ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU
Ở nước ta, từ hai mươi, ba mươi năm nay, có hai cuốn hồi kí mà người ta tin rằng tác giả đã viết xong, nhưng chưa biết bao giờ mới được công bố. Người dân thường và các nhà sử học thì mong mỏi sớm được đọc toàn văn hai chứng từ lịch sử. Nhà cầm quyền, hay đúng hơn, công cụ chuyên chính của chính quyền, thì ra sức theo dõi việc biên soạn, lùng tìm những người đánh máy, tàng trữ, với hi vọng thu hồi được bản thảo, để hoặc thủ tiêu, cấm đoán xuất bản, hoặc cắt xén, thay đổi (dịch nôm hai tiếng “biên tập” -- (tiếng) nước ta nó thế) trước khi cho xuất bản.
Tình cờ hay không, tác giả hai tập hồi kí huyền thoại ấy, hai cá tính rất khác nhau, lại có những điểm tương đồng kì lạ. Họ đều là những nhân vật lịch sử, đã góp phần làm nên lịch sử Việt Nam thế kỉ XX. Do số phận trắc trở, sinh thời họ đã trở thành những nhân vật huyền thoại, trong tưởng tượng của những người hâm mộ hay tò mò, thù ghét hay quý mến. Cả hai đều ra đời trên đất nước Việt Nam đau thương, người tháng trước, kẻ tháng sau, vào cùng năm 1911, cách đây gần đúng một trăm năm. Mỗi người một cách, cả hai đã làm nên lịch sử. Lại đã từng dạy sử (một người dạy sử trước khi làm nên lịch sử, một người ngược lại), hơn nữa, cả hai, về cuối đời, đều trở thành chủ tịch danh dự của Hội khoa học lịch sử Việt Nam. Thêm một trùng hợp nữa, cách đây tám thập niên, ở xa nhau vạn dặm, họ đều viết về “ vấn đề dân cày ” ngày nay vẫn còn nóng bỏng, vấn đề của những vấn đề Việt Nam thế kỉ XX. Nhưng nếu có một lí do quan trọng hơn mọi lí do khiến mọi người mong muốn tìm đọc hồi kí của họ, thì đó là: tên tuổi đã đi vào lịch sử, quyền bính có lúc ở tột đỉnh, nhưng họ đã trải qua những oan khuất kì bí vì họ không được lên tiếng giãi bày, còn người gây ra oan khuất lại nắm giữ quyền cao chức trọng, chỉ nhỏ giọt những lời lên án, vu khống họ bằng lời rỉ tai, xì xầm (cùng lắm thì “phổ biến miệng trong họp tổ”).
Hai nhân vật ấy, không nói, nhiều người cũng đoán ra: Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu.
Từ đầu năm 2010, bước sang tuổi bách niên, hai ông đã phải nằm bệnh viện. Lễ mừng thọ (truyền hình) của họ diễn ra trên giường trắng, trong tháng 8 và tháng 9. Ông Trần Văn Giàu vừa từ trần ngày 16.12.2010.
Đêm hôm ấy, viết đôi dòng về cuộc đời giáo sư họ Trần, tôi ước mong sớm được đọc trên mạng tập hồi kí của ông trong một văn bản toàn vẹn, không bị cắt đục, vo tròn hay bóp méo. Bài viết đưa lên mạng Diễn Đàn, anh Trần Hữu Dũng đưa tiếp lên trang Viet-Studies và gửi thư hỏi tôi: Chưa có bản hồi kí sao? Hóa ra anh cũng đã nhận được một bản “số hóa” mà Trần Văn Giàu nói tới trong Lời nói đầu (dưới đây). Không phải là bản điện tử, nên chúng tôi phải tổ chức đánh máy lại. Tác giả chưa rà lại bản in này, mà sự việc kể lại trong đó lại xảy ra cách đây hơn 60 năm, nhân vật nhiều khi được gọi bằng bí danh, nên nhất thiết phải sửa lỗi chính tả và lỗi đánh máy, thêm chú thích và nếu cần, chú giải (việc này đòi hỏi nhiều công phu, mà những hiểu biết của chúng tôi không đủ). May thay, ý muốn được đọc một văn bản hoàn chỉnh không phải chỉ chúng tôi mới có. Anh Trần Hữu Dũng vừa “hô” trên mạng, đã có ngay năm bảy bạn đọc, người ở trong nước, người ở đôi bờ Đại Tây Dương, sốt sắng hưởng ứng.
Nhờ vậy, ban biên tập Viet-Studies và ban biên tập Diễn Đàn vinh dự công bố Hồi kí Trần Văn Giàu.
Chúng tôi bắt đầu, kỳ này, bằng Lời nói đầu của tác giả (viết năm 1995), và chương Câu chuyện mười năm kết thúc (trong phần V, tức là phần cuối cùng, của Hồi kí).
Trong những tuần tới, chúng tôi sẽ lần lượt công bố theo thứ tự toàn văn tác phẩm. Đương nhiên, bản điện tử này sẽ tôn trọng nguyên tác, chỉ sửa những lỗi đánh máy và lỗi chính tả; trong phạm vi cho phép, sẽ thêm chú thích và chú giải cần thiết. Tất cả các bình chú ấy là của những người biên tập (trừ trường hợp của tác giả thì chúng tôi sẽ chua rõ). Vì đây là một chứng từ lịch sử, tuy biết bạn đọc nóng lòng, chúng tôi sẽ cố gắng làm nhanh nhưng không vội, theo đúng tiêu chí nói trên. Tuy nhiên, công việc này không khỏi có sai sót, rất mong nhận được sự chỉ dẫn của bạn đọc. Bản đã lên mạng rồi, chúng tôi vẫn tiếp tục hoàn chỉnh và cập nhật, những thay đổi (nếu có) về nội dung sẽ được ghi rõ ngày tháng để tiện việc tra cứu. Đây cũng là dịp để tập hợp những hình ảnh liên quan tới tác giả và những nhân vật nói tới trong hồi kí (trong chừng mực có thể, sẽ ghi rõ nguồn gốc).
Thay mặt hai ban biên tập, chúng tôi xin thành thực cảm ơn tất cả các bạn xa gần đã góp phần vào việc chuyển giao bản thảo, đánh máy, chỉ dẫn... để tập Hồi kí Trần Văn Giàu này đến tay bạn đọc năm châu.
Nguyễn Ngọc Giao
19.12.2010
Hồi ký Trần Văn Giàu
Biên tập và chú thích:
Nguyễn Ngọc Giao và bạn hữu
MỤC LỤC
Phần thứ nhất: TỪ NGỒI TÙ KHÁM LỚN ĐẾN VƯỢT NGỤC TÀ LÀI ...................... 7
1. “Biệt thự S” khám nhỏ trong Khám Lớn ................................................................... 8,
2. Cực độ băn khoăn ..................................................................................................... 15
3. Chưa vui sum họp ..................................................................................................... 17
4. Đã sầu chia ly............................................................................................................ 23
5. Căng Tà Lài: “Trại lao động đặc biệt”...................................................................... 24
Đường lên trại giam .................................................................................................. 24
“Cầu thủ dự bị”......................................................................................................... 29
Chuẩn bị khởi nghĩa.................................................................................................. 32
Thi lội...................................................................................................................... 35
Xỏ vàm trâu cổ.......................................................................................................... 36
Không để bị khiêu khích ........................................................................................... 39
Vượt ngục ................................................................................................................. 42
Phần thứ hai: ĐÀ LẠT, PHÚ LẠC, U MINH ................................................................. 48
1. Lên Đà Lạt ............................................................................................................... 48
2. Về Phú Lạc............................................................................................................... 52
3. Đi Xảo Bần, U Minh................................................................................................. 63
Phần thứ ba: TỔ CHỨC LẠI XỨ UỶ............................................................................. 68
1. Xác định đường lối cách mạng ................................................................................. 71
2. Vấn đề “ cổ hai tròng” ách của hai đế quốc Pháp và Nhật ................................ 78
3. Vấn đề tập hợp lực lượng.......................................................................................... 82
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
3
4. Vấn đề tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền .......................................................... 84
5. Về nhà thăm mẹ ........................................................................................................ 88
6. Về lại Sài Gòn: Chỉ thị của Xứ ủy cho Ban cán sự thành......................................... 94
7. Đấu tranh chống “Huyền thoại Đông Dương”(mythe de l’Indochine) của Pháp và
chống “Chủ nghĩa Đại Đông Á”của Nhật.................................................................. 104
8. Chống chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới ................................................................. 106
9. Chống chủ nghĩa Đại Đông Á................................................................................. 109
Phần thứ tư: TIẾN TỚI TỔNG KHỞI NGHĨA ............................................................. 114
1. Tình hình chiến tranh thế giới biến chuyển thuận lợi cho công tác cách mạng của
chúng tôi..................................................................................................................115
2. Những bước đầu xây dựng lực lượng trước cuộc đảo chánh tháng 3 năm 1945 .... 121
1) Vận động thành lập Tổng Công đoàn................................................................. 121
2) Những bước đầu của phong trào thanh niên....................................................... 127
3. Chuẩn bị thành lập chiến khu Đất Cuốc và chiến khu Thủ Thừa .......................... 139
4. Bắt liên lạc với cánh Pháp De Gaulle ..................................................................... 143
5. Cuộc đảo chánh Nhật 9 tháng 3 năm 1945 ............................................................. 147
6. Lo việc thống nhất các tổ chức cộng sản ở Nam Kỳ và lo việc đặt lại liên lạc với
miền Bắc ............................................................................................................. 158
7. “Buồn ngủ gặp chiếu manh, hay là việc tổ chức Thanh niên Tiền phong ............. 180
8. Trí vận có hiệu quả cao, cao nhất trước nay ........................................................... 202
9. Binh vận thành công ............................................................................................... 214
10. Tuyệt đại đa số nông dân xung quanh Sài Gòn vẫn đứng dưới cờ Đảng Cộng sản
như trước nay ......................................................................................................... 218
11. Tìm súng đạn cho các đội xung phong của công nhân và thanh niên................... 220
12. Tương quan lực lượng ở Sài Gòn giữa tháng Tám ............................................... 225
Phần thứ năm: TỔNG KHỞI NGHĨA THÀNH CÔNG: KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP BẮT ĐẦU...................................................................................... 229
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
4
1. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc................................................................. 229
2. Uỷ ban khởi nghĩa được thành lập.......................................................................... 233
3. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ nhất (Tối 16 rạng ngày 17 tháng 8)............................. 238
4. Ta tập hợp lực lượng yêu nước. Sự phân hoá của các lực lượng chính trị thân Nhật ở
Sài Gòn sau khi Nhật đầu hàng. Sự thành lập nhanh chóng và sự tan vỡ cấp kỳ của
“Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất”............................................................................... 252
5. Việt Minh “ công khai”ra........................................................................................ 255
6. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ hai và lần thứ ba .......................................................... 258
7. Đêm 24 tháng 8 ở thành phố................................................................................... 261
8. Ngày 25 tháng 8 ...................................................................................................... 266
9. Quyết định cho tàu ghe cấp tốc đi rước tù chính trị Côn Đảo về............................ 278
10. “Cuộc đi rước tù chính trị Côn Đảo”của Lý Văn Chương................................... 281
11. Vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang. Vấn đề “ sư đoàn”bốn............................... 287
12. Ngày 2 tháng 9: Máu đồng bào bắt đầu chảy ở Sài Gòn ...................................... 295
13. Thực dân Anh, Pháp ngày càng lấn lướt............................................................... 305
(1) Anh thả lính Pháp lâu nay bị Nhật bắt giam ở Nam Kỳ.................................... 305
(2) Anh đòi giải tán dân quân, đòi ta nộp vũ khí .................................................... 306
(3) Anh chiếm trụ sở của Uỷ ban hành chánh Nam Bộ .......................................... 307
(4) Bọn thực dân Pháp treo cờ ở sân phủ toàn quyền và tập hợp hát Marseillaise dưới
cột cờ.................................................................................................................. 309
(5) Đòi lấy lại quyền quản lý cảng tàu biển, sở Ba Son và kho thuốc đạn
(Pyrotechnie)........................................................................................................... 310
(6) Thực dân Pháp âm thầm mà gấp rút tổ chức lại bộ máy cai trị Nam Kỳ .......... 311
(7) Tụi Pháp toan “ cóc”hay ám sát người phụ trách ........................................ 312bắt
14. Nội bộ nhân dân càng lúc càng có cơ chia rẽ........................................................ 313
(1) Biểu tình của nhóm Trốt-kýt tổ chức đòi “ trang quần chúng”võ..................... 313
(2) “Minh thệ”–một âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng ............................... 316
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
5
(3) Nổi loạn của Hoà Hảo ....................................................................................... 317
(4) Hoàng Quốc Việt chỉ thị giải tán Thanh niên Tiền phong ................................ 320
(5) Việt đổi đồng chí Mười Thinh, chủ tịch Hóc Môn làm chủ tịch Thủ Thừa...... 322
15. Pháp chiếm trung tâm Sài Gòn bằng vũ lực ......................................................... 323
(1) Được sự ủng hộ của thực dân Anh, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị dùng vũ lực
đánh chiếm Sài Gòn ................................................................................................ 323
(2) Ta gấp rút hơn nữa chuẩn bị đối phó với tình thế găng sắp nổ ......................... 327
(3) Một cái bẫy của thực dân .................................................................................. 329
(4) Pháp dùng vũ lực chiếm trung tâm Sài Gòn đêm 22 tháng 9............................ 331
(5) Hội nghị đường Cây Mai................................................................................... 331
16. Hai bản kêu gọi ..................................................................................................... 340
(1) Lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ .................................................. 340
(2) Tuyên cáo của Hoàng Quốc Việt dưới danh nghĩa Uỷ ban nhân dân Nam Bộ. 344
17. Chính phủ VNDCCH - Hồ Chủ tịch tán thành kháng chiến................................. 346
18. Câu chuyện mười năm kết thúc ............................................................................ 346
19. Chiến trường Sài Gòn lúc tôi ra đi ........................................................................ 350
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn GiàuLời nói đầu
Tôi viết tập “hồi ký” này từ cuối những năm 1970. Viết xong, tôi nhờ anh em ở Long An ̶ tỉnh nhà ̶ đánh máy; ý muốn viết hồi ký để con cháu xem chớ không phải để in ra thành sách, vì trong hồi ký có lắm chuyện “không lấy gì làm hay”, buồn nữa là khác. Nhưng vài ba anh em Long An, không xin phép tôi, tự ý đánh máy thêm mấy bản, chỉ giao lại cho tôi hai bản, họ giữ mấy bản tôi không biết, nhưng tôi được biết họ đã chuyền tay đọc khá rộng. Nhiều bạn bảo tôi cứ phát hành tập hồi ký này đi. Tôi không ưng. Có lý do.
Tôi thấy rằng không ít hồi ký đã được in ấn kể sự việc rất hay mà cũng chen vào một ít điều hoặc tác giả bịa hoặc lúc nghe kể đã thất thiệt. Viết hồi ký trước hết là viết những điều mình mắt thấy tai nghe và tự làm là chính, mà viết về mình thì dễ “chủ quan”: bớt cái dở thêm cái hay là điều khó tránh khỏi; tôi ngập ngừng khi định viết hồi ký là vì vậy. Nhưng có một số việc, nếu mình không kể lại thì không ai biết, không ai nhớ, không ai viết, không ai làm sáng tỏ cho mình bằng mình. Thành ra viết hồi ký vừa là đóng góp sử liệu vừa là yên ủi mình. Trong lịch sử dù là lịch sử của một khoảng đời ngắn ngủi, mình chỉ là một tiếng của ngàn trùng ngọn sóng trên biển sôi động: ghi lại một tiếng, thật ra có nghĩa lý gì lớn lắm đâu, có thêm bớt gì lắm đâu? Nhiều lắm thì làm cho một số người mất thì giờ đọc, hay mất tiền mua. “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”; tục ngữ thì như vậy. Song, da, dầu là da cọp, nhiều năm rồi sâu mọt đục cũng hết. Tiếng, trừ ra tiếng của một số ít vĩ nhân, làm sao mà còn mãi với thời gian? Năm trăm năm sau cách mạng tháng Tám, dân ta sẽ còn nhớ chỉ tên của một mình cụ Hồ, mình ông Giáp. Cho nên, viết hồi ký này, tôi chỉ mong cho cháu một đời sau mình biết được rằng ông nó đã gắng sức làm tròn trách nhiệm ở đời, đã sống có nhân cách. Thế là đủ.
Tôi chỉ viết hồi ký khoảng thời gian 1940-1945 vì đó là thời gian tôi sống có chất lượng hơn hết trong cuộc đời dài quá 80 năm, xấp xỉ 90 năm. Tôi viết “Lời nói đầu” này ngày 27 tháng 10 năm 1995, sau khi tôi đọc lại bản hồi ký lần thứ ba.
Trần Văn Giàu
Câu chuyện mười năm đã kết thúc
Việc gì rồi cũng phải có kết thúc, duy kết thúc hay dở, đúng sai là vấn đề khác. Một ngày, tôi nhớ đâu là đầu năm 1988, tốt trời, tôi được Lê Đức Thọ[1] mời dự buổi chiêu đãi ở T.78[2] với một số đồng chí. Tôi lấy làm lạ: là bởi vì, ở Hà Nội từ 1954 đến 1976, anh Thọ chưa hề đến nhà riêng tôi, chưa hề gọi tôi lên văn phòng hay nhà riêng của anh. Còn tôi thì tôi quen cái tánh “ mọi rợ ” là chưa bao giờ tự mình đến thăm bất cứ ai có chức, có quyền lớn hơn tôi – trừ trường hợp duy nhất là cụ Tôn Đức Thắng mà tôi thỉnh thoảng lên thăm, trước hết là vì anh Hai Thắng cứ vài ba tháng thì xuống thăm hai vợ chồng tôi một lần.
Bữa chiêu đãi hôm đó của anh Thọ, có mặt bốn người được mời: chị Năm Bi[3], Tào Tỵ[4], Tô Ký[5], và tôi – Trần Văn Giàu.
Ăn uống, trò chuyện thân mật. Không có riêng bàn về vấn đề gì cả.
Lúc buổi tiệc tàn, anh em sắp chia tay, thì tôi xin nói một tâm sự, nói với Thọ, giữa Bi, Tỵ, Ký:
“Tôi cảm ơn anh Sáu mời cơm với các bạn đều là quen thân từ lâu. Tôi có việc tâm sự cần nói với anh Sáu, có các anh chị nghe, nghe tôi và nghe anh Sáu sẽ nói sau. Các đồng chí cho phép tôi nói lối nói ở trong tù, tôi và Thọ cùng ở banh 1[6], khám 8; Côn Lôn những năm 1935/1936. Đồng ý chứ?
– Tao là Giàu, mày, ở khám 8, banh 1, là Khải, Phan Đình Khải[7]; hôm nay chúng ta nói chuyện thân mật như cách đây mấy mươi năm, khi còn ở ngoài Côn Lôn. (Tới đây, thì Thọ liền nói với các đồng chí khách kia: hồi ở khám, ở banh tụi mình gọi nhau bằng mày tao như vậy đó, không khi nào có thưa anh, thưa chú; hồi ở Côn Lôn chính Giàu dạy tôi học chủ nghĩa Mác-Lênin, chớ trước đó mình có học gì bao nhiêu đâu!).
Tôi nói với Thọ: “Chúng ta là những người quá 70 tuổi, xấp xỉ 80 rồi, sắp đi theo cụ Hồ rồi. Mấy mươi năm nay, tao chịu những cái hàm oan mà mày, Khải, mày biết hết, biết rõ trắng đen. Chúng ta đều muốn đi theo cụ Hồ một cách thanh thản. Vậy lần này, Thọ về Hà Nội hãy có quyết định rõ, bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương về tất cả những điều người ta vu cáo cho Giàu, được không? ”
Thọ hứa, hứa trước mặt chị Năm Bi, anh Tào Tỵ, chú Ba Tô Ký.
Chủ khách chia tay nhau trong vui vẻ, thân ái nữa.
Một tháng sau, ủy viên thường vụ Thành ủy là Bảy Dự[8] đến nhà tôi, đem cho tôi một bức thơ, mở ra, thấy cái quyết nghị của Ban Tổ chức Trung ương mà tôi chờ đợi mấy chục năm nay. Người ký tên không phải là Lê Đức Thọ mà là Nguyễn Đức Tâm, đương chức bí thư phụ trách tổ chức như Thọ trước đây. Tôi đọc lên cho Dự nghe. Vả lại bức thư không niêm, chỉ chuyển tải quyết nghị. Chắc ở Trung ương có bản lưu: bốn việc tố cáo, vu cáo, quyết nghị này cho là không căn cứ ; còn một vụ là Deschamps 1935 thì quyết nghị nói rằng tôi, Giàu, có chịu trách nhiệm.
Tôi tuyên bố ngay với Bảy Dự rằng tôi không bằng lòng và tôi sẽ cãi. Dự bảo với tôi rằng, như thế này thì tốt lắm rồi, cãi làm gì nữa. Tôi nói lại rằng tôi sẽ nhờ Thành ủy gởi cho Ban Tổ chức một bức thơ để tỏ rõ lại mọi việc. Tôi đã viết và gởi bức thơ đó, trong ấy không có gì lạ hơn là hai bức thơ trả lời cho tôi của đồng chí Nguyễn Văn Trân (Prigorny)[9] và đồng chí trưởng ban Lịch sử Đảng thành phố – đã chép lại bên trên và đã photocopy. (Xin xem Phụ lục dưới đây).
Một tháng sau nữa, tôi được giấy của Ban Tổ chức Trung ương cho đi Liên Xô nghỉ hè ở Sotchi (Hắc Hải).
Tôi gởi lại cho Ban Tổ chức cái giấy mời ấy với lời cảm ơn thành thật và lời cắt nghĩa vì sao tôi không đi nghỉ mát ở Hắc Hải, dù ý thì rất muốn (mấy chục năm nay tôi chưa được cho đi nghỉ mát ở Liên Xô lần nào). Tôi trình bày lý do là: Từ năm 1930, tôi để vợ trẻ[10] của tôi ở nhà một mình, đi mãi, đi miệt, đi làm “cách mạng chuyên nghiệp”. Từ 1930 đó cho đến sau Genève, tôi chỉ được về nhà hai lần, một lần hơn tháng, một lần 9 ngày; hoạt động bí mật, ở tù, có vợ mà bỏ vợ ở nhà mãi; tôi kháng chiến ở Bắc, vợ kháng chiến ở Nam, hai đứa không ở gần nhau như vậy là gần một phần tư thế kỷ, hết tuổi trẻ. Nay, hoà bình lập lại, tôi không đi nghỉ hè đâu xa mà không có vợ tôi cùng đi. Vậy xin gởi lại giấy mời với lời cảm ơn thành thật chớ không phải là chút hờn mát nào, xin các đồng chí ở tổ chức biết cho.
Không tới một tuần sau, Ban Tổ chức Trung ương gởi vào giấy cho vợ tôi cùng đi nghỉ mát hơn một tháng ở Hắc Hải, viếng Moscou, Lêningrad. Đó là vào năm 1988 thì phải, tôi nhớ không rõ. Kiểm lại, tôi thấy trong hơn ba, bốn mươi năm bị hàm oan, tôi không hề rời công tác, việc gì giao cho dầu nhỏ tôi cũng làm tròn, không giao việc gì thì tôi viết sách, viết báo, dạy học và tôi đã đạt những thành tựu tôi mong muốn, giữ vững tư cách đảng viên, giữa vững nhân cách Việt Nam.
Phụ Lục:
Thư của Trần Văn Giàu gởi Ban Tổ chức Thành ủy và Ban Tổ chức Trung ương
Kính gửi: Ban Tổ chức Thành ủy
Đồng kính gửi: Ban Tổ chức Trung ương
Ngày 13 tháng 5 năm 1988, đồng chí Bảy Dự trao cho tôi, tại 70 Phạm Ngọc Thạch, bản “Kết luận một số vấn đề tồn tại về lịch sử đồng chí Trần Văn Giàu” (số 182 – CV/TW) do đồng chí Nguyễn Đức Tâm ký.
