. .

Saturday, March 21, 2009

VIỆT NAM, CON DÂN CÓ TỘI TÌNH GÌ? (1) -Hồi Ký- Pierre Darcourt

LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÀ XUẤT BẢN ALBATROS
Sau 30 năm đấu tranh và chinh chiến, cuộc chiến Việt Nam vừa chấm dứt: Cộng Sản Miền Bắc đã chiếm được Miền Nam Việt Nam.
Sau Pháp, Hoa Kỳ cũng đã rút ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Những người sắt máu thuộc Bộ Chánh trị của Hà Nội đã là kẻ chiến thắng.
Pierre Darcourt mở lại hồ sơ về chuyện mất Sài Gòn và Miền Nam Việt Nam. Với quyển sách nầy Anh thuật lại trận đánh cuối cùng mà anh đã sống ngày này sang ngày khác trên trận địa, và tường thuật lại rất trung thực bầu không khí của những mưu mô, những áp lực, những trò chánh trị muôn hình vạn trạng đã được gây ra để gia tăng tốc độ sụp đổ của Miền Nam .
Anh mô tả những nổi đau khổ và những sự thiếu thốn của những người tỵ nạn tìm đường chạy ra biển; sự kháng cự cuối cùng của đội quân thiện chiến của Miền Nam Việt Nam trước làn sóng xăm lăng của quân Bắc Việt ở Xuân Lộc... Trảng Bôm... Biên Hòa; sự ra đi của người Mỹ; sự xuất hiện của tướng Dương văn Minh với vai trò phù du của ông; cảnh các " bộ đội" của Miền Bắc tiến vào thủ đô Sài Gòn mà họ đổi tên lại là thành phố Hồ chí Minh; hoàn cảnh đau thương khổ sở của dân chúng; sự xét lại vấn đề tự do của các tôn giáo; và tấn thảm kịch xót xa của những người công giáo luôn gắn bó với niềm tin của họ; và những phản ứng sau cùng của những người lính chiến không bao giờ muốn hạ súng xuống...
Qua tựa đề của quyển sách " Mẹ Việt Nam ơi, dân ta có tội tình gì?", Anh chỉ nêu lên một câu hỏi duy nhất nhưng rất là chính xác.
Ba triệu người đã chết cho một chiến thắng quân sự, một chiến thắng không giải quyết được gì cả mà nó lại còn đưa đến một thất bại về chánh trị lẫn nhân tâm. Khởi xướng và lãnh đạo một cuộc chiến 30 năm dài nói là để thống nhất đất nước, mà cuối cùng chỉ thấy một đất nước rách nát và tan thương hơn bao giờ hết !
Pierre Darcourt là một nhà báo, một phóng viên có tầm vóc, là thông tín viên liên tiếp cho nhiều tờ báo Pháp và ngoại quốc như l'Express, l'Aurore, Sud Ouest, Jiji Press v.v..
Năm nay Anh 49 tuổi (1975), chào đời tại Sài Gòn, tốt nghiệp cao đẳng Luật Khoa và Lịch Sử ở trường Đại Học Hà Nội. Với những tác phẩm nghiên cứu và phóng sự của mình, anh được xếp vào một trong những chuyên viên giỏi nhất hiện nay về những vấn đề Á Châu. Anh là Tổng thơ ký của Viện Nga- Hoa.
Là một người từng chịu trách nhiệm một toán vũ trang kháng chiến, hoạt động phía sau chiến tuyến của Nhật, anh trở thành một Biệt Kích Dù từ năm 1945 đến 1954, trốn khỏi một trại cải tạo Việt Minh, hai lần bị thương, Pierre Darcourt là một trong những nhà báo rất hiếm đã được sống từ lúc khởi đầu cho đến hồi kết cuộc của một cuộc chiến dài nhất thế kỷ, qua tất cả các giai đoạn lịch sử của nó.

Nhà xuất bản Albatros
14, đường l'Armorique - Paris 15 ème
Điện thoại : 306. 20.27


MẸ VIỆT NAM ƠI! DÂN TA CÓ TỘI TÌNH GÌ?
(VIETNAM, QU'AS TU FAIT DE TES FILS?)
Tác giả: Pierre Darcourt --- Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa



VÀI DÒNG CẢM NGHĨ

Đọc tác phẩm nguyên thủy cuốn sách "VIETNAM, QU'AS TU FAIT DE TES FILS?" của PIERRE DARCOURT, nhân chứng những ngày cuối cùng của Miền Nam Việt Nam bị bức tử. Là một ký giả, ông không phải viết với khối óc, với mắt thấy tai nghe như những nhà báo ngoại quốc khác, mà ông viết với hơi thở, mạch tim, nước mắt của một Miền Nam Việt Nam bị bỏ quên !
Họ là ai? Ông bạn đồng minh Hoa Kỳ và 12 nước đã ký vào Hiệp Định Ba Lê ngày 27 tháng giêng năm 1973, trong đó có cả Liên Hiệp Quốc. Họ giả đui giả điếc trước một nửa dân tộc chìm trong máu và nước mắt, chết chóc, tù đày, đói khát triền miên gần 30 năm qua! Ai nhỏ cho một giọt nước mắt đây? Họ về hùa với quân xâm lăng cướp nước cộng sản Bắc Việt, ngậm miệng bang giao và có một chỗ ngồi tại Liên Hiệp Quốc .
Xin cám ơn ông Pierre Darcourt còn nghĩ đến người dân Miền Nam chúng tôi ! Quyển sách của ông chẳng những là cái tát tai lịch sử vào mặt lũ Việt Cộng, mà còn là cái tát tai in dấu hằn lịch sử trên mặt 13 nước đã hạ bút ký vào Hiệp Định Ba Lê mà bọn cộng sản Bắc Việt đã vứt vào thùng rác ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Anh Dương hiếu Nghĩa có nhã ý chuyển ngữ sang tiếng Việt, đó là điểm đáng khen. Vẫn biết dịch thuật là chuyện khó, người Pháp thường bảo "Traduire c'est trahir" (Dịch tức là phản lại), may thay anh Nghĩa đã không phản lại mà còn dịch một cách mạch lạc, gọn ghẽ, từ rất chuẩn, ý rất trôi:
"MẸ VIỆT NAM ƠI! DÂN TA CÓ TỘI TÌNH GÌ?". Một tiếng than ngắn mà đau? Phải chăng tiếng than của Quân Cán Chính Miền Nam bị đày đọa bỏ xác tại các trại tù cộng sản? Hay tiếng than của các nữ thuyền nhân bị bọn hải tặc hãm hiếp ngoài biển khơi? Tiếng than bất tận gần 30 năm qua và còn kéo dài đến bao giờ?
Bản tiếng Việt nầy là chứng tích tội ác cộng sản cho những thế hệ trẻ ở quê nhà. Mong có một bản tiếng Anh cho con cháu chúng ta ở hải ngoại, và gửi cho 13 nước đã từng ký kết vào Hiệp Định với câu "Lương Tâm của quý quốc còn hay mất?"
Vài dòng cảm nghĩ xin những ai chạy trước ngày 30-4-75 nên đọc để nhỏ một giọt nước mắt thương cảm. Và những ai đi sau cũng nên đọc để nhớ lại những hình ảnh đau thương phai nhòa trong năm tháng, hãy nhìn lại vết thương còn rịn máu vì mối thù cộng sản còn đó, quên là có tội với những người đã nằm xuống vì hai chữ TỰ DO!


Houston, cuối Xuân 2004
DUY XUYÊN



THAY LỜI TỰA

Vào năm 1994, nhơn dịp sang South Adelaide (Úc Châu), tôi mới có cơ hội lên tận thủ đô Canberra, để gặp lại anh Lê văn Thành, người đã từng là Tùy Viên Quân Sự của Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Úc Châu trước 1975. Anh Thành là người bạn đồng khóa, cùng một Trung Đội, và cùng nằm chung một phòng với tôi ở trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (tên cũ), khóa 5 Hoàng Diệu 1950-1951. Anh đã trao cho tôi quyển " VietNam, Qu'as tu fait de tes fils" và bảo tôi phải dịch cuốn sách nầy vì theo nhận xét của anh thì "nó hay quá, Sáu Nhỏ ơi "
Chỉ đơn giản có mấy lời tâm tình của người bạn như thế thôi, mà tôi đã say mê đọc cuốn sách này trong suốt hai tuần lễ và khi trở về đến Hoa Kỳ, tôi quyết định phải dịch ngay nó sang tiếng Việt đúng như anh bạn Thành của tôi đã mong muốn vì quả thật cuốn sách nầy đã chẳng những " quá hay" mà nó còn " quá quý" nữa.

Quá hay, vì tuy đã từng là sĩ quan tác chiến trong binh chủng Nhảy Dù của quân Đội Liên Hiệp Pháp thời 1945-1954 ở Việt Nam, nhờ đó tác giả có đầy đủ khả năng và kinh nghiệm trong nhiệm vụ phóng viên chiến trường, nhưng không vì thế mà mất đi tánh cách hoàn toàn khách quan trong vai một nhân chứng lịch sử, rất sáng suốt và vô tư đối với tất cả mọi diễn biến ngoại giao, chánh trị, và quân sự của cộng sản Bắc Việt trong suốt chiều dài của cuộc chiến ở Việt Nam từ trước biến cố 1945 cho đến ngày bộ đội cộng sản Miền Bắc tràn vào thủ đô Sài Gòn trong cái gọi là " chiến dịch Hồ chí Minh" (!), hoàn tất kế hoạch xâm chiếm Miền Nam Việt Nam bằng võ lực ngày 30/4/1975, theo lệnh của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng.
Quá hay, vì trong từng chương, từng trang, từng mục, từng đoạn, từng hàng của quyển sách, tác giả đã mô tả và tường thuật thật chính xác thật sống động và thật đầy đủ tất cả những gì đã xảy ra trên từng giai đoạn vận động ngoại giao, cũng như trên từng giai đoạn xâm nhập vào Miền Nam và từng bước đường hành quân xâm lược của bộ đội cộng sản Bắc Việt , theo đúng ý đồ và sách lược của Cộng Sản Quốc Tế mà cộng sản Việt Nam chỉ là một đội quân tiền phong tay sai của họ không hơn không kém..

Quá hay vì tác giả đã phân tích và đánh giá rất đứng đắn và thật vô tư giá trị và tinh thần của Quân Cán Chính Miền Nam Việt Nam, trong nhiệm vụ chống cộng, tự vệ để cứu nước và giữ nước, nhất là đã theo dõi sát sao từng ngày, từng giờ mọi diễn biến trên chiến trường cũng như trên chính trường trong những ngày dầu sôi lửa bỏng của tháng Tư năm 1975.
Quá hay, vì tác giả đã tận mắt thấy được, sờ được, thông cảm được, và nói lên được cho cả thế giới biết hoàn cảnh bi đát và tâm trạng thống khổ của hàng triệu người dân lành vô tội đang trốn chạy quân xâm lược, vô tình làm bia cho bộ đội chánh quy cộng sản đang cố ý tàn sát họ không nương tay bằng đủ mọi loại vũ khí tối tân của Liên Xô, Trung Cộng và khối cộng sản, bất chấp tình " đồng bào ruột thịt" mà họ thường lớn tiếng rêu rao, thẳng tay tàn sát người dân Miền Nam Việt Nam trên khắp mọi nẽo đường của đất nước, từ Đại lộ Kinh Hoàng ở Quảng Trị Thừa Thiên cho đến Tỉnh Lộ 7 của tử thần từ Kontum, Pleiku (Cao nguyên) đến Qui Nhơn, Nha Trang,...
Rất quý, vì đây là một tài liệu lịch sử rất chính xác và khách quan từ một ký giả ngoại quốc, mà sau nầy cộng sản Việt Nam không thể bẻ cong lịch sử được để hòng chạy khỏi tội với dân tộc Việt Nam , vì tài liệu nầy đã nói lên rõ ràng về sự kiện Cộng sản Bắc Việt đã ngang nhiên xé bỏ " Hiệp Định Ba Lê 1973 Về Ngừng Bắn Và Lập Lại Hòa Bình Ở Việt Nam" mà họ vừa ký kết chưa ráo mực, để bình tĩnh xua quân đội chánh quy của họ công khai xâm chiếm Miền Nam Việt Nam theo lệnh của Quốc Tế Đệ Tam Cộng Sản, để tàn sát dã man , không gớm tay đồng bào "ruột thịt" của mình.
Rất Quý , vì quyển sách nầy là một chứng tích lịch sử đã hùng hồn minh xác thật rõ ràng với thế giới (và nhất là đối với 13 quốc gia đã long trọng đặt bút ký vào Hiệp Định Ba Lê 1973) rằng Chính Cộng sản Bắc Việt mới thật sự là kẻ xăm lăng. Và Miền Nam Việt Nam chỉ là một nạn nhân phải ở trong thế phải chiến đấu để tự vệ mà thôi "
Do vậy, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với đồng bào Việt Nam đang tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại : quyển " Mẹ Việt Nam Ơi! Dân Ta Có Tội Tình Gì?" được chúng tôi chuyển ngữ từ quyển sách tiếng Pháp:" Việt Nam, Qu'as tu fait de tes fils" của tác giả Pierre Darcourt, để chúng ta cùng nhìn rõ được bộ mặt thật gian manh, tàn ác, và trơ trẽn của bọn cộng sản xâm lược Miền Bắc khi các mặt nạ của họ mang sáo ngữ " giải phóng đất nước", " giải phóng dân tộc" hay " chống Mỹ cứu nước" hoặc " giải phóng đồng bào ruột thịt" của chúng ta ở Miền Nam " đang sống đói khổ dưới sự bóc lột tàn tệ của Mỹ Ngụy" đều bị rơi xuống hết sau ngày 30 tháng Tư, năm 1975!

Dương hiếu Nghĩa

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CHƯƠNG MỘT
MỘT NĂM SỬU THUẬN LỢI

Một không khí yên lặng hết sức lạ lùng và kinh ngạc đang đè nặng trên cánh đồng rừng nầy của Miền Nam Việt Nam.
Vào lúc 8 giờ sáng ngày thứ bảy 27 tháng giêng năm 1973, cuộc chiến dài nhất thế kỷ (từ hai mươi tám năm nay) trên nguyên tắc coi như được chấm dứt.
Tôi đã chứng kiến cuộc chiến nầy một buổi chiều tháng chạp năm 1946 trên những con đường âm u của Hà Nội, những con đường đầy âm thanh vang dội của những tiếng nổ, của những loạt súng đại liên và những tiếng reo hò của những Tự Vệ Quân (dân quân của Võ nguyên Giáp) đang tấn công vào các khu vực của người Pháp.
Cũng có thể tôi đã nghe thấy được cuộc chiến nầy chấm dứt ở một nơi nào đó cách Sài Gòn khoảng 2 giờ lái xe, lúc tôi đang ẩn náu trong một lô cốt ở Đèo Chuối, trên đường đi Dà Lạt. Tôi đã cùng uống chung một lon bia với một hạ sĩ quan thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn rất trẻ, có thể anh nầy chưa chào đời khi cuộc chiến bùng nổ.
Cái tiền đồn nơi tôi đang có mặt bị bắn phá suốt đêm bằng hỏa tiễn và súng cối. Khẩu đại liên nặng ngay trên lô cốt đã bắn suốt mấy giờ liền.. Mùi thuốc súng nồng nặc đưa lên tận cổ họng đến tôi phải bị ho. Những tiếng nổ đã làm cho tôi điếc cả tai. Đạn pháo binh yểm trợ rơi xuống chung quanh đồn với những tiếng nổ ngắn và kinh hồn làm cho mặt đất phải rung rinh. Đến sáng thì tất cả tiếng súng mới im bặt Ngoài trời ánh nắng ửng hồng đang lên chậm chạp trong làn sương mù. Sương ướt còn đọng trên các tàng cây to và bãi cỏ. Người chết cuối cùng của trận chiến cuối cùng nầy đang nằm oằn oại không còn nguyên vẹn trong một hố bom, đó là thây của một đặc công Việt Cộng . Những người Thượng mang gùi trên lưng, thân đen đúa gần như trần truồng trong mãnh vải thô sơ, đang đi xuống chợ,
Cuộc chiến ở Đông Dương đã thực sự chấm dứt hay chưa ? Dù muốn đù không, trên trận tuyến mà hai bên đang đối diện nhau thì cuộc chiến dai dẳng coi như được chấm dứt mà không giải quyết được gì cả, chỉ để lại cho các chiến binh đang nằm giữ chiến tuyến của mình một hương vị chua chát của một trận chiến mà không có một chút lợi ích nào hết .
Đây là một cuộc chiến duy nhất trong lịch sử mà chưa từng thấy có một chiến thắng quyết định nào, dù rằng cả hai bên của chiến tuyến bên nào cũng không ngớt lớn tiếng rêu rao là mình đã thắng trận.
Trọng lượng số bom đạn được dùng trong cuộc tranh chấp nầy đã vượt hẳn trọng lượng số bom đạn của tất cả các cuộc chiến tranh trước đây cộng gộp lại. Cuộc chiến nầy cũng được hai bên áp dụng tất cả các hình thức kỹ thuật tác chiến từ tân tiến đến cổ điển. Và cuộc chiến nầy cũng là bãi chiến trường điện tử đầu tiên . Các hỏa tiển đầu tiên có đầu đạn được hướng dẫn đã được xử dụng trong những điều kiện thật trong tác chiến. Cho tới bây giờ người ta chưa từng thấy có một sự tập trung nào quá nhiều chìến cụ có khả năng hủy diệt trong một thế đất nhỏ hẹp như thế, và ở đó đôi khi những vũ khí thô sơ nhất lại làm cho những trang thiết bị tinh vi hơn phải thất bại.
Một bên thì có những quả bom tinh khôn (laser) tự động điều chỉnh, những hỏa tiễn với đầu đạn biết tìm kiếm mục tiêu và những phi cơ vận tải khổng lồ.... Còn bên kia thì có từ những "bẫy cọp" bằng tre vót nhọn và những dòng người khuân vác đẩy xe thồ, những thùng quân vật dụng thả trôi theo dòng nước từ thượng nguồn và được vớt lên ở các lưới thép căng ở hạ lưu cách đó cả 50 cây số ngàn .... đến những đoàn xe vận tải nặng Molotova, những xe tăng lội nước, và những trạm "tên lửa" dấu kín rãi rác trong rừng bụi. Những cuộc tàn sát được bình tĩnh chọn lựa trước và được lạnh lùng lên chương trình trong máy điện toán... và những vụ giết người bằng mã tấu kèm theo hành động cắt xẻo tay chân hết sức ghê rợn ... nói chung!
Cuộc chiến nầy cũng có đủ mọi hình thức kỹ thuật về mặt hạn chế tầm sát hại của vũ khí, và những hạn chế nầy có thể còn gây ra nhiều mất mát về chiến cụ và nhân mạng hơn nữa không chừng. Cuộc tranh chấp nầy được phát triển ra vừa như một cuộc nội chiến vừa là một cuộc đối đầu quốc tế, ở đó các siêu cường có chỗ để thí nghiệm các loại vũ khí và chiến cụ tối tân nhất cũng như những chiến thuật chiến lược tân tiến nhất của mình.
Tuyên Truyền và Thông Tin đã giữ một vai trò quyết định. Qua truyền hình, chiến sự đã đến được khắp nơi trên thế giới; những hình ảnh đẫm máu và rất bi thảm của cuộc chiến được chiếu đến tận những nơi yên tĩnh nhất và được bảo vệ chặt chẽ nhất, đã làm rung động cả nước Mỹ, chia rẽ dư luận Mỹ, gây sự chống đối trong giới báo chí, đã gây ra nhiều cuộc biểu tình phản chiến, chống đối đến man rợ, và gây ra một ý niệm xấu cho tất cả các nước văn minh nhất trên thế giới.
Hoa Kỳ đã nhảy vào cuộc chiến mà không có một lời tuyên chiến trước và đã tung ra một lực lượng quân sự khá quan trọng . Đùng một cái, trong lúc các phi hành gia của họ đang tản bộ trên cung trăng, họ mới khám phá ra là đã từ lâu họ bị rơi vào một cái bẫy mã tấu và đang bị sa lầy, nên họ quyết định bằng mọi giá phải cố gắng thoát ra khỏi vũng sình mà không bị mất uy tín.
Vào năm 1969, trong đợt rút quân đầu tiên, môt anh lính còn trẻ thuộc lực lượng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đã mỉa mai cao giọng đề nghị một cách vô liêm sỉ :
" Tại sao chúng ta không tuyên bố một cách giản dị là chúng ta đã thắng trận rồi, và nước Việt Nam đã hoàn toàn được bình định xong, nên chúng ta đi về nhà !"
Việc đã xảy ra sau đó đã cho thấy chú lính thủy nầy đã nói một câu gần như tiên tri, bởi vì phần chánh yếu đã được làm y như thế.
Cuộc chiến ở Đông Dương là cuộc chiến đầu tiên mà các trực thăng đã có một vai trò quyết định trong tác chiến. Vào một lúc nào đó người ta đã tung ra đến 5000 chiếc trực thăng trên không phận Miền Nam Việt Nam, đưa lực lượng Bộ Binh Hoa Kỳ lên hàng thứ ba của Không Lực thế giới, sau Không Lực Hoa Kỳ và Không Lực Liên Xô.

Trong thời gian tám năm rưỡi tham chiến của Hoa Kỳ, cộng sản Việt Nam đã tung ra hai cuộc tấn công lớn mà họ tin tưởng đây là những trận chiến có tính cách quyết định. Đó là cuộc "tổng công kích Tết Mậu Thân (1968) và cuộc xăm lăng chớp nhoáng mùa xuân 1972.
Lực lượng Hoa Kỳ và QLVNCH đã khởi xướng hai cuộc phản công: tấn công qua biên giới Cam Bốt và hành quân qua lãnh thổ Lào.
Từng được coi là người đã chiến thắng trong trận chiến Điện biên Phủ, tướng Võ nguyên Giáp cũng chỉ gặt được sự thất bại hoàn toàn trong cả 3 lãnh vực mà ông ta cố gắng muốn thực hiện. Đó là : sự nổi dậy ở dân chúng của các đô thị ở Miền Nam, chiến tranh du kích, và chiến tranh quy ước.
Nhưng vớI hành động vừa dấu kín số tử thương, vừa rút nhanh đám tàn quân về để kín đào bổ sung cho các đơn vị trong các khu rừng rậm trên đất Lào và trên dãy Trường Sơn, ông ta đã khôn khéo làm cho địch quân tưởng rằng quân cộng sàn đã thắng trận.
Cả Hoa Kỳ và VNCH chỉ thu lượm có 50% chiến thắng: vì bị giới hạn trong không gian và thời gian nên các cuộc hành quân không được phép thọc sâu hay mở rộng đúng mức để khai thác tối đa các thành quả chiến thắng được .
Về phía Hoa Kỳ, trong suốt chiều dài của cuộc chiến người binh sĩ của họ chưa bao giờ được thông báo đúng mức mọi sự kiện dù là nhỏ nhất, nhưng lại thường được thông báo hết sức sai lạc về những lý do thật sự của cuộc chiến.
Trái lại, về phía cộng sản, chưa bao giờ cán binh của họ lại không được giải thích cặn kẻ lý do của cuộc chiến hay được thông báo sai lạc về mọi diễn tiến đã xảy ra.
Khi rút quân, người Mỹ vẫn đinh ninh rằng họ đã làm tròn lời cam kết "trong danh dự". Họ đã phải chi ra hơn hai trăm tỷ mỹ kim cho cuộc chiến và mất đi 58.000 người tử trận (gồm cả khoảng 10.000 chết vì tai nạn linh tinh, từ tai nạn lưu thông đến bất cẩn trong việc xử dụng súng đạn)
Cộng sản Bắc Việt đã tàn phá hết đất nước Việt Nam của họ, đâu đâu cũng thấy nhà tan cửa nát, và họ đã mất đi trên 1 triệu người chết, mà không đạt được mục tiêu mà họ đã đề ra. Những cán binh (Việt Cộng) mà họ gài vào Miền Nam chỉ sống lẩn lút trong rừng thiêng nước độc hay trong bưng biền sình lầy, sống xa quần chúng.
Quân dân Miền Nam chiến đấu để bảo tồn sự toàn vẹn lãnh thổ của họ. Họ nhìn thấy đất nước của họ bị phân chia, và Chánh Phủ của họ được thành lập qua các cuộc bầu cử có sự kiểm soát từ bên ngoài. Họ giữ vững những thành phố hùng mạnh và thịnh vượng, kiểm soát 85% dân chúng, nhưng họ có một tổng kết cũng nặng lắm: 600.000 quân và dân chết trận, và 1 triệu người tỵ nạn chánh trị . Và thật sự không thấy giải quyết được gì hết.
Những ai trong chúng ta người nào đã từng bị "dính líu" vào cuộc chiến nầy ngay từ đầu cho đến khi tàn cuộc thì sẽ giữ mãi những ấn tượng sâu sắc về những hình ảnh đau thưong khủng khiếp mà họ không bao giờ quên :
- Hình ảnh lúc khui những mồ chôn tập thể ở Hué, sau những cuộc tàn sát ghê rợn hồi Tết Mậu Thân (1968);
- Quang cảnh những đường sá hoang vắng dưới lằn lửa đạn;
- Những tù binh cộng sản nhớn nhác và đang bị đánh bom mặt mủi và đầu óc như nổ tung ra..;
- Những phi công Mỹ ngơ ngác tay đưa lên trời bị đưa đi diễu hành quanh thành phố Hà Nội dưới ánh đèn chớp của các phóng viên báo chí, mắt cụp xuống dưới những tiếng hò reo và những nắm tay giận dữ của quần chúng ;
- Những xác chết của Việt Cộng sình lên to tướng vì bị liên thanh điện bắn hạ như những con mồi của thợ săn, nhưng là con người;
- Những cơn địa chấn tàn phá có tánh cách hủy diệt của các pháo đài bay B.52, những cái nhìn sợ hãi, ngạc nhiên và không thể chịu nổi của những trẻ mồ côi....

Những thị trấn xa xôi hẻo lánh như Pleime, Dak To, Khe Sanh, An Lộc... từng bị bỏ quên trong những cánh rừng đèo heo hút gió nhất, ở giữa những rừng tre hay vườn cao su bạt ngàn, nằm chơi vơi giữa các ngọn đồi đất đỏ hoang vu... đột nhiên đã trở thành nổi tiếng trong một đêm nào đó, và rồi giờ đây lại bị chìm trong quên lãng trong thời điểm mà tất cả hình như đang đến hồi kết thúc.
Đã có rất nhiều kỷ niệm và luận cứ hiện ra trong trí tôi. Tôi thực sự đã sống với quá nhiều biến cố, với khá nhiều trận chiến hay bị vây hãm, từng đi theo quá nhiều võng cáng trên mảnh đất đầy tang chế và đầy rẫy thây ma nầy. Có lẻ tôi phải viết khoảng 20 quyển sách để giải thích những gì tôi đã chứng kiến và đã tìm hiểu. Tôi có thể nói về người Nhật (tôi đã chiến đấu chống Nhật), về các trận chiến ở Hà Nội, Lạng Sơn, hay ở Huế, về những phụ nữ người Pháp bị hãm hiếp, bị nhục hình hay bị chế dầu và thiêu sống trên vỉa hè của cư xá Jauréguiberry ..... Để làm gì ? Tât cả đều đã thuộc về dĩ vãng xa xôi quá rồi. Trong lúc đang có nhiều người chết và nhiều tấn thảm kịch rất gần đây...
Tôi nghĩ đến 3 người bạn của tôi, ba người chuyên viên quay phim:
- Larry Burrows, một người Anh trầm tĩnh đến lạnh lùng, thẳng tánh và gan lì, thích chạy như bay đến trước các trái bom rồi nằm ngửa ra để được nhìn thấy nó rơi xuống và chụp ảnh khi bom nổ.
- Huer, một người Pháp không bao giờ biết mệt mỏi là gì, bình tĩnh và bướng bỉnh, từng được giải thưởng Capa.
- Shimamoto, một người Nhật, mềm dẻo nhưng gân guốc, đa nghi và tự hào như một võ sĩ đạo.
Chiếc trực thăng chở họ bị đâm vào núi, cháy ở vài trăm thước cách cánh quân mà tôi đang đi theo, trên đất Lào. Không có một ai đến tìm được họ và xác họ được chôn vùi trong chiếc quan tài bằng sắt bẹp dúm dưới cành lá sum sê của cánh rừng bát ngát thích ăn thịt ngườ !.
Tôi nghĩ tới cuộc bắn giết ở Mỹ Lai với những bức ảnh ghê rợn của nó : 40 phụ nữ và trẻ em bị hành quyết, thân xác đầy vết đạn nằm ngổn ngang chết chung với nhau. Hoa Kỳ đã cho thụ lý hồ sơ và truy tố ra tòa án binh trung úy Calley, một sĩ quan xấu xí trán vồ và ngoan cố.
Nhưng có ai bị khởi tố về một vụ tàn sát tập thể cả một làng người Thượng ở Dakson đâu ? Tôi đã đi xuyên qua làng nầy, một tiểu đoàn Việt Cộng đã tàn sát và tàn phá cả một ngôi làng bởi vì dân chúng trong làng nầy không ai chịu theo cộng sản, chân tôi bước đi qua những đống tro tàn còn ấm , ngập đến tận mắt cá , tro của các nhà tranh mà cộng sản đã đốt sạch bằng súng phun lửa của họ. 250 thi hài của đồng bào Thượng nằm rải rác khắp mọi nơi trên mặt đất, còn âm ỉ cháy nóng, trong đó có 103 trẻ em. Thật là một cảnh tượng ghê rợn, tàn ác, không thể chịu nổi, cảnh các tử thi sình lên rồi bị nướng phồng lên dưới ánh nắng mặt trời, tương tự như những con heo quay có đầu người .
Có những ai trong chúng ta lúc có mặt ở quanh vĩ tuyến 17 vào mùa xuân năm 1972, mà có thể loại bỏ được khỏi trí nhớ những hình ảnh của cơn ác mộng trên con lộ Quảng Trị ? Pháo binh của Cộng sản Bắc Việt đã tập trung hỏa lực vào hàng hàng lớp lớp người dân tỵ nạn đang chạy loạn về Hué : những trái đạn đã cày lên đám đông dân chúng kinh hoàng rất có phương pháp, đánh nát và lật qua lật lại các sọ người và các thi thể đàn bà và trẻ con, như các cục đất vậy. Đã có đến 20.000 người chết trên một khoảng đường tráng nhựa chỉ dài có 40 cây số ngàn : Mặt đuờng không còn màu đen của nhựa nữa mà được trét lên một lớp máu đỏ đã đen sạm vì máu đã khô lại.... (chú thích của người dịch: đó là đoạn Quốc Lộ 1 được mang tên là :Đại Lộ Kinh Hoàng, tên do Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu đặt)
Từ Đèo Chuối, tôi đi lần xuống một làng lớn ở Gia Kiệm. Ở đây dân tỵ nạn người Bắc đang rong chơi ngoài đường. Trong một quán cà phê nhỏ, ngồi bên tô phở nóng, những người thợ rừng đang vừa ăn vừa nghe xướng ngôn viên của đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) ca tụng sự "ngừng bắn" với một niềm vui lây của một bình luận gia một trận bóng chày.
Tại Tân sơn Nhứt, các phi công trực thăng và phi cơ săn giặc Phantoms trong bộ đồ bay kỵ lửa, vứt cao các mũ lên trời, vui vẻ vỗ lưng nhau, chuyền tay nhau một chai cognac và cứ thế uống cạn hết chai vừa cười vừa hét vang : "hết rồi, anh em ơi ! chúng ta sẽ được về nhà rồi "
Ngay tại Sài Gòn khi đồng hồ vừa gõ 8 tiếng, tất cả moi hoạt động đều ngừng lại, lưu thông dừng hẳn lại, mọi người đứng yên lặng trong khi các binh sĩ đứng nghiêm, Miền Nam Việt Nam dành một phút mặc niệm cho một số lớn chiến sĩ đã bỏ mình trong chiến cuộc. Sau phút mặc niệm, các chuông nhà thờ đổ liên hồi trên khắp thủ đô Miền Nam Việt Nam . Cùng một lúc đó có tiếng vọng xa xăm của sự biểu lộ ồn ào nầy, các thành phố lớn của Hoa Kỳ cũng đã sống trong những phát súng mừng ròn rã, và theo một bản tin của thông tấn xã Tass thì Hà Nội mừng rỡ treo cờ trong một bầu không khí hoan lạc. Và Tổng Thống Nixon trong một thông điệp gởi cho quốc dân đã mở đầu bằng những chữ nói lên dư luận chung của tất cả mọi người có thiện chí : Một kỷ nguyên hòa bình mới đang bắt đầu cho nhân loại "
Một người thợ rừng bước đến gần chiếc máy truyền thanh, đặt trên một cái kệ, vừa đưa tay vặn tắt chiếc máy vừa lầm bầm khó chịu :
" Ông Nixon cứ đến đây rồi hẳn nói !, Con đường từ Sài Gòn lên đây đã bị cắt đứt gần ba chục cây số, và có trên mười xe vận tải đã bị giật mìn. "
Tôi phải chờ 48 tiếng đồng hồ mới về đến được thủ đô Sài Gòn của Miền Nam Việt Nam . Quốc lộ đã được mở lại sau nhiều trận đánh nhau ác liệt, dọc theo đường còn rải rác tử thi và xác xe cháy mà xe ủi đang dọn dẹp.
Ở Sài Gòn hàng trăm phụ nữ trầm lặng và nghiêm trang tay bưng lễ vật như một đám rước đi vào chùa Vĩnh Nghiêm đầy hoa và cờ xí ở ngay trung tâm thành phố. Trong nhà thờ Chánh Tòa tường gạch đỏ thẳm, hàng ngàn tín đồ công giáo chen chúc nhau quỳ dự thánh lễ lớn.
Các Phật tử và tín đồ Công giáo theo lời kêu gọi của các Sư và các Cha sở của mình, đã tổ chức một ngày cầu nguyện cho hòa bình, mà theo bản văn của lời kêu gọi là một "nền hòa bình không phải của Nga Sô Viết, cũng không phải của Trung Cộng hay của Hoa Kỳ mà là một nền hòa bình của Việt Nam. một nền hòa bình cho những người tự do, công bằng và trong tình anh em, hòa giải giữa dân tộc với nhau, vừa tìm lại được trên đất nước của minh "

Trước thềm năm mới (âm lịch), một năm Sửu thuận lợi, đó là một lời chúc tốt đẹp nhất.... Nhưng than ôi, những lời chúc tụng luôn luôn không bao giờ được thỏa mãn. Các trận đánh xảy ra gần như khắp mọi nơi. Tại Tây Ninh, thánh địa của đạo Cao Đài, sau 30 giờ tấn kích,một trung đoàn quân Bắc Việt đã rút lui để lại 300 xác chết ở vùng ngoại ô của thị xã. Tại Sa Huỳnh, một hải cảng đánh cá nhỏ dưới chân dãy Trường Sơn, có sự đụng độ ác liệt của hai sư đoàn Miền Nam Việt Nam; tại Đồng bằng sông Cửu Long, ở ven Đồng Tháp Mười và ở rừng U minh; trên Cao Nguyên Trung Phần, chung quanh đồn Ben Het của Biệt động quân ;
Ba trăm ba mươi bốn (334) trận tấn công của cộng sản vào lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam được ghi nhận ngay trong 2 ngày sau khi Hiệp Định Ngừng Bắn Paris ngày 27/1/ 1973 được chính thức công bố....

