Nội Nguyễn Duy Trinh và thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi hai ông sắp tới Paris. Cuộc viếng thăm này có thể quan trọng đối với chánh phủ Hà Nội, vì họ muốn tái lập mối quan hệ với Pháp. Tất nhiên, CIA cũng quan tâm đến chuyện này.
Trong một buổi gặp gỡ, tôi nhắc lại chuyện “dọn dẹp rác rưởi” bằng cách báo cho FBI biết mấy cán bộ cộng sản nằm vùng tại Mỹ. Có thể Rob đã suy nghĩ kỹ về vấn đề này, ông trả lời ngay rằng ông không đồng ý với tôi, dù đây là một vấn đề quan trọng.

Tôi không thể dễ dàng chấp nhận một chuyện như vậy được. Gián điệp của Cộng sản và nhóm “Việt kiều yêu nước” chính là hậu thuẫn của phong trào phản chiến trong những năm 1960. Ngay cả bây giờ đã hoà bình, họ vẫn có thể tuyển dụng người Mỹ cộng tác với họ trên danh nghĩa “Phục vụ hoà bình qua tình hữu nghị“. Họ có thể đánh cắp những bí mật quốc gia, kể cả về công nghệ lẫn kỹ thuật mới. Họ cũng có thể xâm nhập vào ngành tình báo, phản gián, và Bộ quốc phòng. Một chiến thuật khác của họ là tung những tin vịt trong ngành báo chí, để gây hoang mang và hiểu lầm trong các cộng đồng thiểu số, tạo nên sự căng thẳng giữa các chủng tộc. Cao hơn nữa, họ có thể gây nên rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa các nước đồng minh với nhau, nếu họ moi được những mật mã trong sự liên lạc. Chiến tranh có thể bùng nổ giữa hai nước bạn.
Tối hôm đó, tôi thảo luận với chồng tôi về mối lo này. Tôi nói với John rằng tôi thông cảm với Rob về ý nghĩ của ông, khi cho rằng FBI chỉ là “bọn cảnh sát”, nhưng tôi thực sự muốn ý kiến của một chuyên gia khác về vấn đề này. Tôi muốn biết đô đốc Bobby Inman, một “siêu gián điệp suy nghĩ gì về chuyện này. Riêng John thì anh cũng nghĩ rằng ngành phản gián phải biết rõ những gián điệp đang hoạt động trên đất Mỹ. Hôm sau, John gặp ngay đô đốc Bobby Inman. Ông cho biết ông sẽ tìm hiểu tình trạng này. Nhưng chỉ mấy ngày sau, John cho biết “họ không quan tâm” đến chuyện này. Tôi không thể tin như vậy được. Tôi nghĩ rằng nước Mỹ đang sai lầm quan trọng, mà tôi có bổn phận phải kiếm cách giúp đỡ để sửa đổi. Tôi vật lộn với những ý nghĩ ấy, rồi tôi lại xin chồng tôi tiếp tôi một tay, muốn anh dàn xếp cho tôi được gặp riêng đô đốc Bobby Inman, biết đâu người phương Tây học được cái khôn của người phương Đông và tôi tin rằng tôi có thể trình bày thẳng với ông một cách rõ hơn. John chiều ý tôi, và hai vợ chồng tôi đã được gặp đô đốc của Ngũ Giác Đài. Đô đốc Bobby Inman ngồi lắng nghe cẩn thận lời trình bày của tôi về hoạt động của Cộng sản trên đất Mỹ. Ông hứa sẽ trình bày chuyện này với ông giám đốc FBI Clarence Kelley ngày hôm sau, John lại chờ tôi vô Ngũ Giác Đài để được yết kiến giám đốc của FBI.
Cuộc gặp gỡ này chỉ có tôi và ông giám đốc của FBI trong một phòng hội nghị có cái bàn thật dài và hơn 10 cái ghế chung quanh bàn đó. Tôi bắt đầu kể lại cho ông Kelley cũng như đã trình bày với đô đốc Bobby Inman. Ông chăm chú nghe, cuối cùng, ông bắt tay tôi với hai bàn tay của ông, tỏ ý hài lòng về cuộc gặp gỡ này.
Tôi không biết rõ sau đó chuyện gì đã xảy ra giữa FBI và CIA, nhưng chỉ mấy ngày sau, Rob loan báo:
- Bây giờ thì cô hợp pháp rồi!
Rob Hall cho biết “hợp pháp có nghĩa là tôi đã được Bộ tư pháp cho phép CIA và tôi hoạt động ngay trên đất Mỹ. Rồi tôi sẽ được gặp một ông nhân viên FBI. Ông là người tôi sẽ tiếp xúc thường xuyên trong những hoạt động tay ba: là FBI, CIA và tôi.
Ông cho tôi biết tôi sẽ phải qua một lớp huấn luyện đặc biệt, và sẽ phải làm việc với một nhân viên CIA mới. Tôi giựt mình, vì với một người khác thì tôi lại mất biết bao nhiêu thì giờ dậy ông ta về Việt Cộng nữa, như tôi đã mất biết bao nhiêu thì giờ huấn luyện Rob Hall. Tôi ngao ngán vô cùng. Tôi hỏi Rob Hall tại sao tôi phải làm việc với một người khác, ông chữa lại:
- Cô muốn gặp nhân viên FBI, thì cô sẽ gặp, sẽ toại nguyện. Cô còn đời hỏi gì nữa?
Vì sẽ cộng tác với FBI, Rob Hall không được làm việc với tôi. Điều này, tôi hoàn toàn không hiểu lý do bên trong của CIA, những tôi chủ trương là không hỏi, khi tôi nghi là câu trả lời sẽ không được thành thật. Thà không biết, hơn là biết tin không đúng. Rob cũng có vẻ ngạc nhiên, tại sao tôi không hỏi anh câu nói đó, mà chỉ chấp nhận làm việc với người khác. Tôi hỏi ông về người mới, thì ông cho biết người này không hiểu gì mấy về Viễn Đông, và ông ta đang chờ đợi được cử sang Bangkok làm việc.
Mấy hôm sau, tôi gặp nhân viên mới của CIA. Ông tên là Bill Reardon, tuổi chừng bốn mươi. Ông lịch sự, dịu dàng, ít nói. Ông không hề hỏi tôi một điều gì trong những buổi gặp gỡ. Thật ra ông đâu có quan tâm đến những hoạt động của tôi. Ông nói thẳng cho tôi biết là ông đang chờ đợi sự vụ lịnh đổi qua Bangkok. Được đổi đi Bangkok hai năm trước khi về hưu, là một cái post lý tưởng, còn hơn là được cơ quan thưởng tiền. Có một vài lần ông đã ngủ gục, khi tôi đọc cho ông nghe những lá thơ tôi mới nhận được từ Paris và giải nghĩa cho ông hiểu. Tôi không muốn mất thì giờ với một người chỉ tạm thời làm; với tôi: thân của ông ở đây, mà tâm ở Thái Lan. Tôi cũng có cảm tình với ông, vì ông yêu gia đình. Tôi tin rằng nếu ông thực lo cho dự án của tôi, ông sẽ là một người cộng tác đắc lực. Chúng tôi vẫn gặp nhau để ăn trưa và trao đổi ít rau tươi trong vườn chúng tôi trồng. Chỉ có vậy thôi.
Một buổi trưa nóng nực tháng 6 năm 1976, tôi được gặp một nhân viên đặc biệt của FBI tên là William Fleshman, ông còn trẻ, trạc tuổi tôi, trầm tánh, dáng thư sinh, lịch sự. Đôi lúc trong ông có dáng dấp của tài tử màn ảnh Robert Redford, nhưng mỗi lần gặp ông, tôi lại nhớ tới một ông giáo sư dậy lịch sử. Khi đã hiểu ông, tôi rất quý ông, một con người ngay thẳng, chính xác, có tinh thần hợp tác và dễ chấp nhận các đề nghị. Ông còn là một người chân thành hiếm có, sẵn sàng thú nhận mình không biết gì hết, và ông không ngại học hỏi nâng cao nghiệp vụ. Ông có vẻ dịu dàng và hơi lệ thuộc vào sách vở, vào kỷ luật của FBI, những theo tôi, ông đúng là một nhân viên FBI chuyên nghiệp.
Hill Fleshman là một người kiên nhẫn, hiểu biết và nhạy cảm. Chúng tôi cùng quan điểm cho rằng công tác tình báo thực sự cần nhiều thời gian để đối phó với những nghiên cứu, điều tra khô khan không thú vị, từ ngày này qua tháng khác. Nó chẳng có vẻ nhộn nhịp như trong ciné (cinéma). Nó không có kết quả trong vòng hai tiếng đồng hồ như James Bond 007, và cũng không có gì vui, hay hấp dẫn. Có hồi hộp, có cô đơn, lương tâm có bị dày vò.

Cuộc liên lạc đầu tiên của tôi với các cán bộ nằm vùng của Việt Cộng trên đất Mỹ là việc tôi gặp Nguyễn Thị Ngọc Thoa ở Washington, D.C, mà Huỳnh Trung Đồng chú tâm đến rất nhiều. Tôi yêu cầu FBI bảo vệ tôi khi tôi đến chỗ hẹn gặp chị ấy, vì tôi chưa hề đến vùng này ở Washington D.C, cũng như chưa bao giờ nghe đến tên Nguyễn Thị Ngọc Thoa.
Cầm lá thơ giới thiệu của anh Huỳnh Trung Đồng, tôi gặp Nguyễn Thị Ngọc Thoa tại địa chỉ 1300 đường 18, ở lầu 2, khu Tây Bắc Washington. D.C. Lúc tôi tới, có một người đàn ông Việt Nam đang ngồi nói chuyện với chị. Những khi thấy tôi, chị tiễn ông ta ra cửa và với vẻ e ngại, dò xét, mới tôi vô nhà và cho biết ông khách vừa rồi là một người tỵ nạn muốn nhờ chị kiếm việc giùm.
Chị Thoa người rất nhỏ, không son phấn, ăn mặc đơn sơ, ít nói và tỏ vẻ dè dặt với tôi. Tôi ráng tỏ ra thân mật với chị nói rằng đáng lẽ tôi phải đến thăm chị từ lâu, nhưng bận dọn nhà, Lúc đầu chị chẳng nói năng gì, làm cho bầu không khí thật khó chịu, chị lẳng lặng nhìn tôi từ đầu xuống thân. Cuối cùng, chị nói:
- Có nhiều người tới đây nói với tôi là họ cùng phe với mình, nhưng chỉ ít lâu sau chúng tôi khám phá ra họ là những tên phản động.
Tôi nói:
- Tôi hiểu chị muốn nói gì. Chị muốn biết tôi thiệt hay giả, phải như vậy không?
Chị nói, trong khi vẫn nhìn tôi chăm chú:
- Tôi lấy làm tiếc phải cẩn thận như vậy.
Tôi ra giọng người trên khen người dưới:
- Tôi rất hài lòng khi thấy chị cẩn thận như vậy. Tôi tin rằng chúng ta sẽ cộng tác với nhau rất dễ dàng
Vừa nói tôi vừa mở bóp lấy lá bài tủ, là thư giới thiệu của anh Đồng đưa cho chị. Thơ này đã được nhân viên FBI chụp làm bản sao trong hồ sơ của chị. Đọc hết lá thơ, chị để lại vô bao, bỏ vô túi áo, rồi bắt tay tôi với một vẻ hài lòng.
Trong buổi đầu gặp gỡ này, chúng tôi không nói chuyện ngay. Tôi nói với chị là tôi thường sang Paris và sẵn sàng giúp bất cứ việc gì nếu có thể. Chị ngỏ lời cảm ơn và cho biết sẽ nhờ tôi “mang mấy thứ” qua Paris.
Lần thứ hai hẹn gặp chị, chị đề nghị đi ăn trưa. Chị hẹn tôi ở tiệm Old Stein, một nhà hàng Mỹ ở gần khu chị ở. Tôi báo cho FBI biết để họ cho người tới canh chừng khi chị và tôi ngồi ăn.
Chị cho tôi xem tờ nguyệt san “Người Việt đoàn kết”. Thực ra không phải là một tờ báo theo đúng nghĩa của nó, mà chỉ là những bản tin lấy từ những tờ báo của cộng sản ở Hà Nội, được cắt dán in lại rất công phu. Tôi tự hỏi chị lấy tiền đâu để in và gởi cho gần 5.000 người, vì đó là tờ báo biếu. Chị không nói cho tôi biết về nguồn tài chánh, nhưng chị lại đề cập tới sự giúp đỡ của một linh mục, cha Trần Tam Tinh ở Canada. Chị nói thỉnh thoảng chị qua Canada thăm vị linh mục thân Cộng đó.
Chị tin tưởng hoàn toàn vô chánh phủ của Mặt trận giải phóng và hãnh diện đã tham gia vào những hoạt động của Mặt trận giải phóng trong suốt thời kỳ chiến tranh. Chị không hề quan tâm tới những tiện nghi vật chất. Chị làm việc, ăn, ngủ và hoạt động chính trị trong căn phòng nhỏ xíu đó. Tấm đệm chị ngủ để ngay trên mặt sàn nhà. Căn phòng thiếu ánh sáng, bàn ghế ọp ẹp, lung lay. Cái bàn chị viết rung rinh, chị lấy hai chân kẹp lại cho vững khi chị viết. Chị pha café không cần đồ lược; lược bằng răng, vậy mà cũng ngon! Quần áo thì chị cho biết toàn là đồ mua ở các tiệm bán quần áo cũ. Tất cả những thứ xa xỉ không làm chị bận tâm, miễn là có đủ sức khoẻ và cơ hội để phục vụ Mặt trận giải phóng.
Khi tôi mô tả chị một cách trung thực, có ý phục sự đắc lực, kiên tâm của chị, có vài người trong cơ quan FBI chau mày. Bill hỏi tại sao tôi khen ngợi “Việt Cộng ”. Tôi nghĩ rằng tôi không làm ngơ trước một con người xuất sắc, dù người đó ở một chiến tuyến khác.
Thoa không thích nói chuyện lâu qua điện thoại. Sau khi chúng tôi đã quen biết nhau, mỗi lần gọi tôi, chị kín đáo và ngắn gọn. Chẳng hạn như: “Nè, tôi đây. Ngày mai mình có thể gặp nhau vào giờ mọi khi và ở chỗ cũ không?”. Giờ mọi khi là 10 sáng và chỗ cũ là quán ăn Old Stein. Cứ gặp nhau hoài ở nơi này, tôi quen dần và thích đồ ăn của người Do Thái. Tôi hiểu tâm trạng chị Thoa hơn. Chị hoạt động cho cách mạng thời kỳ phản chiến ở Mỹ; bây giờ chị có cảm tưởng bị cách mạng bỏ rơi. Tôi là sợi dây liên lạc giữa chị với những người đại diện cho chánh phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở Paris và cả ở Việt Nam nữa. Chị nhờ tôi nói cho Huỳnh Trung Đồng ý nghĩ và cảm tưởng của chị. Nhưng chị Thoa đâu biết là Huỳnh Trung Đồng cũng ở trong hoàn cảnh của chị, nghĩa là khi Mặt trận giải phóng miền Nam giúp cho Hà Nội cưỡng chiếm miền nam Việt Nam, thì trái chanh chỉ còn có cái vỏ. Bây giờ là tới lúc Hà Nội ngồi thưởng thức nước chanh; Mặt trận giải phóng miền Nam chỉ là một đống vỏ chanh thôi.

Theo tục lệ Việt Nam, tôi có thể không lịch sự với chị Thoa nếu tôi không mời chị về nhà chơi, trong khi tôi vẫn đi ăn với chị. Nhưng cả hai chúng tôi cũng không muốn dây đưa đến đời tư của nhau. Về tôi, chị chỉ biết số điện thoại của tôi, và sự kiện quan trọng: ba tôi là một nhân vật trong Mặt trận giải phóng miền Nam. Không bao giờ tôi hỏi chị về chồng con, không muốn chị hỏi về chồng con tôi. Những người đồng chí của chị ở Paris đã cho tôi biết về hoàn cảnh riêng tư của chị rồi. Họ còn nói: chồng chị là một “người Mỹ tốt”. Chồng tôi chắc không được các cán bộ cộng sản đánh giá là “tốt”.
Sau nhiều lần nói chuyện với chị, tôi biết khá nhiều về những phần tử thân cộng ở nước Mỹ. Tổ chức của họ rất hạn chế, nhưng họ mạnh, nhiệt tình và đa số có học. Nhiều người trong tổ chức là những sinh viên trốn động viên dưới thời tổng thống Thiệu, tìm cách không về nước sau khi đã tốt nghiệp đại học, và những sinh viên được học bổng rồi kẹt lại sau 30 tháng 4 năm 1975. Hầu hết những người này tham dự phong trào chống chiến tranh vào những thập niên 60 và 70.
Thoa giới thiệu với tôi một người trong nhóm sinh viên đó, tên là Trương Đình Hùng. Chị cho biết, anh là con của luật sư Trương Đình Dzu. Ở Việt Nam, ông Trương Đình Dzu là một người có tiếng tăm, giầu có và năm 1967 đã từng tranh cử tổng thống với ông Thiệu. Cuộc tranh cử này khiến ông gặp tai hoạ: ông Thiệu đã ra lệnh bắt giam ông, vì ông dám chống lại ông Thiệu. Một hôm, chúng tôi tình cờ gặp nhau ở cầu thang trong nhà của chị Thoa. Chị liền giới thiệu chúng tôi với nhau. Lúc đầu Trương Đình Hùng không thèm nhìn tôi, nhưng khi chị nói: “Chị Mỹ Dung là người do anh Huỳnh Trung Đồng ở Paris giới thiệu”. Trương Đình Hùng bỗng rối rít bắt tay chào tôi.

Mùa thu năm ấy, CIA lại cứ tôi sang Paris lần nữa. Một tuần trước khi lên đường, tôi báo cho Thoa biết. Chị muốn nhờ tôi đem mấy thứ sang Pháp giùm chị. Nhưng chị không trao cho tôi ngay những thứ đó, mà hẹn tôi cận ngày đi ghé lấy. Tôi đành phải nghe lời chị dù rằng CIA và FBI đều cũng muốn biết vật đó là vật gì Tôi tin rằng hai cơ quan tình báo và phản gián này có dư khả năng đối phó với mọi hoàn cảnh, cho nên tôi không hối thúc chị Thoa đưa đồ cho tôi sớm hơn.
Hai ngày trước khi rời Washington, D.C. tôi lại gặp Thoa để lấy mấy “món đồ”. Thường thường, Hùng không bao giờ có mặt khi tôi gặp chị, nhưng lần này, anh đợi tôi ở đó. Tôi đậu xe ngay trước cửa, rồi chạy lên căn phòng chị ở trên lầu hai. Tôi hết hồn trông thấy món đồ chị nhờ tôi đem sang Paris. Đó là hai thùng lớn và rất nặng, toàn những giấy tờ, gồm bản tường trình các buổi họp của quốc hội và mấy chục cuốn sách bìa cứng về chính trị và kỹ thuật: có một quyển Jimmy Who? Năm đó là năm Jimmy Carter ra tranh cử tổng thống; quyền sách viết về ứng cử viên Jimmy Carter. Trước khi tôi ra về, Hùng đưa cho tôi một bao thơ dán kín. Tuy ngoài bao thơ đề tên người nhận là ông Nguyễn Ngọc Giao, nhưng Hùng bảo tôi đưa cho anh Đồng, đừng đưa cho anh Giao.
Hai tiếng đồng hồ sau, các nhân viên FBI và CIA đến nhà tôi xem xét hai thùng đồ của Thoa. Họ ghi lại tên các cuốn sách, nhưng họ không mở thơ dán kín của Hùng, vì họ chưa được phép của Bộ tư pháp để mở thơ của Thoa hay Hùng. Đó là thủ tục con rùa hành chánh và cũng là luật lệ của một xã hội có nhân quyền. Tôi đành phải trao cho anh Đồng lá thơ nguyên vẹn.
Tháng 4 năm 1976, tôi viết thơ cho ông Nguyễn Văn Lũy, chủ tịch Hội người Việt yêu nước ở Hoa Kỳ, người mà ông ông đại sứ Võ Văn Sung của Hà Nội muốn tôi gặp. Ông Lũy ngỏ ý mời tôi sang San Francisco gặp ông và các hội viên điều hành tổ chức Việt kiều yêu nước do ông làm chủ tịch. Không những vậy, ông còn đề nghị tôi tới Christianburg, tiểu bang Virginia bí mật gặp hai “hội viên rất tích cực”, đang là sinh viên trường Đại học Virginia Tech. Tôi biết Lũy điều hành tổ chức của cộng sản dưới quyền điều khiển trực tiếp của ông bộ trưởng Bộ ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó tôi muốn dồn hết nỗ lực vô việc này, và cần có người chỉ dẫn tích cực hơn Bill Reardon, người chỉ mơ đến chuyện đi Bangkok.
Tôi định thử thời vận, nên liều kêu cho cấp trên của Rob, ông Roger McCarthy, xin được gặp ông. Ông đồng ý gặp tôi ở tiệm McDonald, ở Vienna, Virginia để ăn sáng. Khi gặp ông, tôi đề nghị ông cho Rob thay Bill Reardon, dù Rob và tôi nhiều lần bất đồng với nhau về cách làm việc, cũng như về ai làm chủ tình hình, nhưng Rob rành việc, như anh rành lòng bàn tay mình.

Ông Roger mỉm cười và chỉ đầu hói của mình nói:
- Rob là nguyên nhân làm cho tôi rụng gần hết tóc rồi!
Tôi cười theo ông.
Thế là Rob trở lại làm việc với tôi. Công việc của tôi trôi chảy hữu hiệu hơn.

***

Tháng Chạp năm đó là tôi bù đầu với cái việc của người làm gián điệp, Cứ mỗi thứ Sáu, tôi lại phải gặp hai nhân viên FBI và CIA để báo cáo về hoạt động của tôi với mấy người Việt Nam thân cộng trong vùng Virginia và Washington, D.C. Từ ngày John là một sĩ quan tuỳ viên liên lạc quốc tế, chúng tôi thường đến các toà đại sứ để dự tiếp tân, kể cả các toà đại sứ của các nước như Liên Xô, Úc, Ấn Độ, Thái Lan, Thuỵ Điển, Triều Tiên, Nam Phi, Nam Tư và Phi Luật Tân.
Trong khi đó, ở nhà, tôi phải sửa soạn tổ chức hai buổi kỷ niệm quan trọng. Thứ nhứt, là mừng sinh Lance lên sáu tuổi, vào ngày 9. Lance đòi rủ tất cả bạn trong lớp; có tất cả hai mươi hai đứa con nít học lớp Một. Tôi thầm nghĩ, một đứa con nít học lớp Một mà có khi chạy theo nó không kịp thì hai mươi hai đứa, không biết có làm xuể không? Nhưng việc gì cũng bắt đầu bằng lần thứ nhứt mới rút ra được kinh nghiệm. Kế đó, buổi kỷ niệm lớn nhứt là mừng lục tuần của má tôi. Em tôi phụ lập một danh sách gồm những người được mời, gồm có các bà mẹ của các bạn tỵ nạn của chúng tôi trong vùng Washington và một cô hàng xóm sát vách của chúng tôi hồi còn ở Sài gòn. Chúng tôi âm thầm tổ chức và giữ hết sức bí mật. Đến ngày 16 tháng Chạp, đại lễ. Má tôi vừa ngạc nhiên, vừa ngỡ ngàng trước đông đảo bạn bè cũ từ Sài gòn và con cháu đến chúc thọ bà.
Đến tuần lễ đầu tiên của tháng Giêng, tôi mệt mỏi quá, nên dặn các em tôi: nếu “Việt Cộng gian ác” kêu, thì cho họ biết tôi nghỉ ngơi, không họp hành gì trong tháng này.
Nhưng sự nghỉ ngơi này cũng không thể thực hiện được, vì tôi nghe đồn rằng có một bà tên là Thu Novax đi hỏi loanh quanh tìm “người con gái của ông đại sứ Việt Cộng ở Mạc Tư Khoa”. Vào thời gian đó, ngay cả những người bạn thân của tôi cũng không biết gì về ba tôi. Tôi gọi điện thoại cho Trương Đình Hùng, hỏi anh có biết ai tên là Thu Novax không? Hùng là người biết rất nhiều. Anh khuyên tôi không nên giao du với “hạng người ấy”. Anh và chị Thoa còn nói rằng Thu Novax lợi dụng sự quen thân với đại sứ của Việt Cộng tại Liên hợp quốc là Đinh Bá Thi, để khoe khoang là chị thân Cộng. Cả hai còn e ngại rằng Thu Novax có thể làm những người trong tổ chức của Việt kiều yêu nước bị tai tiếng. Tôi nói với Hùng rằng tôi muốn gặp Thu Novax để tìm cách ngăn cản bà ta tiết lộ bí mật riêng của tôi. Do đó Hùng mới cho biết, Thu Novax là một thành viên trong Hội người Việt Nam yêu nước mà Nguyễn Văn Luỹ là chủ tịch. Tôi gọi ông Luỹ, xin ông số điện thoại của bà ta.
Tôi gọi Novax và tự nhận tôi là người bà đang kiếm, thì bà vô cùng mừng rỡ. Bà cho biết bà vừa gặp ông Đinh Bá Thi, đại sứ Việt Nam ở Liên hợp quốc; chính ông Thi yêu cầu kiếm “con gái của ông đại sứ Minh”. Ông tin rằng con gái ông đại sứ thế nào cũng hợp tác, hoạt động với những người theo phe cộng sản. Tôi yêu cầu bà từ nay đừng nhắc tên tôi với bất cứ ai, vì “tôi muốn ẩn danh”. Tôi không chấp nhận hay phủ nhận là tôi có hoạt động trong tổ chức của Việt kiều yêu nước không.
Bà ngỏ ý muốn gặp tôi, vì bà tin rằng tôi có thể dậy bà về xã hội chủ nghĩa. Không biết những người thân cộng có hiểu chủ nghĩa Cộng sản không là một bịnh di truyền, mà là một bịnh của xã hội? Sau khi nói chuyện với bà Novax, tôi nói với nhân viên phụ trách, là tôi có thể xâm nhập phái đoàn Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Liên hợp quốc. Rob tỏ ý không thích tôi làm việc nhiều cho FBI. Trong khi đó, tất nhiên FBI cho đó là một ý kiến rất hay. Tôi đề nghị để tôi điện thoại với ông Đinh Bá Thi xem ý ông ấy ra sao, rồi mình sẽ tính nên làm gì sau đó.
Khi tôi gọi ông đại sứ Thi ở New York và kêu bằng “ông” thì ông sửa ngay:
- Kêu bằng chú đi, vì chú là bạn của ba cháu.
Ông cho biết ông mới về Việt Nam và nghe các nhân viên trong Bộ ngoại giao nói chuyện về “gia đình đồng chí Đặng Quang Minh hiện ở Mỹ”. Ông đề nghị tôi đến thăm, phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc, ông nói:
- Cháu có thể tới càng sớm càng tốt. Tất cả các nhân viên ở đây đều biết ba cháu, là đồng chí của ba cháu. Không những vậy, chúng ta đều là người đồng hương.
Tôi nghĩ rằng tất cả các cơ quan tình báo Mỹ đều muốn nắm lấy cơ hội này, để biết xem các phái đoàn cộng sản hợp tác với nhau như thế nào. Nhưng một lần nữa, CIA không muốn tôi dính vô vụ này. Rob doạ sẽ “đuổi” tôi nếu tôi đi New York. Nhưng ông miễn cưỡng cho phép tôi nói chuyện với Bill Fleshman về lời mời của đại sứ Đinh Bá Thi. Tôi nói với Bill là sự xung đột giữa hai cơ quan tình báo, nên tìm cách giải quyết cho ổn thoả, đó là sự ganh ghét của hai bên có từ ngày hai cơ quan mới ra đời, không dính líu gì tới tôi, nhưng đừng để chuyện cắng đắng giữa cặp vợ chồng không xứng đôi vừa lứa này, cản trở việc làm của tôi. Cuối cùng, Bộ tư pháp bật đèn xanh cho tôi đi New York. Nhưng tôi tin rằng hai cơ quan đã có một cuộc tranh cãi gay go, mà tôi không được tham dự.
Tôi muốn gặp đại sứ Thi để phục vụ cho chánh phủ Mỹ. Ngoài ra, tôi cũng muốn gặp một nhân vật đã từng tham dự hoà đàm Paris, người mà Thái và Mimi, vợ chưa cưới của Thái, kể cả những người thân cộng ở Pháp nữa, rất hâm mộ. Tôi cũng muốn gặp các cán bộ cộng sản khác ngoài Phan Thanh Nam và Huỳnh Trung Đồng. Có lẽ tôi đang kiếm một tia sáng trong bóng tối dầy đặc, một chút nhân tánh trong đám độc tài thiển cận ấy.

Trước khi đem tầu ra biển đánh cá, tôi muốn biết thêm về con cá mà tôi tính đánh trong mẻ lưới tới, nên tôi kêu cho Trương Đình Hùng, hỏi anh ta có muốn tôi mang gì cho phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc không? Anh trả lời có. Anh muốn nhờ tôi đem một lá thơ khẩn cho ông đại sứ. Tôi lái xe ra Washington D.C, để gặp Hùng bên ngoài một tiệm ăn trên đường Connecticut; tất nhiên là tôi đã báo trước với CIA và FBI. Chủ trương của tôi là không một hành động nào giữa tôi và phe cộng sản thân Cộng, mến Cộng, mà không báo cho hai cơ quan này, để tránh mọi hiểu lầm, và để được bảo vệ an ninh cho cá nhân và gián điệp của tôi.
Sau đó, tôi điện thoại cho ông đại sứ để báo tin tôi sẽ bay lên New York ngày 19 tháng Giêng, và muốn gặp ông ngay ngày đó. Ông đề nghị tôi không nên ở hotel; mỗi ngày phải vô ra trụ sở của ông, thì sẽ bị tình báo Mỹ theo dõi. Ông mời tôi cứ đến ở trọ trong nhà khách của cơ quan. Tôi vẽ ra dự tính của tôi với Fleshman và Rob Hall: trong ba ngày làm khách của ông Đinh Bá Thi, tôi sẽ không gọi điện thoại cho hai cơ quan tình báo nhưng tôi sẽ liên lạc với gia đình tôi bằng điện thoại. Nếu trong ba ngày mà tôi không kêu cho gia đình được, thì cả FBI lẫn CIA phải biết là đã có chuyện gì không hay xảy ra cho tôi.

Tôi mong rằng sẽ không có trục trặc gì khi tôi đến thăm phái đoàn. Chỉ có năm người làm việc tại trụ sở này: ông đại sứ, ông phụ tá Phạm Ngạc, người đã từng cộng tác với ông đại sứ ở Pháp và Thuỵ Sĩ. Người thứ ba là ông Phạm Dương, chuyện viên kinh tế. Rồi đến ông Hùng, quản gia kiêm đầu bếp. Người cuối cùng ông Văn, tài xế kiêm vệ sĩ của ông đại sứ.
Hai ông Hùng và Văn chắc chắn không phải là nhà ngoại giao. Ông Hùng không bao giờ một mình dám ra khỏi nhà với bất cứ lý do nào, trừ khi ông đi cùng với nhân viên trong phái đoàn. Ông không biết tiếng Anh và ông thù ghét Mỹ. Ông sợ mùa đông ở New York lắm, ghét xem quảng cáo thương mại trên truyền hình, và ghét luôn cả những tiệm bán tạp hoá lớn. Còn lái xe Văn là một người hình như pha trộn cả chất Á đông với một nông dân người Anh. Ông hút thuốc xì-gà. ăn uống và lái xe đều đội một cái nón chỉ có vành chung quanh và lưỡi trai ở phía trước, như một người đang ngồi sau tay lái một chiếc xe thể thao. Ông huênh hoang khoe “ông thích New York hơn Moscow, vì lái xe ở New York là cả một vấn đề đầy thử thách”.
Ngay ngày đầu tiên tôi tới thăm, tất cả chúng tôi cùng ăn trưa, rồi mọi người biến mất để đánh một giấc ngủ trưa. Qua lời đại sứ Đinh Bá Thi, tôi tưởng là cơ quan có phòng cho khách trọ, nhưng ông Văn phải nhường phòng của ông cho tôi, chuyển đồ đạc sang phòng ông Hùng để ngủ. Dù phòng yên tĩnh và tôi có hai tiếng để ngủ trưa, nhưng tôi cũng không chợp mắt được. Lâu quá rồi, tôi đã mất đi cái hạnh phúc được ngủ trưa từ ngày “Đế quốc Mỹ” sang Việt Nam. Họ thay đổi giờ làm việc của hành chánh nên ai ai cũng phải thức với người Mỹ. Tôi đành ngồi đọc tờ New Yorker cho qua giờ. Ông đại sứ Thi, sau khi ngủ trưa sang phòng gặp tôi. Ông mang theo một cái ghế để ngồi nói chuyện.
Ông mở đầu:
- Chẳng mấy khi chú có thể hỏi thăm đến má cháu. Má hồi này thế nào?
Tôi đáp:
- Sức khoẻ của má cháu tốt lắm, nhưng hoàn cảnh của ba má cháu thật éo le. Má cháu nhớ ba cháu và anh Khôi vô cùng. Nhưng mà cháu biết rằng nếu bà về Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều thử thách lắm.
Tôi không hiểu sao tôi lại thành thật với ông. Có thể giấc quan thứ sáu của tôi rất nhạy, khi tôi ngồi trước mặt người đàn ông này với vẻ mặt đầy thiện cảm. Ông nói:
- Đây là giữa chú Thi và cháu thôi nhé. Má cháu đã làm đúng, khi không trở về Việt Nam. Không đâu có thể bình yên bằng Hoa Kỳ được. Cho tới nay, người ta vẫn bất bình với má cháu và các cháu.
- Có phải vì mấy chị em cháu lấy chồng người Mỹ không?
- Cả chuyện đó nữa, những đó chỉ là việc phụ.
Dù ông không nói ra, nhưng tôi hiểu rằng việc má tôi bỏ Sài gòn chạy đi Mỹ trước khi quân giải phóng vô, đã khiến Chánh phủ Việt Nam mất mặt.
Sau giờ ngủ trưa, ông đại sứ đưa tôi đi thăm trụ sở Liên hợp quốc. Khi đi qua gian hàng bán các quà lưu niệm của nhiều nước, tôi buồn vô cùng, vì sản phẩm của các nước bày la liệt mà không có một món đồ nào của Việt Nam, ngoài mấy cái nón lá, búp bê mặc áo dài, đội nón lá, với tấm tranh sơn mài nhỏ: nếu nhà Thành Lễ thấy tranh này, chắc động lòng mà bố thí cho họ, may ra để đẹp mặt cho ngành sơn mài của Việt Nam. Tôi hỏi ông:
- Chừng nào thì nước mình có thể trở lại bình thường như trước hả chú?