Thế là “chung thẩm” rồi! Song tôi thấy cần nói vài lời:
1) Rất buồn là việc đã xảy ra từ 1945 đến 1988 mới có kết luận. Kết luận mà không có tranh biện giữa bên tiên cáo và bên bị cáo. Dù sao, vẫn có kết luận và tôi xin thành thật cảm ơn các đồng chí đã quan tâm đến việc của tôi trong lúc trăm công ngàn việc bối rối, đã kết luận căn cứ vào một phần lớn sự thật khách quan, và đã giải quyết phần lớn các vấn đề làm cho tôi đỡ tủi phận.
2) Về vụ vượt ngục Tà Lài. Bản kết luận viết: “Chưa có chứng cớ gì là Pháp tổ chức cho đồng chí Giàu vượt ngục”. Đáng lẽ phải nói: “Không có chứng cớ gì… ” ; việc đã xảy ra từ 1941, đợi tới bao giờ mới có bằng cớ mà nay hãy còn nói là chưa? Không phải một mình tôi vượt ngục, có cả Tô Ký, Năm Đông[11] v.v.… họ còn sống, có Tào Tỵ biết rõ mọi việc. Đáng lẽ phải hỏi tội vu cáo của kẻ nào cố ý bày chuyện hại người ngay trong lúc làm khởi nghĩa tháng Tám, có hậu quả ghê gớm hơn 40 năm trường. Hỏi tội cho biết vậy thôi, chớ cũng sống chết cả rồi, còn hơn thua làm chi.
3) Về vụ Deschamps[12]: “Việc khai nhận (của đồng chí Giàu) gây tổn thất cho phong trào cách mạng Nam Bộ và gây tổn thất cho đường giao liên quốc tế”. Đúng là tôi không được anh hùng như Trần Phú: Trần Phú không hở môi. Tôi có hở môi, nhận một số việc đã rồi, nghĩa là có trách nhiệm trong sự tổn thất. Song, Nguyễn Văn Trân (Prigorny) còn sống, làm chứng rằng người khai ra Deschamps không phải là tôi, không một ai bị bắt vì tôi khai, cả chỗ ở tôi, ở Phú Lạc (xóm của Trân – tôi ở hai kỳ, rất lâu) không ai thấy Giàu dắt Tây về bắt người tra khảo. Nay tôi về đó, bà con vẫn còn quý mến như xưa. Mà người khai Deschamps cũng không phải là người phát giác. Kẻ phát giác là thợ Sáu, chồng giả của chị Mười Tốt, chánh hiệu mật thám, mà một đồng chí trong Xứ ủy đưa vào Thành ủy phụ trách liên lạc quốc tế! Tay này không bị bắt trong cuộc lại còn đi thăm anh em, rồi sau đó đã có lần toan đánh lừa chị Bảy Huệ[13] nữa, may chị Huệ sanh nghi nên thoát khỏi. Ta bị địch vào cấp ủy. Mà ta cứ đổ cho nhau, đáng tiếc thay! (chánh thằng thợ Sáu đó đón tôi ở Hồng Kông về, gởi ở nhà một sốp-phơ, hai ngày sau, tôi bị bắt, cả sốp-phơ kia và Sáu an toàn). Tôi làm việc liên lạc quốc tế từ 1933 đến cuối 1934, với Ba Nhâm (thành ủy viên thời Minh Khai). Nhâm[14] nay còn sống, gần 80 tuổi. An toàn tuyệt đối. Tôi đã giao việc cho anh khác từ tháng 12/1934.
4) Điểm 5 của Kết luận nói tôi làm sai đường lối Trung ương. Sai với đường lối, thì sai thật. Nhưng mà tôi có biết đường lối của Trung ương là thế nào đâu? Trung ương có gửi ai vào trực tiếp với tôi đâu?
Chú thích (của biên tập viên)
[1] Lúc này, hơn một năm sau Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, ông Lê Đức Thọ không còn ở trong Bộ chính trị Trung ương nữa. Trong những ngày trước Đại hội, ông đã lèo lái mọi cách để ông Trường Chinh không ở lại tiếp tục làm tổng bí thư, tạo thêm đà cho cuộc đổi mới (ông Phạm Văn Đồng bị lung lạc, đã dùng nước mắt để thuyết phục ông Trường Chinh, nhân danh sự “đoàn kết nội bộ”). Ba người rút ra làm cố vấn Ban chấp hành Trung ương khóa VI. Với thế lực của bộ máy tổ chức, an ninh, đối ngoại, quân đội, Lê Đức Thọ tiếp tục nắm giữ nhiều quyền hạn, cho đến ngày ông mất (tháng 10.1990).
[2] Khu trụ sở các ban trung ương của ĐCSVN ở thành phố Hồ Chí Minh (phường 7, quận 3) tiếp giáp các đường Trần Quốc Thảo và Lý Chính Thắng. T.78 là tên gọi của Cục quản trị, phụ trách các cơ ngơi của ĐCSVN. Nhà ở “phía nam” của các ủy viên Bộ chính trị nằm ở đây.
[3] Tức là bà Hồ Thị Bi (Hồ Thị Hoa). Thành lập và chỉ huy “Chi đội 12” (tiền thân của Trung đoàn 312) đã lập nên những chiến công hiển hách từ cuối năm 1945 ở vùng Hóc Môn. Lúc này bà mới tập đọc, tập viết, ký tên BI trông như ba con số 131, nên quân đội Pháp ở vùng này gọi bà là “Madame 131”. Có thể đọc thêm Nguyên Hùng: Nam Bộ - Những nhân vật một thời vang bóng.
[4] Nhà cách mạng lão thành, hoạt động cách mạng từ những năm 1930 ở Bạc Liêu. Làm nghề họa đồ, nên còn có tên là “Họa đồ Lý”. Có thể đọc tiểu truyện của ông trong Tuyển Tập Nguyên Hùng: Tà Lài tụ nghĩa (Hồi thứ nhất: Vì Việc Nghĩa Tào Tỵ Thọ Nạn Tới Gia Định Gặp Bạn Công Trung).
[5] Thiếu tướng Tô Ký sinh năm 1922 (Wikipédia viết 1919), tại làng Bình Lý, Hóc Môn (nay là xã anh hùng Bình Mỹ, huyện Củ Chi). Ông tham gia cách mạng từ năm 12 tuổi, năm 17 tuổi bị bắt giải đi căng Tà Lài (1940). Đầu năm 1942, ông cùng 7 đồng chí vượt ngục và bị bắt giải lên Bà Rá cho tới ngày Nhật đảo chính Pháp tháng 3,1945. Ông là một trong những người lập Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, sau là Chi đội 12. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được thăng thiếu tướng, Chính ủy quân khu. Ông mất mùng 2 Tết năm Kỷ Mão (1999). Theo Nguyên Hùng: Nam Bộ - Những nhân vật một thời vang bóng (“TIỂU TƯỚNG” TÔ KÝ CHINH PHỤC “NGƯU MA VƯƠNG”)
[6] Banh (từ tiếng Pháp bagne): trại giam. Ở Côn Đảo, có nhiều banh, mỗi banh gồm nhiều khám. Thời Pháp, có 4 banh: banh 1 (trại Phú Hải), banh 2 (trại Phú Sơn), banh 3 (trại Phú Thọ), banh 3 phụ (trại Phú Tường), Chuồng Cọp, Chuồng Bò. Thời Mỹ, thêm trại 5 (Phú Phong), trại 6 (Phú An), trại 7 (Phú Bình, còn gọi là Chuồng Cọp Mĩ, phân biệt với Chuồng Cọp Pháp), trại 8 (Phú Hưng). Tổng cộng 127 phòng giam, 42 xà lim, 504 phòng biệt lập Chuồng Cọp. Các tên “Phú…” được đặt ra dưới thời Nguyễn Văn Thiệu sau Hiệp định Paris, khi quần đảo Côn Sơn được gọi tên là Phú Hải.
[7] Phan Đình Khải là tên thật của ông Lê Đức Thọ. Cả hai đều sinh năm 1911: Trần Văn Giàu ngày 6 tháng 9, Lê Đức Thọ ngày 14 tháng 10.
[8] Bảy Dự: bí danh của Nguyễn Võ Danh, từng giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP HCM, Phó bí thư Thành ủy Đảng bộ TP HCM của ĐCSVN.
[9] Tức Bảy Trân (đừng nhầm với Nguyễn Văn Trấn “ông già Chợ Đệm”), sinh năm 1908, sang Pháp (Marseille) năm 15 tuổi. 19 tuổi, sang Liên Xô học trường Stalin (1927-1930), cùng khóa Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai, Trần Đình Long, Bùi Ái. Bí mật về nước năm 1930. Một trong những đảng viên cộng sản hiếm hoi đã tranh thủ được cảm tình và sự ủng hộ của đạo Cao Đài và hàng ngũ Bình Xuyên. Cũng đã từng làm liên lạc giữa Bí thư Xứ ủy Trần Văn Giàu với những trí thức yêu nước như Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Thiều... Xem thêm: Nguyễn Văn Trân, người cảm hóa giang hồ Bình Xuyên trong Nguyên Hùng (sách đã dẫn).
[10] Bà Đỗ Thị Đạo. Khi Trần Văn Giàu bị trục xuất từ Pháp về (19 tuổi, năm 1930), cha mẹ ông buộc phải cưới vợ “cho tròn chữ hiếu”. Cuốn hổi ký này, ông đề “tặng vợ tôi, bà Đỗ Thị Đạo, người vợ trung thành, người đàn bà theo đúng truyền thống Việt Nam và truyền thống gia đình”.
[11] Năm Đông: tức Dương Quang Đông, tức Dương Văn Phúc (1902-2003). Ông Năm Đông là nhà cách mạng lão thành đã tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí hội của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sớm hoạt động trong Công hội Đỏ của cụ Tôn Đức Thắng. Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kì. Trong thời kháng Pháp, ông là Phó phòng Hàng hải Nam Bộ, phụ trách văn phòng thường trực của ta ở thủ đô Xiêm quốc, Bangkok. Ông đóng vai doanh thương có cửa hàng xuất nhập cảng lớn tại thủ đô Bangkok, mua sắm tàu biển chở súng đạn, hóa chất, máy móc về nước đánh Tây. Trong cuộc sống đầy gian nguy giữa hàng ngũ mật vụ Pháp bố trí dày đặc ở Xiêm, dưới cái tên Xiêm là Nai Chran ông vẫn bình tĩnh làm tròn sứ mạng của mình cho tới ngày bị phe đảo chính bắt. Xem tiểu sử đầy đủ trong cuốn Dương Quang Đông xuyên Tây của Nguyên Hùng (sách đã dẫn). Những năm cuối đời, tuy tuổi cao, ông vẫn lên tiếng chống tiêu cực và sự lưu manh hóa hàng ngũ đảng (như tố cáo sự gian trá của tướng Lê Đức Anh).
[12] Deschamps là đảng viên Đảng cộng sản Pháp, làm thuyền trưởng. Trong cương vị này, ông làm giao liên giữa hai đảng, và cung cấp sách báo tài liệu cho ĐCSVN. Deschamps bị bắt năm 1935 cùng với Trần Văn Giàu. Các nhân chứng ông Giàu kể trong thư này, và nhiều người khác đều cho biết ai là người tố giác và khai báo về Deschamps và Trần Văn Giàu (xem Nguyên Hùng, sách đã dẫn).
[13] Bảy Huệ tức Ngô Thị Huệ hoạt động cách mạng từ những năm 1930, hai lần tù. Bà kết hôn với ông (Mười Cúc) Nguyễn Văn Linh (tổng bí thư tương lai) năm 1948. Hai người gặp nhau lần đầu trước đó ba năm, khi Bảy Huệ thay mặt Tỉnh ủy Sóc Trăng ra đón đoàn tù trở về từ Côn Đảo.
[14] Ba Nhâm tức Trương Văn Nhâm hay Trương Quang Nhâm. Từng làm Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh. Một trong tám người vượt ngục Tà Lài (đợt 2) năm 1942, cùng với Trần Văn Giàu, Dương Văn Phúc (tức Dương Quang Đông), Châu Văn Giác, Trần Văn Kiết (Kiệt), Nguyễn Công Trung, Nguyễn Hoàng Sính (Đức), Tô Ký.
Phần thứ hai
ĐÀ LẠT, PHÚ LẠC, U MINH
Suốt đêm đầu tiên vượt ngục, chúng tôi thay phiên nhau bơi chiếc ghe lườn (xuồng lớn làm bằng cả một thân cây bị khoét ruột banh bìa), chúng tôi khiêng qua mấy cái thác; đến gần sáng, ước chừng đã xa trại giam ít nhất cũng mười lăm cây số đường chim bay, chúng tôi kiếm chỗ nước sâu để nhận chìm ghe; rồi, hành lý trên vai, anh em đi tìm nơi ẩn nấp sao cho có thể quan sát được xung quanh mà người khác thì khó trông thấy mình; đường đi không để dấu chân, không gãy cành khô, không bẻ cành non, không rơi vãi một chút giấy lộn; nơi ẩn đó phải có nước uống; tránh mưa không phải là vấn đề quan trọng, độ này là mùa nắng, điều quan trọng là phải xa xóm làng mà không xa đường 20. Chúng tôi ăn cơm khô, khỏi phải nấu cơm, khỏi sợ lộ vì khói. Nếu rủi bị dân làng trông thấy, thì họ cũng chỉ trông thấy vài người thôi; tụi tôi chia ra từng nhóm nhỏ vài người, nếu gặp rủi ro không bị tóm cả lũ. Chúng tôi có thừa thời giờ để bàn mọi kế hoạch hành động, trước tiên là kế hoạch an toàn về các tỉnh đồng bằng.
Mấy ngọn núi chúng tôi ẩn náu chắc là thuộc vùng Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, không xa ranh giới Biên Hoà là mấy. Từ đó ra đường 20 chỉ một khoảng không xa; có thể về Sài Gòn, lên Đà Lạt, qua Phan Thiết, xuống Bà Rịa, rồi từ Bà Rịa qua Cần Thơ đến Chợ Lớn, Gò Công, rộng đường lắm. Nhóm của Nhâm về Sài Gòn, có cách lấy ôtô rước nhóm của Phúc. Nhóm của tôi ngược lên Đà Lạt, tính rằng từ Đà Lạt có thể về Nam Kỳ bằng ôtô, bằng xe lửa, bằng ghe bầu, thuyền đánh cá, vòng vo tam quốc một chút, chẳng sao, miễn là an toàn.
Lên Đà Lạt
Tôi cho rằng, bởi vì từ 1930 đến 1935 tôi hoạt động ở Sài Gòn và Nam Kỳ lục tỉnh, chưa hề hoạt động ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, và hoạt động toàn trong bí mật, nên quen biết không rộng; nhưng bởi vì tôi đã ở tù mấy lượt, đã dạy chính trị cho mấy trăm cán bộ và hội viên, nên tôi vẫn có thể bị nhận diện nơi này nơi khác. Địch truy tìm tôi thì chắc chủ yếu truy tìm ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ. Vì vậy, tôi không về ngay Sài Gòn và lục tỉnh, mà đi ngược lên Đà Lạt, nhằm tìm nơi ẩn náu an toàn một thời gian bao lâu chưa định trước. Tôi chưa hề đi Đà Lạt, ở nơi “đất khách quê người” đó ít có khả năng tôi bị phát hiện dù là tình cờ; càng ít khả năng bị phát hiện nếu tôi không lui tới những nơi tụ họp của các tầng lớp trung lưu trong xã hội và nếu tôi thường ngày sinh sống trong các tầng lớp nhân dân lao động như trồng rau quả, làm thợ hồ, làm công nhân bắn đá, chở đá. Mật thám nào lại đi tìm ông Giàu ở những chỗ lam lũ cơ hàn đó? Trong lúc số đông đồng chí được tổ chức rước về Sài Gòn, lục tỉnh, thì tôi đi bộ và theo xe chở hàng ngược đường 20. Nhóm tôi gồm có Tô Ký, Châu Văn Giác và tôi. Lên Đà Lạt thì tiền mấy đồng chí còn lại chia ba, ba người mỗi người một nẻo, cốt tìm chỗ ở, chỗ làm, hẹn gặp nhau sau. Lạ nước lạ cái, Tô Ký bị bắt ngay, may quá, Tô Ký không khai là tôi ở đâu đó tại Đà Lạt, nếu chú ấy phản thì tôi khó bề thoát. Giác có bà con ở Đà Lạt sớm nhờ xe về lục tỉnh. Còn tôi thì lo chỗ làm, chỗ ở. Chỉ vài hôm sau khi lên tới Đà Lạt, tôi đi làm ở một hầm bắn đá, rồi từ đó tôi chuyển sang ngành thợ xây nhà, xây cống, suốt ngày ở trên sườn núi, ven rừng, dưới hố, tới chiều tối về ở đậu với thợ cả tại xóm Suối Cát, một xóm công giáo bên cạnh nhà thờ, hoặc tại ấp Hà Đông, hơi xa chợ một chút. Trong túi tôi ban đầu chỉ có mấy đồng bạc, nhưng dần dà tiền công ngày của tôi lên tới một đồng tư, khổ một tí mà sống được. Khổ một tí nhưng tương đối an toàn. Hồi 1929, 1930, cán bộ đi “vô sản hoá” có ai kêu khổ đâu? Ngày tháng trôi qua chậm chạp, không hoạt động chính trị thì ngày tháng trôi qua mau sao được? Trong khoảng không đầy nửa năm ở Đà Lạt, ba chuyện tình cờ xảy ra với tôi, đáng nhớ nhất.
Đó là gặp chú Năm Luông, một cán bộ cũ.
Việc thứ hai: nằm bệnh viện Đà Lạt.
Việc thứ ba: bị kiến trúc sư Phan Hiếu Kinh “phát hiện”.
Làm việc xây nhà trên sườn núi cho hãng SIDEC và cho hãng Võ Đình Dung, từ hừng sáng đến chiều sẩm tối mới về nhà của bạn để yên giấc, ít khi đi qua chợ Đà Lạt, tôi tưởng chừng đâu là, như thế, tôi tránh mọi khả năng gặp người quen. Nào dè, một hôm, tạt qua nơi buôn bán rau quả, tôi bị một người đi bộ lẽo đẽo sau lưng, quẹo đến mấy cái ngã ba vẫn thấy người ấy theo. Người ấy mặc đồ Tây tử tế. Chết rồi! Có lính kín theo! Tôi nhanh chân đi về hướng suối Cam Ly ít người, tính trong bụng rằng nếu người ấy cứ theo mãi thì tôi sẽ “demi tour” quay lại để hỏi thăm y vài câu, nếu có triệu chứng là lính kín thì tôi giở võ ra điểm huyệt cho nó nằm bên đường vắng đặng tôi có thời giờ tẩu thoát. Nếu không phải là lính kín thì nó là ai? Té ra là một đồng chí rất quen thuộc đã hoạt động với tôi những năm 1933, 1934 và đầu 1935, khi từng thời gian tôi đặt căn cứ ở vùng Phú Lạc, ngoại ô Chợ Lớn: chú Năm Luông, anh em cô cậu với đồng chí Bảy Trân; bây giờ Năm Luông là chủ một tiệm cầm đồ ở thị xã Đà Lạt.
– Anh Ba đi đâu đó? Làm gì trên Đà Lạt này? Vượt ngục được rồi, sao không giấu mình ở U Minh hay Đồng Tháp Mười mà lên chỗ nghỉ mát của nhà giàu? Năm Luông mừng, hỏi.
– Chú Năm đó à. Sao đi theo cả mười phút làm tôi phát lo rằng mình đã bị lộ.
Hết hồn, hết vía, bình tĩnh lại; ngó trước trông sau, hai anh em hỏi thăm nhau đủ chuyện. Chuyện tôi hỏi trước hết là tình hình ở Phú Lạc mà, trong kế hoạch, tôi sẽ phải đi qua hoặc ở lại ít hôm khi trở về Sài Gòn, lục tỉnh. Cái rủi hoá cái may. Tôi dặn dò Luông nếu muốn hoạt động thì phải làm như vầy… như vầy… Còn Luông thì thọc vào túi tôi mười mấy con công[1] để tôi phòng bất trắc. (Về sau Năm Luông thuộc ban cán sự của tỉnh Lâm Đồng và hy sinh ở chiến trường).
Sự việc thứ hai là: mấy tuần làm việc và nghỉ trưa, có khi ngủ đêm trên sườn núi, đem lại cho tôi một cái bệnh hiểm nghèo: bệnh thương hàn. Sốt rét. Tiểu máu. Chủ nhà tôi ở đưa tôi đi bệnh viện. Đi bệnh viện là một mối nguy mặc dầu tôi có giấy thuế thân (giả). Không đi bệnh viện thì Diêm vương sẽ có trát đòi bữa nào đó thôi, khó tránh. Vào bệnh viện ở gần Couvent des Oiseaux[2], tôi nằm một phòng với ba người khác, cùng sốt rét ác tính như tôi. Mỗi ngày “đi” một anh. Rồi cuối tuần, anh thứ ba. Tôi là tên thứ tư, không biết bao giờ đi. Thấy người cùng bệnh rủ nhau chết, mình cũng nao núng, nao núng nhất là vì lẩn quẩn mãi trong óc tôi cái câu hỏi: nên hay không nên viết thư gởi đúng địa chỉ, để sẵn đầu giường, báo tin cho mẹ, cho vợ, cho chị ở nhà là khi đọc được thì tôi đã chết tại bệnh viện Đà Lạt. Viết thư thì sợ lộ bí mật; sợ rằng ông bạn đã cho tôi ở nhờ, đã đem tôi đi bệnh viện, sẽ bị địch bắt để điều tra xem còn có tù vượt ngục nào bên cạnh tôi không. Nghĩ đến khả năng mình chết rồi mà còn làm hại cho người khác, tôi ngập ngừng không viết thư nữa. May quá, bệnh thuyên giảm; rồi tôi khỏi bệnh. Tôi nằm nhà thương gần ba tuần. Trong thời gian đó tôi được săn sóc tận tình bởi một dì phước trẻ, đẹp, đầy lòng nhân ái. Tôi đại tiện toàn máu; mỗi khi như vậy, hai tay tôi bám vào chân giường, mày mặt tối tăm cả năm, bảy phút; mình trông mình đã tởm, mà dì phước đổ bô nét mặt như thường không khi nào tỏ vẻ gớm ghiếc. Ngày đổ bô hai ba lần. Không biết nếu tôi đổ bô cho một đồng chí thì tôi được thản nhiên như dì phước ấy không? Bệnh tôi nếu ăn cháo có gạo, cá, rau, dầu ít cũng bị lủng ruột, chết. Tôi thấy dì phước mỗi lần đem thức ăn cho tôi thì dùng vải thưa trắng tinh lọc súp chỉ còn có nước. Khi bệnh tôi thuyên giảm nhiều thì dì phước mới cho ăn súp gạo rang, có rau. Tôi thoát chết. Hôm ra bệnh viện tôi chỉ có một chữ “rất cám ơn” với dì phước mà tôi không biết tên. Cuộc đời bôn ba của tôi không cho phép tôi trở lại một lần nữa để cám ơn dì phước mà chị ruột, em ruột, vợ nhà chưa chắc đã tận tuỵ săn sóc chu đáo hơn. Sau cách mạng và kháng chiến, tôi có dịp lên Đà Lạt, tôi có đến bệnh viện Couvent des Oiseaux, hỏi thăm các dì phước, cố gặp ân nhân cũ; nhưng Couvent còn đó mà người thì biệt tăm.