Nền hòa bình ở Việt Nam vẫn chỉ còn là một ảo vọng!

CHƯƠNG HAI
HÀ NỘI ĐÁNH PHÁ UY TÍN CỦA SÀI GÒN

- "Là một người Việt Nam , tôi đã có biết qua cách xử sự của ông Henry Kissinger trước họ rồi , nên tôi nói chuyện đó cho cả người Do Thái và người Ai Cập biết là : " Hãy coi chừng phương pháp của ông ta, nguy hiểm lắm, nó không giải quyết được bài toán nào hết mà nó chỉ có né tránh vấn đề thôi".
Chúng ta đang ở vào tháng hai năm 1975 . Sự cảnh cáo nầy đáng được lưu ý lắm - vì đó là lời nói của ông Thiệu - một người không thiếu kinh nghiệm chút nào: năm 1972, ông đụng nhẹ với một ông Kissinger đang nóng lòng muốn chấm dứt cuợc chiến ở Đông Dương. Nhận xét của ông Thiệu thấy có vẻ hơi nghiêm khắc, và một phần vì mối hận của một nguyên thủ quốc gia đang bị gài vào quá nhiều khó khăn to lớn.
Nhưng sau hai năm thi hành ‘’Ngừng Bắn’’ vẫn không còn một ảo tưởng nào nữa ! Trên lý thuyết, cuộc chiến lẽ ra phải được chấm dứt sau khi Hiệp Định Paris tháng giêng năm 1973 được kỳ kết, nhưng chiến cuộc không bao giờ chấm dứt. Nó vẫn được tiếp tục và thường xuyên gây ra hằng trăm người chết mỗi ngày, và trong hai năm liền như vậy phải có hơn 150.000 nạn nhân. Và chiến cuộc nầy không nghiêng phần thắng lợi chút nào về phía các đồng minh của Hoa Kỳ. Ở Cam Bốt, Khờ Me Đỏ chận sông Cửu Long, cắt đứt đường lưu thông không cho các đoàn ghe tàu tiếp tế cho thủ đô Pnom Penh, đang bị bao vây và bị bắn hỏa tiển vào hằng ngày. Thủ đô nây vẫn còn sống được là nhờ một cây cầu Không Vận của Không Lực Hoa Kỳ.
Ở Miền Nam Việt Nam, lần đầu tiên cán cân quân sự nghiêng về phía cộng sản.Một nhà ngoại giao Nam Hàn làm việc tại Sài Gòn đã nói lên một cách tức giận:
‘’Nền hòa bình trong danh dự của ông Nixon hả ? - Nó chỉ là một sự gian lận dị thường của thế kỷ mà thôi !’’
Thật vậy, đến ngày nay hình như sau bốn năm và mười tháng thương thuyết hết sức vất vả và chán chường, Hiệp Định Paris chỉ là một sự mua bán hớ, hớ quá lớn mà thôi.
Nhưng ai mới thật sự có trách nhiệm về sự phá sản của Hiệp Định nầy ? Hoa thạnh Đốn hay Hà Nội ?
Muốn đánh giá trách nhiệm của Hoa Kỳ và của Bắc Việt, thì phải trở lùi lại một ít về dĩ vãng, và trước hết phải thử tìm hiểu xem tại sao và bằng cách nào mà hai đối thủ đó đi đến chỗ phải ký vào Hiệp Định Paris .
Vào cuối tháng ba năm 1972, Hà Nội tung ra một cuộc tấn công dữ dội vào Miền Nam Việt Nam bằng các sư đoàn thiện chiến của họ với sự yễm trợ của một lực lượng pháo binh phi thường và 700 chiến xa với gần 3000 bộ đội xe tăng vừa được huấn luyện xong 5 tháng thực tập ở trường Thiết Giáp Odessa bên Liên Xô. Sau vài thất bại liên tiếp ở địa phương lúc bắt đầu cuộc chạm trán, và mặc dầu có những sự tiên đoán bi quan nhất, Quân lực Miền Nam vẫn không bị sụp đổ. Họ vẫn giữ vững phần lãnh thổ của họ một cách đáng khen. Khả năng tác chiến của họ được củng cố rất vững mạnh.Trong vòng 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 7) 84.000 tân binh đã hoàn tất thời gian thụ huấn và đã kịp thời bổ sung đày đủ cho các đơn vị bị tổn thất. Sài Gòn thu nhận quá nhiều tân binh tình nguyện cho các đơn vị tinh nhuệ - Hải Quân, Nhảy Dù và Biệt Động Quân- đến đỗi Chánh Phủ phải cho ngưng phần trưng binh. Hoa Kỳ đã cung cấp một hỏa lực yễm trợ rất hùng hậu. Được gởi đến từ Hoa Kỳ để xung vào trận chiến có các đơn vị chuyên viên Mỹ trang bị hỏa tiễn chống tăng TOWS và các trực thăng võ trang ‘’Cobra’’ sát thủ rất đáng sợ của chiến xa địch. Không Lực Hoa Kỳ xử dụng các loại ‘’bom tinh khôn’’ được hướng dẫn bằng ‘’laser’’ hoặc bằng một hệ thống máy ảnh truyền hình được gắn thẳng vào đầu bom, nên đã đem lại một sự can thiệp hết sức chính xác và thật hữu hiệu hơn bao giờ hết.
Ngày 8 tháng 5, TT Nixon đã cho thả mìn phong tỏa tất cả các hải cảng Bắc Việt . Từ ngày 18 đến 29 tháng 12, Không Quân Chiến Lược Hoa Kỳ dội bom Hà Nội và Hải Phòng . Đến ngày thứ 9 của chiến dịch không tập ngắn ngủi nhưng rất dữ dội nầy, tất cả hệ thống phòng không Bắc Việt đều bị sụp đổ. Tất cả các vị trí ‘’ra đa’’ đều bị triệt tiêu, các sự liên lạc vô tuyến điện thoại hoàn toàn bị rối loạn. Mọi sự cố gắng để bổ sung hay thay thế 1.200 hỏa tiển SAM được bắn đi trong vòng 8 ngày qua trên thực tế đều được coi như không thể thực hiện được vì số hỏa tiển dự trữ đã cạn mà các hải cảng thì đã bị khóa chặt. Đến đỗi trong hai ngày chót của cuộc không tập, không có một B.52 nào bị bắn hạ. Và giả sử như cuộc không tập không được chấm dứt ngày 29 tháng 12 thì gần như có thể các pháo đài bay của Hoa Kỳ đã san bằng Miền Bắc và có thể Bắc Việt bị hành tội thế nào cũng được .
Một chi tiết rất có ý nghĩa: Trong suốt thời gian Hoa Kỳ leo thang trừng phạt Hà NộI, về phía Mạc tư Khoa không nghe thấy có một lời chỉ trích hay một tiếng phản đối nào !
Trên trận địa, sự tấn công của Bắc Việt bị bẻ gãy. Trong 40 tỉnh thị của Miền Nam không có một nơi nào bị cộng sản Bắc Việt chiếm giữ được, trừ tỉnh Quảng Trị, mà các đơn vị nhảy dù của Miền Nam đã tái chiếm lại sau 6 tuần lễ tác chiến đẫm máu.
Vào lúc mà TT Nixon cho ngưng cuộc không tập ở Bắc Việt , không có một ai còn có thể nghi ngờ về thế thượng phong của Hoa Kỳ trên bàn hội nghị.
Nhưng trên thực tế, sự phản đối của dư luận ở Hoa Kỳ càng ngày càng tăng, và áp lực của Quốc Hội Hoa Kỳ đã buộc ông Nixon phải cho ngưng ngay hành động của Không quân chiến lược, và vì thế mà ông Nixon không khai thác được lợi thế của ông ta trên bàn hội nghị. Do đó ông không thể có được một sự nhượng bộ nào của phía Bắc Việt để có thể thực sự chấm dứt được chiến cuộc. Đó là: Bắc Việt phải rút hết quân số các sư đoàn Bắc Việt đã xâm nhập và đang trú đóng ở Miền Nam .
Sự thực là hầu hết người Mỹ bị ảnh hưởng vì các chiến dịch có hệ thống của báo chí; dân chúng Mỹ bị xúc động vì các cuộc biểu tình liên tục của các phong trào phản chiến đòi hòa bình; Họ quá mệt mỏi vì chiến cuộc kéo dài quá lâu mà không chấm dứt: Họ lo âu vì không thấy được viễn ảnh của hòa bình, một nền hòa bình ‘’công bằng và lâu bền’’. Cho nên họ đều mong muốn Hoa Kỳ nhanh chân rút ra khỏi ‘’vũng lầy Việt Nam’’, đem các phi công tù binh ở Bắc Việt và tất cả binh sĩ Hoa Kỳ ‘’còn lại ở Miền Nam’’ về nhà cho họ.
Hà Nội thấy rõ chuyện đó. Không cần đi sâu vào vấn đề, chỉ với một lời ‘’hứa suông’’ là chấm dứt chiến tranh, và đoan chắc là các tù binh Mỹ sẽ được hồi hương, là bảo đảm Chánh trị Bộ cộng sản Bắc Việt đã nhận được mọi sự nhượng bộ tối đa của Kissenger rồi.
Việc ký kết Hiệp Định Paris đã bảo đảm cho Bắc Việt một loạt lợi thế quan trọng. Thật vậy, Hà Nội đã đạt được :
(1) -một sự nghỉ ngơi tức thời, giúp cho Bắc Việt sửa chửa mọi thiệt hại lớn lao mà Không Lực Hoa Kỳ đã gây ra cho toàn bộ hệ thống giao thông và phân phối trong nội địa.
(2) - mở lại được các hải cảng, vì tất cả các ngỏ vào đều đã bị gài mìn từ 8 tháng nay, và do cuộc phong tỏa của Hạm Đội 7 mà mọi tàu bè thuộc khối cộng sản quốc tế đã bị ngăn cản không vào được hải phận Bắc Việt (chú thích của tác giả: Hà Nội nhập cảng mỗi năm 1 triệu tấn ngũ cốc từ các nước thuộc khối cộng sản quốc tế, không kể thực phẩm khô cho cả quân đội nhan dân)
(3) -tất cả các lực lượng Hoa Kỳ đang ở Miền Nam Việt Nam phải rời khỏi nơi đây trong vòng sáu mươi (60) ngày và phải mang theo tất cả mọi chiến cụ.
(4) Ngoài ra, Hà Nội còn tự thấy mình được nhận thêm một phần thưởng, nhờ ở sự công nhận những ‘’lõm da beo’’ rất quý báu, những lãnh địa thực sự nằm trong lãnh thổ Miền Nam nhưng không thuộc quyền kiểm soát của Miền Nam Việt Nam , bao nhiêu lõm là bao nhiêu căn cứ xuất phát cho hành động quân sự của các đơn vị Bắc Việt trong tương lai.
Trong khi đó, Chánh Phủ Sài Gòn (VNCH) không được phép đòi hỏi một điều gì cả. Chánh Phủ nầy chỉ còn biết có một việc phản kháng trong mỗi cơ hội về sự duy trì bất hợp pháp của một ‘’lực lượng xâm lăng cộng sản 170.000 người ở Miền Nam Việt Nam ‘’
Hoa Kỳ, thỏa mãn vì cuối cùng được nắm trong tay bản văn Hiệp Định về hòa bình ‘’của mình’’, (nguyên văn của tác giả: ‘’son’’accord de paix), rất lấy làm thích thú về sự khéo léo của ông Kissinger. Một bản Hiệp Định dù là xấu vẫn còn hơn là không có một bản Hiệp Định nào ? (nhưng thật sự là một bản dịchko thiếu một dấu phẩy, từ bản văn tiếng Việt mà tác giả là cộng sản Bắc Việt: chú thích của người dịch)
Cảm giác khoan khoái mang đến do sự ký kết ‘’Hiệp Định Ngừng Bắn’’ và sự trở về như trong chiến thắng của các phi công tù binh, được hoan hô, được choàng vòng hoa và tặng quà. . ., lên cao đến độ nếu có ai đó liều lĩnh nói lên một sự dè dặt tối thiểu nào, đều sẽ thấy mọi người coi mình như một ‘’thằng chống cộng điên khùng’’.
Thế nhưng chỉ cần nhắc lại là ‘’Hiệp Định năm 1962 về vấn đề trung lập hóa nước Lào’’, đối với Bắc Việt không có một lý do nào khác và không có một kết quả thực dụng nào khác ngoài việc bảo đảm cho họ được xử dụng đường mòn Hồ chí Minh, mà nếu không có con đường nầy thì Bắc Việt không bao giờ xâm nhập hoàn toàn tự do được các quân binh chủng của họ vào Miền Nam , để hỗ trợ cho các cuộc tấn công của bộ đội chánh quy Bắc Việt vào Miền Nam Việt Nam .
Tại Sài Gòn bài toán về quân số của việc ngừng bắn đã được đặt ra. ‘’ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn’’ được thành lập cho nhiệm vụ nầy có một quân số là 1.160 người thuộc 4 quốc gia : Hung gia Lợi, Ba Lan, Gia nã Đại và Nam Dương. Với một quân số it ỏi như thế, trên một lãnh thổ rộng bao la với những khó khăn về địa thế mà Ủy Ban phải quan sát, tất cả đều hạn chế tối đa khả năng điều tra của Ủy Ban nầy rất nhiều .
Vào năm 1954, trong lúc các cuộc thương thuyết dẫn đến sự ký kết Hiệp Định Genève, phái đoàn cộng sản Việt Nam đã đòi hỏi phải giữ lại các đơn vị ‘’du kích quân’’ được đóng quân ở Miền Nam trong những nơi mà họ gọi là ‘’khu giải phóng’’. Một cuộc nghiên cứu trong lúc đó do các chuyên viên quân sự Pháp đã ước tính quân số của Ủy Hội Quốc Tế cần thiết để kiểm soát các khu đó phải lên đến 70.000 (!) dĩ nhiên còn nhỏ hơn vào năm 1973. Lúc bấy giờ đứng trước một sự khó khăn quá phức tạp như thế, ông Mendès France đã khôn khéo chọn giải pháp chia đôi nước Việt Nam . Và quân đội Pháp đã đưa (‘’tập kết’’) hết ra Miền Bắc các cán bộ và những đơn vị cộng sản đã hoạt động trong 9 năm ở Miền Nam.
Vào năm 1973, chẳng những các thành viên quốc tế đã quá ít mà Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn còn phải theo nguyên tắc ‘’đồng thuận’’ của cộng sản nữa. Do đó, trên thực tế điều nầy đã làm cho Ủy Ban không làm được việc gì cả. Những sáng kiến của hai phái đoàn Gia nã Đại và Nam Dương có thể bị phái đoàn Ba Lan và Hung gia Lợi ngăn cản bất cứ lúc nào. Không có một cuộc điều tra nào được tiến hành riêng lẻ, do những thành viên của một phái đoàn duy nhất nào đó đơn phương tiến hành.. Có một số thành viên thuộc phái đoàn Gia nã Đại đã liều lĩnh đi vào khu vực cộng sản sau một biến cố nào đó, đã bị bắt ngay lập tức, nhốt , và đối xử như những tù binh thường trong nhiều ngày.
Từ đầu tháng 3, cộng sản đã cho xâm nhập chiến cụ nặng và nhiều chục ngàn người vào các vùng thuộc quyền kiểm soát của họ ở Miền Nam Việt Nam. Đây quả là một sự vi phạm trắng trợn nếu không muốn nói là quá rõ ràng và công khai Hiệp Định Paris về Ngừng Bắn 1973.
Ngày 15 tháng 3, TT Nixon trong một buổi họp báo đã tuyên bố : ‘’chúng tôi đã nói cho Bắc Việt biết rằng chúng tôi rất đỗi quan tâm về những cuộc xâm nhập quan trọng như vậy, cũng như về các hành động vi phạm lệnh ngừng bắn mà Bắc Việt đã ký kết. . Bắc Việt không nên xem thường loại quan tâm nầy của chúng tôi .’’.
Một tháng sau đó, ông Nixon chuẩn bị tái oanh tạc Miền Bắc nhưng ông cho ngưng ngay lệnh đó đúng vào cái ngày mà John Dean ra làm chứng trước tiểu ban điều tra của Quốc Hội về vụ việc Watergate.

Tại Việt Nam, cộng sản với quyết tâm ngăn cản mọi công tác kiển soát trong những vùng mà họ đang xâm nhập và chiếm giữ bất hợp pháp, đã không ngần ngại bất chấp nguy hiểm đã tổ chức bắn hạ các trực thăng của Ủy Ban Quốc Tế bay đúng tầm của hỏa tiển với lý do là các trực thăng đó đã ‘’vi phạm vùng trờI’’ (danh từ của cộng sản ) của họ. (đáng kể nhất là những ngay 1, 7 và 9 tháng 4/73 và ngày 7/5/1973). Sau đó họ còn nã bách kích pháo và bán róc kết vào các thị trấn nào (trong những vùng yếu điểm của họ) đã có hay có dự trù cho các toán Kiểm Soát Ngừng Bán trú đóng, như Lao Bảo, Vị Thanh, Đức Cơ, Xa Mát, Ben Hét, Tri Tôn. Các Toán Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn đã phải rút đi (hai toán Hung gia Lợi và Ba Lan bỏ đi trước nhất), trực thăng của Ủy Ban Quốc Tế vẫn còn đậu tại bãi đáp. Toán Gia nã Đại ngao ngán quá cũng phải rút đi vô điều kiện. Và Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn coi như vô hiệu, chẳng làm được gì !
Lúc bấy giờ Bắc Việt mới áp dụng chánh sách chuyển dân vào ở đầy các khu vực vắng người vừa rơi vào sự kiẻm soát của họ. Như vậy là Bắc Việt đã theo đúng chiến thuật ‘’Đồn điền’’ hay là di dân chìếm đất do những người Bắc đã áp dụng trong thế kỷ XV để xâm chiếm và chế ngự nước Chàm. Chiến thuật nầy gồm có việc cho xâm nhập vào đất địch từng nhóm dân-quân nhỏ để chiếm đất và làm quen với vùng đó. Nếu người chủ đất có đòi tài sản của họ thì người chìếm đất vừa đánh vừa kêu cứu với bộ đội Bắc Việt. Nếu mọi việc êm xuôi hay các khó khăn được giải quyết xong thì một toán khác lại được đưa tới xa hơn chút nữa. Tất cả các toán xâm chiếm đất đai nầy được nối kết với nhau thành một cấu trúc tỏa rộng ra bắt rễ từ biên giới. Các toán chiếm đất nầy tiến dần tới giống như các chân bám của vòi con bạch tuộc khổng lồ. Hà Nội núp sau bình phong chánh trị của cái gọi là Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam (GRP) đã áp dụng đúng phương pháp cũ của tổ tiên họ nhằm xâm chiếm và với mục đích chuyển các vùng đất chiếm được của Miền Nam, của Cam Bót và của Vương quốc Lào thành đất Bắc Kỳ (nguyên văn của tác giả: Tonkin), cũng như các ‘’ lõm da beo’’ mà họ đã giành được từ sau ngày ngừng bắn.
Hà Nội cứ tiếp tục bành trướng các sào huyệt không ai nhìn nhận đó, để lúc nào cũng hợp thức hóa được sự can thiệp của các đơn vị bộ đội Bắc Việt vì đó là những nơi cung cấp tin tức và yêm trợ tiếp vận rất cần thiết cho sự tiến quân của họ trong tương lai..
Trên phuơng diện chánh trị, đối với các quan sát viên không được thông báo trước , những cộng đồng vừa mới được tạo dựng nầy sẽ giúp cho Bắc Việt trình diễn về số dân chúng đối lập ‘’thực sự’’ của chế độ Sài Gòn . Nếu có bầu cử thì những cộng đồng nầy sẽ bảo đảm biết bao nhiêu là phiếu đối lập. Được tập trung dính liền với nhau và chặt chẽ bảo vệ dọc theo đường mòn Hồ chí Minh, những ‘’đồn điền‘’ nầy thật sự là một vùng bàn đạp được cấm sâu vào giữa miền Nam Đông Dương để từ đó các cấu trúc được mở rộng thêm ra.
Lần lần, nhờ các cuộc chuyển dân và đóng các chốt quân sự, các đại đơn vị cộng sản mới trú đóng được khắp các xóm làng. Đường sá và ruộng đồng được mở rộng thêm ra. Nền hành chánh được thiết lập sau đó. Các cán binh của Hà Nội ngụy trang thành dân chúng, được thúc đẩy lập gia đình tại chỗ với các thiếu nữ Miền Nam. Trong hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, cũng như ở Cam Bốt, thì hình như cộng sản thành công trong kế hoạch nầy. Trong những vùng ít dân cư thì bộ đội được tái hôn với những thiếu nữ người Bắc được chuyễn vào Nam theo kế hoạch nầy (khoảng 10.000). Đôi lúc thì tự nguyện nhưng thường thì bị ép buộc, (đặc biệt là các nữ y tá, bác sĩ hay giáo viên) những cô gái nầy gốc người Miền Nam nên chỉ thích lập gia đình với cán binh người Miền Nam hơn. Trên thực tế, những cô gái Miền Bắc thường lập gia đình với các chàng trai Miền Bắc vì những chàng trai nầy thuộc số đông, và đã có với họ những mối tương quan về ngôn ngữ, phong tục tập quán, và ăn uống. Một vài phần tử gọi là ‘’cách mạng’’ người Nam còn được ở trong những vùng mới chiếm giữ đều đã quá tuổi 40. Một số người già từng được xử dụng trong bí mật, thường là độc thân, được giao cho trách nhiệm phụ và họ không sống chung đụng với người Miền Bắc . Sự chiếm hữu đất đai của Miền Nam cũng được tiến hành bằng cách chuyển nguyên các làng từ Miền Bắc vào. Những người Việt Nam định cư ở Lào và Cam Bốt từ nhiều thế hệ trước đã bị dời vào Miền Nam hoặc bị tập trung vào ở với những thương binh mà cộng sản Bắc Việt không thể di tản được và những tù binh chiến tranh già yếu được Chánh Phủ Sài Gòn phóng thích, để lập thành những vùng đông dân cư mới, có thể được nâng lên thành ‘’quận lỵ’’. Kế hoạch di dân bắt buộc nầy, sự thành công của hành động xâm chiếm ồ ạt và lặng lẽ nầy, đã liên hệ trực tiếp đến sự vô hiệu hóa các cơ cấu kiểm soát ngừng bắn. Điều náy giải thích rõ ràng cách thức mà Bắc Việt đã nhanh chóng và tàn bạo xử dụng để làm cho những thành viên quá tò mò của Ủy Ban Quốc Tế phải đứng xa ra khỏi vùng ảnh hưởng của họ.

Để đương đầu với chánh sách táo bạo và gây hấn nầy của Bắc Việt, để bảo đảm thi hành Hiệp Định Paris, phản ứng của Hoa Kỳ xét ra cũng không có gì lạ hết. Khi TT Nixon thử xin ngân khoản mới cho Cam Bốt, vào lúc Khờ Me Đỏ được 2 sư đoàn Bắc Việt tăng cường đang gây nhiều thiệt hại nặng nề cho phía Chánh Phủ thì Quốc Hội đã trả lời bằng cách bắt buộc Không Lực Hoa Kỳ phải chấm dứt oanh tạc vào các vị trí cộng sản bắt đầu từ ngày 15 /8/1973.
Vào tháng 11/1973, cũng Quốc Hội nầy đã bỏ phiếu chấp thuận Nghị Quyết về Quyền Lực Chiến Tranh, để ngăn cấm Tổng Thống Hoa Kỳ từ nay nếu chưa có sự chấp thuận của Quốc Hội thì không được phép xử dụng quân lực Hoa Kỳ để phòng thủ bất cứ phần đất nào của Đông Dương .
Vào mùa hè năm 1974, Tổng Thống Nixon từ chức vì vụ tai tiếng của Watergate. Lúc đó các dân biểu và nghị sĩ Quốc Hội mới xem xét kỹ các đơn xin viện trợ do Kissinger trình lên. Họ thấy quá cao nên họ cắt bớt viện trợ quân sự cho Việt Nam chỉ còn lại phân nửa.