Ông nhìn tôi, rồi vội quay mặt đi mà không trả lời. Hôm sau, mọi người đi làm hết, nhưng khoảng 11 giờ, Phạm Ngạc trở về, và chúng tôi nói chuyện về cộng đồng người Việt ở Mỹ, những người tỵ nạn lẫn những kẻ thân Cộng. Anh đưa cho tôi xem xấp hình của người tỵ nạn ở khắp mọi nơi trên nước Mỹ; hình người ta sắp hàng đi biểu tình chống Cộng; hình bà con đứng chờ ở các văn phòng bảo trợ tỵ nạn như USCC, IRC, v.v… Anh nhờ tôi cố gắng nhận diện những người này. Tôi nhìn hết hàng trăm tấm hình, nhìn để biết những người Cộng sản này lên lỏi trong cộng đồng người Việt tỵ nạn sâu bao nhiêu. Hình do chính những người tỵ nạn và hội viên của Việt kiều yêu nước chụp cung cấp cho phái đoàn. Tôi hỏi Phạm Ngạc mục đích của công việc này, thì anh ta cho biết đây là “kho tàng” của họ, vì qua tấm hình này ở hải ngoại, họ sẽ tìm tại những người tỵ nạn đó, vì ai cũng có bà con thân nhân bên nhà. Hình sẽ được gửi về Việt Nam để điều tra ai có thân nhân ở Mỹ.
- Đây là một kho tàng của Bộ nội vụ của chúng tôi chị à!
Tôi thầm chửi thề trong bụng:
- Thằng Bắc Kỳ, nó là nhân viên của Bộ ngoại giao Hà Nội, đi chụp hình người tỵ nạn Cộng sản, đưa về cho “Bộ nội vụ của chúng tôi”.
Tôi kiên nhẫn xem tiếng tấm hình mà trong bụng buồn, ngao ngán vô cùng, vì tôi biết đây rồi người tỵ nạn cũng bị chia rẽ phân hoá, sẽ nghi ngờ nhau. Kẻ hèn sẽ theo Việt Cộng, người có tri thức sẽ đứng riêng biệt ra, rồi đánh nhau. Ông ngoại tôi đã phân tích hồi chúng tôi còn nhỏ. Ông nói:
- Thằng Tây nó tổn xương, tổn máu làm chi cho uổng, để Việt Nam mình đánh nhau vài trăm năm là mất Việt Nam, rồi ung dung vô đây mà hưởng.
Phạm Ngạc cho biết, ông có một người bạn làm cây cầu liên lạc cho phái đoàn ngoài giới hạn 25 dặm theo luật của Liên hợp quốc. Nhân viên của phái đoàn trong Liên hợp quốc không được hoạt động quá 25 dặm ngoài thành phố New York. Vì vậy, ông cần có người liên lạc ngoài giới hạn đó, kể cả những người trong hội “Việt kiều yêu nước”. Ông khoẻ ông có một bà bạn người Mỹ, ông cho biết:
- Bà ta rất tốt với chúng tôi. Bà không những là một người trí thức, mà còn có tinh thần phóng khoáng. Bạn của bà có nhiều người là triệu phú, trong đó có một ông là chủ nhiều tiệm bán quần áo đàn bà, trong hệ thống dây chuyền trên toàn quốc.
Ngạc cầm một lá thơ, rồi hỏi tôi về Peter Arnett, phóng viên của hãng thông tấn AP, ông này muốn được phép đi qua Việt Nam. Tôi cười mà cho ông biết rằng các nhà báo Mỹ, cũng như các chính khách Mỹ rất thích những đề tài không bình thường vậy, nếu ký giả Arnett ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam, thì giới phản chiến không thèm đọc. Tôi biết ông này đã từng ở Sài gòn mấy năm để lấy tin chiến tranh. Ngạc hỏi:
- Như vậy hắn phải biết rất rõ về Việt Nam, phải không?
Tôi trả lời ngay:
- Làm sao ổng có thể hiểu rõ về Việt Nam được, khi ổng qua Việt Nam cỡi ngựa xem hoa, đi giầy Tây, mặc đồ ký giả. Đa số đám ký giả Mỹ chỉ muốn tìm hiểu xem tiền người dân Mỹ được tiêu xài như thế nào, để đăng báo. Cũng có người muốn đề cập tới những nỗi đau khổ trong cuộc chiến. Cũng có những ký giả muốn cho người đọc của họ biết về cuộc chiến hấp dẫn kỳ lạ, những đau khổ mà người Việt Nam nghèo đói phải chịu đựng. Đa số dân Mỹ chỉ biết Việt Nam một cách hời hợt, qua mấy ông bà ký giả này. Nhiều người con tưởng Việt Nam toàn rừng rú, đầy bệnh tất, ruồi muỗi, sinh lầy, nơi nào cũng có mìn, cũng có bàn chông, và họ nghĩ rằng tất cả dân Việt Nam đều là hành khất, rách rưới, đĩ điếm; con nít thì đánh giầy, đàn ông thì làm cò mồi cho Việt Cộng. Những nông dân thiệt thà, chất phác đều ở trong vùng giải phóng và tất cả là Việt Cộng, chỉ muốn được bình yên.
Rồi tôi kết luận:
- Anh không cần biết lập trường chánh trị của Peter Arnett, vì khi nhận được thẻ nhà báo, thì nó phải quên đi lập trường riêng của nó rồi.
Ngạc nhận xét:
- Chị không ưa nhà báo, phải không?
Vào ngày thứ hai của cuộc viếng thăm, trong khi mọi người ngủ trưa, ông đại sứ Thi lại đến nói chuyện với tôi vì tôi không ngủ trưa. Tôi rất mừng được dịp này. Tôi muốn biết ông thật tình nghĩ gì về chánh phủ Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và của ông trong chánh phủ đó. Tôi và ông Thi nói chuyện về những mơ ước thầm kín của chúng tôi về tương lai nước Việt Nam. Ông tâm sự:
- Chũ đã sống xa vợ con cả nửa cuộc đời. Giấc mơ của chú là một căn nhà nho nhỏ có vườn để trồng rau và nuôi gà… và có thể nuôi cả heo nữa.
Tôi hỏi:
- Chú thích ở đâu?
- Thủ Đức, cháu à. Chú đã đi nhiều nơi xem phong cảnh đẹp ở khắp miền Nam. Cuối cùng chú mê Thủ Đức vì con sông Đồng Nai. Bao giờ xây được căn nhà trong mộng tưởng ấy, chú có thể ngắm những con gà tranh nhau ăn. Các con chú buổi chiều tan sở của Sài gòn sẽ về nhà bằng những chiếc xe gắn máy mới và cùng chú ngắm mặt trời lên trên bờ sông ngay trước nhà.
Ông say sưa nói với nụ cười trên môi, nhưng hai mắt đỏ hoe. Tôi cũng không giấu được tình cảm của tôi, nên tôi đặt tay tôi lên tay ông mà nói:
- Chú Thi, cháu hy vọng giấc mơ của chú sớm thành sự thực.
- Chú cũng mong được như vậy trước khi quá trễ. Thím không được khoẻ, và chú đã xin phép chánh phủ cho thím sang bên này để tìm bác sĩ chữa trị cho thím.
- Bao giờ thì thím sang?
Ông lắc đầu:
- Đơn của chú đã tới nơi cao nhứt trong chánh phủ rồi, chú chưa nhận được trả lời. Nước nào thì cũng có sai lầm trong hệ thống quản trị của một chánh phủ. Những ở nước ta, điều tệ hại nhứt là không tin nhau. Vợ không bao giờ được đi theo chồng khi chồng công tác ở hải ngoại.
Tôi nhận xét:
- Không riêng gì Việt Nam mình đâu, chú. Cháu thấy nhà ngoại giao Nga lẫn các nước cộng sản đều như vậy.
Ông cất tiếng cười, rồi hỏi:
- Cháu có hình dung được rằng một người ở trong địa vị của ba cháu, lại có thể bỏ trốn theo tư bản khi ba được làm việc ở nước ngoài, mà chánh phủ cho anh cháu đi theo không”
Ông vừa cười vừa lắc đầu, như cho đó là một chuyện không bao giờ xảy ra, nhưng nhà nước của chú thì lúc nào cũng sợ bị phản bội.
Lời nói của ông khiến tôi nảy ra một ý nghĩ, nên liền hỏi ông:
- Má cháu có thể xin phép được gặp anh Khôi của cháu ở hải ngoại không chú?
- Cháu cứ thử nói với má cháu viết thư cho ông Tổng bí thư Lê Duẩn xem sao; chú sẽ chuyện thư giùm má cháu.
Tôi buồn bã nói:
- Một người mẹ phải xa con trai tới hai mươi năm, đó là một thời gian dài quá chú à.
Ông sốt sắng nói:
- Nếu chánh phủ ta không đáp ứng được một nhu cầu tầm thường như vậy, thì cũng không thể thực hiện được những giấc mơ của người dân trong nước. Cháu nói với má cháu là chú sẽ hết lòng giúp má cháu.
Thux; sự cảm động trước tấm lòng của ông, tôi nói:
- Bây giờ thì cháu hiểu tại sao những người cháu gặp ở Paris đều khen chú là một người đặc biệt, có tình, không như những người i khác trong họ ngoại giao.
Nhưng ông nói như để cảnh cáo tôi:
- Cháu đừng có nghi ngờ lòng trung thành của chú với đất nước Việt Nam và con đường chú đã chọn để phục vụ tổ quốc. Nhưng, chủ nghĩa xã hội hay Cộng sản đều không ngăn cấm chúng ta đem hạnh phúc lại cho dân tộc, và đưa tổ quốc tới một tương lai rực rỡa. Chú đã thoát ly gia đình để phục vụ tổ quốc. Nay, nếu sự hy sinh đó không đem lại hạnh phúc cho dân tộc, thì chắc chắn phải có sự sai lầm nào trong hệ thống mà chú đang nói:
- Chú Phan Thanh Nam giải thích về đảng khác với chú!
- Cháu nói Nam trong phái đoàn của Mặt trận n Giải phóng ở Paris?
- Dạ.
Chú Thi lắc đầu tỏ vẻ chán nản, nói:
- Nam cũng là người miền Nam. Loại người theo khuôn luật, không cấp tiền trong quân đội. Chú ấy vừa được chuyển sang công tác mới nên hăng hái lắm!
- Cháu đã có dịp nói chuyện với chú Nam chung quanh việc “làm cái gì cho Việt Nam”. Có hai lần ông đề nghị cháu kêu chồng cháu ăn cắp những tài liệu giá trị của chánh phủ Mỹ. Ông còn nói là nếu cháu còn muốn gặp ba cháu nữa, thì cháu phải chứng tỏ cháu trung thành với Việt Nam. Chú Nam hứa sẽ bảo cấp trên ở Việt Nam là cháu đang làm việc cho chú.
Vẻ mặt bình tĩnh của đại sứ Thi biến mất. Ông hít một hơi dài rồi nói:
- Có thể má cháu biết ông Đỗ Mười, những chú chắc cháu thì không, vì hồi đó cháu còn nhỏ quá. Ông Đỗ Mười là bạn chí thân của ba cháu. Chú tin rằng ông không bằng lòng khi biết cháu liên lạc với Phan Thanh Nam.
Ông nói tiếp:
- Mỹ Dung, nghe chú nói đây. Cháu là con gái của ba cháu. Việt Nam là quê hương của chịu. Cháu không cần phải làm việc cho chú Nam để được cấp giấy thông hành về Việt Nam. Nếu chú ấy lại nhắc đến chuyện đó nữa, cho chú biết ngay. Chú Nam làm việc giỏi, nhưng đôi lúc cũng tàn nhẫn lắm.
Tôi thay đổi đề tài, để tìm hiểu thêm về những liên lạc của ông trong giới người Việt ở Mỹ:
- Chú đã gặp anh Trương Đình Hùng ở Washington chưa?
- Hùng và bạn của anh ta là chị Thoa, là hai người đã tiếp đón chú khi chú tới Washington. Có việc gì vậy?
- Cháu nghĩ anh Hùng hiện đang hoạt động cho chú Phan Thanh Nam. Thỉnh thoảng cháu có gặp anh ấy.
Tôi định nói, Thoa thì không còn được Hà Nội trọng dụng như trước nữa, vì đối với Cộng sản Hà Nội, chị chỉ là dụng cụ “chống Mỹ cứu nước”, chớ không phải là người được theo cộng sản. Khi còn chiến tranh, Mặt trận giải phóng và cộng sản Bắc Việt lợi dụng tất cả mọi người, tất cả các hội đoàn, đảng phái chánh trị, sinh viên, Phật giáo, Công giáo hay bất cứ ai. Bây giờ chiến tranh đã chấm dứt và họ đã thắng trận; họ thanh lọc chỉ còn bè phái băng đảng của họ thôi. Chị Thoa là một nhân vật quan trọng trong phong trào phản chiến, những bây giờ Hà Nội chỉ thích loại người như ông Luỹ, đứng đầu hội Việt kiều yêu nước. Luỹ có tiền, có sự nghiệp, có nhà ngoài bờ biển San Francisco. Ông từng là điệp viên của cộng sản từ thập niên 1960. Thoa tận tuỵ “chống Mỹ cứu nước” với hai bàn tay trắng và tấm lòng. Những quý giá này không xây được nhà lầu, không tạo ra sự nghiệp, thì hết chiến tranh rồi, nó trở thành vô dụng, về trước mặt cộng sản. Luỹ và Thoa đã từng tranh chấp quyền hành và Thoa đã thua. Anh Đồng ở Paris khuyên chị nên gia nhập tổ chức của ông Luỹ như mặt đoàn viên mới. Đã vậy, anh còn viết thơ cho tôi, nhờ tôi khuyên chị Thoa nên đi học lại để xây dựng một cuộc đời mới. Đó cũng là một hình thức chia tay nhân đạo của người Cộng sản.
Ông đại sứ Thi nói bằng một giọng trầm tĩnh:
- Chú biết Hùng. Anh ta là người có nhiều tham vọng và sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để đạt tới mục đích của anh. Hùng là người tình nguyện hợp tác với cơ quan của chú. Cháu không cần phải làm gì hết, nếu cháu không muốn. Khi nào cháu gặp Hùng thì biểu hắn cứ tiếp tục gởi những thứ đó lên trên này.
Tôi hỏi:
- Liệu anh có hiểu “những thứ đó” là cái gì không?
Ông Thi nhìn tôi mỉm cười gật đầu. Tôi để yên câu hỏi đó cho thời gian trả lời.
Ngày cuối cùng ở New York, tôi mời ông đi ăn tối và đi xem Ballet, vì hai ngày trước tôi nghe ông Thi nhắc vũ Ballet ở Pháp, và ông rất thích món giải trí này: dù tôi không thích, những cũng nhận lời. Tôi kêu cho một tiệm ăn Pháp để giữ chỗ. Tôi biết, tôi có thể mua vé xem vũ Ballet qua điện thoại, nhưng tôi muốn có dịp đi ra ngoài, để kêu cho văn phòng FBI ở New York, báo cho họ biết chương trình tối nay của tôi. Vì vậy, tôi nói với Thi, tôi phải đi lấy về.
Nhưng khi tôi đã sắp sửa ra đi, ông đại sứ tới phòng tôi cho biết ông rất lấy làm tiếc không thể đi ăn tôi và xem vũ Ballet ti được. Ông nói:
- Ông Dương nghĩ rằng chú cháu mình không nên đi riêng một mình tối nay.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao lại không thể đi được chú Thi? Tiệm ăn này đâu có vượt quá hạn đã định?
Ông đáp:
- Tụi CIA và FBI sẽ chụp hình chúng ta, rồi báo chí đồn ầm lên rằng đại sứ Đinh Bá Thi đi ăn, đi uống với một người đàn bà Việt Nam ở New York.
Vừa nói, ông vừa đưa một tờ báo lên cao, chỉ vô hàng tit lớn.
Tôi liền đề nghị:
- Thế thì tất cả mọi người cùng đi cho vui.
Ông đáp ngay:
- Như vậy thì tốn nhiều tiền lắm. Không nên.
Ông đề nghị, ông Hùng và tôi đi xuống phố Tàu để mua thức ăn về nhà làm cơm ăn chung với tất cả mọi người. Thế là ông Hùng đầu bếp và tôi cùng đi với ông tài xế Văn. Tôi nhờ ông Hùng chọn mua những thứ để làm những món ăn mà ông Thi ưa thích. Ngoài ra, tôi cũng đề nghị ông mua những thức ăn khô cần thiết để dự trữ như nấm Đông cô, gạo, mì, bún, bánh tráng, nước mắm và cả những đồ gia vị. Ông Hùng ngần ngại, những tôi nói tôi trả tiền.
Cuộc sống của phái đoàn ở thành phố New York nhộn nhịp này thu gọn trong căn nhà cao ốc, mọi người bảo vệ nhau, gìn giữ nhau, kiểm soát nhau. Tôi có cảm tưởng như họ không quên được những thói quen ở Hà Nội; hay là họ không được tự do để thích ứng với đời sống ở một xã hội tự do.
Đại sứ Thi nói, ngân khoản của phái đoàn rất eo hẹp; cho nên mọi người nhịn ăn sáng. Còn bữa trưa và tối thì quá nghèo nàn, nhưng theo ông, vẫn đủ chất bổ dưỡng.
Nếu có ai yêu cầu tôi sáng tác một bản nhạc mô tả bầu không khí sinh hoạt trong căn nhà của năm người đàn ông này đang sống, tôi sẽ gom góp lại tất cả những âm thanh của ba máy thu hình và ba cái radio cùng mở một lúc liên tục cả ngày, cộng với đó tiếng rào rạt của mấy tờ báo được lật qua lật lại trong nhà, là âm thanh của căn nhà ấy.
Thời gian hấp dẫn nhứt đối với họ, là giờ tin tức sáng, trưa, tối. Đổi đài radio và TV theo giờ; giờ tin tức là công tác quan trọng của mấy ông Hùng, Văn và Phạm Ngạc. Họ thu vô băng cả những tin tức, rồi chuyển về nước.
Họ không có thì giờ để giải trí. Trong nhà không có một bộ bài, hay một bàn cờ tướng. Ông Thi giải thích:
- Những thứ giải trí ấy là xa xỉ. Chúng tôi phải làm việc vì chánh phủ gởi chúng tôi sang đây để làm việc.
Hầu như không bao giờ họ ra khỏi trụ sở của phái đoàn, ngoài việc đi từ nhà đến trụ sở Liền Hiệp Quốc, đi phố Tàu mua sắm. Vì vậy, những nhận xét của họ về nước Mỹ được gởi Việt Nam chỉ là những nhận xét bị đóng khung trong một căn nhà nhỏ hẹp, với những kỷ luật khắt khe. Họ xét đoán “đế quốc Mỹ” theo những gì họ thấy trong truyền hình. Họ đã làm đúng theo cương vị của các nhân viên trong một phái đoàn Liên hợp quốc. Tôi nhớ, năm 1954, khi hoà ước Geneve đề ra Uỷ hội quốc tế kiểm soát đình chiến ở Việt Nam, ông ngoại tôi đã nhận xét:
- Tụi này chỉ làm được một chuyện, là cho giá mướn nhà và tiền mướn đầy tớ ở Sài gòn tăng vọt lên thôi
Còn ông cậu tôi thì cho rằng:
- Đám Uỷ hội này không làm được đách gì hết.
Dù tôi không có ý nghĩ hay ho nào về phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc, nhưng tôi vẫn kính phục đại sứ Đinh Bá Thi. Trước khi được nói chuyện riêng với ông, tôi đã cố gắng tìm hiểu trước, để xem có thể vạch đường cho ông đào thoát không? Nhưng sau buổi nói chuyện đó, tôi cảm thấy mắc cỡ với chính tôi, vì đã có y nghĩ đó. Tôi biết chắc rằng, với bất cứ gia nào, không ai có thể mua chuộc được ông, cũng như không ai mua chuộc được ba tôi. Vì vậy, tôi thành thực cầu chúc ông thực hiện được giấc mộng của ông, là xây dựng một căn nhà ở Thủ Đức, bên bờ sông Đồng Nai, để sống yên ổn với gia đình. Ông nhận lời chúc mừng, với một nụ cười trong mắt ông.
Nhưng, khi ông trở về Việt Nam, thì những ngày cuối cùng của ông khác với giấc mộng ông hằng ấp ủ.
Đã mười năm nay, đã có nhiều giai thoại về đại sứ Đinh Bá Thi, Tôi chỉ biết chắc chắn một điều về ông, là ông đúng là một nhà ái quốc như ba tôi. Chỉ khác hơn ba tôi, là ông dám phê bình đảng. Chỉ có người ra lịnh giết ông mới biết nguyên do cái chết của ông thôi.

***

Từ ngày tôi làm việc cho CIA, đã nhiều lần Rob muốn tôi trắc nghiệm với máy dò sự thật. Tôi không hiểu tại sao ông ta muốn vậy. Tôi không nghĩ rằng CIA có một chút nghi ngờ gì tôi. Họ biết rõ tôi là ai, và tại sao tôi cộng tác với họ. Ngoài ra, tôi không tin cái máy với những dây điện tử có thể hiểu rõ tôi hơn nhân viên chỉ huy tôi, vì ông đã cùng đi xa với tôi nhiều lần, làm việc sát cánh với tôi, rồi cùng thảo luận với nhau hàng trăm tiếng đồng hồ trong nhiều trường hợp. Rob luôn luôn nói với tôi rằng điều đó có thể làm cho sự liên lạc giữa ông và tôi dễ dàng hơn, nhưng nếu tôi không muốn làm trắc nghiệm cũng không sao. Tôi thì cực lực phản đối cách thức tìm hiểu sự trung thực cộng tác viên theo phương pháp đó.
Nhưng rồi việc phải đến đã đến. Việc thử máy nói thật trở nên bắt buộc khi tôi từ New York trở về với những bản báo cáo cuộc viếng thăm đại sứ Đinh Bá Thi của tôi. Rob nói rõ phải thử máy nói thật, nếu không thì không ai có thể chấp sự kiện tôi thản nhiên ca ngợi “kẻ thù” như vậy. Theo tôi, ở quan tình báo không sao hiểu được rằng tôi có thể tách rời con người ra khỏi ý thức hệ và Chánh phủ của họ.
Vài ngày sau khi tôi từ New York về, Rob và tôi tới gặp Bill Fleshman để thảo luận về bản báo cáo của tôi cho FBI. Bill suy nghĩ khác. Theo anh, những nhận xét trung thực của tôi với đại sứ Đinh Bá Thi giúp cho tình báo Mỹ biết cả tánh của ông đại sứ và từng người trong phái đoàn. Nhưng, ngay sau khi Bill vừa đi khỏi bãi đậu xe, Rob đã nhắc tới việc thứ máy nói thiệt. Ông nói: “Hàng năm tôi phải làm cái việc này một lần” với ngụ ý tôi không thể ra ngoài lệ thường.
Tôi giận dữ nói một cách bướng bỉnh:
- Một năm anh làm hai lần cũng kệ anh, không mắc mớ gì tới tôi. Tôi biết tôi, nhưng có thể anh không biết anh; thì việc làm trắc nghiệm cho chắc, là phải.
Khi tôi đã vô ngồi trong xe, Rob còn giữ cửa mở, nói:
- Nè nhỏ, hãy biết điều một chút! Tôi muốn cô coi việc này một cách nghiêm chỉnh hơn. Với loại tin tức như của cô, ngay cả ông lớn nhứt trong “công ty” cũng phải thử máy nói thiệt.
Tôi vẫn không chịu, nói lớn:
- Dù có cả chục ngàn người làm như vậy, cũng không có nghĩa là điều đó đúng.
Trong đời tôi, tôi chưa nhìn thấy có bộ mặt nào để lộ nỗi thất vọng to lớn bằng một ông Rob lúc này.
Nhưng chuyện này không dễ dàng bỏ qua. Sau nhiều tuần cãi cọ, tôi bắt đầu phải nhượng bộ. Tôi nghĩ rằng đây là cái lệ bắt buộc của sở; đến ngay ông xếp lớn và các nhân viên trong sở đều phải làm, thì tôi cũng phải tuân theo cho đúng lề luật. Tôi nói với Rob:
- Thôi được, nếu cần, ông cứ nói chuyên viên lấy dây mà trói tôi lại.
Nghe tôi nói vậy, Rob tỏ vẻ mừng như muốn nhảy một vòng tango.
Nhưng nói cho ngay, trắc nghiệm cũng không có gì là ghê đối với tôi hay với các nhân viên CIA dù tôi đã làm cho họ hoảng sợ. Trong các câu hỏi ngớ ngẩn, có một câu đáng chú ý là:
- Ngoài CIA, tôi còn làm việc cho cơ quan tình báo hay tổ chức phản gián khác không?
Tôi trả lời:
- Có!
Thế là Rob và nhân viên điều khiển máy cũng hoảng sợ.
Tôi phì cười, nói tiếp:
- Tôi còn làm việc cho FBI nữa!
Nhìn vẻ mặt hai người, tôi không rõ họ có coi FBI là cơ quan bạn hay không. Nhưng hai người nhìn nhau thở phào nhẹ nhõm. Chuyên viên đặt lại câu hỏi:
- Giữa CIA và FBI, cô còn làm việc cho cơ quan tình báo hay tổ chức nào không?
Tôi đáp ngay:
- Không, tôi không làm việc cho ai hết.
Rồi từ đó, CIA không còn nghi tôi vừa làm việc cho họ vừa lén lút hoạt động cho nhóm khác, như KGB hay Mặt trận giải phóng miền Nam, cũng như cho chánh phủ Hà Nội. Có thể họ đã biết như vậy từ trước, nhưng họ vẫn muốn bắt tôi phải làm trắc nghiệm cho chắc. $pageOut$pageInChương 40

Sau chuyến đưa má tôi sang Paris gặp ba tôi, Rob và tôi sang đó một lần nữa. Chúng tôi tới Paris vào giữa mùa đông giá buốt. Không có tuyết trên mặt đất, nhưng lề đường trơn trượt. Người đi đường mặc nhiều lớp áo. Những người vô gia cư chui vô các nhà ga xe điện ngầm để tránh mưa giờ lạnh lẽo. Những người hành khất này dù vẫn nguyền rủa trời đất không tiếc lời, vẫn kéo mấy đứa nhỏ ra ngoài để ăn xin. Tôi cho đứa nhỏ năm Francs, thể là cả đám chạy ùa theo tôi, nhưng tôi đành lắc đầu từ chối. Đám con nít la ó um xùm lên, rồi chạy đi tìm người khác để xin tiền.
Khi còn ở Washington, trước khi bay sang Pháp. Rob hỏi tôi có muốn ở khách sạn Sheraton như trước không? Tôi cho biết là tôi không muốn trở thành khách quen của khách sạn đó, vì vậy lần này tôi ở khách sạn khác. Sau khi đi loanh quanh một chút và ăn trưa, tôi bắt đầu làm việc kêu điện thoại đến trụ sở của phái đoàn Mặt trận giải phóng nói chuyện với Phan Thanh Nam.
Nam nóng lòng muốn gặp tôi ngay, nhưng tôi cho ông tôi phải đi đặt hàng trước rồi mới gặp ông được.
Tôi nói dối như vậy để ông khỏi nghi ngờ. CIA quên giúp cho tôi một “cover”, nghĩa là cho tôi đóng một vai gì để tôi đi đi lại lại Paris như đi chợ. Tôi biết chút ít về chén đĩa kiểu, nên mỗi lần tôi nói cho những người Cộng sản ở Paris, nghề của tôi là nhập cảng chén đĩa của Pháp và Anh Quốc. Hơn nữa, họ nghe tới cái nghề chán phèo này, dĩ nhiên không ai thèm chú ý chuyện của đàn bà.
Tôi gọi tới nhà Mimi, vợ chưa cưới của Phạm Gia Thái. Mẹ của Mimi cho biết, tôi có thể gặp Thái ở khách sạn Lutece, một nhà trọ do chánh phủ Việt Nam Cộng hoà quản lý trước khi chiến tranh chấm dứt. Bây giờ là tài sản của chánh phủ Hà Nội và Thái cai quản nó làm nơi trú cho các sinh viên Việt Nam du học.
Sau khi tiếp xúc với hai nơi đó, tôi ngủ một giấc để chỉnh lại giờ giấc vì Paris cách Washington 6 tiếng đồng hồ. Sau đó, tôi sửa soạn để đi gặp Rob, như chúng tôi đã định từ trước. Nhớ lời ông dặn, tôi phải hết sức thận trọng, vì lần trước tôi đã công khai tiếp xúc với các cán bộ của chánh phủ Hà Nội. Như vậy, các nhân viên của cơ quan mật vụ Pháp có thể nhận ra tôi. Tôi phải tìm cách đánh lạc hưởng họ, như đến một thẩm mỹ viện, hay bất cứ nơi nào đó, cho tới khi chắc là mình không bị theo dõi, thì mới tới chỗ hẹn.
Lần này, tôi quyết định không để lại chìa khoá cho nhân viên văn phòng nữa, và cũng không tới hỏi xem có thơ từ gì không, vì làm như vậy để phòng hở, nếu có ai rình rập, không thể biết tôi hiện ở đâu. Rob tất nhiên biết tôi ở đâu, nhưng tôi không bao giờ biết phòng của anh. Tôi nghĩ rằng đó là luật lệ của cơ quan, cũng có thể đó là sự cẩn thận riêng của anh ta. Tôi cũng phớt lờ những việc lặt vặt đó. Thiệt ra, nếu ở địa vị ông, tôi cũng phải sợ con gái của ông đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam.

Ngay hôm đầu tiên đi ra ngoài để gặp Rob, tôi thấy có hai người đàn ông Pháp khả nghi ngồi ở phòng đợi của khách sạn. Họ ngồi cách xa nhau. Tôi không rõ họ có phải là điệp viên của Tây không, nhưng tôi không muốn họ theo dõi tôi từ đường này tới đường khác trong thành phố Paris. Do đó, tôi phải đóng vai khách du lịch, hỏi nhân viên văn phòng về chuyện xe cộ để đi thăm thành phố. Rồi tôi cố ghi nhớ gương mặt một tên khả nghi. Tôi vào một tiệm bán đồ kỷ niệm và chờ cho hai tên đó bỏ đi. Nhưng mười phút sau họ vẫn ngồi lì ở đó.
Tôi đành vào tiệm uốn tóc trong khách sạn để làm tóc. Một tiếng đồng hồ sau, tôi ra khỏi tiệm, thấy ghế của hai tên khả nghi hồi nãy có hai người đàn bà A Rập ngồi. Tôi cũng đoán là đàn bà A Rập thôi, chứ đâu có biết họ có thật là A Rập không, sau tấm vải đen che mặt của họ.
Khi tôi đi về phía trạm xe điện ngầm, thì trông thấy hai thằng Tây khả nghi đi theo tôi. Tôi đi chậm lại để chờ họ. Khi họ tớ gần, tôi nhìn thẳng vào mặt họ, rồi hỏi đường đi tới tiệm Pritemps, một tiệm bán tạp hoá lớn.
Họ luống cuống, ngạc nhiên và giận dứ, vì tôi đã chặn đường họ lại. Một tên cáu kỉnh trả lời bằng tiếng Pháp:
- Đi mà hỏi cảnh sát, đừng làm mất thì giờ của tôi.
Tôi phản ứng bằng tiếng Anh:
- Chó săn.
Họ liền vội vã bỏ đi mất. Tôi thông thả một mình đi tới trạm xe điện ngầm.
Vì phải kiếm cách “thanh toán” hai tên khả nghi đó, tôi đến chỗ hẹn với Rob trễ bốn mươi lăm phút. Tôi phải đi hai chuyến xe điện mới tới trạm Trocadero, rồi đi bộ tới viện bảo tàng Museum of Moder Art để gặp Rob. Theo lời dặn dò trước của chúng tôi, nếu tôi thấy anh đang ngồi xem báo và hút ống điếu thì tôi có thể tới gặp anh, có nghĩa là từ xa anh nhìn kỹ, tôi không bị theo dõi thì cứ tới gặp anh và bắt tay tự nhiên. Nếu không, có thể thấy tôi đang bị một kẻ khả nghi theo dõi, tôi phải làm ngơ và đi thẳng.
Tôi thấy Rob đang ngồi trên một bực thềm trước viện bảo tàng, miệng ngậm ống điếu và đang đọc tờ báo Pháp. Tôi mừng quá, vì từ nãy giờ đi bộ mỏi chân rồi. Thấy tôi, anh nói:
- Ê nhỏ, an toàn rồi, không có cái đuôi sau lưng. Mà sao trễ quá vậy?
Tôi cho ông biết tôi bị hai thẳng Tây theo dõi, phải tìm cách chặt đứt hai cái đuôi dài đó, rồi mới leo lên xe điện được. Chúng tôi tôi vào một tiệm café nhỏ để trao đổi một số tin tức mới. Khách trong quán phần lớn là mấy ông già ngồi chơi bài quanh những chiếc bàn nhỏ. Sau khi nói chuyện, Rob đi bộ đến cầu D'Iena, còn tôi kêu taxi về khách sạn. Tại đây, tôi mua cho Phan Thanh Nam một chai Johnny Walker đen.
Nam tỏ vẻ rất thích khi nhận quà của tôi. Ông cất ngay rượu vào tủ, như cất đồ quý, rồi mời tôi vô phòng ăn tronh bếp. Ông mở một chai rượu chát để cùng uống với tôi. Ông nhớ lại lời hứa của tôi trước kia, là tôi sẵn sàng uống rượu với ông khi vắng mặt má tôi. Trong khi ông rót hai ly rượu, tôi để ý túi áo của ông có một gói thuốc lá hiệu Dunhill.
Khi ra khỏi xe taxi ở trước cửa trụ sở của Mặt trận giải phóng miền Nam, tôi không còn thấy lá cờ của Mặt trận giải phóng, mà thay vào đó là lá ờ đỏ sao vàng của chính quyền Hà Nội. Tôi hỏi Nam, tại sao có sự thay đổi như vậy, ông liền trả lời:
- Mỹ Dung, cháu phải nhớ rằng nhiệm vụ của Mặt trận giải phóng đã hoàn tất. Bây giờ cả hai miền Nam Bắc đã thống nhứt.
Tôi nghe lời ông, như một bài tuyên truyền hơn là một lời giải thích:
- Chú Nam, trên cương vị một nhân viên cao cấp của Mặt trận giải phóng, chú tán thành việc thống nhứt mau lẹ như vậy sao?
- Còn chờ đợi gì nữa?
Tôi liền nhắc lại lời ba tôi cho biết Mặt trận giải phóng miền Nam phải có thời gian để giới thiệu chủ nghĩa xã hội với dân chúng miền Nam, vì nếu thay đổi đột ngột sẽ gây phản ứng không hay trong lòng người dân.
- Cháu nói vậy là có ý gì?
Tôi đáp ngay:
- Như chú đã rõ, dân miền Nam của mình không có nhiều ý thức về chính trị. Hầu như ai cũng biết Mặt trận giải phóng miền Nam, nhưng rất ít người tin rằng Mặt trận đã giải phóng miền Nam. Người miền Nam cho rằng họ là nạn nhân của giải phóng. Bây giờ, nếu chánh phủ Hà Nội quyết định thống nhứt ngay hai miền, thì các cán bộ ngoài Bắc sẽ vô cai trị miền Nam. Điều này sẽ làm dân chúng sợ hãi và bất mãn trong lòng. Họ cho rằng miền Nam bị miền Bắc xâm chiếm hơn là giải phóng.
Nam uống một hơi cạn sạch ly rượu, rót thêm một ly khác, nhìn tôi bằng cặp mắt bực mình, khó chịu, ông nói:
- Vậy là cháu bị bọn đế quốc tư bản phản động nhồi sọ rồi. Thực sự không phải như cháunghĩ đâu!
Tôi nói:
- Chú Nam ơi, cháu chỉ nhắc lại của bác Hồ thôi. Những ý nghĩ của dân miền Nam đều đáng quan tâm. Tương lai của đất nước nằm trong tay những người mà các chú cai trị, không nằm trong tay các chú đâu.
Ông liền hah giọng nói nhỏ:
- Mỹ Dung, cháu nghe chú nói đây. Chú nói riêng với cháu thôi. Chú khuyên cháu đừng nói cho ai nghe ý kiến vừa rồi của cháui. Người ta là sẽ hiểu lầm cháu dò.
- Nhưng cháu tin là chú hiểu cháu, vì chú là người của Mặt trận giải phóng miền Nam mà!
- Cháu ơi, trong khi vắng mặt ba cháu, cháu đã giao du với những người không tốt, nên cháu mới có cách suy nghĩ như vậy. Nhưng, chú hy vọng từ nay có chú hướng dẫn, cháu sẽ hiểu hơn.
Nói xong, ông nâng ly rượu để cụng với ly của tôi và nói:
- Mừng cho nước Việt Nam độc lập và thống nhứt!
Tôi miễn cưỡng nâng ly lên, những đặt ly xuống bàn ngay mà không uống rượu. Tôi cúi mặt xuống để tránh cái nhìn ông.
Trong khi đó, Nam đi vòng sang phía tôi ngồi, rồi nghiêm trang hỏi:
- Dung, cháu cho chú biết chồng cháu có thắc mắc gì vế cháu sang bên này không?
- Anh ấy rất buồn vì cuộc chia tay của ba má cháu. - Câu trả lời trật đường rầy, vì tôi không muốn nói láo.
- Vậy chồng cháu có hỏi cháu đã gặp những ai trong phái đoàn của Mặt trận không?
- Anh ấy hỏi cháu có đưa ba má cháu đi ăn tiệm không? Má cháu và cháu ở đâu? Anh ấy cũng hỏi ba cháu có hỏi gì vì sống của vợ chồng cháu không?
- Chồng cháu nghĩ sao về cuộc giải phóng?
- Lần trước, anh ấy nhờ cháu chuyển lời nói với ba cháu là anh ấy thành thật hy vọng dân tộc Việt Nam sớm hưởng hoà bình thật sự.
- Hai vợ chồng cháu không nói gì về chánh rrị sao? Cháu nghĩ gì về xã hội chủ nghĩa?
- Tụi cháu nói nhiều đến chiến tranh và hoà bình ở Việt Nam. Anh ấy hiểu được những đau buồn của cháu. Anh ấy cũng biết cháu khao khát hoà bình cho Việt Nam lắm. Anh kính trọng ba cháu và rất quý má cháu.
Nghe tôi nói vậy, Nam liền hỏi:
- Cháu có nghĩ rằng chồng cháu sẵn sàng giúp các chú khi cần không?
- Chú muốn anh sự giúp các chú về việc gì?
Nam giải thích:
- Chuyên môn của chồng cháu rất cần cho Việt Nam. Ngành hải sản cần các khoa học gia như anh ấy. Anh ấy có thể giúp chúng ta lập một đoàn nghiên cứu để khám phá những tài nguyên thiên nhiên. Anh ấy cũng có thể giúp chúng ta thiết lập một hệ thống phòng thủ trên bờ biển để ngăn chặn kẻ thù, chống lại tầu ngầm của kẻ địch…
Tin này rất đáng cho CIA biết. Phan Thanh Nam đang tìm cách thâu lượm tin tức cho chánh phủ Hà Nội i, kể cả về tin chống tầu ngầm. Tôi nghĩ, họ trao đổi bí mật với Liên Xô. Câu chuyện của chúng tôi ngưng lại ở đó, nhưng Nam tỏ ra nôn nóng muốn tôi kiếm cách nói cho chồng tôi biết là ông “cần những tin tức mà các nhà khảo cứu mới phát mình cho các công ty Mỹ” biết cách dò và khai thác dầu mở ở bở biển Việt Nam. Điều thứ hai ông muốn biết, là một bản đồ của Hải quân Mỹ và cơ quan hải dương học về bờ biển và tài nguyên thiên nhiên. Cuộc nghiên cứu bao gồm cả kỹ thuật đánh cá và những thói quen của bầy cá trong vùng.
Nam huênh hoang kết luận:
- Nếu chúng ta có tất cả những tin tức đó, là chúng ta có cả một mỏ vàng.
Tôi tưởng vậy là hết rồi, nhưng không, ông lại nói thêm:
- Còn một chuyện này nữa, Mỹ Dung à. Vì chồng cháu đang ở trong vùng Washington D.C, có thể anh ấy giúp chú tìm hiểu một số tin tức. Chỉ cho cá nhân chú mà thôi, vì từ lâu chú muốn biết, làm cách nào và thế nào Hải quân Mỹ có thể đối địch được với Hải quân Liên Xô.
Tôi ngạc nhiên tự hỏi, không biết Nam đang nghĩ gì về tôi, mà dám đề nghị tôi đi ăn cắp tài liệu mật của quốc phòng Mỹ cho ông? Có thể ông cho rằng, vì tôi yêu thương ba tôi quá, nên tôi sẵn sàng làm bất cứ cái gì ông muốn; hay là trong qua khứ, ai đã gặp ông, kể cả người Mỹ phản chiến, đều sẵn sàng hăng hái làm những điều ông sai bảo. Tôi chỉ trả lời rằng, tôi sẽ nói chuyện với chồng tôi khi tôi về Mỹ.
Sau khi trao cho tôi một bản “liệt kê công tác”, Nam tỏ vẻ muốn giữ độc quyền con cờ mới tuyển dụng này. Khi tôi cho ông biết Thái đã đưa tôi đến gặp ông chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước là Huỳnh Trung Đồng, thì ông khuyên tôi không nên giao lưu với những hội viên của hội Việt kiều yêu nước ở Paris, hay bất cứ ở đâu, để “bảo vệ ba cháu cũng như sự liên lạc giữa chú với cháu”. Ông còn nhấn mạnh, là tôi không giúp ích gì cho quê hương trong giai đoạn này nếu tôi gia nhập vào nhóm Việt kiều yêu nước, bởi vì vai trò của họ sẽ thay đổi, tôi sẽ mất nhiều thời giờ quý báu để hội họp, tuyên truyền, kết nạp đoàn viên để phục vụ cho đường hướng, mà tôi sẽ bỏ phí tài nguyên tôi đang có.
Ông kết luận:
- Hãy dành những thời giờ đó để làm việc với chú. Cháu nhớ rằng có nhiều người Việt yêu nước ở Âu châu, ở Mỹ nhiều nước khác nữa, không tham gia một hội đoàn nào, nhưng lại là những người đóng góp rất nhiệt tình. Bây giờ người ta không biết quan điểm chánh trị của cháu. Họ cũng không biết gốc gác cháu ra sao. Tốt hơn hết, bên ngoài cháu cứ để họ nghĩ cháu chống cộng, chỉ có chú và những người quan trọng trong ngành của chú biết lập trường của cháu mà thôi.
Tôi hiểu rằng Nam và Thái khác nhau, khi muốn tôi cộng tác với họ. Thái có ý định đưa tôi vô bộ máy ngoại vận. Còn Nam tuyển mộ tôi làm gián điệp cho Hà Nội i. Một thì muốn tôi công khai “thân Cộng”, một thì buộc tôi làm ngược lại, phải “chống cộng”. Dĩ nhiên, trước sau tôi vẫn là tôi, người Việt quốc gia ngạo nghế muôn đời.
Khi báo cáo cho Rob về buổi gặp gỡ giữa tôi với Nam, tôi yêu cầu là vấn đề này chúng tôi phải ngồi xuống nói cho chồng tôi biết, vì nó liên quan đến anh. Tất cả những hoạt động, sinh hoạt với FBI và CIA, tôi không đem về nhà nói với chồng tôi và các em tôi. Má tôi tin là tôi làm thông dịch cho cơ quan an ninh của Mỹ, vậy thôi. Hai lý do mà tôi không chia sẻ được: luật lệ của hai cơ quan này; hai là tôi cố tránh cho má tôi biết đến việc làm của tôi. Dì nhiên, nếu má tôi biết nhiều, má sẽ ngăn cản, mà làm sao má tôi ngăn cản việc này được, thì sẽ lo đêm lo ngày, bất cứ lúc nào tôi bước ra khỏi nhà. Cấm không được, thì má sẽ giận rồi bỏ đi ở với một trong hai chị tôi.

***

Vừa mở cửa phòng khách sạn, tôi đứng khựng lại sững sờ vì căn phòng của tôi trống trơn. Tôi nhìn cái chìa khoá, trở ra nhìn lại số phòng, rồi bước trở vô. Đồ đạc, va-li của tôi biến mất, cái phòng đã dọn sạch. Cầu tiêu, bồn tắm sạch sẽ, láng bóng như đang chờ người khách mới.
Tôi đi thẳng xuống gặp người làm việc tại quầy của khách sạn. Ông ta làm bộ không nói được tiếng Anh để khỏi tiếp tôi dù biết những người làm trong khách sạn lớn này đều nói được tiếng Anh. Tôi hỏi ông:
- Tôi muốn biết chuyện gì xảy ra trong phòng tôi, và đồ đạc của tôi đâu mất hết rồi?
Ông ta không nói gì hết, nhưng có một viên thơ ký khác tè trong chạy ra, vừa cười gượng vừa hỏi:
- Có chuyện gì vậy thưa bà?
- Tôi muốn biết các anh làm gì trong phòng tôi, mà đồ đạc của tôi biến mất?
- Thưa bà, đây có thể là một sự lầm lẫn. - Hắn đáp với vẻ mặt như tôi là người đi lộn phòng.
Tôi đòi gặp viên quản lý, nếu hắn không giúp gì được tôi. Nhưng hắn cho biết viên quản lý hiện không có mặt ở khách sạn, và hắn nói sẽ đi hỏi lại nhân viên.
Tôi cho ông ta biết tôi đi cả ngày, tôi mệt, tôi cần nghỉ ngơi. Tôi vào quán café của khách sạn ngồi chờ. Lúc đó tôi qua bực mình, tự hỏi không biết nên uống một ly sữa hay một ly rượu mạnh để lấy lại bình tĩnh. Tôi không biết đây là một sự lầm lẫn của bồi phòng, hay là mấy thằng Tây của tình báo Pháp lục lạo va-li của tôi bằng cách thông đồng với nhân viên của khách sạn, khiêng va-li của tôi đi một nơi khác để lục, thay vì lục trong phòng của tôi, phòng hờ tôi về phòng thình lình?
Nửa giờ sau, tôi trở lại quầy. Viên thơ ký liền nói với vẻ mặt buồn bã một cách giả tạo, rằng có một người khách ở đó đã lâu mà không chịu trả tiền hay không có tiền gì đó, nên họ dọn đồ của người khách đó; không ngờ bồi phòng dọn lộn phòng của tôi.
Tôi nghe thì nghe, nhưng vẫn không tin lời hắn, nên nói:
- Tôi vẫn muốn gặp ông quản lý.
- Thưa bà, ông Charrière chiều mai mới có mặt ở đây, giờ thì đồ đạc của bà đã được đem về cho bà. Chúng tôi thật xin lỗi bà về sự lầm lẫn đáng tiếc này.
Tôi vẫn bực mình nói:
- Ngày mai, khi nào ông Charrière của ông tới, biểu ông gọi tôi ngay.
Nói xong, tôi hấp tấp đi về phòng. Tôi đoán, lúc đó có người đang rình ngó trộm tôi.
Tôi khoá chặt của phòng, còn chặn thêm một cái ghế cho chắc chắn. Tôi kiểm soát xem các cửa sổ đã đóng kỹ chưa, kéo màn kín mít, rồi mở va-li ra kiểm soát. Nhưng tôi ngừng lại thấy mình làm chuyện vô ích. Người nào lục va-li của tôi không phải là kể ăn trộm, mà là người muốn biết tôi là ai, và tôi làm gì?
Điều quan trọng là họ không thấy những bản nháp của các baen báo cáo tôi gởi cho CIA, vì mỗi lần viết xong, tôi thưởng đốt, bỏ tro vào cầu tiêu.
Tôi chỉ có một sơ suất nhỏ, là còn để trong va-li lá thơ của cha tôi, viết năm 1972 tại Milan. Y. Đó là lá thơ mà cho đến 1974 tôi mỗi nhận được, và tôi còn ấp ủ nó cho tới giờ phút đó.
Tối hôm đó, tôi sợ đến nỗi không dám đi tắm. Khi Rob tới, tôi cho ông biết chuyện gì xảy ra, mắt ông tái xanh, làm cho tôi càng lo sợ hơn. Ông hỏi tôi có muốn đổi khách sạn khác không, thì tôi lại giấu, nói là tôi không sợ, mà cũng không muốn khách sạn khác. Tôi nghĩ mình đã ở trên cái đất của thằng Tây rồi, chạy đâu cũng không khỏi. Hồi đó mình xuống hàm núp rồi mà nó còn ráng bỏ bom cho chết, thì bây giờ ngủ trên xứ của nó muốn kiếm, làm sao mà trốn. Chỉ có cái khác hơm thờì Tât đô hộ Việt Nam: bây giờ tôi là công dân Mỹ, và ba tôi cùng mấy ông Việt Minh đã đánh bại thằng Tây rồi. Nghĩ vậy, cho qua thì giờ cho đỡ sợ, chó quốc tịch gì, công dân của nước nào, làm gián điệp trên đất của người ta cũng đều bất hợp pháp. Thằng Tây nó bắt nó nhốt, rồi Bộ ngoại giao Pháp mới làm mầu làm mè liên lạc với toà đại sứ Mỹ, hai bên trao đổi gián điệp tép riu, rồi đâu cũng vô đó. Những ít nhứt cũng ngồi tù Tây, ăn cơm tù Tây một thời gian mới được tha trở về Mỹ. Tôi rùng mình khi nghĩ tới đó.

Sau khi Rob ra về, tim tôi đập muốn văng ra khỏi lòng ngực, vừa hồi hộp, vừa giâhn thằng Tây. Tôi nằm nghĩ đến việc làm của mình, nghĩ đến má, đến Lance và chồng tôi, mà thấy ngao ngán, cô đơn quá. Tôi trở cái gối không biết bao nhiêu lần đêm đó. Sáng ra, tôi quá mệt mỏi sau một đêm mất ngủ.
Tôi phải ráng hết sức lấy lại bình tĩnh, đi ăn một bụng điểm tâm, uống một tách café cho tỉnh táo, vì hôm dò tôi sẽ gặp kỹ sư Huỳnh Ngọc Châu. Cậu Châu là con trai của ông bà ngoại Huỳnh Ngọc Nhuận, người đã cho gia đình tôi tá túc, hồi ở Gia Định. Cậu Châu sang Pháp chữa bịnh ung thư do chính ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Chánh phủ Lâm thời miền Nam đích thân can thiệp, cho phép cậu xuất ngoại. Cuộc thăm viếng của tôi có hai mục đích: cá nhân và công tác. Tôi muốn tìm hiểu thêm về tình hình Việt Nam và những người lưu vong ở bên Pháp. Má tôi cũng muốn biết tin tức của bà ngoại Nhuận còn kẹt lại ở đường, thăm sức khoẻ của cậu. Má tôi quý mến cậu Châu lắm, biểu tôi bận rộn cách mấy cũng ghé thăm và chăm sóc cậu Châu một hai ngày giùm má.
Hồi xưa, cậu Châu được coi như một vị hoảng tử của gián điệp. Cậu là một kỹ sư về dầu khí, làm việc cho hãng dầu Esso. Đối với một cô bé 12 tuổi, việc cậu Châu làm gì ngoài đời là việc người lớn, nhưng tôi biết cậu là một người quan trọng ở Sài gòn; cậu đi học bên Pháp. Biệt thự của cậu ở Sài gòn nhỏ hơn biệt thự của ông bà ngoại Nhuận, nhưng tối tân, đầy đủ tiện ngho. Đó là cậu Châu mà tôi nhớ hồi tôi mười hai tuổi, cho tới lúc 29 tuổi.