Sự việc thứ ba xảy ra lúc gần Tết, mấy tháng sau khi chúng tôi vượt ngục Tà Lài. Một hôm tốt trời, tôi đang xây tường, cuốn cửa ở một cái villa vùng thác Cam Ly, gần một làng người Thượng, đoàn chủ nhà và thầu khoán đến xem công việc tới đâu. Họ cứ đi xem. Tôi cứ làm việc. Họ đi sau lưng tôi. Tôi không ngó họ. Rồi họ qua hết. Nhưng tôi thấy một anh trong đoàn trở lại nơi tôi đang làm, anh ấy đứng bên tôi, khẽ hỏi: “Ở đây à?”. Tôi thót ruột! Vậy là có người quen nhận ra mình rồi. Nguy quá! Tôi ngó lên. Té ra là kiến trúc sư Phan Hiếu Kinh, bạn học của tôi bên Pháp từ những năm 1928, 1929, 1930. Tôi làm ra vẻ bình tĩnh, để ngón tay lên môi. Kinh biết tôi muốn nói gì; anh quay đi, không quên một câu khen ngợi anh thợ hồ xây gạch, xây đá rất khéo. Té ra vụ tôi vượt ngục Tà Lài, có báo đăng tin; Kinh biết. Tôi chắc Kinh sẽ giữ bí mật cho tôi. Nhưng, nếu một hôm nào vui miệng anh nói với vợ hay với một bạn thân rằng anh Giàu vẫn còn sống, ở Đà Lạt, thì sao? Phải đề phòng. Không thể dây dưa ở Đà Lạt nữa; phải “thiên đô” thôi; vả lại cái đó đã ở trong kế hoạch, phải thừa dịp gần cuối năm rộn rịp để về Sài Gòn, về Nam Kỳ. Chắc là lúc này, việc Pháp truy nã số tù vượt ngục Tà Lài không còn ráo riết như mấy tháng trước nữa. Tuy vậy tôi cứ dặn mình là không được chủ quan khinh địch.
Tự kiểm điểm lại thì trong đời làm “cách mạng chuyên nghiệp” của tôi, nửa năm tôi ở ẩn là thời gian duy nhất mà tôi không có hoạt động, không tuyên truyền, không tổ chức, không đấu tranh, chỉ lo giữ gìn cho khỏi bị bắt lại. Nửa năm đó tôi xem là dài quá dài. Nằm không, không công tác, còn mỏi mệt hơn là hoạt động; chẳng những mệt mỏi mà còn buồn, rất buồn, có cảm giác như là một con chim mất đàn, như là một con người giữa sa mạc tuy rằng mình vẫn ở trong dân, trong cuộc đời nhộn nhịp. Hoạt động đã trở thành bản năng rồi, không hoạt động không chịu được. Sài Gòn, lục tỉnh kêu gọi, công tác kêu gọi, thúc giục.
Về Phú Lạc
Đường về Sài Gòn không trắc trở gì lắm. Tuy rằng từ Trung vào Nam, bộ hành phải có “giấy thông hành”. Tôi có giấy thuế thân giả của Trung Kỳ; thuế thân không phải giấy thông hành cho nên dễ làm giả. Giấy thông hành phải có hình đóng con dấu nổi; không làm giả giấy thông hành được; mà trên đoạn đường từ Xuân Lộc đến Biên Hoà, người đi xe lửa không biết lúc nào phải trình thứ giấy đó cho nhà chức trách, nếu không có thì bị bắt giam rồi bị “trục xuất”. Song dân Trung Kỳ đi lậu vào Nam Kỳ để kiếm sống thì luôn luôn đông, mỗi chuyến xe có hàng chục, họ cảnh giác lắm, hễ cảnh sát bắt đầu việc xét giấy thông hành thì họ hè nhau nhảy xuống xe, mặc dầu là xe đang chạy; nhảy xe lửa ba người thì té cả ba nhưng không sao, lỗ đầu, rồi lẩn vào các vườn cao su, ban đêm ai dễ biết ai?
Cái khó còn lại là cầu Biên Hoà, luôn luôn bị cảnh sát canh gác chặt chẽ ở cả hai đầu. Tôi phải nhờ đò ngang để sang sông rồi thì có vô số phương tiện để về Sài Gòn.
Tôi vào Sài Gòn một buổi tối, đèn điện vừa lên. Một chiếc xe thổ mộ đầy nhóc đưa tôi thẳng vào Chợ Lớn. Tôi về căn cứ cũ là Phú Lạc[3] cách Chợ Lớn không đầy năm cây số trên con lộ đi Gò Công.
Qua Năm Luông, tôi đã nắm được tình hình an ninh ở Phú Lạc từ sau khởi nghĩa tháng 11 năm 1940; tôi lại được biết rằng ngày nổ ra khởi nghĩa Nam Kỳ, nhân dân và các đồng chí ở Phú Lạc đã sẵn sàng chiến đấu; đúng ngày giờ định trước, lực lượng cách mạng từ cầu Ông Thìn, Phú Lạc, Đa Phước, theo kế hoạch, bí mật kéo lên ém trong Chợ Lớn, sẵn sàng tiến công địch đúng mười hai giờ đêm, khi nhà đèn Chợ Quán bị đánh sập, đèn đường tắt, và tiếng súng lớn nổ làm hiệu ở trại lính Ô Ma[4]. Chờ mãi quá nửa đêm, không thấy đèn điện tắt, không nghe tiếng súng lớn nổ, quân phục kích đoán là có biến nên không đánh đồn bót thị xã mà lặng lẽ kéo về như đã lặng lẽ kéo lên. Trái lại, quân du kích ở Cần Giuộc cứ theo kế hoạch đã định, nổi lên đánh các đồn địch, mà thất bại. Kết quả là Phú Lạc, sau ngày khởi nghĩa, được tương đối an toàn còn Cần Giuộc thì bị địch khủng bố dữ dội. Vậy sự yên ổn của Phú Lạc sau tháng 11 năm 1940 không phải do Phú Lạc trốn tránh khởi nghĩa; điều ấy là điều tôi muốn biết rõ và đã biết rõ nhờ gặp Năm Luông ở Đà Lạt nên tôi mới về đây. Vậy, vẫn có thể tin cậy vào lòng trung thành đối với cách mạng của Đảng bộ vùng Phú Lạc do Bảy Trân[5] lãnh đạo. Bảy Trân nguyên là một sinh viên trường Đông Phương Cộng sản đại học như tôi, trước một khoá. Hồi năm 1933, khi Xứ ủy Nam Kỳ được chúng tôi xây dựng lại thì tôi đã lấy vùng Phú Lạc này làm một căn cứ an toàn của lãnh đạo. Ở đây nhân dân rất tốt, bọn xấu rất ít, hội tề được Bảy Trân và các đồng chí đánh giá là gần như “trung lập” không sốt sắng gì trong việc “giữ trị an”, viên cai tổng lại là người bà con gần của Bảy Trân, là người nhà của Năm Luông. Từ Chợ Lớn đi về hướng Gò Công thì, đến Phú Lạc, bên tay trái là khu Rạch Cây Khô ở đó cảnh sát rất ít khi đến vì sợ các tay anh chị Bình Xuyên trừng trị, mà các tay anh chị Bình Xuyên thì phục Bảy Trân cộng sản. Bên tay phải chằng chịt sông rạch của vùng Rạch Cát, ở đây, nếu cò bót đến thì ta chỉ cần bước xuống xuồng, đẩy vài mái dầm, vào từng lá dừa nước, thì có trời mà kiếm được. Tôi ở Phú Lạc lâu và nhiều đợt. Hai lần tôi bị bắt ở Sài Gòn, lần nào tôi cũng giữ an toàn cho Phú Lạc; đồng bào ở đây tin tôi, thương tôi. Nay tôi về đây, cái mối lo duy nhất của tôi là bị một vài người dân Phú Lạc nhận ra là “anh hai Trắng” rồi đồn đại ra nhiều người biết.
Đêm ấy tôi được chủ nhà tiếp đón rất ân cần, trộn lẫn với lo ngại và sợ sệt nữa. Nhưng Bảy Trân và người nhà tín nhiệm tôi, thương tôi, hết sức lo cho tôi. Về Phú Lạc tôi có cảm giác là cá về nước, chim về rừng.
Trò chuyện thâu đêm với Bảy Trân, Sáu Thuần, Chín Báu; Báu cùng tuổi với tôi, đồng chí rất tốt như Trân là anh ruột. Chuyện dài kể làm gì. Mấu chốt cuộc trò chuyện đêm ấy là lời tâm huyết của Bảy Trân và anh em đồng chí ở Phú Lạc.
– Giàu ơi, mày về đây có nghĩa là mày tin tụi tao; và tụi tao tin mày. Tụi tao hết sức bảo vệ mày. Nhưng bây giờ mày ở đây không được, không nên ở; tụi tao sẽ đưa mày tới một vùng gần như tuyệt đối an toàn để mày tiếp tục ẩn lánh một thời gian nữa; sau sẽ tính; chớ bây giờ tụi tao không sẵn sàng làm việc cách mạng với bất cứ ai. Bây giờ tin ai? Ai tin? Đảng viên cộng sản không phải đã bị bắt, bị giết hết; hãy còn khá nhiều, nhưng tụi nó đều “lặn” hết, “ẩn” hết trong rừng, trong núi, trong xóm dân nghèo, ở đâu không biết; thằng nào xớ rớ đi đi lại lại với cơ sở cũ còn sót thì mắc “bẫy chuột” của Tây nó giăng sẵn, như thằng Văn, thằng Trung chẳng hạn, sau khi chia tay với mày, chúng nó tìm về Sài Gòn ngay, tìm cơ sở cũ ngay, nên bị bắt ngay. Bây giờ không tin được ai cả, không tin cả cách mạng có thể thành công, không tin sự lãnh đạo của Đảng, ít nhất là của Đảng ở Nam Kỳ này, không tin Hồng quân Liên Xô có thể đương đầu thắng lợi với quân phát xít Hítler… Tư tưởng hoài nghi bao trùm tất cả. Sau đại bại 1940, lòng tin xuống thấp nhất từ mười năm nay. Đó là sự thật; mày, Giàu, mày phải hiểu rõ; đừng chủ quan, nóng vội mà chết sớm. Nếu mày muốn, một ngày nào đó chớ không phải bây giờ, tụi tao lại hoạt động với mày thì điều kiện thứ nhất là mày phải giải quyết tư tưởng cho tụi tao ở Phú Lạc này ba vấn đề mấu chốt sau đây:
“Thứ nhất là:
Vì sao Đảng nói là mình sáng suốt mà lại chủ trương khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, để đi đến một thất bại hết sức đau đớn như thế? Thất bại đến mức đó thì còn có thể nào khôi phục nổi trong thời thế chiến tranh này? Liệu sau này còn chủ trương như vậy, lãnh đạo như vậy, đưa toàn bộ Đảng, đa số đồng chí, đông đảo quần chúng vào chỗ chết nữa không? Lấy gì bảo đảm rằng không? Nói vắn tắt, mày phải cho tụi tao biết rõ ý kiến của mày về khởi nghĩa 1940, để tụi tao xem mày có dắt tụi tao vào một cái khởi nghĩa tương tự không? Rồi chúng ta sẽ tính sau sự hợp tác với mày; bây giờ thì chưa; để xem đã; chỉ lo bảo vệ tính mạng của mày thôi. Tụi tao đoán trước rằng mày muốn tổ chức lại Xứ uỷ Nam Kỳ như hồi năm 1933. Nhưng tình hình bây giờ khó khăn hơn biết mấy lần hồi đó; hồi 1931 thất bại đã nặng, bây giờ nặng hơn mấy lần; hồi đó là thời bình, thời nay là thời chiến; thời đó bị bắt làm tù, thời này bị bắt làm ma. Khó hoạt động cho thành công lắm, nếu trước mắt không giải đáp nổi cho đồng chí cũ một số vấn đề chính trị tư tưởng, vấn đề tụi tao vừa đưa ra cho mày là cần kíp nhất.
“Thứ hai:
Tụi tao ở đây bi quan về tình hình thế giới. Nếu tình hình thế giới bi đát thì triển vọng Đông Dương, Việt Nam không thể sáng sủa được. Hơn nữa năm nay chiến tranh Nga-Đức đã bùng nổ kịch liệt. Ban đầu tụi tao ở đây tin rằng Đức hạ Pháp mau lẹ hết sức vì Pháp yếu, Anh tồi, chớ đụng vào Liên Xô hùng cường thì nó bị đánh bại chắc chắn. Ai ngờ rằng, chiến luỹ Stalin chẳng hơn gì chiến lũy Maginot, Hồng quân chạy dài, thua hết trận này đến trận khác, quân Hitler tuy không được vào ăn Tết trong điện Kremlin, nhưng mới ít tháng chúng đã đến sát ngoại ô Leningrad, đi gần tới Moscou, chiếm đóng cả miền tây Liên Xô rộng lớn và giàu có; sang năm nay, 1942, triển vọng kháng Đức của Hồng quân Liên Xô chưa có gì là sáng sủa cả. Vậy tụi tao hỏi mày vậy chớ có hy vọng gì Liên Xô chống đỡ nổi, chiến thắng được? Chớ dư luận khắp nơi đều thấy rằng quân phát xít Hitler còn tiến vào Liên Xô sâu hơn, xa hơn, hy vọng thắng trận của Liên Xô rất mỏng manh, viễn cảnh chiến bại thì chắc hơn, trong lúc đó đồng minh của Đức là Nhật ở Viễn Đông đánh bại Mỹ, Anh, Hà Lan như chẻ tre! Nếu Liên Xô thua trận, nếu cái thành trì cách mạng thế giới lâu nay ta đề cao sức mạnh lớn và lý tưởng cao, mà thua phát xít thì cách mạng thế giới còn gì, thì cách mạng Đông Dương còn gì? Triển vọng đen tối quá, làm lung lay, sụp đổ lòng tin. Lâu nay, ở xứ ta, việc tuyên truyền cách mạng Đông Dương một phần quan trọng dựa vào sự tuyên truyền cho Liên bang Xô Viết, nay Liên bang Xô Viết bị đánh lui mãi như thế thì lòng tin còn dựa vào đâu?”
“Thứ ba:
Năm 1940, ta chỉ mang một cái ách trên cổ. Pháp bị Đức đánh bại; nó đầu hàng Đức; nó lại bị Thái Lan tấn công trên biên giới Cao Miên. Vậy mà ta nổi lên đánh đổ nó không nổi. Bây giờ nước ta không phải mang chỉ một ách mà mang tới hai ách, ách Nhật chồng lên ách Pháp, hai thằng đế quốc thực dân và quân phiệt cùng thống trị nước ta thì liệu ta có hy vọng gì làm cách mạng giải phóng thành công không? Ngày mai đen tối quá! Nói cách mạng, nói giải phóng còn ai nghe, còn ai tin?
Làm sao giải đáp? Mở lối bí cách nào? Tụi tao bí lắm!”.
Bảy Trân, các đồng chí ở Phú Lạc trông chờ tôi trả lời. Họ tưởng rằng khó bề mà tôi giải đáp nỗi băn khoăn cực kỳ sâu sắc của họ. Những nỗi âu lo của các đồng chí ở Phú Lạc cũng là những nỗi lo âu của tất cả các đồng chí còn sống sót sau khởi nghĩa 1940. Không chừa một ai. Không trả lời cho thông các câu hỏi đó thì không ai cùng mình xây dựng lại hệ thống và cơ sở Đảng ở Nam Kỳ. Cái nguy nhất chưa phải là sự tan tác của tổ chức, cái nguy nhất là sự tan tác của tinh thần.
Tôi làm xong giải đáp trong ba buổi tối họp mặt của một nhóm đồng chí tại nhà của Bảy Trân. Tôi lấy làm thích thú vì, như thế, tôi đã đồng thời làm cái việc phác hoạ đường lối của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, trên cơ sở lý luận đó các bạn tôi sẽ gây dựng lại hệ thống Đảng ở Nam Bộ, khôi phục phong trào nhân dân và đi đến chỗ cùng toàn quốc làm cách mạng thành công ngay trong thời kỳ chiến tranh thế giới đang diễn. Các đồng chí ở Phú Lạc tán thành hầu hết các ý kiến của tôi trình bày. Nhưng họ bảo rằng cần phải có thời giờ cho sự suy nghĩ thêm, và cần phải có thời giờ để xem thời cuộc có chuyển biến theo hướng như lời dự đoán hay không, đặc biệt là dự đoán về cuộc chiến tranh Nga-Đức. Các đồng chí ủng hộ tôi nhưng chưa hứa hẹn bắt tay hoạt động với tôi, mà còn “chờ xem thời cuộc”.
Tôi có ý thức rằng những giải đáp của tôi cho các đồng chí Phú Lạc sẽ là sự giải đáp cho nhiều cán bộ ở Chợ Lớn, Sài Gòn, Gia Định vốn quen biết với các đồng chí anh em nhà Bảy Trân.
Về cuộc khởi nghĩa tháng 11 năm 1940 ở Nam Kỳ:
Tôi đã biết đại khái diễn biến của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ từ hồi ở Tà Lài, nhờ tổng hợp báo cáo lẻ tẻ của mấy chục anh em cốt cán bị bắt giam sau khởi nghĩa thất bại. Ở Tà Lài, Đảng uỷ cũng đã phân tích sự kiện lớn này và rút ra những bài học kinh nghiệm xương máu. Về Phú Lạc tôi hỏi thêm Bảy Trân và các đồng chí ở đó. Như vậy tôi đã có thể đi đến một số kết luận tạm thời:
1. Khởi nghĩa vũ trang là tất yếu. Nhất thiết phải giành chính quyền, giành độc lập bằng khởi nghĩa vũ trang; không có cách mạng hoà bình, không có độc lập bằng xin xỏ, bằng sự ban cho của nước ngoài.
2. Khởi nghĩa muốn được thành công thì phải là một cuộc khởi nghĩa của quảng đại quần chúng chớ không phải của một nhóm người, của một chính đảng, dù đó là nhóm người có tập luỵên và có vũ khí, dù đó là một đảng lớn có quyết tâm, có kỷ luật.
3. Khởi nghĩa muốn thành công thì phải vừa có lực lượng, vừa đúng thời cơ. Thiếu lực lượng, thiếu thời cơ thì khởi nghĩa dù oanh liệt anh hùng mấy cũng thất bại. Khởi nghĩa thiếu lực lượng và thời cơ cũng gọi là khởi nghĩa non hay là “manh động”.
4. Phải quan niệm khởi nghĩa giành chính quyền là một cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng, nổ ra trên toàn quốc, không phải chỉ nổ ra ở một vài địa phương. Khởi nghĩa địa phương cô độc sẽ bị địch tập trung sức dập tắt.
5. Đảng chỉ đạo khởi nghĩa phải theo đúng những nguyên tắc chiến lược chiến thuật mà Mác-Lênin đã đề ra hết sức đầy đủ và rõ ràng. Chỉ đạo khởi nghĩa là cả một nghệ thuật.
Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, thất bại và thất bại nặng vì không theo đúng những nguyên tắc đã nói mà mỗi ai đi vào khởi nghĩa cũng phải nắm vững. Lênin bảo: “Không đùa với khởi nghĩa được”. Tháng 11 năm 1940, các đồng chí lãnh đạo ở Nam Kỳ thực tế không theo khoa học và nghệ thuật Mác- Lênin về khởi nghĩa. Nguyên nhân chính của thất bại của cuộc khởi nghĩa năm 1940 ở Nam kỳ là:
1. Cuối năm 1940, ở Đông Dương chưa có thời cơ, hoặc có thời cơ mà không đủ, không chín cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Pháp đầu hàng Đức hồi giữa năm, quả có làm cho lũ thực dân ở đây hoang mang, nhưng dần dần chúng nó đã hoàn hồn khi bên Pháp dựng lên chính phủ của thống chế Pétain dưới sự bảo hộ của Đức. Và lực lượng quân sự, cảnh sát của Pháp ở Đông Dương đã được tăng cường bằng hai, bằng ba từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Thực dân hy vọng rằng được sự bảo trợ của Đức, chúng có thể giữ được thuộc địa, Pháp thua Đức mà Đức cho phép Pháp giữ thuộc địa. Quân Pháp bớt hoang mang, nhưng chúng chưa tan rã. Nổi lên đánh đổ Pháp trong lúc này là chưa phải lúc. Phải đợi một thời cơ thuận lợi hơn. Không vội được. Không phải Pháp bị đánh bại ở Pháp mà ta liền có thể đánh đổ chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương được ngay.
2. Lực lượng của ta, lực lượng khởi nghĩa hồi cuối 1940, tuy khá mạnh ở Nam Kỳ, cũng chưa gọi là đủ để nổi lên làm khởi nghĩa. Bằng chứng quá rõ là ngày khởi nghĩa, không có một đơn vị quân đội người Việt nào của Pháp quay súng bắn vào thực dân, khi chúng đã thua trận ở Tây Âu và đang mắc kẹt ở biên giới và Thái Lan. Tuy có đấu tranh ở nhiều nơi, mà không có khởi nghĩa đều ngay ở các quận trong những tỉnh mạnh nhất như Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, mà chỉ có nổi lên ở một số ít quận thôi, mà quận lỵ vẫn yên; không có nổi lên đánh đồn diệt địch ở phần lớn các tỉnh mà chỉ có lẻ tẻ nổi lên ở vài quận trong mỗi tỉnh; ở phần lớn các quận, các tỉnh Nam Kỳ chỉ có khởi nghĩa thật sự ở một số xã. Quân khởi nghĩa chỉ chiếm được một quận ở Nam Kỳ mà thôi, quận Vũng Liêm. Quận lỵ Hóc Môn nằm trong vùng ta mạnh nhất nhì so với cả Nam kỳ mà ta không đánh chiếm được trọn dù là một ngày. Ở Sài Gòn, đầu não của địch, cũng không có khởi nghĩa ở bất cứ một tỉnh lỵ thị xã nào. Đánh địch mà không đánh ở đầu não chúng thì làm sao diệt nó được. Như vậy, lực lượng khởi nghĩa còn xa, rất xa mới gọi là đầy đủ để phát động khởi nghĩa vũ trang ở Nam Kỳ tháng 11 năm 1940.
3. Trong toàn quốc tháng 11 năm 1940, chỉ có khởi nghĩa ở Nam Kỳ. Còn ở Trung, Bắc khi ấy không có khởi nghĩa. Sau này tôi mới biết có khởi nghĩa Bắc Sơn mà đó cũng chỉ mới là một địa phương nhỏ. Khởi nghĩa tháng 11 năm 1940, là do Xứ uỷ Nam Kỳ đơn độc chủ trương. Địch không bị phân tán lực lượng. Không lạ gì mà thấy rằng địch có điều kiện tập trung lực lượng, diệt quân khởi nghĩa một cách mau chóng. Những đồng chí chủ trương khởi nghĩa 1940, không quan niệm được rằng khởi nghĩa muốn thành công thì phải làm một cuộc tổng khởi nghĩa, khởi nghĩa trên toàn quốc, không nhất thiết phải cùng ngày, mà nhất thiết phải cùng lúc, nơi này nơi kia không cách nhau bao lâu. Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, là khởi nghĩa địa phương, tự ý một Xứ uỷ quyết định. Tai hại ở chỗ đó. Sai lầm rất lớn mà không thấy được. Trước khi Công xã Paris nổi lên, Marx không tán thành khởi nghĩa bởi vì Marx cho rằng khởi nghĩa như vậy là non, là địa phương, là thua chắc; nhưng khi khởi nghĩa nổ ra rồi, Marx hết lòng ủng hộ Paris công xã cho dù biết chắc là nó sẽ thua. Ta cũng như Marx; ta hết sức khâm phục tinh thần chiến đấu của Nam Kỳ 1940, mà ta sau này phải tránh khởi nghĩa non, ta phải rút kinh nghiệm xương máu.
4. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, là một cuộc khởi nghĩa chỉ một số quận tiền phong nổi lên một cách “bất ngờ” (đối với địch), về cơ bản chưa phải là một cuộc nổi dậy của đa số nhân dân, nó không ra khỏi phạm trù Blanquisme 6 mà Marx và Lênin phê phán, chính vì thế mà nó thất bại. Đáng lẽ một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở đỉnh cao nhất của một phong trào quần chúng nhân dân, dù cho kẻ địch có đề phòng mấy cũng trở tay không kịp.