Nhưng lúc nầy tình hình quân sự ở Miền Nam rất là trầm trọng. Tướng Cao văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) rất lo ngại. Tướng Nguyễn khắc Bình, Giám đốc Trung Ương Tình Báo đã trình cho ông một bản phúc trình dài về tình hình dàn quân của các đơn vị cộng sản Bắc Việt ở Miền Nam . Phúc trình viết :
‘’Cuộc đe dọa về quân sự của địch đã hết sức là trầm trọng. Trong khi Hoa Kỳ giảm đến một nửa ngân khoản viện trợ quân sự cho Miền Nam Việt Nam, thì Liên Xô đã tăng cường gắp đôi phần chiến cụ của họ và phần viện trợ tài chánh cho Miền Bắc (1 tỷ 700 triệu mỹ kim cho năm 1974). Bắc Việt đã tiếp tục cho xâm nhập cán binh và chiến cụ từ Miền Bắc liên tục từ sau ngày ngừng bắn. Chúng tôi ước tính lên đến 80.000 cán binh, 600 chiến xa, 500 khẩu pháo và 200 khẩu phòng không, tất cả đều vượt vĩ tuyến 17 không qua các cửa khẩu do Hiệp Định Ngừng Bắn đã ấn định. Ngoài ra, trong số 30.000 tù binh vừa dân sự vừa quân sự được chúng ta trao trả theo đúng các điều khoản của Hiệp Định, thì hai phần ba (2/3) được bổ sung vào các đại đơn vị của Bắc Việt đồn trú trong Miền Nam. Số lượng chiến cụ và sự phân phối cấp phát được tăng thêm gấp bội: các đơn vị đều có phóng pháo xa 122 ly và hỏa tiển SA 7, 300 khẩu đại pháo 130 và 100 khẩu pháo 152 để tăng cường cho các đơn vị pháo binh tầm xa, và những đơn vị chiến xa T.54 . Quân số cộng sản bây giờ đã vượt quá mức quân số của họ trước cuộc tấn công năm 1972; 310.000 người trong đó có 170.000 cán binh và 60.000 cán bộ chánh trị gốc Miền Bắc. Bản đồ trận liệt của cộng sản được tái tổ chức như sau : 17 sư đoàn bộ binh với quân số đầy đủ đang đóng trong Nam (7 sư đoàn ở Vùng I từ vĩ tuyến 17 đến Đà Nẵng, 5 sư đoàn ở Vùng II, cao nguyên Trung phần, 3 sư đoàn ở Vùng III, giữa vùng Mỏ Vẹt tới Sài Gòn ,, và 2 sư đoàn ở Vùng IV trong đồng bằng sông Cữu Long và rừng U Minh. Trừ bị thì có 40.000 cán binh Bắc Việt đóng ở Cam Bốt và 50.000 đóng ở Lào)
Việc ngưng dội bom đã giúp cho Bắc Việt mở rộng và cải thiện tất cả các đường giao thông cũ của họ từ phía Nam vĩ tuyến 17 , đặc biệt là tất cả các tuyến đường dẫn về phía Đông của đường mòn Hồ chí Minh.
Tất cả các tuyến đường và lộ trình xâm nhập đêu được củng cố để có thể xử dụng được suốt 4 mùa. Công tác củng cố đã chẳng những đạt được bề dài mà cả khả năng lưu lượng của tuyến đường vớị 1500 xe cam nhông mỗi tuần, đã vượt mức cao nhất cho tới nay. Các đường liên lạc ngang cũng chưa bao giờ được bỏ qua.
Ống dẫn dầu đặt dọc theo đường mòn Hồ chí Minh được tăng lên gấp đôi và được kéo dài xuyên qua lãnh thổ phía Đông của Cam Bốt đến tận vùng ‘’Mỏ Vẹt’’, chỉ còn cách Sài Gòn có 80 cây số ngàn.
Cuối cùng 12 phi trường đã được thiết lập ở phía Nam vĩ tuyến 17, từ sau khi có lệnh ngừng bắn : 6 trong số đó có khả năng nhận những phi cơ thường và phi trường Khe Sanh được hỏa tiển SAM 2 và SAM 3 bảo vệ mạnh mẽ nhất, có thể nhận các phi cơ loại nặng và các Mig 21. Các trực thăng vận tải lớn do Liên Xô chế tạo đã được thấy lên xuống nhiều lần ở các phi trường nầy. Có nhiều chỉ dấu chính xác cho thấy một cuộc tấn công quân sự quy mô có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tất cả những sự chuẩn bị đều xem như đã hoàn tất. Những kho dự trữ và các trạm tiếp vận lương thực đã được đặt xong, các bệnh viện hậu phương đã được bố trí sẳn sàng. Chiến trường cho mỗi sư đoàn cộng sản đã được tổ chức rất cẩn thận. Các vị trí cho cá nhân, cho từng loại vũ khí, các hầm trú ẩn, các trạm cứu cấp đã được đào và nghi trang rất cẩn thận, các mốc tác xạ đã được đặt xong, cự ly xa gần và máy nhắm cũng đã được tính toán xong. Về vấn đề nầy, chúng tôi xin nói thêm là các đường tiến quân dẫn đến tất cả các thành phố ở miền Trung và miền Đông của chúng ta có lợi thế cho các đơn vị tấn công Bắc Việt là nằm trong vùng rừng rậm, và dựa vào vô số đường mòn do máy ủi đất của những người làm rừng của chúng ta dọn mở ra từ trước . Tất cả các con đường nầy thường được dùng cho xe vận tải nặng chyên chở gổ súc, là những con đường tiến quân rất thuận lợi cho các chiến xa địch. Hệ thống các con đường mòn chằng chịt nầy đến một lúc nào đó sẽ giúp cho các chiến xa cộng sản thọc sâu nhiều mũi dùi bất ngờ xuất hiện vào tận hầu hết các vòng đai ngoại ô của mọi thành phố.
Sự kiện Hoa Kỳ cắt viện trợ quân sự của chúng ta đã đưa chúng ta vào một tình thế thua sút rõ rệt. Chúng ta cần phải tiết kiệm đạn dược. Các quân xa và phi cơ của chúng ta chỉ nhận được có 50% cấp số xăng dầu so với lúc trước. Thiếu cả cơ phận thay thế, gần 30% Không Lực chúng ta bị bắt buộc phải nằm ụ tại chỗ.
Bị bắt buộc phải giữ từng tấc đất mà không được dẫm chân vào chiến tuyến ngừng bắn, binh sĩ của chúng ta phân tán quá mõng, trong khi Bắc Việt là kẻ xâm lăng, lại được tự do tập trung lực lượng bất cứ chỗ nào mà họ muốn mà không lo sợ gì về một cuộc tấn công nào trên lãnh thổ của họ. ‘’
Bắc Việt đe dọa Miền Nam trên phương diện quân sự kèm theo áp lực về kinh tế lẫn chánh trị . Từ sau khi ký xong Hiệp Định Ngừng Bắn, nhà cầm quyền Bắc Việt đã làm đủ mọi cách để bẻ gãy nền kinh tế và tinh thần của dân chúng Miền Nam. Trước hết là họ vận động nhằm làm nản lòng đầu tư của ngoại quốc. Để làm việc nầy, họ đã mở ra ‘’chiến dịch thảo luận’’ căn cứ trên 4 đề tài chính:
(1)- một nguyên tắc về pháp lý: Miền Bắc cuối cùng đã thắng Miền Nam . Sự khẳng định nầy cứ được lập đi lập lại hoài không mệt mỏi trong hai mươi năm liền cuối cùng thì đạt được ảnh hưởng.
(2) - một bằng chứng sai bét về pháp lý kèm theo một sự đe dọa: ‘’ Hiệp Định Paris về Ngừng Bắn đã công nhận cái gọi là Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam (GRP) như là Chánh Phủ hợp pháp duy nhất chính thức của dân tộc Việt Nam, mọi Hiệp Ước ký kết với Chánh Phủ Sài Gòn đều không có giá trị, và có thể còn bị xem là một ‘’xúc phạm’’ với nhân dân Việt Nam ‘’
(3) - duy trì thật sự mối đe dọa quân sự và một không khí mất an ninh. An ninh và ổn định chánh trị luôn luôn là những yếu tố tốt nhất để thúc đẩy sự đầu tư. Làm rối loạn trật tự công cộng và an ninh nội địa, cho thấy lúc nào cũng có mối đe dọa về một cuộc xâm lăng quân sự,. . . . tất cả đều ảnh hưởng đến doanh nhân, hơn nữa Âu Châu sống trong thanh bình đã gần 30 năm rồi .
(4) - Sự đầu độc của báo chí Phương Tây theo luận điệu cộng sản, hay có lợi cho luận điệu của Hà Nội lúc nào cũng tiên đoán hay thích thú mô tả ‘’sự sụp đổ hiển nhiên và không thể tránh được‘’ của nền kinh tế Miền Nam Việt Nam
Lập luận cứ thế được mở rộng ra : kinh tế thì không có giá trị, chánh trị thì bắp bênh, pháp lý thì bất bình thường và theo cái nhìn lịch sử và trong tương lai thì sẽ thất bại.
Sự tuyên truyền thâm hiểm nầy hướng về thế giới bên ngoài lại được mở rộng gấp đôi ngay trong nước bằng một loạt hành động trực tiếp nhằm gây xáo trộn và làm sụp đổ sự phát triển kinh tế của Miền Nam Việt Nam .
Bắn phá và tấn công đồn bót. Dùng pháo binh bắn phá, phục kích các đoàn xe . Từ một năn nay, trung bình hằng tháng, các vụ ám sát tăng từ 22 lên 48, các vụ bắt cóc từ 50 lên 120, các cuộc tấn công từ 200 tăng đến 320. Cộng sản cũng tìm cách làm giảm giá trị đồng tiền của Miền Nam Việt Nam , mức tiết kiệm của người dân bị rút xuống vì sưu cao thuế nặng của Việt Cộng và tiền chuộc nữa. (Thuế tài sản và thuế lợi tức , thuế chuyên chở, tù binh muốn được thả cũng phải đóng tiền : 100.000 cho một binh nhì.)
Hà Nội nuôi các thành phần xâm nhập bằng cách cho lưu hành tiền giả cùng với chánh sách mua bán phá giá. Cộng sản mua gom gạo ở các chợ của Chánh Phủ VNCH với giá rất cao rồi đưa về tích trữ trong vùng của họ, gây ra một sự thiêu hụt và lạm phát. Đến khi các hợp tác xã dưới quyền kiểm soát của họ bán gạo ra, thì họ bán với một giá rất thấp so vơi giá bình thường. Có đôi khi số gạo của hợp tác xã là gạo của cộng sản cướp giựt của dân chúng từ Cam Bốt.
Bây giờ thì Chánh Phủ Miền Nam đang trải qua một thời kỳ nguy kịch. Với ngân sách quân sự và kinh tế của thời bình, Chánh Phủ phải đưởng đầu với những chi phí của thời chiến. Và còn có gần 1 triệu dân tản cư lánh nạn đang chờ được giúp đở từ năm 1972.
Hành động giảm viện trợ bất thần từ phía Hoa Kỳ đã kềm hảm tức khắc mọi khuếch trương. Vật giá leo thang đến một nhịp độ tăng nhanh không thể nói được. Từ tháng giêng năm 1973, đồng bạc bị phá giá đến 8 lần. Không khí chánh trị và xã hội rất nặng nề. Một cuộc khủng khoảng trầm trọng do các lãnh tụ đối lập gây ra trong mấy tháng nay đã làm lung lay Chánh Phủ trong lúc Chánh Phủ đang cố gắng lo đối đầu với những chỉ trích từ mọi phía.
Mọi việc đã bắt đầu từ tháng 5 1974, với một bản cáo trạng chống tham nhũng của Cha Thanh, một linh mục thuộc dòng Chúa Cứu Thế, đại diện cho một giáo khu nghèo nhất vùng ngoại ô Sài Gòn . Bản cáo trạng sau đó lại được sự ủng hộ của 301 tu sĩ công giáo, nhằm tố cáo Chánh Phủ trong vấn đề buôn lậu và hối mại quyền thế của một vài tướng lãnh và tỉnh trưởng.
Vấn đề được đưa ra thảo luận ở Quốc Hội. Cả ThượngViện và Hạ viện bàn cãi rất sôi nổi và rất hứng thú, nhưng cuối cùng thì ngòi nổ cũng được tháo gở một cách khéo léo và vẫn có lợi cho Chánh Phủ, để lại cho thính giả của cuộc tranh luận một ấn tượng về sự tự do phát biểu đúng mức.
Tuy nhiên không vì thế mà có thể dập tắt được hành động của những người chống đối. Nó được tái phát trở lại, dữ dội hơn, tai tiếng hơn và có phương pháp hơn, và lần nầy thì mủi dùi chỉa ngay vào Tổng Thống Thiệu, gia đình ông, và các cộng sự viên thân cận nhất của ông.
Ngày 8 tháng 9, 1974, ‘’Phong Trào Chống Tham Nhũng, Cứu Quốc và Kiến Tạo Hòa Bình’’ cho lưu hành một bản ‘’cáo trạng số 1’’, cáo trạng đầu tiên của một loạt 3 cáo trạng, phơi bày thực sự ra ánh sáng những sự lạm dụng công quỷ và những lợi tức bất hợp pháp.
Các tác giả của bản cáo trạng cho rằng sự tố cáo nầy dựa trên những chứng tích không thể chối bỏ được gồm có 6 điểm:
(1) - Tậu quá nhiều bất động sản : mua một biệt thự của hãng Shell cho con trai giá là 40 triệu đồng, mua cho vợ một cơ sở thương mại cũ của Công Ty Đất Đỏ, 90 triệu đồng, và một nhà ở Thụy Sĩ.
(2) - Lợi dụng chiếm đất: Tổng Thống Thiệu sẽ làm chủ một miếng đất 3 mẫu ở Dalat , một miếng đất nữa gần Giá Rai, trên Quốc lộ 1, và khai thác ở Long Khánh nhiều trăm mẫu nữa;
(3) -Dùng công quỷ giao cho công ty Hải Long tích trử phân bón , giám đốc công ty nầy là ông Nguyễn xuân Huyến, anh em bạn rể của Tổng Thống Thiệu.
(4) -Vấn đề ‘’Bệnh viện Vì Dân’’ do bà Thiệu và ‘’Hội Phụ Nữ Việt Nam Phục Vụ Xã hộI’’ đứng ra xây cất. Việc xây cất bệnh viện nầy, có 100 phòng miển phí cho người nghèo là nhờ vào tiền lời của quỷ xổ số quốc gia và tiền bán số hàng do quan thuế tịch thu trong 4 năm qua. Bà Thiệu bị cáo buộc là đã ‘’chọn lựa bênh nhân’’ và ‘’điều khiển các bác sĩ’’
(5) - Buôn bán ma túy: dựa trên cuốn sách của người Mỹ ‘’Những Chánh trị gia của bạch phiến ở Đông Nam Á’’ mà tác giả là ông M.W. Mac Coy, bản cáo trạng chỉ đích danh tướng Đặng văn Quang, cố vấn đặc biệt của Tổng Thống Thiệu về an ninh phòng thủ, người đích thân điều hành việc bán ma túy ra nước ngoài với sự đồng lõa của những hệ thống quốc tế dính với băng Tiều Châu của người Tàu ở Chợ Lớn.
(6) - Việc bán gạo ở miền Trung: Chánh Phủ tài trợ việc chuyên chở gạo trong vùng nầy nhằm ổn định nhu cầu của dân chúng, và cũng để giữ giá gạo ở đây không cao hơn giá gạo tại Sài Gòn. Việc tài trợ nầy lên đến 40 triệu đồng mỗi tháng. Công chức của Chánh Phủ mua gạo với giá thật thấp và bán ra cho bọn buôn lậu ở địa phương để chia với họ tiền lời và tiền trợ cấp.. Người khai thác việc chuyên chở nầy là ông Phạm Sanh, giám đốc ngân hàng Nam Việt, và người chịu trách nhiệm phân phối gạo là bà Ngô thị Huyết, dì của Tổng Thống Thiệu.
Đài phát thanh Hà Nội và báo chí của Chánh Phủ Bắc Việt cũng như sách báo thân cộng được Bắc Việt tài trợ ở Ba Lê và Âu Châu đã phổ biến rất rộng rãi bản ‘’cáo trạng số 1’’ nầy.
Ở Miền Nam Việt Nam song song với hành động của đối lập, cán bộ cộng sản đã tiến hành phổ biến tràn lan khắp nông thôn dưới hình thức truyền đơn hay các tờ quảng cáo truyền tay.
Chiến dịch đánh phá uy tín nầy lúc đầu chỉ nhằm vào các thành phố lớn, lần lần được lan rộng xuống các tỉnh, là một đòn rất nặng đói với uy tín của Tổng Thống Thiệu vốn vẫn còn được lòng trong hàng ngũ quân nhân và nông dân .
Một số sự kiện được nêu lên trong bản cáo trạng cần phải được làm sáng tỏ lại. Cần có một sự giải thích thật rõ ràng và chính xác mà chỉ có đích thân Tổng Thống Thiệu mới cung cấp được . Những sự kiện khác được nêu lên không được đày đủ hoặc không đúng sự thât.
Thí dụ như việc bán gạo. Nhân vật chính chịu trách nhiệm là ông Phạm Sanh, giám đốc ngân hàng. Ông đã bị trừng phạt, đã bị câu lưu từ tháng bảy, tài sản bị tịch thu, các chương mục đều bị phong tỏa, và đang chờ ngày ra Tòa.
Vấn đề độc quyền phân bón cũng vậy. Chánh Phủ đã có phản ứng kịp thời, bằng cách cho lịnh bán hết phân bón và tái phân phối cho nông dân với ‘’giá chánh thức’’ . Phía đối lập cho rằng đây là một quyết định đáng khen, nhưng đó chỉ là một nhát kiếm chém xuống nước mà thôi. Vì những đại lý bán sỉ người Tàu có mặt khắp mọi giai tần kinh tế trong nước đã thu xếp để mua lại số lớn phân bón đã bán lại đó, đến lượt họ đem về trữ lại, bảo đảm trước là họ sẽ có một số lời khả quan rồi, vì thị trường hối đoái ngoại tệ cứ tiếp tục đi lên.
Như thế thì Tổng Thống Thiệu sẽ phản ứng ra sao đây ? Đối với sự cáo buộc của phe đối lập, trước hết ông đã trả lời bằng một diễn văn dài trên hệ thống truyền hình về tình hình chánh trị của đất nước và cuộc chiến đãu cho sự tự do, có đề cập đến những ‘’lời gièm pha’’ được tung ra về cá nhân ông cho đó chỉ là một chuyện dàn dựng có ác ý "của cộng sản , và của những kẻ hợp tác và đồng lỏa với họ’’ mà thôi.
Nhưng đối với những sự kiện quá nghiêm trọng như việc buôn bán ma túy của tướng Quang, vị cố vấn của ông, và chuyện lương lẹo về đất đai và lợi tức bất chính được gán cho vợ ông, thì ông lại không có nói một tiếng nào. Quân độI, dân chúng, người dân ngoài phố đã chờ đợi ở ông một lời bác bỏ những cáo buộc nầy. Do đó khi mà ông Thiệu tỏ ra quên hẳn và khinh thường không lý tới những chuyện đó thì ông không thuyết phục được ai hết.
-‘’ Tay của ông đã không được sạch sẽ nữa rồi !’’ đó là lời phê bình có chút miệt thị của một số sĩ quan trẻ đau khổ và chán chường..
Vậy ông Thiệu có thể làm được gì để phục hồi uy tín của ông đang bị lung lay trầm trọng ? và tháo gở được những cáo buộc của phe đối lập ? Một hành động giống lạ kỳ những gì đã dẫn đến cuộc đảo chánh tháng 11 năm 1963, và cái chết của Tổng Thống Diệm. Nguyên thủ quốc gia người công giáo nầy cũng là một người chống cộng tích cực. Nhưng dù là một con người rất thanh liêm và yêu nước trung thực, ông vẫn bị tấn công và đánh gục bằng một chiến dịch gièm pha vu khống, được tổ chức hết sức nhịp nhàng, có sự hổ trợ của một phe đối lập công giáo, tố cáo sự tham nhũng, lợi dụng quyền thế của anh em ông, của cha mẹ ông và của những người thân cận của ông. Được tiến hành âm thầm bên trong nhưng do bàn tay thiện nghệ của người Mỹ, chiến dịch đó đã đưa nước Việt Nam vào hổn loạn và làm cho cuộc chiến lại tái diễn.
Đến lượt người kế vị ông, Tổng Thống Thiệu, lại bị cáo buộc lạm dụng quyền thế và không làm tròn chức năng của mình. Vậy ông ta có bị đe dọa về một sự kết thúc tương tự hay không ? Một vài nhà phân tách thường hay liên hệ các diễn biến song song như vậy thì họ sẳn sàng tin . Dù muốn dù không thì tình hình ở Miền Nam đang sôi sục.
Sài Gòn với 4 triệu dân, thủ đô chánh trị ,hành chánh, kinh tế và quân sự, là nơi thu gọn tất cả các bài toán của Miền Nam Việt Nam với những mâu thuẫn, những mưu mô, sự phong phú và sự nghèo nàn của nó .
Một mặt, đây là một thành phố với những đường phố rộng thênh thang, ngổn ngang đủ loại xe hơi và xe gắn máy, với những công viên đẹp, với những công thự luôn được bảo trì rất cẩn thận, với những chợ búa đầy ấp lương thực, với một hải cảng tối tân có đầy đủ trang thiết bị , với một sân bay quốc tế và với những đường liên lạc viễn thông tuyệt hảo.
Mặt khác, với một vòng đai các lều tôle, lều cây, lều ván và giấy bồi, ở đó chen chúc nhau những người tỵ nạn nghèo khổ, không một việc làm, những binh sĩ đào ngũ và hằng ngàn người tàn tật.
Dính liền với thủ đô Sài Gòn là Chợ Lớn, một thành phố của 800.000 người Tàu, những chú con trời đã mọc rễ trong nước từ 3 thế kỷ nay, được tổ chức để thu lợi, là chủ ngân hàng, là trung gian mậu dịch, buôn bán đủ mọi loại kim khí, gỗ, gạo, tổ chức chuyên chở đường bộ và đường thủy, chuyên đầu cơ tích trử, cho vay, là nhà tài trợ cho các thú vui và các loại hàng lậu, cho tất cả những gì có thể mua được và tất cả những gì có thể bán được .
Ở ngay chính giữa tập hợp Việt Hoa nầy, có Dinh Độc Lập được binh sĩ Dù canh gát cẩn thận, có lưỡng viện Quốc Hội Thượng Viện và Hạ Viện, Tối Cao Pháp Viện , đài truyền thanh truyền hình và .. . một số bao chí phong phú.
Trung tâm điểm của tất cả là con đường Tự Do (Catinat cũ), với các khách sạn đồ sộ của nó, với những tiệm buôn tráng lệ, những tiệm nữ trang sáng chói, những quán rượu và phòng trà để tất cả những người chạy áp phe, các luật sư, những dân biểu, những người đối lập, những danh kỹ, những mật báo viên và những nhân viên đặc biệt.. . có nơi hội họp, trò chuyện, bàn mưu tính kế, mua bán đổi chác, trao đổi tin tức hay phao đồn ‘’tin vịt’’ và những ‘’đường dây tốt’’.. . .. đến độ có một dạng tin tức song hành, dựa trên những chuyện ngồi lê đôi mách và những chuyện dèm pha có chủ ý, nhằm xuyên tạc hay đi ngược lại với các thông cáo của chánh quyền thường được gọi với một danh xưng không mấy tốt là ‘’ra đi ô Catinat’’.
Cái gọi là ‘’rađiô Catinat’’ nầy, thường mớm cho các bài báo của hàng trăm ký giả suốt trong thời kỳ 8 năm Hoa Kỳ tham chiến ở đây, đã phần nào xuống cấp, không còn thích hợp nữa từ ngày ra đi của các thông tín viên ngoại quốc.
Bây giờ cái rađi ô nầy lại sống trở lại những giờ phút huy hoàng của nó.
Phía đối lập, bất ngờ về sự táo bạo và sự tự do trong phát biểu của mình sau khi tung ra chiến dịch đánh phá Tổng Thống Thiệu vừa rồi, đã chuyễn động, tự thấy phấn khởi và tưởng mình sắp đạt được chánh quyên bởi vì họ đã tố cáo được những yếu điểm và những sự lạm quyền của Tổng Thống mà không bị một trừng phạt nào hết.
Trong những cuộc họp mật và những vận động ngoài hành lang, phe đối lập đã chọn lựa và đưa lên những lý luận, liên kết với nhau, phân phối các chức vụ trong Chánh Phủ.
Các chỉ trích càng ngày càng nhiều . Báo chí phản ảnh ‘’tin tức chính xác’’ và thật khó mà phân tách được đó là giả hay thật : Tướng Nguyễn vĩnh Nghi - cháu của Tổng Thống Thiệu - đang là Tư Lệnh Vùng IV (Đồng bằng sông Cửu Long) là một người bất tài. Bà vợ của Thủ Tướng Chánh Phủ đã mua một lâu đài lớn bên Pháp với giá một triệu quan. Một vài ông tướng sẽ sẳn sàng giúp phe đối lập với binh sĩ của họ. Các cựu quan chức của cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã từng dính vào cuộc đảo chánh năm 1963, sẽ quay trở lại. Nhưng đề tài của cuộc nói chuyện trọng đại là chuyện ‘’thất sủng’’ gần đây, mà theo đó người sẽ rớt đài sẽ là ông Hoànng đức Nhã, Tổng Trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi, người em họ của Tổng Thống Thiệu, người được mệnh danh là ‘’ông Tổng Thống nhỏ’’.
Ba mươi hai tuổi, cao 1 thước 83, với một thể lực của một tay ‘’anh chị’’ (nguyên văn: play-boy), kỹ sư, tốt nghiệp cử nhân chánh trị học, ông Hoàng đức Nhã là một người thật tiêu biểu cho đẳng cấp mới của giới kỹ thuật trẻ Việt Nam. Là một thể tháo gia, người năng nổ, làm việc không biết mệt, có phương pháp và có đủ tài liệu, nói thật trôi chảy cả tiếng Pháp và tiếng Anh, ông đã làm việc 5 năm như là thơ ký riêng cho Tổng Thống Thiệu trước khi được đề nghị vào chức vụ Bộ Trưởng . Là một kẻ thù cuồng nhiệt của cộng sản, ở cương vị mới ông đã cố gắng vận dụng tất cả phương tiện kỹ thuật mà ông sẳn có để bao che cho dân chúng và tách họ ra khỏi gọng kềm tuyên truyền của Việt Cộng. Và ông ta đã thành công.
Các địch thủ của ông trách ông đã ‘’bịt miệng’’ báo chí và ông đã vượt qua thực quyền của ông để can thiệp vào quá nhiều lãnh vực. Ông Nguyễn minh Đăng, một dân biểu trẻ người Bắc đã dùng diễn đàn để tố cáo sự ‘’lạm dụng quyền hành’’ của ông, qua việc đặt người ‘’thân cận’’vào các trung tâm tin tức được mở ra ở ngoại quốc, và xử dụng sai nguyên tắc công quỷ. Ông Nhã đã lạnh lùng phản bác lại bằng cách nhấn mạnh rằng tất cả những người mà ông ‘’che chở’’ đêu tốt nghiệp đại học, có một trình độ học vấn tuyệt hảo; Và bằng cách trưng ra đây đủ chi tiết rất chính xác của sự chi thu ông đã chứng minh rằng những chi phí của ông đã thấp hơn ngân khoản được ấn định.
Là một người quốc gia có tánh đa nghi, ông Nhã cũng là một người cộng tác khó tính và không mấy thích nghi đối với người Mỹ. Trong giai đoạn chót của cuộc thương thuyết tại Ba Lê, ông Nhã đã đương đầu với ông Kissinger, và đã cùng Tổng Thống Thiệu thảo ra bản quyết nghị nổi tiếng "Bốn Không". Sự giao dịch của ông với Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cũng giữ được khoảng cách . Các cố vấn Hoa Kỳ làm việc tại Sài Gòn than phiền rằng từ sáu tháng nay ông từ chối không trả lời điện thoại cho họ. Được các nhà báo Anh quốc hỏi về thái độ đối xử ‘’quá cực đoan’’ của ông ông Nhã đã trả lời với một giọng khó chịu: "Người Mỹ là đồng minh của chúng tôi, tôi rất thích xem họ như những người anh em, nhưng tôi không muốn gọi họ bằng "Cha" !(nguyên văn: Papa)
Ông đã đệ đơn xin từ chức. Cùng lúc với 3 thành viên khác của Chánh Phủ, cả ba đều thanh liêm, rất giỏi và được kính trọng. Đó là các Tổng trưởng Tài Chánh, Kinh Tế, và Nông Nghiệp, họ cũng đã xin từ chức.
Trực diện với nhóm đối lập càng ngày càng lớn mạnh đang tổ chức chống lại ông và bài xích nhóm kỹ thuật gia trẻ đang cương quyêt tách ra khỏi hàng ngũ Bộ trưởng, Tổng Thống Thiệu bắt đầu giữ sự im lặng.
Bị chạm mạnh do các sự tố cáo công khai của các đối thủ và "đào tị" của những phần tử ưu tú trong Chánh Phủ , Tổng Thống Thiệu với gương mặt luôn luôn tươi tỉnh, khó đoán được ý nghĩ và rất bí mật, ông không bao giờ hốt hoảng. Là một chánh trị gia giỏi vận dụng, lanh trí, và đáng sợ, ông kiểm điểm lại các lá bài của ông trước khi có phản ứng. "Ta còn một số con bài chủ" ông vừa cười vừa tâm sự với những cộng sự viên thân cận.
Ông lạnh lùng kiểm lại các lá bài chủ của ông .
Trước hết là vị trí của người Hoa Kỳ . Mặc dầu ông Nixon đã ra đi, và sự chống báng của Quốc Hội Mỹ, thái độ của Tổng Thống Ford vẫn còn nhiệt tình và tốt bụng. Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn , ông Martin, đã tỏ ra là một bạn đồng minh còn vững chắc và cương nghị, điều mà ông Bunker không có dù là ông ta đã giúp ông lên ghế Tổng Thống .
Về phía VNCH, hệ thống quân giai, được thiết lập từ những quân nhân chuyên nghiệp, được lựa chọn cẩn thận, đã nắm chặt quân đội trong tay. Không có một nguy cơ nào về một cuộc đảo chánh. Phe đối lập được dựa phần lớn vào các linh mục và các vị dân cử công giáo, nhưng ít được khối tín đồ đi theo vì họ không thích các tín hữu can dự vào vấn đề chánh trị. Do đó đối lập không mạnh như họ vẫn tưởng. Còn các phật tử (85% dân chúng) thì họ rất dè dặt và không tham gia vào các cuộc ‘’xuống đường’’.
Sau khi đánh giá kỹ lưỡng về những khả năng hành động của mình, Tổng Thống Thiệu mới đi đến quyết định ‘’hành động’’.
Ông bắt đầu nắm chặt quân đội lại, (vì đó là cột trụ chống đở chính của chế độ) , bằng cách tái phối trí lại hệ thống chỉ huy và thanh lọc hàng ngũ sĩ quan. Ông vẫn giữ lại tướng Ngô quang Trưỡng trong chức vụ Tư lệnh Vùng I Chiến Thuật (Huế và Vùng Phi Quân sự ), người đã bẽ gảy cuộc tấn công của cộng sản năm 1972. Ông đề nghị tướng Phạm văn Phú giữ chức vụ Tư Lệnh Vùng II (Vùng Cao Nguyên Trung Phần), ông nầy là người hùng Việt Nam trong trận Điện biên Phủ. Ông chỉ định tướng Dư quốc Đống vào chức vụ Tư Lệnh Vùng III (khu Tam Giác Sắt và Khu Mỏ Vịt) , một cựu Tư Lệnh Binh Chủng Nhảy Dù, một tay chiến đấu gan lì và sừng sỏ của vùng rừng núi. Ở Vùng IV Chiến Thuật thì ông đã cho tướng Nguyễn khoa Nam thay thế tướng Nguyễn vĩnh Nghi, người cháu của ông,. Tướng Nam cũng thuộc binh chủng Nhảy Dù mà là kỷ thuật gia của chiến thuật trực thăng vận. Ba trăm sáu mươi bảy (367) sĩ quan cấp tá xét thấy không đủ khả năng hay tham nhũng được cho về hưu hay xoá tên trong danh sách cán bộ.
Sau phần quân đội là đến phần chánh trị và dư luận. Dự luật giao toàn quyền hành động cho Tổng Thống Thiệu vừa được thông qua và ban hành. Rất nhiều biện pháp được Quốc Hội thông qua, đã mở đường cho các đảng phái chánh trị được hoạt động trở lại. Sự kiểm duyệt đang đè nặng báo chí đã được tháo bỏ. Một Chánh Phủ mới được hình thành. Nhưng sau khi các biện pháp mở rộng vừa được ban hành thì Tổng Thống Thiệu lại có thái độ cứng rắn, mời phe đối lập hãy hành động trong tinh thần xây dựng và trong khuôn khổ luật pháp quốc gia , qua Quốc Hội (Thượng Viện và Hạ Viện) vào dịp bầu cử lập pháp sấp tới, qua các tòa án (bằng đơn tố cáo) và qua báo chí. Chiến dịch trong sạch hóa được tiếp tục, hàng Bộ trưởng và các công chức cao cấp làm không tròn nhiệm vụ sẽ bị điều tra và nếu có đày đủ bằng cớ chứng minh đúng theo đơn tố cáo thì họ sẽ phải được truy tố và xét xử.
Tất cả đều xong hết, ông còn xác nhận là tất cả những cuộc biểu tình được xem như hành động phá rối trật tự công cộng và sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Nhiệm vụ của các linh mục không phải để tấn công cảnh sát ngoài đường phố hay để lớn tiếng rao giảng bằng loa sự bất phục tùng, mà phải chăm sóc cho giáo khu và các nhà thờ của họ. Tương lai chánh trị của nước Việt Nam được bảo đảm bằng máu ngoài chiến trường chớ không nên bàn cãi trên hè phố.
Bị phản đối, vì không có người cầm đầu thực sự, nên phe đối lập thất bại không kéo dân chúng nổi dậy được . Những cuộc biểu tình lớn dự trù và được thông báo trước không thực hiện được . Linh mục Thanh đã ước muốn động viên tất cả dân chúng trong cuộc chống phá lớn nhưng cho tới giờ nầy chỉ mới có được vai cuộc quậy phá nhỏ. Cơn khủng khoảng coi như bị bóp nghẹt. Ngưòi em ruột của Thủ Tưóng, người cầm đầu cơ quan chống buôn lậu, vừa bị bắt giam.
Tổng Thống Thiệu có thể tiếp tục lo cho cái mà ông gọi là "những vấn đề của đất nước". Và trước hết là chuẩn bị cho cuộc bầu cử Tổng Thống dự trù vào năm 1976. Ông không thay đổi quyêt định : ông sẽ ra ứng cử . Bất chấp những phúc trình bi quan dồn dập gởi tới cho ông, Ông Thiệu vẫn tự tin là có khả năng thành công vượt qua khỏi trở ngại của một nhiệm kỳ thứ ba. Mặc dầu có nhiều sự nguy hiểm trước mặt ông, ông vẫn nhất quyết nghĩ rằng ông là "người hoa tiêu có đủ điều kiện nhất để lèo lái con thuyền Việt Nam"
Vào thàng hai năm 1975, ông viết cho Tổng trưởng tài chánh rằng:‘’Viễn ảnh kinh tế đã cho thấy phần bất lợi đã giảm, Bằng mọi giá ta phải thu hút vốn đầu tư ngoại quốc. Tất cả nỗ lưc của ông phải được dồn hết vào việc nầy. Không cần phải quảng cáo. Hồ sơ của chúng ta đã tốt rồi. Thị trường của Miền Nam đã trên hẳn mức trung bình ở Á Châu. Với dân số 20 triệu , mà hết 9 triệu nhân công chúng ta đã hơn hẳn Úc Châu, Hong Kong, Mã lai Á, Tân gia Ba và Đài Loan rồi. Giá thuê nhân công rẻ là một cái lợi thế rất quan trọng cho các cuộc đầu tư ngoại quốc. Và một số lớn nhân công của chúng ta lại có khả năng nói tiếng Pháp và tiếng Anh. Chúng ta có sẵn 100.000 thợ chuyên môn, 10.000 thợ máy và nhân viên điều hành đã được huấn luyện để coi sóc các dụng cụ máy móc có phần phức tạp hơn là tàu bè và trực thăng nữa. Con số chuyên viên kỹ thuật có giá trị (từ tin học đến máy móc) cần thiết cho kỹ nghệ sẽ rất cao khi cuộc giải ngũ có thể xảy ra. Trang thiết bị cho ngân hàng khá nhiều và nhân viên cũng thành thạo. Đó là những luận cứ mà từ đó ông phải triển khai ra thêm. Tôi đã viết thơ cho Tổng Thống Ford để nói với Ông ta rằng một sự viện trợ đúng mức trong 3 năm là quá đủ để bảo đảm nền độc lập của chúng tôi. Chỉ 3 năm thôi, không quá một ngày nào !’’
Vô ý thức ? Mộng du chánh trị hay lạc quan của lãnh đạo để kích thích các cộng sự viên kém nhiệt thành ?