Sau khi ăn điểm tâm ở một quán ăn xinh xắn ngang cửa khách sạn, tôi mua mấy tờ tạp chí và báo hàng ngày để làm quà cậu Hai Châu, rồi đi taxi đến đường Savoie, nơi cậu đang nằm dưỡng bịnh tại nhà của nhạc phụ, ông Cao Minh Chiếm. Đường Savoie là một con đường nhỏ, nhiều chó và mèo hơn xe cộ. Nhờ sự vắng vẻ của con đường, tôi dễ dàng nhận biết tôi đang bị theo dõi. Mỗi lần tôi quẹo ở một góc đường, tôi thấy một người đàn ông theo tôi vội quẹo sang một con hẻm, rồi chỉ mấy phút lại thấy anh ta lẽo đẽo phía sau.
Tôi không muốn thằng Tây biết tôi tới nhà ông Cao Minh Chiếm. Ông không phải là một ông già vợ thuần tuý như trăm ngàn ông già vợ Việt Nam khác, ông là một người thiên Cộng. Ông từng có liên lạc với Hồ Chí Minh từ khi có cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Nhưng khi đất nước chia đôi năm 1954, ông ở lại miền Nam và thành lập Phong trào nhân dân tự quyết chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm và sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. Khí giới của ông là cây viết, với bút hiệu Phi Bằng.
Hậu qua của những người “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” là việc đầu tháng 3 năm 1965, thủ tướng Chánh phủ Việt Nam Cộng hoà, ông Phan Huy Quát đã cách chức gần 50 công chức. Cao Minh Chiếm là một trong hơn 30 người bị bắt giam

Thủ tướng Phan Huy Quát quyết định tống ông và vài nhânvật “thờ ma Cộng sản” ra là Hà Nội để làm gương cho những người “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Vài tháng sau đó, ông Minh Chiếm, bác sĩ thý y Phạm Văn Huyến và ông Tôn Thất Dương Kỵ được đưa tới cầu Hiền Lương; các bà vợ của mấy ông này còn được chánh phủ cho bay ra để chia tay chồng, trước khi họ đi qua bên kia cầu.
Sau đó ông Cao Minh Chiếm sang Paris. Sau khi miền sụp đổ, ông rất đau lòng vì cách đối xử tàn bạo của cộng sản Bắc Việt đối với dân miền Nam và vợ con ông tại Sài gòn. Tôi không biết rõ mục đích của ông Cao Minh Chiếm sống để làm gì đời ông và đời người, nên tôi không nói được nữa về ông, chỉ biết là ông có liên hệ mật thiết với nhóm Việt Nam thân Cộng ở Paris và ông đi lại với những người trong hai toà đại sứ của cộng sản tại Paris. Bây giờ, đào sâu để tìm sự thật về ông Cao Minh Chiếm là việc tôi không nên làm, bởi vì ông đã qua đời, và biết đâu ông và ba tôi thỉnh thoảng từng ngồi với nhau mà tiếc thương đất nước và dân tộc.

Muốn giữ an ninh cho ông, tôi không vô nhà ông ngay, mà đi qua luôn để tới một tiệm bán thức ăn ở góc đường gần đó.
Tôi biết tôi không thể cà kê trong tiệm này lâu được, vì thế tôi cũng vô đây để mua đồ ăn rồi đi ra ngay. Tôi giả bộ kiếm món ăn muốn mua, những mắt vẫn liếcra ngoài. Khi thấy người theo dõi đã đi qua, tôi mua vội hai hũ kem chua, rồi ra khỏi tiệm. Nhìn trước ngó sau không thấy bị theo dõi nữa, tôi an tâm gõ của nhà số 15.
Một người đàn ông trạc tuổi ba tôi, đẹp trai, cao lớn, lịch sự mở của mời tôi vô. Rồi ông vừa cười vừa nói bằng một giọng dịu dàng:
- Cháu tới chơi, cứ coi như một cuộc viếng thăm bình thường. Xin đừng nói chuyện chánh trị với bác, vì bác đã nói nhiều với người bịnh này suốt buổi sáng hôm này rồi nhen.
Dù ông tỏ vẻ rất thân mật, tôi vẫn nghe giọng nói của ông đầy chua chát.
Cậu Châu nằm trên giường, trong cái phòng nhỏ bé đó, đắp một cái mền cũ, cái mền rằn ri của quân đội Hoa Kỳ bán ở chợ Sài gòn Sài gòn. Tôi cúi xuống, nhẹ nắm lấy bàn tay cậu ở ngoài mền.
Cậu giới thiệu tôi với ông Chiếm:
- Thưa ba, đây là Mỹ Dung, con gái anh Minh.
Ông Chiếm bỗng cười lớn một cách khác thường, rồi nói:
- Chắc ba còn chút hy vọng đây. Không lẽ con gái của một ông cộng sản lại đi nói xấu cộng sản trước mặt một người bạn cũ của ba nó, đúng không?
Tôi bối rối, vì không biết trước đó hai cha con của ông đã nói gì với nhau, và chuyện gì đã xảy ra?
Tôi nghĩ ông chỉ nói chơi với con rể, nên tôi giữ im lặng. Sau cậu Châu cho biết hai cha con đã tranh luận với nhau kịch liệt cộng sản và cuộc “Cách mạng” ở Sài gòn. Một lát sau, ông Chiếm khoác thêm áo ấm, đội nón, và cho biết ông cần ra tiệm mua đồ, ông hỏi con rể có cần gì không? Cậu Châu liền đáp:
- Nếu con cần gì. Mỹ Dung sẽ có thể giúp con được, thưa ba.
Sau khi ông Chiêm ra đi, tôi khoá cửa rồi quay lại với người bịnh đang nằm trên giường. Trên đường đi tới đây, trong lòng tôi mong cho mau tới nơi, để gặp lại người mà tôi mến phục từ lâu. Gia đình cậu Châu đã giúp đỡ gia đình tôi rất nhiều trong thời gian ba tôi xa nhà. Nhưng bây giờ, nhìn người bịnh nằm liệt trên giường, tôi bàng hoàng te tái trong lòng. Căn phòng nhỏ xíu, ngổn ngang một vài cái nồi, một lò điện nhỏ để nấu nướng, một chai dầu ăn cũ, một ông đũa và một cái chảo. Ngoại trừ một bàn bếp và bốn cái ghế cùng cái giường của cậu Châu, không còn đồ đạc gì khác nữa. Vậy mà cũng chật cứng rồi. Tôi nhớ tới biệt thự rộng lớn của ba má cậu, với nhiều phòng, mà không còn còn nghĩ được gì cho cuộc đổi đời này.
Tôi quá xúc động, nhớ mới hồi nào cậu trẻ trung, đầy sức sống, vui vẻ thân thiện với má tôi. Mỗi lần cậu tới thăm bá má cậu, cậu đều ghé qua thăm hỏi má tôi. Nhưng bây giờ cậu già quá, già cả trăm tuổi, so với lần cuối cùng tôi gặp cậu. Tôi chọt nhớ lời ông ngoại Nhuận, ba của cậu, cũng bị bịnh ung thư ruột già rồi qua đời không lâu sau khí giải phâu. Bây giờ câuh cũng bị ung thư như ba cậu, và cũng đã được giải phẫu trước đó vài tháng. Nhưng ông còn sống, và tôi được thăm viếng là diễm phúc của chúng tôi rồi.
Căn phòng yên tĩnh, trừ tiếng nước bắt đầu sôi trong khi tôi vừa nấu để pha trà. Tôi lên tiếng hỏi để phá tan sự im lặng:
- Có phải bác Chiếm muốn tránh mặt cháu không cậu? Chắc cháu tới không đúng lúc?
Cậu Châu đáp:
- Cậu cũng vừa nghĩ tới ổng. Đúng, ông tránh mặt cháu cũng như tránh mặt tất cả những người sống sót sau giải phóng và có can đảm nói lên sự thật ở Việt Nam.
Cậu tiếp tục:
- Ba cháu với cháu cũng gặp khó khăn đó khi gặp nhau không? Nhắc tới ba cháu, cậu lại nhớ những ngày cậu ở bịnh viện ở Sài gòn về. Cậu biết ba cháu không hợp với chế độ mới. Theo cậu, đảng cộng sản Việt Nam thay đổi quá nhiều. Bọn cộng sản Hà Nội ức hiếp dân miền Nam. Những người trong Mặt trận giải phóng miền Nam không còn được trọng dụng. Chúng phản bội Mặt Trận vì chúng tuân lệnh bọn Nga.
Nói một hơi dài, ông có vẻ mệt, nên phải lấy gối kê lên đầu và chêm gối sau lưng.
- Ba cháu không bao giờ nói thiệt ý nghĩ của ông.
Cậu tiếp tục:
- Vậy mà cậu có may mắn được biết rõ ổng. Cậu đồng ý với cháu, là ba cháu sẽ giữ im lặng. Trong chế độ đó, nếu mình tỏ vẻ bất mãn, sẽ bị kết tội “phản bội” liền. Ba cháu sẽ không thể từ bỏ được giấc mơ đem hạnh phúc lại cho toàn dân. Ông sẽ cố gắng thực hiện điều đó cho đến ngày ông chết.
- Cháu rất kính phục ba cháu, nhưng cháu không tin ba cháu sẽ thành công. Một đảng có can đảm giữ vững lý tưởng của mình, một đảng người ta sẽ loại trừ những ai không theo đường lối của đảng và nhà nước. Ba cháu biết rất rõ, rằng chánh phủ Hà Nội sẽ lừa dối, cướp bóc và hãm hiếp dân miền Nam sau khi họ ngưng tiếng hát ca tụng cách mạng. Bây giờ ông vẫn cố gắng tranh đấu cho nhân dân. Thiệt là cô đơn và vô ích.
Cậu Châu vừa chỉ vô cái thân héo mòn bịnh hoạn vừa nói: “Cháu nhìn cậu nè. Hoàn cảnh chánh trị của ba cháu cũng giống như bịnh ung thư thời kỳ cuối cùng của cậu. Chắc chắn cậu sẽ chết. Cậu có thể tự tử cho chết luôn đi, mà cậu cũng có cứ sống để vui với những người thân yêu. Ngày nào cũng là ngày tốt đẹp đáng quý hết. Cậu đã tốn rất nhiều tiền cho thuốc men để vẫn được nhìn thấy vợ con, mẹ già dù đau đớn. Đôi khi cuộc đời dài không còn ý nghĩa gì hết nếu cậu không ăn được những món cậu thích, cậu không thể vô phòng tắm một mình như mọi người, kể cả những người đui và điếc. Nhưng cậu vẫn muốn sống, thì ba cháu cũng vậy.
Nghỉ một một chút rồi cậu Châu nói tiếp:
- Còn đối với ba cháu, nếu ông công khai tỏ vẻ bất mãn với đảng, tức là ông tự tử. Họ sẽ giam ông trong nhà thương điên, như vậy, ba cháu còn làm được gì cho những người dân mà ông tranh đấu cho họ? Bây giờ ông còn uy tín, vẫn có thể làm những điều tốt cho dân miền Nam. Ông có được sự bình thản mà hiểu rõ những nhu cầu của nhân dân Việt Nam và quyết tâm làm những điều đó. Cháu không thể đòi hỏi nhiều hơn ở một người đàn ông.
Chúng tôi ngồi im lặng một lát, nhấm nháp chén trà tôi vừa pha. Rồi ông cho biết ba tôi đã giúp ông sang Pháp để chữa bịnh, nhưng sự giúp đỡ lớn nhứt là ông chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ. Ông Thọ còn thúc đẩy các thủ tục tiến hành thật lẹ để vợ con của cậu Châu sớm sang Paris đoàn tụ với cậu. Cậu Châu hy vọng mẹ cậu được đi một lượt với con dâu và cháu nội. Cậu được ưu tiên là đi sớm để chữa bịnh.
Cậu cho biết tất cả mọi người trong gia đình cậu đã trong kinh hoàng sau chiến tranh. Khi ba cậu qua đời cách đó mấy năm, gia đình cậu đã dọn về ở chung với mẹ cậu trong biệt thự của ba ở 38 đường Chi Lăng, và sống những ngày ấm cúng. Nhưng thời kỳ “trăng mật với cộng sản” chấm dứt mùa thu năm 1976.

Một đoàn cán bộ cộng sản Bắc kỳ, tự mệnh danh là “quân giải phóng” của thành phố mới đổi tên “Hồ Chí Minh” bất ngờ đột nhập vô nhà. Tất cả mọi người trong nhà, kể cả mấy chị giúp việc, bị đưa hết vô phòng ăn có mấy tên mang súng AK-47 xanh chừng. Mấy tên cán bộ khác lục lạo cùng nhà. Khi chúng không kiếm thấy những gì chúng muốn, tên đứng đầu hỏi bà ngoại Nhuận giấu vàng và tiền bạc ở đâu. Khi bà cho biết không có tiền gì ráo, thì chúng đẩy bà già bảy chục tuổi té khỏi ghế ngồi, rồi bắt đầu hạch hỏi vợ chồng cậu Châu.
Cuộc xét nhà, lục lạo kéo dài tới tối mà không moi ra được cái gì hết, nên cả đám phát giận, quay lại nạt nộ mọi người rồi i kéo bà ngoại Nhuận ra khỏi nhà dẫn đi. Những người còn lại bị đuổi ra khỏi biệt thự, dọn vô một căn nhà ngang dành cho những người giúp việc ở. Bọn cán bộ nói với cậu Châu rằng biệt thự sẽ bị niêm phong để tìm điều tra thêm, câdm mọi người không được vô nhà, trừ các cán bộ “giải phóng”. Tới nửa đêm, đứa nhỏ nhứt của cậu Châu khóc đòi sữa, ông Châu năn nỉ cán bộ gác cửa cho phép vô nhà lấy sữa, bị người lính từ chối dù đứa nhỏ đang khóc vì khát sữa.
Suốt một tuần, cậu Châu không biết tin tức gì của mẹ, nên rất nóng lòng. Trong khi đó, đồ cổ và mọi thứ khác trong biệt thự bị bọn cán bộ cộng sản khuân đi hết. Khi nhà đã trống trơn, mọi người người mới được phép vô biệt thự trở lại. Nhưng chỉ mấy bữa sau “quân giải phóng” gởi cho cậu Châu một là thơ rất quan trọng “đề nghị” cậu “hiến” căn biệt thự cho chánh phủ cách mạng. Tất nhiên, ông không thể từ chối.
Vậy mà ông cũng vẫn không biết tin tức gì của mẹ. Ông cầu cứu chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, từng là bạn cũ của cha ông. Chủ tịch Thọ phải cho người kiếm mãi mới biết bà ngoại Nhưận bị giam ở Cần Thơ. Như vậy sau một tháng trời, ông mới được tin mẹ. Ông chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đích thân xuống Cần Thơ xin cho bà ra khỏi tù, rồi đưa bà về Sài gòn. Khi được gặp mẹ, ông Châu mới biết “Giải phóng” đã ép bà hiến hết tài sản cho họ, gồm có ruộng đất trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, những nhà cho mướn ở Bạc Liêu, nhà may xay gạo ở Còn Thơ… Bây giờ tài sản của ba đã thuộc về của “nhân dân”.
Cậu Châu nói với giọng tức giận:
- Mất hết tài sản, cậu cũng chịu được, vì dù sao bà ngoại cũng đã phải ký để “đang hiến” cho Chánh phủ. Nhưng cậu không thể nào quên được sự tủi nhục khi bọn cán bộ hành hạ bà ngoại trước mặt các con của cậu. Tụi nó la ó với bà ngoại. Tụi nó vô lễ với mợ Hai, không cho vô nhà lấy sữa cho đứa nhỏ. Mấy đứa con cậu sẽ không bao giờ quên được hình ảnh đó.
Mắt tôi cay, miệng tôi đắng, ngồi nghe cậu Châu kể lại chuyện nước nhà sau ngày cộng sản vô Nam. Tôi lau nước mắt bằng hai lòng bàn tay, mà không dám nhìn cậu. Không hiểu tôi mắc cỡ vì ba tôi là một trong những người cộng sản đó, hay tôi cảm thấy thấy tội lỗi vì gia đình tôi chạy thoát nạn trước gia đình cậu Hai.
Lúc đó, cậu mới thú thật với tôi về một chuyện cũ, vào tháng 4 năm 1975, khi đã sẵn sàng rời khỏi Sài gòn, má tôi đến gặp cậu và bà ngoại để hỏi xem gia đình có muốn ra đi không. Cậu nói với gia đình cậu rằng:
- Bà để cho con lấy kẻ thù, nên bây giờ phải bỏ chạy là đúng rồi, mình phải ở lại với dân tộc và đất nước chớ.
Bây giờ thì cậu đã hiểu thể nào là “giải phóng”. Nhưng ông nói rằng việc ở lại cũng có ích, vì các con ông sẽ không bị cộng sản lừa gạt nữa.
Đến đây chúng tôi tạm bỏ qua những buồn phiền đau khổ của riêng ông, mà nói tới cuộc sống mới ở Việt Nam; tiền đổi không kịp trở tay; giá vàng, giá gạo, giá thịt, giá vật dụng, v.v… Tất cả mọi thứ đều tăng giá vùn vụt chỉ trong có mấy tháng trời. Tôi hỏi ông, tôi có thể ghi lại những gì ông vừa nói với tôi không? Ông không những không ngăn cản mà con khuyến khích tôi nên cho Chánh phủ Mỹ hoặc báo chí rõ mọi điều. Đã đến lúc phải cho người Tây phương biết họ ngu ngốc và ngây thơ đến mức nào trong cuộc chiến ở Việt Nam. Henry Kissinger nên mắc cỡ vì đã bị bọn cộng sản qua mặt và lợi dụng trong hội nghị đình chiến ở Paris. Hà Nội đã điều khiển 85% trong thời gian hội nghị.
Sắp đến giờ ăn trưa, tôi đề nghị tôi chạy ra chợ mua thức ăn về làm cơm, những cậu Châu khoát tay, vừa cười vừa nói:
- Cậu gần chết rồi, nên cậu muốn đến một tiệm ăn ở St. Michel mà cậu vẫn thích để được ngồi cùng với người của cậu.
Nói xong, ông ra khỏi giường, kéo tấm màn che lại để thay đồ bên trong. Tôi phải buộc dây giầy cho cậu vì bụng cậu vừa mới rút chỉ còn đau, cậu không thể cúi xuống được. Tôi giúp cậu mặc cái áo choàng ngoài khá nặng. Sau đó, chúng tôi đi bộ tới một tiệm ăn nhỏ ấm cúng. Cậu phải vịn chặt cánh tay tôi để đi cho vững.
Cậu Châu kêu một chai rượu Côte du Rhône. Chúng tôi nhâm nhi ly rượu mà không muốn thời gian đi qua. Tiệm ăn này ở gần khu Sorbonne, khiến cậu nhớ lại quá khứ. Cậu cho biết, nơi đây ngày xưa cậu bắt đầu làm quen với chủ nghĩa cộng sản, mà ba ná cậu cũng đã là cảm tình viên rồi. Sau đó cậu Châu cưới một người vợ cũng có cùng một chí hướng với cậu. Mợ Châu cũng đã bị công an thời ông Thiệu bắt bỏ tù, vì bà ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam
Với một tâm hồn đau khổ trong một thể xác bịnh hoạn. Cậu Châu lết gót đi bên cạnh tôi để trở về đường Savoie với căn phòng hẩm hiu cậu đang tá túc. Trên đường về, chúng tôi ghé qua một tiệm sách, một tiệm bán đĩa hát và một tiệm bán tranh vẽ. Trời âm u nhiều mây ảm đạm, khiến tôi nghĩ đến nỗi đau khổ mà đồng bào của tôi đang chịu đựng ở trong nước. Tôi muốn về khách sạn, đóng kín cửa để cách biệt với thế giới bên ngoài quên đi nỗi buồn xót xa trong lòng.
Với sự giúp đỡ tận tinh của ông Nguyễn Hữu Thọ, mẹ và vợ con cậu Châu được phép rời khỏi nước Việt Nam để sang đoàn tụ với cậu. Gần một năm sau, cậu Châu từ trần.

***

Tôi mở tung của phòng khách sạn, làm nó đập vô tường, dội trở ra, gây nên một tiếng động lớn. Tôi làm như vậy với mục đích doạ kẻ nào đang ở trong phòng tôi. Nhưng mọi sự đều bình thường, va-li của tôi vẫn ở vị thế khi tôi ra đi. Tuy vậy, tôi vẫn cẩn thận bước vô phòng.
Một bình bông thật lớn, thật đẹp để trên bàn nước ở phòng khách. Ủa! Hôm nay đâu có phải là sinh nhứt tôi! Sinh nhựt Hồ Chí Minh còn những ba tháng nữa mà. Bên cạnh bình bông bằng pha lê, có một tấm thiệp của ông quản lý khách sạn Andre Francois Charriére, viết cho tôi bằng chữ Pháp như sau: “Avec compliments, nous souhaitons de continuer tres agreablement wire séjour au Paris Hilton”.
Đó không phải là cử chỉ xin lỗi chân thành. Hay ông quản lý đã cộng tác với kẻ lục xét đồ đạc của tôi? Tôi không biết nó là cái gì?
Trong khi tôi đang suy nghĩ vẩn vơ, thì Rob bỗng ghé qua. Sau khi tôi chỉ cho Rob bình bông, anh ra dấu cho tôi giữ im lặng,. Rồi anh xem xét kỹ các bông hoa, từ cánh xuống cành. Khi xem hết hoa, ông đổ nước trong bình vô bồn rửa tay để coi bình. Lúc đầu tôi nín thở, chờ xem ông kiếm thấy vật gì trong bình bông. Nhưng đến bông thứ tư thì tôi cười bò ra, vì tôi thấy hài hước quá. Nếu thằng Tây nó có muốn gài máy nghe, thì trong phòng này có cả ngàn chỗ cho nó gài, chớ làm gì mà phải tặng hoa mới có phương tiện gài máy nghe lén? Khi ông đã xem xét xong xuôi, tôi hỏi:
- Anh kiếm cái gì vậy?
Ông đáp nhỏ:
- Tôi nghĩ có thể người ta gài máy nghe lén.
Tôi lắc đầu mà cười ông trùm CIA. Tôi đổ nước vô bình rồi cắm bông trở lại. Tôi hy vọng không có gì thay đổi, để người rình rập không biết. Vừa lúc đó, lại có tiếng gõ của. Thì ra ông Rob vì mải kiếm máy nghe lén nên cũng không cho tôi biết ông xếp của ông ở Paris muốn gặp tôi. Mấy tháng nay ở trong toà đại sứ Mỹ, trong một góc phòng của CIA, người ta hay nhắc tới “ngôi sao” của gián điệp, nên hôm nay ông xếp của ông tại gặp “ngôi sao”.
Cuộc gặp gỡ của chúng tôi ngắn ngủi, ông Andrew muốn biết thêm về Phan Thanh Nam. Mấy ngày trước, Rob đã đem cho một bản kiểm kê nhiều câu hỏi về Phan Thanh Nam, gồm những đặc điểm về thể chất, cá tánh, thói quen, những hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Cái gì có thể làm ông sa ngã. Cái gì làm cho ông phản đảng. $pageOut$pageInChương 41

Tôi suy nghĩ nhiều đến câu nhắn nhủ của đại sứ Đinh Bá Thi đến Trương Đình Hùng: gởi “những thứ đồ” lên New York. Đến lúc này thì chúng tôi biết, Tnrong Đình Hùng chuyển tài liệu của Mỹ cho cộng sản Hà Nội bằng hai con đường ngoại giao. Một là qua tay của Phan Thanh Nam ở Paris; bây giờ qua tay phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc.
Tôi phải biết rõ Trương Đình Hùng hơn, mới dám khẳng định anh ta là gián điệp. Vì vậy, tôi phải tích cực hơn, khi anh cần đến tôi trong công tác của anh. Tôi cũng nhớ lại lời đề nghị của Huỳnh Trung Đồng ở Paris. Anh khuyên tôi nên thành lập Chị hội Washington, D.C, của Hội Việt kiều yêu nước ở Mỹ. Muốn lập, tôi cần tìm hiểu cơ cấu và nội quy của Hội Việt kiều yêu nước đang hoạt động ở Mỹ, mà chủ tịch toàn quốc là Nguyễn Văn Luỹ. Như vậy, tôi phải gia nhập Chi Hội Việt kiều yêu nước Washington. D.C; sau đó Huỳnh Trung Đồng sẽ cử tôi làm chủ tịch Chi hội. Dĩ nhiên đó là chuyện hoang đường. Làm gì mà tôi có đủ kiên nhẫn lập hội. Cũng không có cái mặt nạ nào má tôi mang được, để đứng ra đóng vai mình là “Việt kiều yêu nước.
Khi tôi cho Hùng biết ý kiến của Huỳnh Trung Đồng để dò phản ứng của anh, thì anh không đồng ý ngay. Với tư cách của một cán bộ có nhiều kinh nghiệm, Hùng nói:
- Nếu chị muốn tiến thân trên con đường này, chị đừng dính líu với những hội viên của Hội Việt kiều yêu nước. Họ chỉ là những người cơ hội chủ nghĩa và gây rối thôi.
Hùng không hoạt động với hội. Anh còn cho biết anh bất hoà với ông chủ tịch Nguyễn Văn Luỹ, nhưng anh không quan tâm chuyện “nhỏ nhặt” này, vì anh giao thiệp thẳng những người cấp trên. Tuy nhiên, anh vẫn giữ một số bạn là hội viên. và những người này sẽ cho anh biết chuyện bên trong của hội. Nhiều lần Hùng khuyên tôi không nên dính líu với hội, chỉ nên làm những việc mà Nam đã giao phó. Tôi nghĩ, Hùng tưởng tôi là mậl vụ của Nam đang dò xét và kiểm soát những hoạt động của anh ta.
Tôi cứ trà trộn với các hội viên của chi hội trong vùng Washington. Tôi gặp họ trong những ngày cuối tuần và cả những buổi hội họp ngày thường của họ nữa. Ông chủ tịch Nguyễn Văn Luỹ bên San Francisco lại bắt đầu tỏ vẻ bực mình, vì ông không kiểm soát được tôi. Nhiều lần ông Nguyễn Văn Luỹ gởi cho tôi đơn gia nhập hội, nhưng lần nào tôi cũng từ chối. Tôi viết thơ cho ông, nói cho ông rõ tôi ủng hộ ông, và sẽ tham dự buổi họp ông khi nào thuận tiện. Như vậy sẽ an toàn cho hội cũng như cho tôi, hơn là tôi trở thành một hội viên chánh thtrc, vì tôi tiếp xúc thẳng với những nhân vật của Chánh phủ Hà Nội và những cán bộ ngoại vận.
Huỳnh Trung Đồng khéo léo khuyên ông Luỹ không nên thắc mắc nhiều về tính cách độc lập của tôi. Sau đó ông Luỹ mới tha cho tôi nói rằng bây giờ ông đã hiểu địa vị của lời với “đất nước”. Không những thế, ông còn viết thêm: “Sự liên lạc của chị với chúng tôi rất quan trọng. Xin cứ tiếp tục liên lạc với chúng tôi và chúng tôi hy vọng được gặp chị ở bờ biển phía Tây.
Ông Luỹ tưởng rằng nhiệm vụ của tôi là báo cáo cho chủ tịch Huỳnh Trung Đồng biết mọi hoạt động của Việt kiều yên nước ở Mỹ, nên được ông đón tiếp gần như một thượng khách khi tôi bay qua San Francisco gặp ông. Ngay cả khi tham dự buổi họp của địa phương, tôi cũng được mọi người trọng vọng và các hội viên đều nghĩ rằng tôi là người được Paris cử tới thanh tra và dò xét hội đoàn.
Mùa thu năm 1976, tôi tới San Francisco, ông Luỹ mời tôi dự buổi họp tại nhà ông vì Ban chấp hành của Hội Việt kiều yêu nước. Họ cố gắng kéo tôi vô cuộc tranh chấp giữa họ với chi hội vùng Washington. Tôi phải nói mấy lời nhận xét vô thưởng vô phạt chẳng hạn như:
- Họ đang chờ đợi sự chi dẫn của quý vị. Lính tráng cần cấp chỉ huy.
Hội Việt kiều yêu nước tại Mỹ là cây cầu cho hội viên gia nhập các hội ái hữu của Mỹ. Họ là những cán bộ yểm trợ cho ban ngoại vận của chính quyền Hà Nội. Lúc đó họ đã bắt đầu tuyển mộ các khoa học gia Mỹ và những chuyên viên khác rất có ích cho nền kỹ thuật tồi tệ của Việt Nam, cùng một số lợi ích khác nữa. Ông Luỹ tin rằng tôi nhận chỉ thị của đại sứ Võ Văn Sung và chủ tịch Huỳnh Trung Đồng ở Paris, nên ông cố gắng trình bày và báo cáo mọi chuyện mỗi khi gặp tôi, hay nói chuyện trên điện thoại với tôi. Ông cho lời biết tên của những người tham gia tổ chức chống chiến tranh trước đó, và hiện tại họ liên hệ với nhiều chương trình khác nhau, có sự yểm trợ của một số kỹ sư Mỹ, nhằm ăn cắp kỹ thuật của Mỹ cho Việt Nam.
Trong một chuyến đi San Francisco, có Bill Fleshman của FBI và Rob Hall của CIA cũng đi, tôi có dịp được thấy một kết quả của hội Việt kiều yêu nước này. Ông Luỹ tổ chức một buổi họp tại gia để chào mừng Tiến sĩ Edward Cooperman, một nhà vật lý học ở đại học Fullerton, tiểu bang California. Ông cũng Việt kiều yêu nước đứng ra tổ chức một “Uỷ ban khoa học kỹ thuật Việt-Mỹ” gồm bảy mươi người, nhằm bảo trợ những ai muốn đi Việt Nam làm việc trong ngành nghiên cứu y khoa và các cơ quan giáo dục.
Cooperman vừa đi Việt Nam về. Trong buổi họp, ông loan báo sẽ mời mọi người xem hình ảnh cuộc viễn du ấy tại một địa điểm không được tiết lộ. Tôi muốn báo cho ông Bill Fleshman, nhân viên FBI, biết ngày cuộc họp bí mật này. Tôi đang nghĩ cách để có thể tiếp xúc với ông, thì từ trong nhà, một thành niên người Việt Nam đi ra. Anh ta loay hoay mở cửa một chiếc xe classic, mui trần, mầu đỏ, hiệu Thunderbird. Tôi trầm trồ khen chiếc xe của anh ta đẹp, tỏ ý muốn lên xe đi một vòng. Chuyện thấy người ta có chiếc xe đẹp, xin đi một vòng, là chuyện trẻ con.
Hình như đứa bé nghịch ngợm do trong tôi không chịu rời tôi dù lúc đó tôi đã ba mươi tuổi rồi. Anh ta vui vẻ nhận lời ngay. Khi anh lái xe dọc theo bờ biển, tôi nhờ anh ghé vô một nhà thuốc tây để mua kem đánh răng. Vì xe mui trần, chỗ lạ, nên tôi biết thể nào anh ta cũng muốn ngồi chờ tôi để giữ chiếc xe quý. Đúng như vậy. Tôi vô tiệm một mình, mua cây kem đánh răng, trả thêm một đồng cho người bán hàng để được xài điện thoại của tiệm. Tôi cho Bill biết chuyện đang xảy ra, nhưng chưa biết địa điểm chiếu film ở đâu. Tôi đề nghị FBI nên theo dõi bằng trục thăng. Bill trả lời gọn khô:
- Đừng lo!
Anh cho biết hiện đã có người đang theo dõi buổi họp. Họ ngồi trong một xe “van” đậu bên kia đường nhà ông Luỹ. Do đó, họ cũng có thể biết mọi người đi đâu.
Tôi trở ra với cây kem đánh răng, rồi chúng tôi chạy trở lại nhà của ông Luỹ.
Chín giờ rưỡi, ông Luỹ bảo mọi người lên mấy chiếc xe “van” và xe hơi được chỉ định để đến địa điểm xem hình chiếu về Việt Nam. Không ai được đi xe riêng. Tôi leo lên phía trước xe “van”, thấy tiến sĩ Cooperman đã ngồi sẵn ở đó với người Việt Nam trẻ, có lẽ là đồng chí, vì hai người nói chuyện có vẻ vô thân mật. Tôi liếc thấy xe “van” của FBI chạy theo, những một một lát sau tôi không thấy xe đó đâu nữa. Rồi tôi thấy trên trời một trực thăng bay theo đoàn xe của chúng tôi. Đoàn xe tới một trường học. Chúng tôi vô phòng hội lớn của trường để xem phim.
Từ hồi sớm tới buổi chiếu film, những sinh hoạt có vẻ hứng thú cho điệp viên, nhưng buổi tối bắt đầu chân ngắt. Tối hôm ssó tôi phải ngồi “chịu trận” cố gắng coi cho hết những hình ảnh Cooperman chụp ở Việt Nam. Tôi đoán, ông chỉ được phép đến những nơi nào có lợi cho giải phóng mà thôi. Tôi được xem nước Việt Nam toàn một mầu xanh mướt với những nụ cười của mọi người được “giải phóng”. Cờ đỏ đầy đường, hình ảnh Hồ Chí Minh chen chúc trong thành phố, cổng làng, trong nhà người dân. Có một em sinh viên trong nhóm, chắc là cảm tình viên của Việt kiều yêu nước, khều người bạn trai, nói nhỏ:
- Có hình bác Hồ trong nhà vào thời điểm này như có bùa hộ mạng hả anh?
Tôi thầm nghĩ, con bé nhỏ mà khôn ghê.
Tiến sĩ Cooperman nói sơ qua về các buổi họp với các khoa học gia ở Hà Nội, và hứa sẽ cố gắng giúp đỡ Việt Nam sự yểm trợ của những thân hữu của ông.
Khi mọi người ra khỏi phòng hội, tôi ngạc nhiên thấy sáu “đồng chí” người Ba Tư đứng gác ở bên ngoài cửa. Ông Luỹ giải thích rằng, nếu không có người canh cửa, buổi họp thường bị “bọn phản động” phá rối, có khi gây ẩu đả. Bọn phản động là các sinh viên miền Nam Việt Nam và những người tỵ nạn.
Về chuyện ẩu đả này, tôi đi chứng kiến một lần. Hôm đó chúng tôi ở phòng hội của một trường đại học ở San Jose xem phim tuyên truyền của cộng sản Hà Nội. Đó là phim “Đại thắng mùa Xuân” do chính tôi đem từ Paris về, theo đề nghị của chủ tịch Huỳnh Trung Đồng. Một người tỵ nạn cộng sản Việt Nam ném một trái lựu đạn khói vô phòng họp. Khi mọi người hốt hoảng bỏ chạy, một người Ba Tư cao lớn được ông Luỹ chỉ định hộ vệ tôi đã nắm lấy tôi đưa tôi chạy ra phía sau trường. Nơi đây, tôi trông thấy cả một nhóm người Ba Tư. Sau đó, tôi được biết sự kết hợp chặt chẽ giữa những người Việt thân Cộng với người Ba Tư ở Mỹ. Người hộ vệ tôi hôm đó nói với tôi:
- Các bạn giúp chúng tôi về vấn đề di trú, thì chúng tôi bảo vệ các bạn khỏi bị bọn vô lại tấn công.
Nói chung. Luỹ thù ghét “đế quốc Mỹ”, không ưa người Mỹ, dấn thân và hy sinh cuộc đời, phục vụ cộng sản. Tôi nghĩ hồi còn nhỏ ông cũng đã được cha mẹ yêu thương. Tình yêu đó vẫn nằm trong một góc của trái tim ông. Để tưởng nhớ người mẹ đã già mà ông tin vẫn còn sống ở Mà Nội, ông mở nhà dưỡng lão ở Montana, California. Ông chăm sóc cho các ông bà già như họ là cha mẹ ruột của ông. Các bữa ăn đều được ông nghiên cứu và nấu nướng cẩn thận cho hợp với người giàa. Ông còn quan tâm đến cả những khó khăn của họ, để tìm mọi cách cố gắng giải quyết giùm họ.
Ông Luỹ rất ghét và không tin Trương Đình Hùng, đến cái độ ông chụp mũ Trương Đình Hùng đang hoạt động tình báo cho Mỹ; nên ông phải đề phòng để khỏi bị lôi thôi vì Hùng.
Tôi cười và nói thầm:
- Đúng là Hùng đang hoạt động tình báo, những cho Chánh phủ cộng sản ở Hà Nội, chớ đâu phải bên kia. Tôi mới là người hoạt động cho “bên kia”, ông ơi!
Sau khi bị loại ra khỏi cấp chỉ huy mới của phe Giải phóng, Nguyễn Thị Ngọc Thoa dọn về Santa Monica ở với chồng. Trương Đình Hùng và tôi bắt đầu gặp nhau thường xuyên. Anh tò mò về việc xuất nhập cảng của tôi, một việc làm để che giấu hoạt động tình báo. Rồi có một lần Hùng đòi tôi phải cho hắn biết tôi buôn bán gì, và lấy vốn ở đâu? Tôi cho anh ta biết việc mua bán của tôi cần rất nhiều vốn, vì đồ sứ và pha lê rất mắc tiền. Bà nội của chồng tôi đã để lại cho đứa cháu duy nhứt rất nhiều tiền khi bà mất. Nhờ vậy, chúng tôi có đủ khả năng tài chánh để buôn bán.
Sau khi nói cho Hùng biết như vậy, tôi cười thầm và ước gì bà nội chồng của tôi giầu thiệt! Không biết Hùng có nghi ngờ gì tôi, hay đó chỉ là tánh tò mò của anh ta, nhưng Hùng hay hỏi đời tư và những hoạt động của tôi. Đó cũng là một điểm lợi cho tôi, vì tôi có thể hỏi ngược lại Hùng những điều như anh muốn biết về tôi. Một hôm, tôi thử dò anh để biết anh muốn gì trong tương lai. Nếu hai chánh phủ Hà Nội và Mỹ thiết lập bang giao, anh có muốn trở thành trưởng ban tình báo của toà đại sứ không? Tôi biết, anh đang cố gắng tìm một địa vị quan trọng trong chính quyền mới.
Hùng sốt sắng trả lời:
- Về hoạt động tình báo ở nước này, tôi là người xứng đáng nhất.
Hùng còn tử tế nhắc nhở tôi:
- Đó là lý do mà chị và tôi không nên dính líu với Việt kiều yêu nước nữa.
Vào mùa Xuân năm 1976, tôi giữ liên lạc chặt chẽ với Trương Đình Hùng hơn. Anh còn có cái tên là David Trường. Năm ngoái, sau khi chuyển một số sách lớn và tài liệu của Hùng cho Huỳnh Trung Đồng, rồi lại chuyển thơ của Đồng cho Hùng, tôi thành một cán bộ giao liên tin cẩn của cả hai người.
Vào giữa tháng Ba năm 1976, Huỳnh Trung Đồng viết cho tôi một lá thơ với nhiều tin vui. Anh vừa mới từ “thành phố Hồ Chí Minh” trở lại Paris. Anh có đến thăm ba tôi. Anh cho biết anh được thẻ đảng viên của đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thơ, tôi nghe được niềm vui, sự phần khỏi và hãnh diện của ông chủ tịch
“Trong lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam, cho đến nay, tôi là cán bộ đầu tiên và duy nhất đang lãnh đạo hội Ái hữu người Việt ở hải ngoại được cái vinh hạnh này.
Tin Đồng trở thành một đảng viên cộng sản Việt Nam sẽ khiến các nhân viên CIA ở Paris và các chuyên viên phân tích ở Langley quan tâm đặc biệt. Nó không phải là một sự kiện đơn giản chỉ có ý nghĩa tầm thường rằng Huỳnh Trung Đồng đã được mang thẻ đảng viên. Địa vị và nhiệm vụ của anh phải quan trọng đến thế nào đối với nhà nước Việt Nam trước và sau năm 1975.
Cũng trong lá thơ này, Đồng yêu cầu tôi ráng hết sức bay qua Paris vào tháng Năm để gặp các đại biểu của các tổ chức Việt kiều hải ngoại khắp thời gian, gồm có: London, Rome, West Germany và Mỹ. Còn một điều hấp dẫn nữa, theo ông, thì thủ tướng Phạm Văn Đồng có thể sẽ nói chuyện với các đại biểu trong hội nghị này. Lạ một điểm, là anh biểu tôi cho Trương Đình Hùng biết, nếu tôi có thể đi được.
Tôi không phải nói tới lần thứ hai, cả Rob lần Bill đều nghĩ rằng tôi nên đi Paris, vì có lợi cho cả CIA và FBI. Thế là tôi phải sửa soạn đi Paris ngày 22 tháng Tư.
Cũng ngày hôm đó, tôi cho hai ông biết tôi đã gặp David Trường để báo cho hắn biết tin tức qua lá thơ của Đồng. Tôi chăm chú nhìn Hùng để dò xét phản ứng của anh ta, những dường như Hùng đã biết tin đó trước tôi rồi. Anh cũng biết cả tin thủ tướng Phạm Văn Đồng sẽ sang Paris. Nhưng điều quan trọng hơn hết, là Hùng cho tôi biết sắp có buổi họp giữa một phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ với một nhóm từ Hà Nội quá. Tôi không tỏ vẻ tự nhiên, nhưng sự thật tôi chưa biết tin này; mà tôi chưa biết thì CIA cũng clnra biết.
Trong bữa ăn trưa hôm đó. Hùng nói với tôi, anh sẽ nhờ tôi mang một số tài liệu sang Pháp. Kỳ này anh nhắc đi nhắc lại cẩn thận dặn tôi là trao tài liệu cho Huỳnh Trung Đồng, đừng trao cho Phan Thanh Nam. Hùng con khoe với tôi là ở Washington, gia đình tình báo rất dễ dàng, nếu mình biết tiếp xúc đúng người. Hùng có biết một người Mỹ “có thể lên lầu bảy của Bộ ngoại giao và muốn lấy gì cũng được”.
Đây là cái tin có thể làm cho ông Giám đốc FBI Clarence Kelley và ông thứ trưởng ngoại giao Warren Christopher chạy vắt giò lên cổ trong những tháng sắp tới. Cái tin này cũng đưa nghề phản gián của tôi đi qua một khúc quanh thật chông gai.
Hai ngày trước khi tôi bay qua Paris, tôi lại chiếc xe Bronco ra ngoài Washington để lấy “đồ” mà Hùng nhờ tôi đem qua Paris. Tôi ghé ngay trước cửa sổ của anh ở đường K; ba chiếc xe chạy sau tôi là xe của FBI theo dõi. Hùng đưa cho tôi một bao thơ lớn mầu vàng, thật nặng; bao thơ này Hùng dặn đưa cho Huỳnh Trung Đồng; và một bao thơ nhỏ dài, đưa cho Phan Thanh Nam. Bữa sau, Hùng lại gọi tôi, muốn tôi trở ra phố gặp anh “cùng chỗ, cùng giờ” để lấy thêm một món nữa. Hùng nói lý do làm tôi qua đi lại nhiều lần, vì anh thận trọng, không muốn tôi giữ trong xe nhiều tài liệu trong một chuyến; trong bao thơ kỳ này, không muốn tôi giữ qua lâu trước ngày tôi lên đường đi Paris
Thì thôi. 12 giờ 15 ngày 21 tháng 4 tôi trở lại đường K, này tôi đi bằng chiếc xe khác. Tới phiên tôi cẩn thận, vì tôi nghe có lần Hùng nói, anh có gặp một thằng Liên Xô trên bậc thang đi lên quốc hội, và “mấy thằng Liên Xô đòi hỏi quá nhiều”. Tôi nghĩ, trong kiếp làm gián điệp Hùng có đổi chác với một thằng gián điệp Liên Xô: còn trong những bao thơ Hùng trao cho tôi những tài liệu mật của an ninh quốc gia Hoa Kỳ.
Tôi vừa đưa cho Bill Fleshman những bao thơ của Hùng, nói:
- Anh đừng hỏi tại sao tôi biết nó là tài liệu mật; giác quan thứ sáu của tôi hay lắm.
Fill bắt đầu xúc tiến mọi thủ tục để xin Bộ tư pháp cho FBI mở thơ của Trương Đình Hùng chuyển cho cộng sản ở Paris. Sáng 22 tháng 4, tôi thất vọng vô cùng khi Bill Flesh đem tất cả bao thơ trả lại cho tôi, vẫn còn dán kỹ như hồi Hùng đưa cho tôi. Anh cho biết bánh xe hành chánh chạy chậm không kịp trước khi cho tôi lên đường đi Paris.
- Thì tôi hối chuyến đi này. Có ai nói tôi phải đi tối nay đâu?
Không biết FBI nghĩ sao, mà Bill khuyên tôi nên đi theo lộ trình. Hai giờ chiều đó, tôi có mặt tại phi trường Dulles, trong khi ngồi chờ máy bay, tôi nghe máy phóng thanh kêu tôi, yêu cầu tôi đến quầy bàn giấy của Pan Am. Tôi đi lại thì thấy Rob đứng sắp hàng, tay không có xách va-li nhưng cầm tờ báo. Tôi bước vô đứng xếp hàng sau lưng anh. Anh đưa xem đồng hồ và lẩm nhẩm nói: “Bỏ chuyến bay này. Đi về nhà nhanh lên!”
Về tới nhà, thì mấy phút sau Rob và Bill ghé qua, lấy cả ba bao thơ, rồi dặn tôi ở nhà chờ lịnh trên. 4 giờ 45, Rob cho biết anh và Bill sẽ đem “đồ” trả lại cho tôi. Anh kêu tôi gọi về máy bay Pan Am để đi TWA vào 6 giờ 20 tối đó.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, tôi học được nhiều bài học của má tôi và của người tỵ nạn. Một trong những bài học quý giá đó, là học được tánh thích ứng trong mọi hoàn cảnh. Tôi trả lời Rob “Đi thì đi”, trong khi Rob xin lỗi luôn miệng, vì suốt ngày đó họ đã quay tôi như cái chong chóng.
Tôi đến Paris, trời sáng còn lạnh thấu xương. Đây là lần thứ hai trong đời, tôi có mặc cảm như người phạm pháp, khi đứng chờ hải quan xét va-li. Lần thứ nhứt, là từ Sài gòn về Mỹ năm 1974, tôi lén đem qua Mỹ cây Lá Cẩm; kỳ đó qua lọt, nhờ vậy mà sau này nhiều người Việt Nam ở Hawaii trồng Lá Cẩm, xôi Cẩm bắt đầu xuất hiện trong bếp của những chị bạn khéo tay tôi ở Hawaii. Hôm đó tại phi trường Orly, hầu như tất cả mọi người, trừ mấy ông bà già, đều phải mở hành lý cho nhân viên quan thuế kiểm soát. Trong khi loay hoay mở cái va-li lớn và nặng trĩu trước mặt nhân viên quan thuế, tôi suy nghĩ lưng tung kiếm một lý do giải thích về hai bao thơ đầy những bí mật quốc gia. Tôi sẽ khai, tôi là sinh viên về khoa học chánh trị, nghiên cứu về nhân chủng học và Việt Nam là môn chánh của tôi. Nếu không tin, họ có thể làm khó dễ tôi. Lúc đó, tôi phải kêu điện thoại khẩn cấp cho CIA; chúng tôi chưa bao giờ đề cập tới chuyện khẩn cấp này.
Bao nhiêu lo lắng từ nãy giờ uổng sức, vì nhân viên hải quan chỉ hỏi biên lai của cây thuốc lá Black Russian tôi mua cho đại sứ Võ Văn Sung; tôi nghe anh Thái nói ông thích thuốc lá hiệ đặc biệt này.
Một tiếng đồng hồ sau, taxi đậu ngay trước cửa khách sạn Intercontinenlal. Người gác cửa mau mắn tới mở cửa taxi cho tôi ra phía sau đón lấy va-li của tôi từ tay người tài xế. Tôi mệt lả người, nhưng phải ghé qua cái quầy để ghi tên, lấy phòng. Mùi thơm từ phòng ăn bay ra làm tôi đói bụng. Ăn thì tôi chờ được, nhưng bây giờ tôi cần đi ngủ, vì suốt 24 tiếng đồng hồ tôi làm việc không ngưng.
Gián điệp cần ngủ kỹ mới tỉnh táo để chuẩn bị tinh thần. Trước mặt những cán bộ cộng sản, tôi là “phe ta” của họ, tôi phải suy nghĩ như họ để nói bằng ngôn ngữ của họ. Như con cắc ké, tôi chuyển từ một người con gái Việt Nam da vàng ngạo nghễ qua một người đầy tớ của đảng và nhà nước.
Một giờ trưa, Rob gọi điện thoại. Anh hỏi:
- Tôi có đánh thức bà không vậy?
- Có chớ sao không!
Tôi trả lời quạu đeo. Hồi con ở nhà, má và chị em, ai cũng biết cái tánh xấu của tôi, nên một lần tôi nhờ bất cứ ai trong nhà đánh thức giùm, không ai thêm nhận việc đó. Mà tôi hay nói “đưa nào dại lắm mới đánh thức cọp”.
Nhưng rồi tôi thức dậy, sửa soạn để bắt đầu công tác. Theo quy tắc, Rob luôn luôn gặp tôi xem có gì thay đổi bất thường trong chương trình của tôi không. Hai mươi phút sau đó, tôi gặp anh vài ba phút rồi tôi bắt đầu chuyến đi Paris bằng một bữa ăn trưa trong một quán café xinh xắn ở Rue de Rivoli; sau taxi đi thẳng tới gặp Phan Thanh Nam.
Trước khi ra khỏi phòng, tôi đã tìm nơi an toàn để giấu ba cái bao thơ. Cái duyên, là nhờ khách sạn đang sửa chữa, máng quần áo có một lỗ trống nhỏ đủ để người thợ điện bò vào mở miếng ván tạm đậy lỗ trống trong bức tường, thì phía trong tối như như đêm, dây điện chẳng chịt. Tôi nghĩ, hôm nay là ngay Chúa Nhứt không có thợ nào làm việc. Tôi để ba cái bao thư trong đó, rồi đậy lỗ trống lại, rồi đem quần áo trong va-li máng đầy lên.
Tôi cố ý chớ không phải vô tình mà không báo cho Phan Thanh Nam biết giờ nào tôi đến gặp ông. Ông chỉ được báo khoảng thời gian từ 20 tới 25 tháng Tư tôi sẽ tới Paris. Tôi muốn Nam làm gì trong một buổi chiều Chúa Nhựt. Nếu ông vẫn ở nhà, thì tôi có thể gặp bất cứ ai trong cơ quan đó. Bây giờ, ai sống trong cơ quan này cũng đã biết tôi rồi; may ra ghé vô đó để nghe chuyện thâm cung bí sử trong lúc đợi ông về. Nhưng cái duyên chưa tới, mà tôi chỉ làm Nam giựt mình khi tôi nhấn chuồng, ông ra mở cửa thấy tôi. Trong tay ông còn quyển “Cộng sản học”.
Chắc ông cũng như tôi, bỏ qua những lịch sự trong cách giao thiệp hàng ngày: tôi không gọi ông trước khi tôi tới, thì ông cũng không hỏi qua loa về sức khoẻ gia đình tôi, mà ông rối rít hỏi tôi có làm những công tác ông giao phó không?
Tối hôm đó, tôi gọi Huỳnh Trung Đồng, cho anh biết tôi đã tới Paris. Không như Phan Thanh Nam, Huỳnh Trung Đồng luôn luôn lịch sự, hoà nhã. Anh hỏi thăm sức khoẻ má tôi, gia đình tôi. Anh hỏi tôi đi đường xa có mệt lắm không. Sau đó anh mới hỏi chừng nào tôi đến gặp anh. Tôi cho anh biết, sáng hôm sau tôi sẽ ghé qua hội quán gặp anh. Anh ngập ngừng hỏi tôi:
- Cô tới sáng sớm. Vì … vì chúng tôi cần tài liệu đó lắm.
Tôi hẹn gặp anh 10 giờ sáng.
Sáng hôm sau tôi sửa soạn xong, chui vô cái cửa sau lưng tủ áo, lấy gói tài liệu bỏ vô cái bóp có máy ghi âm.