Cuối năm 1940, ở Việt Nam nói chung, ở Nam Kỳ nói riêng, không thể nói rằng phong trào quần chúng đã lên tới đỉnh cao nhất. Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, tuy rộng lớn hơn nhiều nhưng vẫn có nhiều chỗ giống khởi nghĩa Yên Bái 1930, mà Đảng Cộng sản chúng ta đã phân tích, phê phán nhiều lần. Một cuộc khởi nghĩa muốn thành công là phải tổng khởi nghĩa của vạn, ức nhân dân toàn quốc dưới hiệu lệnh của một Đảng lãnh đạo thống nhất quyết tâm chiến thắng ở một thời cơ thuận lợi nhất.
5. Từ hơn mười năm nay các đồng chí lãnh đạo các cấp của Đảng ta đã được huấn luyện về khoa học và nghệ thuật khởi nghĩa của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chuẩn bị lực lượng như thế nào, nhận định một thời cơ chín và chín muồi là thế nào, khi nào phát động khởi nghĩa, đã khởi nghĩa thì phải ứng dụng những chiến lược chiến thuật như thế nào? Cái khoa học và nghệ thuật đó, các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, có lẽ không biết rõ và các anh ấy làm khác, làm trái cả! Cho nên thất bại. Thất bại rồi các đồng chí không biết cách rút lui để duy trì lực lượng, bảo toàn tổ chức cho nên bị thất bại hoàn toàn, một cuộc thất bại lớn nhất ở miền Nam từ mười mấy năm nay. Đáng lẽ trước khi tiến thì đã phải đề phòng khi thoái. Đồng chí Tạ Uyên và một số đồng chí bốn mươi nói là theo sách lược Mao Trạch Đông, kỳ thật đó là sách lược Mao Trạch Đông bị méo mó, bị hiểu sai rất tai hại. Tôi không chống sách lược Mao Trạch Đông, sách lược Mao có nhiều chỗ hay, tôi chỉ nghĩ rằng ở Đông Dương, ở Việt Nam, nước hẹp người ít, thực dân thống trị tập trung thì Đảng cách mạng muốn chiến thắng phải làm một cách khác, cách khác nào cũng dựa vào cơ bản tư tưởng Mác- Lênin về khởi nghĩa cách mạng. Khởi nghĩa 1940 thất bại, nhưng ta rút từ bài học thất bại để thành công sau này, chắc không lâu nữa đâu. Tôi đã trình bày tỉ mỉ những bài học của 1940 mà chúng tôi đã rút ra từ hồi ở Tà Lài, trước khi vượt ngục. Trong lúc tôi trình bày thì nhóm Bảy Trân đặt ra nhiều câu hỏi cụ thể cho tôi. Có thể nói rằng tôi đã không vấp váp gì cả. Ý kiến lớn đã nắm vững rồi. Tôi nhờ cuộc họp này mà biết thêm khởi nghĩa Nam Kỳ.
Những ý kiến tôi trình bày ở nhà Bảy Trân, tôi có dịp trình bày tại nhiều nơi khác như Vàm Cỏ, Tiền Giang, Hậu Giang, miền Đông, Sài Gòn suốt những năm 1942, 1943. Ở đâu tôi cũng nhằm mục đích thiết thực là yêu cầu các đồng chí hãy tin tưởng rằng cuộc khởi nghĩa mà chúng ta nhất thiết phải làm, sẽ được tổ chức và chỉ đạo “đúng khoa học”, “có nghệ thuật” và nhất định sẽ thắng lợi.
Tôi nhớ rõ trong đêm nói về khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, tôi một mặt tỏ lòng khâm phục các chiến sĩ đã đấu tranh và hy sinh, nhưng mặt khác tôi cũng phê bình nghiêm khắc chủ trương phiêu lưu cực kỳ tai hại của đồng chí bí thư Tạ Uyên; tôi biết rằng, tháng 11 năm ấy ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ, không còn Thường vụ Trung ương, nhưng tôi được biết trước đó khi quyết định khởi nghĩa thì còn hai uỷ viên Trung ương (sau vụ bị bắt ở đường Nguyễn Tấn Nghiêm) là Phan Đăng Lưu và Võ Văn Tần; hai đồng chí ấy có dự cuộc họp giữa năm quyết định khởi nghĩa thì cớ sao hai đồng chí ấy lại không ngăn cản một quyết định vội vàng như thế để đến nỗi xảy ra khởi nghĩa non thất bại? Âu đó cũng là kết quả khó tránh của một trình độ hiểu biết chưa thấu đáo chủ nghĩa Mác-Lênin. Thiếu lý luận, tai hại quá! Tôi cũng được biết trước khởi nghĩa 1940, Xứ uỷ đã phát hành quyển sách “chiến tranh du kích”, vậy phải chăng là anh Tạ Uyên và Xứ uỷ muốn lấy chiến thuật du kích Trung Quốc thay cho lý luận khởi nghĩa của Lênin và bài học khởi nghĩa tháng 10 năm 1917 ở Nga? Bổ sung thì chắc là cần, thay thế thì làm sao được? Tôi khẳng định với các đồng chí Phú Lạc rằng phải tham khảo kinh nghiệm Trung Quốc nhưng mà phải đi theo con đường Tháng Mười là chính thì khởi nghĩa ở nước ta mới thành công được.
Nhóm Bảy Trân gần như không có ý nào khác ý tôi, chỉ có cải chính rằng Võ Văn Tần đã bị bắt trước rồi. Nhóm Bảy Trân còn đặt câu hỏi về tương lai tổng khởi nghĩa ở Việt Nam; lúc ấy tôi chỉ có thể trả lời một cách chung chung rằng: tất cả còn tuỳ thuộc vào thắng lợi hay thất bại của Liên Xô; nếu Liên Xô thua Đức thì cách mạng thế giới, kể cả nước ta, sẽ bị lùi lại không biết đến bao giờ. “Nói thật với tụi bây là Hồng quân thua, Liên Xô bị đánh tan, phát xít Đức toàn thắng, thì tao cũng sẽ “giải nghệ”, thôi làm cách mạng, lui về điền viên, nếu không bị vào tù nữa thì vào hàng ngũ của một thứ “Cư sĩ tịnh độ”. Nhưng tao có đủ lý do để tin rằng Liên Xô, Trung Quốc, Đồng minh, Anh, Mỹ sẽ thắng, Đức-Ý-Nhật sẽ thua và đến cuối chiến tranh thế giới, chúng ta sẽ có đủ lực lượng và thời cơ chín muồi để tổng khởi nghĩa thành công. Bây giờ, vấn đề cần kíp là xây dựng lại đảng bộ, tập hợp lực lượng đón thời cơ nhất định sẽ đến. Các đồng chí hãy giúp tôi, mong rằng sớm thấy các đồng chí trở lại công tác”.
Đêm sau, tôi phải giải đáp vấn đề triển vọng của chiến tranh Nga-Đức; liệu Đức sẽ đánh bại Nga chăng?
Trước nay, người cộng sản Việt Nam ai cũng quan niệm rằng Liên Xô là thành trì của cách mạng thế giới, sức mạnh của cách mạng thế giới một phần quan trọng đặc biệt là ở sức mạnh của Liên Xô và uy tín hết sức lớn của cách mạng tháng 10 năm 1917. Khi Pháp bị Đức đánh bại chỉ trong mấy tuần lễ thì người cộng sản Việt Nam bảo rằng ấy là vì đế quốc Pháp bạc nhược chớ nếu quân phát xít Đức mà đụng tới Hồng quân Liên Xô thì chúng sẽ bị đánh bại nhục nhã. Bây giờ Nga- Đức chiến tranh đã nổ ra rồi. Trái với dự đoán, Nga lui, lui mãi, lui sâu vào nội địa mình; Đức tiến, tiến nhanh, hạ phòng tuyến Stalin một cách dễ dàng như hạ phòng tuyến Maginot, tiến thắng một mạch đến ngoại ô Leningrad, đến gần Moscou cách chỉ ba, bốn mươi cây số, lấy hết vựa lúa Ukraine, chỉ cần một thời gian ngắn mấy tháng! Thế là thế nào? Thế thì sẽ ra sao? Ai nấy ngơ ngác!
Nga đang ở thế yếu, thế thua. Có thể Nga gượng lại không? Nếu Nga thua, nếu Hồng quân ta cho là vô địch mà bị quân Hitler đánh bại, nếu Liên bang Xô Viết bị đánh sụm, thành trì cách mạng thế giới bị tan thành thì còn gì cách mạng thế giới nữa, và cũng theo đó, còn gì là cách mạng Đông Dương, cách mạng Việt Nam nữa?
Bảy Trân nói: “Bọn tao ở đây không còn lạc quan chút nào. Bi quan choán hết tâm hồn bọn tao, thêm vào cái bi quan do thất bại của khởi nghĩa 1940”. Mấy ngày nay, Bảy Trân đã có lần thủ thỉ với tôi rằng ít ai cho rằng Liên Xô chịu đựng nổi; phần lớn đều nghĩ rằng Liên Xô cuối cùng sẽ bại trận, nhất là khi đồng minh của Đức là Nhật sẽ vì Trục chung hay vì lợi ích riêng mà tiến công Liên Xô ở Viễn Đông cốt chia xẻ đất Sibêri.
Về cuộc chiến Nga-Đức, tôi đã có dịp trình bày hồi đầu năm 1941 ở Tà Lài, khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu với những thất bại liên tiếp của Hồng quân. Đức thắng là tạm thời và trước mắt còn có thể thắng nhiều hơn nữa, nhưng chung cuộc rồi Đức sẽ thua. Nga thua là tạm thời và có thể thua đậm hơn nữa, nhưng chung cuộc rồi Nga sẽ thắng, thành trì cách mạng thế giới vẫn đứng vững. Những lý lẽ của tôi, đều đã được trình bày trước hàng trăm người, cộng sản có, không cộng sản có, Cao Đài, Trốt-kýt, quốc gia đơn thuần có, cả lính canh gác cũng nghe (nghe để hiểu và nghe để báo cáo cho sếp căng) chớ không phải là tôi chỉ nói với năm ba anh em nòng cốt mà thôi. Những ý kiến căn bản của tôi về chiến tranh Nga-Đức, hôm nay, ở nhà Bảy Trân, vẫn không thay đổi, cho dù lúc này quân Đức phát xít đánh thẳng qua tới “quả tim” của Liên Xô là lưu vực sông Volga, hướng về vùng Caucase. Đúng vào thời điểm đầu năm 1942, trong lúc Hồng quân Liên Xô còn đang thua liểng xiểng, trừ một số trận đại thắng trước cửa ngõ thủ đô Moscou, trong lúc quân Đức còn tiến mạnh khắp nơi nhất là ở phía Nam, thì tôi vẫn nhìn chiến cuộc với một cặp mắt lạc quan và tôi cố truyền cái lạc quan đó cho các đồng chí tin rằng nếu bi quan về chiến trường Liên Xô thì càng bi quan về tình hình cách mạng Việt Nam, mà nếu bi quan thì đừng mong gì vực dậy các đồng chí còn sống sót sau năm 1940, để họ hợp tác với mình xây dựng lại đảng bộ Nam Kỳ.
Tôi tin chắc rằng Liên Xô sẽ thắng, Đức Hitler sẽ thua, những cuộc bại trận cho tới nay, dù nặng nề lắm, cũng là tạm thời mà thôi. Tôi có mê tín chăng? Không! Tôi tin tưởng có căn cứ, có lập luận. Tôi không “lạc quan tếu” như có người bảo.
Vì lẽ gì mà chắc Liên Xô sẽ thắng? Sự giải thích của tôi, ở Phú Lạc cũng như ở Tà Lài, dựa vào các yếu tố vững vàng sau đây:
Thứ nhất
Đất Liên Xô rất rộng cho phép Hồng quân, khi núng thế ở biên giới và ở những trận đầu, có thể rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng chủ chốt, vừa rút lui vừa tiêu diệt sinh lực địch ở tiền tuyến và ở sau lưng địch. Quân Đức vào đất Liên Xô càng sâu thì sức mạnh dù đông vẫn sẽ bị dàn mỏng, tiếp tế liên lạc càng khó tuy rằng ngày nay địch có xe tăng và máy bay chớ không phải đi bộ, đi ngựa như thời Napoléon nữa. Đến lúc nào đó, khi quân Đức tổn thất nhiều và mệt mỏi lắm thì Hồng quân Liên Xô sẽ phản công và sẽ đẩy quân Đức trở lại biên giới và xa hơn nữa. Naponéon đã thua là vì thế, Hitler sẽ thua cũng vì thế. Rút lui chiến lược không phải là thua trọn, mà để chuẩn bị tổng phản công vào lúc thuận tiện. Tiềm lực của Liên Xô rất lớn đã được xây dựng ở vùng Oural và sau Oural, Liên Xô có sức đánh lâu dài. Đức Hitler không có sức đánh lâu dài. Đánh lâu dài thì Đức chắc thua. Chưa kể rằng thời tiết lạnh lẽo của Liên Xô xưa đã là một kẻ thù lớn của quân Napoléon, nay cũng còn là kẻ thù không nhỏ của quân Hitler.
Thứ hai
Từ khi quân Đức đánh Liên Xô thì Anh, Mỹ trở thành đồng minh của Liên Xô. Anh, Mỹ quả có bị Nhật đánh cho những đòn trời giáng, nhưng Anh, Mỹ vẫn là bá chủ trên mặt biển; Anh, Mỹ tuy chậm trễ một cách có ý thức (để cho Liên Xô bị thiệt hại càng nhiều càng hay) nhưng cuối cùng thế nào Anh, Mỹ cũng phải mở mặt trận ở Tây Âu, ví dụ như ở Pháp. Nhật đã dồn hết sức đánh Mỹ, Anh ở Thái Bình Dương và Đông Nam châu Á, bị mắc kẹt cứng ở Trung Quốc, Nhật không còn sức để tiến công Liên Xô ở Viễn Đông; vả lại nghe nói lực lượng Liên Xô ở Viễn Đông đủ mạnh. Vậy về lâu, chưa về dài chính là Đức chịu đựng không nổi, nhất định sẽ thua.
Các đồng chí Phú Lạc trông mong được như vậy, trông mong Liên Xô thắng, mà họ chưa tin hẳn; họ chờ xem. Sự thắng thua giữa Đức và Liên Xô nếu không được quyết định ở Moscou thì sẽ quyết định ở sông Volga… Ở một xóm làng Nam Kỳ làm sao mà chắc chắn được? Bảy Trân nói rằng nếu Liên Xô thua trận, Hitler thắng, thì Trân khuyên tôi sẽ về làng quê cày ruộng như anh ấy đang làm.
Vấn đề thứ ba là một vấn đề tuy lớn mà dễ giải quyết. Vấn đề gì? Một ách thực dân Pháp, ta còn không đánh đổ nổi. Bây giờ tới hai ách Pháp và Nhật, Nhật dung dưỡng Pháp, Pháp làm hậu cần đắc lực cho Nhật, cả hai Pháp và Nhật thống trị Việt Nam thì ta có sức nào đánh đổ nổi Pháp và Nhật? Chế độ thực dân, cuộc đời nô lệ kéo dài tới chừng nào? Hay là số kiếp của nước ta, dân ta phải như thế? Cách mạng làm sao mà thành công được? Một thứ tư tưởng “số mạng” tràn ngập! Khá bi đát. Cả trong đồng chí chớ không chỉ trong dân Nam Kỳ mà thôi.
Hồi tôi ở Tà Lài, vấn đề này chưa được đặt ra; bây giờ (1942) Pháp ở Đông Dương đã thuận cho quân Nhật vào đóng ở khắp những nơi nào Nhật thấy cần. Vào Đông Dương, Nhật cốt để một mặt tiến công Tây Nam Trung Quốc, một mặt tiến đánh Anh, Hà Lan ở Nam Hải.
Ban đầu thực dân Pháp ở Đông Dương không chấp nhận để quân đội Nhật vào Đông Dương, bắt đầu là vào Bắc Kỳ để ngăn chặn việc tiếp tế của Trung Quốc bằng con đường xe lửa Hải Phòng - Vân Nam như bấy lâu nay. Xung đột Pháp- Nhật nổ ra ở Lạng Sơn, quân Pháp thua chạy cong đuôi. Pháp thấy không đủ sức chống cự với Nhật mạnh hơn gấp mấy lần, nên chúng phải nhượng bộ với Nhật, để quân Nhật vào đóng trên toàn cõi Đông Dương. Còn Nhật thì thấy rằng nếu duy trì chính quyền thực dân Pháp thì lợi cho chúng hơn là loại trừ Pháp; Pháp sẽ đóng vai bảo đảm an ninh và bảo đảm hậu cần, cung cấp lương thực, tiền bạc, nguyên liệu, nhân công, trong lúc đó Nhật Bản dành toàn lực để tiến hành chiến tranh, mà trong một thời gian không ngắn Pháp đâu dám chống lại Nhật, nếu chống lại thì sẽ bị diệt ngay. Pháp lại muốn nhẫn nhịn, nghe nói có “thầy dùi” Việt Nam khuyên Pháp bắt chước Câu Tiễn nhằm duy trì chế độ thực dân Pháp cho đến ngày kết thúc chiến tranh. Cả Nhật lẫn Pháp đều cho rằng chế độ hai ông chủ (thực dân và quân phiệt) đó có thể làm cho cách mạng Đông Dương không bùng lên được.
Nhưng hai con chó ăn một miếng mồi, có ngày cắn nhau. Lại là chó đói nữa. Sự hợp tác Pháp-Nhật chỉ có thể là tạm thời. Giữa Pháp và Nhật, càng ngày càng nhiều mâu thuẫn. Chúng tất yếu sẽ đi đến xung đột nhau. Pháp trước sau gì cũng sẽ làm tay sai cho đồng minh Anh, Mỹ, chống Nhật. Nhật trước sau gì cũng phải gỡ cái gai dưới bàn chân, gạt lưỡi dao găm kề sau lưng trong lúc đương đầu với Anh, Mỹ. Có thể thấy trước rằng sớm muộn sẽ có ngày Nhật lật đổ Pháp, và Pháp nhất định bị tiêu diệt nhanh. Khi ấy chỉ còn có một ách ngoại bang, ách của Nhật, mà Nhật thì không quen thuộc Đông Dương bằng Pháp. Trong trường hợp Đồng minh Nga, Anh, Mỹ thắng trục Đức, Ý, Nhật thì điều kiện sẽ trở nên thuận lợi cho cách mạng Đông Dương. Các đồng chí Phú Lạc dường như dễ dàng chấp nhận lập luận của tôi. Về sau nghĩ lại tôi cho rằng sau khi vượt ngục Tà Lài, với lần ra quân đầu tiên, đã có chính kiến xác đáng nên đã phá tan những nghi ngờ, thất vọng đối với tiền đồ của cách mạng. Ít nhất là về mặt lý thuyết, tư tưởng. Tôi biết rằng ở Chợ Lớn, Sài Gòn, Gia Định, Bảy Trân quen biết nhiều đồng chí. Nội bà con xa của Bảy Trân đã có trên một chục đảng viên rồi. Trước kia Bảy Trân đi bán dầu cù là với Nguyễn An Ninh, quen biết rộng ở lục tỉnh, cho nên, các ý kiến của tôi chắc chắn sẽ được lan truyền ra rộng; lần sau tôi về Phú Lạc thì miếng đất như đã cày sẵn.
Đi Xảo Bần, U Minh
Lên Đà Lạt, được mấy tháng cuối năm 1941, và gần như hoàn toàn không có ý định công tác gì hết, chỉ lo ẩn náu, tuy tôi có gặp gỡ Năm Luông và Năm Luông sẽ sớm hoạt động trở lại, nhưng đó chỉ là gặp gỡ tình cờ thôi. Bảo toàn tính mạng, cho khỏi bị bắt lại, nếu được, là thành công, là gìn giữ được một chút vốn cho Đảng cho dân. Tôi thuộc vào số người không đánh giá thấp, không trách móc những đồng chí, những người trước lãnh đạo, như anh Khiêm, anh Tây các anh ấy sớm “ẩn náu” từ chiến tranh thế giới mới nổ ra (1939) cho đến Nhật đảo chánh Pháp (1945). Những anh em đó giữ được tính mạng của mình, là giữ được một món của quý của cách mạng, miễn là đến thời kỳ cách mạng nổi lên, những anh em đó có mặt thì được rồi. Có lúc đơn độc quá tôi cũng trách, nhưng lúc nào tôi cũng quý những chiến binh đã được rèn luyện trong mười năm đấu tranh (1930-1940). Mấy tháng ở Đà Lạt, tôi ẩn náu để rồi lại xuất hiện, chưa hoạt động để rồi hoạt động có hiệu quả.
Trân thu xếp cho tôi về U Minh, Xẻo Bần ở Rạch Giá.
Lần này tôi đi Xẻo Bần là cốt, trong khi còn ẩn náu, đặt một số liên hệ công tác, tiếp tục cái việc đã làm ở Phú Lạc mà tôi gọi là “sạ lúa”, là “gieo khô”, nghĩa là rải giống xuống ruộng đã cày mà chưa có nước, tức là tuyên truyền giáo dục, xung quanh mình và trong một số tỉnh xa gần, tìm bắt liên lạc mà tạm thời chưa lập thành tổ chức.
Tôi muốn ẩn náu ở Đồng Tháp Mười quê hương tôi (Tân An) để gần với Sài Gòn. Nhưng Bảy Trân cho rằng U Minh (Rạch Giá) là nơi ẩn náu kín đáo hơn. Anh ấy đang “giấu” ở U Minh một số đồng chí đã từng cầm vũ khí hồi năm 1940, cho tới nay được an toàn. U Minh xa Sài Gòn hơn là Đồng Tháp Mười. Địch biết rằng sau năm 1940, nhiều chiến sĩ khởi nghĩa ở Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho rút vào Đồng Tháp Mười, nó lùng sục vùng này dữ lắm. Nghe nói ở Thủ Thừa, Mộc Hoá, còn một toán du kích võ trang hoạt động nên địch lùng sục dữ lắm. Còn ở Hậu Giang gần như không có khởi nghĩa hay chỉ khởi nghĩa Hòn Khoai, nên việc lùng sục của địch không khẩn trương, không liên tục bằng ở Tiền Giang. Các đồng chí Phú Lạc đề nghị tôi đi Xẻo Bần, ở đó có mặt năm, bảy anh em hết sức tin cậy, có thể cùng nhau tự vệ và có thể đào tạo lý luận thành cán bộ giỏi. Tôi bằng lòng ngay. Đi U Minh có thể, bắt liên lạc với Tây (Nguyễn Văn Tây tức Thanh Sơn), Khiêm (Ung Văn Khiêm), Bí thư Xứ uỷ những năm 1930-1931, để sau này tổ chức lại một Xứ uỷ có uy tín cao; Tây, Khiêm đã “ẩn” ngay từ khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, lúc Pháp bắt đi trại tập trung rất nhiều người mà nó đánh giá là nguy hiểm. Các anh “biến” trước khi Pháp hạ thủ. Kịp thời hơn tôi.
Tôi đi theo ghe mắm của cô Tám Tý là bà con cô cậu với Bảy Trân. Cô Tám Tý đáp ô tô đi Rạch Giá. Tôi ngồi trên một chiếc ghe rổi đầy lu mái trống, có bốn người chèo mà hai anh là chiến sĩ khởi nghĩa năm 1940; trong túi tôi bây giờ có nhiều tiền; các bạn chèo đều có đầy đủ giấy tờ hợp lệ. Chuyến đi năm ngày yên ổn, cứ theo nước ròng, nước lớn và gió chướng mà tiến tới.