Trên thực tế, sự táo bạo của Tổng Thống Thiệu trong cách tính toán của ông và lòng tin cứng rắn của ông đối với tương lai của đất nước ông đều dựa vào một cuộc khám phá huyền diệu ngoài khơi bờ biển Miền Nam Việt Nam : dầu lửa .
Phải, đã có dầu lửa ở ngoài khơi Vũng Tàu và đảo Poulo Pajang. 6 mũi khoan, mũi nào cũng trúng đích ! Như vậy người dân Miền Nam Việt Nam và Tổng Thống của họ có quyền mơ ước : Sáu giếng dầu mà khai thác từ năm 1977 sẽ đem lại lợi tức là một tỷ mỹ kim! Nhưng còn cần phải giữ vững được từ nay cho đến ngày đó. Vả lại 3 năm cũng không lâu lắm.
Nhưng ở đây thì coi như dài vô tận !
Bởi vì để chống lại cơ may phồn thịnh phi thường của Miền Nam, Hà Nội chỉ có một mong cầu : chiến tranh.
Ngày 6 tháng giếng năm 1975 : một hành động gọi là ‘’trừng trị’’ đã vang dội khắp nơi: lực lượng cộng sản Miền Bắc đã công khai tiến chiếm tỉnh Phước Long giữa đồng trống, chỉ cách Sài Gòn không hơn 65 cây số ngàn về hướng Đông Bắc. Sự thụ động của Hoa Kỳ sau hành động vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định Ba Lê về Ngừng Bắn nầy đã được Hà Nội coi như một trắc nghiệm rất có lợi cho một cuộc tấn công mới. Vào lúc đó sự từ khước của Quốc Hội Hoa Kỳ về một ngân khoản 300 triệu mỹ kim viện trợ quân sự cho Miền Nam do Tổng Thống Ford yêu cầu, được coi như một dấu hiệu chắc chắn "Mỹ sẽ không tái can thiệp vào Miền Nam Việt Nam nữa" vậy.

CHƯƠNG BA
CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH

Vào đầu tháng giêng năm 1975, một phái đoàn quân sự Liên Xô do tướng V.A. Jukilov Tham mưu trưởng quân đội Liên Xô cầm đầu, đến Hà Nội . Về bài toán Việt Nam Mạc tư Khoa và Bắc Kinh luôn luôn có cái nhìn tương phản với nhau. Từ năm 1954, Liên Xô đã thúc đẩy Hà Nội mở cuộc tấn công quân sự quy mô và quyết định để chiếm Miền Nam. Ngược lại Bắc Kinh thì lại khuyên Hà Nội chỉ nên tăng cường các khu vực đã giải phóng và tiến hành một cuộc chiến tranh gậm nhắm lâu dài (trường kỳ kháng chiến).
Lần nầy thì đề nghị của Liên Xô có phần thắng. Mạc tư Khoa vì không có ảnh hưởng gì ở Cam Bốt, nên mong muốn nắm trọn nước Việt Nam , một chế độ thân hữu có thể giúp cho mình có những căn cứ Hải Quân và Không Quân ở Á Châu.
Liên Xô đã khẳng định rằng thời cơ quốc tế đang rất thuận lợi nên đã cung cấp cho Hà Nội rất nhiều phương tiện có thể trang bị cho 55 trung đoàn chiến xa biệt lập, và hỏa tiễn, pháo binh phòng không, để tiến tới sự thành công. Các tàu hàng của Nga chở đầy ắp đạn dược đã chen chúc nhau ở hải cảng Hải Phòng.
Sau khi phái đoàn của tướng Jukilov rời khỏi Bắc Việt lại có một nhân vật cao cấp thuộc Bộ Ngoại Giao Liên Xô đến Hà Nội . Đó là ông Nicolai Firyubin. Cứ mỗi lần mà Mạc tư Khoa quyết định tiến hành một hoạt động chánh trị quân sự ở một khu vực đặc biệt nóng bõng nào đó thì y như rằng họ phải gởi ông Firyubin đến đó.
Ngày 28 tháng hai, lại đến lượt tướng Yang Yung đẫn đầu một phái đoàn quân sự Trung Quốc đáp xuồng Hà Nội cho một cuộc ‘’viếng thăm dài hạn’’ Bắc Việt . Một sư đoàn đặc công Bắc Việt được thành lập ở Nam Kinh (miền Nam Trung Quốc) được đưa về đóng ở Thượng Du Bắc Việt . Bắc Kinh đã thỏa thuận cho ‘’một hành động giới hạn nhưng quyết định’’, mà mục tiêu đầu tiên là phải cắt đôi Miền Nam Việt Nam ra làm hai đoạn.
Như thế là kế hoạch của Hà Nội sẽ nằm ở giữa sự khuyến cáo của Nga và của Tàu.
Quân đội cộng sản Miền Bắc trước tiên sẽ chiếm vùng Cao Nguyên Trung Phần, sau đó sẽ cố gắng chiếm Hué và Đà Nẵng , nhưng họ sẽ chờ hết mùa mưa mới tấn công Sài Gòn và Đồng bằng sông Cửu Long, tức là vào mùa thu 75.

Lãnh đạo Bắc Việt rất lạc quan: quân đội của họ đã sẵn sàng hành động.
Tờ báo Học Tập cơ quan chánh thức của đảng cộng sản ở Bắc Việt đã phản ảnh đúng cái nhìn của đảng, cho thấy Hà Nội hoàn toàn ý thức được điểm rất thảm hại của Miền Nam khi Quốc Hội Hoa Kỳ quyết định từ việc cắt bớt đi đến đình hoãn luôn viện trợ quân sự và kinh tế cho Sài Gòn .
Vài ngày trước khi họ tung ra cuộc tổng tấn công có tên là ‘’chiến dịch Hồ chí Minh’’ đảng cộng sản rõ ràng đã rất thích thú ghi nhận là ‘’hỏa lực và sự khả dụng của các chiến cụ lưu động thuộc lực lượng Miền Nam đã giảm sút hẳn’’. Tình hình nầy cho thấy là dự trử đạn dược và bom đạn của ‘’quân đội bù nhìn’’ đã không còn đầy đủ và họ đang gặp nhiều khó khăn trầm trọng để tái lập các kho dự trử săng dầu, để bảo trì và sửa chữa các loại chiến xa, tàu chiên và vũ khí nặng mà họ thường dùng.’’
Ngày 10 tháng 3/75, hồi 3 giờ sáng, các đơn vị cộng sản đã mở một mặt trận mới trong vùng Cao Nguyên và tung ra một cuộc tấn công quy mô vào thành phố Ban mê Thuột , tỉnh lỵ của Darlac, nằm cách Sài Gòn 250 cây số ngàn về hướng Bắc.
Từ Ba Lê, nơi tôi đang ở, rất khó mà đo được tầm rộng lớn và diễn tiến của hành động nầy. Những tin tức đầu tiên từ Sài Gòn ‘’xác nhận là những trận đánh ở các đường phố đã bắt đầu trong đêm và vẫn còn đang tiếp tục’’ Theo phát ngôn viên của quân đội Miền Nam thì ‘’ lực lượng của Chánh Phủ và địa phương quân đã cố gắng chống lại một lực lượng địch quá đông
có chiến xa, pháo binh phòng không và một hỏa lực pháo thật hùng hậu bắn yểm trợ. Cuộc tấn công vào tỉnh lỵ đã được pháo binh hạng nặng và hỏa tiển bắn dọn đường trước thật dữ dội. Nhiều cuộc chạm súng đã diễn ra chung quanh phi trường cách thành phố 7 cây số ngàn.
Tất cả mọi liên lạc vô tuyến với Bộ chỉ huy tiểu khu đặt ở gần phi trường đều mất hết. ‘’. Cũng theo Sài Gòn thì vòng đai phía Nam của thành phố đã bị địch chiếm , nơi đây có gần 15.000 dân sanh sống. Không quân và binh sĩ của Chánh Phủ đã bắn hạ 8 chiến xa địch trong thành phố
và ở vùng ngoại ô.’’
Theo những tin tức đầu tiên nhận được thì chánh quyền Miền Nam ước tinh đây là một "cuộc tấn công quy mô nhất mà cộng sản đã tung ra từ sau ngày ký Hiệp Định Ba Lê về Ngừng Bắn năm 1973", và cho là tình hình "rất đỗi nghiêm trọng".
Nhưng Hoa thạnh Đốn không có một phản ứng nào hết.
Ngày thứ ba 12 tháng 3, một bản điện tín từ Hoa Kỳ xác nhận rất đơn giản là ‘’Theo kết quả thăm dò của viện Gallup thì có 78 % dân chúng Mỹ chống lại việc Quốc Hội tăng viện trợ cho Cam Bốt và Việt Nam, chỉ có 12% là chấp thuận’’
Ngày thứ tư 13 tháng 3, cũng theo Sài Gòn thì cuộc chiến ở Cao Nguyên vẫn tiếp diễn.
Ký giả Gerard Le Quang đã viết trong báo France soir như sau:
‘’ Trong khi các trận đánh ở Phnom Penh đang tiếp diễn, thì MTGPMN (Việt Cộng) chiếm một phần của thị xã Ban mê Thuột (160.000 dân), một thị trấn quan trọng trên Cao Nguyên, sau khi chiếm quận lỵ Đức Lập. Tấn chiếm như vậy là kháng chiến quân ở Miền Nam Việt Nam muốn ngăn chận một sự can thiệp của quân đội Sài Gòn vào Cam Bốt để giải vây cho Phnom Penh. Kế hoạch can thiệp nầy được sự không trợ từ Không Lực Hoa Kỳ đã được đề nghị cho Tổng Thống Thiệu gần đây. Vị nguyên thủ Miền Nam Việt Nam đã dự trù tiến tới một hành động như vậy. Ông hy vọng là sẽ có hai đường lợi: trên phương diện tài chánh ông sẽ được tăng cường một ngân khoản viện trợ từ phía Hoa Kỳ , trên phương diện chánh trị sẽ tăng cường được vị thế không chối cãi của người ngyên thủ quốc gia.
Sự tấn công của ‘’kháng chiến quân’’ đặt lại tất cả mọi vấn đề , từ nay quân lực Miền Nam có rất ít khả năng để hành động ở Cam Bốt. Ở đây người ta chỉ nói đến việc gởi 20.000 quân thuộc nhóm Khmer Krom mà thôi (binh sĩ gốc Khmer được huấn luyện ở Miền Nam Việt Nam được gọi là Khmer Krom) ‘’
Tôi tự hỏi từ đâu mà ký giả nầy nắm bắt được tin tức theo đó quân đội Miền Nam Việt Nam sẽ tấn công vào Phnom Penh ? và tại sao giống như những người khác, ông ta nhất quyết cho là "kháng chiến quân" những anh ‘’bộ đội chánh quy" thuộc một quân đội cơ giới chánh quy của Bắc Việt, được trang bị chiến xa, súng Phòng Không, hỏa tiễn và những khẩu pháo binh tầm xa hạng nặng?
Tờ báo Le Figaro còn nuôi dưỡng mãi một chuyện hoang đường tương tự: "14 thành phố, 13 quận lỵ và một tỉnh lỵ đã rơi vào tay của ‘’những người nổi loạn’’ từ khi Hiệp Định Paris được ký kết. Đó là chỉ do "lực lượng cánh tả ở Miền Nam" đánh bật từng chốt một do
quân đội của Chánh Phủ Miền Nam kiểm soát"
Tại miền Trung, dù sao, cuộc tấn công của cộng sản cũng có một tầm rộng lớn không thể ngờ được .Gần như đâu đâu binh sĩ Miền Nam cũng bỏ mất đất. Bốn tỉnh, ba tỉnh lỵ, gần hết vùng Cao nguyên đã bị đổi chủ. Một tỉnh thứ năm, tỉnh Quảng Trị, ở sát biên giới phía Bắc của Việt Nam đang di tản. Và nửa triệu dân chúng đang chạy về hướng Nam trên quốc lộ. Chỉ mới có mấy ngày, mũi dùi tấn công bất thần của cộng sản đã gây ra một sự xáo trộn hết sức lạ thường về những bản đồ quân sự và về vấn đề dân số từng được chánh thức đăng bạ ở Miền Nam Việt Nam từ trên 20 năm qua.
Vậy chuyện gì đã xảy ra ở đó ? Đâu là những lý do sâu xa và thực sự của sự sụp đổ thình lình của quân lực Miền Nam Việt Nam ?
Cho tới giờ nầy Chánh Phủ của ông Thiệu không có đưa ra một giải thích nào khác ngoài câu chuyện ‘’tái phối trí chiến thuật’’ lực lượng của mình. Và để cắt ngang mọi câu hỏi gây bối rối được nêu lên, phát ngôn viên Bộ Quốc Phòng đã xác định với báo chí rằng kể từ nay sẽ không có một bình luận nào về diễn tiến của các cuộc hành quân trong tương lai. Sự rút bỏ 4 tỉnh Kontum, Pleiku, Darlac và Quảng Đức nằm dựa lưng vào biên giới Lào và Cam Bốt, đã để mất vào tay cộng sản 4 thành phố quan trọng có phi trường và một hệ thống đường sá quá tốt, một lãnh thổ có rừng cây rộng lớn, có những vườn trồng trọt sung túc và những đồng ruộng phì nhiêu trãi dài trên 250 cây số ngàn bề dài và 150 cây số bề ngang. Đây là một hành lang chiến lược của Miền Nam Việt Nam vừa rơi vào tay của kẻ thù cộng sản mà trên thực tế không có một cuộc chạm súng nào .
Dường như Bộ Chỉ Huy Sài Gòn đã quyết định phải rút tối đa binh sĩ của mình và dân chúng về vùng bờ biển giàu có hơn, trú đóng ở những thị trấn dựa lưng vào biển, khi họ đứng trước một sự đe dọa do sự tập trung quá lớn của lực lượng cộng sản được trang bị quá hùng hậu về chiến xa, hỏa tiễn và pháo binh hạng nặng, để lại cho cộng sản những khu vực tuy rộng lớn nhưng ‘’trống rỗng’’, ở đó Miền Nam có thể xử dụng mọi phương tiện hỏa lực của Không Quân mà không sợ đánh nhằm dân chúng bạn lẫn lộn với các binh sĩ của mình.
Dân chúng trong những vùng bị đe dọa không cần phải được kêu gọi hay khuyến khích mới bỏ đi. Các nông dân và những kiều dân đã định cư ở Cao Nguyên từ năm 1960 hầu hết thuộc thành phần di cư người công giáo, đã từng chạy khỏi Miền Bắc ngay ngày hôm sau khi Hiệp ước Genève 1954 vừa được ký kết. Những người từ Quảng Trị và Hué chạy vào đây thì không bao giờ quên cuộc ‘’thanh trừng đẫm máu’’ có chọn lọc của năm 1968 (Tết Mậu Thân), lúc lực lượng cộng sản chiếm một phần của hai thành phố nầy. Một cuộc thanh trừng đến 6000 vụ hành quyết với phương tiện thô sơ trong vòng chưa đầy một tháng.
Tuy nhiên, sự rút đi bất thần của tất cả mọi hiện diện quân sự trên nhiều tỉnh yết hầu đã làm thương tổn nặng nề đến uy tín và tinh thần của cả dân chúng, Chánh Phủ Sài Gòn và QLVNCH.
Đường mòn Hồ chí Minh được Cộng Sản Hà Nội bảo vệ toàn diện không một xâm nhập nào đến được từ hai cạnh sườn. Do đó quân đội cộng sản kiểm soát toàn bộ phía Đông và phía Nam của Cam Bốt, tất cả dãy Trường Sơn và cái ‘’sân thượng’’ ngay trung tâm của nước Việt Nam . Họ có thể đổ ập bất cứ lúc nào xuống Dalat, một vùng trồng rau chính của Miền Nam , mỗi ngày cung cấp cho Sài Gòn 70 % rau tươi. Trú đóng trên các cao điểm và được trang bị cơ giới hùng mạnh, lực lượng cộng sản cũng có thể thọc một mủi dùi tấn công xuống biển để cắt đứt Miền Nam làm hai đoạn, qua hành động đó cụ thể hóa sự hình thành một ‘’nươc Việt Nam thứ ba’’.

Ngày 21 tháng 3,
Đài BBC, trước đây thường hay phát lại những thông cáo của đài Hà Nội , đã loan tin về sự di tản của thành phố An Lộc, ở cách Sài Gòn 100 cây số về hướng Bắc.
Vào năm 1972, An Lộc là nơi mà 5.000 binh sĩ của Miền Nam , trú ẩn trong sự hoàn toàn đổ nát của thành phố vì 70.000 quả đạn pháo đủ loại của cộng sản Bắc Việt , trong ba tháng dài đã chống trả và đánh bật tất cả các cuộc xung phong liên tiếp của 3 sư đoàn cộng sản Bắc Việt có sự yểm trợ trực tiếp của 2 trung đoàn chiến xa T.54. Bản thân tôi, lợi dụng được các chuyến bay tản thương, đã đáp xuống thành phố nầy và đã sống ở đó được vài giờ. Vì hỏa lực địch rất dày đặc, các trực thăng chỉ có 30 giây ở dưới đất - thời gian tối thiểu để những người trên trực thăng nhảy xuống, và những người khiêng cán đưa thương binh lên - sau đó là phải bay lên ngay. Cả thành phố chỉ còn là một đóng gạch vụn, ngổn ngang xác chiến xa T.54 bị lực lượng phòng thủ hạ bằng súng không giật, và hằng ngàn xác bộ đội cộng sản sình to lên trong những quân phục xanh tơi tả. Nhà thờ đã bay mất nóc. Cả trăm thi hài chồng chất lên nhau, đã thối rửa, giữa hàng ghế ngồi đã nát vụn và dưới chân bục thờ Chúa. Trước đó hai tuần, một chiếc T.54 của cộng sản đã dùng đại bác bắn trực xạ vào các tín đồ đang cầu nguyện ở đó, trước khi bị pháo xa 105 ly của quân trú phòng bắn hạ với máy nhắm ở cự ly số 0 .
Có nhiều binh sĩ Miền Nam bị thương. Rất nhiều người không chợp mắt được trong vòng 60 giờ. Nhưng tất cả các đơn vị trú phòng đều có một tinh thần sắt thép. Chúng tôi đang ở vào tháng 6. Vài ngày sau đó, Tổng Thống Thiệu đáp xuống An Lộc. Quân trú phòng bước ra khỏi hầm trú ẩn để hoan hô và bế bổng ông lên trong chiến thắng. Một đạo quân tiếp viện cuối cùng đã bẻ gãy vòng vây, và thành phố An Lộc đã trở thành biểu tượng cho lòng can đảm vô biên của quân dân Miền Nam Việt Nam . Các sự hư hại đổ nát đã được dẹp dọn và thành phố đã sống trở lại. Và bây giờ không đầy 3 năm sau chiến công oanh liệt đó, An Lộc di tản mà không có một trận đánh nào .
Vả lại, cũng không có một nơi nào có xảy ra trận đánh thật sự !
Ngày 24 tháng 3,
Cộng sản đã tiến tới được bờ biển. Nước Việt Nam coi như bị cắt làm đôi. Cố đô Hué thất thủ ngày 26, vẫn không được phòng thủ, Hué là nơi đã có hằng ngàn người chết năm 1968. Hué là nơi mà những đơn vị ‘’beo đen’’, đơn vị Dù và Biệt động Quân và sư đoàn Không kỵ nổi tiếng của Hoa Kỳ đã lùng sục từng nhà trong chiến đãu lúc đó.
Cuộc triệt thoái đã trở thành một cuộc tháo chạy, ‘’mạnh ai nấy chạy’’.
Sự sụp đổ nầy bao gồm hết cả miền Trung của Việt Nam , Đám đông dân chúng tỵ nạn hốt hoảng chạy loạn, lớn dần lớn dần như một con sông cuồn cuộn chảy, với quá nhiều hình ảnh đau thương không chịu nổi. . . . cuộc chạy trốn cuống cuồng của cà một dân tộc bị vứt ra đường, một cuộc chạy loạn dị thường, dòng người chạy loạn tràn ngập và kéo theo mọi thứ trên đường đi của nó, đã phân tán và nhận chìm các đơn vị đang có ý định chống trả và chiến đãu. Nhiều chị đàn bà la hét một cách kinh hoàng và vô vọng vì không tìm được con cái đi lạc, gần như trần truồng thiểu não và ngơ ngác giữa khối người chạy loạn. Nhiều cụ già ốm teo chỉ còn da bọc xương mệt mỏi kéo lê thân xác khô cằn và bị cháy nắng, lả người vì đường dài trong nóng bụi, buông mình té xuống mà không gượng dậy nổi, đang nằm yên chờ giờ chết.
Những hình ảnh đó cả thế giới đều mục kích ngay trên màn ảnh truyền hình của họ. Phản ứng đầu tiên của họ rất nhân đạo, rất tự nhiên , không kềm chế được . Họ run lên, sau đó họ tìm cách xin về nuôi hàng ngàn trẻ mồ côi .Không có lúc nào họ nghĩ rằng muốn bảo đảm tương lai của những đứa trẻ đó thì chỉ có một cách hay nhất là phải tìm cách cứu lấy cha mẹ của chúng.
Ở Sài Gòn, tờ báo Chính Luận có đăng một bài phóng sự quá rụng rời do một đặc phái viên từ Qui Nhơn gởi về :
‘’Không thể tưởng tượng nổi những giờ phút cuối cùng của thành phố đang tự trút bỏ hết đời sống của mình. Dân chúng cướp giật thuyền máy do binh sĩ canh giữ. Sau lưng họ vô số va li, thùng cây, rương hòm, quần áo trộn lẫn với giẽ rách được người ta vứt bỏ đầy trên bãi cát với hàng chục, hàng chục tử thi bé nhỏ gây nên một mùi hôi thúi không chịu được . Có nhiều bà mẹ vẫn còn ôm cứng xác chết của con trong tay mình. Trên những con đường dẫn tới hải cảng, những bé trai bé gái lạc mất hết cha mẹ đã cố kéo lê thân khô cằn đến tận bãi biển để rồi nằm chết lịm trên cát vì quá đói, quá khát và quá mệt mỏi.
Một cụ già mặc đồ đen ngồi dựa trên bến thuyền, kể lại hành trình chạy loạn từ Cao Nguyên: ‘’chúng tôi có trên hai trăm ngàn người trên lộ 7 B, gồm bốn ngàn xe vận tải chở đầy binh sĩ, hằng ngàn chiếc mô tô, xe ba bánh, xe cũ của người Tàu, xe đạp, và những người đi bộ. Có khoảng trên 100.000 người đi bộ, gồng gánh tất cả những gì mà họ có thể mang theo được, nào là gà nhét vào bị, nào là heo cột nằm trong gánh, nào là chó với sợi dây giắt theo. . . những người công giáo thì mang theo tượng ảnh Đức Mẹ và tượng Đức Chúa Trời. Con đường thì nhỏ hẹp chạy xuyên qua rừng giữa những bụi rậm và tre dày đặc không chen chân qua được. Chúng tôi không có một thức ăn, và tuyệt đối không có gì để uống. Chúng tôi đi suốt 3 ngày ba đêm như vậy. Một bộ phận công binh đi trước đoàn xe để sửa đường và sửa lại cầu hư vì chiến cuộc trong những ngày qua. Khi gần tới sông Ba thì từ trong cánh rừng xuất hiện một toán lính cộng sản có người cầm cờ đi đầu. người chỉ huy toán bộ đội ấy phát loa ra lệnh cho chúng tôi phải ngừng lại và phải đi trở về. Nhưng làm sao được bây giờ vì có quá nhiều người ở phía sau cứ đùn chúng tôi đi tới. Tất cả coi như bị dồn cứng lại thành một khối người không nhúc nhích được nữa, rất khó ra lệnh còn hơn là đối với một đàn trâu đang cúi gầm đầu xuống đất . Bấy giờ bọn cộng sản mới bắn vào chúng tôi với tất cả các loại súng của họ đang có..Được dấu kín trong rừng, các loại pháo nặng nhẹ, bách kích, súng không giật . . nã thẳng vào chúng tôi dọc theo con lộ đang bị kẹt cứng. Tất cả đều nổ đồng loạt. Một trái đạn pháo đã chém ngang con gái tôi và hai dứa con của nó. Trên đoạn đường dài 3 cây số thây nằm la liệt, lẫn lộn kẻ chết người bị thương. Hàng trăm xe đủ loại bị cháy, nổ ì ầm như người ta ném đạn vào lửa vậy. Tôi ôm đứa cháu chín tuổi trong lòng, và cố gắng chạy bừa tới đâu hay tới đó. Đứa bé rên rỉ, vì nó bị một mảnh đạn pháo xuyên qua lưng từ bên nầy sang bên kia. Nó khóc thét lên nhắc đi nhắc lại : ‘’ Ông ơi, ngực cháu bị thủng rồi đau lắm’’. Ròi đùng một cái, tôi không còn nghe nó nói gì nữa. Tôi nhìn lại nó thì đôi môi của nó đã đen hết rồi, và nó đã chết. Tôi tiếp tục bế nó để sẽ chôn cất nó cho phải phép. Khi vào đến thành phố, tôi rửa mặt cho nó ở một cái vòi nước đầu tiên, tôi cuốn nó vào một cái bị vải mới mà tôi mua với số tiền còn lại của tôi, và tôi chôn nó duới một gốc cây. Bây giờ thì tôi không còn gì nữa, người thân cũng không có để mà thuơng yêu và che chở. Tôi sẽ không rời khỏi đây đâu ‘’
Tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ được Tổng Thống Ford gởi khẩn cấp đến Sài Gòn để đánh giá tình hình quân sự tại đây. Phát ngôn viên của Nhà Trắng, ông M. Ron Nessen, đã xác nhận là "cựu chỉ huy trưởng quân lực Hoa Kỳ ở Việt Nam" cũng có nhiệm vụ trao cho Chánh Phủ Sài Gòn một công điện qua đó Tổng Thống Ford muốn bảo đảm với Tổng Thống Thiệu là ông ta đã quyết định nỗ lực tối đa để được Quốc Hội "chấp thuận cho những ngân khoản cần thiết."
Nhưng Quốc Hội Hoa Kỳ không thấy và không nghe (nguyên văn của tác giả : đui và điếc) những nỗi thống khổ của một dân tộc bạn đang bị một tai họa giáng lên đầu và đang kêu cứu, và họ đã bỏ đi nghỉ hè cho đến ngày 7 tháng 4.
Không thể nào tả nổi cảnh hỗn loạn trên các con lộ ở Miền Nam Việt Nam được .
Ngày 29 tháng 3/75 :
Đà Nẵng, thành phố mà người Mỹ đã có trù tính trong vòng 8 ngày sẽ di tản hết dân chúng bằng một cầu Không vận khổng lồ trong lịch sử chiến tranh, số phận đã coi như bị bỏ rơi. Sáu trái đạn hỏa tiển rơi váo phi trường.. . . và cuộc di tản đương nhiên bị đình hoãn. Đà Nẵng là một thành phố với một hải cảng đầy ấp tàu thuyền, với một bán đảo được phòng thủ chặt chẽ, với một phi trường chiến lược, với một hệ thống kho tàng đầy ấp lương thực, đạn duợc và chiến cụ có thể kháng cự được trong nhiều tháng. Thành phố bị mất đi không một tiếng súng, và sự ra đi của những chiếc phi cơ và trực thăng cuối cùng đã tạo nên những cảnh tượng hết sức kinh hoàng. Đám đông người tỵ nạn ùa lại tranh nhau cố leo lên những chiếc phi cơ đã đầy ấp người. Một chiếc trực thăng cất cánh lắc lư làm rơi rụng mấy chùm người đang cố bám chặt vào hai gọng sắt dưới lườn, giống như những con sâu nhỏ đeo vào một con bọ hung lớn, làm cho họ rơi lả chả từ trên không, rồi rớt xuống đất bẹp nát từng đống nhỏ không còn hình dạng con người , máu me be bét.
Đán bà và trẻ con khóc lóc, gào thét, van xin, và cố gắng trèo lên một chiếc khác cũng đã đầy cứng người rồi. Có những báng súng đập vào tay và cánh tay của họ. Có một số đang cố bám vào lườn của môt chiếc Boeing đang gầm rú để cố bốc lên khỏi đường bay. Khi đến Sài Gòn người ta còn tìm thấy một tử thi bị xé nát của một người nào đó đang bị cuốn chặt vào hệ thống bánh xe hạ cánh của chiếc Boeing 707 nói trên.
Ba ngày sau khi Đà Nẵng thất thủ thì lại đến lượt Nha Trang ! Ở đây 300.000 người dân tị nạn còn sống sót từ vùng Cao Nguyên và từ các tỉnh miền Trung chạy về đã bị gọng kềm của chiếc bẫy sập cộng sản đóng kín họ lại.
Cam Ranh, một vịnh đẹp nhất vùng Á Châu cũng đang được di tản. Pháo binh Bắc Việt cứ tiếp tục nã đạn vào các đoàn người di cư đang chạy trốn cộng sản hướng về miền biển.
Lúc bấy giờ đang có một tình trạng mập mờ khó hiểu tại Hoa Kỳ . Quốc Hội thì vẫn còn đang đi nghỉ hè. . . . Tổng Thống Ford một ít lâu sau đó cũng bắt chước họ và ông hiện đang thong dong chơi "gôn" tại Palm Springs ở tiểu bang California.
Phần ông Phó Tổng Thống Nelson Rockefeller thì ước tính là "thật sự đã quá muộn" để muốn làm một việc gì đó cho Việt Nam , kể cả sự giúp đỡ cho dân chúng đang chạy loạn, và ông còn nói thêm một câu khích động hết sức vô liêm sĩ:
"Tôi nghĩ rằng có một số lớn những người nầy sẽ chết.. .. .. thật đáng buồn, thật quá bi thảm. Nhưng chúng tôi còn phải tiếp tục sống , và tiếp tục đi tới chớ"’
Đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam hiện còn đang ở Hoa thạnh Đốn đã lên án người Mỹ đã "không đưa được một ngón tay lên" để binh vực cho quốc gia mình. Ông nói "tôi nghĩ rằng khắp nơi trên thế giới nầy, mọi người đều có chung một kết luận rất bất lợi cho chúng ta . Có nghĩa là thà làm một đồng minh của cộng sản còn hơn là bất hạnh được làm đồng minh của Hoa Kỳ "
Tại Ba Lê, một đại diện của CPLTCHMN (GRP) lên tiếng mạnh mẽ tố cáo cái mà họ gọi là chánh quyền Ford và tập đoàn Nguyễn văn Thiệu đã "ép buộc dân chúng Miền Nam phải di tản’’ . Ông ta còn xác nhận là hàng trăm ngàn người đã nghe lời tuyên truyền xảo trá và bị hăm dọa dưới họng súng, đã bị bắt buộc phải lìa bỏ hết nhà cửa và nơi chôn nhao cắt rún của mình để được chết đói và chết bệnh trên đường di tản. Nhiều ngàn người khác vì không chịu chạy trốn đã phải bị hành quyết.. .!"
Đó là một đại diện không sợ phải nghiên cứu một sự nghịch lý, và hơn nữa cũng không nghĩ tới một sự đính chánh về những sự kiện đã xảy ra. Cái Chánh Phủ cách mạng lâm thời mà ông ta đang nhơn danh để tuyên bố đó, đã từng phủ nhận từ mấy năm nay về tư cách đại diện cho nước Việt Nam của ông Tổng Thống Thiệu, bỗng nhiên hôm nay đùng một cái, ông ta công nhận một thực quyền phi thường của vị Tổng Thống nầy là làm cho người dân tin theo.. .. .. .. một quyền lực tâm lý có khả năng di chuyển cả một khối lớn dân chúng, bắt họ phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn để đi về những thành phố cuối cùng dưới sự lãnh đạo ‘’độc tài" của mình. Ở vào thời điểm nào và bằng cách nào mà binh sĩ của Tổng Thống Thiệu đang bị tan rã không qua một cuộc chạm súng nào và đang cùng chạy trong đám dân chúng, lại có thể dùng họng súng của họ để bắt buộc hàng triệu người phải di tản, chạy về các sân bay hay các bến cảng đang lần hồi bị đóng cửa trước mặt họ ? Hàng chục ngàn người đã vì quá sợ binh sĩ Bắc Việt mà phải chạy đi, đã chết vì đói khát hay vì mệt lả, hoặc bị tàn sát một cách có phương pháp có tổ chức mà thân nhân của họ đã từng là nạn nhân ở Quảng Trị và ở Hué trong năm 1968. Nhiều ngàn và nhiều ngàn người khác đã bị hành quyết, bằng những quả đạn pháo đủ cở đủ loại của cộng sản trong những tuần lễ sau cùng nầy, khi Bắc Việt muốn ngăn cản không cho họ chạy đi.
Tại Sài Gòn , cuối cùng thì chế độ của ông Thiệu dường như được tính từng ngày. Người ta không thể tha thứ cho ông vì sau khi Ban mê Thuột bị thất thủ, ông đã cho lệnh rút tất cả quân đội từ miền Trung và từ miền Cao Nguyên : vội vàng và cẩu thả, hành động rút quân nầy đã dẫn tới một sự tháo chạy mà ngay như Bắc Việt cũng không bao giờ tiên đoán được .