Nhiều lần vợ chồng tôi đi săn, anh John dậy tôi bí quyết săn nai. Trước hết là phải ăn điểm tâm, phải kiên nhẫn, chú ý tới những thói quen của bầy nai như: nó ra ăn giờ nào, uống nước chỗ nào. Phải ngồi trên cây chờ đợi có khi cả năm, sáu tiếng đồng hồ mà không được nhúc nhích. Hôm nay, tôi không có săn nai, mà săn cán bộ Cộng sản, xem “chúng tôi” của Huỳnh Trung Đồng là những ai. Tôi chờ họ ngồi đâu vào đó, rung đùi chờ tôi, chừng đó tôi mới thấy được hết mặt mấy ông quan cách mạng. Vì thế, tôi chần chờ một lát, ghé qua mua tờ báo, tìm một tiệm cafe, aen điểm tâm, chuẩn bị tinh thần.
Tôi tự dặn mình rằng, tôi đang là một công tác cho an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, một việc làm nguy hiểm, chứ không phải tôi là du khách ghé qua Paris để tận hưởng mùa Xuân Paris. Việt Cộng, KGB, phản gián Tây có thể theo dõi tôi từng giờ từng phút. Họ có thể chụp hình, họ có thể giả dạng ăn cắp, ăn mày, mà giựt bóp tôi. Dù vậy, tôi luôn luôn đi đứng tự nhiên, không để bị chú ý. Uống cafe xong, tôi thong thả gọi taxi tới hội quán của hội Việt kiều yêu nước.

Sáng nay, trước cửa trụ sở của hội Việt kiều yêu nước vắng hơn mọi khi; không có sinh viên và mấy ông bà già Việt kiều yên nước, dù trong trụ sở có nhiều người hơn mọi khi. Con chó vàng thường nằm ngủ trước cửa hội quán, hôm nay có vẻ ngồi đứng không yên. Nó đứng chặn cửa nên tôi không dám bước vào, người quản gia phải đá bên hông nó, nó mới tránh đường cho tôi đi vô.
Huỳnh Trung Đồng dẫn tôi vô phòng học tập, có ba người đàn ông trạc 40, 50 và một người đàn bà cũng trạc tuổi đó. Tất cả mặc đồng phục mầu xẫm xám, nhìn vào là biết mầu xã hội chủ nghĩa Hà Nội liền. Tất cả đều đeo hình Hồ Chí Minh trên người. Anh Đồng giới thiệu mọi người, cuối cùng là “chị Vân”. Được biết trước kia chị là phụ tá của bà Nguyễn Thị Bình trong thời gian hội đàm Paris. Thì ra, chị này đã phục vụ bà Bình, đã làm việc và sống trong cái villa mà ba má tôi đã đến đó ở một lần. Chị đón bắt tay tôi, và nói:
- Tôi kính trọng bác Năm, ba cô lắm. Bác dậy tôi rất nhiều.
Trên vẻ mặt hân hoan của mọi người, tôi biết tất cả đang chờ một điều gì, một cái gì, mà bây giờ nó đã đến. Tôi nghĩ họ chờ tôi; đúng hơn, họ chờ tài liệu của Trương Đình Hùng do tôi mang tới. Tôi trao cho anh Đồng cái bao plastic đựng ba cái bao thơ.
- Em có đem quà cho anh đây!
Vừa nói tôi vừa bấm cái nút “ghi” của máy ghi âm trong bóp của tôi. Anh Đồng nhanh nhẹn nhận lấy bọc plastic. Anh nói: “Cô đến thật là đúng lúc”. Anh liền đưa một trong những cán bộ cái bao thơ dầy nhứt. Ông như một đứa trẻ mở quá Giáng Sinh, trong khi ba người kia hăm hở chơ. Anh Đồng dẫn tôi qua phòng khác để họ làm việc. Tôi thấy chịn Vân trọn mắt rồi kêu lên:
- Trời ơi, chắc chúng ta phải mất ít nhứt năm tiếng đồng hồ để chuyển ngữ đống tài liệu này!
Tôi vừa nhìn anh Đồng vừa cười thầm:
- Chị có muốn lần sau thông dịch viên của FBI dịch cho chị trước khi tôi đem qua không?
Anh Đồng không ngớt cảm ơn tôi. Anh còn cho biết là anh sẽ báo cáo với “những người có trách nhiệm bên nhà” về những đóng góp “to lớn” của tôi.
- Chừng nào phái đoàn của mình gặp phái đoàn của Mỹ? - Tôi hỏi.
- Sắp sửa. Khi nào thuận lợi cho bên ta thôi. Chúng ta sẽ được báo trước. Cô tới quá kịp thời, đúng lúc”. Vừa nói anh vừa quay lưng lại chỉ vào bốn người cán bộ đang chia nhau tài liệu của Trương Đình Hùng gởi qua cho họ. Tôi chưa bao giờ thấy anh Đồng cười; vậy mà hôm nay anh vui ra mặt.
- Vậy thì bên mình sẽ nói cái gì với họ hả anh Đồng?. - Tôi ngây thơ hỏi anh.
- Chung quanh vấn đề Mỹ phải giữ lời hứa của tổng thống Nixon. - Huỳnh Trung Đồng nhắc lại việc bồi thường chiến tranh ba tỷ rưỡi dollars sau khi chiến tranh chấm dứt, anh tiếp tục - để hàn gắn vết thương của chiến tranh gây nên!
Tôi nhủ thầm:
- Vết thương chiến tranh trên xứ mình gẩy tổn thất gấp trăm ngàn lần ba tỷ rưỡi dollars mà cộng sản gây ra, chớ Nixon nào gây ra mà đi đòi tiền Mỹ?
Mỗi lần Cộng sản và những người phản chiến nhắc đến những đổ vỡ, những thiệt hại do chiến tranh gây nên, họ đều có lập luận giống nhau. Tất cả đều đổ lỗi cho “đế quốc Mỹ”. Đã một lần tôi nói với ba tôi, là suốt thời gian chiến tranh, miền Nam ở trong thế thủ để bảo vệ mảnh đất tự do, trong khi Hà Nội ở thế tấn công. Liên Xô và Trung Cộng viện trợ, xít cho Hà Nội nhuộm đỏ miền Nam. Vậy thì ai là người gây thiệt hại trong cuộc chiến này? Ba tôi chỉ nói:
- Con không hiểu.
Tôi trả lời ba tôi:
- Con là con nhà họ Đặng, nhưng được họ Trận nuôi dậy, chớ đâu phải cháu ngoan của bác Hồ, nên con hiểu nhiều lắm, bà à!
Tôi biết ba tôi thương tôi lắm, và tôi là người làm rắc rối cho ông hơn “đế quốc Mỹ”.
Phan Thanh Nam muốn xài tôi như người ta xài trái chanh, trong khi Huỳnh Trung Đồng thì cư xử với tôi như người ta vun vén cây chanh. Ở anh Đồng, cái thiện nó có trong tâm anh, những cái lẹ nó ở trong hành động của anh. Má tôi biết, sau khi trở về Việt Nam nhận thẻ đảng viên của đảng Cộng sản, anh trở lại Paris hai vai mang nặng nợ nước nhiều hơn thời kỳ “chống Mỹ cứu nước“. Huỳnh Trung Đồng chưa sống dưới chế độ Cộng sản một nào trước 75. Suốt thời gian chiến tranh, anh phục vụ Mặt trận giải phóng tại Paris; về Việt Nam một tháng, khi trở qua Paris, anh như người bị mất hồn.
Anh kể cho tôi nghe, anh xuất thân từ một gia đình khá giả ở Nam, nên anh được du học. Chị của anh là một quả phụ, tháng 4-1975, chị phải “dâng hiến” tài sản cho nhà nước, không còn nơi nương tựa, nên dọn về ở với ba của chị. Cũng là dịp ông đau nặng không còn tiền, không đủ “tiêu chuẩn” đi nằm nhà thương. Khi về nhà, thấy tình cảnh gia đình thê thảm quá, anh tôi gặp ba tôi, nhờ ông giới thiệu với chính quyền thành phố, nâng cao tiêu chuẩn của ba anh lên bậc “có cong với cách mạng” (có công vì ông là ba của Huỳnh Trung Đồng), Ngay sau đó, ba của anh Đồng được đưa vào nhà thương chữa trị. Anh không ngớt nhắc đến sự giúp đỡ của ba tôi.
Trong khi tôi chỉ trích nhà nước, anh Đồng khéo léo: “Rồi đâu sẽ vào đó!”.

Hôm đó, anh Đồng cho tôi cái giấy mời để được đi xe cùng với Việt kiều ra phi trường đón thủ tướng Phạm Văn Đồng. Chuyến công du này, trước tiên là thiết lập tình hữu nghị với nước Pháp. Ông cũng sẽ gặp các đại biểu của tất cả hội Việt kiều yêu nước ở mọi nơi, để mở đầu cho chiến dịch ngoại vận. Những hội viên, những đại biểu nào mà trước đó không Việt Nam được về một lượt với Huỳnh Trung Đồng, vì lý do chưa có đủ giấy tờ để du lịch - trường hợp những người tỵ nạn mới, chưa có thẻ xanh, trong đó có những sinh viên du học, được gặp thủ tướng trong chuyến công du này.
Tôi nhận cái giấy của anh Đồng, nhưng tôi không có leo lên xe bus ra phi trường phất cờ đỏ sao vàng đón ông, mà tôi cần thấy sắc thái của ông thủ tướng già để báo cáo với CIA thôi. Có giấy mời đó, tôi được đi vào toà đại sứ để dự bủoi tiếp tân, nhưng tôi lại đứng sắp hàng với mấy trăm người trước toà đại sứ. Ông Phạm Văn Đồng ra trước cửa toà đại sứ nói mấy câu chào mừng Việt kiều, hai tay nắm vào nhau đưa lên mặt không có thần, mặt nặng như chì, không nhếch mép cười với những tiếng vỗ tay của đám người chờ sắp hàng hơn một tiếng đồng hồ, trong đó có tôi, có Việt kiều đã sinh sống trên đất Pháp suốt đời, có lính Lê dương, có mấy người Corsican với mấy bà vợ Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng nói tình bạn giữa hai quốc gia rất quan trọng cho hai dân tộc Việt-Pháp, vì vậy chuyện cũ bỏ qua, lỗi lầm tha thứ hết. Tôi thầm trong bụng “Tây nó bắn, nó giết, nó đâm nó dầm dân tộc Việt Nam, nó không hề hến gì, ông bới bỏ lịch sử đó để đi ăn mày được, chớ Việt Minh của tôi không tha thứ, cũng không quên tội lỗi của đồ thực dân này đâu!”. Phạm Văn Đồng xuất hiện có mấy phút rồi trở vào trong toà đại sứ.

Chuyến công tác này, tôi ở Paris 18 ngày. Mười tám ngày Xuân đẹp hơn trong những tác phẩm đã ca ngợi mùa xuân ở Paris, nhưng tôi chỉ được hưởng khi tôi biết cách làm cho ngày dài hơn 24 tiếng đồng hồ, vì tôi làm việc từ 10 giờ sáng tới 12 giờ khuya. Tôi tìm gặp người tỵ nạn, tâm tình với người Sài gòn vừa chạy qua Paris. Tôi gặp Cộng sản Hà Nội, tôi thăm dò tình ý người của Mặt trận giải phóng miền Nam. Tôi được tới nhà những người Việt Nam đã sinh sống ở Paris, đã nhiệt tình ủng hộ Mặt trận giải phóng qua nhiều giai đoạn, nhưng sau 1975 họ mới thấy rõ bộ mặt thật của cộng sản Hà Nội. Những anh chị em này lập thành một nhóm để cùng nhau tẩy chay chế độ mới. Trong khi đó, hàng ngày tôi phải liên lạc, báo cáo với CIA. Nhưng không vì vậy mà Paris không mùa xuân.

***

Trong thời gian tôi công tác ở Paris, ở nhà, FBI điều tra rối rít để tìm ra danh tánh người bạn Mỹ của Trương Đình Hùng, người mà anh đã một lần khoe với tôi là ông ấy có thể lên lầu 7 Bộ ngoại giao lấy tài liệu mật cho anh ta.
Thời điểm đó Bộ tư pháp không được phép mở thơ, không được nghe lén, không được đặt may ghi âm người bị điều tra, nếu người đó là công dân Mỹ hay thường trú nhân. Chỉ khi nào cơ quan điều tra có đủ bằng có, thì cuộc điều tra mới được tiến hành đến giai đoạn này.
Trường hợp của Trương Đình Hùng, FBI và Bộ tư pháp đã ra toà xin phép điều tra anh bằng cách nghe lén điện thoại của anh, những toà không cho. Sau đó, ông bộ trưởng Bộ tư pháp là ông Griffin Bell trình lên tổng thống Jimmy Carter. Hai ông cùng là người xuất thân từ tiểu bang Georgia. Ông Griffin Bell Bell lớn tuổi hơn tổng thống Carter, là một vị luật sư nổi tiếng thế giới, giầu kinh nghiệm. Ông đã từng phục vụ nhiều tổng thống nước Mỹ trong thời gian ông Carter còn là sĩ quan hải quân. Tổng thống Carter đã mời ông Griffin Bell giữ chức bộ trưởng Bộ tư pháp khi ông đắc cử tổng thống. Ông Griffin Bell đích thân đến Toà Bạch ốc gặp tổng thống Carter để trình bày một vấn đề có liên quan đến an ninh quốc gia. Tổng thống Carter lắng nghe và cho phép Bộ tư pháp mở cuộc điều tra Trương Đình Hùng với những kỹ thuật của ngành phản gián. Đây là lần đầu tiên Toà Bạch ốc cho phép ban phản gián dùng máy móc và nhân lực để điều tra thường trú nhân và người có quốc tịch Mỹ.
Bill Fleshman cho biết Trương Đình Hùng xài điện thoại liên miên, cho nên người thông dịch viên của FBI phải làm việc ngày đêm. Chỉ có mấy ngày nghe điện thoại của Trương Đình Hùng, FBI lấy được tên của người bạn Mỹ của Hùng. Ông ta tên là Ron. Một hôm, Hùng biểu Ron tới gặp anh ở chung cư anh đang ở. Tên Mỹ là tên Ron cũng như người Việt Nam tên Hồng, tên Hùng, tên Dũng… bây giờ FBI phải biết Ron họ gì mới tiếp tục điều tra xem người bạn đó của Hùng là ai?

Tối 13 tháng Năm, nhân viên FBI ngồi trong xe “van” ngang cửa chung cư của Hùng ở, thì thấy có một người Mỹ đi vô. Một lát sau ông đi ra và đi bộ. Những chiếc xe của FBI bố xua ra một cách kín đáo, theo gót ông đi thẳng vô Bộ ngoại giao. Nhân viên ra vào Bộ ngoại giao phải ký tên vào sổ ngoài cổng có lính gác. Khi ông Mỹ ký tên vào, thì một chiếc xe khác trờ tới, cũng đưa thẻ, cũng ký tên vào sổ, nhưng thẻ đó là thẻ của nhân viên FBI. Người này yêu cầu người gác cho xem tên của người vừa ký để vô cửa. Đó là Ronald Louis Humphrey, nhân viên của U.S. Information Agency, ghi là ông lên văn phòng trên lầu 7. Bingo!
Sau đó, Bộ tư pháp cho phép ban phản gián của FBI gắn máy chụp hình trong văn phòng làm việc của ông. Gắn máy ghi âm luôn trong apartment của Trương Đình Hùng.
Cuộc điều tra bắt đầu diễn ra trong khi tôi vắng mặt. Tôi chỉ biết được sau ngày tôi trở về Mỹ. Họ còn cho tôi biết người bạn của Trương Đình Hùng là một nhân viên cao cấp Bộ ngoại giao, cấp bực GS-14, ông có “top secret clerance”.

Trước khi tôi rời Paris, Phan Thanh Nam đưa cho tôi một bì thơ dán kín. Ông bộ trưởng Bộ tư pháp được tổng thống Carter cho phép mở thơ đó. Phan Thanh Nam viết: “Tôi hoan nghinh cách anh sắp đặt công việc làm ăn… Đôi khi chúng ta cũng phải dùng tới sự lừa đảo và dối trá nhau”. Chúng tôi không hiểu Nam khuyến khích Hùng lừa đảo ai, dối trá với ai, nhưng khi Hùng mở thư, anh vừa đọc vừa mỉm cười.
Hùng cười tươi hơn, khi tôi cho anh biết là sự đóng góp của anh tối quan trọng; anh đưa tài liệu cho tôi đem qua Paris, vừa kịp thời, vừa giúp ích cho cuộc hội nghị giữa Mỹ và Hà Nội. Tôi nói lại cho anh biết, anh Huỳnh Trung Đồng nhắn với anh, là anh nên tiếp tục công tác hăng say. Anh Đồng cũng dặn anh “phải giữ sức khoẻ”.
Khi tôi nhắc đến “giữ gìn sức khoẻ”. Hùng liền hỏi tôi có luật sư không? Khi tôi trả lời là không, thì anh khuyên tôi nên có sắn một luật sư giỏi. Anh còn nói là trong “nghề nghiệp” của tôi và anh, nên có một luật sư phòng khi hữu sự.

Một hôm, anh mời tôi đến nhà anh vào ngày Chúa Nhựt uống trà. Chúa nhựt đó là Father's Day, John dẫn Lance đi câu cá, nên rỗi rảnh. Nhà của Hùng ở đường F ngoại ô Washington, D.C, phòng anh ở sạch sẽ, yên tĩnh. Trong phòng không có cây, không có hình, không bông hoa, mà chỉ có sách và báo chí. Thế giới của anh ở không có mầu, không có sự sống, không có tiếng động, chỉ trừ một lát sau, tiếng nước sôi trên cái ấm nước anh nấu để pha trà là tiếng kêu quen thuộc.
Tôi nhìn quanh căn phòng của một người sống đời sống bóng tối, chờ đời sống hào quang, đời sống của một điệp viên cộng sản. Tôi nghĩ đến Hải Vân em tôi, và cuộc sống đầy ý nghĩa của em trước khi em tử nạn. Trong giây phút đó, cái thiện của con người tôi muốn bước ra nắm tay Hùng, biểu anh hãy bỏ tất cả. Hãy rước ba má của anh ra khỏi Việt Nam. Tôi muốn nói, anh nên ra khỏi cái thư phòng, đi tìm việc làm xứng hơn với học vấn của anh. Cha mẹ anh đã nuôi anh khôn lớn, cho anh du học, tổn hao biết bao nhiêu tiền, nuôi biết bao là hy vọng. Tỉnh dậy đi Hùng, không thôi anh sẽ thức với cơn ác mộng!

Chúng tôi ngồi uống trà. Tôi cố không khơi chuyện về việc làm của anh, bởi vì tôi biết phòng anh đang ở bây giờ đã có gắn máy ghi âm. Nhiều đêm tôi nằm nghĩ, làm gián điệp không phải là nghề của tôi, mà là cái nghiệp, bởi vì tôi cứ bị cái thiện và cái ác vật lộn với nhau trong lương tâm hoài, làm cho tôi mất trí quá.
Tôi báo cho Hùng biết là chồng tôi vừa được sự vụ lịnh đi qua London. Tôi không đọc được ý nghĩ trên mặt Hùng về việc tôi sẽ rời Washington, mà anh lại dặn tôi trước khi rời Washington, anh nhờ tôi lấy thêm tài liệu đem qua Paris giùm anh.

Hùng gặp tôi vào buổi tối sau giờ làm việc để đưa cho tôi tài liệu. Ban đêm một mình ra Washington rất nguy hiểm, nên anh vô Virginia gặp tôi. Chúng tôi gặp nhau tại bãi đậu xe trước cửa The Hetch Cơmpany trong Landmark Shopping Center. Hùng bưng ra một bọc loại bọc giấy ở chợ, đầy giấy tờ trong đó.
Sau khi nhận gói hồ sơ rồi, tôi định chia tay Hùng, thì anh nghị ghé vô một quán nước uống café và nói chuyện trước khi chia tay. Khi chia tay, Hùng bắt tay tôi và chúc tôi bình an. Giòng máu Con Rồng Cháu Tiên trong cơ thể làm cho tôi trắc ẩn trong lòng. Hùng là người Việt Nam dù anh làm gián điệp cho cộng sản, anh cũng mang giống máu da vàng. Tôi thương hại Trương Đình Hùng vô cùng, vội choàng tay lên với Hùng, rồi nghẹn nói:
- Hùng giữ gìn sức khoẻ nhen. Hết giặc rồi, hứa với tôi là Hùng nghỉ ngơi. Lên Boston thăm anh Ngô Vĩnh Long như Hùng mơ ước đi hoài mà chưa đi được đó.
Tôi chạy ra xe của tôi trong khi Hùng đứng nhìn theo.
Tôi cảm thấy tội lỗi với một người vừa chia tay tôi, người đứng nhìn cho tôi lên xe an toàn, rồi anh mới lên xe anh. Trong khi đó, tôi liếc thấy có vài ba chiếc xe của toán FBI gần đó. Tôi cố tình chạy hết tốc độ để không phải suy nghĩ hoàn cảnh éo le, để lương tâm không cắn rút, để thương hại Hùng.
Như đã hẹn trước với FBI, tôi chạy về Springfield, Virginia, đậu sau lưng khách sạn Holiday Inn. Bill Fleshman và toán nhân viên FBI mở cửa bốn chiếc xe, đi đến gặp tôi. Tôi đưa gói đồ Bill rồi nói:
- Mấy anh Mme Ly làm gì thì làm với mấy hồ sơ này! Tôi không muốn thấy mặt nó nữa.
Tôi lái xe về nhà. Trời không mưa, nhưng mắt tôi ướt. $pageOut$pageInChương 42

Hải quân và CIA đã hợp tác với nhau, với sự đồng ý của chồng tôi, đổi anh qua Luân Đôn làm việc, vì những hoạt động giữa tôi và CIA tại nước Mỹ trái nguyên tắc. Trong thời gian qua, cứ ba tháng CIA phải xin gia hạn với Bộ tư pháp, cho phép CIA và tôi hoạt động trong nước Mỹ. Gửi tôi ra nước ngoài để hoạt động là thượng sách.
Tháng 7 năm 1977, má tôi và Minh Tâm về Atlanta, Georgia với chị tôi. Xe tải tới dọn nhà, đóng thùng bàn ghế, 90% đồ trong nhà đem gởi trong kho; khi nào chúng tôi đổi về Mỹ sẽ lấy ra. Khi qua Luân Đôn, Hải quân sẽ cho chúng tôi mướn bàn ghế xài trong thời gian ở đó. Con chó Moon Joe của Lance tạm thời gởi cho vợ chồng của một người bạn nuôi giùm trong thời gian chúng tôi đi vắng. Tội nghiệp con tôi, khóc một trận lúc chia tay con chó. Nhưng rồi Lance cũng tạm quên con chó, khi nó biết ở Luân Đôn có tiệm bán đồ chơi Hamleys lớn nhứt thế giới; vậy là từ ngày đó Lance cứ theo hỏi “chừng nào mình đi Luân Đôn?”.
Hải quân đã đưa chúng tôi đi nhiều nơi, sống nhiều chỗ, nơi nào cũng là nhà, nơi nào cũng sống gần gũi với những gia đình hải quân những người đặt tổ quốc trên hết, sống với nhau trong tinh thần phục vụ và bảo vệ đất nước. Nhưng chuyến công du ở Luân Đôn lần này để lại nhiều kỷ niệm cho gia đình tôi, mà tới chết cũng không quên được. Đây cũng là nơi một lần nữa thử thách lòng yêu nước, yêu tự do và chung thuỷ của gia đình tôi. Nơi đây, tôi đã trưởng thành qua những chông gai, thử thách, ngoài sức tưởng tượng của một người con gái lớn lên trong vùng giải phóng.
Một tuần sau khi chúng tôi dọn vào một cái nhà xinh đẹp ở số 8 Regal Lane vùng Regent Park, nhà của một sĩ quan không quân người Anh đang làm việc tại toà đại sứ Anh ở Washington, chồng tôi dẫn Lance ghi tên để Lance đi học lớp ba ở American School of London. Một đêm, tôi chiêm bao thấy Rob và Bill tới nhà hỏi tôi có chịu ra toà làm chứng khi Bộ tư pháp truy tố Trương Đình Hùng không? Sáng thức dậy, tôi kể cho John nghe; anh cười tôi, vì tôi làm gián điệp từ ban ngày cho đến giấc ngủ.
Một tuần sau. Bill Fleshman và Rob Hall đến gõ cửa nhà tôi. Vừa thấy Bill, tôi nói:
- Anh đừng có nói với tôi là người ta muốn bắt David Trường” (tên Mỹ của Trương Đình Hùng).
Tôi mở cửa, không chào hai người.
Cả hai cùng sửng sốt.
- Trời ơi, tôi thức hết nửa đêm để lựa lời tới đây nói chuyện với bà. Bà làm cho công việc của tôi dễ dàng quá! Tôi tới đây chính là với sứ mạng đó.
Chúng tôi mời Rob và Bill vào nhà. Tôi chưa muốn nghe hung tin này, nên chần chờ làm cafe. Khi mọi người ai nấy đã có ly café của mình rồi, thì Bill tằng hắng, bắt đầu cho biết là Bộ tư pháp gởi hai anh cùng hai luật sư của CIA và Bộ tư pháp tới gặp tôi, nói rõ cho tôi biết họ cần tôi hợp tác trong việc truy tố Trương Đình Hùng và Ronald Louis Humphrey, nhân viên cơ quan USIA.
Cuộc gặp gỡ chỉ kéo dài không hơn 20 phút. Rob và Hill hẹn sẽ gặp lại chiều đó ở một cái nhà bí mật của CIA; khi đó tôi sẽ gặp hai người luật sư của CIA và FBI. Tôi muốn có thì giờ để suy nghĩ và chuẩn bị tinh thần, nên tôi dời lại đến sáng hôm sau. Bill đồng ý.
Đêm đó tôi thao thức đến 2 giờ sáng. Sự lựa chọn nó lớn hơn tôi bằng nhiều hình thức. Nó không giản dị nnhư đứng giữa thiện và ác, giữa tự do và cộng sản, hay giữa thuỷ chung và phản bội. Tôi biết, nếu tôi hợp tác với Bộ tư pháp thì từ đây về sau bí mật về tôi sĩ bật mí. Nhưng điều tôi lo nhứt, là an ninh của ba con ruột thịt của tôi ở bên nhà. Ba tôi và anh Khôi ở trong tay của Cộng sản. Rồi chuyện gì sẽ xảy ra cho họ? Teằn trọc hoài cái gối nóng hổi, tôi trở nó không biết bao nhiêu lần nhưng không ngủ được. Sợ ngày mai không đủ sức đi họp, tôi uống thuốc ngủ, nằm chờ giấc ngủ, mà cũng không biết nên làm được gì đây.
Sáng hôm sau, chúng tôi tới căn nhà bí mật của CIA có tên là Reeve House, như những villa xinh xắn có tên. Chúng tôi được giới thiệu với luật sư Tony Lapham, cố vấn luật pháp cho CIA, ông John Martin, luật sư của Bộ tư pháp. Tới giờ này tôi mới biết giới luật sư thường hay nhiều lời. Hai ông nói vòng vo, chung quy cho tôi biết là Bộ tư pháp cần sự hợp tác của tôi. Ông Tony Lapham nói câu thòng để tôi hiểu ý của CIA, là mọi quốc gia ở trong tay tôi; họ không bắt buộc tôi. Nhưng ông John Martin của Bộ tư pháp lại cho tôi biết rằng, không có tôi làm chứng thì họ không thể đưa hai tên phạm tội này ra toà được.
Làm sao mà tôi quyết định tại chỗ được dù tôi biết bốn người này nóng lòng chờ tôi quyết định. Hai người luật sư cho biết, họ chỉ ở Luân Đôn hai ngày nữa thôi. Tôi nghĩ đây là mánh lới của hai người, muốn dồn tôi vào ngõ bí, để vội trả lời mà không kịp suy nghĩ. Họ nóng như lửa, nhưng tôi nguội như tro tàn. Chuyện họ công tác ở Luân Đôn hai ngày nữa hay một tháng nữa, không phải là vấn đề của tôi. Tôi cáo từ và hẹn hôm sau gặp lại.
Hồi nhỏ, mỗi lần gặp khó khăn, tôi thường hỏi ý kiến của ông ngoại. Ông tôi hay trả lời:
- Làm sao mà lương tâm cho phép thì làm.
Sau khi rời Reeve House. John đưa tôi đi ăn trưa trong toà đại sứ Mỹ. Đó cũng là nơi anh làm việc. Tôi hỏi John tôi nên làm gì, nên hay không nên ra toà làm chứng cho Bộ tư pháp. John cố làm cho tôi vui với giọng nói nửa đùa nửa nghiêm nghị:
- Cô ơi, phải sống với sự quyết định của cô cho tới già. Vì vậy, nếu để anh quyết định giùm thì không công bằng. Những hãy nhớ, em đi đến quyết định nào thì chồng của em cũng ủng hộ em 100%.
Tôi nhìn John mà không cười nổi.
Nhớ có một lần hồi còn ở Mỹ, Bill Heshman có hỏi, nếu phải đưa Trương Đình Hùng ra toà, tôi có dám đứng ra làm chứng không?
Tôi trả lời gọn lỏn:
- Không, nhất định là không.
Phải chi bây giờ tôi cũng có thể trả lời bốn người này như vậy thì dễ quá. Nếu tôi không hợp tác để đưa Trương Đình Hùng ra toà, tôi còn triển vọng gặp lại ba tôi sau này, và có thể một ngày không xa má tôi sẽ được gặp lại anh Khôi; hơn nữa, thằng Cộng sản gian ác cũng không biết gì đến việc tôi muốn tiếu diệt chế độ cộng sản.
Lại một đêm trằn trọc, tôi trở cái gối không biết mấy chục lần. Sợ đánh thức John nên tôi lén qua nằm chung giường với Lance. Nếu ngày mới tôi trả lời với họ là “Không, nhứt định không”, thì hai người gián điệp này có thể tiếp tục làm nguy hại cho an ninh quốc gia của nước Mỹ. Những người hoạt động cho CIA ở hải ngoại sẽ bị lộ diện. Riêng những điệp viên của CIA ở Việt Nam trong thời chiến còn bị kẹt lại Việt Nam sau 1975, họ bị bắt, bị tra khảo, đánh đập tàn nhẫn. Tôi rừng mình khi nghĩ điều này. Ronald Humphrey đã cung cấp cho Cộng sản Hà Nội danh sách của những người này qua tài liệu mà Trương Đình Hùng đã đưa cho tôi và đã được FBI chặn lại. Luật sư của Bộ tư pháp đã lặp đi lặp lại cho tôi biết, chỉ có tôi làm chứng. Trương Đình Hùng là người trao cho tôi những hồ sơ tối mật thì hai người gián điệp mới bị kết án; còn nếu tôi từ chối thì hai người không có tội vạ gì hết.
Biết được trách nhiệm của mình nặng nề như vậy, liệu tôi có thể trốn được bổn phận được không? Lớn lên trong một gia đình mà người lớn ai cũng biết làm người, ai cũng có trách nhiệm, ai cũng làm tròn bổn phận: bổn phận với đất nước, với dân tộc, với gia đình, với người chung quanh; tôi không biết hành động gì khác hơn những tâm gương sáng đó. Đến khi đi lấy chồng, lại gặp người đàn ông có trách nhiệm; anh làm tròn bổn phận công dsân, bổn phận làm chồng, làm con, làm cha.
Tôi quyết định là sẽ hợp tác với Bộ tư pháp cho tới cùng, nhưng nhứt thời, tôi không cho chồng tôi, FBI, và CIA biết quyết định này. Tôi cần thêm thì giờ, chớ không thể nào trả lời dứt khoát với Bộ tư pháp bây giờ được. Không phải cần thì giờ để suy nghĩ, mà cần thì giờ để hoạt động. Tôi cần gặp ba tôi một lần nữa để hỏi ba tôi, có khi nào ông nghĩ tới việc hưu trí, rời Việt Nam, tìm một nơi dưỡng già với má tôi? Tôi muốn tranh luâhn lần nữa, tìm cách cho gia đình tôi đoàn tụ. Con anh Khôi, tôi phải biết anh Khôi có được an toàn không, một khi cả thế giới biết em của anh là gián điệp của CIA. Nếu anh sẽ bị liên luỵ, thì tôi phải tìm cách đưa anh ra khỏi Việt Nam trước đó.
Tôi gặp ông John Martin hôm sau, tha thiết nói cho ông biết nguyện vọng của tôi là gặp ba tôi một lần nữa; hay ít cho anh Khôi trốn qua Mỹ đã, sau đó tôi sẽ sẵn sàng ra làm chứng. Tôi nghĩ, dù sao ba tôi cũng sẽ không gặp khó khăn, vì ông được sự tin tưởng từ cấp trên xuống cấp dưới; ông còn là người hữu dụng của đảng: có thể ông không bị liên luỵ vì tôi. Phần anh Khôi, tôi phải bảo vệ anh tới cùng.
Cuối cùng, tôi quyết định cho FBI và CIA biết nguyện vọng của tôi: cứu ba tôi và anh tôi trước khi bắt Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey. Họ gởi điện văn về Washington báo tin mừng này, nhưng họ cho đó là “điều kiện” chớ không phải là sự hợp tác. Riêng đối với tôi, họ muốn dùng danh từ gì cũng được; tôi không quan tâm và cũng không giận họ. Tôi là người đã đòi hỏi họ phải có bổn phận “quét dọn sạch sẽ sân sau nhà”. Bây giờ họ lại than phiền là tôi đặt điều kiện để gây khó khăn cho họ. Tôi nhớ câu danh ngôn ông ngoại bắt chúng tôi thuộc lòng: “Đường đi khó, không phải khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Để giữ cho ba tôi và anh tôi an toàn, giờ phút này không có núi nào mà tôi không dám trèo, cũng không có một sông nào mà tôi không dám qua.
Tôi không ra điều kiện nào với FBI, nhưng tôi cần sự yểm trợ của họ, để ba và anh tôi được an toàn thôi. Tôi yêu cầu CIA hãy tìm cách gởi tiền về Việt Nam cho anh Khôi tìm đường vượt biên. Khi FBI đồng ý, thì CIA giành phần đó, bởi vì khi anh Khôi đào thoát được, họ sẽ khai thác anh Khôi. Một sĩ quan tên lửa, một người cựu sinh viên du học ở Liên Xô, khó khăn bao nhiêu để cũng giúp anh đào thoát, CIA cũng hỗ trợ, để sau này khai thác nguồn tin đó. Bây giờ tới phiên tôi bối rối, vì không biết gởi tiền cho anh Khôi bằng cách nào đây? CIA cho biết, vì Sài gòn mới mất, đường đây liên lạc với Việt Nam bị gián đoạn hết, người của họ bị kẹt mà họ còn không tìm được, thì vấn đề này họ chi trông cậy vào tôi thôi.
FBI và CIA gởi điện văn cho Bộ trưởng Bộ tư pháp, ông Martin Bell, và ông giám đốc của CIA là ông Stanfield Turner về diễn tiến này.
Tuần trước, anh Huỳnh Trung Đồng có nói là anh sẽ đi công tác Sài gòn trong vòng một hai tuần. Vì thế, anh cứ gọi hối thúc tôi đem gói đồ của Trương Đình Hùng nhờ tôi đem qua chỗ anh, để lâu sẽ “mất thời gian tính”.
Gói tài liệu còn giữ lại tại Bộ tư pháp, sau khi họ được phép mở tất cả những bao thơ của Hùng đưa cho tôi. Tôi không biết và cũng không muốn biết trong đó có những tài liệu gì, chỉ biết đó là những tài liệu tối mặt của Chánh phủ Mỹ mà thôi.
FBI ở Washington chuyển gói tài liệu của Hùng đưa cho tôi, trè những tài liệu có tên tuổi những gián điệp Việt Nam của CIA còn kẹt lại Việt Nam, và gián điệp của CIA hoạt động ở hải ngoại.
Rob yêu cầu chồng con tôi tháp tùng với tôi đi Paris kỳ này để che giấu hoạt động tình báo, làm như chúng tôi là một gia đình làm ăn bình thường, chồng con rảnh rang đi xem viện bảo tàng của Paris.
Sau khi John, tôi và Lance ăn điểm tâm, chúng tôi chia tay hẹn nhau trưa đó hai cha con đi xem Louvre, còn tôi thì vào đại sứ Hà Nội để gặp đại sứ Võ Văn Sung, nhờ ông thuyết chánh phủ của ông cho ba tôi qua Luân Đôn thăm má tôi, vì bà đau nặng. Đại sứ Võ Văn Sung hứa là sẽ chuyển tin về cho người cao nhứt trong chính quyền Hà Nội. Tôi rời toà đại sứ với hy vọng tràn trề.
Trở về khách sạn, người concierge đưa cho tôi cái note. Thì ra Phan Thanh Nam cần gặp tôi gấp. Lên phòng thì John và Lance đi chơi chưa về, tôi vội viết giấy để lại cho hai cha con biết, tôi phải đi gặp Phan Thanh Nam.
Phan Thanh Nam cần gặp tôi gấp, là muốn nhờ tôi đưa thơ về cho Trương Đình Hùng.