Xẻo là một cái rạch nhỏ. Xẻo Bần là một cái rạch có nhiều cây bần mọc hai bên; Xẻo Rô là một cái rạch có rất nhiều cây ô rô ở hai bên mé. Muốn đi tới Xẻo Bần thì phải qua thị trấn Rạch Giá rồi qua Xẻo Rô. Rạch Bần thuộc U Minh Thượng. Xẻo Bần là một vùng mới khai phá, trên là rừng U Minh mênh mông, dưới là biển cả hiền hoà, giữa là ruộng và đồng cỏ ngút tầm mắt. Ruộng đồng không có bờ mẫu, làng xóm không có đường đá, đường đất gì hết, người ta đi lại bằng xuồng ba lá mà gần như nhà nào cũng có. Rừng đầy chim, nhất là cò vạc; nhiều đến nỗi có tới hàng trăm con một bầy; Xẻo Bần có hàng chục bầy cò vạc. Đồng ruộng cũng nhiều cá tôm, bơi xuồng dưới Xẻo Bần thấy như là cá nuôi ở trong ao cá. Rắn cũng thật nhiều và thật rẻ, bốn năm hào một con rắn hổ mang đen xì bốn năm người ăn không hết. Xẻo Bần chỉ có một địa chủ, kỳ dư, gần hết nhân dân là nông dân tá điền hay làm ăn tự do, từ tứ phương đến, mà phân nửa là “dân lậu”, trốn thuế, trốn nợ, không giấy tờ hợp pháp (giống như bọn tôi). Họ nghèo lắm. Xẻo Bần chỉ có hai ba nhà ngói. Còn phần lớn toàn là chòi tranh nhà lá, cũng gọi là “nhà đạp”. Nhà đạp là chòi tranh vách lá không có vườn tược xung quanh, gia đình sống về nghề cá mắm, cấy thuê gặt mướn; đủ ăn thì ở, thiếu ăn hay mắc nợ trả không nổi thì “đạp” cái chòi tranh vách lá kia, rồi vợ, chồng, con cái, gà, vịt, nồi niêu, hũ gạo, xuống xuồng, xuống tam bản, chống chèo đi nơi khác, không biết trước là nơi nào. Một phần khá đông dân Xẻo Bần là như vậy, nên tôi khá yên tâm; có ai biết rằng mình cũng là một thứ “dân lậu” đâu? Lính quận lại ít khi đến Xẻo Bần, và nếu chúng có đến thì từ đầu xẻo đến cuối xẻo, người ta biết ngay để đề phòng. Vả lại, lính quận về làng để kiếm vài con gà, lít rượu, chớ cần gì kiểm tra giấy tờ, kiểm tra sao xuể, kiểm tra để làm gì?
Mua góp đầy ghe mắm rồi, Tám Tý về Sài Gòn bán mắm. Tụi tôi năm đứa, “dân lậu”, xoay qua mướn một trăm công[7] ruộng của ông Cả, cha chồng Tám Tý, để cấy cày cho qua ngày. Tôi cất hai cái chòi, một cái ở ngoài ruộng bên cạnh rừng tràm. Một cái trong rừng tràm. Ổn thì ở ruộng, động thì vào rừng. Tôi và ba đồng chí vừa làm ruộng, vừa mở lớp huấn luyện, còn Châu Văn Giác thì tôi phái đi các tỉnh Hậu Giang để gặp một số đồng chí trước đây đã từng là cán bộ lãnh đạo, để nắm tình hình tư tưởng của họ ra sao, rồi cùng họ giải đáp ba vấn đề mà tôi đã trình bày ở Phú Lạc. Trước khi lâm bệnh, Giác đã đi Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Vĩnh Long và dự định đi Nam Vang nữa. Giác rất chú ý nghiên cứu vấn đề đạo Hoà Hảo, bắt liên lạc với Nhung (Long Xuyên), Cử (Sa Đéc), Minh Thẹo (Vĩnh Long), tính đi gặp Tây, Khiêm ở đâu chưa rõ.
Làm tá điền cho ông cả thì mình xem như được bảo vệ một phần, vì lính quận nào dám vào quấy nhiễu đồn điền của ông ấy? Vả lại mình ở bìa rừng, chống sào nhảy qua một con kinh hẹp thì an toàn rồi. Bài vở huấn luyện giống gần y như bài vở ở Khám Lớn: tôi thuộc lòng hơn dân nhà quê thuộc Lục Vân Tiên; nay được nâng lên, và khác ở tình hình hiện tại và nhiệm vụ cần kíp. Ăn uống thì gạo sẵn, muối sẵn, chỉ phiền một cái là nấu bằng nước phèn sông rạch lắng trong lu nhỏ; còn thịt cá tôm thì hết sức dễ kiếm: đặt năm ba cái “vó”, cái “lọp” nho nhỏ xuống ruộng, xuống kênh có thể bắt cả ký lô cá tôm; thiếu thịt thì vào rừng tràm nửa giờ đã có thể lượm về mấy chục trứng, có khi hàng chục cò con chưa lông cánh, tha hồ mà nhâm nhi. Mấy tháng làm tá điền ở Xẻo Bần, Rạch Giá cũng tựa như mấy tháng làm thợ hồ ở Đà Lạt, tôi có dịp sống đời sống của người dân lao động trong thời chiến tranh. Nông dân khổ hơn công nhân nhiều. Bà con nghèo quá. Người đi làm ngày thì tiền công mỗi ngày cao lắm là một cắc bạc; tiền công cấy lúa còn rẻ hơn là phát cỏ. Quần áo rách rưới. Có quần áo rách đã là may; phân nửa người đi làm mướn mặc bao bố tời hay mặc bao bàng; bao bàng, bao bố tời thay cho quần áo vải. Kiếm gạo ăn đủ no thì dễ, kiếm được manh áo lành thì rất khó. Trong khắp đồn điền ông Cả tôi thấy tá điền, số người làm mướn ít ai đóng nổi cái giấy thuế thân. Hầu hết những bà con làm thuê, làm tá điền đều bán “lúa non” nghĩa là chưa tới mùa gặt, lúa còn xanh thì đã bán lúa mình sắp gặt để đong gạo. Cho nên, lúa chín, gặt xong, ít ai còn lúa để làm mùa tới. Gặt xong thì xoay ra bắt cá, làm mắm. Nghèo thì nghèo vậy chớ trong xóm thì cờ bạc lu bù, cuối cùng chỉ có chủ chứa gom tiền, còn người cờ bạc thì rốt cùng ai cũng cháy túi cả.
*
Chúng tôi tính rằng ở Xẻo Bần lâu (hay bất cứ ở nơi nào) thì dễ bị lộ. Cho nên lúa ba trăng chín, gặt hái xong, bọn tôi dời đô xuống vùng rừng “Thứ mười một”, tôi bỏ tiền mặt của vợ tôi cho sang tên mười mẫu trong một cái đồn điền thơm rộng mấy trăm mẫu, sang rẻ lắm, vì lúc ấy trồng thơm không lời; giá thơm hạng nhất chỉ một đồng một chục có đầu. Thì hoà vốn là may. Mà tụi tôi đâu có tính lỗ lãi gì, chỉ muốn được an toàn. Tôi chọn mười mẫu ở trong sâu nhất, sát bìa rừng để phòng bất trắc thì rút lui có trật tự. Rừng ở Xẻo Bần là rừng nước, rừng ở Thứ mười một, vùng đồn điền dứa, là rừng khô. Anh Mười Nhung, người Chợ Lớn làng Bình Trị (Bà Hom) bị xử tử vắng mặt, lo việc cắt thơm, bán thơm. Sớm mai tụi tôi mang gùi sau lưng, tay cầm lưỡi mai cán dài để thu hoạch thơm chín, trái nào bị chuột khoét hay chim mổ thì trái đó ngon, để dành ăn. Sáng, làm việc tới độ chín giờ thì rút vào rừng tràm, rừng choạy mà học tập huấn luyện. Lẩn quẩn hết mùa khô. Đã cuối năm 1942, sắp sang năm 1943. Báo từ Sài Gòn xuống tới chậm. Dù sao tôi không đói tin. Trên thế giới chiến tranh đổi chiều hướng. Quân đội phát xít Hitler tổn thất rất lớn ở Stalingrad, Hồng quân Liên Xô sẽ tổng phản công trên các mặt trận. Bên Viễn Đông - Thái Bình Dương, quân đội Nhật khựng lại và bắt đầu thua ở Tây Nam Thái Bình Dương, ở Miến Điện.
Thế là sự đoán trước của tôi bắt đầu thành sự thật.
Chắc chắn tình hình này sẽ càng ngày càng thuận lợi cho việc tập hợp lại lực lượng, gây dựng lại hệ thống cơ sở của Đảng. Sắp hết cơn bĩ cực; đang tới kỳ thới lai. Tôi quyết định về Sài Gòn, để mười mẫu dứa lại cho Mười Nhung săn sóc, muốn sang nhượng cho ai tùy ý. Trời đã rót hạt sương xuân. “Lúa sạ” sắp mọc xanh đồng.
Chú thích của người biên tập
1 Con công: Giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương, một mặt có vẽ hình con công.
2 Couvent des Oiseaux: Trường nữ học của các nữ tu Dòng Đức Bà, dành cho con cái các gia đình Pháp và thượng lưu bản xứ thuộc địa. Cô Marie Thérèse Lan đã học Couvent des Oiseaux ở Neuilly sur Seine (Pháp) trước khi trở thành Nam Phương hoàng hậu. Theo nhiều tài liệu, chính bà Nam Phương đã thúc đẩy việc mở trường nữ học nay ở Đà Lạt, Sài Gòn…
3 Phú Lạc: Theo mạng vietgle (http://www.vietgle.vn/trithucviet/detail.aspx?key=Ph%C3%BA+L%E1%BA%A1c&type=A0) đây là một thôn thuộc tổng Tân Phong Hạ, nay là xã Phong Phú, quận Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
4 Ô Ma: Phiên âm từ tiếng Pháp “aux Mares” (ao hồ). Thành Ô Ma (Camp des Mares) là nơi đồn trú của quân Pháp từ khi đánh chiếm thành Gia Định. Lúc đó quân Pháp đóng tại đền Hiển Trung, chung quanh có nhiều ao, nên họ gọi là Pagode aux Mares. Sau đó nơi này biến thành trại lính (Camp des Mares), nằm ở đường Galliéni (nay là Trần Hưng Đạo).
5 Bảy Trân: Nguyễn Văn Trân (đừng nhầm với Nguyễn Văn Trấn “ông già Chợ Đệm”), sinh năm 1908, sang Pháp (Marseille) năm 15 tuổi. 19 tuổi, sang Liên Xô học trường Stalin (1927-1930), cùng khóa Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai, Trần Đình Long, Bùi Ái. Bí mật về nước năm 1930. Một trong những đảng viên cộng sản hiếm hoi đã tranh thủ được cảm tình và sự ủng hộ của đạo Cao Đài và hàng ngũ Bình Xuyên. Cũng đã từng làm liên lạc giữa Bí thư Xứ ủy Trần Văn Giàu với những trí thức yêu nước như Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Thiều... Xem thêm: Nguyễn Văn Trân, người cảm hóa giang hồ Bình Xuyên trong Nguyên Hùng (sách đã dẫn).
6 Blanquisme: xu hướng của nhà cách mạng Pháp thế kỉ XIX Auguste Blanqui, cho rằng muốn làm cách mạng xã hội, chỉ cần một thiểu số làm bạo động, rồi quần chúng sẽ tự động đi theo. Xu hướng này đã bị Engels phê bình nghiêm khắc. Trotsky tóm tắt phê phán này như sau: “Về mặt nguyên tắc, sai lầm của chủ nghĩa Blanqui là đồng hóa cách mạng và nổi dậy. Sai lầm sách lược của nó là đồng hóa nổi dậy với dựng chiến luỹ.”
7 Công: 1000 mét vuông, 100 công là 10 hecta (mẫu tây, Nam Bộ quen gọi là mẫu)
Phần thứ ba
TỔ CHỨC LẠI XỨ UỶ
Dự kiến kế hoạch kỹ mấy rồi cuối cùng cũng thấy thiếu sót. Trong vụ vượt ngục Tà Lài của chúng tôi cũng vậy thôi. Khi vượt ngục chúng tôi đều nghĩ rằng và ít nhất là mong rằng, tuy thực dân khủng bố trước, trong và sau khởi nghĩa Nam Kỳ, là dữ dội nhất từ trước tới nay, nhưng, “cháy nhà cũng còn bờ tre”; thế nào rồi Xứ uỷ cũng được tổ chức lại sớm hay muộn, mạnh hay yếu. Cho nên bọn tôi dặn nhau là, trong hoạt động của mình, trước hết phải xem còn ban lãnh đạo nào không, xứ uỷ hay tỉnh uỷ, dù là lâm thời được tổ chức lại sau tháng 11 năm 1940. Nếu có thể, điều tra kỹ, rồi nhập vào đó hay liên lạc gắn bó, tránh mọi sự chia rẽ bao giờ cũng tổn hại (hồi 1933 khi tôi về tới Nam Kỳ thì trước đó vài tháng Xứ uỷ Nam Kỳ do đồng chí giáo Long làm bí thư, đã bị địch tóm gọn nên tôi với các đồng chí Nữ, Bang lập Xứ uỷ mới mà không lo sinh ra chia rẽ nghi ngờ nào). Bây giờ, sau một thời gian dài hoạt động, ở hầu khắp các tỉnh Nam Kỳ, cả đồng chí Phúc, tôi và các đồng chí Tà Lài về, như nhau, đều không thấy dấu hiệu sống còn của một xứ uỷ, một tỉnh uỷ nào hết. Cho nên, cuối cùng, do tình thế bức bách, Phúc phải họp hội nghị đại biểu các “tỉnh uỷ” lâm thời của anh lập ra rồi, để bầu một xứ uỷ. Và tôi, cũng tựa như thế phải họp hội nghị đại biểu các “ban cán sự” thành và tỉnh của tôi dựng lên, để chỉ định một “ban cán sự miền Đông” nhằm lãnh đạo chung. Khi ấy, vào năm 1943, Phúc và tôi chưa gặp lại nhau tuy đã có hẹn trước, khi cần thiết thì lấy nhà bác hương trưởng Hoài (quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho) làm địa điểm liên lạc, ở đây sẵn có Khuy trong toán ba anh em Tà Lài vượt ngục trước tiên.
Việc phải đến, đã đến. Tôi từ U Minh về, đầu năm 1943, đã ghé nhà bác hương trưởng Hoài. Ông này ở cách nhà cha mẹ tôi không đầy mười cây số. Nhắc chuyện cũ là năm 1926, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từ Sài Gòn xuống lục tỉnh thì cụ bắt đầu ghé nhà ông hương trưởng Ninh (là bố vợ, từ 1930, của tôi); ông hương trưởng Ninh đưa cụ Sắc qua bác Hoài, bác Hoài đưa cụ Sắc đi Bến Tre, v.v… Tôi đã qua nhà bác Hoài từ năm 1933. Lần này đầu 1943, ghé nhà bác Hoài, tôi được Khuy báo cáo hoạt động của anh ấy ở Mỹ Tho, Gò Công và một phần nào hoạt động của Phúc ở đồng bằng sông Cửu Long. Rồi, lên Sài Gòn, tôi bắt đầu theo dõi đồng chí Mười Thức, thợ giày thành phố, để giúp tôi hoạt động. Thức khi ấy là rể của ông Hoài, còn Khuy là con nuôi. Lên tới Sài Gòn, tôi lập ngay ban cán sự Thành, với ba đồng chí Oanh, Chí, Thức. Cả ba anh đều là công nhân lao động đã từng hoạt động cách mạng, suốt thời kỳ Mặt trận bình dân, quen biết rất nhiều; vài năm nay các anh nằm im vì không được ai dẫn dắt. Từ năm ngoái sau khi tôi ghé nhà Bảy Trấn, ở đó mấy ngày, thì nhóm Phú Lạc có đi bắt liên lạc với nhiều đồng chí ở hai tỉnh Chợ Lớn và Gia Định, cả Tân An nữa. Liên lạc thôi chớ không tổ chức và hoạt động gì, nhưng nhờ đó mà, đầu 1943, sau Ban cán sự Sài Gòn, tôi đã tổ chức được Ban cán sự tỉnh Chợ Lớn, rồi Ban cán sự tỉnh Gia Định, tới Ban cán sự tỉnh Tân An, tỉnh nhà của tôi. Các đồng chí Hoằng (Tân An), Hoành (Chợ Lớn), Tổng, Công, Khương, Nỉ (Gia Định) hoạt động đắc lực. Tôi với tay đến Thủ Dầu Một, tìm được Văn Công Khai, thợ cúp tóc là một “đồ đệ” hồi ở Khám Lớn. Tới Biên Hoà, tôi liên lạc với Châu, nguyên là cán bộ đã từng hoạt động với tôi ở quận Càng Long (tỉnh Trà Vinh) từ năm 1933. Đồng chí Phải, cựu sinh viên đại học Đông Phương, khoá trước của tôi, nay ở Bà Rịa cũng hứa hoạt động trong tỉnh Bà Rịa và thị trấn Vũng Tàu. Chưa bắt được mối ở Tây Ninh. Thế nhưng bấy nhiêu “ban cán sự” đó nếu hợp tác với các “tỉnh uỷ lâm thời” của Phúc, đã đặt ra yêu cầu phải có một Xứ uỷ chính thức đủ danh nghĩa lãnh đạo các đảng bộ toàn Nam Kỳ. Mà, cho đến nay chúng tôi chưa thấy tăm hơi nào của một Xứ uỷ còn sống sót sau đại khủng bố 1940-1941. Phúc nhạy bén và bạo dạn hơn tôi; vì vậy mà anh tổ chức đại biểu hội nghị xứ ở Chợ Gạo tháng 10 năm 1943. Còn tôi, không biết phải e dè cẩn thận hay là không nhạy bén bạo dạn bằng, tôi quả thật sợ một cuộc đại biểu hội nghị xứ đông đảo bị lộ bí mật, bị địch tóm gọn trong lúc mới khôi phục, thì biết bao giờ mới vươn lên nổi. Cho nên tôi vắng mặt ở hội nghị Chợ Gạo. Tuy rằng lúc ấy tôi ở Phú Lạc chớ không đâu xa, từ Phú Lạc đi Chợ Gạo bằng xe đạp chỉ mất một buổi sáng. Vậy mà, anh em vẫn bầu tôi làm bí thư. Tôi cảm động biết mấy! Cơ sở của Phúc ở miền Trung, miền Tây là chủ yếu; cơ sở của tôi ở Sài Gòn và miền Đông [1] là thứ yếu; hai cánh hợp nhau thì có một Xứ uỷ chánh thức khá mạnh từ gần cuối năm 1943.
Bầu cử Xứ uỷ, là một thành công lớn, lớn nhất từ sau ngày vượt ngục Tà Lài. Tuy vậy, hệ thống và cơ sở Đảng ở toàn bộ Nam Kỳ vẫn còn là vấn đề lớn, rất lớn. Đi đôi với vấn đề tổ chức là vấn đề đường lối chính trị mà bọn tôi biết bao lần đặt ra nhưng chưa hề được giải quyết ổn thoả. Ổn thoả sao được, bởi vì, giỏi mấy mình vẫn là một địa phương thôi. Còn Trung ương[2] thì có những quyết nghị gì, mình hoàn toàn không biết.
Ở đây, tôi muốn nói thêm rằng nhà bác hương trưởng Hoài, tuy bọn cầm quyền thực dân không đứa nào không biết là nhà cách mạng, nhưng thực tế là một nơi dung thân rất tốt của nhiều đồng chí: nhà ông ở xa trong vườn, từ lộ cái vào phải hơn cây số vườn dừa, trên đường vào có rất nhiều cầu qua mương, cầu bằng thân cây dừa, xe đạp qua phải dắt, trên đường vào toàn là nhà tá viên, bà con, ai coi bộ khả nghi thì người nhà lấy chày giã gạo gõ nhịp trên cối giã làm hiệu. Sau nhà bác hương trưởng là vườn, là dừa nước, là sông rạch chằng chịt, thoát ra một phút thì có trời mà kiếm. Tôi hay nghỉ ngơi, để viết sách, ở nhà bác hương trưởng ở Tân Thuận Bình, Chợ Gạo, là vì vậy. Nơi đây, từ 1943 tôi tổ chức một “nhà in”, một “nhà xuất bản” in phát một số quyển như “Việt Nam trên đường độc lập”, “Rạng đông của dân tộc” thường ký tên là “Xuyên Vân Nhạn”[3], mà mục đích là giúp các đồng chí tuyên truyền chống “chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật, chống “Chủ nghĩa Liên bang” cũng gọi là “chủ nghĩa Pháp Việt phục hưng” của Decoux. Gây lại tin tưởng vào tiền đồ của cách mạng Việt Nam.
Xác định đường lối cách mạng
Việc lập lại Xứ uỷ Nam Kỳ như vậy là đã xong về cơ bản; nói rằng làm xong về cơ bản nghĩa là sau khi đã gây dựng lại một số tỉnh uỷ lâm thời (theo cách của Dương Văn Phúc) và một số ban cán sự tỉnh hay thành (theo cách của tôi), vấn đề còn lại về tổ chức là các tỉnh thành phải lo gây dựng lại cơ sở của mình, tập hợp lại quần chúng vài ba năm nay bị rời rạc, tan tác. Xét ra thì việc lập lại Xứ uỷ tất nhiên là một việc khó mà tương đối dễ; bọn tôi có kinh nghiệm bản thân, riêng tôi đã từng thực hiện loại nhiệm vụ đó hồi 1933, thành công và thất bại ở những chỗ nào, đến nay tôi hãy còn nhớ kỹ như là nhớ chuyện ngày hôm qua; phần khác những đồng chí nào “kinh cung chi điểu”[4] thì thôi, chớ nếu đã đồng ý lãnh nhiệm vụ mới thì đều là những đồng chí từng kinh qua cấp uỷ của Đảng hay của hội, nhiều hay ít đều được quần chúng tin cậy. Khó mà dễ là như vậy.
Còn hai việc lớn nữa phải làm cho tốt, cho mau; một là phải nỗ lực làm sao cho Đảng ở Nam Kỳ, sau một thời gian tan vỡ, trở lại mạnh như trước, mạnh hơn trước, ngõ hầu theo kịp với tình hình thế giới và trong nước chắc chắn sẽ biến chuyển nhanh về hướng có lợi cho cách mạng. Việc này là bình thường, là thường xuyên. Hai là phải xác định đường lối cách mạng, xác định đặc điểm và triển vọng của tình hình, đề ra các nhiệm vụ cần kíp trên con đường chiến đấu của đất nước và của địa bàn mình phụ trách. Việc này, thoáng qua thì hình như là dễ, ta đã sẵn có đường lối chiến lược “cách mạng tư sản dân quyền” từ năm 1930 rồi kia mà, sau luận cương cách mạng tư sản dân quyền thì ta đã có “chương trình hành động” phổ biến từ 1932, được Quốc tế Cộng sản tán thành kia mà.
♦
Thật thà mà nói, Văn, bạn học tôi trường Stalin, Văn nay đã chết rồi, chết từ 1941, chết trong tay mật thám, thì không còn đồng chí vượt ngục nào có khả năng lý luận khá. Toàn là những tay hoạt động thực tiễn giỏi mà ít lý luận. Kể cả Phúc; Phúc kiên trì hoạt động thì ít ai hơn, ít ai bằng, nhưng ít đọc, càng ít viết, Phúc (Bà Rịa) thì học nhiều mà không hoạt động tích cực. Tây thì viết được mà chưa chịu ra. Nhiệm vụ vạch đường lối rơi vào tôi, túng quá phải gánh, không chối được, chờ liên lạc với Trung ương, chờ chỉ thị thì chừng nào mới có?