Bị đối lập tấn công từ nhiều tháng qua bây giờ thì ông lại bị Thượng Viện bỏ rơi, một Thượng Viện đã từng cho ông một sự tín nhiệm hết sức rộng rãi. Sau 8 tiếng đồng hồ thảo luận, 41 trên 42 nghị sĩ hiện diện đã đứng lên chống "sự bất lực của chế độ’’ và đòi hỏi phải thành lập khẩn cấp một Chánh Phủ đoàn kết quốc gia gồm những nhân vật ‘’có khả năng, liêm khiết và đại diện cho dân’’ . Chánh Phủ mới thành lập nầy phải cộng tác chặt chẽ với Quốc Hội và các đoàn thể quần chúng, nhanh chóng làm việc trong mục đích tái lập lại sự ‘’ổn định quân sự, xã hội và chánh trị ‘’.
Tướng Nguyễn cao Kỳ, cựu Phó Tổng Thống và cựu Tư Lệnh Không Quân Miền Nam Việt Nam, đã về hưu từ năm năm nay đã đứng ra thành lập một ‘’Ủy Ban Hành Động để Cứu Quốc’’ và hô hào sự ra đi của Tổng Thống Thiệu. Cảnh sát đã phá được hai âm mưu đảo chánh và đã bắt giữ nhiều sĩ quan.
Nhiều điện tín sau cùng cho biết là đã có một sự hốt hoãng trong thủ đô Miền Nam Việt Nam . Tất cả những chuyến bay thường lệ rời Sài Gòn đã hết chỗ. Các ngân hàng bị khách hàng bao vây để rút hết tiền ra. Chỉ trong vòng có một ngày giá chợ đen đồng mỹ kim đã tăng vọt từ 700 lên đến 1600 đồng.
Vào giờ phút mà Miền Nam Việt Nam đang lung lay và bị đe dọa sẽ bị sụp đổ dưới sự tấn công dồn dập của các sư đoàn cộng sản Bắc Việt mà hình như không có gì kềm hãm sức tiến của họ được, có một trong nhiều câu hỏi đang làm bận tâm nhưng chưa thấy được nêu lên : trong trường hợp quân Bắc Việt thắng, thì những kiều dân Pháp và quyền lợi của nước Pháp chúng tôi ở đây sẽ còn hay không ?
12.000 kiều dân Pháp có một nhiệm vụ rất quan trọng trong đời sống của Miền Nam Việt Nam . Quyền lợi Pháp, được ước tình đến 1 tỷ 730 ngàn quan, được phân ra như sau:
- cơ sở kỹ nghệ (đầu tư và trữ kim) : 650 triệu quan Pháp
- các vườn cao su và xí nghiệp : 650 triệu quan
- trà và cà phê: 10 ngàn mẫu,
- doanh nghiệp: (đầu tư và trữ kim) 100 triệu quan
- xí nghiệp vận tải và nhà xe, vận tải đường sông và đường biển: 150 triệu quan
- ngân hàng , công ty địa ốc và bất động sản : 180 triệu quan
Các sự đầu tư nầy không những chỉ là những đầu tư ngoại quốc duy nhất có phần bền vững mà nó còn chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế của Miền Nam Việt Nam . Con số mậu dịch lên gần đến 800 triệu quan Pháp và phần đóng góp vào ngân sách của Miền Nam Việt Nam được khoảng 23 %.
Những sự đầu tư về kỹ nghệ của chúng tôi ít được dân chúng bên Pháp biết đến, phần lớn gồm có kỹ nghệ khá tân tiến của Miền Nam Việt Nam , gồm có các xí nghiệp mới nhất như: hãng Citroen, nơi đây đã lấp ráp những xe thông dụng trong năm qua, đặc biệt là xe La Dalat; xưởng sản xuất xi măng ở Hà Tiên; hảng Isostat (kỹ nghệ điện tử), các hảng Elf- Erap và C.F.P. dự phần vào công tác tìm dầu khí ngoài khơi bờ biển Việt Nam
Hơn thế nữa, các công ty hàng không của chúng tôi (Air France đang cộng tác với Air Việt Nam và U.T.A.), các công ty hàng hải (Messageries và Chargeurs Réunis) đang hoạt động bán độc quyền trong công tác chuyển vận quốc tế từ Việt Nam đến Nam Âu Châu và ngược lại.
Những lợi thế mà Lập Pháp ở đây đã dành cho đầu tư của chúng tôi , sự khéo tay của nhân công ở đây, vị trí địa dư thuận lợi cho khả năng xuất cảng, mối giao hảo tốt với nước Pháp và các nước bạn quanh đó (các nước nói tiếng Pháp) đã cống hiến nhiều viễn ành và điều kiện làm việc rất đáng được khuyến khích.
Ảnh hưởng văn hóa Pháp vẫn còn rất quan trọng. Tất cả thành phần lãnh đạo ở Miền Nam Việt Nam và hầu hết các cán bộ cao cấp đều nói tiếng Pháp. Những cơ sở văn hóa Pháp rất nhiều . Một viện văn hóa Pháp ở Sài Gòn , ba trung tâm văn hóa ở Dalat, Đà Nẵng và Nha Trang; sáu trường trung học (Yersin, Dalat, Blaise-Pascal, Đà Nẵng trường Trung học Pháp ở Nha Trang, trung học Marie Curie); trung tâm giáo dục Saint Exupery, trung tâm học vụ Colette ở Sài Gòn . Nước Pháp cũng giúp đỡ cho nhiều trường sở Việt Nam dưới danh nghĩa hợp tác văn hóa và kỹ thuật (trung tâm hướng dẫn học vụ, đại học văn chương và sư phạm của Sài Gòn và Hué, đại học Y và Dược của Sài Gòn, trung tâm kỹ thuật quốc gia Phú Thọ).
Con số học sinh và sinh viên ghi tên vào các trường sở nói trên lên đến 14.000, và nhân viên giảng dạy người Pháp là 272 người . Thêm vào đó còn có những trường khác, trường tư và trường đạo dạy toàn bằng tiếng Pháp : trường trung học Taberd (Sài Gòn ), trung học Fraternité (Chợ Lớn), Les Oiseaux (Dalat và Sài Gòn ), l’Alliance Francaise (Sài Gòn) . Các giáo sĩ và các dì phước có mặt khắp các bệnh viện, các trại cùi, các trung tâm xã hội và đã tận tụy hy sinh phục vụ mà không có một sự tính toán nào. Bệnh viện Grall, một trong những bệnh viện tối tân nhất của vùng Đông Nam Á, trong đó tất cả nhân viên có trách nhiệm (bác sĩ, giải phẩu, quang tuyến, dược sĩ và quản lý) đều là người Pháp, là một bệnh viện có danh tiếng không thể chối cãi được .
Tất cả các cơ sở đó, tất cả những nam nữ nhân viên đã dính líu thật sâu đậm vào đất nước nầy, tất cả những sự đóng góp về văn hóa và nhân đạo của nước Pháp. . . rồi đây sẽ còn lại những gì trong trường hợp có một chiến thắng của cộng sản ở đây ?
Bây giờ thì còn quá sớm để có thể ức đoán về tương lai, nhưng dù sao cũng có thể thiết lập được một sự so sánh với những gì đã xảy ra trong quá khứ ở Miền Bắc Việt Nam . Vào năm 1954, những quyền lợi của Pháp ở nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam lên đến 100 tỷ đồng quan cũ. Đến giờ nầy giao dịch kinh tế của chúng tôi với chế độ Hà Nội coi như không có gì cả.
Các cơ sở Pháp đều đã biến mất hết. Không có một cơ sở giáo dục nào ở cấp đại học hay cơ sở y tế nào còn hoạt động ở đó.
Con số kiều bào người Pháp chúng tôi từ gần 6.000 vào năm 1954, bây giờ chỉ còn có 21, trong số đó phải tính 16 nhân viên của tòa Đại Sứ. Năm người còn lại là nhà báo của AFP, của tờ Humanité và tờ l’Unita (hai tờ báo của cộng sản Pháp và Ý). Tiếng Pháp là ngôn ngữ mà những người dưới 50 tuổi không người nào biết .. Đối với những người khác thì tiếng Pháp là một sinh ngữ ngoại quốc đứng vào hàng thứ tư sau tiếng Nga, tiếng Tàu và tiếng Anh.
Từ sự hiện diện của chúng tôi khi xưa, giờ nầy trên bình diện kinh tế, chỉ còn một hồ sơ tố tụng về nợ nần không bao giờ giải quyết được và một khế ước bồi thường cho những mỏ than cũ ở Miền Bắc của chúng tôi mà Bắc Việt đã cho đình chỉ thi hành từ năm 1963 . Lãnh đạo của Hà Nội chỉ cần vài năm là quá đủ để họ bôi xóa hết dấu vết ảnh hưởng của người Pháp ở Miền Bắc Việt Nam .
Như vậy cò thể nào người ta đặt hết tin tưởng vào một hy vọng là họ sẽ tõ ra bớt mẫn tiệp hơn nếu họ chiếm được Miền Nam?

CHƯƠNG BỐN
TỔNG THỐNG THIỆU CỐ GẮNG
GIỮ THẾ CHỦ ĐỘNG CHÁNH TRỊ

Ngày Chúa Nhật 6 tháng 4
Chiếc phi cơ "Caravelle" của Hàng Không Việt Nam đã đổi đường bay từ Băng Cốc về Sài Gòn . Nó không bay chéo dãy núi dài của Cam Bốt và những đồng ruộng phì nhiêu của vùng Đồng bằng nữa, mà đi thẳng đến Utapao để từ đó bay dọc theo duyên hải của Miền Nam Việt Nam, bay thật cẩn thận trên mặt biển để tránh tầm đạn đạo của hỏa tiễn tầm nhiệt SAM.7 của Bắc Việt . Và sau đó mới bay thẳng về hướng Bắc, rồi tạt ngang qua khúc quanh co sình lầy của con sông Sài Gòn để vào Tân sơn Nhất.
Đường bay đáp xuống hơi ngắn lại hẹp vì hai bên có những bức tường thép vuông vức dùng để chắn đạn của các ụ phi cơ vận tải C.47, các trực thăng và những phi cơ chiến đãu.
Trong những dãy nhà của phi trường bốn chiếc C.130 khổng lồ của Không Lực Hoàng Gia Úc đang đến để chở 600 trẻ mồ côi. Có khoảng 100 em mặc toàn quần áo mới đang đứng yên lặng dưới đất nhìn các phi cơ khổng lồ nầy đầy vẻ sợ hãi.
Chiếc xe buýt đưa chúng tôi ra thành phố chạy giữa đám đông xe gắn máy, xe hơi, xe ba bánh. Thành phố mà cách đây vài ngày tất cả báo chí Tây Phương đều mô tả như là một thành phố đang bị bao vây, hiện rất yên tĩnh lạ kỳ. Gần như không có một tý gì thay đổi từ khi tôi đang còn ở đây sáu tháng trước . Trên các đại lộ và trong các công viên đầy bóng mát của những cây chuối và những cây cổ thụ xanh um, đã thấy toàn hoa phượng nở đỏ rực..
Ở đường Catinat, những phòng trà và phòng lớn của khách sạn Continental đầy ấp khách hàng.Tuy là nhằm ngày chúa nhật nhưng các thư viện, các quán rượu, các kho hàng, các cửa hàng tạp hóa của người Ấn vẫn mở cửa. Trên đường Charner cũ (Nguyễn Huệ) các gian hàng bán bông còn đầy ấp bông huệ và bông hường. Các rạp xi nê thì treo bản ‘’hết vé’’. Trên sông Sài Gòn các xà lan đen chở đầy hàng hóa đang bỏ neo giữa những chiếc tàu chiến của Hải Quân súng cao xạ chỉ hết lên trời. Nhiều chiếc ghe chài đường biển đang lướt trên sông vớI những cánh buồm lớn . . .
Phía sau Kho bạc và chung quanh Chợ Cũ, hàng quán vẫn tấp nập kẻ mua người bán. Chỉ riêng các xe xích-lô đã vắng bóng, Có gần 6000 loại xe nầy, lúc nào cũng thấy chạy rong ngược xuôi khắp thành phố tìm khách hay rước khách ở bến xe ba bánh. Cảnh sát đã quyết định cấm không cho họ hoạt động nữa, vì bọn đặc công Việt Cộng đã giả dạng xích lô trà trộn và đột nhập vào thành phố một đêm trước ngày tấn công Tết Mậu Thân , bảy năm trước .
Sài Gòn có vẻ lo âu ngay sau khi Đà Nẵng và Nha Trang bị thất thủ. Tòa nhà của hãng Hàng Không Việt Nam từng sống những ngày vui vẻ nhộn nhịp, nay đã trở lại vắng vẽ im lìm. Hảng hàng không quốc gia nầy nay chỉ còn giữ có 2 chuyến bay trong nội địa đang bị thu hẹp lại: một chuyến đi Phú Quốc, một hòn đảo nằm ngoài khơi trong Vịnh Thái Lan , và một chuyến đi Rạch Giá, một tỉnh nằm trên bờ biển phía Tây Nam của Việt Nam .
Các tờ báo buổi chiều chạy hàng chữ đậm , trích đăng cuộc họp báo được coi là đáng khích lệ của Tổng Thống Ford tại San Diego. Tổng Thống Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng:
- " Tôi là một người rất lạc quan . Bất kể những biến cố bi thảm mà chúng tôi là nhân chứng, cũng vẫn còn một cơ may để Việt Nam và Cam Bốt chống trả lại sức ép của kẻ địch. Tôi không chờ đợi một sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam và tôi sẽ làm tất cả để tránh việc đó. Chúng tôi không để cho một chế độ cộng sản được hiện hữu tại Sài Gòn , và ở Phnom Penh cũng vậy. Hoa Kỳ vẫn là một đồng minh đáng tin cậy ."
Cuộc khủng khoảng chánh trị ở Sài Gòn bắt nguồn từ sự kiện Cao Nguyên bị rơi vào tay cộng sản Bắc Việt, vừa bất ngờ được sống trở lại rất ngoạn mục. Vài giờ sau khi ngăn chận được một âm mưu đảo chánh, Tổng Thống Thiệu tuyên bố chỉ định ông Chủ Tịch Hạ Viện Nguyễn bá Cẩn thay thế Thủ tướng Trần thiện Khiêm.
Sau khi khám phá ra được âm mưu đảo chánh , đã có nhiều người bị bắt giữ trong số đó có ông Nguyễn văn Ngân, cố vấn chánh trị của Tổng Thống Thiệu và là một thành viên có uy tín thuộc đảng Dân Chủ của chánh quyền . Ông Ngân là một cựu giáo chức, sau đó là sĩ quan Quân Cảnh, và sau khi được giải ngũ đã quyết định chọn con đường chánh trị và đã nhanh chóng vạch ra con đường cho mình.
Vào năm 1972, Tổng Thống Thiệu đã chọn ông Ngân làm phụ tá đặc trách về công tác thành lập đảng Dân Chủ mà ông hy vọng sẽ là đảng của chánh quyền để yểm trợ cho ông, đồng thời ông Ngân cũng sẽ bảo đảm sự liên lạc chặt chẻ giữa Tổng Thống Phủ và lưỡng viện Quốc Hội .
Là một người mưu mô và có nhiều tham vọng, ông Ngân tiến hành thành lập rất nhanh ở Quốc Hội hai toán liên lạc rất trung thành với ông ta.
Vào mùa xuân năm 1974, ông tưởng rằng vị trí cá nhân của ông đã đủ vững chắc, có thể triệu tập được một buổi họp của các vị dân cử "bạn" để nhờ họ giúp tách rờI Tổng Thống Thiệu ra khỏi những "thủ hạ xấu" chung quanh ông ta. Và một khi bảo đảm chắc chắn là ông Thiệu đã bị "cô lập" như thế rồi thì ông nầy sẽ trở thành con tin trong tay của những người dân cử. Nhưng rất phiền là một trong những nghị sĩ lại có mang theo một máy thu âm trong người , và cuốn băng ghi âm đó cuối cùng lại đến nằm trên bàn làm việc của Tổng Thống Thiệu .
Trong cuộc điều tra ngay sau đó, cơ quan an ninh xác nhận là "những tài liệu tịch thâu được tại nhà của ông Ngân cho thấy ông nầy dính líu đến một đường dây buôn lậu với vùng Việt Cộng"
Bị chỉ định cư trú trong vài tháng, sau đó ông Ngân được phép rời khỏi nước đi sang Gia nả đại ở vớI người anh của ông ta. Nhưng gần đây khi được phép trở lại Việt Nam , hình như không bỏ được tham vọng, ông lại khư khư muốn nắm giữ những vai trò hàng đầu, nên lần nầy ông lại hợp tác với cánh em út của tướng Nguyễn cao Kỳ.
Bị dính líu vào âm mưu nầy, 8 sĩ quan cao cấp bị theo dõi và canh chừng, trong số đó có tướng Loan. Tướng Loan là cựu chỉ huy trưởng cảnh sát, hồi Tết Mậu Thân đã bị báo chí Tây Phưong chụp ảnh, ngay khi ông đang dùng súng lục bắn vào đầu một cấp chỉ huy Việt Cộng, sau đó ít lâu ông bị thương vì một viên đạn từ trực thăng và đã trở nên một phế nhân không có việc làm. Nhưng mặc dù cò một chân bất khiển dụng, vị cựu sĩ quan biệt động nầy, từng là một trong những phi công tài giỏi nhất của Miền Nam Việt Nam , vẫn còn có khả năng phản ứng rất nguy hiểm..
Nằm ngay giữa căn cứ Không Quân rộng lớn trong phạm vi phi trường Tân sơn Nhất, biệt thự của tướng Nguyễn cao Kỳ vẫn còn là một trung tâm sinh hoạt rất náo nhiệt và . . . rất được chú ý canh chừng. Vào mỗi buỗI chiều cứ trước giờ giớ nghiêm là khách khứa tấp nập đến chơi nhà tướng Kỳ. Có nhiều đại tá trẻ và một số phi công, quá tức giận vì các thất bại quân sự gần đây, đã tỏ ra sẵn sàng cho những hành động điên rồ. Bà Mai, người vợ rất đẹp của tướng Kỳ thì lo thức ăn và nước uống. Khách khứa thì bàn cãi thâu đêm suốt sáng về những gì cần phải làm. Tướng Kỳ là người nói nhiều nhất, ông quát tháo, tức giận, cho Tổng Thống Thiệu là một vị tướng "hát bội", ông xác nhận rằng mình đã hình thành "một kế hoạch phản công" để chận đứng làn sóng cộng sản ông lên án Đại sứ Hoa Kỳ đã "tự ý chống lại mọi sự thay đổi Chánh Phủ" . Không khí âm mưu nầy đã làm cho Tổng Thống Thiệu phát cáu lên. Một số sát thủ đã được thuê để tìm cách thanh toán tướng Kỳ. Họ đột nhập vào được căn cứ, nhưng đã bị toán cận vệ của tướng Kỳ bắn hạ ngay ở cách biệt thự chừng vài ba thước. Có lẽ người ta đang chờ xem những màn biến chuyển náo nhiệt nầy.
Bất chấp những sự đe dọa nặng nề đang đè nặng lên bản thân ông, Tổng Thống Thiệu vẫn cố gắng giữ thế chủ động chánh trị của mình, đồng thời cố giữ không cho phần còn lại của quân đội bị rã ngũ.
Trong một buỗi nói chuyện trên vô tuyến truyền hình, Tổng Thống Thiệu vừa xác nhận là Thủ tướng mới được chỉ định đang lo thành lập một "Chánh Phủ chiến đãu và đoàn kết" vớI nhiệm vụ tái lập an ninh, ổn định hậu phương và cứu trợ dân chúng tỵ nạn. Ông xác nhận là các chỉ huy quân sự nào "hèn nhát và có tinh thần chủ bại" sẽ bị trừng trị. Ông dựa trên vị thế "hợp pháp và hiến định" của một Tổng Thống được dân bầu trong sứ mạng bảo vệ chế độ, và cực lực bác bỏ mọi luận điệu cho rằng ông đã có "một thỏa hiệp kín với cộng sản" trong việc nhượng một phần lãnh thổ của quốc gia để đổi lấy một sự rút quân và bảo toàn dân chúng đang chạy loạn. Cuối cùng ông nhấn mạnh là ông vẫn thi hành đứng đắn Hiệp Định Balê, dù là Hiệp Định đang bị Bắc Việt chà đạp, khi ông nói rằng ông phải dùng bạo lực để trả lời với bạo lực, và ông không bao giờ thương lượng điều gì dưới sự đe dọa của họng súng.
Để kết luận, ông kêu gọi dân chúng hãy "trấn tỉnh lại" và đòi hỏi quân đội phải "chuẩn bị’ để tái chiếm lại những phần lãnh thổ đã mất". Những ý định đó rất đáng được khen ngợi. Chỉ còn có việc thi hành các quyết định đó mà thôi. Không phải những hoạt động trong hành lang mà chính là những hành động trên chiến trường mới xác nhận được lời nói của ông Thiệu có giá trị hay không .
Số phận của nước Việt Nam tựu trung vẫn phải được giải quyêt bằng súng đạn!