Ngoài bao thơ, Nam chỉ ghi một chữ “Tâm”, một tên giả khác, như những lần ông đi ghi trên bao thơ trao cho Hùng. Sau khi tôi cho Nam biết tôi sề về Luân Đôn trước khi về Mỹ, thì Nam lấy thơ lại, xe bỏ bao thơ, đề địa chỉ của một người đàn bà Mỹ ở đường S tại Washington. Tôi nhìn qua địa chỉ này, rồi cho Nam biết tôi rành vùng đó, tôi có thể đem thơ đưa cho người đàn bà đó, nhưng Nam giựt mình và nói rằng:
- Cháu dán con tem Mỹ rồi bỏ vô thùng thơ giùm cho là xong.
- Bà ta có biết sẽ làm gì khi nhận được thơ này không?
Ông gật đầu. Tôi lại nói:
- Cháu đoán thơ này lá thơ quan trọng.
- Thơ nào của chú cũng quan trọng hết.
Tôi nói để dò xét ông:
- Nếu vậy để cháu trao tận tay bà cho chú?
- Không, không! Đừng làm vậy!
Ông nói mà nhìn tôi như muốn lấy lại cái bao thơ:
- Theo chú, cháu không cần trao tận tay bà, chỉ cần dán tem rồi bỏ vô thùng thơ là được rồi.
Mấy giây sau như đã qua cơn khích động, Phan Thanh Nam giải thích:
- Cháu không nên gặp cô này. Cháu đừng hỏi tại sao, nhưng chú có lý do của chú.
Vừa nói ông vừa nhìn cái bóp mà tôi vừa mới cất lá thơ vô, như có ý muốn lấy lại.
Một sự im lặng khó thở trong căn phòng rộng, trong đó chỉ tôi và Phan Thanh Nam. Trên vách tường, “Bác Hồ” nhìn tôi.
- Chiến tranh tại trên đất nước mình là chiến tranh gì hả chú Nam? - Tôi hỏi.
Chiến tranh đã chấm dứt rồi Mỹ Dung à. Bây giờ là đến giai đoạn xây dựng lại đất nước. Những người như cháu là tài sản của tổ quốc.
- Cháu sẽ cố gắng hết lòng.
Tôi nói mà sợ con thằn lằn trên vách nó nghe, nó xấu hổ. Nam tiễn tôi ra cửa, chúng tôi bắt tay từ giã. Khi cánh cổng gỗ khép lại, tôi vội bước nhanh ra cửa.

***

Thời gian ở Paris, tôi luôn luôn nghĩ đến cách nào gởi tiền ở anh Khôi vượt biên. Lúc đầu, khi CIA hỏi cần chẳng bao nhiêu để vượt biên, tôi nói nhiều lắm là 3.000 dollars, đó là trường hợp có vai ba chuyến vượt biên bị bể. CIA thì nói họ nghĩ anh Khôi cần nhiều tiền hơn để hối lộ chính quyền; họ ra lịnh gởi 10.000 dollars. Tôi cãi lại: nếu được nhiều tiền quá, anh Khôi mua hết công an tại Việt Nam, chớ anh không đi nữa vì anh thương ba tôi lắm.
Nhưng CIA thắng, và họ cho biết họ sẽ đưa 10.000 dollars. Bổn phận của tôi là tìm cách gởi về cho anh. Vậy mà hồi con ở Việt Nam, từ Việt Cộng tới Quốc gia, nhiều người cho rằng CIA đi trên nước, bước trên mây; từ trên máy bay phi công Air America của CIA nhìn xuống biết được con rắn đực hay rắn cái nữa mà! Mà thôi, Việt Nam của tôi có biết bao nhiêu chuyện hoang đường. Biết vậy cho nên khi lớn lên tôi không tin những gì qua “nghe nói”. Trong thực tế, đây là Paris, đây là vấn đề sanh tử của anh tôi, thì nó là bổn phận của tôi, chớ không phải của CIA.
Khi Rob tới khách sạn tối đó để gặp chúng tôi, tôi ngồi xuống về ra một khuôn hình 8x10, dầy 1 inch. Tôi trình bày với Rob và John là khuôn hình làm bằng gỗ đẹp, cưa làm đôi theo bề đọc; cưa xong khoét để vừa đúng 100 tờ giấy 100 dollars, trong giấy nylon, sau đó dán kín lại, mà không thấy đường nào trên bốn bề của khuôn hình. Sau đó dán một bên hình của ba, bên nọ hình của má. Xong đâu đó, phết lên chừng mười lớp vernis, vừa bóng, vừa chắc khuôn hình. Khi anh Khôi nhận được khuôn hình, thể nào anh cũng rủa con em vô duyên: tại sao khuôn hình như vậy, vì chưng lên, thấy hình ba thì không thấy hình mà. Rồi lậy trời cho anh lanh trí như con em của anh, biết cái khuôn hình này ngụ ý gì. Tôi sẽ nói với anh Huỳnh Trung Đồng: đây cũng là ngụ ý sự ngăn cách của ba má.
Trước khi gởi hình đi đóng khung và giấu tiền bên trong, CIA yêu cầu tôi viết cho anh Khôi một câu ngắn: “Hãy trốn khỏi Việt Nam ngay.
Trước khi vợ chồng tôi rời Paris về Luân Đôn, tôi ghé qua trụ sở Hội Việt kiều yêu nước giao cho anh Đồng khuôn hình của má tôi gởi tặng anh Khôi, một bộ pyjama má tôi may và 4 chai thuốc bổ cho ba tôi.
Đó là lần cuối cùng CIA và tôi liên lạc với anh Khôi. Ba năm sau đó chúng tôi cũng không biết anh Khôi có lanh trí mà tìm ra số tiền trong cái khuôn hình đó không? Nhưng một hôm, má tôi được thơ từ Paris gởi qua, tên người gởi là Xuân Mai. Xuân Mai là người con gái yêu anh hỏi hai người trên dưới 16 tuổi. Khôi giả dạng là chị Xuân Mai. Chị viết: “Cảm ơn em đã gởì chị khuôn hình đẹp, nhưng lỡ tay, chị đã làm nó bể làm đôi.
Tôi mừng không thể tả, những tức mình là, tại sao có một số tiền khổng lồ trong thời buổi đó mà không trốn! Cho tới 11 năm sau, năm 1986, gia đình tôi mới được gặp lại anh Khôi sau 32 năm xa cách.

***

Mùa thu tới, nhưng chúng tôi vẫn chưa được tin tức gì vì việc ba tôi được phép qua Luân Đôn thăm má tôi. May mắn là tôi còn bận dãn Lance ghi tên nhập học vào ngày 8 tháng 9. Chỉ hai ngày sau, thì FBI và CIA gọi tôi về Washington. D.C, để hội họp với Bộ tư pháp, chuẩn bị cho cuộc ra toà sau khi FBI bắt Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey. John phải thay đổi giờ làm việc để đưa rước Lance từ nhà tới trường, tội nghiệp thằng con tôi, ngày tưuh trường lo sợ, hồi hộp chưa dứt, thì mẹ vắng nhà; hai tuần lễ, hai cha con đi ăn nhà hàng đủ hai tuần. Nhưng cũng nhờ dịp này mà Lance học cách thức cẫm nĩa, cầm dao cho lịch sự. Khi tôi về, Lance kể lại là Lance nợ ba nó 2 dollars, vì cứ mới lần làm rớt khăn ăn xuống đất thì bị phạt 10 cents. Cuối cùng thằng nhỏ biết khôn, nên ngồi trên nửa cái khăn suốt bữa ăn, thì khăn không rớt xuống đất nữa.

Trong những cuộc hội họp, bàn thảo với CIA và FBI, chúng tôi đi đến quyết định phải cho má tôi biết sự thật, là khi tôi làm cho FBI, tôi làm nhiều việc khác, ngoài việc thông dịch thơ từ cho họ. Tôi đã nghĩ đến vấn đề này từ lâu, bởi vì má tôi đẻ tôi ra, má tôi nuôi tôi, má tôi đùm bọc, che chở tôi, từ mới lọt lòng, làm sao mà má tôi không nghi ngờ việc làm của tôi. Những bà không hỏi, thì tôi không nói.
Từ Washington. D.C, bay xuống Atlanta chỉ mất khoảng hơn hai tiếng đồng hồ, những cầm giấy đừng chờ lên máy bay mà ngao ngán không muốn đi, vì ngại núi e sông. Ngại núi, vì phải gan dạ lắm để nói hết sự thật với má tôi. E sông, vì e rằng sự việc làm cho má tôi buồn, má tôi lo sợ cho sự an toàn của ba tôi. Éo le thay, một bà già tỵ nạn Cộng sản lại lo lắng cho an ninh của người chồng là đảng viên cao cấp của cộng sản. Nhưng chúng tôi biết, má tôi không có lo sợ vẩn vơ. Mối lo sợ của má tôi có tên, có tuổi, có lịch sử, có bằng chứng trong sách vở của đảng cộng sản Việt Nam: một khi họ không tin tưởng người của họ, thì họ thủ tiêu.

Khi tôi và má tôi vừa tới nhà ở Luân Đôn, chưa kịp mở va-li, thì nhận được điện thoại của đại sứ Võ Văn Sung. Ông ân cần cho biết, Hà Nội đã trả lời là họ cho ba tôi tới Paris, rồi má bay qua thăm ba tôi, chớ họ không cho ba tôi sang Luân Đôn. Ông hỏi chúng tôi có khả năng đưa má qua Paris không? Ông chỉ là người đưa tin, nên tôi không có phép trách móc ông, nhưng ước sức tôi muốn nói: “Chỉ có Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới có việc người đau đi gặp người mạnh để được thăm hỏi”. Nhưng tôi cắn răng không dám nặng lời, chỉ nói cho biết là tôi phải hỏi bác sĩ của má tôi, xem bà có đủ sức đi xa vậy không? Trước khi dứt cuộc điện đàm, đại sứ Võ Văn Sung rất tử tế với tôi, khi ông nảy ra một ý kiến rất hay: ông khuyên tôi nên viết thơ cho Bộ ngoại giao Hà Nội, kèm theo một cái thơ của bác sĩ cho biết má tôi không thể bay qua Paris.
Tôi trân quý lời chỉ dẫn của đại sứ Võ Văn Sung, nhưng viết thơ cho Bộ ngoại giao Hà Nội là chuyện đại sự. Rồi đây, mười tám cái tai, 200 con mắt sẽ biết, sẽ nghe chuyện của đồng chí Đặng Văn Quang rồi đồng chí này phê bình, đồng chí kia soi mói, thì phiền cho ba tôi lắm. Lại tới phiên tôi bảo vệ ba tôi. Thay vì, viết cho Bộ ngoại giao, sao tôi không viết thơ cho bạn chí thân, cho đồng chí của ba tôi, lại là người lớn nhứt nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam lúc bấy giờ.
Đêm đó, chờ cho mọi người ăn giấc, nhón gót trở xuống nhà dưới, tôi viết thơ. Thơ viết bằng viết mực trên giấy pelure.

“Kính gởi bác Lê Duẩn, bác Nguyễn Cơ Thạch và ba kính yêu,
Sức khoẻ của má cháu càng ngày càng tệ vì thận bị nhiếm trùng như cháu đã cho ba cháu hay trong thơ trước. Cháu đã thức nhiều đêm suy nghĩ và rất lo rằng rủi ba cháu qua gặp má cháu quá trễ thì làm sao đây?
Cháu mong rằng những ngày cuối đời của má cháu phải là những ngày đẹp nhứt trong đoạn đời này của bà, có nghĩa là má cháu được ở cạnh ba của cháu. Cháu mong hai bác tạo cơ hội cho ba cháu gặp má cháu càng sớm càng tốt.
Thưa ba, kể từ ngày ba cưới má con cho đến ngày ba tập kết ra Hà Nội năm 1954, chắc ba cũng nhớ là má con không bao giờ hỏi một điều gì ngoài khả năng của ba. Nhưng lần này, thây mặt má con, con xin cấp trên của ba một đặc ân. Trong thâm tâm, con tin tưởng rằng má con xứng đáng được gần ba và anh Khôi.
Ba với bác Ba Duẩn đã cùng nhau có những hy vọng lẫn thất vọng, cùng ước mơ cho đất nước thanh bình, cùng đau buồn vì những giấc mộng lớn cho dân tộc không thành: cũng như hai vị đã sát cánh nhau trong những thắng năm đên tôi nhứt của đất nước, rồi cũng cùng nhau vui mừng trong thắng lợi vẻ vang. Từ đáy lòng cháu, cháu tin rằng bác Ba sẽ không từ chối người bạn chí thân về gia đình của một đồng chí, đông tâm một khi bác biết được tình cảnh của gia đình này và vì vậy mà cháu viết thơ này cho bác.
Thưa ba,
Con gởi thơ này cho hai bác và cho ba mỗi người một bản. Con mong sẽ được gặp ba thật sớm. Chúng con đã chuẩn bị tiền vé máy bay khứ hồi cho ba. Xin cho con biết con gởi tiền mua vé máy bay về đâu.
Con gái của ba.
Đặng Mỹ Dung”

Tôi suy nghĩ rất kỹ, không nhờ anh Đồng chuyển thơ này vô Hà Nội, vì anh Đồng không dám “làm phiền” các ông lớn. Tôi không nhờ đại sứ Võ Văn Sung, vì đại sứ đã khuyên tôi viết thơ cho Bộ ngoại giao; tôi không nghĩ đó là thượng sách. Tôi không dám nhờ ông chuyển thơ, vì tôi làm trái với nghi thức của Bộ ngoại giao. Mà nghĩ cho cũng, tôi làm trái nghi thức của cả cái đảng và cái nhóm Cộng hoà xã hội chủ nghĩa rồi.
Tôi quyết định gởi thơ đó qua New York, kèm theo một cái thứ ngắn mà tôi viết cho đại sứ Thi, cảm ơn ông và nhờ ông chuyển thơ về Hà Nội hộ chúng tôi, với nguyện vọng của má, là được thấy mặt anh Khôi.
Sau đó, ngày 13 tháng 11, tôi được thp của anh Huỳnh Trung Đồng báo cho biết anh vừa công tác ở Sài gòn vê. Anh có đến thăm ba tôi, nhưng ông không có tin tức gì từ Hà Nội về chuyến đi thăm má tôi ở Luân Đôn. Anh nhỏ nhẹ khuyên tôi nên nhớ là trong lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam, chưa có ai đi ra ngoại quốc thăm vợ con. Anh viết:
“Thơ của má cô đã tới tay người tối cao trong đảng rồi. Dĩ nhiên, sự quyết định là do chủ tịch nhà nước và ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Theo tôi hiểu thì nhà nước cho phép má cô về Việt Nam và bác có thể ở đó bao lâu cũng được”.
Đọc xong thớ anh Đồng, má tôi hứ một cái rồi nói:
- Tao không có bước chân về Việt Nam, một khi Cộng sản còn. Đừng có nghĩ tới chuyện chôn tao bên bà may như tụi con tính, hồi đó tới giờ. - Má tôi giận hậm hực.
Thơ anh Đồng tiếp:
“… bây giờ thì những người có trách nhiệm đang bàn tính về chuyến đi của ba cô. Trong thơ, tôi được nói có bấy nhiêu thôi, mong cô hiểu cho tôi. Ba của cô lo lắng về bịnh tình của má cô lắm. Cô cũng nên biết rằng, nếu ba cô thăm mà cô được, thì bác chỉ đi một mình mà không có anh Khôi cùng đi. Nhứt định là đảng và nhà nước không cho phép rồi. Tôi phải nói trước với cô, ba cô biết luật lệ của đảng, chỉ ngại là cô và má cô không hiểu luật, rồi buồn ba cô; bác lo ngại về vấn đề này lắm cô Dung à…”

***

Đời sống ở Luân Đôn của những gia đình người Mỹ làm trong toà đại sứ Mỹ như một cuộc du lịch nước Anh dài hạn. Gia đình tôi thì cứ bị hai cái bóng ma FBI và CIA đi tới đi lui làm bất an. Giữa tháng 11 thì Rob và Bill trở lại Luân Đôn gặp chúng tôi. Kỳ này họ không có mục đích rõ ràng, nên khi hai người bất ngờ tới gõ cửa, mở cửa ra, không chào hỏi, tôi cười chua chát nói:
- Tôi không có chỗ nào trốn hết, bởi vì một là Liên Xô hai là Mỹ quốc.
Bill cười gượng như anh bị tôi nói trúng tim đen.
Trong chuyến đi này, hai ông không có việc gì làm, vì tất cả đứng khựng lại để chờ tin từ Hà Nội. Họ đi chơi, đi ăn, đi nhậu, đi xem thắng cảnh, mua sắm quà Giáng Sinh cho vợ con, cho ngày giờ qua mau. Chúng tôi cùng nhau đi ăn vài lần, rồi hai người trở về Washington tay không.
Rồi việc gì tới phải tới. Mọi buổi sáng, tôi được cú điện thoại của đại sứ Võ Văn Sung, gọi tôi từ Paris, kêu tôi liên lạc với toà đại sứ Cộng sản Việt Nam tại Luân Đôn.
Đã nhiều lần Rob dặn tôi, khi nào bắt liên lạc với một đảng viên mới của Cộng sản Hà Nội, tôi phải báo trước cho anh biết. Nhưng sáng đó, tôi chỉ có số điện thoại để gọi Rob khi khẩn cấp; mà gọi điện thoại cho toà đại sứ cộng sản Việt Nam đâu phải là trường hợp khẩn cấp, nên tôi không báo tin cho Rob hay trước, tự tiện gọi thẳng tới toà đại sứ Việt Nam ở đường Victoria.
Chắc nhân viên trong toà đại sứ này nhàn nhã lắm. Vừa mới nghe tên Mỹ Dung thì người đàn ông trả lời điện thoại biết ngay tôi là ai và tôi gọi có việc gì. Ông mới tôi đến văn phòng của ông để nói đến “vấn đề khá quan trọng này”.
Tại toà đại sứ, người đàn ông tiếp tôi trong điện thoại cũng là người đón tôi tại cửa, ông tên là Lại Xuân Chiểu, một “sĩ quan thông tin”. Bắt tay ông mà tôi không giữ được nụ cười, khi nhìn ông và so sánh ông với cái tên cải lương của ông.
Ông Lại Xuân Chiểu cho tôi biết là ông đã nhận được điện văn từ Hà Nội về việc ba tôi sẽ qua London thăm má tôi sau công vụ ở Moscow. Tôi không dám thổ lộ sự mừng rỡ vô hạn, cũng như thất vọng, vì ông không có nhắc đến tên anh Khôi.
- Cơ quan của chúng tôi rất hồ hởi được giúp đỡ gia đình chị theo khả năng của anh em chúng tôi.
Rồi ông nhìn thẳng vào mắt tôi, hỏi:
- Chị sẽ trả tiền vé máy bay cho chuyến đi của đồng chí Minh bao nhiêu? Có thể, chị cũng nên biết trước, Chánh phủ sẽ không thể trả tiền vé máy bay.
- Có thể có một sự hiểu lầm lớn. Tôi chỉ yêu cầu ông chủ tịch nhà nước và ông bộ trưởng Bộ ngoại giao khuyến khích ba tôi đi, và cho phép ba tôi đi. Tôi không có xin nhà nước trả tiền cho chuyến đi của ba tôi. Đây li xin phép, chớ tôi không có xin lòng từ thiện của các ông ấy.
- Thế thì chúng ta không có vấn đề gì… vì chúng tôi không phải lo đến vấn đề tiền bạc. - Lại Xuân Chiểu nói.
- Tôi cũng nghĩ, chúng ta không có vấn đề gì lo lắng. - Tôi lặp lại câu nói của anh ta mà giận trong bụng.
- Tôi xin báo với chị là sứ quán của chúng tôi đây sẽ tiếp đốn, phục vụ đồng chí Minh khi ông đến London. - Lại Xuân Chiểu trịnh trọng nói.
- Anh Chiểu, cảm ơn sự rộng rãi của anh, nhưng vợ chồng tôi sẽ tiếp đón, lo hết cho ba tôi. Chúng tôi muốn xử sự như đây là chuyện gia đình. - Tôi nói.
- Chị không hiểu, sự an ninh của đồng chí Minh tại Luân Đôn là trách nhiệm của chúng tôi. Chúng tôi đã được lệnh giúp đỡ gia đình chị mọi điều. Về tiền về máy bay của ba chị, thì tính thế nào đây?
Tôi muốn hỏi anh ta: “hỏi gì mà hỏi lãng xẹt vậy”, nhưng tôi uốn lưới bảy lần rồi trả lời:
- Tiền thì tôi có sẵn sàng.
- Chúng tôi biết cách mua về máy bay rẻ nhứt!
Vẻ mặt của đồng chí Lại Xuân Chiểu thay đổi từ một cán bộ cộng sản nghiêm chỉnh thành một anh mua bán dollar vụng về.
- Tôi không nên làm phiền anh trong việc nhỏ nhặt này. Tôi đã hỏi qua tiền vé máy bay với hãng Acroflot. Chừng 900 pounds đi từ Moscow tới Luân Đôn. Tôi có thể mua vé từ đây, rồi ba tôi lấy về từ Moscow, khi ba tôi tới đó.
Chiểu không chịu thua:
- Chị đưa tiền cho tôi, tốt nhứt là dollar Mỹ. Tôi sẽ báo cho Bộ ngoại giao, và bên ấy có người mua vé máy bay tại Hà Nội, trả bằng tiền Việt Nam. Làm như thế, chúng ta không mất một đồng ngoại tệ nào.
Nghe anh nói, tôi mắc cỡ cho một đại diện của cái chánh phủ mà ba tôi phục vụ, đứng đây kèn cựa với tôi về lãi lời vài ba trăm dollar cho đảng của họ. Tôi muốn chấm dứt cuộc gặp gỡ này ngay đó, nên tôi đáp:
- Sao cũng được, thưa anh.
Vậy mà trước khi ra khỏi cửa, cán bộ Lại Xuân Chiểu còn nói với thêm:
- Chị đem dollar Mỹ, chị nhé!
Tuần sau, tôi gọi cán bộ Lại Xuân Chiểu, cho hay tôi sẽ đem tiền đến cho ông. Tôi có đủ 2.000 dollas Mỹ, nhưng tôi đi theo John ra toà đại sứ Mỹ đổi ra tiền Bảng Anh của Anh quốc. John hỏi tôi làm chi cho mất thì giờ vậy? Tôi làm cho bõ ghét, vì không muốn Việt Cộng bên nhà mua bán dollar một cách ha tiện như vậy. Dĩ nhiên, cán bộ Lại Xuân Chiểu nhận số tiền đó với vẻ thất vọng, nhưng không nói lời nào.

***

Vào thời gian này thì Rob và Bill đã trở về Washington, nên tôi viết thơ báo tin cho họ biết mọi việc được sắp xếp theo chương trình; bây giờ chỉ chờ đợi biết ngày nào ba tôi tới Moscow thôi. Tôi cũng có viết thêm cho Rob và Bill, nhờ hai anh đến gặp tận mặt ông Griffin Bell, xin với ông làm mọi thủ tục dễ dàng để sẵn sàng rước ba tôi sang Mỹ cư ngụ, trong trường hợp má tôi và con cái thuyết phục được ba tôi hưu trí, ở lại dưỡng già với vợ con. CIA cho biết là họ sẽ có máy bay sẵn sàng đưa ba tôi qua Mỹ khi ba tôi bằng lòng.

Suốt đời, tôi muốn ba má tôi được sống trong một mái nhà, như ông ngoại bà ngoại của tôi ngày xưa ở với nhau đến đầu bạc, răng long, như cha mẹ của bạn bè tôi, như người bình thường. Mấy tuần nay, mọi sắp đặt được diễn tiến nhanh chóng và gần như việc gì cũng theo ý muốn của tôi, cho nên tôi yêu đời một cách lạ thường. Tôi lên giường nằm kề bên má, rồi hai mẹ con mơ ước căn nhà nhỏ, yên tĩnh của ba má. Tôi không biết ba có chịu ở với con cái không, hay là ba chỉ muốn ở với má và Minh Tâm, đứa con mà ba chỉ biết mặt khi nó vừa mới ba tháng thì ba đi tập kết rồi. Chúng tôi nằm tính sắm sửa cái gì trong căn nhà đó, từ cái bàn cái ghế, cho tới cái bình trà với mấy cái chung nhỏ cho ba tôi uống trà quạu. Tôi còn nghĩ tới mùa đông phải mua cái mền điện cho ba.
Tình thương cho ba không phai đi với thời gian và không gian trong suốt hai mươi năm, chỉ sỡ mỗi người thờ phượng một lý tưởng, đó mới ngăn cách sâu hơn con sông Bến Hải. Ba tôi yêu thương hết bảy đứa con; thương mỗi đứa mỗi cách khác nhau. Anh Khôi là đứa con trai đầu lòng; anh là kết quả của những tháng năm trăng mật. Chị Kim giống tánh ba nhiều; như là, chị dễ bị xúc động, chị tế nhị, chị giầu tình cảm. Chị Cương tánh cương quyết, nói là làm, trọng kỷ luật, trong sạch, ngay thẳng, Tôi giống ba từ gương mặt tới tánh tình. Tôi nghĩ đến người chung quanh và đất nước, nhưng ba cũng biết, tôi với ba thờ hai ông trời khác nhau. Ba tôi không những thương yêu Hải Vân mà còn thán phục nó; nhưng ba cũng chưa biết nghĩ thế nào về sự chọn lựa của em khi nó trở thành phi công của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Hoà Bình được ngự trị ở một chỗ đặc biệt trong trái tim của ba tôi tưd lúc nó còn bé. Khi tôi nhắc đến Hoà Bình, mặt ba tôi rạng rỡ; lắng nghe như để biết và thấy hết đứa con yêu của ông trước mặt. Ba tôi ví tình thương của ba cho Hoà Bình như “một giòng sông dài vô tận, có bầu trời xanh, có hoa nở tươi thắm triền miên”. Ba chỉ biết Minh Tâm có ba tháng, mà ba tháng đó ba bận rộn chuẩn bị đi tập kết, khi ra Hà Nội, ba đổi tên Đặng Văn Quang thành Đặng Quang Minh. Tôi nghĩ rằng ông đổi tên như vậy với ý tạ lỗi vì ông không ở bên cạnh để dậy dỗ Minh Tâm $pageOut$pageInChương 42

Ngày 9 tháng 12, 1977 Lance lên 7 tuổi. Sáng này tôi dậy sớm, để kem lên mấy cái bánh ngọt cho Lance đem đến trường chia với bạn trong lớp. Còn tôi đâu có biết nó là vị cứu tinh của tôi trong những giờ phút rối beng này. Tôi còn dẫn Lance ra công viên Regent Park gần nhà liệng banh, thấy Frisbee, đi cầu tượt khi rỗi rảnh. Tội nghiệp má tôi: bà không tìm được một thứ tiêu khiển nào. Má tôi ngồi trong nhà may cái áo, cái khăn, nấu nồi cơm. Suốt ngày chỉ có bây nhiêu việc làm, trong khi thêu dệt tương lai với ba tôi ở một nơi nào tự do, không có bóng hình Cộng sản đe doạ. Chúng tôi chắc chắn 99% là ba tôi sẽ qua Luân Đôn, nhưng không biết chừng nào. Đó là câu hỏi mà Bộ tư pháp hỏi Bill ngày một, vì họ phải bắt Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey càng sớm càng tốt, phòng khi động tĩnh, hai tên gián điệp này chuồn đi mất.
Đại sứ Võ Văn Sung gọi cho tôi biết là ba tôi đã rời Hà Nội tối hôm qua để bay qua Moscow. John và tôi gặp Rob và Bill, cho họ hay ngay để họ chuẩn bị. Điều này chứng tỏ toà đại sứ Hà Nội tại Luân Đôn chỉ là văn phòng đại diện cho Hà Nội chớ chưa có đại sứ. Mọi tin tức quan trọng về chuyến đi của ba tôi đều được thông qua đại sứ Võ Văn Sung. Đây cũng là một chi tiết quan trọng cho CIA. Toà đại sứ chưa có đại sứ, thì vấn đề canh gác an ninh cũng chưa được hoàn hảo, nhờ vậy CIA có thể cho chuyên viên của CIA “bảo trì” toà đại sứ với những máy móc tối tân của ngành gián điệp.
Một hôm, sau khi họp xong với FBI và CIA, trên đường về nhà, tôi đi ngang tiệm Selfridge's, cửa tiệm đã chưng bày hàng hoá Giáng Sinh. Tôi sực nhớ, lễ lộc năm nào cũng là những dịp buồn im lặng trong đời tôi. Ngày chúng tôi theo ba tôi vô vùng kháng chiến, trong khu không có Tết, chỉ có mừng sinh nhẹt Hồ Chí Minh, mừng thắng trận, mừng đồng chí của ba tôi từ ngoài Bắc vô Nam mà thôi. Rồi năm 1954, ba tôi đi tập kết, hẹn “Tết ba sẽ về”. Mười chín năm sau, Tết đến rồi Tết đi, hứa hẹn rồi lỗi hẹn. Tóc của má tôi thay mầu; bướm không bay trong bụng mỗi lần tôi nghe Tết đến nữa. Mai vẫn nở. Tôi lớn lên rồi, đám con trai vẫn rủ chúng tôi ra vườn hái mai đem về lấy hên cho năm mới. Nhưng gần hai mươi năm, không có cành mai nào đem may mắn tới. Tết Mậu Thân, tôi và má tôi mua hai chậu mai để trước cửa thềm nhà, thì đem giao thừa súng nổ, đạn bay, Việt Cộng tấn công. Tôi nhớ hoài, đêm đó nắm dưới sàn mà má tôi nói: “Mình có trồng một vườn mai cũng không may mắn nổi với Việt Cộng đâu”. Lâu lắm rồi, với tôi, lẽ Tết là biểu tượng của thất vọng và phản bội.
Giáng Sinh tới, thành phố tập nập người đi mua sắm; xe taxi không có, còn xe bus thì chật cứng, nên tôi đi bộ về nhà. Nhưng đúng hơn, tôi chưa muốn về nhà, hay là không dám về nhà gặp má tôi. Biết nói gì đây, khi tôi biết trong bụng má tôi vừa mừng vừa trách, tại sao tôi đồng ý hợp tác với FBI. Làm con, tôi đâu dám ngồi xuống nói cái câu “Tự do nó có cái giá của nó”. Má tôi đã sống nhiều, đã qua biết bao nhiêu thử thách, khỏi cần nhắc, má tôi cũng biết giá trị của tự dó. Tôi đi bộ về phía nhà thờ St. Marks. Đêm nào tôi cũng cầu trời, xin Chúa cho tôi sức mạnh, cho tôi trí tuệ để vượt qua những khó khăn. Vì vậy, tôi không gì tốt bằng vô ngay nhà của Chúa cần nguyện; tôi là khách, chắc Chúa sẽ sẵn sàng giúp tôi. Bốn mươi lăm phút tôi rời nhà thờ, đi thẳng về nhà, vừa đi vừa nhớ lại đôi mắt dịu hiền của đức mẹ Maria lúc nãy trong nhà thờ nhìn tôi.
Chiều hôm đó tôi gọi “đồng chí” Lại Xuân Chiểu, cho ông biết là ba tôi sẽ rời Sài gòn sáng thứ Bảy. Ông sửng số vì tại sao tôi biết lịch trình của ba tôi trước ông. Lợi dụng lúc ông đang lúng túng, tôi cho ông biết là vợ chồng tôi sẽ ra phi trường đón ba tôi. Nhưng ông không đồng ý, nói liền:
- Không. Đó là bổn phận chúng tôi phải ra phi trường đón khách của toà đại sứ. Ngay bây giờ, chúng tôi không có phương tiện chuyên chở, nhưng chúng tôi sẽ đi mượn xe.
- Sao làm rắc rồi như vậy? Chúng tôi sẵn có xe nhà, anh để chúng tôi rước ông cụ! - Tôi nói.
Tôi không muốn làm phiền anh đồng chí ày, nhưng theo kinh nghiệm mấy tháng nay với cán bộ cộng sản, chuyện gì tôi cũng phải tranh đấu dù nhỏ nhặt, chớ không thì sẽ bị nắm đầu nắm thóp khi có đại sự. Tôi không để Lại Xuân Chiểu xỏ mũi bắt tôi theo họ “cho đúng lệ nhà nước. Bên kia đầu dây, không nghe “đồng chí” Chiểu trả lời, nhưng tôi kiên nhẫn đợi.
- Như vậy không đúng luật của chúng tôi, nhưng tôi không biết tính sao cho ổn. - Chiểu nói.
- Tôi xin hứa sẽ đưa ông đại sứ của anh về nhà an toàn. Tôi hứa khi rước ông đại sứ về tới nhà, tôi sẽ gọi cho anh hay. Nhờ anh cho tôi số điện thoại của toà đại sứ Việt Nam ở Mạc Tư Khoa đi?
Tôi đỏi sang chuyện khác thật nhanh, để ông không kèn cựa vấn đề ai rước ba tôi ở phi trường. Mắc mưu tôi, “đồng chí” Chiểu hỏi:
- Chị không có số đó sao?
- Để không mất thì giờ đi tìm, anh cho tôi số điện thoại bên đó đi, để tôi hỏi cho chắc chắn giờ chuyến bay của ba tôi.

***

Tối hôm sau, Rob và Bill lại tới nhà tôi nữa, mặc dầu hai bên là thoả thuận trước, là kể từ ngày biết ba tôi rời Sài gòn, CIA và FBI tuyệt nhiên không được lui tới nhà tôi. Sở dĩ chúng tôi đi đến quyết định đó, là vì chúng tôi tin rằng nhân viên của toà đại sứ Hà Nội tại Luân Đôn sẽ cho người thăm dò khu nhà tôi ở và có thể luôn cả nhà tôi, để giứ ăn ninh, để bảo vệ ông đại sứ của họ. Tôi cũng nói với Rob và Bill rằng, theo kinh nghiệm của tôi, các nhân viên tình báo của Việt Nam có một đặc điểm khá hơn tình báo Mỹ, là họ không bị lệ thuộc vào phép tắc và khuôn khổ. Họ chơi theo luật rừng. Khi ba tôi đến ở với chúng tôi, họ sẽ có thể chợt đến nhà tôi bất cứ lúc nào. Vì vậy, hai ông không nên lảng vảng gần nhà tôi.
Mọi người đều đồng ý như vậy, những bỗng một hôm có tiếng gõ cửa. Lance ra mở cửa, rồi kêu lớn:
- Daddy, Rob và Bill muốn gặp ba nè!
Tôi giận tái mặt, hỏi Rob:
- Nếu có người của Hà Nội đang ở đây thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Hai người nhìn nhau mà không trả lời. Sau đó ông cho biết ông không bằng lòng khi bị “cấm cửa” không được gặp tốt hàng ngày trong thời gian có nhiều chuyện quan trọng đang xảy ra. Ông muốn, hàng ngày tôi phải trực tiếp báo cáo với ông, cho tới khi ba tôi rời khỏi Luân Đôn. Tôi cho đó là một đòi hỏi hầu như không thể thức hiện được, vì tôi sẽ còn phải tiếp đãi ba tôi, mấy người trong gia đình tôi, và có thể cả những nhân viên của toà đại sứ Việt Nam nữa. Làm sao tôi có thể lén mọi người để gặp Rob mà “trực tiếp báo cáo”. Như vậy, không những có hại cho công tác mà còn nguy hiểm cho gia đình tôi nữa. Tôi đề nghị một giải pháp, là hàng ngày chồng tôi đi làm sẽ gặp hai ông Rob và Bill để tường trình mọi chuyện.
Rob cực lực phản đối ý kiến đó, viện lẽ tôi là người làm việc với ông, không phải John. Tôi biết rằng ông tha thiết mong được cùng bay về Mỹ với người đào thoát quan trọng. Tôi cho ông biết, tôi cũng mong như vậy. Nhưng ông không thể chầu chực ở nhà tôi hàng ngày, như một đứa con nít ngồi chờ ngoài cửa, mong ông già Noel trong ngày lễ Giáng Sinh. Đó là điều phi lý và ngây thơ. Nhưng Rob không phải là người để thuyết phục, khăng khăng không chịu nghe, mà con lớn tiếng với tôi.
- Rob, - tôi nói với một giọng bực mình - tôi nhường anh một mét thì anh lấn một dặm. Khi ba tôi ở đây, anh không thể tìm tôi hàng ngày được. Tôi sẽ ráng thu xếp để thông báo cho anh và Bill biết kịp thời những chuyện đang xảy ra. Anh không nên ra tối hậu thơ cho tôi. Từ giờ phút này, tôi lo hết mọi chuyện và sẵn sàng chịu mọi trách nhiệm.
Rob chửi thể, rồi lớn tiếng với tôi:
- Đây là lệnh của người chỉ huy công tác. Lệnh của tôi!
John mòi Rob ra khỏi nhà.
Rồi hai người bỏ đi dù công việc chưa giải quyết xong.
Tối hôm đó, sau cuộc tranh luận, tôi nghĩ rằng tôi đã làm việc suôn sẻ với hai người trong thời gian qua; đối với tôi không ai là cấp trên, mà ba người là đồng nghiệp. Tôi hiểu rõ địa vị của tôi và của họ. Sau khi họ bỏ đi, tôi hỏi chồng tôi:
- Sao hồi nãy anh không binh em?
- Anh kêu Rob và Bill ra khỏi nhà, suy nghĩ rồi mai nói chuyện với anh. Em đâu cần anh binh vực. Rob nó giận run, nó bị cà lăm. Em là “rồng Việt Nam”, ai ăn hiếp được mà đòi binh.
- Nếu em muốn liên lạc thẳng với xếp của hai thằng khỉ đột này ở Washington thì phải làm sao?
John đáp:
- Em phải viết “thơ trần tình” cho họ.
- Nhưng làm thế nào để gởi cho đúng người mình muốn gởi.
- Em cứ viết đi, rồi kêu hai thằng đó chuyển.
Tôi nghĩ ngợi hỏi:
- Viết thơ méc họ mà kêu họ gởi là cái gì? Họ có giấu đi không?
John trấn an tôi:
- Họ không dám đâu.
Vậy là tôi ngồi xuống, viết một “thơ trần tình”, ghi rõ là gởi hai ông Rob và Bill “để tường”, và nhờ hai ông chuyển cho đô đốc Stanfield Turnerr, giám đốc cơ quan CIA.
“Vì sắp tới là ngày ba tôi sang đây, sự căng thẳng mỗi lúc một tăng thêm đối với những người liên hệ, cả ở London lẫn Washington. Tôi hiểu rằng việc thông tin cấp thời và đầy đủ cho những nhân vật ở Washington là quan trọng. Chúng ta đều có cùng một mục đích và lợi ích chung nên cũng mong muốn chương trình của chúng ta thành công tốt đẹp. Cho tới lúc này, chúng ta có thể hãnh diện là kế hoạch và sẹ thrc hiện đã sắp đạt tới mục đích mong muốn.
Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Bộ tư pháp đã dành nhiều thời gian cho phép ba tôi, có thể có anh tôi, có cơ may được xa nước Việt Nam cộng sản. Chúng tôi cũng không quên cảm tạ Cơ quan tình báo đã hết lòng giúp đỡ và quan tâm tới những lúc dễ dàng và khó khăn trong công tác.
Thơ này có hai mục đích. Thứ nhứl về cũng quan trọng hơn hết là cám ơn tất cả những người có trách nhiệm vì đã hết sức trong công tác mới đây, đó là việc ba tôi sắp tới London. Mục đích thứ hai. xin quý vị lưu ý tới sự ép buộc của hai đại diện của của quý vị ở London đối với tôi và gia đình tôi, đó là hai ông Robert Hall và William Fleshman.
Trong buổi họp mặt tại nhà tôi ngày 10 tháng Chạp vừa qua, chúng tôi đã phải lớn tiếng với nhau khi hai ông ép tôi phải trực tiếp báo cáo hàng ngày trong thời gian ba tôi đang ở đây.
Sau khi tôi cho họ biết rằng tôi không thể bỏ ba tôi để đi báo cáo hàng ngày với họ được, thì họ nói rằng họ muốn nghe tất cả những gì ba tôi nói và phải chính tôi trình lại với họ mới được, chớ họ không muốn chồng tôi giúp tôi trong việc này. Ông Hall đã nặng lời với tôi. Ông cho biết ông không muốn nghe chồng tôi báo cáo vì có thể sai lầm do sự thông dịch. Lý do đó không xác đáng đối với tôi và cuộc tranh luận trở nên tồi tệ với những lời nói nặng nề. Xin hiểu cho rằng những ngày ba tôi mới tới rất quan trọng đối với tôi. Chồng tôi hoàn toàn có đủ khả năng thay thế tôi chuyển tin tức cho hai ông vì chúng tôi là một…”

Rồi tôi để cập tới chuyện Rob và Bill đột ngột tới nhà tôi khi chúng tôi thoả thuận rằng hai ông sẽ không nên tới nữa, viết:
“Nếu ba má tôi và con tôi đang ở nhà mà hai ông tới bất ngờ thì sẽ có thể gây nên một biến cố tai hại. Con trai tôi sẽ chạy ra cửa và sẽ nói lớn: “Ông Rob má ơi!”. Điều này sẽ làm cho người trong nhà vừa bực mình vừa ngạc nhiên. Vậy xin quý vị hãy ra lệnh cho hai ông nên bình tĩnh và kiên nhẫn. Ông Hall dùng áp lực với tôi, bình thường thì tôi chịu được và chấp nhận. Nhưng bây giờ tôi nghĩ rằng áp lực đó sẽ có phản ứng ngược.
Tôi xin các vị cao cấp cho tôi được “tự do hoạt động, đừng kiểm soát tôi nhiều quá!”.