Tôi có ý thức rất rõ, có ý thức đầy đủ rằng, ngày nay lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc đã vào một thời kỳ mới, thời kỳ chiến tranh và cách mạng chắc chắn rộng hơn thời kỳ chiến tranh 1914-1918 và cách mạng vô sản sau chiến tranh đó. Đường lối đã vạch ra từ hồi 1930, 1932 nay đâu còn thích hợp nữa. Vậy phải có một đường lối mới thích hợp hơn. Trung ương hội nghị lần thứ VI họp ở Bà Điểm cuối năm 1939, đã bắt đầu đề ra một đường lối mới. Mà nay là 1943 rồi, không phải là 1939 nữa. Năm 1939, chiến tranh thế giới còn là chiến tranh giữa phe Đức phát xít và Pháp, Anh đế quốc thực dân. Nay chiến tranh đã mở rộng ra khắp thế giới tây đông, mà mặt trận chính là Đức, Nga, và nay Anh, Mỹ là tư bản chủ nghĩa, đồng minh của Liên Xô là xã hội chủ nghĩa. Pháp đã mất nước từ tay Đức. Hai ba năm trước, một mình Pháp thống trị Đông Dương, bây giờ Đông Dương bị Pháp và Nhật cùng thống trị. Thì đường lối cách mạng của Đảng ta phải như thế nào mới đúng? Đúng nghĩa là chắc chắn đưa đến cách mạng thành công?
Tôi hiểu rằng một cái Xứ uỷ cho dầu là cứng hơn, vững hơn bọn tôi mấy lần đi nữa, cũng không có quyền vạch ra đường lối cách mạng là đường lối của toàn Đảng, toàn quốc; cho nên xác định đường lối cách mạng phải là nhiệm vụ của Đại hội Đảng hay là của Ban chấp hành Trung ương Đảng, các cấp bậc ấy mới có đủ quyền hạn. Nhưng ở Nam Kỳ bấy giờ không còn có cơ quan Trung ương cũng không còn có uỷ viên Trung ương từ sau những vụ bị bắt ở đường Nguyễn Tấn Nghiêm và xung quanh cuộc khởi nghĩa 1940. Ngày nay nhìn lại thì thấy rằng mãi cho đến sau cách mạng tháng Tám, chúng tôi, không biết có nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VIII – một cuộc hội nghị Trung ương có Nguyễn Ái Quốc tham dự[5]. Lúc đó chúng tôi cảm giác bơ vơ trong một thời cuộc cực kỳ rối và khó. Phải tự vạch đường mà đi hay là phải chờ đợi? Mà chờ đợi đến chừng nào? Chờ đợi ai? Trong lúc không thể dẫm chân một chỗ. Mà thời thế xem chừng như là cấp bách. Sau Stalingrad rồi! Người chiến sĩ cách mạng, đoàn thể cách mạng cần biết tự động, có sáng kiến, phải sáng kiến tự động giống như một sĩ quan cầm đầu một đơn vị chiến đấu đang cơn hỗn loạn ở chiến trường, đứt liên lạc với cấp trên và với tả hữu, tất phải tự động sáng kiến mà tiến thoái. Nhớ lại hồi 1933, Xứ uỷ cũ không còn, Xứ uỷ mới vừa thành lập, Trung ương không có, các bạn và tôi vạch lấy con đường mà đi; trong nhiều việc mới chưa có tiền lệ, như việc tranh cử hội đồng thành phố Sài Gòn, Xứ uỷ đã tự mình giải quyết đúng đắn, lần đầu tiên kết hợp bí mật và công khai, dám sử dụng các cơ hội hợp pháp để hoạt động cách mạng, nhờ đó một phần mà gây lại được phong trào quần chúng rộng lớn và sôi nổi ở Nam Kỳ. Bây giờ, mười năm sau, tình thế đơn độc thì giống mười năm trước mà tình hình chính trị của thời chiến ngày nay gay go hơn biết mấy! Nhưng rồi cũng phải tự vạch con đường mà đi thôi. May là, trong Nam, từ cuối 1939, đã có nghị quyết Trung ương lần thứ VI. Mà Trung ương hội nghị lần thứ VI họp trong lúc ở châu Âu đã nổ ra chiến tranh giữa Đức và Pháp, Anh, chưa có chiến tranh Đức - Liên Xô, Pháp chưa bại trận. Á Đông thì quân Nhật chưa vào Đông Dương, chiến tranh Thái Bình Dương chưa nổ ra. Bây giờ, 1943, thì tình hình khác xa hồi cuối 1939, chắc chắn là nghị quyết Trung ương VI còn có nhiều phần ứng dụng được, nhưng không đủ nữa. Thì làm thế nào bây giờ? Suy nghĩ nhiều, thảo luận mãi, chúng tôi, đi đến chỗ quyết định phải tự trao cho mình trách nhiệm vạch ra đường lối mà đi tới, đó là đường lối cách mạng do tôi đề nghị và tôi phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sai đúng của nó.
Trần Văn Giàu diễn thuyết tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 13.03.1946
(mít tinh về tình hình mặt trận Nam Bộ)
Phúc sau này lấy tên là Năm Đông[6], thấy tôi lúng túng nên đề nghị hãy lấy nghị quyết Trung ương thứ VI làm cơ sở của đường lối rồi thi hành châm chước theo tình hình mới, như vậy sẽ “hợp pháp” hơn. Văn và Phúc chỉ có hai người trong đám vượt ngục Tà Lài đã được biết nghị quyết ấy song cũng chưa bao giờ nghiên cứu cho thấu đáo, cho nên, học lóm, tôi chỉ biết vài nét đại cương; nay Văn chết rồi, còn Phúc thì quên ráo, trừ ra cái nhiệm vụ phải thừa cơ chiến tranh thế giới để làm cách mạng giải phóng thành công. Tìm kiếm mãi, tôi bắt gặp mấy đoạn chép tay nghị quyết VI ở nhà Prigorny (Trân[7] - Phú Lạc) giấu trên mái lá của chuồng trâu. Tôi hết sức cảm động khi đọc đoạn chót của nghị quyết, lời kêu gọi thống thiết toàn thể đảng viên cộng sản:
“ Các đồng chí! Thời cuộc hết sức nghiêm trọng, nhiệm vụ mà lịch sử phú thác cho ta rất nặng nề. Là những phần tử tiên tiến của giai cấp thợ thuyền và là những con cháu tinh anh tận tụy với công cuộc giải phóng dân tộc, chúng ta phải giác ngộ rõ cái sứ mệnh lớn lao ấy và đủ can đảm, đủ nghị lực, đủ sáng suốt để gánh vác nó.
Các đồng chí hãy xiết chặt hàng ngũ lại!
Muôn người cố kết như một!
Tiến lên thực hiện Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Tiến lên lật đổ ách đế quốc, tranh lấy độc lập, giải phóng tự do, bình đẳng, hoà bình, hạnh phúc…”.
Và kêu gọi thống thiết toàn thể đồng bào:
“Anh chị em đồng bào!
Dân tộc chúng ta đứng ở vào tình thế một còn một mất.
Là dòng dõi tinh anh của Trưng Vương, Triệu Ẩu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Phan Đình Phùng, lại là dân tộc đông nhất, dân tộc Việt Nam hãy mau mau đoàn kết lại, thống nhất Trung Nam Bắc, liên hiệp với Miên Lào và tất cả các dân tộc thiểu số khác dưới ngọn cờ Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, kẻ xuất công người xuất của, ra sức đấu tranh chống đế quốc chiến tranh và giải phóng các dân tộc Đông Dương ra khỏi đế quốc Pháp.
Chỉ có chiến tranh giải phóng mới thật là chiến tranh vì công lý, tự do”.
Đọc nghị quyết tháng 11 năm 1939, tôi chú ý đặc biệt đến một số tư tưởng mang nhiều tính sáng tạo so với luận cương cách mạng tư sản dân quyền (1930) và Chương trình hành động (1932), những tư tưởng đem lại nhiều gợi ý lớn cho tôi khi tôi phải đề nghị một dự thảo đường lối cách mạng cho Xứ uỷ 1943. Những tư tưởng gợi ý đó là:
“Đứng trong một tình thế ít nhiều khác với tình thế 1930-1931, chiến lược cách mạng tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới. Cách mạng phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mạng điền địa thì không giải quyết được cách mạng phản đế; không giải quyết cách mạng phản đế thì không giải quyết được cách mạng điền địa. Các nguyên tắc ấy không bao giờ thay đổi được; nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mạng là đánh đổ đế quốc”.
Ngay khi đọc nghị quyết, tôi liền thấy rằng đây không phải là “các nguyên tắc ấy - cách mạng phản đế và điền địa song song, không tách, không cái nào thứ nhất, cái nào thứ yếu - không bao giờ thay đổi được”. Thực tế thì hội nghị Trung ương 1939 đã “thay đổi” nguyên tắc ấy, đã chuyển hướng chiến lược, trước là cách mạng phản đế và điền địa, nay là cách mạng dân tộc giải phóng, nhiệm vụ phản đế là “chính cốt”; không nói tách bạch ra nhưng cũng đã đủ rõ rằng cách mạng điền địa là thứ yếu, nhưng cần viết lại sao cho các đồng chí hiểu rằng dù nó là quan trọng lớn, lớn nào cũng không bằng cách mạng phản đế; đặt cách mạng phản đế làm “chính cốt” là cốt để tập hợp được lực lượng yêu nước của cả dân tộc đến mức cao nhất có thể được. Đúng là đã có thay đổi ở nguyên tắc chính. Nghị quyết nói rõ hơn nữa:
“Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa đến vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư bản bản xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mạng, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết”.
Lâm thời không đưa ra khẩu hiệu “tất cả ruộng đất về tay dân cày” nữa mà đưa ra khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của thực dân và của địa chủ phản bội quyền lợi của dân tộc”.
Bạo dạn lắm và rất đúng, rất hay. Về sau, tôi nghĩ rằng trên thực tế lịch sử, sự chuyển hướng chiến lược lớn của Đảng ta đã bắt đầu từ tháng 11 năm 1939, còn nghị quyết Trung ương VIII thì tiếp tục và hoàn thiện một sự nghiệp phát triển lý luận bắt đầu từ nghị quyết Trung ương VI. Năm 1943, sau khi lập Xứ uỷ, trong việc tự vạch một đường lối cách mạng, chúng tôi ở Nam Kỳ, đặc biệt là tôi, đã chịu ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc của nghị quyết Trung ương VI về sự xác định “nhiệm vụ chính cốt” của cách mạng Đông Dương, cách mạng Việt Nam. Giống như cái thời (1928-1929, khi tôi gõ cửa xin gia nhập Đảng Cộng sản Pháp) mà tôi “phát hiện” ra trong nghị quyết của Quốc tế Cộng sản đại hội lần thứ VI nhiệm vụ chiến lược cách mạng điền địa gắn liền với cách mạng phản đế.
Chưa hết cái sáng tạo của Hội nghị tháng 11 năm 1939, tại Bà Điểm. Nghị quyết còn nói đến vấn đề tính chất và hình thức của chính quyền cách mạng đã thành công. Nghị quyết rút lại khẩu hiệu “lập chính phủ Xô Viết công nông” mà đưa khẩu hiệu lập chính phủ cộng hoà dân chủ mang tính chất đoàn kết rộng rãi bao gồm nhiều thành phần xã hội ngoài công nông tuy là dựng trên cơ sở liên minh công nông.
Bạo dạn lắm; cũng là thức thời lắm!
Vấn đề Miên Lào được quan niệm một cách khác hơn hồi 1930, 1932 khi ra đời Luận cương chính trị và Chương trình hành động. Nghị quyết tháng 11 năm 1939 nói:
“Không một dân tộc nào có thể giải phóng riêng lẻ, vì Đông Dương ở dưới quyền thống trị duy nhất của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và binh bị. Không thể có một bộ phận nào thoát khỏi nền thống trị ấy mà chẳng liên quan đến cả nền thống trị của đế quốc Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết bắt buộc các dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình song sự tự quyết cũng không nhất định nghĩa là rời hẳn nhau ra”.
Nói một cách khác hơn, rõ hơn, không đặt vấn đề thành lập Liên bang Đông Dương như hồi 1930 nữa, mà đặt vấn đề liên minh chiến đấu giữa Việt, Miên, Lào chống đế quốc thực dân Pháp nhằm giành lại độc lập cho nhau, mỗi dân tộc Việt, Miên, Lào có quyền quyết định chế độ chính trị của mình mà cả ba đều ủng hộ nhau để hoàn thành và bảo vệ nền độc lập đó.
Thế là rõ. Thế là hội nghị tháng 11 năm 1939 đã cho phép ta đánh đổ một chính sách tuyên truyền “chia để trị” của Pháp. Duy, ngay sau tháng 11 năm 1939, ta không có cơ hội để tuyên truyền cổ động rộng rãi cho một chiến lược đổi mới vừa hợp với lịch sử, vừa hợp với lòng dân của cả ba dân tộc Việt, Miên, Lào.
Bên trên, tôi vừa nói đến ba chuyển hướng chiến lược đặc biệt quan trọng của Trung ương hội nghị tháng 11 năm 1939. Ba điều ấy được chúng tôi, hồi 1943-1944, lấy làm cơ sở để vạch ra đường lối của Xứ uỷ.
Đọc lại một số đoạn của nghị quyết VI, tôi lấy làm lạ, đồng thời cũng rất cảm động, khi thấy rằng cuối năm 1939, trong lúc Thường vụ Trung ương còn toàn vẹn và an toàn mà hội nghị đã đặc biệt chú tâm đến vấn đề nối chắp liên lạc dưới trên, Nam Bắc trong Đảng bị địch làm tổn hại nguy hiểm. Nghị quyết nói phải:
“Tìm cách khôi phục hệ thống Trung Nam Bắc và phải làm cho sự liên lạc từ chi bộ đến Trung ương được khắng khít. Nhất là trong lúc này (là lúc) Đảng thay đổi chính sách, phải làm cho chính sách ấy phổ cập trong toàn Đảng… Và trong lúc tình thế nghiêm trọng này, phong trào quần chúng sẽ tiến tới một tốc độ không ngờ, nếu các tổ chức Đảng từ trên tới dưới không liên lạc mật thiết như một người thì Đảng không thể chỉ huy phong trào một cách đúng đắn được. Phong trào cách mạng của quần chúng sẽ vì đó mà yếu ớt đi, cách mạng sẽ không thực hiện được, Đảng ta sẽ mang tội với vô sản, với dân tộc, với cách mạng toàn thế giới”.
Chúng tôi càng thấm thía tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ “khôi phục hệ thống Trung Nam Bắc” được đặt ra ngay từ cuối năm 1939, nhiệm vụ càng cấp bách vào năm 1943-1944… tới đó mà vẫn chưa thực hiện được, tới đó mà chúng tôi ở Nam chưa biết Trung ương còn hay không, còn thì đã vạch ra đường lối cách mạng thế nào cho tất cả các tổ chức cộng sản đều theo đúng như vậy. Về sau ai nói đông tây gì mặc kệ, chớ hồi 1943, khi lập lại Xứ uỷ chúng tôi Phúc, Giàu… nhắc mãi cái câu tâm huyết của nghị quyết VI: “Nếu các tổ chức Đảng từ trên xuống dưới không liên quan mật thiết như một người… cách mạng không thực hiện được… ta mắc tội với vô sản, với dân tộc…”.
Không đành chịu ngồi chờ, bất đắc dĩ chúng tôi phải tự vạch ra một đường lối cách mạng mà dù tự tin mấy cũng không khỏi phải âu lo rằng có thể có sự khác biệt đáng lẽ tránh được với các đồng chí ở Bắc Trung. Sau này, ai hiểu được cho tôi thì tôi nhờ, ai hiểu không được hay không muốn hiểu thì tôi chịu, chớ bảo nhau “ngồi chờ” quyết không phải là thái độ của tôi hay của bất cứ người “cách mạng chuyên nghiệp” nào. Khi ấy, ở Nam Kỳ, ở trong tình thế phải tự vạch ra con đường để mà đi tới trước, nếu có sai biệt gì với bên trên (mà chúng tôi không biết chắc là còn hay mất) thì tôi sẵn sàng chịu phê bình, nhưng người ta không những phê bình mà còn công kích dữ dội, ác liệt, cái lối xử sự ấy quả là khó chấp nhận lắm.
Vấn đề “một cổ hai tròng”, ách của hai đế quốc Pháp và Nhật
Hồi cuối năm 1939, đầu năm 1940, chỉ có một mình Pháp thống trị Đông Dương.
Khi ấy, trong những năm cuối thời Mặt trận bình dân, đứng trước nguy cơ chiến tranh giữa Nhật- Pháp ở Đông Á, anh Lê Hồng Phong chủ trương “phòng thủ Đông Dương”. Còn tôi, dù ở trong Khám Lớn Sài Gòn, tôi có gởi bài đăng ở báo Avant garde chủ trương là “giữa bệnh dịch tả và bệnh dịch hạch, ta không lựa chọn cái nào” (entre la peste et le choléra, on ne choisit pas). Khi ấy, có mặt Honel nghị sĩ cộng sản Pháp được Đảng Cộng sản Pháp phái sang Sài Gòn, anh ấy phản đối tôi hết sức dữ dội, và không phải chỉ có một mình Honel phản đối tôi. Nhưng quần chúng và cán bộ thì bàn tán nhiều, không phải ai cũng ủng hộ “phòng thủ Đông Dương”. Anh tuyên chiến với Đức. Đồng minh của Đức là Nhật đem quân vào Đông Dương, Pháp-Nhật câu kết nhau.
Ngay từ khi chiến tranh thế giới bắt đầu, Đảng đã quyết định sẽ nhân cơ hội chiến tranh đế quốc để làm cách mạng giải phóng thành công, điều này đã ghi trong Luận cương chính trị 1930 và Chương trình hành động 1932. Giữa năm 1940, Pháp bị Đức đánh bại phải đầu hàng, một chính phủ chư hầu, tay sai của Đức được thành lập ở Pháp và Pháp được giữ nguyên các thuộc địa. Chính phủ thuộc địa tại Đông Dương theo đường lối của chính phủ Pétain ở Pháp. Quân Pháp theo Pétain nắm trọn quyền ở Đông Dương. Nhưng cuối 1940 và đầu 1941, Pháp chấp nhận để quân đội Nhật vào Đông Dương. Từ đó, thống trị Đông Dương không phải chỉ có đế quốc Pháp mà còn có quân phiệt Nhật. Một cổ hai tròng là thế. Ai đoán trước được? Cuối năm 1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Khởi nghĩa thất bại. Pháp đàn áp dữ dội, khốc liệt nhất từ khi chúng đến đồng bằng Cửu Long, Đồng Nai. Khi nổ ra khởi nghĩa Nam Kỳ chưa có đại quân Nhật vào đây; nay thì quân Nhật có mặt ở cả Bắc, Trung, Nam, Miên, Lào nữa, đóng căn cứ hành quân khắp nơi. Nhật dung dưỡng Pháp và Pháp phục vụ lại Nhật, hai thằng đế quốc tuy có mâu thuẫn với nhau mà cùng nhau đè đầu cưỡi cổ dân ta. Nhân dân và cả đồng chí nữa đặt câu hỏi: một đế quốc Pháp, đã bị phát xít Đức đánh bại, mà ta còn đánh đổ không nổi, ta còn thua, nay thêm một đế quốc Nhật, đế quốc đó lại đang thắng Mỹ, Anh, Hà như chẻ tre, cả hai kẻ xâm lược Pháp, Nhật cùng thống trị dân tộc ta, thì ta làm sao đánh đổ nổi chúng để giành lại độc lập?
Trong câu hỏi có xen ý hoài nghi tiền đồ cách mạng. Chúng tôi đã trả lời câu hỏi một cách đơn giản mà không có ai trong số các đồng chí (và trong quần chúng cảm tình) không cho là đúng:
Pháp sở dĩ chấp nhận để cho quân đội Nhật vào Đông Dương vì chúng không có sức đương đầu với Nhật, một trận Lạng Sơn đủ chứng tỏ điều ấy rồi. Đánh Nhật thì Pháp (ở Đông Dương) chết ngay, mất hết. Nhân nhượng thì may ra còn. Vả lại, chính phủ Pétain ở Pháp chịu phục tùng Đức, mà Đức thì muốn cho Pháp cứ giữ thuộc địa, Nhật là đồng minh của Đức; cho nên Pháp ở Đông Dương nuôi hy vọng có thể giữ được bộ máy cai trị của chúng cho đến ngày hết chiến tranh mà chúng tưởng rằng phe trục phát xít sẽ thắng.
Nhật tất nhiên là muốn ăn hết miếng mồi Đông Dương chớ không muốn chia phần cho Pháp. Nhật hất cẳng Pháp không khó khăn, dễ như móc thuốc lá trong túi. Nhưng nếu như Nhật hất cẳng Pháp ngay thì cái khó khăn lớn của Nhật là phải tổ chức ra bộ máy cai trị của chúng, liệu bộ máy mới có giữ trật tự nổi trong một nước có truyền thống cách mạng rất mạnh như Việt Nam không? Chi bằng tạm để quân Pháp ở đó, buộc Pháp nếu muốn tồn tại để chờ thời, thì một mặt phải làm việc giữ trị an bằng bộ máy Nhà nước đã xây dựng từ gần một trăm năm nay, mặt khác phải lo bảo đảm hậu cần cho quân đội Nhật, cần lương thực có lương thực, cần nhân công có nhân công, cần tiền có tiền, bến tàu, sân bay, đường sá đều sẵn. Lợi hơn là trực tiếp nắm tất cả quyền hành. Mà người chủ thật sự là Nhật, không phải là Pháp. Đến lúc nào cần thiết thì Nhật sẽ lật Pháp dễ như trở bàn tay, việc này có ngày nhất định sẽ xảy ra, vấn đề là sớm hay muộn chớ hai con chó không thể cùng chia êm một miếng mồi ngon. Chúng nó sẽ cắn nhau, một con sẽ chết. Con chết trước là thực dân Pháp. Hai kẻ thống trị sẽ còn một, hai ách sẽ chỉ còn một, mà ách thống trị còn đó cũng sẽ không kiên cố lâu dài gì bởi vì Nhật sẽ thua trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trong cuộc xâm lăng Trung Quốc. Nhật lật đổ Pháp sẽ không có phần trợ lực nào hết dù là gián tiếp của lực lượng ta, nhân dân ta đóng góp càng lớn thì cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương càng có điều kiện dễ thắng lợi.
Vậy không có gì phải ngán, phải bi quan với cái sự thật đáng ghét là một cổ hai tròng, một dân tộc thuộc địa mà hai đế quốc hè nhau thống trị.
Cũng do nhận định như thế mà tôi đề nghị với các đồng chí là ta không để ngang hàng thực dân Pháp với quân phiệt Nhật, ta phải xem đế quốc Nhật là kẻ thù số một mặc dù nó không ngồi ghế toàn quyền, thống sứ, thống đốc; tôi đề nghị khẩu hiệu chiến lược là “đánh đổ đế quốc Nhật, bài trừ phản động Pháp, Đông Dương độc lập muôn năm”. Khẩu hiệu này bao hàm ý nghĩa rằng ta có thể cần phải lợi dụng mâu thuẫn của Pháp và Nhật, hàm ý nghĩa rằng Pháp, Nhật đều là kẻ thù của ta, mà bây giờ thì kẻ thù chính là Nhật; cũng hàm ý nghĩa rằng Nhật thế nào cũng sẽ lật đổ Pháp, rằng những người Đông Dương yêu nước trong trường hợp cụ thể và trong điều kiện nhất định có thể là đồng minh chiến đấu của phe kháng chiến Pháp chống Nhật và chống phe Decoux thân phát xít. Về sau tôi mới biết được ở ngoài Bắc, các đồng chí ta từ năm 1941,1942 đề ra khẩu hiệu “đánh Pháp, đuổi Nhật” cho đến khi nổ ra sự kiện 9 tháng 3 năm 1945, Nhật lật đổ Pháp. Như vậy là trước ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nam, Bắc có sự khác biệt không phải đâu đó muốn khác nhau như thế nào, mà vì hệ thống Đảng chưa được khôi phục. Nhà làm sử về sau có thể đánh giá là ở Nam Bộ, và riêng ở tôi, sai đúng tới mức nào, nặng bao nhiêu nhưng trong vấn đề này, tôi muốn được thấy rõ sai lầm của tôi nếu quả đó là sai lầm về khẩu hiệu chiến lược.