CHƯƠNG NĂM
CÁC TƯỚNG LÃNH TỨC GIẬN
VÌ THẤY MÌNH BỊ NHỤC

Thứ hai, 7 tháng 4
Đ ại tá Khôi, sĩ quan phụ tá trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn III tiếp tôi tại Bộ Tổng Tham Mưu QLV NCH , một doanh trại rộng lớn nằm gần sân bay Tân sơn Nhất, nơi có rất nhiều ăng ten và có Thiết Giáp canh gác. Lúc bấy giờ là 9 giờ sáng.
Đại tá Khôi, một cựu sĩ quan lực lượng đặc biệt, được huấn luyện ở Okinawa, là một người cao lớn mảnh khảnh mặt đầy vết thẹo vì ông đã đạp phải mìn năm 1970.
Trên tường của văn phòng ông treo đầy bản đồ, được cập nhật rất cẩn thận.
"Tôi tưởng là Anh muốn biết những gì đã xảy ra ở Cao Nguyên và ở Hué phải không ?", ông ta hỏi tôi.
- Thưa đại tá, Tổng Thống Thiệu có nói về "những sai lầm trầm trọng về chỉ huy". Vì tôi không có mặt tại chỗ, nên tôi muốn có vài chi tiết chính xác .
Đại tá Khôi xoa tay, nhìn tôi bằng cặp mắt thật sắc bén và tìm tòi, sau đó trả lời cho tôi với một nụ cười có đôi chút gượng gạo:
- Chắc là tôi không thể trả lời hết các câu hỏi của Anh được đâu, nhưng tôi sẽ cố gắng nói với Anh phần chính. Đồng ý không ?"
Tôi gật đầu chấp thuận ngay. Đại tá Khôi sau đó mới bắt đầu nói:
‘’Trước hết chúng ta phải xác nhận một việc: cộng sản đã có tấn công vào thị xã Ban mê Thuột 2 lần vào năm 1968 (Mậu Thân) và năm 1972, và cả hai lần chúng đều thất bại. Nhưng lần
nầy quân lực của chúng tôi ở vào một vị thế rất yếu kém và không còn được một sự Không Trợ mạnh mẽ của Không Lực Hoa Kỳ đã từng giúp chúng tôi bẻ gãy cuộc tấn công của cộng sản
hai lần trước . Chúng tôi biết là cộng sản Bắc Việt đã tập trung các đơn vị và chiến cụ trong những vùng rừng rậm nằm giữa biên giới Lào và Cam Bốt và các thành phố vùng Cao Nguyên. Nhưng vì người Mỹ đã luôn luôn từ chối không cung cấp cho chúng tôi các oanh tạc cơ hạng nặng để giúp chúng tôi đánh ngay vào tuyến xuất phát nằm ở các vùng tập trung của địch, nên chúng tôi không thể dự đoán được cuộc tấn công của họ.
-Ngày 10/3 hồi 4 giờ sáng, cộng sản đã mở màn trận đánh bằng một trận mưa pháo đủ loại, từ 130 ly, đến bách kích pháo nặng và hỏa tiễn, nã vào thành phố Ban mê Thuột . Pháo dọn đường nầy đã kéo dài trong ba tiếng đồng hồ, và ngay sau đó là các chiến xa T.54 mở cuộc xung phong vào thị trấn. Người của chúng tôi đã cực lực chống trả, đặc biệt là ở mạn Nam của thành phố và chung quanh phi trường, nhưng vào lúc trưa Không Lực của ta lại đánh nhằm ngay bộ chỉ huy của tiểu khu, cứ điểm phòng ngự cuối cùng, và sau đó tất cả mọi nỗ lực để tái chiếm lại thị trấn đều thất bại.
Tổng Thống Thiệu đã muốn chống giữ Ban mê Thuột , vì đây là thủ đô của đồng bào Thượng, và mất Ban mê Thuột là tất cả các bộ lạc trên vùng Cao Nguyên nầy sẽ mất hết tinh thần. Ngày 13 tháng 3, được báo là thành phố nầy đã hoàn toàn bị cộng sản Bắc Việt kiểm soát, Tổng Thống Thiệu đã đơn phương quyết định bỏ hết vùng Cao Nguyên, thà là di tản hết dân chúng và quân đội trú phòng đang bị đe dọa còn hơn là tiếp tục chống giữ tới cùng, để có thêm nguy cơ tổn thất về nhân mạng rất cao .
Từ nhiều tháng trước Bộ Tổng Tham Mưu chúng tôi có thỏa thuận với các cố vấn Hoa Kỳ một kế hoạch theo đó chúng tôi dự trù rút hết quân lực về các tỉnh miền duyên hải của miền Trung trong trường hợp bị cộng sản Bắc Việt tổng tấn công mạnh. Cuộc lui binh nầy - đã không thực hiện được vì vừa quá tốn kém vừa còn phải chống giữ lãnh thổ trên phương diện chiến thuật - thật ra có 2 đường lợi, là rút gọn lại tuyến phòng ngự của chúng tôi và có thể tiếp vận dễ dàng bằng đường biển.
Ngày 13 tháng 3, tướng Ngô quang Trường, tư lệnh Vùng I Chiến Thuật, một vùng nằm giữa vĩ tuyến 17 và Đà Nẵng , bay về Sài Gòn để họp với Tổng Thống Thiệu. Tổng Thống Thiệu đã cho lệnh tướng Trưởng rút quân trú phòng Quảng Trị và cũng đừng ngần ngại phải bỏ luôn Hué, nếu thấy cần thiết để tổ chức một tuyến phòng thủ vững chắc ở Đà Nẵng , ở đó có thể lợi dụng được phi trường lớn và các kho dự trữ lương thực và đạn dược quan trọng. Tướng Trưởng đã tuyên bố thỏa thuận trên nguyên tắc, và nói thêm là ông sẽ dùng hết khả năng để phòng thủ Hué.
Ngày 14 tháng 3, Tổng Thống Thiệu đến căn cứ Hải Quân ở Cam Ranh để có một buổi họp kín của Hội Đồng Quân sự. Có 5 tướng lãnh hiện diện trong buỗi họp : Tổng Thống Thiệu, đại tướng Khiêm Thủ tướng Chánh Phủ , tướng Cao văn Viên Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH, tướng Đặng văn Quang cố vấn quân sự của Tổng Thống và tướng Phú tư lệnh Vùng II Chiến Thuật.
Sau một cuộc bàn cãi thật lâu, tất cả tướng lãnh hiện diện trong buổi họp nầy đều quyết định rút bỏ luôn hai thành phố nằm về hướng Bắc của Vùng Cao Nguyên là Kontum và Pleiku. Kế hoạch được soạn thảo nầy dự trù tập trung các đơn vị xuống vùng Duyên Hải và từ đó sẽ mở một cuộc phản công lên Ban mê Thuột . Không có ấn định chính xác giờ giấc để tiến hành cuộc di tản hai thành phố Kontum và Pleiku.. .. ..’’
Đại tá Khôi bất thình lình ngưng nói, xoa hai bàn tay khô cằn của ông ta, sau đó mới tiếp tục một cách trịnh trọng:
- Điểm sau cùng nầy mang một tính cách lịch sử quan trọng. Bốn trong số năm vị tướng lãnh hiện diện đều nghĩ rằng cuộc triệt thoái phải được tiến hành tuần tự và sẽ được kết thúc vào tuần lễ chót của tháng 3. Vị tướng lãnh thứ năm là tướng Phú, người chịu trách nhiệm về cuộc hành quân nầy, là một sĩ quan có một dĩ vãng quân sự hào hùng, tuy rằng ông đã đi lên từ hàng binh sĩ. Đã từng lăn lóc trên chiến trường suốt 14 năm, ông là một tư lệnh sư đoàn tài giỏi nhưng lại là một tư lệnh Quân Đoàn quá yếu. Đã từ lâu rồi ông bị bệnh, ông lại không được chuẩn bị trước và không đủ khả năng điều khiển một cuộc hành quân triệt thoái quy mô như vầy, nghĩa là một trong những cuộc điều quân khó khăn nhất trong các phép dụng binh trong lịch sử chiến tranh"
Tôi quan sát rất kỹ đại tá Khôi. Thình lình tôi có cảm tưởng khó chịu là hình như ông ta đang cho tôi một bài ‘’diễn văn’’ đã được soạn sẳn từ trước . Tôi không muốn ngắt ngang ông ta. Tôi cần phải nghe luận giải của ông đến cùng: cũng sấp sửa đến phần kết luận rồi..Và đại tá Khôi nói tiếp :
- "Chiều tối ngày 14 tháng 3, về đến Pleiku hơi trễ, tướng Phú không cần giải thích, đã cho lệnh Quân Đoàn tiến hành cuộc hành quân triệt thoái ngay vào sáng sớm hôm sau.
Vào lúc rạng đông ngày 15 tháng 3, tất cả binh sĩ cùng dân chúng của hai tỉnh Kontum và Pleiku đã vội vã rời khỏi hai thành phố nói trên, bỏ lại tại chổ hàng chục triệu mỹ kim chiến cụ. Cả hai đoàn người và xe qua quốc lộ 19 rồi mới vào con đường 7 B. Trên con đường 7 B nầy vốn chỉ là một con đường mòn được trải đá sơ sài, tất cả các cầu đều bị giật sập, đi sâu vào một vùng rừng đầy gai góc lùm bụi, cỏ cao ngất trời. Khi các xe vận tải nặng và các xe thiết giáp đi qua rồi thì các đường nước trở thành những vũng sình lầy lội, làm cho hàng ngàn xe khác đi sau bị mắc lầy, tự đâm vào nhau và ùn tắc nghẽn lại hết. Trên đường rút đi, các đơn vị đi trước và đi sau 200.000 dân tỵ nạn, bị rơi vào một trận phục kích kinh hồn của sư đoàn 320 Bắc Việt . Hai chục ngàn dân (20.000) bị tàn sát, 500 xe đủ loại bị phá hủy, tất cả biến cuộc triệt thoái nầy thành một cuộc tháo chạy trong hỗn loạn. Và cũng từ đó mới gây ra nổi kinh hoàng khó tả trong dân chúng...
- Và Hué thì sao, thưa đại tá? Việc gì đã thật sự xảy ra ở đó ?
- Tin tức thảm hại trên con lộ 7 B được lan truyền rất nhanh. Tướng Trưởng lo sợ mình sẽ bị hoàn toàn cô lập ở phía Bắc, đã quyết định bỏ Hué. Nhưng Tổng Thống Thiệu vừa mới tuyên bố trên vô tuyến truyền thanh ý định của ông sẽ cố thủ cố đô của Việt Nam , đã cho lệnh tuớng Trưởng phải quay trở lại. Quân lính lúc đó đã di chuyễn gần đến Đà Nẵng trong trật tự, đã phải quay trở lại. Nhưng họ lại gặp trên 100.000 dân tỵ nạn đang chạy loạn, xô đảy họ và ngăn cản họ làm cho họ không sao tiến lên được. Sư đoàn 1 bộ binh, một sư đoàn ưu tú của QLV NCH do đó bị tan hàng và biến mất trong đám đông hổn loạn quái ác nầy vốn đang bị cộng sản Bắc Việt tàn sát bằng đủ mọi loại pháo. Hué đã hoàn toàn bị địch chiếm. Và Đà Nẵng không còn có thể phòng thủ gì nữa được . Phần còn lại thì tất cả các nhà báo đã có tường thuật hết rồi"
Đại tá Khôi đứng dậy và đi vòng bàn viết của ông ta, điều nầy có nghĩa là buỗi nói chuyện của chúng tôi đã chấm dứt. Tôi khẳng định là những tin tức mà ông đã nói với tôi hôm nay chỉ đúng sự thật có một phần nào thôi, nhưng chắc chắn không phải là tất cả sự thật. Cái lối giải thích để làm giảm nhẹ đi phần nào trách nhiệm của Tổng Thống Thiệu nó không đúng với tính tình của các nhân vật trong câu chuyện.. Tôi rất muốn nói với đại tá Khôi như vậy, nhưng tôi cảm thấy ông ta không muốn đi ra ngoài luận cứ "chánh thức" mà ông đã cung cấp cho tôi. Do đó tôi chỉ hỏi ông ta :
"Xin đại tá chỉ giùm tôi có thể đi gặp tướng Phú ở chỗ nào được ?
Gương mặt ông ta lạnh nhạt trở lại, và câu trả lời cụt lủn của ông ta làm tôi hết sức ngạc nhiên:
- Tüớng Phú đã bị phạt giam, và không thể tiếp ai được hết"’
Tôi từ giã đại tá Khôi. Nhưng trước khi rời khỏi Bộ Tổng Tham Mưu, tôi nhờ vị sĩ quan báo chí xin giùm tôi một cái hẹn để đi gặp thiếu tướng Nguyễn khoa Nam, Tư Lệnh Vùng Đồng Bằng sông Cửu Long. Sau vài lần điện thoại, và gọi vô tuyến, tướng Nam đã đồng ý gặp tôi sau 3 giờ chiều, nhơn lúc ông ghé lại Mỹ Tho.
*
* *
Cuộc nói chuyện của tôi với đại tá Khôi làm tôi đau đầu. Hình ảnh mà ông ta đã tả cho tôi về một tướng Phú già nua, suy nhược, không còn đủ sáng suốt và khả năng để phối hợp một cuộc điều quân, thực tình không đứng vững. Thật vậy, tôi chỉ không gặp tướng Phú có sáu tháng, nhưng tôi biết ông ta cách đây 23 năm, từ khi ông ra trường sĩ quan Thủ Đức. Tôi vẫn biết ông ta chỉ còn có một lá phổi. Nhưng dù là nhỏ con ốm yếu nhưng với 49 tuổi đầu, ông là một người dày dạn phong sương. Ông rất cứng rắn đôi với binh sĩ của mình và cũng cứng rắn đối với bản thân, dẽo dai, mưu lược và giỏi về chiến thuật, nên trước hết ông là một sĩ quan của thế công.
Ở Điện biên Phủ, nơi mà ông được thăng cấp đại úy tại mặt trận, ông đã tạo được lịch sử của ông rồi. Ngày 30 tháng 3 năm 1954, lúc Việt Cộng đánh một trận chiến đẫm máu ở 5 ngọn đồi, trong lúc xáp lá cà, bọn bộ đội đã gọi hỏi nhau ơi ới : "Thằng Phú đâu rồi ? Phải bắt thằng Phú nghe, bắt sống nó nghe !" Ông ta không rơi vào tròng của quân Bắc Việt và liên tiếp mở hết cuộc phản công nầy đến trận phản công khác. Phương pháp chỉ huy của ông Phú rất khắt khe. Với một người có hành động vi phạm kỷ luật mà ông đã ban hành, ông cho cột chân tay người đó vào hàng rào kẽm gai. Mặc dầu luôn luôn bị pháo kích hết sức nặng nề, hệ thống phòng ngự đầy hố tác chiến trên đồi Elian 1 của ông đã giúp ông cầm cự suốt nhiều tuần lễ, đảy lui tất cả cả các đợt xung phong của địch. Bốn ngày trước khi cứ điểm bị thất thủ, ông còn oanh liệt cho nổ 3 lô cốt có trang bị súng không giật 57 ly, đã kịp thời phát hiện, chận đứng và tấn công một tiểu đoàn Việt Cộng trên sườn đồi, buộc chúng phải rút lui với sự yểm trợ hữu hiệu của pháo binh Pháp do ông đích thân đứng ngay trên địa thế trống trải để điều chỉnh tác xạ thật chính xác. Ông đã sống sót được sau 18 tháng bị bắt giam trong một trại tẩy não cộng sản ở Thượng Du Bắc Việt , mà không hề chấp nhận phải ký một bản "thú tội" hay một tờ truyền đơn nào. Và các sinh viên ở Sài Gòn đã tranh đấu với phái đoàn Bắc Việt đang ở khách sạn Majestic lúc bấy giờ để đòi Bắc Việt phải trả tự do cho ông. Từ khi ông được trở về Nam , ông Phú đã tham gia tích cực vào cuộc chiến. Nhất là ở Lào, năm 1971, lúc ông là tư lệnh sư đoàn 1 bộ binh ông đã giúp cho một đoàn xe thiết giáp của Miền Nam thoát được một sự thảm bại trông thấy, trên đường rút lui ở quốc lộ 9. Để cứu đoàn thiết giáp nầy đang bị 2 sư đoàn Bắc Việt tấn công từ hai bên sườn, tướng Phú đã không ngần ngại đi xuyên qua rừng tìm địch để cuối cùng bẻ gãy được gọng kềm của địch sau 3 ngày tác chiến vất vả có đôi lúc phải đánh xáp lá cà với địch. Vào tháng 5 năm 1972, trong trận tấn công quy mô của Bắc Việt vào Hué, tướng Phú đã cùng đại tá Dickinson đưa tôi đi thanh sát bằng trực thăng ngay trên vùng Việt Cộng. Khi phải cố gắng đáp xuống một mỏm núi đang bị Bắc Việt bao vây, chiếc trực thăng của chúng tôi bị trúng một viên đạn trực xạ của súng 75 không giật, bay mất nửa mảng phía trước và gãy mất một chân càng . Như có một phép lạ, chiếc trực thăng lại bay lên được và tướng Phú đã bắt phi công phải lượn lại trên vị trí bạn một vòng khi ông nói rằng "tôi muốn cho cả Việt Cộng và binh sĩ của tôi biết rằng tôi hãy còn sống ."
Tôi nghĩ lại tất cả các chuyện nầy và tôi không bao giở tin rằng tướng Phú tự nhiên lại mất bình tĩnh đến độ phải cho lệnh triệt thoái một cách vội vã vô trật tự như vậy để cuối cùng phải đi đến một thảm trạng như thế. Phải chăng vì tôi biết về ông ta quá nhiều , hay vì ông ta là bạn của tôi ? hay phải chăng vì tình đồng đội lâu đời quá khắn khít giữa người cùng binh chủng Nhảy Dù của hai chúng tôi đã làm lạc hướng nhận định của tôi ? Tôi không tin như vậy. Tôi khẳng định như vậy khi một lát nữa đây tôi sẽ thảo luận với tướng Nam , ông nầy cũng là một người bạn lâu đời của tôi trong cùng một binh chủng.
Quốc lộ 4 nối liền đoạn từ Sài Gòn đến Mỹ Tho là một con đường rất tốt. Một cây cầu dài 550 thước chạy ngang sông Vàm Cỏ Đông, , một dòng sông đầy bùn lờ lững chảy, mang theo nhiều mảng cỏ.. . . mặt nước chỉ cách sàn cầu có 20 thước. Các xe vận tải quân sự chở đầy đạn pháo binh và binh sĩ đang vẫy tay cười đùa và dùng hai ngón tay ra dấu chữ V (chiến thắng) với tôi . Họ nhấn kèn báo cho các xe đò chở dân chúng phải nhường đường cho binh sĩ đi qua. Chúng tôi đang đi vào phần đồng bằng có ruộng lúa, ruộng mía và vườn dừa, môt phần đất mầu mở nhất của vùng Đông Nam Á. Nhìn mút tầm mắt là các ruộng lúa màu vàng cò bay thẳng cánh, với những con đê và lác đác có vài con trâu đen bất động. Làng mạc nằm trong các lũy tre xanh, có nhà dân lớp lá, có các bờ chuối , bờ dừa.. Binh sĩ đi dọc theo các bờ ruộng, súng tự động cầm tay.. Có mấy chiếc trực thăng bay lượn trên bầu trời. Trẻ em vui đùa bên các khẩu pháo binh 105 ly đặt dọc theo quốc lộ, tác xạ không ngừng.
Còn một số cầu nữa, có chiến xa tăng cường canh gác, hoặc có tháp canh với các đài quan sát cao, các nhà dân sau các rào bông bụp hay xuơng rồng trước khi đến chợ Tân An, rồi Tân Hiệp, cuối cùng thì đến Mỹ Tho. Thành phố ngổn ngang đầy xe thiết giáp xe cứu thương, và các đoàn xe đạn dược.
Nhưng ở đây thì các chiến cụ dù là bất đắc dĩ dự phần trang trí cho tỉnh lỵ, cũng không gây cảm giác gì hay làm khó cho một ai hết. Dân chúng ồn ào và tấp nập, chuyện trò, mua bán, chuyên chở rất tự nhiên, gây một cảm tưởng như không thấy biết gì đến tất cả những thảm trạng vừa xảy ra ở miền Trung vậy. Thật ra dân chúng cũng không cần phải biết làm gì, miền Trung ở quá xa và không phải là vùng Đồng Bằng. Mỹ Tho là căn cứ địa của sư đoàn 7 bộ binh với quân số được tuyển mộ và thành lập tại chỗ. Sư đoàn có được trang bị thiết vận xa, thuộc lòng hết các ngỏ ngách của từng xã ấp, từ các con đường mòn đến các cây cầu khỉ, các sông rạch và các nhánh sông chảy cùng khắp phần đất mầu mỡ và các rừng dừa nước trong vùng .
Thiếu tướng Nam mừng rỡ nắm chặt lấy tay tôi lắc thật mạnh và tiếp tôi trong văn phòng của vị tỉnh trưởng, Người quân nhân Nhảy Dù nầy năm nay 48 tuổI, nước da đen sạm, với gương mặt luôn luôn cảm hóa mọi người , ông đã qua các trường đào tạo ‘’mũ đỏ’’ của người Pháp và được người Mỹ huấn luyện về chiến thuật trực thăng vận. Ông là người quân nhân duy nhất thuộc một gia đình quí tộc danh tiếng ở Hué, gồm toàn các cụ đồ nho và quan lại của triều đình. Ở con người ông, nổi bật nhất là tướng người vặm vở, vai u thịt bấp, cầm vuông rõ nét của một con người thượng võ. Đến giờ nầy ông vẫn sống độc thân không hối tiếc (điều nầy bảo đảm cho tính thanh liêm trong sạch của ông ở một đất nước mà các bà thường mượn uy quyền và địa vị của các ông chồng để làm ra tiền), và ông chỉ thấy vui vẻ thoải mái khi được sống giữa hàng binh sĩ và các đơn vị tác chiến của ông. Người bạn thân nhất của ông là đại tá Ninh (một ‘’mũ đỏ’’ khác được đào tạo ở trường Nhảy Dù Pau, Pháp) một sĩ quan mảnh khảnh với bộ râu mép ngạo mạn, người đã cùng ông với đạo quân tiếp viện của mình đã bẻ gãy vòng vây An Lộc, một trận Verdun của Miền Nam Việt Nam .
- Sao ? thiếu tướng Nam vừa cười lớn lên vừa nói với tôi, Anh muốn xuống đây kiếm tôi, chỉ vì các tay trên Tổng Tham Mưu không chịu nói sự thật với anh chớ gì ? (1)
- Anh Nam ơi, tôi chỉ xuống đây để được biết tin tức thôi .
- Được rồi, Chúng ta hãy nói chuyện về Vùng IV của tôi. Đường sá luôn luôn được mở sạch sẽ để cho lưu thông được an toàn, và Việt Cộng không phải lả chủ ở đây. Các đơn vị Bảo An và Dân Vệ của tôi giữ chặt lãnh thổ, điều nầy cho phép tôi điều động hoàn toàn 3 sư đoàn chánh quy của tôi trong các cuộc đụng độ mạnh với các đại đơn vị cộng sản Bắc Việt đang muốn xâm nhập vào đây từ phía Cam Bốt. Hôm qua, chúng tôi có ‘’sơi’’ một trung đoàn thuộc sư đoàn 4 bộ binh Bắc Việt ở Phú Sơn. Hôm nay họ bị dồn về phía trước các hãng đường ở Đức Hòa rồi. Chúng tôi đã tịch thu hơn một trăm vũ khí nặng, súng không giật, súng phóng hỏa tiễn, bách kích pháo và cả một số súng liên thanh phòng không .
- Sau thảm trạng ở miền Trung, thật sự quân lực VNCH còn bao nhiêu lực lượng khả dụng ?
- Còn được 7 sư đoàn với quân số đầy đủ: 6 sư đoàn bộ binh , 1 sư đoàn Dù, cộng thêm 2 lữ đoàn thiết giáp và nhiều liên đoàn Biệt Động quân. Hai lữ đoàn Thủy Quân Lực Chiến và 2 sư đoàn khác (sư đoàn 2 và sư đoàn 4) đang được bổ sung quân số và tái thành lập với những đơn vị vừa từ miền Trung rút về.
Sài Gòn được phòng thủ rất chặt chẽ với 2 nút chận thật mạnh. Nút chận thứ nhất là vòng đai phòng ngự phía Bắc của thủ đô do sư đoàn 25 bộ binh của tướng Lý tòng Bá, một kỵ binh lực lưởng và đầy đủ kinh nghiệm.Trung tâm điểm của tuyến phòng ngự nầy dựa trên thị xã Bến Cát, một vị trí chủ, được xây dựng chung quanh môt ngọn đồi được bố trí các loại súng và có hầm trú ẩn bê tông cốt sắt.
Nút chặn thứ hai là tuyến phòng thủ mặt Bắc, tiêp giáp nhau chung quanh thành phố Xuân Lộc, do sư đoàn 18 bộ binh trấn giữ, một sư đoàn ưu tú mà tư lệnh là tướng Lê minh Đảo, hùng hục và vui vẻ như một thiêu úy. Tôi nghĩ là Bắc Việt cũng khó mà đánh bật được 2 phòng tuyến nầy.
- Dù sao cũng vẫn còn một nguy cơ, ông Nam ơi. Bọn Việt Cộng không có thói quen đánh trực diện vào các cứ điểm mạnh. Họ dùng toàn bộ pháo binh nã vào cứ điểm mạnh nhằm cầm chân các đơn vị của ta để họ lợi dụng vùng rừng bụi tiến đánh bọc hai bên sườn của mình. Nên nhớ là Xuân Lộc và Bến Cát đều có các vuờn cao su và rừng cây bao quanh.
- Chắc vì thế mà chúng không dám đến đánh ở địa thế gần như trống trải ở Đồng Bằng. Có lẽ bọn chúng sẽ cố gắng cô lập Sài Gòn hơn, cắt đứt thủ đô với vùng vựa lúa và giàu nhân lực vì nguy cơ lớn nhất phải đến ngay từ Sài Gòn. Tôi muốn nói đến các chuyện lộn xộn và tham vọng chánh trị ở Sài Gòn. Các nghị sĩ băt đầu rục rịch, các tướng lãnh không có quân cũng đang có âm mưu gì đó, và Tổng Thống Thiệu càng ngày càng bị cô lập. Chánh quyền có thể bất thần sụp đổ và rơi vào tay của những kẻ vô trách nhiệm, sẵn sàng hấp tấp mở cửa rước bộ đội Bắc Việt vào Sài Gòn .
- Anh giải thích thế nào về sự sụp đổ đã xảy ra ở miền Trung ?
Tướng Nam chống tay lên thành ghế ông đang ngồi, và bực tức cằn nhằn:
-‘’ Có rất nhiều lý do. Mà đầu tiên và trước hết là do ông Thiệu.
- Ở Tổng Tham Mưu đại tá Khôi nói với tôi người chịu trách nhiệm là thiếu tướng Phú.
- Không phải. Anh đã biết tướng Phú còn hơn tôi nữa mà. Ông là một cấp chỉ huy có khả năng, bám trận địa như một con rận bám sát tóc vậy.
Không, ông không phải loại người chuồn đi, bỏ lại cả một thành phố và toàn bộ chiến cụ nguyên vẹn như vậy.
Trước khi đổ vấy trách nhiệm cho cấp chỉ huy và cho lỗi lầm chánh trị , có vài điểm kỹ thuật cần được làm sáng tỏ : cuộc tổng tấn công của cộng sản vào Vùng Cao Nguyên đã được chờ đợi từ nhiều tuần lễ rồi. Nhưng vì thiếu tin tức chính xác về những cuộc điều quân hay di chuyển của các đơn vị cộng sản Bắc Việt xuyên qua rừng rậm, tướng Phú nghĩ cũng đúng là nỗ lực chính của cộng sản phải nhắm vào Kontum hay Pleiku, nằm ngay ở phía Bắc, và ông ta đã tập trung phần lớn lực lượng vào hai thành phố nầy. Xui cho ông, Bắc Việt lại tấn công vào Ban mê Thuột, nơi mà quân trú phòng chỉ có một trung đoàn và vài liên đoàn Biệt Động Quân mà phải đương đầu với cả 3 sư đoàn cộng sản ! Sau đó cộng sản cắt hết các con dường giao thông chính trên Cao Nguyên. Phản ứng đầu tiên của tướng Phú là phản công. Ông ta cho trực thăng vận 300 binh sĩ Dù và một liên đoàn Biệt Động Quân đổ xuống chiếm lại hai phi trường ở Ban mê Thuột, và sau đó đã cố gắng vào được thành phố và tảo thanh thị trấn. Trong một vài giờ, Ban mê Thuột đã biết được một không khí thật sư vui mừng, một cái gì mường tượng như lúc thủ đô Ba lê được giải phóng. Dân chúng vẫy cờ hoan hô các binh sĩ của Chánh Phủ. Các chủ vườn cao su đem rượu cỏ nhác ra uống mừng chiến thắng. Nhưng sau đó, đùng một cái, theo lệnh từ Sài Gòn chuyển lên, lực lượng Miền Nam được lệnh phải rời khỏi thành phố. Hai sư đoàn Bắc Việt khép kín họ lại và đã tiêu diệt họ.
Còn ở Pleiku và Kontum: còn 2 trung đoàn thuộc sư đoàn 23 bộ binh . Pleiku là một căn cứ Không Quân quan trọng của một sư đoàn Không Quân, không thiếu một thứ gì từ lương thực đến đạn dược.
Tướng Phú đã quyết định đánh và kháng cự. Ông ta đã xác định với các sĩ quan của ông như vậy. Tuy nhiên ngày 14 tháng 3, Tổng Thống gọi ông về Cam Ranh và cho lệnh ông phải lui quân. Bây giờ chúng tôi biết được là cuộc bàn cãi rất là sôi động đầy sóng gió. Tướng Phú đã từ chối không thi hành lệnh. Ông ta đã nói thẳng với Tổng Thống Thiệu : ‘’Tôi đã đánh giặc 23 năm rồi, và tôi chưa bao giờ biết lui quân. Hãy tìm một người khác để chỉ huy cuộc ‘’chạy trốn ‘’ nầy.’’ Nói xong ông vứt khẩu súng lục của ông lên bàn và ra khỏi phòng họp, đóng sầm cửa lại. Và sau đó ông bay về Nha Trang, khai bệnh vào nằm bệnh viện. Chuyện đâu có khó khăn gì với ông ta đâu, vì anh cũng biết là ông ta luôn luôn bị khó chịu với hai lá phổi của ông.
- Đại tá Khôi lại xác định với tôi là tướng Phú đã bay về Pleiku và đã cho lệnh triệt thoái vài giờ sau đó.
- Đó là luận thuyết chánh thức. Bộ Tổng Tham Mưu quả quyết là khi về đến Pleiku, tướng Phú đã nói với tư lệnh phó của ông ‘’ tôi cho ông hay một bí mật lớn, là chúng ta sẽ phải sớm di tản hết các vị trí của chúng ta ‘’. Vị tư lệnh phó nầy lập tức báo tin cho các sĩ quan, và cuộc triệt thoái được thi hành ngay lúc đó. Tôi đã gặp tướng Phú ở Sài Gòn ngày hôm kia, ông ta đã xác nhận với tôi là ông ta đã không bao giờ ra lệnh triệt thoái.
Dù sao thì giải pháp tốt đẹp duy nhất là nên giao cho tướng Phú một nhiệm vụ hy sinh bằng cách cho lệnh ông phải tử thủ tại chỗ để bảo vệ Pleiku, nhằm mục đích mua thời gian và để cho dân chúng và các liên đoàn Biệt Động Quân rút đi trong vòng trật tự, như thế thì mới tránh được cái dịch hốt hoảng đã đàu độc cả nước .
- Như vậy thì ai là người ra lệnh triệt thoái ?
- Chính là ông Thiệu. Sau khi tướng Phú đã từ chối không thi hành lệnh, Tổng Thống Thiệu đã báo động cho đại tá Tất, tư lệnh phó của ông Phú, một sĩ quan Biệt Động Quân v à giao cho ông nầy chức vụ Tư Lệnh Vùng.
Được Tổng Thống liên lạc thẳng, Tất đã sốt sắng thi hành lệnh, và cho bắt đầu ngay cuộc hành quân triệt thoái, mà không cho tiến hành phá hủy một kho tàng nào. Anh ta đã để lại nguyên vẹn sáu tháng lương thực, một nửa các khẩu pháo và nặng nhất là để nguyên lại 40 chiếc phi cơ và trực thăng còn tốt. Tổng Thống Thiệu đã phạm một lỗi về xét đoán nhân sự không thể nói được khi ông giao quyền chỉ huy cho đại tá Tất. Tôi biết anh nầy quá nhiều , ông ta là một sĩ quan can đảm, một sĩ quan chuyên về tác chiến lưu động, đột kích hay phá hoại. Nhưng anh ta không được đào tạo hay huấn luyện một tý gì để có thể hướng dẫn một cuộc hành quân loại triệt thoái rất tế nhị và quan trọng nầy.
Tổng Thống Thiệu cũng phải gánh hoàn toàn trách nhiệm trong việc bỏ thành phố Hué và Vùng I Chiến Thuật. Tướng Trưởng có 3 sư đoàn ưu tú để lo phòng thủ Vùng nầy, sư đoàn 1 bộ binh, sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và sư đoàn Dù. Nhưng ngày 20 tháng 3, Tổng Thống Thiệu vì sợ bị đảo chánh, nên đã cho rút sư đoàn Dù đưa ngay về Sài Gòn làm cho tướng Trưởng đứng trước một lổ hổng quá rộng trong hệ thống phòng thủ của ông. Vì chỉ với 2 sư đoàn mà ông phải tái phối trí cho một tuyến phòng thủ dài 150 cây số ngàn.. Do đó mà ông phải quyết định thu gọn lực lượng về tuyến phòng thủ Đà Nẵng , lực lượng quân sư ưu tiên lui về trước.
Trong lúc các đơn vị đang trên đường di chuyển, Tổng Thống Thiệu lại cho lệnh phải trở lui lại Hué, nhưng cộng sản Bắc Việt đã chận đường trở lại Hué ở khoảng Đèo Hải Vân. Trước hết Sư đoàn 1 đã đánh một trận khốc liệt để tái chiếm đéo Hải Vân và tái lập lưu thông trở lai. Nhưng vô phước là làn sóng dân chúng chạy loạn như nước vỡ bờ đã phá tan hàng ngũ của sư đoàn 1. Có rất nhiều binh sĩ quá lo âu cho số phận của gia đình mình, nên đã bỏ hàng ngũ, còn một số binh sĩ khác thì đào ngũ hẳn. Vị tư lệnh sư đoàn 1 ở Đà Nẵng đã cố gắng nắm lại sư đoàn của mình nhưng đã bị một anh phản loạn đánh gục.
Thiếu tướng Nam đứng dậy, vươn vai và đi vài bước trong phòng. Sau một vài phút yên lặng, ông lại ngồi xuống và tiếp tục :
- Tổng Thống Thiệu bị ám ảnh vì sự bỏ rơi hèn hạ của người Mỹ. Tôi tin chắc là ông ta muốn bi thảm hóa tình hình bất thần như vậy, hy vọng là Tổng Thống Ford sẽ vượt qua được một mức độ khó khăn nào đó để đi đến quyết định phải gởi các oanh tạc cơ hạng nặng qua giúp V NCH . Nhưng sự việc sau đó đã cho thấy là ông tính toán sai. Và chúng ta đã mất mát quá nhiều trong vấn đề đó. Biện pháp hữu hiệu nhất để thuyết phục Quốc Hội và Nhà Trắng, là chúng ta phải chiến đấu tại chỗ cho đến viên đạn cuối cùng. Chính bọn cộng sản Bắc Việt cũng không tin là chúng sẽ chiến thắng dễ dàng như vậy. Bằng chứng hùng hồn nhất là cả 4 sư đoàn trừ bị chiến lược của Miền Bắc chỉ mới vượt qua vĩ tuyến 17 trong tuần lễ vừa qua.
Tướng Nam nắm chặt lấy cánh tay tôi và nói thêm:
Chúng tôi đã theo Tổng Thống Thiệu mười năm nay rồi. Nhưng bây giờ thì ông ta đã làm chúng tôi mất cả niềm tin rồi. Ông sống chui rút trong Dinh Độc Lập và lấy quyết định một mình không chịu tham khảo với ai hết. Ông ta chỉ nghe có một mình tướng Quang, cố vấn quân sự của ông ta, một con heo mập lúc nào cũng nịnh hót ông ta và không nói trái lời ông ta bao giờ . Tôi không tin là ông ta sẽ còn khả năng vượt qua được các biến cố. Các tướng lãnh đã nổi giận rồi và quân đội đã xấu hổ quá rồi.
-Bây giờ anh định làm gì? Lật đổ ông ta chăng?
- Dù gì cũng không phải tôi đâu. Tôi chỉ là một quân nhân. Nghề nghiệp của tôi là tác chiến và tôi tiếp tục tác chiến. Đối với tôi chánh trị là cái gì dơ bẩn, tôi không muốn phải lội vào đó.
*
* *
Trên đường về Sài Gòn, tôi dừng chân giây lát cách Tân An 2 cây số. Một đoàn xe chở đầy binh sĩ Miền Nam đang trở về sau cuộc hành quân . Một ông đại tá to con mập mạp đang bị một nhóm nhà báo và nhiếp ảnh Việt Nam bao vây. Tôi bước đến gần. Trong một cái hố, có khoản 20 bộ đội cộng sản vừa bị bắt ban sáng đang ngồi đó, đầu mặt gục xuống. Tay họ bị trói ra sau lưng, đi chân đất, ở cổ họ có đeo thẻ lý lịch. Tất cả đều đến đây từ Bắc Việt . Không một người nào được trên 17 tuổi. Trên một cái cáng, bụng quấn đầy quần áo đầy máu, là một sĩ quan Bắc Việt, mắt đã đờ rồi, chắc không sống được bao lâu nữa .Ông đại tá đang nói cho các nhà báo nghe một vài tin chi tiêt.
Lúc tôi đến Sài Gòn là những ngọn đèn nê ông đầu tiên đang bắt đầu cháy, và thành phố lập lòe ánh sáng xa trông như một tủ kính của một cửa hàng nào đó...
Ghi chú: (1) nguyên văn của tác giả bằng tiếng Pháp: ‘’tu, và moi’’ (mầy, tao). Tiếng xưng hô rất thân mật khi hai người bạn gặp nhau tay bắt mặt mừng, gọi mầy xưng tao rất là tự nhiên.