Cuối cùng, tôi khen hai ông Roll và Bill là “những người tốt và cho tới lúc này chúng tôi vẫn là bạn”. Tôi nghĩ rằng áp lực của hai ông đối với tôi chính là áp lực mà quý vị ở Washington đòi hỏi. Vậy xin quý vị hãy kiên nhẫn và tôi đoán chắc rằng kết quả của việc làm của tôi vẫn tốt đẹp như hai năm rưỡi vừa qua. Sự tính toán sai lầm sẽ có thể làm tôi hối tiếc suốt đời. Xin quý vị hay tin tưởng ở tôi và chồng tôi như quý vị đã tin tưởng chúng tôi trong quá khứ. Câu chuyện thần tiên này có thể kết thúc tuyệt vời.

***

Nhờ số điện thoại mà Lại Xuân Chiểu đã cho, tôi kêu sang Moscow. Một phụ nữ Nga trả lời tại toà đại sứ Việt Nam. Khi tôi nói bằng tiếng Việt, ngỏ ý muốn nói chuyện với một nhân viên người Việt của toà đại sứ, thì bà ta nói bằng tiếng Nga một câu gì đó. Tôi nhắc lại lời yêu cầu bằng tiếng Anh, thì bà ta nói “Không”. Tôi hỏi thêm bà có biết tiếng Anh không, thì bà cúp điện thoại.
Tôi lập tức kêu lại số đó; vẫn tiếng bà ta trả lời. Tôi nói bằng tiếng Pháp:
- Xin bà cho tôi nói chuyện với một người Việt Nam.
Bà hiểu, nên cho tôi số của “Uỷ ban tiếp tân”. Lần này thì một người Việt Nam trả lời. Tôi cho biết tôi kêu từ Luân Đôn. Ông ta hỏi lại:
- Luân Đôn là ở đâu?
Khi biết tôi đang ở Anh Quốc, ông ta có vẻ thích thú lắm, không hỏi tôi là ai, mà hỏi kêu có chuyện chỉ. Tôi nói, tôi muốn biết Đại sứ Đặng Quang Minh hiện ở đâu, ông liền trả lời:
- Đại sứ đang đi trượt băng với các bạn. Bà có thể nói chuyện với ông ở “nhà khách” chiều này ạ.
Sau đó ông cho tôi số điện thoại ở “nhà khách”.
Mới đầu ông không hỏi tôi là ai. Sau khi cho số điện thoại của “nhà khách”, ông mới thắc mắc. Tôi ngập ngừng không muốn trả lời, nhưng tôi thầm nghĩ, tại sao phải giấu? Cả hai chục năm này, tôi vẫn muốn cho mọi người biết tôi là con của ai, nhưng không dám nói, sợ bị bắt, sợ bị mất việc, sợ bị đủ thứ. Trong những năm học trung học, tủi cho thân phận không có cha, buồn buồn tôi hay ngó lên mái ngói đỏ của phòng hiệu trường, muốn leo lên đó để la lớn cho cả tỉnh Cần Thơ biết tôi con nhà ai. Muốn lắm, nhưng ai mà dám làm như vậy, vì năm phút sau đó Công an sẽ bắt giam tôi trong khám liền, và không còn ai nghe được tiếng tôi nữa. Những bây giờ thì tôi đã có thể nói ngay với tổng thống Hoa Kỳ ba tôi là ai. Vì vậy, tôi mau mắn trả lời nhân viên toà đại sứ:
- Thưa ông, tôi là con gái của ông Minh.
Nói xong, tôi sung sướng vô cùng tận!
Lát sau, tôi lại kêu cho Uỷ ban tiếp tân để hỏi coi bao giờ ba tôi tới Luân Đôn. Một người khác trả lời. Ông ta có vẻ thận trọng, lịch sự hơn:
- Thưa bà, bà có thì cho tôi biết tôi đang được nói chuyện ai không?
Tôi lại phải hãnh điện giới thiệu:
- Thưa ông, tôi là con gái của ông Minh.
Người ở đầu dây bên kia im lặng một hồi lâu, nhưng tôi biết ông ta vẫn còn đó. Một lát sau mới có tiếng hỏi:
- Bà nói bà là con gái của ông Minh? Và bà kêu từ Luân Đôn?
Tôi xác nhận là dùng như vậy, thì ông ta lại hỏi:
- Con thật của ông Minh à?
Tôi cười sung sướng, rồi đáp:
- Dạ, đúng là con thật. Không phải con giả. - Tôi cười như đã quen nhau rồi.

Bây giờ thì ông ta tin tôi, nên nói:
- Tôi là bạn học cùng lớp của anh Khôi ở Mạc Tư Khoa Chúng tôi rất thân nhau. Tôi sắp về Việt Nam và sẽ gặp anh của chị.
- Anh may mắn hơn tôi, vì anh sắp được gặp anh tôi, còn tôi thì không được!
Ông hỏi tên tôi, tôi cho biết ngay. Ông liền reo lên:
- A, chị là “cô em nghịch như con trai”.
Như tôi nghe được tiếng reo vui của anh ta bên kia đầu dây.
Đến đây thì anh chợt nhớ ra rằng hiện tôi đang ở xa, nên vội nói:
- Mình đang nói chuyện qua đường dây viễn liên, tôi không nên dài dòng. Ông cụ hiện đi chơi trượt băng với mấy người Nga. Lúc khác xin chị gọi lại cho bác.
- Tôi muốn biết chừng nào ba tôi sang đây?
- Tôi không nhớ số chuyến bay của ông, chỉ biết trưa thứ Hai ông sẽ rời Mạc Tư Khoa, chị à.
- Tôi biết bấy nhiêu cũng đủ rồi. Tôi cảm ơn anh ta và chúc anh được hạnh phúc khi về Việt Nam.
Nhân viên vẫn phòng của hàng máy bay Aeroflot ở Luân Đôn cho biết mỗi ngày chỉ có một chuyến bay từ Mạc Tư Khoa tới Luân Đôn vào xế trưa và hạ cánh ở phi trường Heathrow lúc 9 giờ tối. Tôi nghĩ rằng tôi đã kêu hai cú điện thoại, có thể làm cơ quan KGB lén nghe đã rồi, nên không muốn kêu thêm nữa. Vợ chồng tôi quyết định tối thứ Hai sẽ ra phi trường để đón ba tôi. Nếu tối hôm đó ông chưa tới, thì chúng tôi sẽ tiếp tục đi đón ông tối hôm sau. Chừng nào gặp ông mới thôi.
Sáng thứ Hai, John vẫn đi làm như thường lệ. Rồi sau bữa cơm tối, tôi để Lance ở nhà với bà ngoại, vợ chồng tôi lấy taxi ra phi trường. Chúng tôi phải đợi rất lâu, vì máy bay từ Mạc Tư Khoa tới trễ hai giờ năm mươi phút. Rồi thêm nữa giờ nữa mới thấy hành khách đi ra. Nhưng không có ba tôi.
Tối thứ Ba, 13 tháng Chạp, chúng tôi lại ra phi trường một lần nữa. Chuyến bay từ Mạc Tư Khoa lại tới trễ hai tiếng. John và tôi nhìn đám khách của hãng Aeroflot lẻ tẻ đi về phía các nhân viên quan thuế. Tôi bắt đầu thất vọng khi đám hành khách ra đã gần hết. Bỗng tôi nhận thấy một dáng người quen thuộc, một người mặc bộ đồ xanh, đội nón nỉ mà tôi đã tung thấy ở Paris năm rồi. Ba tôi là người cuối cùng ra khỏi máy bay.
Khi đã thấy ba tôi, những gì chung quanh tôi tan biến đi hết. Tôi chỉ chăm chú vô ba tôi và khả năng có thể thuyết phục ba tôi bỏ cộng sản để sống hạnh phúc với má tôi.
Bỗng ba tôi đứng dừng lại, đưa mắt nhìn quanh phi trường đông nghẹt khách. Tôi nắm lấy tay John rồi kéo anh đi theo tôi. Vừa nhìn thấy tôi, ba tôi buông cái xách tay bằng da xuống đất, dang hai tay để đón tiếp tôi. Ông ôm tôi thật chặt, rồi quay sang ôm người con rể mà ông chưa từng gặp. Ông thốt kêu bằng tiếng Viết:
- Con!
Sau đó, ông quay sang tôi hỏi:
- Người của ba đâu con?
Tôi hiểu rõ ông muốn nói gì, liền chỉ John và tôi nói:
- Người của ba đây chứ còn ai nữa?
Ông nói rõ hơn:
- Anh tài xế và mấy nhân viên toà đại sứ đâu?
- Con biểu họ dùng tại đón ba, vì con đã nhận trách nhiệm lo cho ông đại sứ rồi.
Tôi cũng hơi buồn, vì ba tôi chỉ quan tâm tới nhân viên toà đại sứ thôi.
Ông tỏ vẻ bực mình, nói:
- Đáng lẽ con không nên làm như vậy. Ba đã báo toà đại sứ ở Mạc Tư Khoa phải báo cho Luân Đôn biết. Họ phải ra phi trường đón ba, con à.
- Ba ơi, ba đâu có đi công tác, ba đi thăm gia đình mà.
Tôi ráng làm ba tôi vui, nên ôm ngang lưng ông, kéo ông về khu lấy hành lý, vui vẻ nói giỡn:
- Thưa đồng chí, bây giờ đồng chí là thượng khách của con!
Ba tôi nói với John bằng tiếng Việt, như một nhà ngoài giao thích nói tiếng mẹ để với người ngoại quốc:
- Ba cám ơn con đã thương yêu con gái của ba và cháu ngoại của ba; và ba cũng xin đặc biệt cảm ơn con đã săn sóc má của Dung giùm ba.
Ông nói chậm chạp và rành mạch.
John nói với tôi bằng tiếng Anh:
- Em thưa với ba rằng anh rất hãnh diện được làm một phần tử của gia đình em.
Ba tôi lắng nghe từng tiếng John rồi mỉm cười với anh. Những hình như ông đang suy nghĩ khác.
Ông nhíu mày, hỏi tôi:
- Chắc má sẽ buồn khi không thấy anh Khôi con đi cùng ba?
Tôi xiết chặt tay ba tôi, rồi đáp:
- Má sẽ mừng lắm khi gặp ba, nhưng con hy vọng ba đã đặt sẵn câu trả lời về chuyện này với má.
Ông gật đầu:
- Ba sẽ giải thích cho má biết tại sao anh Khôi không cùng đi với ba được.
Tôi chọc ba tôi:
- Ba cần có đồng minh ba ơi. Ba có muốn con có mặt khi nói chuyện với má không?
- Không, con không cần phải giúp ba, vì má con là người hiểu ba nhứt trên đời này.
Đôi mắt ba tôi dường như đang nhìn về một nơi xa xăm, có thể là ngôi làng mà ông đã sống cùng má tôi và hoạt động cách mạng. Cũng có thể là ba nhớ Việt Nam rồi. Tôi liền nói:
- Ba à, ba có thể thực hiện điều mong ước đó nếu ba từ bỏ đảng của ba.
Tôi đã vi phạm lại hứa với John là chỉ để cập tới vấn đề này khi nào đúng lúc. Những quả thiệt, tôi bỗng cảm thấy lúc này là đúng lúc, vì tôi nghĩ rằng tôi sẽ có ít thời gian riêng với ba tôi, chỉ có lúc này cũng là thuận tiện nhứt.
Có thể tôi dự tính sai.
Đôi mắt của ba tôi tức thì trở nên nghiêm nghị. Ông tằng hắng, rồi gằn giọng nói:
- Con à, chuyện này không phải là chuyện để con nói giỡn.
Tôi biết mình đi quá xa không còn chỗ nào trở lại, nên tôi lấy hết can đảm nói luôn:
- Con đâu có nói giỡn. Con nói thiệt mà ba! Con hết lòng mong muốn ba về hưu, để có thể sống với má cho trọn những năm tháng còn lại của cuộc đời. Con có ý định này ngày lần gặp ba lần đầu tiên ở bên Nhựt kia. Rồi khi gặp ba ở Paris, con cũng có ý định y như vậy. Nhưng lúc đó không thuận tiện, vì ba đang háo hức về thăm Việt Nam sau ngày giải phóng. Bây giờ ba đã hưởng niềm vui thắng lợi của ba, và ba đã vui mừng cho Việt Nam, cũng như đã thất vọng khi thấy cuộc giải phóng đi lạc đường, lạc lối.
Ông nhìn tôi bằng đôi mắt đầy thất vọng, nói:
- Con à, sẽ không bao giờ thuận tiện để con nói tới chuyện này đâu. Ba yêu cầu con từ này đừng nhắc tới nữa.
Tôi buồn bã nói:
- Nghĩa là ba không bao giờ thương con, và cũng không muốn ở gần con, phải không?
Ba tôi hôn lên lên trán tôi, rồi dịu giọng:
- Như vậy là con không thương ba mới đúng. Con nên biết ssi của ba như thế nàt rất đặc biệt. Trong lịch sử của đảng, trước ba chưa có ai được phép đi như thế này. Ba đã được đảng tin cậy. Các đồng chí ở Hà Nội đã cho phép ba đi ngay cho kịp, vì con đã làm cho mọi người tin rằng cố tình trạng cấp bách. Gia đình mình ở trong một hoàn cảnh không đơn giản. Vậy con không nên toan tính làm chuyện gì để người ta phải thất vọng vì gia đình mình. Ba rất cảm động và vui sướng khi biết con yêu thương ba, con muốn được sống bên cạnh ba. Nhưng ba yêu cầu con đừng bao giờ đòi ba từ bỏ đảng, điều đó khiến ba đau lòng, vì con đã coi ba tầm thường như những người khác.
Tôi vẫn chưa chịu, nên nói thêm:
- Ba không thể chọn lựa cả hai được. Hoặc ba về ở với má, hoặc ba theo đảng, bỏ rơi má. Ba đã hy sinh cả cuộc đến ba cho đảng. Trong khi đó, má cũng đã hy sinh cả một thời xuân sắc để chờ đợi ba. Bây giờ đã đến lúc ba nghĩ tới má và gia đình thân yêu của ba. Bốn mươi sáu năm, nửa thế kỷ, ba sống với đảng, xây dựng đảng vững mạnh như ngày nay. Bây giờ gia đình này cần ba để chúng con được trọn vẹn có mẹ có cha, mấy đứa cháu có đủ ông bà. Chắc ba thất vọng về con, vì thấy con ích kỷ?
- Nói chung thì chúng ta đều ích kỷ. Chúng ta được quyền ích kỷ, con à.
John vừa chạy đi kiếm va-li của ba tôi nhưng chưa có. Anh khuyên chúng tôi nên ngồi nghỉ, vì họ chậm trễ trong việc chuyển hành lý. Chúng tôi ngồi xuống mấy cái ghế trống. Tôi trở lại chuyện bỏ đảng về với gia đình, y như một người bán hàng rong vẫn lải nhải mời mọc dù chủ nhà đã đóng sập cửa lại rồi.
- Mấy năm sau khi ba đi rồi, con đã đủ trí khôn để nhận ra rằng lý thuyết cộng sản hay như chuyện thần tiên, nhưng khi đưa vô thực tế thì lý thuyết đi một đàng, thực tế đi một nẻo. Con rất buồn khi hiểu được điều đó, và, con cũng buồn cho ba lắm con biết ba của con. Trước khi ba là Cộng sản, ba là người Việt Nam, ba là Việt Minh. Con biết từ đáy lòng ba, ba thành thật mơ ước một nền hòa bình và thịnh vượng cho dân tộc Việt Nam. Bạn hữu của ba, bạn của má con, các cô, các dì, các chị con, đã cho con hiểu rất rõ về ba. Vì vậy, con biết ba đã dâng hiến cả cuộc đời ba cho dân tộc, không phải chỉ riêng cho đảng. Trong một bức thơ ba viết cho con sau ngày thống nhứt đất nước, có câu: “Một con én không thể đem mùa xuân trở lại được”. Chắc ba còn nhớ?
Hồi đó ba tôi tỏ vẻ thất vọng vì Giải phóng đã làm cho người dân miền Nam buồn chán, nhưng ông quyết định cố gắng hết sức để thay đổi cho tốt đẹp hơn, ông thừa nhận, ông không có đủ quyền hành trong tay: ông cần các đồng chí có cùng chung sự suy nghĩ mà hành động như ông.
Ba tôi ngồi im lặng nghe tôi say sưa nói.
Mắt ông tỏ về tức giận dù ông vẫn giữ im lặng. Rất may, lúc đó John trở lại, làm cho tình hình căng thẳng giữa ba tôi và tôi dịu xuống. Anh đã lấy được hành lý của ba tôi. Chúng tôi đi ra ngoài ngay, đón taxi về nhà.
Khi xe rời khỏi phi trường, ba tôi nhìn thắng phía trước, rồi gỡ kiếng ra cầm tay mân mê. Đó là dấu hiệu ông đang tức giận vì lời đề nghị và chỉ trích thẳng thắn của tôi. Ông giữ im lặng một lúc, rồi hỏi tôi:
- Con nói hết chưa?
Tôi gật đầu. Ông nói bằng một giọng bình tĩnh và ôn tồn:
- Trước hết ba cảm ơn con đã rộng lượng đề nghị ba về ở với con. Thứ hai, ba muốn con ghi nhớ điều này suốt đời, là ba rất yêu anh Khôi và em Hoà Bình của con, nhưng con là niệm hãnh diện của ba. Ba rất vui khi được con lo lắng, săn sóc. Ba cũng rất hãnh diện khi biết con quan tâm nhiều đến dân tộc ta. Con cởi mở và cứng rắn, đồng thời con cũng dịu dàng. Con là một người đàn bà đặc biệt. Ba thương con vì con vẫn có nhiều tình thương cho đồng bào ta, dù con đã có quốc tịch Mỹ và là vợ của một sĩ quan Mỹ, mẹ của một đứa bé Mỹ. Nhưng ba biết được con vẫn yêu nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Ba sung sướng về con lắm. Ba không muốn thay đổi con dù theo phương hướng nào.
Ngưng một chút, ba tôi nhìn tôi với một vẻ bằng lòng, rồi tiếp:
- Ba chỉ muốn con ghi nhớ tận đáy lòng con một điều, là con hãy vui mừng khi thấy ba của con vẫn có nghị lực và ý chí, quyết đem lại hòa bình vĩnh cửu cho đất nước của chúng ta.
John ngồi cạnh tôi cũng lắng nghe cuộc nói chuyện, nhưng chắc chỉ hiểu được phân nữa thôi. Anh bỗng lên tiếng:
- Hãy từ tốn với ba, nghe Nhà (tiếng lóngg chi có John gọi tôi). Nên nói chuyện về má, về anh Khôi. Hỏi ba coi mấy ngày ở Moscow có dễ chịu không. Hỏi ba cuối tuần rồi đi trượt băng với các bạn có vui không? Hỏi ba có mong gặp má không. Đừng nói về chuyện Việt Nam, cũng đừng nhắc chuyện chánh trị. Bây giờ không phải là lúc nói mấy cái chuyện đó.
Tất nhiên là John nói đúng, tôi hối hận đã không đủ kiên nhẫn chờ dịp khác để nói. Những cũng chỉ vì tôi cảm thấy thời gian dành cho tôi có thể nói chuyện riêng với ba tôi ít quá. Lúc nào cũng có một ông già râu ria vô hình quay cho đồng hồ chạy lẹ hơn cả nhịp đập của tim tôi. Vì vậy, nếu tôi không nói ra những điều ấp ủ trong lòng, e sẽ chẳng bao giờ có dịp nói với ba tôi.
- Con đã cào, đã cấu, đã tìm mọi cách, đã vượt Thái Bình Dương, rồi vượt luôn Đai Tây Dương mà vẫn không được có ba. Có lẽ, cuối cùng con phải bắt cóc ba, ba ơi.
Ba tôi sửng sốt vì câu nói đó, ông xích ra xa tôi, rồi nhìn đường, ông hỏi:
- Còn bao lâu nữa thì tới nhà?
- Dạ, chừng hai mươi phút nữa, thưa ba! - Tôi đáp.
- Vậy thì muộn quá.
- Mà sẽ đợi suốt đêm để chờ mình ba à.
Ba tôi giữ im lặng chứng năm phút, hai tay vẫn mân mê cái kiếng, tỏ vẻ suy nghĩ. Cuối cùng ông lại lên tiếng:
- Con à, ba hy vọng con hiểu vị thế của ba hiện này. Tối nay, sau khi tới nhà, gặp má con, ôm hôn thằng cháu ngoại của ba một cái, rồi ba sẽ ra đi ngay.
Tôi hốt hoảng kêu lên:
- Con không hiểu ba nói gì!
Tôi quay sang John, dịch lại lời ba tôi vừa nói cho anh biết. Anh xua tay cho biết anh vẫn theo dõi câu chuyện và khuyên tôi nên nghe lời ba tôi.
- Nếu con chịu nghe ba nói, con sẽ hiểu.
Ba tôi nói tiếp, là một nhà ngoại giao thâm niên, ba cũng là một trong những người đặt ra nguyên tắc này. Nếu ba không sống theo nguyên tắc thì ba không có quyền đòi hỏi nhân viên dưới quyền của ba đúng nguyên tắc. Rất giản dị là ba phải về ngủ ở nhà của toà đại sứ sau một ngày công tác. Theo nguyên tắc, ban ngày với má con và các con, rồi ban đêm ba phải về ngủ ở nhà của toà đại sứ.
Ông nói một cách thản nhiên, coi đó như một luật thiên nhiên trong trái đất. Tôi hiểu rõ ràng những lời ông nói, những vẫn giận cành hông.
- Ba có biết tại sao các Chánh phủ cộng sản trên thế giới phải đặt ra nguyên tắc gắt gao cho đảng viên của họ không? Vì họ không tin tưởng ngay cả chế độ của họ, giống như một anh chồng có tánh ghen tuông, nhốt vợ trong tủ áo, sợ thả lỏng thì con vợ sẽ trốn đi mất tiêu.
Ba tôi chỉ cười. Ông hiểu ý tôi, nhưng tôi biết ông giữ vững lập trường của ông.
Chúng tôi về tới nhà khoảng mười một giờ rưỡi khuya. Chưa kịp gõ cửa thì má tôi đã mở ra và bật đèn của sáng choang. Với vẻ mặt rạng rỡ, bà bước ra ngoài đón chúng tôi. Bà mặc áo bà ba mới, trong bà trẻ hẳn ra và đầy sức sống.
Khi chúng tôi vô nhà. John và tôi đi thẳng vô bếp, nhường phòng khách cho ba má tôi. John nói nhỏ với tôi:
- Đang lé má phải ra dáng bịnh hoạn, chớ không nên ra ngoài đón ba như vậy, rủi VC nó thấy thì sao!
Tôi nghe thấy mùi cháo thơm, nên mấy phút sau quay trở ra phòng khách để mời ba tôi vô bếp. Tôi yêu cầu ông nhắm mặt lại. Ông hít một hơi rồi reo lên vui vẻ:
- A, đây là món cháo anh rất thích. Có mùi gan gà và hành lá nữa.
Tôi dọn cháo ra bàn ăn trong khi ba tôi lên lầu rửa mặt. Tôi bỗng nghe giọng ngái ngủ của Lance từ trên lầu vọng xuống:
- Ông ngoại. Sao ông tới trễ quá vậy?
- Ôm hôn ông ngoại, rồi đi ngủ đi, nghe. Mai ông sẽ tới!
Ba tôi hôn túi bụi lên mặt lên tóc của Lance.
Sau khi ăn cháo gà, ba tôi mở va-li, nói:
- Ba đem cho con mấy thứ lặt vặt hương vị Cần Thơ mà con thích.
Nói xong, ông mỉm cười. Tôi vô ngay lấy mọi thứ: bánh tráng ngọt, bánh phồng, mứt me, kẹo dừa, kựo chuối. Ba tôi khoe với má tôi mấy hộp trái cây; đó là sản phẩm của hãng làm đồ hộp mà chị Thuỷ Xinh người con nuôi của ba tôi làm giám đỗ. Trong khi chúng tôi đang vui vẻ, tôi thấy đồng hồ đã chỉ một giờ ba mươi sáng. Tôi hơi bối rối cho má. Tôi biết ba tôi không thể ngủ đêm ở nhà chúng tôi được, mà phải về nhà riêng của toà đại sứ. Phản ứng của má tôi không như tôi lúc này. Ba bình tĩnh sắp xếp lại túi xách cho ba tôi, rồi đề nghị chúng tôi đưa ba tôi đi ngay kéo quá trễ. Ba chỉ muốn cho ba tôi có một đêm ngủ ngon sau cuộc hành trình mệt mỏi. Như vậy, có phải chứng tỏ vợ hiểu chồng hơn con hiểu cha không? Tôi tự hỏi mà bối rối.
Sau khi ba tôi kêu điện thoại cho nhân viên toà đại sứ để báo cho họ biết ba tôi sắp tới, John và tôi chuyển hết hành lý của ba tôi lên xe, rồi cùng nhau đi trong đem tối. Đường đi không xa, chỉ chừng năm phút là tới. John ngồi đợi ngoài xe, tôi mang xách tay của ba tôi vô nhà. Đồng chí Chiểu ngái ngủ ra mở cửa, mặc bộ pyjama.
Trong nhà nóng một cách ngột ngạt; có lẽ máy sưởi mơ đến 80 độ. Sau khi dẫn chúng tôi tới phòng ngủ của khách, “đồng chí” Chiểu chúc ba tôi ngủ ngon, rồi trở về phòng của ông. Ba tôi sai tôi mở cửa sổ cho thoảng và mát. Trên giường có hai tấm mền, ông cất đi một. Tôi liền nói giỡn:
- Ba thấy chưa? Nếu ba ngủ ở nhà con, không ai dám nướng ba nóng như ở đây.
- Ba quen với khí hậu lạnh ở Mạc Tư Khoa rồi, dù mùa đông ở đó rất khắc nghiệt. Thôi, con về đi, dùng bắt chồng con đợi lâu quá. Sang mai, sau khi ăn điểm tâm, đến đón ba nghe. Ba cần thảo luận một vài vấn đề với mấy anh em ở đây trong bữa điểm tâm.
Khi tôi định đi ra của, ba tôi nói:
- Trước khi con về, ba muốn nói với con là ba mừng cho con, vì chồng con rất tốt.
- Cảm ơn ba.
Nói xong, tôi ôm hôn ông rồi đi ra ngoài trời đêm giá lạnh, để ba tôi ở lại với những người bạn cộng sản của ông.
Trên đường về, tôi nhìn lên bầu trời tối đen, cảm ơn đấng thiêng liêng nào đó ẩn sau đám mây đen. Tôi thất vọng vì ba tôi không chịu ngủ trong nhà tôi, nhưng tôi cũng mừng vì ông đã được ra khỏi nước để gặp chúng tôi. Đó là diễm phúc trời cho rồi.
Tôi đã lớn lên trong một hoàn cảnh mà tôi không mong muốn bất cứ người nào khác phải chịu đựng như mình. Nhưng qua biết bao khó khăn, tôi cũng hãnh diện vì đã vượt được hết, cho đến ngày hôm nay. Tôi đã thừa hưởng được ý chí mạnh từ ông ngoại, và tôi đã tranh đấu cho những nguyên tắc riêng của mình, cho quyền lợi và cho chính cuộc đời mình, trong một xã hội mà tôi tin rằng nó là của tôi. Đồng thời, ông ngoại tôi cũng dậy tôi phải chấp nhận nhu cầu và quyền lợi của người khác, nghèo cũng như giầu. Nhưng ông tôi không dậy tôi phải chấp nhận tình trạng của hai người yêu nhau tha thiết, mà phải sống xa nhau vì lý tưởng, như ba má tôi. Tôi không thể chấp nhận điều này được.
Đêm hôm đó, tôi muốn nói chuyện với má tôi về những khó khăn trong dĩ vãng, về những giấc mộng dở dang hiện tại và về tương lai bắt trắc. Nhưng khi chúng tôi về tôi nhớ thì bà đã đi ngủ. Tôi rón rén đi tới phòng ngủ của má tôi, thấy bà nằm quay lưng ra ngoài và ngủ ngon lành. Dù sao tôi cũng cảm thấy yên tâm, vì bà không muốn đợi tôi về để bàn tới chuyện mà ba khng thích.
Tôi có cảm tưởng tôi như một con cá nhỏ lội ngược dòng. Những biến cố ào tới như thác lũ, khiến tôi không sao đối phó kịp. Ý nghĩ ba tôi sẽ trở về Việt Nam làm tôi hoảng sợ.
Mấy ngày sau, ba má tôi có nhiều thời gian sống bên nhau. Má tôi đi đâu ba tôi đi theo đó: lúc vô nhà bếp, lúc lên lầu, lúc xuống nhà. Hai ông bà nói chuyện với nhau không ngừng, hầu hết nói về bạn cũ trong vùng giải phóng. Có lúc hai ông bà cười vui vẻ với nhau. Lại có lúc ngồi im lặng, không biết hai người nghĩ gì? Nghĩ gì cũng được, miễn hai người ngồi nghỉ bên nhau là tôi sung sướng lắm rồi. Những ngày này, ba má tôi vui tươi, hạnh phúc lắm.
Tôi nghĩ rằng ba tôi đã rất tế nhị, không nhắc tới sự kiện má tôi chẳng có vẻ gì là đau ốm dù rằng, tôi viết trong thơ gởi ông Lê Duẩn, là má tôi đau nặng có thể chết.
Hai ngày sau khi ba tôi tới, tôi để ba má tôi ở nhà một mình, dắt Lance “đi shopping”. Đúng hơn là tôi đi gặp Rob và Bill. Tôi biết hai ông rất nóng lòng, như ngồi trên đống lửa, muốn biết những chuyện gì đang xảy ra ở trong căn nhà nhỏ của chúng tôi. Tất nhiên là không có gì nhiều để báo cáo, vì cho tới lúc này chỉ có chuyện cá nhân, không có một dấu hiệu nào về việc ba tôi sẽ đào thoát.
Cũng như tôi, họ đều tỏ vẻ thất vọng, vì anh Khỏi tôi không được đi. Bây giờ thì bầu không khí giữa họ và tôi không còn căng thẳng như trước nữa. Có thể lý do mà họ bớt gây gổ với tôi họ sắp được gặp những người thân yêu của họ. Hai cơ quan và CIA đều cho họ biết vợ con họ sẽ có thể sang Luân Đôn đón lễ Giáng Sinh với họ. Cảm ơn Thượng đế đã cấu tạo ra người ngay từ thuở khai thiên lập địa.
John cho Lance được nghỉ học để cháu ở nhà chơi với ông ngoại, dù ngày nghỉ lễ Giáng Sinh cũng sắp tới. Tôi cũng lấy làm lạ khi thấy Lance thích được ông ngoại ôm vào lòng. Thường thường Lance không thể ngồi yên được hai phút, vậy mà bây giờ Lance ngồi hàng giờ bên cạnh ông bà trong khi ông bà chuyện với nhau. Lúc thì Lance bầy đồ chơi ra, lúc thì vẽ hình cho ông ngoại xem. Thỉnh thoảng ba tôi kéo cháu lại gần để Lance hỏi hôn. Thứ Năm cháu có thể dẫn ông ngoại tới trường để khoe với bạn không? Mỗi tuần, ngày thứ Năm nào Lance cũng đem đồ chơi vô khoe với lớp. Má tôi hỏi:
- Cháu sẽ nói về ông như thế nào?
Lance đáp:
- Cháu sẽ nói với mọi người ông làm việc cho chánh phủ Việt Nam, và ông là ba của má cháu.
Ba tôi lại hỏi:
- Nếu ông không đi, cháu đem cái gì để khoe với các bạn?
- Cháu sẽ mang tôi trường cái máy bay trực thăng.
Vừa nói Lance vừa khoe với mọi người máy bay trực thăng làm lấy bằng những miếng cây trong hộp đồ chơi.
Tôi nói:
- Con hãy đem máy bay trực thăng đi. Trời lạnh quá không đi với con được.
Sau đó tôi nói với ba tôi, khi được gặp ông ngoại ở trường, cháu khoe với một bà ở toà đại sứ Mỹ, ông nó là “cộng sản tốt ở Việt Nam”.
Ba tôi thích lắm.
Tôi không thể diến tả được cảm giác kỳ diệu của tôi khi được cùng ba má tôi chuyện trò vui vẻ. Tôi nhìn tôi trên kiếng, sợ lên mặt, rồi thầm nói với mình: “Đây là thật, không phải chiêm bao”.
Ba má tôi nói đủ mọi thứ chuyện, rồi nhắc đến sự ra đi của những người thân yêu. Ba tôi nhắc đến ông nội, ba nội. Tôi đã thấy ba tôi chùi nước mắt cho má tôi, khi ông bà nhắc tới Hải Vân, em tôi. Nhưng hai người cũng có lúc cãi lộn, đề tài tranh luận bao giờ cũng là chánh trị. Cả hai cùng giữ vững lập trường của mình, một thì tích cực bênh vực cộng sản, con một thì chống cộng kịch liệt. Đó là lý do đã khiến hai người phải xa cách bấy lâu nay. Tôi nghĩ rằng các cuộc tranh luận ấy đều có lợi cho cả hai. Má tôi thì cần nói ra nỗi niềm riêng bà đã ôm ấp hai chục năm nay. Còn ba tôi cũng nên biết nỗi lòng của một người đã bị mất nước và mất tất cả vì cộng sản.
Má tôi hỏi ba tôi về số phận của miền Nam. Ông trả lời rằng:
- Thời gian xây dựng lâu dài hơn là thời gian phá hoại. Nước Việt Nam cần có nhiều thời gian để hàn gắn.
Má tôi không thoả mãn với những lời hứa hẹn như vậy. Bà nói:
- Làm sao anh có thể đem lại hoà bình, khi mà đảng cộng sản của anh mở chiến dịch chống lại nhân dân? Dân của tôi no ấm, miền Nam của tôi phồn thịnh, rồi đảng của mấy ông cáng xã hội chủ nghĩa vô họng người ta, dân của tui mới đói, mới rách.
Ba tôi đáp:
- Anh công nhận là miền Nam phong phú, nhưng chỉ một số nhỏ được đặc ân mà giầu có, còn đa số thì trắng tay.
- Cả ngàn năm nay, thời nào cũng có người giầu, kẻ nghèo. Tôi bảo đảm đảng của anh sẽ làm nên lịch sử, bằng cách tước đoạt hết của cải của mọi người, san bằng mọi “bất công” trong xã hội i, quay lại đảng viên ai nấy giầu có như nhau.
Ba tôi nhẹ nhàng đưa tay lên che miệng má tôi, rồi ông lắc đầu nhìn bà bằng đôi mắt van xin bà hãy ngưng cuộc tranh luận, vì lập trường của hai người hoàn toàn khác biệt; hãy tận hưởng những giây phút quý báu bên nhau.
Bên nhau, ba má tôi cũng có những giờ phút êm đẹp. Ông ngồi yên lặng bên cạnh bà để xem bà vá áo sơ mi cho ông, may quần áo ngủ mới, và đơm lại mấy nút áo không giống nhau. Những lúc thấy mái má tôi vui và nụ cười rạng rỡ trên mặt ba tôi, tôi thầm tự nhủ: “Nếu chẳng may hôm nay mình chết, chắc mình sẽ biến thành một thiên thần sung sướng nhứt. $pageOut$pageInChương 44


Ngày Chúa Nhựt 18 tháng Chạp, chúng tôi đề nghị cả gia đình đi picnic ở vùng quê ngoại ô thành phố Luân Đôn để ba má tôi có dịp thay đổi không khí. Nhưng tôi ngạc nhiên khi ba tôi từ chối. Ông đề nghị cứ đưa Lance đi chơi vui vẻ, ông thích ở nhà hơn.
Tôi không hiểu tại sao ba tôi lại từ chối cuộc đi chơi để cùng sinh hoạt chung với gia đình. Cuối cùng, má tôi kể tôi vô phòng riêng của bà để giải thích cho tôi biết. Buổi tối đi đón ba tôi ở phi trường, trên gia đình về, tôi đã nói giỡn với ba tôi là tôi “bắt cóc” ông nếu ông không chịu ở lại với má. Ông đã hốt hoảng, và từ hôm đó tới nay, ba tôi không biết tôi nói thật hay nói chơi. Bây giờ chúng tôi nói tới chuyện đi về miền đông quê, xa toà đại sứ Việt Nam, thì ông sự tôi làm thiệt.
Tôi hối hận vô cùng vì đã làm ba tôi bất an trong mấy ngày này. Nhưng tôi vẫn nuôi dưỡng cái ước mơng tách ba tôi khỏi nước Việt Nam. Mỗi lần nghĩ tới chuyện đó thì tâm tư tôi rộn radng, tim tôi đập tứ tung. Nhưng tôi không có ý đồ gì trong chuyến đi picnic này. Má tôi đã phải năn nỉ ba tôi nhiều lần như vậy; cuối cùng cũng thuyết phục được ông đi với chúng tôi.
Ba tôi miễn cưỡng đi, nhưng ông không thoải mái chút nào trong suốt buổi đi chơi. Khi chúng tôi ngưng lại bên một cánh đồng, ông không muốn ra khỏi xe, và có thể ông cũng không muốn nhúc nhích, nếu Lance không nắm tay ông năn nỉ:
- Ông ngoại. Lance muốn chơi với ông?
Mắt ông không ngừng ngó quanh cánh đồng suốt buổi picnic đó, như có ý đề phòng một nhóm người bất thình lình xuất hiện từ bờ cây bụi cỏ để bắt cóc ông. Phải chi tôi đừng nói tới hai chữ “bắt cóc”, rồi chờ khi có dịp thuận tiện ở một địa điểm tốt, sẽ thực hiện điều đó. Tôi tâm sự với má tôi thì bà la tôi liền:
- Con à, không bao giờ có dịp nào thuận tiện hay địa điểm nào tốt để làm chuyện đó với ba con nghe chưa.
Chúng tôi phải rút ngắn buổi đi chơi ngoài trời, vì ba tôi tỏ ra quá lo lắng. Sự căng thẳng tinh thần đã làm ông mệt mỏi, nên kín vừa về tới nhà, ông lên phòng Lance nằm nghỉ.
Tôi hối hận vô cùng. Không ngờ lời nói của tôi đã ảnh hưởng mạnh tới tinh thần ba tôi như vậy. Có thể suốt những ngày thăm viếng gia đình tôi, ông đã lo lắng, chứ không phải chỉ buổi picnic hôm nay. Tôi nói với má tôi là tôi biết mình có lỗi với ba nhiều quá. Bà khuyên tôi nên xin lỗi ba tôi.
Tôi bước vô phòng của Lance, thấy ba tôi năm bất động trên giường, nhìn tôi mà không nói gì. Tôi lên liếng:
- Ba à, tại con quá tuyệt vọng nên đã nói bậy. Có lẽ vì ngu mới nuôi ảo tưởng, mới xây nhà lầu trên cát; và cũng chỉ vì con thương ba má quá. Vậy con xin ba tha lỗi cho con. Con phát ngôn bừa bãi để ba phải lo lắng!
Ông nằm lấy tôi siết mạnh, rồi nói:
- Ba tha lỗi cho con rồi.
Ông không muốn nhắc lại chuyện cũ nữa, ông lật gối qua mặt kia, rồi nằm xuống lại, như muốn ngủ tiếp. Tôi ra khỏi phòng, nói với John, tôi cần đi bộ một lát.
Gió tháng Chạp thổi vô mặt tôi lạnh buốt khi tôi đứng trên cây cầu ở công viên Regent. Hai ông bà già người Anh nắm tay nhau đi qua cầu. Bà già phải chống gậy. Ông già nhắc nón lên chào, khi hai ông bà đi qua tôi. Tôi hình dung ba má tôi được sống bên nhau như hai ông bà này, nhưng tôi đã biết không còn hy vọng gì nữa. Tôi thèm thuồng nhìn theo họ cho tới lúc họ quẹo sang đường khác.
Trên đường về nhà, tôi dừng lại trước nhà thờ St. Marks, nhìn lên khung cửa kiếng nhiều mầu và cứ hỏi:
- Tại sao thương yêu mà đau quá vậy?
Khi tôi về tôi nhà, ba tôi đã dậy và đang đọc cuốn Solar Energy (Năng lượng mặt trời) của John. Thấy tôi, ông cười nhưng nụ cười không tươi như trước đó.
Có lần ba tôi tâm sự:
- Ba thèm địa vị của má, vì má may mắn được nuôi dậy con. Ba chỉ có được thấy các con lớn lên trong tưởng tượng mà thôi. Ba đã vẽ hình tất cả các con, tuyệt đẹp trong sự tưởng tượng của ba.
Nói gì bây giờ. Tốt hơn là nghe ba tôi tâm sự, để ông trút hết nỗi lòng hai chục năm này không thổ lộ được với ai.
Đêm hôm đó, khi tôi đưa ba về nhà, tôi nấn ná trong phòng ngủ của ông lâu hơn mọi khi. Tôi ước mong có một điều gì đó có thể khiến tôi làm, hoặc nói để ông đổi ý, hoặc có một phép lạ nào trong đêm Giáng Sinh làm việc đó thay tôi. Nhưng cuộc đời với ba tôi không có phép lạ, không có nhiệm mầu. Chỉ có tình yêu, chỉ có bổn phận, chỉ có tổ quốc, và chỉ có kẻ thù. Đời của ba tôi có chiến tranh, có hoà bình, hy vọng, đau thương, vui tươi và buồn phiền, nhưng không có nhiệm mầu. Tôi làm giường cho ông, lấy quần áo dơ mang về nhà giặt, và cứ lăng xăng bên cạnh ông mà không làm gì, nói gì hết. Cuối cùng ông hỏi:
- Con đang nghĩ gì vậy?
Tôi lắc đầu rồi vội hôn ba tôi, chào từ biệt.
Đường về nhà lúc sau nửa đêm trông như một cảnh trong một phim huyền bí. Sương mù bao phủ cây cối, và lác đác mấy ngọn đèn đường toả ánh sáng mờ ảo vô những toà nhà vách đá. Trong khi lái xe, tôi bỗng cảm thấy tức giận. Giận chính tôi, giận thế giới, giận hoàn cảnh đã đưa gia đình tôi vô thế kẹt này. Mấy tháng trước, má tôi hỏi tôi sẽ làm gì, nếu ba tôi từ chối trở về sống với gia đình? Tôi không thể trả lời câu hỏi đó. Tôi đã nói với bà như sau:
- Con không trả lời câu hỏi đó được đâu. Cũng như con không trả lời khi ai hỏi con sẽ có cảm giác gì, nếu con rớt từ từng lầu thứ 25 xuống đất.
Đáng lẽ tôi nên nói với má tôi: “Con xin phó thác mọi việc cho ông Trời”. Không biết lúc này tôi có được ở trong bàn tay yêu thương của ông Trời không nữa? Tôi muốn tin là có.
Về tới nhà, tôi ăn mấy cái bánh và uống ly sữa mà tôi và Lance đã để trên bàn mời ông già Noel rồi đi ngủ. Tôi nghĩ rằng nhiệm mầu của Giáng Sinh đã ban cho gia đình tôi được xum họp vui vẻ dưới một mái nhà ở Luân Đôn. Nhưng ước mơng khác có được thì tuỳ thuộc ở ba tôi, và cần thêm nhiều phép lạ bùa mê lắm mới khắc phục được lý tưởng mà ông đang theo, và sự trung thành tuyệt đối với sự nghiệp đó.