Trong một lần Hội nghị Xứ uỷ ở Chợ Gạo năm đó (cuối 1943), tôi đã yêu cầu các đồng chí chú trọng đặc biệt đến nhiệm vụ – cũng mang tính chất chiến lược – đấu tranh tư tưởng chính trị chống “chủ nghĩa Pháp-Việt phục hưng” của thực dân Pháp ở Đông Dương và “chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật. Vào thời điểm đó, trong khi tôi nhận định rằng trong hai kẻ thù đế quốc, đế quốc Nhật là số một, thì tôi nhận định rằng trong hai tư tưởng địch thủ, không cái nào là thứ hai, cả hai đều rất nguy hiểm; từ năm 1943 trở đi, cái chủ nghĩa Đại Đông Á có sút giảm ảnh hưởng bởi vì chiến tranh Thái Bình Dương bắt đầu chuyển sang chiều hướng bất lợi khó gỡ cho Nhật và bởi vì hơn vài năm nay đám thân Nhật coi như là “mỏi mòn trông đợi”, mất dần tin tưởng vào Nhật cho đến nỗi tướng Tòng Tỉnh chủ tịch Liên Á phải sang Sài Gòn để “trấn an”, để “lên dây cót” cho đám tay chân người bản xứ, cái xu thế của chủ nghĩa Đại Đông Á càng lâu càng mất đà, khó gỡ. Còn cái “chủ nghĩa Pháp-Việt phục hưng” cũng gọi la “chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới” của phái Decoux thì với cái sức mạnh đang chuyển sang đà thắng của đồng minh Anh, Mỹ, Liên Xô, dẫn đến chỗ thực dân Pháp và đồng minh bản xứ lâu đời của chúng hy vọng một cuộc khôi phục nước Pháp, hy vọng vào hoạt động của De Gaulle và đám gaullistes ở Đông Dương. Cho nên, trên cơ sở đường lối cách mạng (mà chúng tôi tự vạch ra), cuộc đấu tranh tư tưởng chính trị chống chủ nghĩa “Pháp-Việt phục hưng” và “chủ nghĩa Đại Đông Á” được chúng tôi xem như là điều kiện cốt yếu để đẩy phong trào cách mạng tới thành công. Về sau, tôi nhận thấy rằng, trên mặt trận này, chủ trương đường lối ở Bắc và ở Nam không có khác biệt nhiều, duy ở trong Nam lực lượng thân Nhật, tiêu biểu là các giáo phái, to lớn lắm, hoạt động dữ lắm, đấu tranh với họ vừa vất vả, vừa tế nhị hết sức. Những quyển sách loại “bỏ túi” của tôi phát hành lúc đó chống “chủ nghĩa Pháp-Việt phục hưng” (hay là “chủ nghĩa Liên bang của Decoux), chống “Chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật có giúp cho anh em ta tuyên truyền cách mạng, khôi phục lòng tin vào cách mạng, nhưng phải nói rằng có tác dụng quyết định trong việc khôi phục lòng tin vào cách mạng là những chiến thắng của Hồng quân Liên Xô từ Stalingrad trở đi.
Vấn đề tập hợp lực lượng
Vấn đề tập hợp lực lượng để đi tới khởi nghĩa cách mạng là vấn đề rất lớn trong việc xác định đường lối sau khi đã rõ đối tượng tính chất của cách mạng. Nói giải phóng dân tộc, giành độc lập, các thời kỳ, các tổ chức, các vị yêu nước đều nói; nhưng tới nay thì chưa ai làm được. Khởi nghĩa Yên Bái 1930, khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, đều biểu hiện ý chí giải phóng dân tộc, nhưng đều thất bại; một trong những nguyên nhân lớn của sự thất bại là đã chưa tập hợp đủ lực lượng để làm cách mạng. Nam Kỳ 1940 tập hợp được lực lượng nhiều lần hơn Yên Bái 1930, mà cả hai đều thiếu; Nam Kỳ khởi nghĩa, ngay khi nhìn ở tầm địa phương, cũng là một cuộc nổi dậy với lực lượng tập hợp còn xa mới đủ: công nhân lao động thành thị chưa nổi lên, không có binh lính nổi lên, đa số các quận huyện không có nổi lên và ngay nông dân ở các quận huyện có khởi nghĩa cũng chỉ một số ít cầm vũ khí đánh giặc Pháp. Vả chăng, trong một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nếu chỉ có công nông binh trong tổ chức của Đảng nổi lên thì một sự tập hợp lực lượng như thế vẫn còn hẹp hay là chưa đủ rộng lớn cần thiết. Xứ uỷ chúng tôi nhận định như vậy. Nhận định như vậy, quyết không phải là “chê” các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa 1940, nhận thấy khuyết điểm ấy là để xác định rằng muốn khởi nghĩa thành công phải có không chỉ hàng vạn mà hàng ức triệu người nhất tề nổi lên mới được.
Từ nay cho đến khi có thời cơ khởi nghĩa, phải làm cho kỳ được những gì trong trách nhiệm tập hợp lực lượng?
– Phải chú trọng đặc biệt vào công nhân, người lao động; chú trọng vào công chức của chính quyền ở thành thị, trước hết là ở Sài Gòn đầu não; thật sự biến các xí nghiệp lớn và các công sở chính làm “thành trì của cách mạng”, giống như đặt quả bom, đặt trong bụng của địch nhân, như đóng cái đinh vào đầu của chúng; nếu quả ta tính đánh địch một đòn chết tươi thì phải đánh thẳng vào bộ não, trái tim của chúng; có thể nghĩ ngay bây giờ là ngày mai, khi nổi lên khởi nghĩa, ta sẽ chiếm các công sở Sài Gòn chủ yếu bằng lực lượng cách mạng ở trong công sở đó. Vậy từ bây giờ, ta phải dồn phân nửa sức mạnh của đảng bộ vào công tác trọng tâm này, để không bao giờ lặp lại cái dở tai hại của tháng 11 năm 1940, là nhiều nơi ở nông thôn nổi lên mà Sài Gòn thì lại yên tĩnh.
- Phải thu hút đông đảo nông dân cho bằng và nhiều hơn hồi 1930-1931, 1937-1938, đặc biệt là, ở mỗi tỉnh, ta phải tập trung nhiều cán bộ giỏi hoạt động tổ chức tuyên truyền ở các quận huyện gần châu thành của tỉnh ấy là chính chớ không phải dàn đều; cũng ra sức hoạt động tổ chức tuyên truyền ở dọc theo các đường giao thông huyết mạch. Trong toàn bộ Nam Kỳ thì nông vận phải chú trọng riêng các tỉnh xung quanh Sài Gòn, làm sống lại và mạnh hơn lên cái “vành đai đỏ” từng nổi tiếng để có ngày tiếp ứng mãnh liệt cho lực lượng khởi nghĩa của thành phố.
- Phải phát huy truyền thống binh vận và nắm cho kỳ được số lính khố xanh ở Sài Gòn, Chợ Lớn và mỗi tỉnh. Từ ngày Pháp đầu hàng Đức và dạ dạ vâng vâng trước Nhật thì công tác binh vận có nhiều cơ hội thành công hơn trước. Lênin đã làm khởi nghĩa ở Petrograd với nhiều đơn vị lục quân và hải quân của chính quyền tư bản. Năm 1940, các báo cáo về kết quả binh vận là không đúng thực tế. Chúng tôi biết rõ tầm quan trọng của binh vận, nhưng khác xa với Quốc dân đảng, chúng tôi cho rằng chỉ khi nào chúng ta tập hợp được một lực lượng công nông thật lớn thì binh lính mới mạnh dạn đứng về phe cách mạng.
– Phải đặc biệt chú trọng tập hợp lực lượng thanh niên ở thành thị và nông thôn, không phân biệt là thanh niên thuộc thành phần giai cấp nào. Nếu ví Đảng là một con người thì công nhân và thanh niên là tay mặt tay trái của con người đó. Cả Pháp lẫn Nhật, mấy năm nay đã chú trọng chinh phục thanh niên. Ta phải cản trở, đánh bại những cố gắng ấy của chúng. Mấy năm nay, cũng thấy nảy nở ra ở Sài Gòn và nhiều tỉnh một phong trào sinh viên, học sinh chưa xác định rõ được tính chất chính trị, mà điều chắc chắn nhất là Đảng ta không được để cho tụi tay chân của Pháp, của Nhật lôi kéo thanh niên; ta phải quyết tâm giành thanh niên với chúng. Nhiệm vụ này chỉ có thể hoàn thành tốt nếu Đảng ta tạo được một sức mạnh lớn công nông liên minh có khả năng “lôi kéo” các giai cấp trung gian và nếu Đảng ta có một số cán bộ đại trí thức có tiếng tăm và nhân cách. Chỗ này lâu nay là một nhược điểm lớn của Đảng, ta cần phải khắc phục nhanh chóng. Công tác này rất khó mà không thể xem nhẹ.
– Đặc điểm chính trị xã hội Nam Kỳ là có nhiều chánh đảng và giáo phái lớn; có cả chánh đảng hoạt động dưới hình thức tôn giáo. Phải điều tra kỹ tình hình đảng phái và giáo phái ở Nam kỳ, xem xét khả năng “làm đoàn” trong một số phái có đông quần chúng, phân hoá họ và cảnh tỉnh những cánh nào có thể cảnh tỉnh, đoàn kết với họ. Công tác này khó khăn và tế nhị, cần giao cho một số ít cán bộ có năng lực, có tư cách. Khi cần, ta có thể bàn đến khả năng một số ít đồng chí có năng lực, có tư cách đứng ra trợ lực, hướng dẫn cho những người yêu nước nào đó thành lập chính đảng cách mạng quốc gia, dân chủ, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc.
Vào năm 1943 trở đi, sau khi chiến dịch đại thắng của Hồng quân Liên Xô tại Stalingrad thì các đồng chí cộng sản nằm yên hay ẩn núp từ 1940, nay bắt đầu được vực lên về mặt tinh thần; số anh chị em đó còn nhiều; có thể và cần phải đưa họ trở lại hoạt động cách mạng với Xứ uỷ, đó là điều kiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ “tập hợp lực lượng”. Tập hợp lực lượng nhân dân tất nhiên phải bắt đầu và đi song song với tập hợp lực lượng các chiến sĩ cộng sản bị tan tác sau cuộc khởi nghĩa thất bại 1940.
Hồi cuối năm 1943 đó, khi vạch ra cho mình một đường lối cách mạng thì tôi và các bạn của tôi chưa đặt ra và bàn luận vấn đề lập “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế” mà Hội nghị Trung ương 1939 ở Bà Điểm đã đặt ra. Tôi chưa biết có nghị quyết lập Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) của hội nghị Trung ương lần thứ VIII, năm 1941, ở Cao Bằng. Cho nên chúng tôi tổ chức Đảng và hội, để tập hợp lực lượng, y như hồi Đảng Cộng sản mới ra đời; cũng công hội, nông hội như trước chớ không phải “công nhân cứu quốc”, “nông dân cứu quốc” v.v… (sau tôi sẽ có dịp trở lại vấn đề này). Còn về việc lập “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế” thì Nghị quyết VI không nói rõ sẽ tổ chức ra sao? Gồm những ai? hoạt động cách nào? Tôi nói với các đồng chí trong cuộc họp để bàn về đường lối cách mạng và những nhiệm vụ cần kíp rằng, khi nào năm, sáu nhiệm vụ lớn (đã kể trên) được thực hiện có kết quả thì khi ấy mới có điều kiện để lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế ở Nam Kỳ; chớ bây giờ thì chưa có thể lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế được; nếu bây giờ lập mặt trận thì mới chỉ có hình thức, chớ chưa có thực tế bởi lẽ ta chỉ có Đảng ta và các tổ chức công nông thanh phụ còn yếu ớt của chúng ta, cái đó chưa phải là mặt trận. Mặt trận theo đúng ý nghĩa của nó phải là một liên minh chiến đấu theo một chương trình hành động chung giữa các chính đảng, các đoàn thể, các giai cấp, các sắc tộc, các tôn giáo, các thân sĩ tiêu biểu. Nay (1943, 1944) ta chưa có điều kiện để lập mặt trận; riêng Đảng Cộng sản và công hội, nông hội chưa thành mặt trận; liên minh công nông là cơ sở của mặt trận dân tộc thống nhất nhưng chưa trở thành tổ chức mặt trận rộng lớn mà ta hướng tới.
Vấn đề tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
Viết đến đây tôi muốn để ít thời giờ để kiểm điểm và tự kiểm điểm về vấn đề: Tại sao Nam Bộ không sớm tổ chức Việt Minh? Tại sao? Thời điểm đó tôi chưa nghe hai chữ Việt Minh. Tới tháng 7 năm 1945, tôi mới có chương trình điều lệ Việt Minh trong tay, thì làm sao hồi 1943, 1944 có chủ trương theo đường lối của hội nghị Trung ương VIII được? Mà ví phỏng trước hay trong các cuộc hội nghị đại biểu ở Phú Lạc, Chợ Gạo tôi đã nắm được chương trình điều lệ Việt Minh mà chưa được giải thích thật kỹ, chắc gì tôi không “thắc mắc” về một số điểm trong đó có việc biến đổi các công hội, nông hội thành “hội công nhân cứu quốc”. Tuy vậy tôi sẽ tán thành tổ chức “Hội thanh niên cứu quốc”, “Hội văn nghệ cứu quốc”, “Hội phụ nữ cứu quốc”. Còn những tổ chức mang tính chất giai cấp của công nhân, nông dân (công hội, nông hội) thì bản chất của nó vốn đã đậm đà chất cứu quốc rồi, bản chất và nhiệm vụ của nó còn cao hơn là cứu quốc, nên tôi nghĩ rằng việc gì phải lấy một cái tên khác tiêu biểu chỉ cho cách mạng phản đế? Mặt trận Việt Minh mà chúng tôi sẽ tổ chức ở Nam Kỳ vào giữa năm 1945, sẽ bao gồm: Đảng Cộng sản, Tổng Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, đảng Tân Dân chủ, Cánh tả đảng Quốc gia (Cư sĩ tịnh độ), Cao Đài cứu quốc, hội binh sĩ yêu nước… không giống như điều lệ Việt Minh chính thức, cho nên khi đó, một số anh em mỉa mai gọi chúng tôi là “Việt Minh mới”, gọi chúng tôi là “Việt Minh mới” là không đúng lắm, nhưng cũng không phải là không duyên cớ! Sau này tôi còn nghe nói “Việt Minh thiệt, Việt Minh giả” nữa! Phiền phức quá! Mà tránh sao được khi đồng chí ở mỗi nơi đều ra sức tự động thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, chớ không ngồi chờ.
Tôi nhớ rằng khi ấy các đồng chí ở Nam không mấy ai quan tâm thực hiện vấn đề Mặt trận. Trái lại thì anh em quan tâm đến vấn đề khởi nghĩa giành chính quyền. Khi ấy, sở dĩ, trong lúc Xứ uỷ Đảng mới khôi phục, anh em ai nấy đều quan tâm đến vấn đề khởi nghĩa, hẳn là vì ai nấy đều không thể quên cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1940, dưới thời kỳ của Xứ uỷ do đồng chí Tạ Uyên lãnh đạo. Phải tránh vết xe đổ, nhiều đồng chí nói. Đòn đau 1940 hãy còn thấm thía lắm; nhưng hội nghị vẫn khẳng định với Trung ương VI (1939) và luận cương chính trị (1930) rằng không thể nào giành được độc lập mà không trải qua cuộc vũ trang khởi nghĩa (lúc bấy giờ cũng được gọi là “bạo động”). Khởi nghĩa, bạo động là thuộc vào đường lối cách mạng, là bộ phận quan trọng bậc nhất của một đường lối cách mạng.
Cuối năm 1943, chúng tôi ở Nam Kỳ quan niệm như thế nào về khởi nghĩa, về “bạo động” cách mạng? Tôi đã nhiều lần ra sức thử tổng kết kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa 1940, rút những bài học lớn. Nay cuối năm 1943, ở các cuộc hội nghị Chợ Gạo, Phú Lạc, để “hoàn chỉnh” về cơ bản một đường lối cách mạng, ít nhất là tạm thời trong lúc chưa nối được liên lạc với Trung ương – tôi đã trình bày những ý kiến chủ đạo sau:
Thứ nhất là: ý kiến của Nghị quyết VI. Nghị quyết VI nói:
Muốn đi tới đánh đổ đế quốc, phải huy động dân chúng chống đế quốc chiến tranh, và kêu gọi lòng ái quốc chân chính, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; phải biết gắn kết với những quyền lợi thiết thực của các tầng lớp nhân dân với quyền lợi dân tộc và kêu gọi thống nhất dân tộc. Cái tinh thần ái quốc và đòi thống nhất dân tộc, giải phóng dân tộc càng phát triển thì tinh thần phản đế càng mạnh mẽ. Mở rộng và nâng cao tinh thần dân tộc, làm cho mỗi người trong các giai cấp có ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự mật thiết của vận mệnh dân tộc với lợi ích cá nhân mình; đặt quyền lợi dân tộc lên trên tất cả các quyền lợi khác; thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp…
“Xoay tất cả phong trào đấu tranh lẻ tẻ vào cuộc đấu tranh chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế quốc Pháp và bè lũ, dự bị điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
Như vậy nghĩa là giương cao ngọn cờ dân tộc, đi tới khởi nghĩa vũ trang. Hoàn toàn không vì khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại mà chọn con đường nào khác; không có con đường nào khác để giành độc lập dân tộc ngoài con đường dẫn đến khởi nghĩa, “bạo động” cách mạng. Mọi sự tập hợp lực lượng đều nhằm vào một trận thư hùng, một cuộc khởi nghĩa vũ trang quyết thắng, không có quyền bại.
Trong cuộc chiến tranh thế giới ngày nay, đế quốc Pháp ở Đông Dương rồi sẽ bị đế quốc Nhật lật đổ. Cuộc hợp tác ma quỷ Nhật-Pháp sẽ chấm dứt không sớm thì chầy. Rồi sau đó, phát xít Nhật hùng cường sẽ bị quân Mỹ, Anh, Trung Quốc đánh bại, việc nhất định phải đến, sẽ đến, chỉ có sớm hay muộn thôi. Chúng ta tin chắc rằng không phải là Nhật đánh đổ Pháp thì tự nhiên đem lại độc lập cho dân tộc ta và cho các dân tộc Đông Dương, cái độc lập đó cho dù có tuyên bố cũng quyết không phải là độc lập thực sự mà chỉ là hình thức thôi, giả mạo thôi; chúng ta không hề muốn cái thứ độc lập ấy. Chúng ta cũng chắc chắn rằng dù đồng minh Mỹ, Anh, Trung Quốc thắng Nhật cũng không trả lại độc lập cho dân tộc Việt Nam đâu, mà sẽ trả lại chủ quyền cho Pháp, hay nhiều nhất là họ đặt chế độ “uỷ trị” và giao lại cho Mỹ và một đế quốc nào khác. Ta phải nhận thức rõ rằng không đời nào có “bất chiến tự nhiên thành”, không có độc lập do ai ban cho mình; chỉ có độc lập do bản thân ta chinh phục mới thực sự là độc lập. Độc lập thật sự chỉ có thể giành được bằng khởi nghĩa vũ trang, bằng bạo động cách mạng. Một đường lối cách mạng phải khẳng định điều này, hoàn toàn trái với lời hứa hẹn của Nhật với các chính đảng và giáo phái theo chủ nghĩa Đại Đông Á. Cũng khác hẳn với kế hoạch “Liên bang Đông Dương” lừa bịp của Decoux.
Còn như hỏi: chừng nào mới khởi nghĩa, thì ta trả lời rằng: khi các điều kiện khách quan đã đủ, đã chín (hồi 1943, 1944 chưa ai dùng chữ “chín muồi”) và khi tập hợp đủ lực lượng. Còn như lực lượng tập hợp chưa đủ, điều kiện khách quan chưa chín, mà cứ phát động khởi nghĩa, là manh động, là khởi nghĩa non, mà non thì thua. Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, là khởi nghĩa non, nên thất bại thấy trước.
Hôm đó, một lần nữa, tôi nêu ra cái sai lầm lớn của các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ. Tất nhiên tôi không trách Thường vụ Trung ương đã bị bắt gần một năm trước mà trách hai đồng chí ủy viên Trung ương còn sót (là anh Tần và anh Lưu) sao không kiên quyết ngăn cản Tạ Uyên và Xứ uỷ trên con đường bạo động non dẫn đến thất bại kia. Cuối 1940 đã không có thời cơ đủ chín cho khởi nghĩa, lại chưa có lực lượng đủ mạnh cho bạo động, mà cứ bạo động, khởi nghĩa là làm liều, nổi lên thì rất anh dũng mà thất bại thì rất lớn, không đáng có. Lần tới, ta phải làm khởi nghĩa theo khoa học và nghệ thuật Lênin, theo mẫu mực cách mạng tháng Mười Nga. Nói cho rõ hơn, tôi và các đồng chí của tôi không ưng ý với chủ trương khởi nghĩa bằng lực lượng du kích, bằng khởi nghĩa địa phương, bằng chiến lược “nông thôn bao vây thành thị”. Tôi thấy hồi 1940 Xứ uỷ Nam Kỳ chịu ảnh hưởng của Mao Trạch Đông, việc phát hành quyển “chiến tranh du kích” vào giữa năm 1940 nói rõ điều ấy. Bằng du kích làm sao mà giành chính quyền được? Phải làm khởi nghĩa cách mạng, một cuộc quyết chiến bằng bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang kết hợp nổ ra trên đỉnh cao nhất của một phong trào quần chúng, mà địch dù thấy trước cũng không làm sao ngăn cản nổi, không làm sao trở tay kịp. Chúng tôi lại đinh ninh rằng một cuộc khởi nghĩa muốn thành công, phải là một cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc, không phải là một cuộc khởi nghĩa địa phương dù là một địa phương rộng lớn và có tầm chiến lược như Nam Kỳ. Có thể đoán trước rằng cuộc tổng khởi nghĩa sẽ nổ ra vào khoảng tàn cuộc của chiến tranh thế giới lần thứ hai, vào năm tháng nào khó mà đoán trước, song từ nay tới đo ta phải nỗ lực.
– Tập hợp lực lượng lớn nhất có thể được.
– Nối hệ thống tổ chức giữa Xứ uỷ với Trung ương và toàn Đảng.
Đại để, chúng tôi, Xứ uỷ Nam kỳ, vào cuối năm 1943, đã tự vạch ra một đường lối cách mạng như thế. Ngoài chúng tôi ra, lúc ấy ở Nam Kỳ không thấy có ai khác, không biết có nhóm nào khác vạch ra một đường lối cách mạng.
Ban Tuyên huấn của Xứ uỷ Nam Kỳ lập ngay kế hoạch phát hành một số sách “bỏ túi” (theo kiểu “cộng sản tùng thư” hồi 1933, 1934) để phổ biến những vấn đề thuộc đường lối mà Xứ uỷ đã vạch. Những quyển sách “bỏ túi” đầu tiên là quyển “Việt Nam trên đường độc lập”, “Rạng đông của một dân tộc” của Xuyên Vân Nhạn (tức là tôi) mà sau đó bị Trường Chinh[8] phê phán. Bộ sách bỏ túi này chú trọng công kích chủ nghĩa Đại Đông Á của Nhật và chủ nghĩa Liên bang của Decoux.
Từ cuối 1943, ở Nam Kỳ chúng tôi đã lập lại Xứ uỷ và Xứ uỷ ấy tự trang bị cho mình một đường lối chủ trương vận động cách mạng trong khi chờ đợi những chỉ thị của Trung ương Đảng. Những chỉ thị của Thường vụ Xứ uỷ cho Ban cán sự Sài Gòn trở thành một bộ phận cấu thành chủ trương đường lối của đảng bộ Nam kỳ.