CHƯƠNG SÁU
DINH TỔNG THỐNG BỊ DỘI BOM

Thứ Ba 8 tháng 4 : 7giờ 30 sáng
Tôi thả bộ trên con đường Pasteur, đến đại lộ De La Somme và cuối cùng đến bùng binh Chợ Bến Thành. Chợ Sài Gòn có một ngọn tháp vuông trên nóc giống như một chòi canh của một cái đồn nào đó thời ông Galliéni, có những tấm bảng quảng cáo bao quanh hết khuôn viên phía ngoài, nào là kem đánh răng, dầu thơm, rượu, thuốc lá v.v.. Cạnh đó là nhà ga xe lửa, có mấy chiếc xe buýt hiệu Ford và Pontiac sáng chói, đang đậu chung quanh đó, tất cả đều cho thấy là vấn đề kinh doanh của Sài Gòn, mua bán hay mậu dịch gì từ nhiều năm qua đều là sản phẩm từ Hoa Kỳ hết.
Tuy nhiên nên nhớ ở khắp những nơi nào có lớp người bình dân Việt Nam đang sống, thì chỗ dễ tới nhất và gắn bó với người dân nhất, phải là cái chợ.
Dưới cái vòm to của chợ Sài Gòn hay trong những kiến trúc rộng thênh thang kiểu "ba tàu" ở Chớ Lớn; ở khắp các thành phố thuộc Đồng Bằng sông Cửu Long, hay cuối cùng trong tất cả các chợ vườn dọc theo các sông ngòi đầy xuồng ghe hay lục bình, tất cả đâu đâu cũng luôn luôn có lúc nhúc một thứ hàng hóa, cùng một loại người và cùng một cặp mắt như nhau.
Qua khỏi các tấm bảng quảng cao rồi thì mặt trời và ánh sáng phải nhường chỗ cho một vùng lờ mờ nửa sáng nửa tối, với một đám đông ồn ào và lăng xăng san sát bên nhau mà không hề chen lấn xô đảy nhau bao giờ. Trước khi nhận rõ được mặt của từng người là tôi đã bị rơi vào một luồng gió đủ cả các mùi vị lẫn lộn nhau. Mùi trái cây ngọt như nước đường, mùi thơm như ngũ vị hương, nồng nặc như ớt, tiêu, gừng, nước mắm , mùi hôi của đồ lòng, của bếp núc, đủ hương vị của hàng tạp hóa, dầu thơm của thợ cắt tóc v.v..
Tất cả đều có hết ở đây, từ mọi thứ mà con người gặt hái được, đã đánh bắt được, các mặt hàng mỹ nghệ đã sản xuất được, trưng bày hay sắp xếp trên các giá gỗ và các kệ, được rọi sáng rực bằng đèn nê ông. Trước tiên là nhang thơm, những cây nho nhỏ dài dài như diêm quẹt mà người ta thường thắp lên trong nhà hay trong chùa miểu hay dọc theo đường đi: ở đây người ta xếp nhang thành từng bó một, trong những bao vàng, đỏ lòe lẹt kiểu người Tàu. Bên cạnh đó là giấy tiền vàng bạc, loại tiền dành riêng cho người đã quá cố sở hữu dùng để cúng hiến cho ông bà tổ tiên. . . . ..
Sau các mặt hàng dùng để hiến dâng cho người quá vãng, là tất cả những sản phẩm của đất đai: những quày chuối dài, những trái mít to, những tháp cao đầy ngất trái cây và rau cải đủ loại lạ mắt khác nhau, ngổn ngang. Các trái sầu riêng giống như con nhím xanh, với cơm bên trong hơi thối nhưng rất béo ngọt mà người sành ăn rất thích; những trái khế hình quả trám có khía sáng ngời, các trái ổi ruột đỏ hồng, những trái xoài to chín đỏ như các thỏi vàng, có những khu đầy trái thơm trái khóm và dưa leo, các rổ giá đậu trắng trông như những cọng búng.
Xa hơn chút nữa là cá khô từng bó cột lại bằng dây dừa, hay vừa mỏng vừa dẹp được treo lên như những chiếc lá khô. Và đây là hàng cá tươi mới về, nào là cá thu được khứa ra từng khứa, cá ngừ, cá tráp, cua bể, tôm càng xanh, những con cá chình lớn như con trăn mà người bán phải dùng chày để đập đầu cho chết. Còn đây là hàng gạo, người bán mắt tròn xoe mặt sáng rở, đang quảng cáo gạo của mình, gạo ngon, được trưng bày cùng khắp, trong các bao lát miệng bao mở rộng, Người mua gạo bốc gạo lên xem, từng vóc một, đổ gạo từ tay nầy sang tay kia để đánh giá từng loại gạo, này là gạo Gò Công, kia là gạo Vĩnh Long, nhỏ hạt hơn, còn gạo Châu Đốc thì là màu đỏ.
Tôi rời khỏi chợ, đi ra đường, lúc đó vào khoảng 8 giờ. Các tiệm bán hàng vẫn còn bày bán đủ thứ nào là máy truyền hình, nồi nấu cơm Nhật, các túi bằng da cá sấu v.v.., các hiệu nữ trang với những tấm kính có viết chữ tàu sáng chói, với những chiếc vòng đeo tay hay dây chuyền bằng vàng y 24 ca ra đỏ rực.
Đùng một cái, tất cả mọi người đều ngước mũi lên trời. Một tiếng rít chói tai từ một phản lực cơ át hết tất cả mọi tiếng ồn ào khác. Và mọi người đều nhớ biết là đã từ lâu mọi phi cơ đều bị cấm không cho bay ngang qua vùng trời của thủ đô, nơi có Dinh Độc Lập. Tự nhiên mọi người đều cố gắng nhìn lên để nhận dạng xem phi cơ phản lực loại nào đã bay qua thật thấp ở ngay trên vùng trời của thủ đô . Một chị đàn bà la lên : "Chắc chắn nó sẽ bỏ bom vào Dinh Độc Lập ". Và hầu hết những người có mặt trên con đường nầy đều la theo: "Nó sẽ dội bom lên Dinh Độc Lập"
Ngay sau đó, hai tiếng nổ dữ dội đi liền theo tiếng rít của phản lực cơ . Thời gian không đầy một phút trôi qua, chiếc phi cơ lại bay ngang qua mục tiêu của nó, đánh dấu bằng 2 tiếng nổ nhỏ và vài tràng đại liên ngắn. Lần nầy thì tôi nhận rất rõ tiếng nổ lốp đốp đều đặn của súng đại bác tự động. Sau đó thì chiếc phi cơ đi xa lần đến một nơi vô định nào đó .
Cuộc tấn công nầy xảy ra không quá 5 phút. Tôi rảo chân đi nhanh hơn. Phía trên dinh Tổng Thống rất gần đây, một côt khói đang bốc lên, còn bao quanh các cây cối trong vườn. Khoảng 10 phút sau, có 4 xe cứu hỏa đến tại chỗ. Trước cổng chánh của Dinh Độc Lập có khoảng 50 binh sĩ Dù đang ở trong tư thế phòng thủ, mỗi người ngồi sau một góc cây, sẳn sàng chiến đấu. Các xe Quân Cảnh bao quanh khu vục, cô lập Dinh Độc Lập với cả thành phố. Các anh cảnh sát dã chiến với quân phục rằng ri, súng cầm tay, đang hướng dẫn mọi sự lưu thông tránh xa dinh Độc Lập. Các ngả tư đường dẫn tới dinh đều có ngựa sắt kẽm gai chận hết.
Cả trung tâm thành phố có nguy cơ bị tắc nghẽn giao thông một cách nhanh chóng và điều nầy chỉ làm tăng thêm tình trạng hỗn loạn. Tôi đi dài xuống đường Tự Do. Nhiều tin đồn nhảm sai hẳn sự thật đã được lan truyền ra rồi ..
Một anh tài xế xe tắc xi bước ra khỏi xe của anh ta trước tiệm sách Albert Portail, vừa múa tay múa chân vừa la ầm lên : " Tổng Thống đã chết rồi ". Các chị bán thuốc lá lo thu xếp các quầy thuốc của họ lại. Đứng giữa một đám đông những người hiếu kỳ một anh luật sư ở nhóm đối lập thuộc phong trào "đòi quyền sống cho người dân" đã xác nhận một cách rất nghiêm túc :
" Đó là chiếc phi cơ săn giặc F5 do tướng Nguyễn cao Kỳ lái . Ông ta đã làm chuyện vừa rồi đó. Các dàn ra đa của Tân sơn Nhứt đã theo dõi chiếc F5 nầy và đã thấy nó bay về hướng Thái Lan."
Nhưng, tôi đã biết rất rõ tướng Cao Kỳ , ông chưa từng bay phi cơ phản lực bao giờ !
Có một số xe thông tin có gắn loa phóng thanh chạy khắp nơi để thông báo giờ giới nghiêm bắt đầu có hiệu lực từ 12 giờ trưa nay. Và thành phố đã trở nên vắng ngắt hết sức nhanh chóng. Các cửa hàng bỏ rèm xuống che kín cửa tiệm. Đường sá thường thì đầy rẫy xe cộ, và ồn ào vì tiếng mô tô, giờ thì đã trở nên vắng lặng. Giờ đây Sài Gòn là môt thành phố chết, một thế giới im lặng , ở đó chỉ có các binh sĩ với súng ống đi tuần rỏn như những bóng ma giữa các nút chặn kẽm gai. .
Vào lúc 13 giờ trưa, tôi liên lạc được với tướng Cao Kỳ bằng điện thoại. Với một giọng hết sức mỉa mai ông nói:.
- "Thật là một chuyện tào lao ! một hành động quá trẻ con không có một cơ may đi đến đâu
hết. Phi công là một sĩ quan rất trẻ, vừa mới học xong phản lực cơ F 5 E cách đây vài ngày. Trước đó anh ta được huấn luyện trong nhiệm vụ săn giặc, và cách đây không đầy 3 tuần lễ,
anh ta mới bắt đầu được tham gia tập luyện về nhiệm vụ đánh bom. Theo chỗ tôi nghe được thì đây là một thằng nhỏ bốc đồng, có máu anh hùng. Nhưng tôi chưa từng gặp mặt anh chàng
nầy bao giờ. Một lần nữa, tôi không dính dáng gì đến chuyện nầy. Hơn nữa tôi không muốn
giết ông Thiệu, tôi chỉ muốn ông ta rời khỏi chức vụ cho rồi.. . . . "
Sau một phút yên lặng, sau đó ông ta lại nói, nhưng gần như nói cho riêng ông ta nghe mà thôi : "Rất tiếc là thằng quỷ phi công đó đã không làm được trò trống gì cả !
Sau đó một ít lâu, Tổng Thống Thiệu lên tiếng trên đài phát thanh. Ông ta vẫn còn sống. Ông ta thuật lại chi tiết cuộc ném bom mà ông là mục tiêu chính. Ông xác nhận đây không phải là một âm mưu mà là một hành động lẻ loi. Phi công bay ở cao độ 300 thước,và đã thả xuống 2 trái bom vào dinh Độc Lập, và sau đó quay trở lại lần thứ hai bắn xuống hai trái hỏa tiễn và vài tràng đại bác 20 ly. Ông Thiệu nói tiếp:
" Có một số người nào đó muốn đe dọa tôi bằng võ lực để ép buộc tôi phải ra đi, nhưng tôi sẽ không nhượng bộ đâu. Tôi sẽ tiếp tục làm việc như thường và tiếp tục dìu dắt quê hương. ."
Mọi người đều đồng ý - một lần không phải là thói quen - nói là Tổng Thống Thiệu đã có phản ứng thật nhanh và rất hay. Nhưng liệu ông có thể giữ yên lặng được không ?
Vào lúc 4 giờ chiều, đường phố lại nhộn nhịp trở lại, các hiệu buông cuốn rèm lên lại. Sự lưu thông lại có quyền trở nên hỗn loạn như cũ.
Tôi gọi điện thoại đến đại tá Xuân, ở Sở An Ninh, một người bạn cũ trên 20 năm mà tôi đã biết ở Bắc Việt, lúc ông làm ở Phòng Nhì. Ông hẹn gặp tôi ở khách sạn Caravelle vào lúc 5 giờ chiều.
"Với ông ta chắc chắn tôi sẽ biết được việc gì đã xảy ra."
Trong khi chờ đợi, tôi sẽ đi bách bộ một vòng lên Dinh Độc Lập từ đường Pellerin đi lên.
Trước rạp chiếu bóng Casino, người ta đang xếp hàng mua vé vào xem xuất 17 giờ. Rạp đang quảng cáo ba bộ phim "Công Phu" . Các em bán báo đang trải ra trên sạp những tờ báo buổi chiếu vừa mới in xong.. Ở đường Lê Lợi những người bán hòm rương và va ly đang trúng mánh. Xa hơn một chút, tôi di dọc theo Thư Viện Quốc Gia rất đẹp, được xây cất trên nền cũ của Khám Lớn khi xưa, nơi đã từng giam giữ hằng ngàn tù cách mạng và phần đông là các lãnh tụ thuộc Chánh Trị Bộ hiện thời ở Hà Nội. Trong huê viên trước đó có nhiều toán sinh viên đang cãi nhau ồn ào hay kêu gọi đùa giởn với nhau.
Đại lộ Norodom uy nghiêm rộng lớn nay được gọi là đại lộ Thống Nhất, thẳng tắp từ Vườn Bách Thảo đến Dinh Độc Lập, bây giờ gần như hoang vắng. Các cuộn kẽm gai được căng ra làm nút chặn ở các ngả tư đường bây giờ đã được xếp lại và mang đi, nhưng Quân Cảnh vẫn còn tiếp tục canh tuần.
Không thể nào đi đến gần Dinh Độc Lập được . Cổng chánh của Dinh vẫn còn nguyên vẹn, và không thấy có một dấu vết nào của hành động dội bom hay bắn phá ban sáng.
Dinh Độc Lập, nơi Tổng Thống Thiệu ở và làm việc, có một lịch sử dài và thơ mộng. Được xây cất vào năm 1868, tòa nhà nầy khi xưa có tên gọi là Dinh Đô Đốc hay Dinh Norodom. Lúc bấy giờ đây là một công thự huy hoàng diễm lệ, (xây cất theo kiểu môt chiếc bánh sinh nhật) chung quanh có rào chấn song bằng đồng trên có mạ vàng, những bãi cỏ xanh với đường đi bên trong trải cát đỏ, và một nhà bát giác với nóc cao nhọn. Ngay ở cổng chánh có lính gác đội nón kiểu lính thú trên đỉnh có chóp nhọn bằng đồng sáng chói và đeo găng tay trắng lưu truyền lối văn hóa thuộc địa. Nơi đây các vị toàn quyền có những buổi tiếp tân rất ngạo nghễ, huê viên được thắp sáng lên, có các dàn nhạc vĩ cầm , với những bộ đồng phục lòe lẹt, những bộ lễ phục trắng , các bà các cô thì mặc áo hở ngực hở vai trang điểm diễm lệ như đi dạ hội ở Ba Lê vậy.
Người được ở tại dinh Norodom có nghĩa là người đó là chủ nhân của đất nước nầy. Tướng ÉLy, vị Cao Ủy người Pháp sau cùng ở Đông Dương đã trao cho Chánh Phủ Việt Nam biểu tượng cuối cùng nầy của chánh quyền thuộc địa ngày 7 tháng 9 năm 1954.
Sau khi chánh thể Cộng Hòa được công bố, thì dinh Norodom được đổi danh xưng thành Dinh Độc Lập.
Ngày 27 tháng 2 năm 1962, 2 sĩ quan phi công Việt Nam thề sẽ hạ sát Tổng Thống Diệm nên đã lái 2 chiếc phi cơ dội bom sập nát dinh thự cổ kính nầy. Dĩ nhiên như một phép lạ, Tổng Thống Diệm vẫn không hề hấn gì. Nhưng tòa nhà thuộc địa cổ nầy bị hư hại gần như sập hết, nên Chánh Phủ đã quyết định xây lại một dinh thự mới. Lần nầy nhiệm vụ xây cất được giao cho một kiến trúc sư Việt Nam trẻ, từng được "giải thưởng Roma" , đó là ông Ngô viết Thụ. Để gây quỹ cho công tác xây cất mới nầy, Chánh Phủ mở một "chiến dịch quyên góp". Mỗi công chức, mỗi người binh sĩ của Miền Nam Việt Nam đều đóng góp một ngày lương vào quỹ xây cất. Các doanh nhân thì ký cho nhiều chi phiếu khá lớn, sinh viên học sinh thì tùy theo túi tiền của mình mà đóng góp, và những người nghèo cũng tùy theo mà bỏ tiền vào toán đi quyên góp do Bộ Công Chánh phái đi.
Kiến trúc sư Ngô viết Thụ từ chối không nhận tiền thù lao cho bản vẽ, và các kỹ sư, chuyên viên của quân đội bắt tay vào việc, công trường làm việc 24 trên 24 giờ kéo dài hơn 10 tháng. Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, và cái chết của Tổng Thống Diệm và người em của ông làm ngưng trệ công trường suốt trong 6 tháng dài. Sau đó công trường được mở lại, nhưng phải mất 3 năm nữa mới xây dựng xong Dinh thự mới, được tướng Nguyễn cao Kỳ long trọng khai trương ngày 30 tháng 10 năm 1966. Công trình đã phải tốn đến 1 triệu 500 ngàn mỹ kim (7 triệu quan Pháp). Dinh Độc Lập được xây bằng xi măng cốt sắt, cẩn toàn đá hoa cẩm thạch, cửa kính màu xanh da trời, có 3 mặt phẳng nằm ngang và song song, (kiến trúc theo lối chữ Việt Nam tượng trưng cho nền dân chủ). Tất cả đặt ngay trung tâm của một công viên được vẽ rất cẩn thận và rất tráng lệ.
Giờ đây dinh thự rất duyên dáng nầy được binh sĩ Dù vây quanh canh gác, đạn và lựu đạn mang đầy ngườI, ẩn mình phía sau rào chấn song sắt nặng nề, biến dinh thự thành một pháo đài. Tòa nhà bát giác trước kia dùng làm nơi chơi nhạc, nay đã biến thành một pháo đài chống chiến xa. Nhiều pháo đội phòng không được ngụy trang dưới các tàng cây trong hoa viên, và 3 chiếc trực thăng trang bị liên thanh đang đậu trên bãi cỏ. Cổng chánh được khóa chặt. Quan khách phải trình diện ở "cổng công vụ" , cổng nầy dẫn đến các nhà đậu xe, nằm gần Tòa Án. Mỗi xe đều phải qua sự khám xét của binh sĩ. Họ đưa xuống gầm xe một tấm kiếng để xét kỹ là không có một bánh thuốc nổ nào được gắn vào sườn xe . Sau đó quan khách đi qua một cái rào chắn được quay bằng tay để chạy đến chỗ đậu xe. Dưới chân cầu thang lớn đã có một sĩ quan tùy viên tiếp đón và dẫn khách đến phòng tiếp tân, nơi đây có ghế dựa màu đỏ và tủ cẩn xa cừ, có một cặp ngà voi lộng lẫy.. Ở về phía cuối phòng có một cánh cửa, ăn thông vào phòng làm việc của Tổng Thống Thiệu, một gian phòng rất rộng , ngay giữa phòng có một lá quốc kỳ VNCH to lớn. được căng từ trên trần xuống tận sàn nhà. Ở hai đầu bàn làm việc, có những chân quỳ trên để các máy truyền tin và các hệ thống thông âm nội bộ, dùng như các trạm tiếp vận truyền tin giúp cho Tổng Thống có thể liên lạc thẳng với các tổng bộ trưởng hay các tư lệnh Vùng, Cảnh sát trưởng hay các tỉnh trưởng bất cứ lúc nào cũng được Trước cửa và trong hành lang dọc theo phòng làm việc nấy luôn luôn có hai người cận vệ lực lưỡng, mặc quần áo xám, giỏi võ và thiện xạ, được tuyển lựa trong lực lượng người nhái hay biệt động quân. Hai người nầy nằm trong một nhóm 8 người cận vệ của Tổng Thống được huấn luyện đặc biệt. Các anh lực sĩ nầy có gương mặt rất bình thường, nhưng có đôi tay cứng rắn, và dưới lớp áo ngoài lúc nào cũng có khẩu súng lục đeo ở nịt, Họ liên lạc với nhau bằng máy truyền tin cầm tay và canh giữ Tổng Thống ngày lẫn đêm.
Tổng Thống Thiệu nhỏ người nhưng có một thái độ gần như lạnh lùng, cô đơn và bướng bỉnh, tự giam mình trong Dinh giống như một thuyền trưởng của chiếc tàu lặn của người Đức lúc nào cũng ở bên tay lái và từ khước không chịu nổi lên mặt nước để đầu hàng.
Mặc dầu bị chính phi cơ của mình dội bom, hay bị các tướng lãnh của mình đe dọa, không ai có thể nói được hôm nay con người của ông đang nghĩ gì, một con người miền Trung rất bí mật và cứng đầu đã đọc một bài diễn văn thao thao như nước chảy ở đài truyền thanh và truyền hình, nhưng không bao giờ tiết lộ tâm sự của mình trong chỗ riêng tư.
Ở phòng trà Givral, một người Việt Nam ốm gầy, có đôi mắt ti hí, có bộ râu rậm trên cằm, đang giải thích cho một số thanh niên đang bu quanh ông ta về những điều bậy bạ của ông Thiệu. Tất cả đều do ông kể hết, từ chuyện thâm cung bí sử đến chuyện bán quyền bán tước, từ chuyện giãi phẩu thẩm mỹ của bà Thiệu đến chuyện buôn lậu hột xoàn..
Ông ta vừa cười khẩy vừa nhổ mấy sợi râu trên càm vừa nói :
- " Thiệu đã trở thành một người điên như Hit Le trong hầm trú ẩn của ông ta vào những ngày cuối cùng ở Bá Linh vậy .Ông ta điều động các sư đoàn ma của ông và tin tưởng là ông có thể thắng trận vì người Mỹ sẽ gởi phi cơ và vũ khí bí mật đến cho ông ta. Sự điên rồ của ông ta là hậu quả của những ám ảnh về sinh lý của ông. Ông ta đã hoang phí thì giờ với các cô gái 14, 15 tuổi mà thuộc hạ đã dẫn nộp cho ông ta."
Tôi cố quan sát con người hùng biện nầy. Ông là một người thuộc giới báo chí, gốc người Miền Bắc,từng bị thất bại trong cách mạng, là một người đã từng hợp tác có giá trị đối với Nhật trong cuộc săn đuổi cộng sản lẫn kháng chiến Pháp , sau đó ông đã phục vụ rồi lại phản bội liên tục các chánh quyền và các tư lệnh cảnh sát thuộc Chánh Phủ Việt Nam . Anh ta có một biệt danh là "Cao Giao" và đã làm việc lâu năm với tờ New Week. Đây là một người hay lục lạo tỉ mỉ nhất vào các "bãi phân thối" mà tôi biết được ở Sài Gòn .
Khách sạn Caravelle nằm bên cạnh Quốc Hội, trước kia có tên là Khách sạn của Nhà Hát Tây, bởi vì tòa nhà có vòm tròn hiện đang dùng làm Trụ sở cho Quốc Hội trước kia là Nhà Hát Tây của thành phố Sài Gòn dưới thời Pháp thuộc. Trước kia Cha Lecca là chủ khách sạn nầy; ông ta là một cựu thượng sĩ thuộc quân đội Pháp bụng phệ và chột mắt đã đổi sang nghề bán nước giải khát. Những nhà hàng hải và các tay ma cô người "Cọt sờ" chuyên buôn lậu vàng và mỹ kim thường đóng đô ở đây, uống rượu a-nis của Miền Nam nước Pháp do họ tự mang tới trong những hộp bánh bít quy có hàn chì cẩn thận , hết chầu nầy đến chầu khác. Cô thâu ngân viên là một cô gái lai Tầu, khoảng 20 tuổI, rất đẹp và lả lơi khiến cho mọi người đều phải dán mắt nhìn cô. Một ngày nào đó Cha Leccia về nước và bán khách sạn lại cho Tòa Giám Mục Sài Gòn. Vị quản lý giáo xứ nầy biến cải khách sạn của những người vô lại nầy thành một "khách sạn hạng sang". Ông cơi thêm 8 tầng lầu, sân thượng ở tầng chót là một nhà hàng lộ thiên. Trang trí bằng cẩm thạch Đài Loan, gổ dát từ Phi luật Tân, cây xanh, sơn mài Thành Lễ, nhơn viên được tuyển lựa cẩn thận và quản lý là người Pháp, khách sạn Caravelle đã nhanh chóng trở thành một cơ sở đẹp nhất của thành phố. Suốt chiều dài của cuộc chiến, khách sạn không có phòng trống bao giờ: sĩ quan, dân biểu, nhà báo, các nhà kinh doanh, thường chia nhau các phòng có đầy đủ tiện nghi. Sau người Mỹ lại đến lượt các kỹ nghệ gia Nhật và các nhà thầu Đại Hàn.
Bây giờ, sau chuyện tán loạn ở Cao Nguyên, thảm kịch ở Đà Nẵng và cuộc chiến đang đến gần thủ đô Sài Gòn , các nhà báo lại tràn ngập khách sạn. Phòng khách đầy những tay săn hình, trang bị máy thâu hình lớn và nặng nề, vai lại mang máy ảnh và ống kính dài như những ống phóng lựu.
Đại tá Xuân đợi tôi ở quầy rượu. Ông ta cười, nụ cười của ông kéo dài làm lộ những nét nhăn từ mắt đến tận mang tai .
Chúng tôi đã sống với nhau trong hai năm sau cùng của cuộc chiến Pháp Việt ở Miền Bắc và những ngày cuối cùng ở Hải Phòng. Lúc nào tôi cũng thấy ông cườI, ngay những lúc chúng tôi đang bị đạn bách kích pháo nện vào lúc chúng tôi đang nằm trong các hố cá nhân đầy bùn sình ở Suối Tre. Tôi không bao giờ thấy ông ta hốt hoảng và cũng không thấy ông to tiếng bao giờ . Ông nói năng nhỏ nhẹ, chẫm rãi, hay tìm dùng đúng danh từ, và luôn chú ý giữ đúng cú pháp. Trong văn phòng của ông ở cổ thành Hà NộI, ông đã viết rất cẩn thận bằng cọ lông một câu rất có ý nghĩa xây dựng : "Nếu anh biết thì hãy nói cho những người hiểu biết. Nếu anh không biết, thì hãy im lặng và cố lắng nghe. Và có lắng nghe thì anh sẽ biết."
Ông ta nói với một giọng bình tĩnh nhưng có chút ngập ngừng.
- " Chào anh Pierre, Cuối cùng rồi Anh cũng đã tìm lại được đúng đường rồi đó .
- Việc gì đã xảy ra hồi sáng nầy vậy anh Xuân? Ở ngoài phố người ta thuật lại là Mỹ đã dàn dựng cú nầy để thanh toán ông Thiệu. Họ còn nói là phi công đã đáp xuống sân bay Udorn của Mỹ và đã được chấp thuận cho tỵ nạn tại Thái Lan.
- Người ta không biết gì hết. Người phi công đã dội bom xuống Dinh Độc Lập tên là Nguyễn thành Trung. Đó là một anh trung úy trẻ mới có 26 tuổI, người Miền Bắc , đã có một vợ và 2 con. Anh ta đã hành động theo sáng kiến riêng của mình, vì quá giận và chán ngán khi thấy các tướng lãnh và Tổng Thống đã bỏ hết tỉnh nầy đến tỉnh khác mà không có một trận chiến nào. Anh ta cũng buồn và thất vọng vì vợ con anh ta không thể rời khỏi Đà Nẵng được và còn bị kẹt trong vùng kiểm soát của cộng sản .
- Sáng sớm hôm nay, vào khoảng trước 8 giờ có hai phản lực phóng pháo cơ đã cất cánh từ phi trường Biên Hòa, cách Sài Gòn 30 cây số. Họ có nhiệm vụ đánh bom vào một mục tiêu địch ở phía trên tiểu khu Phan Rang, dọc theo bờ biển. Một lúc sau dó trung úy Trung báo cáo là phi cơ anh bị trục trặc kỹ thuật không thể tiếp tục bay được . Hai mươi phút sau anh ta nhắm vào Dinh Độc Lập đâm thẳng xuống. Tất cả đều diễn tiến rất nhanh chóng. Pháo đội phòng không ở Dinh Độc Lập không có thì giờ để mà kịp phản ứng. Một trong hai trái bom của anh ta đã làm mẻ một góc cầu thang sau của Dinh và làm vở hết các cửa kiến của tầng trệt. Trái bom thứ hai rơi xuống hoa viên không gây một thiệt hại nào. Sau đó anh ta còn bắn hai trái hỏa tiển làm thủng nóc nhà để xe, và có bắn đại bác 29 ly xuống bải cỏ, gây 2 tử thương và 5 bị thương nặng. Có trên 40 người bị mảnh kiếng làm trầy da..Dù gì đi nữa, nếu anh ta có đánh trúng ngay Dinh đi nữa thì anh cũng không thể nào giết Tổng Thống được . Nóc dinh mới cất nầy dày đến mấy thước bê tông, và phải qua cả 4 tầng làu từ nóc dinh mới xuống tới phòng của Tổng Thống được .
- Còn chuyện đáp xuống sân bay ở Thái Lan ?
- Một sự bịa đặt hoàn toàn ! Trưa nay hồi 15 giờ, đài Hà Nội đã cho ra một thông cáo xác nhận là trung úy Trung đã đến vùng giải phóng Đà Nẵng với phóng pháo cơ của anh ta. Tổng trưởng Quốc Phòng của cái gọi là Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam đã gắn huy chương yêu nước hạng 2 và đã thăng cấp Đại úy của quân đội Giải Phóng Miền Nam Việt Nam cho anh ta. Điều nầy chứng minh rõ ràng là mấy anh "mũi lõ" không có gì dính dáng đến việc nầy. Tùy viên quân sự Hoa Kỳ rất tức giận vì đây là chiếc phản lực phóng pháo cơ F.5.E. đầu tiên đã rơi nguyên vẹn vào tay cộng sản. Đây là một phóng pháo cơ chiến thuật vừa ngăn chặn vừa yểm trợ, tốc độ bay nhanh (mach 1,6), dễ điều khiển, được trang bị vũ khí rất mạnh và toàn bộ bằng điện tử (máy dò tìm mục tiêu loại nhỏ, tác xạ bằng máy điện toán, máy chụp ảnh bằng hồng ngoại tuyến). Loại phi cơ nầy chỉ mới được mang ra xử dụng cách đây không quá 18 tháng...