***

Một buổi trưa, tôi và má tôi ngồi nói chuyện, má nói:
- Ba thương con, ba thương hết tụi mình, đừng bao giờ nghi ngờ điều đó nhưng ông phải đeo đuổi sự nghiệp của ông.
- Má à, con muốn thử thời vận mình một lần nữa, xin ba nghĩ kỹ lại.
Má tôi nói:
- Ba con hãnh diện về việc cuộc đời của một người tiên phong đi làm cách mạng. Ba tin là người ta còn cần tới ông. Ở Mỹ sung sướng với ai kia, chớ không phải với ba. Ba sẽ khổ lắm, rồi ba sẽ chết héo chết mòn khi ông trở thành một người không có quê hương, xứ sở. Mình cũng như nhiều người khác, sống ở đâu cũng được. Còn ba con thì không làm sao sống xa cái khuôn khổ của ông. Thôi, để yên cho ba con.

Tối hôm đó, sau bữa ăn, ba tôi và tôi nói chuyện riêng rất lâu. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên giường của Lance. Tôi nắm lấy hai bàn tay ba tôi như muốn trút hết tâm tư của mình. Tôi nói:
- Ba à, con muốn ba biết là ba đã đem tới cho chúng con cái lễ Giáng Sinh tuyệt vời chưa bao giờ có trong đời chúng con. Ba đã làm cho má con vui. Con cảm ơn ba đã chung vui với chúng con và cho Lance được cái diễm phúc được biết ông ngoại. Cám ơn ba chấp nhận thằng rể của ba vô trong gia đình mình!
Ba tôi lắng nghe rồi nói:
- Ba cũng cám ơn gia đình con cho ba có mặt ở đây. Ước gì cảnh xum họp này kéo dài vô tận để nghe má con cười, để má con vui.
Ba tôi nhìn ra một nơi xa xăm, rồi ông nói một câu ngắn gọn:
- Ba phải trở về nước của ba.
- Ba à, ba đã theo lý tưởng của ba quá lâu rồi; ba hiến đời ba cho đảng cộng sản, cho dân tộc và đất nước. Bây giờ ba không thể sống cho gia đình của ba được sao? Tình thương của ba cho má, ba phải giấu mấy chục năm nay, thì bây giờ ba đâu còn phải giấu nữa.
Ông nói bằng một giọng chắc nịch:
- Ba cũng muốn những điều như con muốn. Nhu cầu của chúng ta không khác nhau; của má con cũng vậy. Ba thương con, ba chung thuỷ với má con. Nhưng điều con đòi hỏi ba, thì ba không thể chiều con được.
Đôi mắt ông như có lửa giận, vì một lần nữa tôi nhắc lại chuyện hưu trí, ở lại với má tôi. Ông nói tiếp:
- Ba đã dậy con của ba phải trung thành, phải là người có tín nhiệm. Ba muốn làm gương cho những điều giáo huấn do.
Tôi ra giọng năn nỉ:
- Con đâu có đòi ba phải phản bội họ. Con chỉ muốn ba chia sẻ cuộc sống với tụi con, sống với má cho tới già, bỏ qua chính trị, bỏ qua đảng cộng sản luôn.
Ba tôi bình tĩnh nói:
- Con yêu cầu ba bỏ nước mình đi, rồi tới ở một nước đã từng là thù địch của ba. Con nghĩ lại coi như vậy có được không, con gái của ba?
Tôi đáp ngay:
- Ba à, con đã nghĩ về chuyện này lâu lắm rồi; con nghĩ kỹ lắm. Con đâu có đòi ba phải sống ở Mỹ. Ba lựa một nước nào khác. Một nước trung lập, hay bất cứ một nơi nào mà ba được quyền thương yêu gia đình của ba, nơi nào mà ba được tự chủ, tự do.
Ông ngắt lời tôi:
- Ba là người Việt Nam, sanh trưởng tại Việt Nam và ba sẽ chết ở Việt Nam với đồng bào của ba.
- Thưa ba, con đâu có nói tới chuyện chết chóc. Con chỉ nói tới chuyện sống, tới chuyện chia ngọt sẽ bùi với những người thân yêu của ba. Ai cũng muốn có ba bên cạnh, như đất cần mưa, như cá cần nước.
Ba tôi có vẻ dịu đi một chút, cúi xuống hôn lên tóc tôi, rồi nói:
- Được con của ba thương ba, là danh dự lắm.
- Ước gì trong một giây phút bá biến thành con, để ba có thể hiểu tại sao con mong mỏi ba trở về xum họp với gia đình.
- Ba không cần là con. ba cũng có thể hiểu tấm lòng của con. Có nhiều lần ba cần các con, cần má con lắm… Đó là những lúc ba ráng tưởng tượng các con khôn lớn như thế nào, các con đang làm gì, các con ra sao, đời có tử tế với con của ba không? Đó là những lúc khó khăn nhứt cho ba. Nhung bổn phận của ba đối với đất nước vẫn trên hết!
- Làm con của ba là niềm hãnh diện, nhưng làm con của ba khó quá, vì tụi con không sống nổi theo sự đòi hỏi của con nhà cách mạng. Con nghĩ chiến tranh đã a chấm dứt, đã trở thành dĩ vãng. Bây giờ chúng con có quyền đòi lại ba, đòi lại những gì của riêng chúng con đã bị mất.
Tôi vừa nói vừa cố gượng cười.
Ba tôi cũng mỉm cười, rồi nói:
- Mình có thể làm cho tình gia đình mình phong phú mạnh mẽ hơn với thái độ không vị kỷ. Hãy giúp đỡ nhau đối phó với hoàn cảnh hiện tại của gia đình, đi tiứi một sự hiểu biết rộng rãi hơn.
Chúng tôi ngồi trong im lặng một lát.
Ba tôi có vẻ đăm chiêu khi nhắc tới chuyện về miền Nam sau tháng 4-1975. Ông nói:
- Ba về nhà sau khi Sài gòn được giải phóng, không một người bạn nào cho ba biết vợ con ba đã di Mỹ. Rồi ba về Cần Thơ. Khi tới giữa chợ Bang Thạch, bạn hữu của gia đình ra chào mừng ba, nhung không một ai nhắc tới má con. Cuối cùng về của ông ngoại bà ngoại, dì Bảy mới cho biết má con đã đi Mỹ, các con đã yêu cầu má đi. Trong mấy ngày liền, ba đau đớn lắm. Ba rất hổ thẹn mà thú nhận rằng ba không đáp ứng sự mong mỏi của vợ con. Nhung rồi ba cũng mừng, là ba không mất hẳn gia đình của ba.
Nói tới đây thì má tôi bước vô phòng. Ba tôi ngồi xích một bên để nhường chỗ cho má. Rồi ông nói tiếp:
- Khi ba mười sáu tuổi, là một người trẻ trung làm cách mạng, ba đã hiểu rằng bảo vệ tổ quốc không phải là một việc làm hay một nghề nghiệp mà là một bổn phận và danh dự của người dân. Trong lúc đất nước lâm vào nguy biến, làm cách mạng là một điều quan trong hơn bất kỳ việc gì khác trong đời ba. Người làm cách mạng tin vào lý tưởng mình đang theo, tinh thần phải vững mạnh, vì vậy gia đình là chủ yếu cho người làm cách mạng. Người làm cách mạng cần có một gia đình vững chắc bên cạnh để yểm trợ cho mình về mọi phương diện.
Ba đã tin tưởng như vậy và ba quyết định rằng người vợ tương lai của ba cũng là một người bạn đời của ba, người có thể làm cho tinh thần mình lên cao và ý chí mình luôn luôn vững mạnh. Người vợ của ba sẽ sanh con cho ba và nuôi dưỡng chúng nên người, dạy con ba yêu nước, yêu dân tộc. Ba để tâm tìm kiếm người đàn bà đó. Ba đã tưởng ba sẽ phải sống cô đơn tới già. Nhưng rồi, năm hai mươi sáu tuổi ba gặp có em gái của một đồng chí. Ba yêu cố đó ngay. Và, như một phép lạ, cô có đủ mọi đức tánh của một người vợ mà ba mơ ước. Ba thưa với ông bà nội rằng với giòng giống của hai gia đình như vậy, ba tin rằng sau nay ba sẽ có những đứa con tuyệt vời. Ông nội bèn chánh thứ hỏi cô gái đó cho ba.
Tôi thấy niềm vui trong đôi mắt sáng long lanh của ba tôi khi người hồi tưởng lại thời trai trẻ của mình.
Ba tôi mỉm cười rồi tiếp tục kể:
- Hoàn cảnh đất nước chúng ta hồi đó không cho phép ba được sống bên cạnh má con, nhưng má con lúc nào, kể cả bây giờ cũng là người gần gũi với ba, hiểu ba nhứt. Ba có thể hiểu được tình yêu và lòng chung thuỷ của má con. Những năm xa nhà, ba nhìn ảnh phản chiếu của một giòng sông im lặng và biết rằng ba không cô đơn. Khi bọn Pháp bắt giam nhiều người làm cách mạng, mối lo sợ lớn nhứt của các đồng chí của ba là con cái sẽ bơ vơ và gia đình sẽ tan nát. Nhưng trong tận đáy lòng ba, ba biết gia đình ta vẫn yên lành và con của ba vẫn được má chăm lo, nuôi dạy. Như vậy, các con thấy rõ là các con rất may mắn mới có bà mẹ như má.
Buổi trưa đó má tôi rầy cho tôi một mẻ:
- Con đã làm ba buồn. má không thích như vậy. Mình không có giúp ích gì được cho bên nhà cũng như người ở lại bằng cách chửi cộng sản trước mặt ba mày. Đừng có hành hạ ba. Đừng có giận cá chém thớt. Cái chế độ đó ra đời không phải để đem hạnh phúc cho dân, mà họ làm giầu làm mạnh cho đảng thôi. Không còn ai cứu nước Việt Nam được, luôn thằng Mỹ cũng chịu thua.
Con không được lớn lên với ba, nên cứ tưởng ba còn trẻ. Trong trí nhớ của con, ba trẻ trung, ba là Việt Minh chống Pháp những bây giờ ba con không còn trẻ nữa. Thôi, để ba về Việt Nam cho ông đem theo những kỷ niệm vui của cuộc viếng thăm này. Đây là lần cuối cùng mình gặp ba. Má yêu cầu con lên xin lỗi ba.
Trong gia đình, ai cũng biết tôi là đứa bướng bỉnh, cứng đầu; vậy mà sau khi má tôi dứt lời, tôi ngồi xuống đất khóc. Má tôi khóc.
Má tôi nhìn ra cửa sổ rồi nói thêm:
- Mà biết con đau đớn lắm, nhưng con còn trẻ, thời gian sẽ làm cho con khuây khoả. Trong khi đó, ba con già rồi, ba không có thời gian để hàn gắn vết thương nào. Đừng để ba mày khổ, tội nghiệp ba.
Trong phòng của Lance, ba tôi nằm nghiêng, lưng quay ra cửa. Tôi ngắm kỹ ông, thấy rõ xương vai dưới lớp áo trắng mỏng. Tôi nghĩ rằng má tôi nói đúng về cảm nghĩ của chúng tôi với ông. Tôi chưa bao giờ trông thấy ba tôi già như lúc này. Đối với tôi, ông luôn luôn là một người Việt Minh cương nghị, đầy nhiệt huyết của một nhà cách mạng chống Pháp. Bây giờ ba tôi già ốm yếu, với mái tóc hoa râm. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ba tôi già. Nhưng tuổi già của ông lại khiến tôi không đồng ý với má tôi, là để ông trở về Việt Nam: tôi càng muốn giữ ông ở lại với chúng tôi.
Hồi còn nhỏ, tôi thường nghe má tôi ao ước sớm được sưn sóc ba tôi, muốn làm những món ăn ngon cho ông, muốn may quần áo, muốn nâng khăn sửa túi cho ba. Bà muốn cùng ông hưởng những giây phút sung sướng khi Hải Vân được khen thưởng mỗi cuối năm học. Ba muốn ông đi gặp ông hay bà hiệu trưởng khi ba nhận được giấy khiển trách về tội Hải Vân nghịch phá trong trường. Tôi thì lúc nào cũng chỉ mong ba tôi trở về gia đình, để tôi không bị mang tiếng là đứa con không có cha. Khi lớn lên, tôi vẫn cần có ba tôi. Những lúc này, khi bước vô phòng, tôi chỉ muốn săn sóc ông.
Tôi bỗng cảm thấy bầu không khí bao bọc chung quanh ba tôi và tôi trở nên mong manh quá, chỉ một bước hụt là tất cả sẽ đổ vỡ tan tành.
Tôi rụt rè để nhẹ tay lên cánh tay ông. Ông quay lại ngay. Ông nhìn tôi bằng đôi mắt hiền lành, bao dung như giữa chúng tôi chưa hề tranh luận gây gổ. Ông bình tĩnh, trìu mến nhìn tôi.
- Ba ơi, con xin lỗi đã làm ba buồn.
Ông trả lời ngay:
- Ba đã tha thứ cho con rồi, nhưng từ nay con đừng nhắc lại chuyện đó trước mặt mà nữa. Con chỉ làm má buồn thôi.
Ngưng một chút, ông tiếp:
- Con à, mình chỉ nên nói chuyện vui với nhau thôi. Trước khi thay đổi đề tài, ba muốn con biết rằng ba rất hãnh diện về cách giáo dục của má trong việc nuôi dậy con của ba, dầu rằng ba đã từng mong mỏi các con hiểu cho lý tưởng của ba.
Ba tôi đổi đề tài:
- Thôi, mình xuống nhà xem đồ chơi mới của Lance đi. Không biết ông già Noel đêm hôm qua cho nó cái gì.
Ông sửa lại quần áo cho ngay ngắn, rồi đi xuống phòng khách ở dưới nhà để gặp mọi người trong gia đình.
Tôi còn nán lại trong phòng và nằm lên đúng chỗ ba tôi vừa nằm lúc nãy để nghe hồi âm của ba tôi. Rồi tôi thầm hỏi:
- Không được gần ba hai mươi lăm năm trước, mà bây giờ cũng không; vậy lúc nào, hả ba? Ba ra đi khi con quá nhỏ để hiểu tại so”, mà bây giờ con già rồi, con vẫn còn mập mờ về mục đích và sứ mệnh ngày ra đi của ba.
Lần đầu tiên tôi muốn buông xuôi hết mối thù, và không hiểu sao ý nghĩ này làm tâm hồn tôi nhẹ như bay. Kệ FBI, CIA, Bộ tư pháp. Kệ luôn ông Griffin Bell bộ trưởng Bộ tư pháp, dù ông đã trông cậy tôi làm nhân chứng trong vụ án Trương Đình Hùng. Tôi mệt mỏi làm người đáng tin cậy. Tôi cảm thấy cô đơn trong sự lựa chọn này. Tôi cũng mệt mỏi, chán nản chuyện nài nỉ, thuyết phục ba tôi làm nhiệm vụ của ông với vợ con và gia đình.
Trên vách tường trong căn phòng tôi đang nằm, má tôi có treo một bức tranh của Đức Mẹ Maria bồng chúa hài đồng. Đức Mẹ nhìn tôi. Tôi vội ngoảnh đi chỗ khác để tránh đôi mắt nhắc nhở của ba, trong khi vẫn nhớ lời hứa của tôi mấy tháng trước. Đó là lời hứa với hai người đại diện của FBI và CIA ngay tại nhà tôi:
- Tôi sẽ ra toà làm chứng, nếu và khi nào Bộ tư pháp cần tới tôi, nhưng chỉ khi việc làm của tôi không phương hại tới địa vị và sự an ninh của ba tôi và anh tôi thôi. Tôi xin long trọng hứa với hai anh như vậy. Đó là bổn phận công dân của tôi. Tôi đã nêu ra kế hoạch này, và tôi sẽ chấm dứt nó một cách trọn vẹn.
Đó là lời hứa của mấy tháng trước, con bây giờ thì sao? Dường như cũng chẳng có gì quan trọng hết. Nếu ngay đêm nay tôi kêu điện thoại cho Rob và Bill để cho hai ông biết rằng tôi đã thay đổi ý kiến, thì lịch sử có gì khác không? Có ai quan tâm không? Tôi thầm nghĩ như vậy, khi tôi nằm trên giường.
Tôi nhìn tôi trong kiếng treo trên vách tường một hồi lâu. Đó là khuôn mặt của một người đàn bà đang tự thuyết phục mình nên bỏ cuộc. Tôi chống cự với người đàn bà trong kiếng, vì tôi biết tôi phải sống với sự quyết định này, từ đây cho đến ngày tôi nhắm mắt.

***

Đêm hôm đó, đêm 25 tháng Chạp, tôi lái xe đưa ba tôi về cư xá của toà đại sứ. Về nhà thì John và Lance đã lên giường nhưng chưa ngủ. Tôi nghe hai cha con kèn cựa với nhau về chuyện gãi lưng. Lance đề nghị:
- Nếu Daddy viết chữ từ A đến Z trên lưng con, tôi mới con sẽ đi trên lưng ba hai phút.
John đáp lại ngay:
- Không, con đi lên lưng ba trước, ba sẽ viết chữ sau.
- Nhưng Daddy luôn luôn ngủ mất tiêu khi con đi lên lưng, rồi Mommy nói “Để Daddy ngủ đi, Lance“. Lance nhại giọng của tôi.
John nài nỉ:
- Đi lên lưng ba đi, con.
Lance hỏi:
- Daddy muốn con đi lên lưng bao lâu?
- Càng lâu càng tốt.
- OK. Xong rồi đó.
Tiếng cười của hai cha con từ trên lầu vọng xuống nhắc cho biết tôi may mắn vô cùng. Từ ngày Lance ra đời, tôi ao ước sao tôi có thể đem niềm vui lại cho ba má tôi như niềm vui Lance mang tới cho vợ chồng tôi. Chúng tôi có nhiều chị em quá, nên má tôi quá vất vả mới nuôi nổi chúng tôi. Bà đã cố gắng không ngừng, đầu tắt mặt tối để lo cho chúng tôi nên người.
Má tôi ngồi trên giường nhìn ra cửa sổ, phía đường Regent Park; ánh sáng từ Camden Town chiếu lên mái những toà nhà xưa bên kia đường. Bà cầm trong tay một tấm hình nhỏ, đó là hình mới nhứt của anh Khôi, ba tôi mới đem qua. Anh tôi mặc áo sơ mi dài tay và quần mầu xám. Ảnh chụp tại phi trường Tân Sơn Nhứt; anh đứng trước một máy bay lớn của Mỹ C-130. Trông anh khoẻ mạnh và đẹp trai như thuở nào.
- Má không biết thằng Khôi nó sống ra làm sao? Mình có còn quan trọng đối với nó không? Hay nó là con bác, con đảng rồi? - Má tôi lau nước mắt bằng tay áo bà ba - Má thắc mắc về anh Khôi quá. Không biết tụi cộng sản có làm gì nó không? Họ có hại gì tới tinh thần nó không?
Tôi an ủi má tôi:
- Má à, anh sống với mình mười bảy năm trời, anh là người tốt. Con nghĩ cộng sản không thể huỷ hoại con cái trong gia đình mình được đâu, trừ khi người đó muốn như vậy.
Má tôi ăn tỏ vẻ lo lắng:
- Muốn sống còn, con người ta phải ngả theo trào lưu của xã hội, rồi quên hết phải quấy con ơi.
Má tôi nhìn hình ảnh Khôi một lần nữa, rồi luồn vô cái khuôn hình nhỏ.
Căn phòng nhỏ bé trở nên im lặng một cách khó chịu. Tôi nghe như trận bão trong lòng tôi bắt đầu trở lại. Ước gì đêm nay tôi nằm chiêm bao thấy được ông ngoại, để ông chỉ cho tôi gỡ cái rắc rồi này.
Tôi tin rằng nếu tình thương của ba tôi dành cho chúng tôi không tăng thêm thì cũng không tàn lui. Tình yêu của cha mẹ là bất diệt và vô điều kiến. Tôi đã từng nói với tôi rằng, làm con của ba má tôi không phải dễ, vì mọi người phải thấy rõ sự phức tạp trong mối liên hệ của mọi người trong gia đình. Chúng tôi phải hiểu và chấp nhận tình trạng hiện tại, nếu không, mình sẽ tự xây những bức tường ngăn cách giữa a mình với những người ruột thịt, máu mủ.
Đêm hôm đó, sau khi hai cha con John ngủ, má và tôi xuống dưới nhà để tiếp tục nói chuyện. Tôi ngạc nhiên, thấy thái độ của má tôi đã thay đổi. Ba đứng về phe ba tôi và yêu cầu tôi đừng nói gì làm ông buồn.
Suy nghĩ một lát, rồi, lần đầu tiên, kể từ ngày ba tôi tới Luân Đôn, tôi nói tới chuyện tôi làm việc cho hai cơ quan tình báo và phản gián:
- CIA sẵn sàng đưa ba sang Mỹ ngay nếu mình bằng lòng. Rob nói với con như vậy.
Má tôi liền cảnh cáo:
- Ba con sẽ tự tử, nếu con làm như vậy.
Tôi lại nói ngay:
- Con nghĩ con nên nói cho ba biết con đang hoạt động cho CIA.
Má tôi lắc đầu, khoát tay hốt hoảng.
Tôi giải thích:
- Con thì nghĩ, ba nên biết như vậy trước khi ba trở về Việt Nam. Con không muốn giấu ba một điều gì. Mà ba cũng cần biết để đề phòng.
Má tôi chậm rãi nói:
- Con cứ làm điều gì mà con thấy cần phải làm, cũng như ba con vậy. Con đừng có nghĩ con có tội vì con chồng cái đảng của ba. Con dính líu với CIA cũng không làm mất uy tín của ba con đâu, nhưng liên hệ giữa ba con và con sẽ chấm dứt kể từ đây.
- Con không biết xử sự làm sao má à? - Tôi nói yếu xỉu.
- Má biết. Cái gì ba không biết thì không ai hại được. Má biết, má không thể cấm con làm việc cho CIA, cũng như mà không thể đòi ba con bỏ cộng sản được. Con hiểu lòng trung thành nó ảnh hưởng con người đến mức độ nào rồi.
Má tôi nhìn tôi trách móc. Bà chỉ tay vô mặt tôi, nói tiếp:
- Con là người hiểu điều đó hơn ai hết.
Tôi biết má tôi phiền tôi làm về việc hợp tác với CIA và Bộ tư pháp.
- Con cảm ơn sự tháng thắn của má, những mà con vẫn nghĩ con phải cho ba biết việc làm của con.
- Biết sự thật?
- Dạ.
Ba nghiêm giọng nói với tôi:
- Con đã ráng hết sức của con. Con đổ mồ hôi, nước mắt vô việc này với họ. Còn con muốn tự tay con bắt hai thằng gián điệp, bây giờ sắp thành công. Con không muốn để nó lọt lưới, phải không?
- Dạ phải.
- Vậy thì con đừng nói gì với ba hết. Ông không kiếm cách cứu thằng Hùng, nhưng ba mày phải cứu chú Thi. Ông sẽ cố gắng che chở, báo về cho Bộ ngoại giao khỏi bị mất mặt, ông cũng sẽ bảo vệ quyền lợi của chánh phủ Việt Nam. Như vậy thì con với mấy người bạn FBI, CIA của con chỉ còn nước nhìn nhau mà khóc thôi!
Má tôi nói câu nào rõ câu đó.
Tôi cái bướng:
- Con nghĩ nếu con cho ba biết sự thật, có thể ba thay đổi ý, rồi ba ở lại đây luôn.
Trong khi nói, tôi phải giữ vẻ mặt bình tĩnh, vì chính tôi cũng nghĩ “ngu ơi là ngu”. Má tôi khuyên:
- Con phải giữ kín chuyện của con, tránh cho ba con khỏi che đậy, khỏi nói láo với đảng của ông về con gái cưng của ông. Ba con phải ở trong địa vị của một người vô tư, vô tội, một người bị con gạt, không biết gì hết, để yên thân ba. Con hiểu không?
Ba nghiêm giọng nói tiếp:
- Con không thấy ba con cẩn thận sao con? Ông không bao giờ hỏi mấy thằng rể làm gì, không bao giờ muốn biết cấp bậc của thằng John. Ba có hỏi má về chồng của chị Kim, chồng của chị Cương, nhưng bà chỉ muốn biết hai người đó có tốt với con gái của ông không thôi? Ba con không bao giờ hỏi tụi nó làm nghề gì hoặc giầu hay nghèo. Như một người tù binh, tốt hơn hết ba chỉ cần biết tên của con, tuổi của con, ngoài ra ba không nên biết gì về con hết.
Má tôi nhìn tôi một hồi lâu rồi cười, nụ cười vị tha, trìu mến. Bà có vẻ hài lòng. Tôi phục má tôi, trong hoàn cảnh này mà bà vẫn giữ được tính hài hước. Tôi nhìn bà, rồi hứa:
- Dạ, con nghe lời má. Con hy vọng má đúng.
Bà tỏ vẻ bằng lòng, tin tưởng lời hứa của tôi, rồi đi ngủ.

***

Ba tôi sẽ rời Luân Đôn ngày thứ Ba, hai mươi bảy. Vì vậy, ngày cuối cùng, ông muốn tôi đưa ông tới toà đại sứ Việt Nam. Ông muốn cám ơn các nhân viên toà đại sứ đã tiếp đãi ông tử tế. Nhưng ông cũng muốn tôi đi theo để gặp những người đã từng làm việc dưới quyền ông khi ông là đại sứ lưu đông ở các nước vùng Bắc Ây những năm 1970.
Toà đại sứ chưa có đại sứ chánh thức. Ông Trần Hoàn mỗi được chỉ định, những theo lời “đồng chí Chiểu” thì Bộ ngoại giao sẽ cử ông ta làm đại sứ.

Khi chúng tôi tới toà đại sứ, ba tôi gặp riêng ông Thi bốn mươi lăm phút để thảo luận về chuyện hành chánh. Ông Thi là người tạm thời lãnh đạo toà đại sứ, chờ Bộ ngoại giao chính thức bổ nhiệm một đại sứ.
Trong bữa ăn điểm tâm, hai vị còn nói tới thời gian cùng làm việc ở Oslo và Copenhagen, nhắc lại những đồng chí cũ hiện này giữ chức vụ gì và ở đâu, ở Việt Nam hay hải ngoại. Tôi mừng là ông Thi đã không hỏi nhiều về tình trạng sức khoẻ của má tôi, chắc chắn ông cũng được thông báo là má tôi “bịnh nặng”.
Cả ông Thi lẫn ba tôi đều khuyến khích tôi nên liên lạc thường xuyên với toà đại sứ để quen biết các nhân viên sau khi ba tôi đã về nước, ông Thi vui vẻ nói:
- Chúng tôi là gia đình của chị.
Gần trưa, ba tôi và tôi rời toà đại sứ để các nhân viên có thể về chung cư ăn cơm trưa. Chúng tôi vừa bắt đầu đi bộ dưới bầu trời xám ngắt của Luân Đôn, thì mưa lác đác rồi với những cơn gió lạnh buốt. Chúng tôi phải kiếm taxi để đi. Trong khi đứng chờ ở một góc đường, nhìn những xe taxi có khách chạy vụt qua, tôi nắm tay ba tôi. Vì tôi siết mạnh quá, ba tôi bị đau ngón lấy cái; đó là ngón tay bị gẫy khi mật thám Tây tra tấn ba tôi mấy chục năm về trước. Để thử lòng ba tôi một lần nữa, tôi nói:
- Ba à, con chưa bao giờ nói với ai chuyện này: năm con mười hai tuổi, con hay nghĩ tới Thượng đế, rồi con coi ba như Thượng đế của con. Nhiều lần con tự trấn an rằng “dù ba không ở gần con, nhưng ba vẫn ở bên con, như Thượng đế luôn luôn ở bên cạnh mọi người”. Con khắc phục được con sông Bến Hải, 1.600 cây số cũng không làm cho ba xa con được.
Ba tôi mỉm cười và tỏ vẻ bằng lòng.
- Ba muốn con hiểu điều này - ông nói - Ba con có trách nhiệm với nhiều người ở Việt Nam, trong đó có anh Khôi của con. Nếu con giữ ba ở lại đây, ba sẽ chết dần, chết mòn. Như vậy, ba cũng không ích lợi gì cho con của ba nữa.
Một lần nữa, trong khi nói với tôi, mắt ông nhìn về một nơi xa vắng.
Tôi giận ba tôi, vì ông một mực từ chối tôi. Bỗng tôi có ý định xúc phạm ông cho đã nư, đã giận. Tôi nói:
- Có thể ba không bao giờ muốn sống gần tụi con; sao ba không nói thẳng cho rồi!
Ba tôi cãi lại liền:
- Ba không nói vì điều đó không dùng sự thắt. Con hãy nhìn thẳng mắt ba để nghe ba nói, rồi ghi nhớ suốt doi. Con cũng nên nói lại cho chị em con và con cháu con cũng biết. Ba của con rất yêu con, yêu má con và các anh chị em con. Ba đã yêu như vậy trong quá khứ, và ba còn yêu mãi mãi trong tương lai. Ba đã phục vụ đất nước hơn bốn mươi sáu năm; ba vẫn tiếp tục phục vụ cho tới ngày đất nước không còn cần ba nữa. Nếu ba không trở về Việt Nam, ba sẽ chỉ là một người bỏ cuộc, một người đào ngũ. Lúc đó con có còn hãnh diện về ba nữa không?
Ba tôi nhìn tôi chằm chặp để chờ câu trả lời của tôi. Tôi mạnh dạn đáp:
- Con đâu có xúi ba đào ngũ. Con chỉ muốn ba về hưu để ở với gia đình. Để cho những người khác làm chánh trị trên sân khấu của Việt Nam.
- Bây giờ ba hỏi ngược lại con. Ba đã nghĩ vợ chồng con và Lance về sống ở Việt Nam. Ba sẽ không ép các con vô đảng cộng sản. Ba muốn các con về làm việc cho chánh phủ Việt Nam thôi. Chuyên môn của John về năng lượng mặt trời rất cần cho nước ta ngày nay. John sẽ được trả lương cao, và các con sẽ có một biệt thự riêng để ở, có kẻ hầu người hạ. Con nghĩ sao?
Tôi ớn lạnh vì đề nghị khủng bố khiếp của ba tôi, và ông biết ông đã thầng cuộc. Ông nói:
- Nào, bây giờ thì con hiểu tâm can của ba rồi. Minh đâu có khác gì nhau. Mình là con nhà họ Đặng, và mình sống theo nguyên tắc đạo đức riêng của từng người.
Ông nhìn tôi, nét giận hờn biến mất rồi nói tiếp:
- Con hãy cười vui khi ba trở về Việt Nam, và tin rằng ba của con lúc nào cũng xứng đáng với sự tin cậy của con. Ba sẽ hết lòng phục vụ dân tộc của chúng ta.
Tôi vùi mặt tôi vô vai ông để chùi nước mặt bắt đầu chảy xuống má. Tôi nghẹn ngào nói:
- Những hy vọng, những lo sợ kinh hoàng, những tuyệt vọng của người dân miền Nam Việt Nam là những hy vọng, những lo sợ kinh hoàng và những tuyệt vọng của chính con, ba à.
Trời lạnh run, tôi vừa nói vừa đánh bò cạp.
Ba tôi đã quen cái lạnh ở Liên Xô, cho nên cái lạnh của Luân Đôn không làm cho ba tôi khó chịu. Ông bình tĩnh nói:
- Ba hiểu ý con.
Đúng lúc đó, khi mưa chiến dịch nặng hạt, một xe taxi trống trờ tới. Chúng tôi vội vàng vô xe để về nhà. Ba tôi lau những hạt nước mưa đóng trên tóc bằng cái khăn tay má tôi mới tặng ba trong ngày Giáng Sinh.

***

Trong buổi họp mặt gia đình tôi hôm đó, má tôi bắt tôi không được nói tới chuyện chánh trị, Việt Nam, cộng sản, từ bản… hay bất cứ vấn đề gì có thể gây tranh luận. Suốt buổi chiều, tôi nấu nướng những món ba tôi thích. Trong khi đó, ba tôi chơi với Lance ở phòng khách, gần lò sưởi. Ông dậy cháu ông vẽ, rồi ông còn ngồi cho cháu vẽ chân dung ông. Khi Lance vẽ xong, John nhìn bức hình, nói:
- Con có hoa tay như ông ngoại.
Ba tôi có ý định ở chơi lâu với gia đình buổi tối cuối cùng, nên đã kêu cho người quản gia để báo tin ông sẽ về trễ. Ông đã vui với chúng tôi tới quá nửa đêm. Tôi nghĩ rằng “lệnh cấm” của má tôi đã khiến cho bầu không khí của buổi tối đó êm ấm. Ba và John nói chuyện về nhiên liệu mặt trời sẽ được sử dụng nhiều trong tương lai; ba tôi cũng hiểu rất nhiều về địa hạt này.
Tuy nhiên, đêm hôm đó cũng có một chút buồn, khi ba tôi kể lại chuyện gặp cô tôi, em ruột của ba. Sau ngày “giải phóng”, ba tôi tạm trú trong khách sạn Majestic ở Sài gòn. Một hôm, nhân viên trục ở quầy phía trước báo cho ba tôi biết có người muốn gặp ba tôi. Ông xuống ngay và thấy một người đàn bà là hoắc, ông tự hỏi: “Bà già này là ai đây?”
Vừa thấy ba tôi, người đàn bà đứng dậy đưa hai tay chờ ôm lấy ông. Ông giựt mình hỏi:
- Xin lỗi, chị là ai?
Người đàn bà oà tên khóc, ôm lấy ông, sụt sùi nói:
- Anh ơi, em, em là em… của anh đây!
Lúc đó ba tôi mới nhận ra có Sáu Trong, em của ba, từ Ba Càng lên Sài gòn tìm anh. Ba tôi thứ Năm, cô thứ sáu, cô nhỏ hơn ba tôi khoảng mười tuổi.
Lúc tôi rửa chén, ba đi theo nói chuyện. Đây là lên đầu tiên ba tôi nhắc tới những vấn đề rắc rồi của anh Khôi với chính quyền Hà Nội mấy năm về trước.
Ba tôi lúc nào cũng quan tâm tới anh, nhưng chính anh lại gây cho ba tôi nhiều chuyện khó khăn, phiền phức. Khi ở Hà Nội, theo lời ba tôi kể, anh quan hệ với nhiều phụ nữ, khiến các đồng chí cao cấp của ba tôi chau mày. Có người đã cố gắng thuyết phục anh sửa đổi, học tập để trở thành một người có hạnh kiếm tốt, ngõ hầu có thể được thu nhận vô đảng cộng sản, nhưng anh làm ngơ. Điều này đưa ba tôi vô cái thế rất khó xứ.

Trong thời còn chiến tranh, một nữ mật vụ của công an ngầm được lịnh điều tra anh Khôi, giả bộ làm người tình của anh. Một đêm, sau khi anh ngủ thiếp đi, cô mật vụ gắn máy nghe lén dưới giường và bàn viết của anh. Bất chợt anh thức giấc, bắt quả tang nên nổi nóng đánh cô ta. Anh bị đưa ra toà về tôi “nhục mạ một nhân viên nhà nước”. May mắn cho anh, ông chánh án lại là bận của ba tôi và ông tin lời của anh Khôi, khai không biết tình nhân là “nhân viên nhà nước”. Nhờ vậy, anh không bị kết tội về hành vi chánh trị.
Ba tôi tiếp tục:
- Anh của con đã lớn, ba không thể bắt buộc nó phải nghe lời ba. Nó có làm gì, thì vẫn là con của ba; ba không thể giận nó lâu được.
Ba tôi thương anh Khôi quá, nên đã tha thứ mọi lỗi lầm của anh dù những lỗi lầm ấy làm ông mắc cỡ. Tôi lại phân tách rằng, cũng có thể trong tâm thức của ba, anh Khôi là hiện thân của một người dân muốn sống tự do; anh như một luồng gió sạch, lành mạnh trong đời sống của ông. Anh Khôi là cái gì thật, rất bình thường, trong cái thế giới giả tạo của xã hội chủ nghĩa. Anh như con cá cần nước, con hổ nhà rừng; nếu mất anh Khôi, ai nhắc nhở ba ngoài kia người dân cũng muốn sống.
Đêm hôm đó, chúng tôi không khóc khi ba tôi từ biệt. Ba má tôi đã nói chuyện riêng với nhau thật lâu trước khi ba tôi ra đi. Ba tôi ôm chặt từng người từ trong bếp, rồi ra phòng khách ông còn ôm má tôi lần nữa, ông hơn Lance và ôm ghì thằng cháu của ông lâu thật là lâu. Ông bắt tay John, rồi ôm anh và nói:
- Cám ơn con của ba. Khi nào tình thế giữa hai nước thuận tiện hơn, ba sẽ mời con về thăm Việt Nam.
- Anh ráng kiếm cách cho Khôi qua đây nhen! - Má tôi câu cuối cùng.
Ba tôi im lặng, đội nón lên, rồi cầm lấy cái túi xách từ tay bà, đi ra cửa mà không ngoảnh lại nhìn.
Tôi lái xe chầm chậm về nhà trọ của toà đại sứ, mà muốn đường dài hơn chút nữa.
Đường xa vắng vẻ và yên lặng trong đêm khuya. Lúc đó gần một giờ sáng. Cái túi xách để dưới chân ông. Trong túi có hai bộ quần áo ngủ mới, hai áo sơ mi và mấy cái quần xà lỏn má tôi mới may cho ông. Ngoài ra con hai cái sơ mi mới của anh Khôi nữa.
Chúng tôi đánh thức ông quản gia dậy, ông mở cửa cho chúng tôi vào, rồi lặng lẽ đi ngủ lại ngay. Tôi muốn giúp ba tôi thu xếp hành trang, nhưng ông từ chối và nói:
- Ba quen xếp hành lý một mình, vì xếp lấy ba mới dễ tìm đồ ba cần.
Cuộc sống của ông đã khiến ông quen làm như vậy. Mọi thứ phải theo khuôn khổ, hạn chế trong một giới hạn nào đó. Cái trật tự ấy khiến ông thoải mái trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi thắc mắc, ba tôi sống với những thôi quen và trật tự đó quá lâu, không biết ba tôi còn có thể hoạt động bình thường không, nếu được tự do. Ông có sẵn sàng tìm tự do nếu không bị cộng sản kiềm chế không? Tôi cần tìm hiểu ba tôi một chút nữa. Tôi ngồi xuống mép giường rồi nắm lấy tay ông, hỏi:
- Ba, bây giờ không đúng lúc, cũng không đúng chỗ, nhưng con muốn hỏi ba một điều.
- Cứ hỏi đi.
Tôi hít vô một hơi dài, rồi đánh liều như người chơi thể thao phóng từ đỉnh núi xuống một giòng sông. Hên thì sống, mống thì chết, tôi hỏi:
- Nếu con công khai chống lại chánh phủ của ba thì ba có bị ảnh hưởng gì không?
Ông có vẻ bực mình, nuốt nước miếng, rồi đáp:
- Ba là một thành phần của Chánh phủ mà con vừa nói tới.
Tôi nhấn mạnh:
- Con chống Chánh phủ, chớ không phải chồng ba!
Ông nói bằng một giọng lạnh lùng:
- Con là con, ba là ba. Ba không chịu trách nhiệm những hành động của con.
- Nói một cách khác, nếu con công khai chống Hà Nội, ba có bị khiển trách gì không? Con muốn biết rõ điều này.
Ông có vẻ giận dữ, lắc đầu, nói sang chuyện khác:
- Bây giờ trễ rồi, sáng mai ba phải dậy sớm vì ba phải tham dự một buổi họp ở toà đại sứ. $pageOut$pageInChương Kết

Vậy là cuộc viếng thăm chấm dứt!

Chúng tôi đã được gặp ba tôi và đã hỏi bằng nhiều cách muốn ông trở về sống với gia đình và đã bị ông từ chối. Má tôi đã yêu cầu được gặp con trai của ba, và lời yêu cầu cũng đã bị bác bỏ. Không còn gì để làm hay để nói nữa.
Bill Fleshman hăm hở sửa soạn về Washington với vẻ mặt của một người thẳng cuộc khi từ biệt chúng tôi. Trong khi đó, lần đầu tiên Rob và tôi cảm thấy cùng một phe với nhau - những dự tính, những mục đích của tôi và CIA sắp sửa bị huỷ bỏ hết, khi bị đưa ra công khai trước toà án. Tôi muốn chia sẻ với Rob cái cảm giác của người bị thất bại, nhưng không có lời nào nói lên được cảm tưởng đó. Một bầu không khí trống rỗng bao phù chúng tôi khi tôi gặp Rob lần chót tại Reeve Mouse.

Trên xe taxi về nhà, tôi cố gắng quên chuyện đã qua. Trước mắt là chuyện bây giờ, hôm nay và ngày mai. Tôi nghĩ tới Trương Đình Hùng. Từ đây về sau, cơ quan truyền thông sẽ biết đến anh với cái tên David Trường. Tôi hình dung vẻ mặt sửng sốt của anh khi bị bắt, rồi tưởng tượng ra cảnh anh bị giải từ nhà tù ra toà án. Hùng sẽ nở nụ cười giượng trước những ống kính của các phóng viên nhà báo và đài truyền hình, nụ cười của một kẻ tự cho mình là đã hy sinh cho một lý tưởng, và tôi cũng nghĩ tới phản ứng của ba tôi ở Sài gòn, khi ông hay tin động trời về đứa con gái của ông. Ông sẽ nghỉ một ngày ở nhà để sống biệt lập trong căn biệt thự của ông, ông sẽ thiền, sẽ nằm bất động như vài lần ông đã nằm ở tư thế đó tại nhà tôi.
Chúng tôi rời Luân Đôn ngày 12 tháng Giêng năm 1978. Bây giờ nghĩ lại, đó là ngày lý tưởng để từ giã Luân Đôn. Hôm đó, lò sưởi căn nhà mướn của tôi bị hư, nhà lạnh cóng, trong khi tuyết bao phủ khắp nơi và mặt trời ẩn trốn sau những đám mây u ám từ nhiều ngày đó. Trời lạnh lẽo cũng như sự lạnh lùng của má tôi. Tuyết rơi suốt dọc đường đưa gia đình tôi ra phi trường Heathrow. Từ đây, nước Mỹ là nhà…

***

Với tâm hồn của người du mục, John và tôi đã chịu đựng được những cuộc di chuyển và thay đổi liên tục của gia đình hải quân. Khi trở về Washington, chúng tôi ở tạm trong một khách sạn gần hai tuần lễ để tìm nhà ở vùng Springfield, Virginia. Bộ tư pháp khuyên chúng tôi không nên lấy đồ trong kho về xài, vì có thể sau phiên toà, chúng tôi sẽ phải di chuyển tới một nói an toàn hơn. Khi kiếm được một ngôi nhà để mướn, chúng tôi phải mướn đồ đạc, bàn ghế. Chúng tôi đi PX của quân đội để mua nồi niêu xoong chảo và các thứ lính tinh cần thiết khác. Mà về ở với em tôi ở Alexandria, Virginia. Trong khi John đi làm, Lance về học lớp Ba, trường gần nhà, đi bộ tới được. Trong khi đó, ngày ngày tôi phải ra Alexandria, để thảo luận với luật sư của Bộ tư pháp và CIA, chuẩn bị cho ngày ra toà.
Trong thâm tâm, má tôi vẫn tin rằng anh Khôi sẽ không trốn khỏi Việt Nam khi mà ba tôi còn ở đó. Bà mong Bộ tư pháp trì hoãn cuộc khởi tố càng lâu càng tốt: biết đâu có một phép lạ nào đưa tới.
Những chả có phép lạ nào hết. Cuối cùng, Bill Fleshman cho tôi biết người tà sẽ bắt David Trường và Ronald Humphrey vào ngày 31 tháng Giêng, 1978. Buổi tối 30, tôi rước má tôi về nhà tôi ngủ để có nhau.
Khi tôi sửa soạn cho Lance đi ngủ, má tôi gỡ nút áo cho cháu xong thì ngước lên nhìn tôi, má nói:
- Con có một ngày nữa thôi, rồi con sẽ hối hận.
Tôi đáp:
- Con sẽ không có gì để hối hận, má à. Như má, con cũng đâu có muốn chuyện này xảy ra. Con đã làm việc với thằng Hùng, giả bộ là đồng chí của nó, đóng kịch là đồng loã với nó suốt gần một năm trời. Con đã ăn sáng, ăn trưa với nó, con đã uống trà trên nhà của nó. Có một lần nó hết tiền, con cho nó năm đồng bạc để đi xe bus. Con tội nghiệp nó như con tội nghiệp những người từ tội khác.
Má tôi vẫn lạnh lùng, không nhìn tôi.
- Má, đây là nhà của mình, quê hương mới của mình. Con tin tưởng một cách mãnh liệt là con có bổn phận phải bảo vệ nước này. Hồi đó, mình sống trên đất Việt Nam mình không có làm gì để bảo vệ đất nước, giỏi nhứt là không làm Việt Cộng thôi. Việt Nam như cái cây bị người ta bẻ hết trái mà không ai vun xới, nên mình mới mất miền Nam. Bây giờ…
Má tôi có vẻ giận, bà cắt lời tôi:
- Con không nên dậy đời má như vậy.
- Má đừng làm khó con nữa. Mấy tháng nay con như người sống dưới địa ngục kể từ ngày Bộ tư pháp đưa chưn vô nhà tụi con.
Ba nói:
- Con có dịp từ chối họ mà.
Tôi không tin má tôi muốn nói như vậy. Tôi chưa kịp nói gì, thì bà tiếp:
- Má thấy má vô dụng trong cái nhà này rồi. Hay là con để má đi Atlanta ở với chị Kim và Minh Tâm đi.
Thú thật, nghe má tôi nói vậy, tôi nhẹ trong lòng vô cùng. Thật ra, ở Washington má tôi không giúp gì được cho tôi, ngày nào hai mẹ con gặp nhau rồi cùng bàn đi bàn lại: tôi bị la rầy, má trách đúng lắm. Tôi muốn tránh mặt má tôi, những trốn đâu trong căn nhà mướn chỉ có ba cái phòng ngủ, ngoài sân thì tuyết phủ đầy đường. Xa nhau sáu trăm dặm, may ra tránh làm khổ nhau. Ý định này tôi cũng nghĩ từ trước đó, những không dám đề nghị, sợ má giận là tôi “đuổi” má.
Nhớ lời ông ngoại tôi dậy: “Làm người khó, làm chó thì dễ”. Làm người Việt Nam càng khó hơn ngoại ơi!
- Dạ, con sẽ mua vé máy bay cho má đi xuống chị Kim. Nhưng con muốn má biết là má đã nghĩ không đúng khi má nói: mà vô dụng ở đây. Lúc nào con cũng cần má, má à. Con dệt chiếc chiếu này cho con thì con nằm lên nó; nó êm thì con nhờ, nó có gai có gốc thì con chịu. Con đâu có mượn ai nằm lên giùm con được.
Má tôi hôn Lance, chúc cháu ngủ ngon, rồi tắt đèn. Lance hỏi nhỏ:
- Má cãi lộn với bà ngoại hả?
- Không, bà với má bàn công chuyện.
Lance nói bằng một giọng nghiêm trang:
- Con nghĩ bà ngoại giận má đó.
- Không, bà không có giận má đâu.
- Tốt.
Rồi Lance đổi giọng nhõng nhẽo nói:
- Má xoa lưng cho con đi, rồi viết chữ từ A tới Z cho con ngủ.

***

Tôi thức trắng đêm, nghĩ hoài đến những thử thách, gay go sắp tới. Khoảng sau giờ rưỡi sáng, tôi nhón gót ra khỏi giường rồi đi vô bếp pha cafe. Ngoài sân, có một lớp tuyết mỏng mới rơi đêm đó. Tuyết phủ lên những mảng bằng từ nhiều ngày trước. Bốn bề yên lặng, tôi nghe nhịp đập của tim tôi. Một vài miếng tuyết dầy rơi từ nóc nhà xuống cái bàn ngoài sân và trên nắp thùng rác, làm tôi giựt mình.
Ý kiến má tôi đi Atlanta là ý kiến hay. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy bức bí, hồi hộp một cách kỳ lạ khi tôi tới gần má tôi. Tôi hoảng sợ khi nghe tiếng chân của bà đi xuống nhà bếp. Tôi làm bộ chăm chú vô việc pha cafe và thay giấy lọc để khỏi phải nói chuyện với bà. Nhưng rồi bà lên tiếng trước:
- Tối hôm qua má ngủ không được.
- Con cũng vậy, suốt đêm con nghĩ hoài tới Trương Đình Hùng.
Bà hỏi:
- Nếu chuyện đó làm con khổ tâm, tại sao con lại làm?
Tôi miễn cưỡng trả lời:
- Tại con phải làm.
Sau khi Lance đi học, John đi làm, má tôi về phòng, kéo màn cửa sổ che lại rồi đi nằm. Tôi mở va-li, lấy ra mấy bộ đồ để ủi, giết thì giờ.
Khoảng mười giờ rưỡi, John về nhà. Tôi hơi ngạc nhiên thấy anh về sớm, những mừng quá, vì tôi sợ cái yên lặng ngợp thở trong căn nhà này rồi. John rủ tôi đi chợ mua với thứ lặt vặt.
Chúng tôi mời má tôi đi cùng, nhưng bà từ chối, viện cớ là trời lạnh. Quá trưa một chút, trên đường về nhà, tôi mở radio nghe im tức, thì ngay lúc đó người xướng ngôn viên đọc bản tin Trương Đình Hùng và Ronald Louis Humphrey vừa bị bắt. Tôi chưa bao giờ gặp Humphrey. Hùng chỉ cho tôi biết ông ta là “một người có thẻ đặc biệt để lên từng lầu thứ bảy của Bộ ngoại giao và có thể lấy bất cứ tài liệu nào chúng ta muốn”.
Thay vì thấy lòng nhẹ nhõm và vui mừng vì thành công, tâm tư tôi tràn trề sự thương xót cho Hùng. Tôi nhướng to hai con mắt để nước mắt khỏi trào ra. John đưa khăn tay cho tôi. John biết tôì sẽ xúc động hơn, vì vậy anh mới bỏ sở vế nhà với tôi. Nếu không có người chồng hiểu tôi, bao bọc tôi như John, ai cứu má và hai em tôi trước ngày cộng sản cướp miền Nam? Ai nâng tôi khi ngã, ai cười tôi khi tôi không biết kể chuyện cười?
- Dễ nhứt là mình tránh làm những việc phải! - Tôi than thở
- Không, không phải vậy. Làm sao sống được với lương tâm của em, nếu em từ chối Bộ tư pháp bây giờ? Em sẽ cảm thấy như một con lừa.
Tôi mỉm cười trong nước mắt:
- Trên thế gian này không thiếu gì con lừa; có thêm một con nữa cũng chẳng chết ai.
Chồng tôi nghiêm giọng:
- Đứng có nói bậy như vậy. Em đã tự há giá em. Việc em làm là một việc trọng đại. Thời gian sẽ cho em hiểu việc em làm cho đất nước này.
- Nghe cổ lỗ sĩ quá! Em có cảm tưởng mình là một người non dại đang làm một việc cũ rích cho Chánh phủ.
Anh nói:
- Tốt nhất là em nên im lặng, đừng nói gì nữa, nếu không muốn anh nổi giận.
Nghe giọng anh, tôi biết anh đã nổi giận rồi.

Sáu giờ chiều hôm đó, má tôi coi tin tức dài truyền hình, bà giữ im lặng, không thèm nói với tôi một lời. Tôi không coi truyền hình, bỏ lên lầu đọc chuyện cho Lance nghe. Tôi thầm tự hỏi, tôi sẽ phải nói gì với con tôi, nếu thằng nhỏ nghe tin tức về chuyện tôi dính dấp vô, hoặc thấy hình tôi trên bảo trong buổi xử án!
Cho tới giờ phút này. Lance vẫn tưởng má nó là một người “buôn bán đồ sứ” bên Paris. Chuyện gì khó qua mà John thế tôi được, tôi đùn cho anh. Thôi thì để chừng nào cần cho Lance biết, bà nó nói chuyện với nó giùm tôi vậy.

Tin tức báo chí và truyền hình cho biết David Trường bị bắt tại một sở lựa thơ trên đường K vùng Tây Bắc, Washington. Có lần Hùng nói với tôi rằng anh chọn việc làm trong một sở nhỏ. Việc lựa thơ là việc rất tầm thường, để che mắt mọi người cho anh làm “việc lớn”. Còn ông Humphrey bị bắt ở một công sở quan trọng hơn, đó là trụ sở của cơ quan Thông tin Hoa Kỳ. Người ta cũng nêu tên một số đồng loã nhưng không bị bắt, như: Huỳnh Trung Đồng, chủ tịch Hồi Việt kiều yêu nước tại Paris; Phan Thanh Nam của toà đại sứ Mặt trận giải phóng miền Nam tại Paris, và đại sứ Đinh Bá Thi, trường phái đoàn Việt Nam cộng sản tại Liên hợp quốc ở New York.
Cho đến lúc này, Bộ tư pháp chưa tiết lộ danh tánh của những người hoặc những nhân viên mật vụ tham dự cuộc điều tra, kể cả tôi. Không một ai thuộc phe cộng sản nghi ngờ tôi. Sự che giấu lý lịch của tôi có thể coi như hoàn hảo đến độ Nguyễn Thị Ngọc Thoa, đồng chí của David Trường vội gởi thơ khẩn cấp qua Luân Đôn cho tôi để báo động, khuyên tôi không nên về Mỹ và nên có một luật sư để che thân. Chị cũng khuyên tôi nên đốt hết mọi giấy tờ liên lạc giữa tôi và Hùng, cũng như với chị và những hội đoàn Việt Nam. Cuối thơ, chị nhấn mạnh: “Đừng về Mỹ!”
Huỳnh Trung Đồng cũng gởi một buu thiệp bí mật bắt tôi huỷ mọi giấy tờ hoặc tài liệu “liên hệ giữa cô và chúng tôi”, ông ra lịnh cho tôi “không được tới gần toà đại sứ và các nhân viên. Tôi giận hơn là sợ, liền gọi cho John biết. Sau đó tôi gọi ông Don Marsland, người giám sát của chiến dịch “Magic Dragon”. Chỉ trong vòng có mấy phút, John về tới nhà: nhân viên FBI cũng tới ngay sau đó. Cả xe cảnh sát cũng hú kèn chạy tới. Nhà biến thành một nơi công cộng. Các điều tra viên lấy dấu tay trên nắm cửa, mặt bàn, tủ lạnh, bếp. Tôi phải trả lời liên tục những câu hỏi má tôi biết chẳng có liên quan gì cho cuộc điều tra. Điều mà tôi lo ngại hơn hết là con tôi. Vì vậy, tôi yêu cầu mọi người cố gắng làm cho xong việc trước khi con tôi đi học về. Tôi không muốn Lance lo sợ. Tôi muốn con tôi sống một cách vô tư, bình thường như những đứa con có cha mẹ bình thường hơn tôi.Đừng để cho bất cứ ai biết cô là con gái của ông ấy”.
Là một điệp viên, tôi coi những lời cảnh cáo đó như mội lời khen cho thành tích của mình. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không để lại một dấu vết nào chứng tỏ tôi theo phe “tư bản” hoặc tôi là một tên “phản động”.
Mãi tới ngày 17 tháng Ba, báo chí mới biết “Keyseat” là ai, khi luật sự của David Trường đệ trình toà an một bản yêu sách, hỏi về lập trường và động cơ của tôi. Trong bản yêu sách, ông ghi địa chỉ của tôi ở số 8 Regal Lane, Regent Park, London. Đó là địa chỉ cuối cùng của tôi mà Hùng biết.

Hôm sau Lance đi học về, nói với tôi rằng cô giáo của Lance đưa hình tôi trong tờ báo, hỏi có phải người làm chứng trong vụ án là má của Lance không. Lance trả lời cô giáo: “Chắc là đúng vì chỉ có một Dung Krall đã ở nhà số 8 Regal Lane. London thôi”. Vợ chồng tôi đã mất nguyên một buổi tối để giải thích đứa nhỏ mới bảy tuổi hiểu về những hoạt động của má nó trong hai năm qua. Nó lắng nghe cẩn thận, rồi cuối cùng nói:
- Vậy là má làm cho FBI! Con thấy Bill Fleshman có bộ dáng của FBI.
Tôi và John nin cười muốn bể bụng.
Tôi không rõ con tôi hiểu việc này tới mức nào, nhưng chúng tôi cố gắng cho Lance biết rằng, từ nay trở đi, cẩn thận giữ mình là điều quan trọng. Chúng tôi dặn Lance không bao giờ ra khỏi sân trường trong giờ học, không được đi theo người lạ.
Sau buổi nói chuyện đó mấy ngày, có kẻ cây cửa lên vô tôi khi chúng tôi đi vắng. Khi về, tôi thấy đèn treo trên nóc trên bàn ăn bị bẻ, mạnh thuỷ tinh văng tứ tung trong phòng. Trên bàn
ăn có chữ “phản bội” viết nguệch ngoạc bằng mực đen trên tấm giấy có gạch hàng.
Chiều hôm đó, tôi nói dối với Lance là tôi đã vô ý làm bị vỡ đèn khi tôi cuốn sợi đây điện cho ngắn lại để ba cháu không bị đụng đầu mỗi khi ngồi xuống đứng lên tại bàn ăn, vì trước đó John cũng đã bị đụng đấu vô cái chá đèn mấy lần rồi. Lance tin tôi ngay và còn chọc tôi:
- Vậy thì má phải để dành tiền để mua cái đèn khác, thường cho chủ nhà.
Thằng nhỏ nói đúng, vì đây là nhà mướn; làm hư đồ trong nhà thì phải thường cho chủ. Tôi gật đầu đồng ý với con.
Don Marsland cho chồng tôi biết chung quanh nhà tôi sẽ có người canh chừng suốt ngày đêm, ông ta đoán rằng kể xâm phạm có thể trở lại. Một người khác được biết phái tới để coi chừng Lance ở sân trường vào giờ ra chơi.
Hai ngày sau đó, tôi đi bộ với Lance tới trường. Trường chỉ cách nhà có vài đoạn đường ngắn. Nhưng tới ngày thứ ba, Lance phản đối:
- Con lớn rồi, con đi học một mình được mà.
Tôi đành để Lance đi một mình. Tôi biết mình đã vô tình truyền sự lo sợ của mình qua thằng nhỏ. Tôi không thích nó cứ phải lo sợ nhìn trước nhìn sau, lúc đi tới trường.
Một tuần sau, một việc kinh hoàng xảy tới cho gia đình tôi. Tan học rồi mà mười phút sau Lance không về nhà như thường lệ.
Tôi ráng chờ thêm năm phút nữa, rồi lao mình ra khỏi nhà, chạy dọc theo con đường quen thuộc mọi khi. Tới trường, tôi chạy vô sản chơi kiếm Lance, phòng vệ sinh của con trai thì vắng lặng, văn phòng hiệu trưởng cũng vắng. Người gác dan cũng giúp tôi kiếm cháu. Không có một vết tích nào của Lance, kể cả hộp đựng cơm trưa có vẽ hình người Nhện. Tôi như người mất trí.
Tôi lại chạy về nhà, hy vọng trong tuyệt vọng sẽ thấy con mình ngồi trên ghế dài ở phòng khách, coi hí hoạ trong truyền hình. Nhưng căn nhà vẫn trong trơn. Tôi kêu điện thoại cho hai bà mẹ của hai đứa bạn của Lance, nhưng cả hai đều cho biết họ không thấy Lance. Lúc đó là đúng một giờ mười lăm phút sau giờ tan học. Tôi cố lấy lại bình tĩnh để kêu cho chồng tôi. Anh cho biết anh sẽ về nhà ngay. Tôi trở lại trường kiếm Lance một lần nữa.
Giờ đó, sân chơi vắng về. Tôi đi vòng quanh sân, trong khi tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực và đầu tôi quay cuồng. Người gác dan thấy tôi, hỏi:
- Bà vẫn chưa kiếm được thằng nhỏ a? Sao bà không báo cảnh sát?
Tôi rất sợ phương pháp điều tra của cảnh sát. Họ có thể hỏi tôi Lance có phải là một đứa nhỏ hư không? Nó có hay bỏ trốn đi không? Nó có hay bị cha mẹ đánh không?
Tôi không biết làm gì nữa, đành trở về nhà. Trên máy truyền hình trong phòng khách, có một bức hình Lance chụp ở trường học bên Luân Đôn. Đó là một tấm hình Lance sún răng cửa như tất cả mấy cậu bé bảy tuổi. Tôi cầm lấy tấm hình rồi quỳ xuống sàn, ôn lại giây phút cuối cùng hồi sáng nay trước khi Lance đi học. Lance đòi ăn bánh mì nướng, nhưng nhà đã hết bánh mì, Lance muốn nước cam, nhưng tôi cho cháu nước chocolat nóng để “con được âm“, tôi nói với Lance như vậy. Lúc tôi đánh thức cháu dậy đi học, Lance xin ngủ thêm năm phút nữra, nhưng tôi không cho. Tôi ôn lại những điều tôi đã làm con tôi thất vọng sáng nay. Tôi bật khóc, rồi nói lớn:
- Lance ơi, về nhà với má đi. Má sẽ cho con bánh mì nướng, cho con nước cam và tất cả những gì con thích!
Thình lình cửa cái mở tung ra. Lance xuất hiện ngày giữa cửa, như nó vừa nhảy ra khỏi bức hình mà tôi đang ôm. Vẫn cái áo jacket mầu kem bằng nhung kẻ, vẫn cái áo chemise trắng, vẫn nụ cười răng sún. Lance hớn hở nói lớn:
- Hi Mom!
Trong giây khắc, tôi giận điếng lên. Nhưng tôi vội nuốt vô bụng, chạy ra cửa. Chắc Lance không hiểu tại sao tôi bồng nó lên, ôm ghì lấy nó, rồi vừa khóc vừa cười, vừa ngạc nhiên. Lance cho biết lý do về trễ:
- Con có một thằng bạn mới, ba nó là không quân mới dọn tới. Nhà nó ở ngay sau nhà mình. Máà có thấy căn nhà mầu xám kia không? Nhà nó đó. Hôm nay xe chở đồ tới, họ mở đồ ra. Tụi con được coi đồ chơi của nó. Vui lắm, má ơi!
Tôi chẳng vui chút nào! Mặt mày hớn hở, Lance vừa nói vừa lôi tay tôi, chỉ cho biết nhà thằng bạn mới.
Tôi hoàn hồn, đi hâm soup cho Lance ăn. Ráng bình tĩnh, nhỏ nhẹ mà dặn Lance rằng, từ này trở đi, khi tan học nó phải về thẳng nhà, nó phải xin phép mới được đi chơi nhà bạn. Bạn là ai? Ở đâu? Tôi cố gắng giấu nỗi lo sợ của tôi, để đầu óc non nớt của con tôi không bị xáo trộn. Nhưng tôi cũng không giấu nổi thằng nhỏ nhậy cảm này.
- Chuyện gì xảy ra vậy? - Lance hỏi hai ba lần.
Cuối cùng tôi đành phải nói thật, là suốt hơn một tiếng đồng hồ vừa qua, tôi đã tưởng tôi có thể chết, vì nó không về nhà đúng giờ. Thấy con buồn hiu, tôi lại hối hận. Tự do cũng quan trọng với mấy đứa con nít. Tôi không muốn tước đoạt những quyền đó của con tôi. Tôi làm điệp viên cho CIA, tôi phải chịu nghịch cảnh, chớ con tôi vô tư, vô tội.
Khi John bỏ sở từ ngoài Pentagon hấp tấp chạy về mấy phút sau đó. Lance ngồi ở phòng khách coi TV một cách vô tư. Như tôi lúc này, anh cũng nổi giận, tắt TV và la con một trận. Lance bối rối khóc, vì cũng như những đứa trẻ khác, Lance đã quên chuyện vừa xảy ra, nhưng Lance cũng hứa với ba nó là từ nay nó sẽ đi thẳng về nhà sau khi tan học, trở thành thói quen. Lance đã giữ dùng lời hứa đó cho tới năm ra trường trung học. Đi thưa về trình, và luôn luôn giữ đúng giờ. Cũng như Lance, tôi giữ lời hứa: Lance muốn ăn món gì là có món đó. Bây giờ con tôi sống xa nhà, vagi tháng gọi về cho biết: “Con hết chả giò, con hết thịt nướng”.

******

Giữa tháng Tư, tôi nhận được một lá thơ, ngoài bao thơ đề tên tôi. Tôi mở ra đọc ngay:
“Gửi Mỹ Dung
Tôi nhờ một người bạn gởi thơ này cho cô. Rất tiếc là tôi không thể đích thân gặp cổ để thảo luận sâu xa hơn để cô hiểu về lập trường của chúng tôi những người có trách nhiệm ở trong nước.
Làm con của ba cô, ít nhứt cô phải biết điều đó. Danh dự và quyền lợi của quê cha đất tổ phải được đặt lên trên tất cả mọi thứ. Khi ra toà làm chứng, cô trở thành kẻ phản quốc. Có đã đọc sử nên biết rằng chúng ta xử tử kẻ phản quốc để trừng phạt. Không phải chỉ một tên phản quốc bị trừng phạt mà cả ba đời nhà nó.
Cô có mẹ, có chú bác, cô dì, có anh chị em, tất cả mọi người đều là nạn nhân của tội ác ngu dại của cô.
Tuy nhiên cô còn đủ thời gian ngưng lại việc tai hại đó. Tôi sẽ không liên lạc với cô nữa. Cô không được trình thơ này cho người Mỹ coi. Tôi hy vọng cô suy nghĩ kỹ để ngẫm lại.
Cuối thơ, chỉ ghi “một người bạn của ba cô”.

Tôi đưa lá thơ cho một nhân viên FBI và dịch sang tiếng Mỹ cho ông ta.
Bây giờ chúng tôi phải kiếm cách bảo vệ Lance cẩn thận hơn trước. Giúp nước không có nghĩa là để mặc cho con gặp nguy hiểm. John và tôi quyết định gởi cháu tới ở nhà chị thứ tư của tôi là chị Cương. Anh Wray, chồng chị, hiện đang trú đóng tại căn cứ Fort Huachuca, tiểu bang Arizona, và tôi nghĩ rằng nhà ở trong căn cứ quân sự là nơi an toàn nhứt có thể an toàn hơn toà Bạch ốc.
Tôi cầu cứu với chị Cương thì chị mừng lắm. Tôi nghe đám cháu của tôi reo hò khi má nó cho biết Lance sẽ xuống Arizona ở đi học.
Chồng tôi gọi ông chỉ huy trưởng của Fort Huachuca, trình bày trường hợp của gia đình tôi, và nhờ ông chú ý con của chúng tôi về việc nhập học cũng như an ninh của nó. Sau khi họ sẵn sàng nhận công tác đó, chúng tôi giải thích cho Lance biết, rằng tôi sẽ rất bận rộn khi ra toà làm chứng và ba cháu vẫn phải đi làm, nên chúng tôi nghĩ rằng đây là dịp tốt để Lance chơi với mấy người anh chị bà con.
Kenneth bằng tuổi Lance. Hai chị của nó là Therese và Christina lớn hơn Lance bốn năm tuổi. Lance hớn hở nhận lòi ngay. Hai ông Bill Fleshman và Don Maryland đều ủng hộ ý kiến đó. Không những vậy, họ còn thu xếp cho một nhân viên FBI gặp chúng tôi ở phi trường Tucson để lái xe đưa chúng tôi tới tới Fort Huachuca, cách phi trường chừng hai tiếng lái xe.
Rời mùa đông lạnh lẽo ở Virginia, Lance có vẻ thích thú khi thấy trời nắng của Arizona. Ngồi trên xe do một thám tử của FBI lái, Lance xin quay cửa kiếng xuống để được hưởng nắng ấm, rồi kêu lên:
- Trời nắng tuyệt vời quá! Ấm quá! Đẹp quá? Goodbye London, goodbye Washington, D.C, goodbye Virginia!
Ông thám tử của FBI chắc cũng mệt vì những câu hỏi của Lance:
- Có rắn độc ở sa mạc không? Ông có dám ăn xương rồng nếu bị lạc trong sa mạc không có nước uống?
Ấy là chưa kể tại những thắc mắc về chính ông ta, như:
- Ông có phải là nhân viên FBI không? Tại sao ông không đeo súng? Ông Bill Fleshman, bạn của má, lúc nào cũng đeo súng, chỉ khi sang London thì Bill không đeo súng.
Nhưng may quá, mới đi được nữa đường thì Lance ngã ra ngủ.
Chị Cương, anh Wray và ba đứa con của chị tôi vui mừng khi Lance tới tỵ nạn nhà anh chị. Lance hoà nhập một cách tự nhiên với mọi người. Sáng hôm sau, chúng tôi dẫn Lance tới trường xin đi học, và Lance có một nhận xét:
- Đây là trường thứ ba trong năm nay của con, nhưng con vẫn thích lắm.
Chị Cương và tôi nhìn nhau. Chị ứa nước mắt.
- Tội nghiệp cháu tôi quá! - chị nói.
- Đừng lo đi chị Cương. Lance thích Arizona lắm.
Tôi cho Lance biết tôi sẽ phải trở về Washington, Lance tỏ vẻ bình tĩnh, chỉ dặn tôi nhớ kêu điện thoại cho cháu mỗi tuần một lần vào chiều thứ sáu, sau khi đi học về. Lance còn nhấn mạnh:
- Con không có tiền để kêu ba má, mà con nghĩ rằng con cũng không có quyền xài điện thoại của uncle Wray kêu đi xa. Vậy mà phải kêu con đó nhen.
Tôi long trọng hứa chắc với Lance, tôi sẽ kêu Lance mỗi chiều thứ sáu.
Lance chợt hỏi:
- Mommy, có phải má cũng đi xa ba má của má hồi mà bảy tuổi không?
- Không, tới chín tuổi má mới đi xa.
- Má có khóc không?
- Mà quen rồi. Nhưng nếu con khóc cũng không sao. - Tôi nuốt nước mắt trả lời con tôi.
- Mà đừng lo.
Tôi cho Lance biết bà ngoại sẽ xuống đây thăm gia đình dì Cương. Nghe vậy. Lance mừng lắm, vì lúc nhỏ, Lance đã quen hơi quen tiếng của má tôi, qua nhiều dịp được ở chung với bà ngoại.
Mười mấy năm sau, nhờ chị Cương nói, tôi mới biết má tôi không có ý xuống thăm gia đình chị Cương mà má nóng ruột cho Lance, tội nghiệp nó, nên mới xuống Arizona ở ba tháng với nó



Cuộc xử án bắt đầu ngày 1 tháng Năm, 1978. Lúc đó chúng tôi đã dọn ra khỏi căn nhà mướn và sang khách sạn Ramada Inn trên đường Seminary, nơi tạm trú của chúng tôi. Chiều thứ sáu nào tôi cũng kêu điện thoại cho Lance như đã hứa, rồi khóc cả tiếng đồng hồ sau khi nghe tiếng của con. Má tôi đã tôi Arizona và kêu tôi đừng gọi Lance thường, vì mỗi lần nói chuyện với tôi xong, cháu lại kiếm cỡ lạnh lánh mặt mọi người, như vô phòng tắm khoá cửa lại, hay làm bộ đi ngủ. Con nói giọng người lớn với chị bà con của nó:
- Đừng ai làm phiền tôi. Tôi cảm nặng rồi.
Ngày Mothers Day, tôi điện thoại cho má tôi, rồi nói chuyện với Lance sau đó. Lần này thì Lance than là nhớ nhà. Rồi vừa nói vừa khóc trong điện thoại:
- Mothers Day là ngày ngu lắm tại vì Mommy không có đây.
Trong khách sạn Ramada chúng tôi tạm ở để chờ ngày ra toà, một hôm, khi John đã đi làm, tôi nằm trên giường, nhìn loanh quanh trên trần nhà. Cách trang trí trong phòng tẻ nhạt. Mấy tranh đóng chặt vô tường. Đèn cũng đóng dính trên mặt bàn. Máy truyền hình cũng khoá chặt xuống sàn… như tôi cũng bị đóng dính, kết cứng với Bộ tư pháp. Tôi nghe rõ nhịp đập của tim tôi, nghe được cả mạch máu rần rần trên gôi. Tôi thấy vẻ mặt không bằng lòng của má tôi. Tôi thấy đôi vai xương xẩu của ba tôi, mái tóc hoa râm đi theo cuộc đời của người làm cách mạng.



Tôi tự hỏi không biết ông có sự thanh thản nơi ông ỏ, để hiểu tại sao tôi làm những việc này không? Tôi mong đảng của ông không bóp méo việc tôi làm, như họ đã bóp méo sự thật về cái chết của em tôi. Ba tôi vẫn tin Hải Vân bị “Mỹ giết”. Tôi mong rằng, sau khi gặp tôi kỳ rồi ba tôi đã biết, tôi cũng như ông, lý tưởng là động cơ thúc đẩy những hành động trong đời sống của ba tôi. Ba tôi thương tôi và đã yêu cầu tôi làm theo “tinh thần và danh dự của một người Việt Nam”. Tôi cảm thấy tôi không còn là người Việt Nam nữa. Ngày mai tôi sẽ bước vô phòng xử của toà án, tôi sẽ phải nói tất cả sự thật: đường dây gián điệp Việt Nam sẽ bị tiết lộ. Tôi sẽ làm tất cả để bảo vệ quyền lợi của nước thù địch lớn nhứt của ông. Tôi sẽ làm theo tinh thần của một công dân Mỹ.
Tôi không muốn bị làm rộn, nên đi ra cửa máng tấm bản “Xin đừng làm rộn” vô nắm cửa bên ngoài, rồi trở lại giường nằm.
Tôi nghĩ tới cuộc viếng thăm của Bill Fleshman ngày hôm qua. Ông mời tôi đi ăn trưa. Dù ông không nói gì nhiều, tôi cũng hiểu ông được lịnh của ông Griffin Bell, bộ trưởng Bộ tư pháp tới thăm dò coi thái độ của tôi ra sao. Khi ông đưa tôi trở về khách sạn, trước khi chia tay, tôi nói:
- Anh về nói với ông chánh án Bell là “Keyseat” vẫn còn ở đây. Tôi không có trốn đi đâu đâu.
Bill cười gượng gạo, có vẻ mắc cỡ, vì tôi biết được ý nghĩ của ông.
Chị Cương của tôi có lẽ là người đã nâng đỡ tinh thần tôi nhiều nhứt trong giai đoạn thử thách này. Hôm tôi từ giã chị và Lance, chị kéo tôi ra riêng mà nói:
- Cưng cứ làm cái gì mà tim cưng cho là đúng. Đừng vì FBI, cũng đừng làm cho ba đau vì cưng giận ba. Chỉ có một mình cưng sẽ phải sống suốt đời với sự quyết định của cưng mà thôi. Chị không thể nào biểu cưng làm hay đừng làm.
Tôi không biết chị tôi đồng ý hay bất đồng ý với việc làm của tôi. Chị xử sự rất đúng; quyết định này của tôi và do tôi mà thôi.
Tôi nhớ hồi còn ở Luân Đôn, Rob cho biết sẽ giữ an ninh cho gia đình tôi bằng một khẩu súng máy. Bây giờ ở đây, trong căn phòng của khách sạn, tôi có cây súng của James Bond-Walther PPK với hai bì đạn, tổng cộng là mười viên. Một bì đã nằm sẵn trong cây súng. Tôi nghĩ tôi không cần súng lục hay súng máy. Nhờ có sự yểm trợ tfch cực của các nhân viên KBI tham dự chiến dịch “Magic Dragon”, từ ngày trở về Mỹ, tôi cảm thấy hoàn toàn an ninh. Tôi biết CIA không vui gì khi tôi đã nhận lời ra toà làm chứng. Như vậy là tôi không còn giúp ích gì cho họ được nữa, mà ngược lại tôi đã làm gián đoạn nhiều kế hoạch của họ. Khi tôi vừa trở lại Washington từ Luân Đôn, văn phòng của đô đốc Standfield Turner, Giám đốc CIA, cho biết đến giờ phút chót này cũng chưa trễ, nếu tôi muốn từ chối ra toà làm chứng.
Sự “lựa chọn” mà họ đề nghị cùng với vẻ chán nản của Rob, khiến tôi có cảm tưởng tôi phản bội CIA. Nhưng mỗi quan tâm ấy không thể sánh với mới lo sợ cao hơn cái núi của tôi, khi nghĩ tới ba tôi. Họ sẽ làm gì để trừng phạt ông vì đứa con gái “lạc đường”? Cảm tưởng của ông ra sao khi tin tức về tới Việt Nam? Tôi biết hành động của tôi sẽ huỷ bỏ mọi cơ hội của bất cứ ai trong gia đình muốn gặp lại ba tôi và anh Khôi tôi trong tương lai. Má tôi đã trách tôi đưa cuộc đời anh Khôi vô vòng nguy hiểm, và đẩy tuổi già của ba tôi vô vòng tăm tối.
Tôi lấy một tấm hình nhỏ của ba tôi từ trong bóp ra, nhưng tôi không đủ can đảm để nhìn. Tôi không khóc được, mà tôi ráng quên đi cái điều tai hại tôi có thể gây cho ông. Tôi nhớ có lần ông đã nói:
- Con là con, ba là ba.
Lớn lên, không ai trách tôi về những tội ác mà Mặt trận giải phóng miền Nam và cộng sản Hà Nội đã gây nên trên đất nước tôi. Vì vậy, tôi hy vọng rằng chánh phủ mà ba tôi đang phục vụ cũng sẽ coi tôi như người khác biệt với ông, không bắt ông chịu trách nhiệm về hành động của tôi.
Nghĩ vậy cho đỡ sự, đỡ lo tạm thời, chứ làm sao mà so sánh con gái của một gia đình yêu nước với một lũ cộng nô.
Tôi nằm vật lộn với những ý nghĩ dồn nén trong tôi, mà cảm thấy mình cô đơn. Cô đơn như hai tên gián điệp đang nằm trong khám chờ ngày hầu toà.
Tôi chưa bao giờ gặp Ron Humphrey. Lần đầu tiên tôi thấy mặt ông là một bức hình trên mặt báo khi bị bắt, hai tay bị còng và các nhân viên FBI bao quanh, trong đó có mấy anh nhân viên FBI là bạn tôi.
Tôi tội nghiệp cho Humphrey, như một con vật mắc bẫy. Là nhân viên của toà đại sứ Mỹ tại Sài gòn, ông gian díu với một người đàn bà Việt Nam, lúc vợ chồng ông ở Sài gòn. Ông là một viên chức cao cấp của Bộ ngoại giao Mỹ. Ông chỉ là một người dính dấp vô một việc vượt quá sức của ông. Qua cuộc điều tra, được biết, sau tháng Tư năm 1975, ông tìm đủ mọi cách để đưa người đàn bà ấy ra khỏi Sài gòn. Cuối cùng, ông liên lạc với toà đại sứ Hà Nội tại Đông Đức, và tại đó cái giá chuộc tự do cho người tinh vụng trộm của ông, là phản quốc. Lúc tôi gặp Trương Đình Hùng, thì Cộng sản đã cho người đàn bà đó và hai đứa con qua Mỹ, nhưng họ giữ lại đứa con trai làm con tin để đòi thêm tài liệu mật.
Tôi tội nghiệp cho người ngu dại, chỉ mong ông được an bình trong tay Thượng đế, vì tôi biết rằng chỉ có Thượng đế mới có thể cứu rỗi ông sau khi tôi ra toà làm chứng.
Tôi tội nghiệp cho David Trường hơn, vì tôi nghĩ rằng quá uổng cho một người trai trẻ, con nhà giầu, học giỏi, vì tham vọng mà phải ngồi tù. Anh cống hiến tuổi trẻ của anh cho lý tưởng. Hùng sanh trưởng trong một gia đình thượng lưu ở Sài gòn. Có lần Hùng nói gia đình anh là gia đình đầu tiên lái chiếc xe Mercedes. Trong thời gian hoạt động cho cộng sản, mê theo lý tưởng của mình, nên bộ đồ tốt nhứt của Hùng cũng do các bạn ở Paris mua tặng để Hùng có một bộ đồ cho xứng hầu có thể trà trộn vô khu Quốc Hội Mỹ lấy tin tức.


Hùng là một người lạnh lùng, tính toán và tàn nhẫn. Tôi không bao giờ quên sự lãnh đạm của anh đối với cha mẹ anh. Ông Trương Đình Dzu đã viết thơ cho Hùng do anh Huỳnh Trung Đồng đưa cho tôi đem về cho Hùng. Ông yêu cầu Hùng xin cấp trên của anh ta cho ông bà được xuất ngoại chữa bịnh.
Nhưng Hùng đã từ chối mà không cần suy nghĩ trước mặt tôi, như đó là việc anh đã dự tính trước. Rồi anh giải thích lý do từ chối đó:
- Các ông ấy (giới chức cộng sản) sẽ nghĩ gì về tôi, nếu lời xin cho ba má tôi rời khỏi Việt Nam? Nước nhà đã được giải phóng, thì những người Việt Nam yêu nước phải ở lại để cùng xây dựng đất nước.

Nghe Hùng nói, tôi toát mồ hôi. Khi lấy lại bình tĩnh, tôi đề nghị Hùng nên nghĩ lại; tôi sẵn sàng nói chuyện với Phan Thanh Nam, nếu anh ta bằng lòng nhờ Phan Thanh Nam giúp đỡ. Nhưng Hùng nhấn mạnh rằng, ngoài tôi ra, không ai được biết lại yêu cầu của ba má anh ta. Trương Đình Hùng đặt sự tin nhiệm và thể diện của anh ta trước con mắt của cộng sản cao hơn sự sống còn của cha mẹ.
Có quá nhiều người bị ảnh hưởng bởi sự quyết định của tôi. Trước hết là đại gia đình của tôi: rồi tôi anh chàng người Mỹ phản quốc để lấy một người đàn bà; một anh chàng tham vọng, sẵn sàng hy sinh người khác để đạt tới mục đích riêng của mình.
Nắm trên giường, tôi bỗng có ý nghĩ điên rồ. Tôi vùng dậy, mà bóp ra coi. Trong đó có bọn mười lăm Mỹ kim, bảy mươi lăm đồng Phật lăng Pháp, một nắm tiền lẻ của Anh, và một thẻ tín dụng American Express. Nếu tôi muốn trốn, với số tiền này tôi đi được tới đâu? Tôi không thể lái chiếc xe Thunderbird mà chúng tôi đang chạy, vì đó là xe mướn; người ta có thể kiếm ra chiếc xe trong vòng năm phút. Tôi không có thể đi taxi tới Vienna ở tiểu bang Virginia để trốn trong khách sạn Wolf Trap, nơi mà không ai có thể kiếm ra tôi. Những tiền đi xe taxi tới đó cùng đã hết bọn mười lăm Mỹ kim rồi. À, mà tôi cũng có thể dùng thẻ tín dụng của tôi để trốn trong một phòng khác ngay trong khách sạn này mà không ai biết. Tôi có một cái tên giae, thẻ giả, tên là John Hopkins để ghi tên vô khách sạn này!
Trong một cơn bốc đồng, tôi lấy một túi xách ra và bắt đầu liệng vô đó một đôi giầy, quần áo lót, hai bộ đồ. Trong cơn hối hả chuẩn bị đi trốn, bỗng có tiếng gõ cửa. Năm tiếng, rồi ngưng, thêm hai tiếng nữa. Tôi biết đó là chồng tôi vì dùng “mật hiệu”.
Tôi lẩm bẩm:
- Nè, chưa trốn mà bị phát giác rồi!
Tôi mở cửa cho anh vô. Khi nhìn thấy cái túi xách trên giường, anh ngạc nhiên hỏi:
- Em làm gì vậy?
- … Cất quần áo vô tủ.
- Vậy ha!
Anh thản nhiên nói và không hề có một chút nghi ngờ gì về cơn rối loạn lầm than của tôi mà anh đã tình cờ cứu tôi. Anh vui vẻ nói:
- Thay đồ đi có! Mình xuống dưới nhà uống nước.
Tôi nhìn khinh bỉ cái túi xách, rồi vô phòng tứm để thay đồ. Tôi nghĩ về người đàn ông má tôi kết hôn.
Có người đeo bùa hộ mạng. Tôi không có bùa mà có John. Anh luôn luôn đem may mắn lại cho tôi, sẵn sàng bảo vệ và ủng hộ tôi. Tôi hiểu rằng một mình tôi không thể thành công. John luôn luôn ở cạnh tôi khi tôi cần đôi vai vững mạnh để nương tựa. Không những vậy, anh con cho tôi quyền tự do khi tôi muốn quyết định lấy một mình.
Tôi mắc cỡ, không dám cho anh biết sự thật tôi đang làm gì khi anh tình cờ về nhà buổi trưa đó.
Tôi cũng đã học “thân ở đâu thì tâm ở đó”, những trong giờ phút kinh hoàng ấy, tâm trí của tôi cứ nghĩ tới ngày ra toà, mong tới ngày chót của cuộc xử án này, để được sống một đời sống bình thường với gia đình. Chứng đó tôi mới cho John biết anh đã cứu tôi ra khỏi cơn kinh hoàng trước một ngày tôi ra toà làm chứng trong tâm thức của một người Hoa Kỳ.

HẾT $pageOut

các Phần tiếp theo ==>



No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...