CHƯƠNG BẢY
LINH MỤC THANH: ĐỘI QUÂN THANH LỌC

Ngày Thứ Tư, 9 tháng Tư
- "Thiệu phải ra đi. Nếu ông từ chối không chịu ra đi thì ông sẽ bị quân đội đảo chánh, hay sẽ bị một sĨ quan giết chết để trả thù cho tất cả những người đã chết vì ông ta. Một người phi công trẻ đã thử giết ông ta rồi, nhưng anh ta thất bại. Nhưng mà còn có những người khác nữa. Thiệu là một tướng lãnh không có khả năng và là môt chánh trị gia tham nhũng. Ông không lãnh đạo một Chánh Phủ mà cầm đầu một "băng đảng" Tất cả mọI người đều ghét và khinh bỉ ông ta."
Ngưòi nói lên những lời buộc tội ngắn nầy không phải là môt quan tòa, cũng không phải là một dân biểu hay là một ông đại tá. mà là một linh mục: Cha Trần hữu Thanh, thuộc dòng Chúa Cứu Thế, chủ tịch "Phong Trào Tranh Đấu Chống Tham Nhũng Để Cứu Nước Và Vãn Hồi Hòa Bình".
Năm nay ông 50 tuổi, dáng người gọn ghẽ, tóc đã bạc hoa râm, mặt vuông, có đôi mắt sáng ngời lanh lợi sau cặp kính tròn gọng sắt , cha Thanh mặc một áo dòng đen cũ, tiếp tôi trong một văn phòng nhỏ bên cạnh nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. ông ta mạnh dạn nói tiếp :
-" Thiệu là một người bất nhân. Ông ta đã làm hư quân đội, hành chánh và tòa án. Các tướng lãnh thì phải bỏ tiền ra mua chức vụ chỉ huy của họ, các tỉnh trưởng, cảnh sát trưởng, các quan tòa cũng phải mua chức tước của họ rất đắt. Dĩ nhiên sau đó họ phải tìm cách thu hồi lại và như vậy là họ phải ăn hối lộ. BàThiệu là một người công giáo tốt, về lễ bái cũng như về từ thiện. Nhưng bà không thể nào cưỡng lại được lòng ham muốn "quà cáp", những vòng cẩm thạch, những hột xoàn mà người ta dâng cho bà để mưu cầu có môt sự che chở của bà. Bà mua đất mua nhà cửa và gian lận thuế. Và chồng bà cứ để cho bà muốn làm gì thì làm. Chính vì muốn tranh đấu chống lại các sự thối tha đó của chế độ nầy mà tôi phải đứng ra chống ông Thiệu.
Tôi có được sự ủng hộ của hàng trăm người công giáo và nhiều nghị sĩ và dân biểu. Đức Cha Bình của Tòa Giám Mục Sài Gòn đã ủng hộ hành động của tôi. Các sĩ quan, các bác sĩ, luật sư đã viết thư cho tôi hay đã đến đây gặp tôi để ủng hộ tôi và khyến khích tôi tranh đấu . . . .
- Hà Nội và M TGPMN khẳng định là Cha hành động theo sự xúi giục của người Mỹ. Những người thân ông Thiệu cũng có cùng một luận điệu đó và nói thêm rằng các linh mục ủng hộ
Cha như các cha Nghi và cha Thanh Lan đều là những người có khuynh hướng tiến bộ.
Cha Thanh nhảy lên:
- Tôi không có dính dáng một tý nào với người Mỹ, họ không bao giờ có một hành động nào để thử ép ông Thiệu phải ra đi, hay ngay như phải loại bỏ 3 tên đại bất lương luôn bao vây quanh ông ta. Tôi sẽ nói cho ông nghe chính xác hơn. Lưu manh nhất Việt Nam là tướng Quang, cố vấn của Tổng Thống về tất cả mọi vấn đề liên quan đến an ninh. Ông nầy đã thiết lập các hệ thống buôn bán ma túy,, buôn lậu, và nhờ đó mới có được một gia tài kếch xù. Ông Thiệu lúc nào cũng từ chối không muốn sa thải ông Quang nầy, hoặc như ông thường làm một vài lần khi ông muốn dẹp một chướng ngại cho mình ông gởi người đó đi sang ngoại quốc làm đại sứ. Rất là giản dị, bởI vì ông Quang biết rõ những bộ xương được cất trong tủ nào, và khi nào vói không tới thì ông ta bắt đầu nói vớ nói vẩn. . . Còn 2 thành viên của đảng mafia mà ông cũng không bãi miễn được . Trước hết đó là Trung tướng Nguyễn văn Toàn cựu Tư Lệnh Quân
Đoàn II , mà ai cũng biết là buôn lậu. Ông làm giàu bằng những cúp cây rừng và những sòng bạc, và còn bị cáo buộc tội hãm hiếp nữa. Việc nầy mặc dù có một chiến dịch báo chí dữ dội, mà vẫn không đi đến đâu hết. Ông Thiệu chỉ cho ông ta rời khỏi chức vụ một vài tháng thôi, rồi lại đưa ông ta về lãnh trách nhiệm Vùng III Chiến Thuật. Chính ông ta hiện đang lo việc phòng thủ Sài Gòn . Sau cùng là tướng Trang sĩ Tấn, Chỉ huy trưởng cảnh sát Đô Thành. Đây là một người ham tiền và tàn ác. Ông ta kiểm soát đĩ điếm và các sòng bạc lậu.. Ngoài ra ông còn thành lập một đường dây xuất ngoại đưa con cái những người Tầu và những người giàu có sang Thái Lan để trốn quân dịch. Một trong những người đại diện của ông ta ở Ba Lê (Pháp) lo tiếp nhận những người phạm tội nầy sang tỵ nạn ở thủ đô nước Pháp và cung cấp đầy đủ giấy tờ hợp pháp kề cả một giấy phép cư trú, như vậy là ông ta ăn được 2 lần tiền, bởi vì khách hàng của ông ta phải trả tiền lúc đi và lúc đến. NgườI đại diện nầy là chủ một nhà hàng Việt Nam ở khu La Tinh (ba Lê), cũng có một hệ thống "gái gọi" dành cho các vị Tổng bộ trưởng khi đi công vụ ghé lại Ba Lê. Do đó xa tầm nhìn của những kẻ tò mò, tránh không làm hại đến thanh danh của họ đồng thời không có ai động đến họ được Và mặc cho tất cả những điều ô nhục đó, tướng Trang sĩ Tấn vẫn tiếp tục được sự che chở của Tổng Thống và bà Thiệu, đến độ họ đã đề nghị gả con gái cho Tấn nữa."
Tôi nhìn Cha Thanh. Chẳng những Cha đã tỏ ta thành thật mà còn tin chắc rằng ông được trao cho một "sứ mạng". Ông Thiệu đã trở thành một biểu tượng của người xấu mà ông phải hạ bệ bằng mọi giá để cứu đất nước và để ông ta phải chịu đền tội. Một khi sứ mạng cứu nước đã xong, thì ông sẽ nghĩ thế nào về giải pháp tương lai đây? Tôi đặt thẳng câu hỏi với Cha:
" Giả dụ là ông Thiệu chịu ra đi hay bị đuổi đi, thì ai sẽ là người thay thế ông ta đây?
-Bất cứ ai cũng được! Tất cả những gì chúng tôi mong muốn, đó là một người liêm khiết và ngay thẳng,có quyết tâm phục vụ đất nước .
- Tại sao không phải là Cha ?
Cha Thanh sững sờ, nhìn chòng chọc vào mặt tôi sau khi tôi vừa phát biểu một điều coi như bất lịch sự ghê gớm, và ông phát lên cười nắc nẻ.
- Dĩ nhiên là không phải tôi rồi. Tôi không phải là một chánh trị gia. Tôi dấn thân tranh đấu vì tôi yêu đất nước tôi, và để hợp với thiên chức của tôi, tôi chỉ tố cáo những việc làm không phải và những tật xấu của một chế độ mất giá trị. Nhưng tôi không có ý định cũng như tham vọng nào để giữ vai trò của một nguyên thủ quốc gia.
- Vậy thì ai đây ?
- Chúa sẽ giúp chúng ta tìm người cần phải có.
- Nhưng nếu cộng sản không thừa nhận người đó thì sao ?
- Cộng sản có thể chiếm đất nước nầy bằng vũ khí, họ đang chứng minh điều đó. Nhưng họ không thể áp đặt một chế độ không hợp với 20 triệu dân Miền Nam Việt Nam .
- Nhưng nếu họ cứ thử làm thì sao ?
- Họ sẽ không thử đâu. Họ cũng thừa thông minh và thực tiễn để phải hiểu rằng chỉ có một cách duy nhất để tái lập hòa bình thật sự là phải thành lập một Chánh Phủ Đoàn Kết Quốc Gia , ở đó có đủ mọi xu hướng và phải có sự ủng hộ của toàn dân. Dù sao thì họ cũng đã từng và không bao giờ ngưng hứa như thế mà.
Cha Thanh giữ yên lặng một lúc, sau đó hình như bất chợt ông công nhận được một chuyện khó có thể xảy ra, nên ông nói thêm một cách thật cương quyết:
- Ông biết không , ít nhất tôi cũng là một người chống cộng sản như tôi đã chống ông Thiệu.
Nếu những người của Hà Nội quyết định cộng sản hóa Miền Nam , dựa trên quân đội của họ và các chánh trị viên của họ, thì họ sẽ thất bại. Dân chúng sẽ chống lại và sẽ có một cuộc nội chiến không có hồi kết thúc.
Cũng trong ngày thứ tư 9 tháng 4 nầy, vào lúc 15 giờ, tôi đến thăm một người bạn của tôi Đó là ông Trần trung Dung. Lúc nào ông cũng ăn mặc sang trọng, áo sơ mi lụa, quần thẳng nếp và mang giầy Ý đại lợi, đầu chải láng, người lúc nào cũng bình tỉnh chững chạc ăn nói từ tốn và rất lễ độ với mọI người , Ông là con của môt người chơi đồ cỗ ở Hué, là bạn học cũ của tướng Võ ngyên Giáp vào thập niên 30 ở trường trung học Albert Sarraut và sau đó ở đại học Luật tại Hà Nội . Ông đã từng là một tỉnh trưởng trẻ ở tỉnh Phú Thọ, đảng viên đảng Đại Việt, một đảng đối lập vớI cộng sản Việt Minh trong cuộc chiến dành độc lập, sống lưu vong bên Tầu, trở lại đời sống chánh trị sau khi cưới cháu của Tổng Thống Ngô dình Diệm và trở thành Tổng trưởng Quốc Phòng. Hiện ông là Phó Chủ Tịch Thượng Viện. Thuộc một gia đình có tiếng tăm lâu đời, lại hấp thụ cả hai nền văn hóa Tây Phương và Đông Phương, đã từng trải qua nhiều biến cố lịch sữ, thường có nhiều giao dịch cả ở Việt Nam và ở ngoại quốc, những chuyến đi du lịch ở ngoài với những chức vụ mà ông đã và đang tiếp tục đảm nhiệm.... tất cả cho thấy ông là một người đối thoại lý tưởng. Không như các chánh trị gia của đất nước ông, sự hiểu biết của ông về những sự việc và những con người , gia tài mà ông đang có giúp ông sống độc lập đối với bổng lộc của chánh quyền .. tất cả đều bảo đảm một tính khách quan và không thiên vị trong phán đoán của ông.
Tôi thuật cho ông nghe hết về buỗi viếng thăm của tôi với Cha Thanh và những toan tính đáng sợ của Cha đã nói với tôi. Ông cười và bình luận:
-" Cha Thanh là một "anh hùng rơm" (nguyên tác: Don Quichotte). Ông quá thật thà khi nghĩ rằng hễ nhảy ra nắm được cây chổi trong tay là có thể quét được hết. Những cây chổi hả, khi cuỡi lên được nó rồi thì chúng sẽ đưa những người phù thủy tập sự đi rất xa . Chúng ta đang sống ở Việt Nam, nơi mà chế độ được thành lập trên sở hữu tư nhân; có nghĩa là có một khái niệm về lợi tức và hình thành một phương tiện cho sự tăng tiến xã hội.
Mọi người đều ra sức để chứng minh rằng chúng ta hư hỏng vì tham nhũng, và đĩ điếm tràn ngập. Đối lập thì xác nhận rằng không có tự do phát biểu và các thể chế đi sai hết rồi. Tôi đã có đi nhiều ra ngoàì. Tham nhũng thì đâu cũng có hết, ở Âu Châu, Nhật Bản và cả ở Hoa Kỳ nữa. Nó còn dữ hơn ở Việt Nam ta nữa kia, vì các nước đó giàu hơn Việt Nam gấp bội, và giản dị hơn nó được khéo che đậy hơn. Ở bên Pháp, bên Mỹ hay bên Nhật, báo chí thường chỉ trích những vụ tai tiếng, những vụ buôn vàng lậu hay ngoại tệ liên quan đến các ông cảnh sát, các viên chức cao cấp , các nhà đầu tư bất động sản hay cả những tổng bộ trưởng. Bên Hoa Kỳ các anh chàng găng tơ (gangster) thường chen vào chánh trị và các cuộc bầu cử. Đã xảy ra rồi một ông thị trưởng của thành phố New York chạy ra ngoại quốc mang theo cả ngân quỷ của thành phố.. Con số ma túy bắt được lên đến hàng mấy tỷ mỹ kim. Đĩ điếm ít nhất cũng nhiều như bên Việt Nam chúng ta, những người giả trang đòi quyền cưới hỏi nhau, thậm chí còn có nhiều linh mục đồng ý thừa nhận hôn nhân của họ nữa. Bên Pháp trong một số rạp chiếu bóng trên đại lộ số 5 hay Champs-Élysées , muợn cớ là giải phóng tình dục, người ta cho chiếu những phim khiêu dâm mà trước kia chỉ được kín đáo chiếu trong nhà cho một số ít thân chủ tìm hứng cảm mà thôi. Tôi thường tự hỏi dựa trên nguyên tắc nào mà họ chỉ trích chúng ta một cách có hệ thống như vậy ?
Ông Trần trung Dung đặt hai bàn tay thật sát lên bàn viết của ông và nói tiếp, với một giọng đều đều ;
- " Nước Việt Nam không có gì xấu hơn hay tốt hơn các nước mà họ tin là họ có thể đánh giá ta được. Đối với ông Thiệu cũng vậy. Tôi biết ông ta rất nhiều , tôi đã nhiều lần đến với ông ta, và đã nói chuyện nhiều với ông ta. Chúng tôi đã có đụng chạm nhau và cuối cùng ngày 3 tháng 4 vừa qua, tôi đã bỏ phiếu thuận cho một nghị quyết của Thượng Viện đòi hỏi sự ra đi của ông ta.
- Ông ta là một người thông minh, có khả năng và dám hành động. Lòng can đảm và ý chí quyết tâm kháng cự mà ông ta đã chứng minh trong thời kỳ cộng sản tấn công dữ dội vào năm 1972, chúng ta không thể nào quên được . Chỉ trong vòng một năm gần đây thôi, không lâu lắm, ông Thiệu có thay đổi.. Trước kia, khi tôi đưa ra những câu hỏi về những vấn đề của đất nước, thì ông ta đã trả lời dài dài cho tôi, đầy dủ từng chi tiết một. Ông rất chú tâm đến những việc ông làm, cái nhìn sáng quắt của ông đã chứng tỏ niềm tin và lòng thành thật của ông.. Nhưng rồi đùng một cái, cái nhìn của ông lu mờ hẳn đi, ông ta nghe tôi nói mà không buồn nói gì cho tôi hết, tránh không trả lời vào các câu hỏi của tôi, và cuối cùng là tránh không muốn gặp tôi nữa. Tôi đã cảm thấy được sự thay đổi đó từ đầu năm 1974. Tôi đã hiểu là ông Thiệu đã mất hết lòng tin . Hiển nhiên ông đã biết rõ là Hoa Kỳ đã buông bỏ chúng ta rồi. Ông đã biết rõ là ông chỉ còn đánh một hiệp cuối cùng với bọn cộng sản, mà trong hiệp chót nầy ông bầu của ông đã để cho ông tự lo liệu lấy một mình trong lúc cộng sản đến đánh trên đầu ông bằng một đôi găng có dấu chiếc bàn ủi sắt bên trong... Và như vậy là ông đã bắt đầu chuẩn bị sự hồi hưu của mình, sửa soạn cho mình một chiếc nệm êm ấm rồi đó!
Ông Trần trung Dung ngả người tới trước và nói với tôi:
- " Anh Pierre nầy, tôi còn một vài nhận xét nữa phải nói. Bắc Việt luôn luôn khoe với chúng tôi là một chế độ dân chủ trong sạch và cứng rắn, nơi đó sự lương thiện được nâng cao thành đức tánh. Tôi đã đọc báo của họ kỹ lắm và tôi thường ghi nhặt được rằng các giám đốc hợp tác xã hay bị bắt vì tội biển thủ gia súc; rằng các hãng xưởng bình dân của họ thường gian lận sổ sách, bán buôn bất hợp pháp vật liệu mới toanh được họ biến cải thành vật liệu "dư thừa phế thải" gồm có đầu máy xe lửa và hàng chục tấn dây điện; rằng các sinh viên thường buôn bán chợ đen vải sồ và thẻ tiếp tế lương thực; rằng hàng trăm tấn gạo bị lươn lẹo; rằng có nhiều tổ chức buôn lậu xe đạp, máy may, và đá lửa; rằng các anh lính mới thường hay đào ngũ; rằng các phụ nữ thường buông thả trong các hoạt động tội lỗi của nghề mãi dâm.... Nhưng có ai ở ngoại quốc biết đọc được tiếng Việt, hay bỏ thì giờ để phân tích tỉ mỉ báo chí nhạt nhẽo của Hà Nội bao giờ?
-" Anh Pierre biết ở Sai Gòn có bao nhiêu tờ báo không ? - 29 tờ : 19 tờ Việt ngữ, 7 tờ Hoa ngữ, 2 tờ Anh ngữ và 1 tờ Pháp ngữ. Họ thường viết bài chỉ trích Chánh Phủ . Có một số bị tịch thâu, bị kiểm duyệt, nhưng họ vẫn tiếp tục ra báo. Còn ở Hà Nội chỉ có 3 tờ báo: tờ nhật báo Nhân Dân, tờ Hà Nội Mới và tờ Quân Đội Nhân Dân. Cả 3 tờ báo nầy đều được viết, in ra cho Đảng phân phát và Chánh Phủ không bao giờ sợ bị một chỉ trích nào cả. Điều nầy ở Ba Lê ai cũng biết hết. Ông Jacques Decornoy đã xác nhận rõ trong báo Le Monde. Ông ta giải thích với một lương tâm nghề nghiệp đáng khen rằng: Dĩ nhiên là mọi dư luận có xu hướng trái ngược đều không thể được trình bày ở Hà Nội . Và ở Miền Bắc không thấy có một người nào dám nêu lên quan niệm về Tự Do của Phương Tây".
Mục tiêu mà Cha Thanh tự nhắm vào là TT Thiệu. Cha có nói với anh là Đức Cha Bình đã đồng ý và khuyến khích Cha tiếp tục tranh đấu phải không?. Tất cả hai người đều có thể nghiêng về trường hợp Cha Quản Lý của Giáo xứ mà phía sau lưng ông nầy có một số bù nhìn tay sai đang kiểm soát nửa tá ngân hàng tư, buôn hối đoái và cho vay cắt cổ , (28 % lời), giết chết đồng bạc trong thời gian không quá 4 năm . Ông ta cũng đầu cơ về đất đai và tài trợ cho các dịch vụ địa ốc. Tòa Tổng Giám Mục còn là sở hữu chủ của nhiều khách sạn đặc biệt là khách sạn Caravelle, nơi đó các phòng thường tiếp bọn gái nhẹ dạ còn nhiều hơn là những người đi hành hương ở Fatima. Cuối cùng nếu anh cho phép thì tôi sẽ kết luận như thế này : Nếu ông Thiệu quyết định ra đi, thì cái sơ đồ trong những tuần lễ hay những ngày sắp tới, đối với tôi hình như đã có vẽ sẵn trước rồi!
Giả thuyết thứ nhất : bọn cộng sản sẽ khai thác thắng lợi và cố gắng chiếm Sài Gòn .Họ có thể làm được chuyện đó, nhưng các chánh trị gia và các nhà ngoại giao không tin như vậy, vì họ cứ tưởng rằng cộng sản trước nhất đang đi tìm một chiến thắng chánh trị. Và sự loại trừ được Tổng Thống Thiệu, một kẻ thù không thể giải hòa được, là đã giúp họ đạt một chiến thắng vẻ vang rồi.
Từ đó ta mới có giả thuyết thứ hai , có khà năng đúng hơn và yên tâm hơn : giai đoạn thứ nhất là thành lập tại Sai Gòn một toán gồm một số đại diện của lực lượng thứ ba. Sau đó sẽ thành lập Hội Đồng Hòa Giải Dân Tộc mà Hà Nội và Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam (M TGPMN) đã kêu gọi thành lập mãi từ 2 năm nay mà vẫn không được . Những người thuộc lực lượng thứ ba cũng có thể tin cậy được . Có nhiều người khao khát trước hết là đem lại hòa bình. Một số khác thì thấy M TGPMN là một phong trào tranh đấu của người quốc gia hơn là cộng sản. Một nhóm thứ ba khác thì chán nản vì sự tham nhũng của chế độ, nên bị C PLTCHMN lôi cuốn. Tất cả đều tin tưởng là có khả năng giải quyết bình đẳng với cộng sản , nếu không thể thao túng họ được . Tất cả những người nầy đều là những thằng điên và vô ý thức. Họ phải đầu hàng cộng sản hay là đi tù mà thôi. Còn đối với Cha Thanh thì ông sẽ có dịp may nếu ông còn có quyền giữ được tràng hạt của ông ta để tụng trong khám tối....."

CHƯƠNG TÁM
ĐỪNG BAO GIỜ TIN TƯỞNG HOA KỲ
NHƯ MỘT ĐỒNG MINH

Ngày Thứ Năm, 10 tháng Tư
Chung quanh vòng đai của Thủ đô, nhiều xe ủi đất và máy xúc đất đang không ngừng đào lấu từ tấn nầy đến tấn khác đất và đá sỏi để hàng ngàn nhân công mặc quần cụt và sơ mi ngắn tay đen, dùng xe đẩy nhỏ , đưa đến dùng vá cho vào các thùng phuy sắt được kết nối lại từng 4 thùng một với nhau bằng dây sắt và được đặt trên các lề đường để dùng làm bờ tường chống chiến xa.
Tất cả những xe đò từ các tỉnh đến Sai Gòn đều được quân cảnh lục soát và kiểm tra kỹ. Các ngã tư đường quan trọng đều có các cuộn kẽm gai bao quanh. Hai bên các đầu cầu đều có binh sĩ canh gác với các loại vũ khí nặng đặt trong các lô cốt bằng ximăng hay trong các hầm trú ẩn có bao cát ở trên.
Những công cuộc chuẩn bị chiến tranh không hề làm bận tâm người dân ở thủ đô. Ở khu vực ngân hàng, sau nhiều chuyện xô đẩy chen lấn ồn ào, sự yên tĩnh đã trở lại bình thường. Đồng mỹ kim tuần rồi đã vụt lên đến 1600 đồng thì nay đã xuống trở lại đến 1000 đồng. Thành phố Chợ Lớn, trung tâm thương mại và tài chánh của Việt Nam tiếp tục sinh hoạt bình thường. Không khí buôn bán không có gì thay đổi. Người ta vẫn còn tìm nhìn lên các bảng hiệu tiệm với hàng chữ màu đen hay màu vàng luôn được treo trước cửa hàng . Ở đây buôn bán vẫn là ưu tiên hàng đầu . Trước hết là các cửa hàng bách hóa, thôi thì hàng được bày la liệt đủ mọi thứ : nào là nón phớt Ý đại lợi, nào là dầu thơm của Pháp, nào là máy ảnh của Nhật... tất cả treo dài dài trên tường, có cả ly cốc và nồi niêu.... Hàng tá đèn lồng được bày bốn năm hàng dài trên các kệ, đèn chùm đủ kiểu được treo lòng thòng từ trên trần nhà. Đèn điện sáng choang vì người Tầu không ưa bóng tối. Kế đến là các hàng tạp hóa, với nhiều loại rượu: loại khai vị của Pháp. rượu vang Úc Châu, sâm banh thượng hảo hạng nhưng thường thì chỉ có nhãn hiệu là thật. Tất cả các loại bánh bít quy của Anh... nhưng làm ở Hong Kong là phần chắc. Các tiệm buôn thường chia ra làm 2 hay 3 ngăn, mỗi ngăn mỗi chủ khác nhau. Người ta thuê, rồi lại cho thuê lại: khúc trước thì bán cà phê, mà khúc sau thì là một tiệm hớt tóc. Các tiệm bán trà thì có hàng trăm bình trà bằng đất nung, nhưng phía sau đó lại có các hũ rượu nếp. Trong các tiệm ăn thì mấy anh bồi bàn mặc áo thung lá lăng xăng chung quanh các thương gia béo phì và vui vẻ, lâu lâu lại vén áo thung ba lá lên rất tự nhiên gọi là để cho mát cái bụng phệ. Đứng trước các lò nấu có năm sáu anh đầu bếp, lưng trần, đang lo nấu cơm hay đang làm món ra gu đậu. Trước hiệu ăn nào cũng có treo đầy "lạp xưởng", và các miếng thịt "xá xiếu" dài ,những con vịt khô dẹp , và các chùm ớt đỏ chói....
Chung quanh các tiệm bán tạp hóa, bán chạp phô hay các kho hàng lúc nào cũng có dủ mặt các tay tiểu công nghệ : nào là thợ vá giày, thợ sửa khóa, thợ ráp khuôn hình . . . các cô bán bông thì chào hàng trước các tiệm trồng răng, các tiệm kính nơi có trưng bày đủ loại gọng, loại kính đủ màu đủ kiểu..
Ngoài kia là con kênh, đầy ghe thuyền, sà lan, ghe chài lớn...và tiếng vịt kêu, đang đến từ các nhà máy xây lúa ở Bình Tây, cao to vòi vọi bên cạnh các căn lều lụp xụp của các công nhân và phu khuân vác. Không khí thì đầy những hạt bụi lấm tấm màu đen : người ta thường dùng trấu để đốt lò xây lúa nên có cả một đám mưa bụi tro. Các bao lúa được chất lên chung quanh nhà máy xây gạo cao như núi, để chờ chuyển thành triệu nầy đến triệu khác.
Những hình ảnh phong phú nầy đặc biệt trái ngược với các mẩu tin từ chiến trường gởi về.
Chơn Thành vừa mới được di tản, đây là một thị trấn nhỏ nằm ngay ngã tư giao lộ cách Sai Gòn khoản 80 cây số ngàn về hướng Đông Bắc. Thị trấn bé nhỏ nầy với vài xã nghèo nàn nằm chung quanh một ngôi nhà thờ vách ván, là nơi đã từng xảy ra nhiều trận giao tranh đẫm máu. Các khu rừng tre quanh đây đã bị bom của pháo đài bay B. 52 cày nát và đốt cháy. Việt Cộng đã đào đường hầm hẹp và ngoằn nghoèo dài hàng cây số trong vùng bình nguyên quanh thị trấn. Nhưng Biệt động quân đã đuổi họ đi hết và đã chiếm lại khu săn bắn nầy.
Từ Chợ Lớn về, tôi gặp bạn Lupi của tôi, một người dân đảo Corse ốm yếu và có tánh hay bồn chồn, tóc đã bạc phơ nhưng cặp mắt còn đen nhánh tinh anh. Sau 30 năm phục vụ liên tục ở Đông Dương, anh ta gần như đã sạt nghiệp. Đồn điền của anh ta (gần đèo Blao trên đường đi Dalat) đã bị cháy hết. Ngày hôm kia anh dã ở Xuân Lộc.
Với một giọng không thay đổi của người dân đảo Corse, anh ta tiết lộ cho tôi biết:
- " Anh biết không, trong rừng thuộc tiểu khu nầy, bộ đội chánh quy cộng sản đông như kiến vậy. Thành phố Xuân Lộc đã biến thành một căn cứ quân sự khổng lồ, với những pháo đài và những ổ mối. Sư đoàn của Chánh Phủ với nhiệm vụ phòng thủ thành phố đã sống dưới hầm và trong các lô cốt bằng bê tông, trong các đường hầm hay núp kín sau các ụ đất. Mỗi một nhà kho, mỗi một sân nhà đều biến thành một hầm trú ẩn dùng để chống chiến xa, hay cho một ổ đại bác liên thanh... Mỗi đêm Xuân Lộc đều ăn hỏa tiễn của cộng sản Bắc Việt.
- Thế dân chúng làm gì ?
- Con số thường dân tăng lên gấp đôi. Hàng chục ngàn dân tỵ nạn từ khắp nơi kéo đến,và ở cùng khắp thành phố, trong các sân trường, trong các hầm hố, che lều ở hay mắc võng vào thân cây nằm. Và không một ai muốn rút lui hết. Sớm muộn gì cộng sản Bắc Việt cũng sẽ tấn công đến nơi rồi. Các sĩ quan của Miền Nam Việt Nam mà tôi đã gặp đều khẳng định là họ không lùi nữa.
*
* *
Trước tòa đại sứ Hoa Kỳ , có mấy trăm người Việt Nam đang xếp hàng trên lề đường chờ xin phép nhập cảnh để được đi Mỹ.
Đại sứ Graham Martin không tiếp báo chí và đã không bao giờ rời khỏi sứ quán của ông, vừa là một dinh thự vừa là một pháo đài sơn màu trắng ngà, có một bức tường bê tông bao quanh có gằn máy chụp ảnh tự động. Hai anh binh sĩ Thủy quân lục chiến với lễ phục lớn (kết trắng, găng trắng, quần chạy nếp đỏ) đứng gác lúc nào cũng trong tư thế Nghiêm trước hai cánh cửa bọc sắt có ổ khóa chỉ được mở bằng mật mã bằng máy vi tính từ xa. Nóc bằng của sứ quán đã được cải biến thành bãi đáp cho trực thăng.
Với 62 tuổi, người cao lớn và rắn rỏi, trán đã có nhiều vết răn sâu, mặt cũng đã có nếp nhăn và quầng thâm, ông vẫn luôn luôn mặc quần áo màu xám, cả giầy cũng vậy, giờ đây ông đã có một dáng đi hơi nặng nề và mệt mỏi của một võ sĩ quyền Anh đánh quá một trận, mà từ khước không chịu cho đôi tay ngơi nghỉ ! Phải nói rằng nhà ngoại giao Hoa Kỳ nầy có một lối xử sự không được bình thường. Trái hẳn các đồng nghiệp của mình luôn có thái độ "lạnh nhạt", dù tình hình quá nghiêm trọng họ vẫn đánh giá bằng một thái độ dửng dưng khác thường, ông Martin là một người biết trọng danh dự, biết thế nào là giá trị của một lời hứa đã được đưa ra, là môt người biết đau khổ và biết xúc động. Ông đã mất một người con trai trong chiến cuộc ở Việt Nam và không chấp nhận là đứa con của mình đã hy sinh một cách vô ích. Ông ta đã tỏ thái độ giận dữ với các nhà báo và các nghị sĩ theo chủ nghĩa "hòa bình" , những người quên hay chối bỏ sự hy sinh của 58.000 binh sĩ Hoa Kỳ ở Việt Nam . Thay thế đại sứ Ellsworth Bunker (người được coi như là cha đở đầu của Tổng Thống Thiệu) sau khi Hiệp Định Paris vừa được ký kết, ông Graham Martin, một nhân vật thẳng tính và không mưu mẹo quanh co, ngay từ lúc đầu đã cố gắng giúp đở và che chở cho vị Tổng Thống Miền Nam Việt Nam . Ông đã tranh đấu với Quốc Hội năm vừa qua để đòi hỏi Hoa Kỳ phải tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế như đã hứa cho Miền Nam Việt Nam , nhưng ông đã thất bại. Từ sau ngày Cao Nguyên bị thất thủ, ông đã công khai biện hộ và vận động riêng để sự cứu trợ cấp thời phải được gởi sang Việt Nam ; và bằng mọi phương tiện mà ông có sẳn, ông đã nâng đở tinh thần của người dân Miền Nam . Ông đã đi xa hơn nữa bằng hành động phối hợp cuộc hành quân "bốc trẻ mồ côi", một việc làm chạm tinh thần quốc gia dân tộc và lòng kiêu hãnh của người dân Việt Nam. Trong một bức thư riêng gởi cho Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam , ông đã giải thích rằng những phản ứng xúc động do hoàn cảnh vô cùng khốn đốn của các trẻ mồ côi có thể sẽ làm nghiêng cán cân dư luận của dân chúng Hoa Kỳ có lợi cho Miền Nam Việt Nam . Nhưng nội dung lá thư riêng của ông lại được tung ra cho báo chí gây ra môt làn sóng phản đối dữ dội.
Tuy vậy ông Martin không ngã lòng. Và như ông đã khiếp sợ sự "trốn chạy", nên ông cẩn thận hơn một chút đối với các anh nhà báo vá các nghị sĩ quá tò mò, buộc các cộng sự viên của ông phải đề cao cảnh giác và nêu gương phẩm cách của mình, và khuyên họ không nên buông thả theo "tính chủ bại", và ông cũng cố gắng thuyết phục họ là "cuối cùng rồi có lẽ Hoa Kỳ cũng sẽ tỉnh dậy thôi"
Trong lúc cuộc tháo chạy đã gần như hoàn toàn, trong khi hàng trăm ngàn dân tỵ nạn làm nghẽn hết đường sá, và hết thành phố nầy đến thành phố khác cứ tiếp tục thất thủ, ông vẫn phô bày một sự lạc quan không lay chuyển, mỗi ngày cẩn thận tính sổ các xã ấp mà Sai Gòn còn đang kiểm soát được và gởi về Hoa Thạnh Đốn nhiều điện văn "tối khẩn" đòi hỏi những chương trình phát triển kinh tế dài hạn cho phần đất còn lại của Miền Nam Việt Nam .
Cho đến khi Hoa Thạnh Đốn đòi hỏi ông Martin phải sẳn sàng để di tản 5000 người Mỹ hiện còn đang ở Miền Nam Việt Nam thì ông đã trả lời bằng một công hàm hết sức gay gắt, khuyên Bộ Ngoại Giao hãy khóa "vòi nước hoảng loạn" lại. Ông Martin không dấu giếm với những người bên cạnh ông rằng ông coi chuyện "di tản" nầy như một cuộc "tháo chạy nhục nhã", một "hành động hèn nhát", một hành động "phản bội có cân nhắc" đối với một người bạn đồng minh đang có nguy cơ đứng trước cái chết ....
Khi tôi đi trở xuống đường Catinat (Tự Do), tôi không thể không nghĩ tới sự thay đổi lạ lùng về đường lối chánh trị của Hoa Kỳ và sự rời rạc của khối dân cử của họ.
Đã có một lần, một vị Tổng Thống Hoa Kỳ mang tên là Richard Nixon . Có nhiều người đồng hương của ông đã không thích ông và tố cáo cách điều hành Chánh Phủ của ông.(điều nầy có nhiều trung tâm có uy tín đã ghi nhận đúng như thế). Họ cũng công nhận có một vài việc ông "biết làm" trong vấn đề chánh trị đối ngoại, nhưng họ nghĩ rằng trong lãnh vực nầy Henry Kissinger (người ta nói là chất xám của Nixon) mới chính thật là người thợ khéo đã gầy dựng nên những thành công cho ông Chủ Nhà Trắng.
Sau một màn tranh đấu đầy khả nghi, được đánh dấu bằng những cú đấm quá hạ tiện, cuối cùng ông Nixon phải từ chức.Tám tháng đã trôi qua từ đó. và hình như bị một nền công lý nội tại trả thù cho danh dự của một người đã từng bị dân chúng chà đạp một cách bạc bẽo, quốc gia Hoa Kỳ lúc bị ngất ngư vì suy thoái kinh tế, một sự suy thoái mà không một nước Tây Phương nào tranh khỏi , mới bắt đầu biết được hương vị chua chát của môt sự tỉnh mộng !
Bây giờ chúng ta chứng kiến được gì đây ? Một sự hoảng loạn của một Tổng trưởng Ngoại Giao mà từ Quốc Hội đến báo chí người ta không ngần ngại bắt ông phải từ chức.
Con người siêu nhân hoạt bát đeo kính to, từng là một tiến sĩ có phép mầu khi xưa, nay gần giống như một nhà ảo thuật mệt mỏi đang làm cho khán giả chán ngấy, vì không diễn được trò nào cho ra hồn. Trên sân khấu buồn tẻ của một ông Gerald Ford đầy thiện ý nhưng không một ai muốn nghe lời cảnh cáo của mình, vì thiếu quyền lực và không có uy tín, ông đã tỏ ra hoàn toàn không có khả năng để áp đặt quan điểm của mình cho các đồng viện trong Lập Pháp.
Mặt khác, người ta sẽ nghĩ gì về Quốc Hội Hoa Kỳ nơi đó những phần tử (tự do) đã cất cao giọng từ sau các cuộc bầu cử hồi tháng 11 (hậu quả khác của vụ tai tiếng Watergate) khi Quốc Hội đó đã tự cho phép mình đi nghỉ hè mà không cần nói một chữ nào về sự viện trợ bổ túc mà Hành Pháp đã xin cho hai quốc gia đồng minh đang trong cơn hấp hối là Miền Nam Việt Nam và Cam pu Chia ?
Còn ở điện Capitol, người ta lại tỏ ra hết súc hấp tấp để tìm chuyện gây gổ xấu xa giữa cơ quan tình báo trung ương CIA và cơ quan điều tra liên bang FBI về những tài liệu có khi cũ xưa từ 15 năm trước, còn hơn là bận tâm đến những nổi khổ đau bất hạnh của các nước ở Đông Dương đang kêu cứu một cách vô vọng !
Vả lại tại sao họ phải lo lắng ? Miền Nam Việt Nam có mất đi chăng nữa thì cũng chẳng có gì đe dọa tới nền an ninh của Hoa Kỳ . Sai Gòn và Hoa Thạnh Đốn cách nhau đến 17.000 cây số !
Chỉ có người Miền Nam Việt Nam và chỉ có họ thôi , mới có thể khôi phục được tình hình. Bởi vì không còn có vấn đề tái can thiệp của lực lượng quân sự Hoa Kỳ vào Việt Nam nữa . Nhưng có một điều quan trọng mà Quốc Hội Hoa Kỳ từ chối không chấp nhận, đó là nhiên liệu và đạn dược cần thiết phải được cung cấp cho quân đội Miền Nam trước khi đã quá trễ.
Như vậy, nếu chiến trận tiến tới và bắt đầu có giao tranh trước khi hàng tiếp liệu được bảo đảm đến nơi, thì không những quân đội Sai Gòn sẽ thất trận, nhưng họ đã thất trận vì Hoa Kỳ đã phản bội họ. Và bài học duy nhất được rút ra từ chiến tranh Việt Nam sẽ là: "Đừng bao giờ tin tưởng vào Hoa Kỳ như là một đồng minh của mình !"

VIỆT NAM, CON DÂN CÓ TỘI TÌNH GÌ? (2)-Hồi Ký- Pierre Darcourt


VIỆT NAM, CON DÂN CÓ TỘI TÌNH GÌ? (3)-Hồi Ký- Pierre Darcourt


* *
*

.


No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...