Tôi trở lại Sài Gòn và từ nay tôi để gần hết tâm lực, trí lực vào hoạt động ở Sài Gòn và các tỉnh xung quanh Sài Gòn. Trên đường về lại Sài Gòn, tôi ghé thăm mẹ. Nhà tôi cách Tân Thuận Bình Chợ Gạo khoảng mười cây số. Từ năm 1941, tôi đã qua lại Chợ Gạo đến ba lần mà đều “tam quá kỳ lư bất nhập”[9].
Về nhà thăm mẹ
Chuyện lớn phải lo mà chuyện nhỏ đừng quên. Việc công là trọng, mà việc tư thỉnh thoảng cũng phải nhớ. Tôi hay nghĩ lẩn thẩn như vậy, khi ở chân trời góc biển, tôi luôn luôn nhớ đến mẹ, đến vợ, đến làng quê; nhớ lắm.
Từ lâu, 1930, tôi được liệt vào loại cán bộ mà thời ấy được người ta gọi là “thoát ly gia đình”. Khái niệm “cán bộ thoát ly gia đình” ở Việt Nam trước cách mạng cũng giống như khái niệm “cán bộ cách mạng chuyên nghiệp” (révolutionnaire professionnel) Lênin đã dùng khi Người viết sách “Làm gì?”. Lênin cho rằng, để xây dựng một đảng cách mạng nhất là trong điều kiện khủng bố trắng, phải có một loại đồng chí làm “cách mạng chuyên nghiệp” nghĩa là không làm nghề gì khác hơn là làm cách mạng, số đồng chí đó để hết thời giờ của mình vào hoạt động cách mạng. Bên Việt Nam những năm 1920, 1930 (cả hồi đầu những năm 1940 nữa) bọn tôi lấy cái ý mà không lấy cái từ của sách “Làm gì?”; nhưng trong phiên toà thực dân Pháp xử tôi năm 1935, khi quan toà hỏi: “Ông làm nghề gì?” thì tôi trả lời: “Làm cách mạng chuyên nghiệp”. Chớ không lẽ trả lời: “Tôi thoát ly gia đình”? “Thoát ly gia đình” để làm gì? Có thể là để làm cách mạng, có thể để làm bất cứ cái gì mà trong gia đình mình làm không được, không nhất thiết phải là làm cách mạng. Tuy vậy, tôi vẫn thích thú với khái niệm “thoát ly gia đình” mà anh em ta dùng thời đó, bởi vì khái niệm ấy, trong lịch sử xuất hiện của nó, đã có thời bao hàm một ý nghĩa triết lý, chính trị. Mãi đến sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Việt Nam còn nhiều gia đình mang nặng tư tưởng, tình cảm, tập tục Nho giáo phong kiến; chẳng những phần lớn là các gia đình thân sĩ theo đạo Khổng, Mạnh, Trình, Chu đều theo lối xưa như thế, mà ngay cả một số gia đình trung nông, viên chức, thương nhân cũng vậy. Tuổi trẻ thường bị ràng buộc nhiều lắm bởi cương thường Nho giáo đã thâm căn từ mấy chục đời rồi. Nhưng tuổi trẻ, nhất là tuổi trẻ có ít nhiều Tây học, thấy rằng mình cần bay nhảy tự do. Thanh niên Sài Gòn đã vỗ tay hoan nghênh Nguyễn An Ninh khi anh Ninh tại một cuộc mít tinh ở Nam Kỳ Khuyến hội học năm 1923, kêu gọi thanh niên hãy đi xa, đi thật xa nhà tổ phụ để tìm lý tưởng mới, đừng lẩn quẩn lại xó bếp gia đình chật hẹp và lạc hậu. Đó là cái lý vào những năm cuối 1920, người ta gọi là “thoát ly gia đình”, ý đó có nghĩa là chống lại tàn dư tư tưởng tập quán phong kiến, đi tìm chân trời mới. Nhưng ngay cả khi anh Ninh khi ấy cũng chưa chắc đã rõ lắm cái “chân trời mới” đó là gì. Đến khi Nguyễn Ái Quốc lập Thanh niên cách mạng đồng chí hội vào năm 1925 và Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) thì cái lý tưởng cách mạng đã rõ. Khái niệm “thoát ly gia đình” ra đời với nội dung mà Lênin đề ra trong sách “Làm gì?”: Đảng cách mạng chẳng những gồm đại đa số đồng chí là những người lao động tay chân và trí óc, vừa làm ăn bình thường, cầm búa, cầm cày, cầm bút, vừa để một phần thời giờ cho công tác tuyên truyền, tổ chức, hội họp, đấu tranh; Đảng Cách mạng còn phải có một số đồng chí dành hết quỹ thời gian của mình cho hoạt động cách mạng, các đồng chí ấy thường nhất là không ở tại nhà mình nữa, mà đi xa, nhiều khi đi rất xa, từ Bắc vào Nam, từ nông thôn ra thành thị, từ phố phường hay trường học, vào đồn điền, hầm mỏ, để tuyên truyền, tổ chức, đấu tranh, in phát báo bí mật, làm bất cứ việc gì dù lớn dù nhỏ, dù an dù nguy mà Đảng cách mạng cần. Đó là những anh chị em “thoát ly gia đình”, làm “cách mạng chuyên nghiệp”. Loại cán bộ này trong Đảng Cộng sản đông tới hàng trăm. Tôi là một trong số đó.
Từ cuối năm 1930, tôi đã bắt đầu “thoát ly gia đình”, và trở thành người hoạt động “cách mạng chuyên nghiệp”.
Gia đình tôi không đến nỗi quá phong kiến lạc hậu, với tâm lý: “cha mẹ còn, con cái không nên đi xa”. Nhưng tôi vẫn phải thoát ly gia đình, trước tiên bởi vì nếu không “vào bí mật” thì không hoạt động cách mạng được, địch theo dõi sát quá và sẽ bắt giam tôi, bắt luôn cả những ai đi lại với tôi. Thú thật, nếu Đảng Cộng sản được quy chế hợp pháp hay nửa hợp pháp, tôi sẽ thích làm người “cách mạng chuyên nghiệp” mà không “thoát ly gia đình”. Hết ngày công tác tuyên truyền, huấn luyện, tổ chức, hết đợt hoạt động náo nhiệt và căng thẳng thì về nhà tìm yên tĩnh âu yếm với cha mẹ, vợ con, chẳng hơn là đất khách quê người, ăn trong bếp, ngủ dưới đất, nghe chó sủa đã phải đề phòng hay sao? Nhưng “thời thế thế, thế thì phải thế”. Từ cuối 1930 đến nay (hết 1943), tôi chỉ được sum họp với gia đình trước sau ba lần, cộng lại chừng hơn ba tháng. Cha tôi chết; con tôi chết; mẹ tôi già, tựa cửa trông tôi. Vợ tôi hiu quạnh, nước mắt ướt gối. Tôi nhớ nhà lắm chớ! Tim tôi đâu phải bằng đá? Vượt ngục Tà Lài từ đầu năm 1941, đến giờ hơn hai năm, gần ba năm, tôi chưa lén được về nhà lần nào. Chị tôi, vợ tôi có bí mật đi thăm tôi. Nhưng má tôi chỉ biết rằng tôi còn sống, mạnh giỏi, đang hoạt động cách mạng. Nay, nhân một chuyến đi họp ở Mỹ Tho, thấy tình hình cho phép. Tôi tạt qua nhà thăm mẹ. Tôi thèm hôn mẹ tôi và thèm được mẹ tôi xoa đầu như hồi còn nhỏ.
Thuở tôi còn học trường Tầm Vu, nhà tôi đông người lắm; tứ đại đồng đường: cha mẹ tôi, anh chị tôi, cháu gọi tôi bằng cậu, chú và con của con đầu lòng anh Năm tôi, chưa kể hai anh ở mùa, cầm cày, đập lúa, chăn trâu. Nhưng rồi dần dà, anh Năm, anh Bảy, anh Mười tôi ra riêng, mỗi người trấn một dãy ruộng; tới phiên chị Chín tôi cất nhà ở trong vườn. Vợ tôi vì không có chồng ở nhà nên về bên xã Phú Ngãi Trị với cha mẹ ruột, mấy tháng mới vô thăm tía má tôi một lần, mỗi lần tía má tôi được con dâu về thăm thì hai cụ như sống lại, ít hôm sau gạt nước mắt đưa con dâu ra cửa ngõ, trông theo mà càng buồn. Rồi tía tôi chết. Mẹ tôi còn chỉ có một mình. May có đứa cháu gái goá bụa về ở cùng tại nhà dưới. Nhà tôi bây giờ giống như một ngôi chùa không tượng Phật, chỉ có hai bà vãi tối tối đốt nhang, đánh chuông. Cả ngày cả đêm hầu như không có tiếng động nếu không có con Vện già sủa trăng hay điểm khách qua đường ngoài cửa ngõ. Hiu quạnh lắm. Buồn bã lắm. Bà con hàng xóm có người nói: “Tại chú Út đi đâu mất mới ra cảnh này”. Người khác bảo: “Ruộng vườn, nhà cửa, vợ trẻ, có gì cột được chân ông ấy đâu; làm trai phải vậy chớ sao? Nước mất mà nhà an thì cũng hiếm”. Ruộng nhà bị bán đi lần lần, không còn mấy, trừ ruộng hương hoả; nhưng nợ nần cũng được trang trải hết. Bồ lúa nhỏ đi mà vẫn đầy. Túi tiền cạn mà không khổ. Má tôi, chị tôi, cháu tôi đã sống được lại còn có thể chu cấp cho tôi sống mà công tác. Vợ tôi tần tảo, nuôi heo, chà gạo, làm tá điền cho ông Cụ, ăn chung mà làm riêng nên dư dả, không ai dám khinh miệt, đạo đức gương mẫu, dân làng kính nể, trong quê ngoài chợ ít ai bảo con trai bắt chước chú Mười vì gian lao quá, nhưng rất nhiều phụ huynh dạy con gái hãy theo gương cô Sáu, một tấm gương chung thuỷ vì nghĩa như Kiều Nguyệt Nga.
Trần Văn Giàu và gia đình thời còn trẻ
(ảnh tư liệu Trầm Hương)
Khi mặt trời sắp lặn thì tôi đã băng đồng, từ kinh Chợ Gạo đi qua chợ Ông Văn, tránh lộ dây thép, tránh cả lộ me, không sợ lính xét giấy thuế thân, chỉ sợ gặp người quen. Trong mình tôi có thẻ thuế thân, trong túi cũng lắm tiền, lưng quần lận một cây súng lục đầy đạn, vai vác một cây đòn xóc có lủng lẳng một đôi dép, đầu đội nón lá, chân đi đất, quần áo xềnh xoàng như nông dân đi đồng. Ma nào mà biết rằng tôi là ông Giàu đi về thăm nhà? Vợ anh Hiển, người chợ Ông Văn, báo cáo cho tôi tình hình tuần tra ban đêm của lính đồn Ông Văn: “Chẳng có gì đáng lo, tụi lính đi kiếm ăn ở những sòng cờ bạc. Theo báo cáo mới nhất thì từ hơn một năm nay, làng lính không còn chú ý đến nhà tôi nữa vì đã chú ý nhiều năm mà chẳng thấy gì”.
Trời nhá nhem thì tôi đã qua khỏi chợ. Trở ngại xem như không còn. Cầu Đồn bây giờ không có đồn. Qua cầu rồi thì tới làng tôi; nhà tôi ở đầu kia làng, phải mất một giờ nữa mới tới. Vào thời điểm này, đồng đã khô vì lúa đã gặt xong. Tôi đi tắt, vừa để rút ngắn quãng đường, vừa để tránh gặp người. Thời đó, không ai ăn trộm lúa vì lúa quá rẻ, bán không được, chỉ có Pháp thu mua để cung cấp cho quân Nhật và để thay thế cho than đá đốt lò nhà đèn Chợ Quán Sài Gòn; tôi không gặp một ai trên đường đi. Gần tới vuông tre nhà tôi, tôi ngồi xuống để xem động tĩnh ra sao, trước hết để nhìn rõ mộ cha tôi; tôi mặc niệm hồi lâu. Cha tôi chết khi tôi còn bị đày ra đảo Côn Lôn. Chị Chín tôi có lần kể lại rằng trước khi tắt thở, cha tôi dốc tàn lực, vịn cột nhà đứng dậy, lần theo vách, vừa đi vừa kêu: “Ký ơi! Ký ơi! Con ở đâu không về với tía”. (Ký là tên tôi hồi tôi chưa đi học). Người nhà bà con ai cũng mủi lòng, dắt cha tôi trở lại giường. Như vậy là cái hình ảnh cuối cùng trong tâm trí cha tôi là đứa con bất hiếu này! Tôi nguyện lấy trung với nước mà làm hiếu với cha; chớ làm sao khác được? Nhớ lại lần tôi bị trục xuất từ Pháp về và hai lần tôi bị Pháp bắt bỏ tù về, cha tôi không hề rầy la tôi sao không lo công danh, sao không lo vợ con. Cha tôi không tham gia chiến đấu chống Pháp như ông nội tôi, nhưng Cụ dù có ruộng vườn cũng không hề ra làm hương chức. Cụ chỉ làm ông “tiên bái” lo việc cúng tế thuần làng; con trai lớn của Cụ là anh Năm tôi thì tham gia nghĩa quân Thiên địa hội năm 1916, Cụ không ngăn cản.
Ở quê, chín giờ tối đã khuya. Xóm làng ngủ hết. Đường không còn ai. Quan sát hồi lâu tôi không thấy động tĩnh gì, bèn vo quần bước xuống một cái cống đào tự bao giờ, tôi lớn lên đã thấy nó rồi; cái cống xẻ ngang bờ tre, cho nước sông lên, cho nước đồng xuống. Phải vạch ô rô để vào mương, leo lên tiếp mới vào nhà chị tôi ở góc vườn. Tôi vừa leo lên bờ thì, bất ngờ, một con vật gì lủi tôi: con chó; nó định sủa, nhưng rồi nó nín thinh, nó ngửi được mùi tôi, rồi liếm tay và vẫy đuôi lia lịa, kêu hự hự, mừng quýnh. Té ra con Vện già! Tôi rờ đầu nó, nó đứng lên ôm eo ếch tôi. Hồi tôi từ Khám Lớn về nhà cách đây ba năm, ngày nào tôi cũng cho Vện ăn ngon, vuốt ve nó, nói chuyện với nó. Nó mến tôi lắm. Tối, nó ngủ dưới chân tôi, tôi trải manh đệm cho nó nằm. Có một buổi tối nọ, mật thám Tây, phủ Hoài và cả phủ Mai dắt lính đến nhà bắt tôi thì Vện sủa dữ, bị thằng cò đá một đá, nó la hoẳng, chạy trốn dưới sàn, nhưng nó dám đưa tôi ra tới cổng. Bây giờ nó còn nhớ hơi tôi! Như vậy là Vện đã hay tôi về khi tôi còn lội dưới mương. Nếu nó sủa ầm lên thì cũng sanh rầy: hàng xóm, mấy ông già chưa ngủ, sẽ đoán rằng bà Bái có khách khuya. Con Vện dường như cũng biết giữ bí mật cho chủ nó. Khôn thật! Chị Chín tôi còn thức. Linh tính khiến chị ngó qua vách, hỏi khẽ: “Em đó hả?”. Tôi khẽ lên tiếng “Em đây!”.
Trong nhà chị tôi chỉ có một cây đèn dầu leo lét trên bàn thờ Phật, ngọn chỉ bằng hột bắp, chiếu sáng lờ mờ một khoảng bằng cái cơi trầu. Chị tôi mở cửa sau rước tôi vào nhà. Hai cháu gái mừng cậu trong bóng tối, khóc thút thít. Con Vện liếm chân tôi một hồi rồi ra nằm ngoài sân, như để canh chừng.
Ông bà Trần Văn Giàu những năm cuối đời
(ở nhà riêng, 70 Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn)
Chị Chín tôi cực khổ với tôi lắm. Hồi tôi còn đi học ở trường Tầm Vu, chị tôi phải dậy sớm nấu cơm, rang vài bát cho tôi ăn liền, còn vài ba bát nữa thì tôi đem theo trong một cái giạ nhỏ xíu xinh xinh với mấy con tép hay một khứa cá kho khô. Khi tôi bị tù rạc thì chị Chín tôi đi thăm. Tôi trốn ở Nam Trung Kỳ thì chị Chín lặn lội đem tiền ra cho tôi. Chưa kể hằng đêm chị tôi tụng kinh cầu Phật phù hộ em. Bây giờ chị kể hết việc nhà, từ khi tôi trốn khỏi căng Tà Lài tới nay; chị nói: “đám lính rình rập mãi năm, sáu tháng rồi thôi, em có thể ở nhà mấy bữa mà không hề gì”.
Trong lúc tôi bắc ghế trên phản với lên mái nhà cắt năm ruột lạt cột lá dừa (đề phòng có biến sẽ đu lên nóc) thì hai cháu Ba, Tư lên nhà thờ rước bà ngoại xuống nhà tụi nó, nói rằng có ông thầy chùa ở chợ Ông Văn sang thăm và lạc quyên để sửa tượng Phật. Má tôi vô nhà chị tôi rồi mới hay rằng ông thầy chùa đó là tôi. Mẹ con ôm hôn nhau, mừng mừng tủi tủi. Mẹ tôi hôn tôi khắp mặt, cổ, tay, hôn tới đâu nước mắt cụ thấm ướt tới đó. Trong đêm tối, tôi cảm thấy má tôi già thêm nhiều so với ba năm trước. Làm da má nhăn sâu hơn, cái răng cửa hồi đó còn, bây giờ rụng mất rồi; lưng má tôi còng hơn. Má tôi năm nay ngót 80 tuổi. Bà kể lại rằng hôm cò Tây tới bắt tôi, má tôi tưởng đâu Pháp bắt tôi đem đi bắn bởi vì chiến tranh đã nổ ra rồi. Má tôi còn kể lại rằng, sau khi tôi bị bắt, sáng sớm má tôi rải lúa cho bầy gà bầy vịt để dành cho tôi thì má tôi khóc hết nước mắt. Má tôi cũng kể lại rằng, khi tôi vượt ngục Tà Lài, đám quan chức trong làng báo tin tôi đã bị dân thiểu số bắt lại, chặt đầu đem nộp cho Tây lấy thưởng bằng gạo, bằng muối. Nghe tin sét đánh đó, mấy lần má tôi chết ngất. Mãi đến khi chị Chín tôi ra Nha Trang gặp tôi rồi về nói cho má tôi biết thì má tôi mới tin chắc là tôi còn sống. Má tôi cưng tôi nhất nhà, bởi vì tôi là con út, là đứa có trách nhiệm nuôi cha mẹ lúc già và giỗ cha mẹ khi mất; nhưng bao nhiêu hy vọng của cha mẹ gởi vào tôi đều chẳng được chút gì. Cha tôi chết khi tôi còn ở tù. Không biết rồi khi má tôi theo cha đi, tôi sẽ có mặt ở nhà không? Hay lại cũng nơi chân trời góc biển?
Cả má và chị Chín đều bảo tôi ở lại chơi một vài ngày, để có thời giờ cho các cháu đi Phú Ngãi Trị rước vợ tôi về An Lục Long. Tôi cũng muốn như vậy lắm. Song, làm sao tính cho hết sự bất ngờ? Rủi ro có bề gì thì đã thiệt mạng mình mà mình lại đắc tội với dân tộc, với Đảng. Nên tôi quyết định là quá canh ba tôi sẽ lên đường; mục đích về thăm mẹ đã đạt rồi. Vài hôm nữa, tôi phải có mặt ở một địa điểm thuộc tỉnh Chợ Lớn (Phú Lạc), hay một địa điểm thuộc Gò Vấp (Hàng Điệp, Bào Lăng, Gia Định) để họp với Ban cán sự thành Sài Gòn mở rộng. Đứng vững trên căn cứ nơi ngoại thành Sài Gòn, tôi sẽ có dịp nhắn vợ tôi lên, không muộn.
Gà gáy mấy chập. Trăng sắp mọc.
Tôi ôm hôn mẹ, chị, hai cháu, rồi gạt nước mắt ra đi, không quên vuốt đầu vỗ lưng con Vện và để nó hít tay tôi, nó vừa hít vừa ngoáy đuôi lia lịa. Tôi lại vo quần, xuống mương, ra bằng ngõ đã vào. Đứng yên trong bụi một lúc, không thấy động tĩnh gì, tôi thong thả lên đường, chốc chốc ngoái lại mộ cha, nhà mẹ, rặng tre thân thiết nơi đã chứng kiến tôi được sinh ra, lớn lên và vào đời chiến sĩ. Tôi nào ngờ gặp mẹ lần này là lần cuối. Tháng Tám năm 1945, cách mạng thành công, tôi chưa kịp thu xếp một ngày về quê thăm mẹ, thì kháng chiến chống Pháp nổ ra; việc lớn này chưa làm lại xảy ra việc lớn hơn. Má tôi mất năm 1950, khi tôi đang từ mặt trận Đăngrêch (Campuchia) về ở Việt Bắc. Tôi ân hận mãi không được gặp lại mẹ tôi ban ngày ban mặt hay dưới ánh sáng đèn điện để ghi lại trong đáy mắt chân dung người mang nặng đẻ đau sinh ra đứa con bất hiếu này.
Chú thích của người biên tập
1 Miền Trung Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ.
2 Trung ương: Năm 1943, Trường Chinh là quyền tổng bí thư, hai ủy viên ban thường vụ khác là Hoàng Văn Thụ (bí thư xứ ủy Bắc Kì, bị bắt tháng 8.1943, bị Pháp xử bắn tháng 5.1944) và Hoàng Quốc Việt. Người tiền nhiệm của Trường Chinh, Nguyễn Văn Cừ, đã chủ trì Hội nghị Trung ương tháng 11.1939 ở Bà Điểm (Nam Kì), sau đó bị bắt cùng với nhiều người khác (như Lê Duẩn). Hội nghị Trung ương tháng 11.1940 họp ở Đình Bảng (Bắc Kì) cử Trường Chinh làm quyền tổng bí thư. Phan Đăng Lưu trở về miền Nam phổ biến quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa mà chính ông và Xứ ủy Nam Kì đã quyết định mấy tháng trước đó: quá muộn. Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23.11.1940) bị dìm trong biển máu. Phan Đăng Lưu và hầu hết lãnh đạo ở Nam Kì bị bắt, nhiều người bị xử tử. Nguyễn Ái Quốc đặt chân tới Pắc Bó (tháng 1.1941) sau 30 năm bôn ba, vào đúng điểm mà tổ chức cách mạng do ông thành lập 11 năm trước đó bị đàn áp nặng nề, hầu hết những người lãnh đạo bị thực dân bắt giam hoặc thủ tiêu. Trong cái rủi cũng có cái may, có thể nói hai lần may. Một là cũng với sự tiêu vong của ban lãnh đạo 1930-1940, là thất bại của đường lối tả khuynh, giáo điều mà họ đã áp dụng theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản – nhân danh đường lối ấy, Nguyễn Ái Quốc đã bị phê phán nặng nề và vô hiệu hóa, ngay sau khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 2.1930), và nhất là trong những năm 1934-1938. Hai là, ở Liên Xô, Stalin rối bời trước cuộc tấn công của Hitler, Hồng quân thua đậm trong thời kì đầu (tổng tư lệnh và phần lớn bộ chỉ huy Hồng quân đã bị Stalin tàn sát từ cuối thập niên 1930); ở Trung Quốc, thì Mao và lãnh đạo ĐCS Trung Quốc còn ẩn náu mãi tận Diên An; Nguyễn Ái Quốc không còn bận tâm vì các đồng chí của mình, có thể vạch ra và theo đuổi đường lối giải phóng dân tộc đã từng bị lên án. Tất nhiên, thực hiện chính sách Mặt trận Việt Minh không dễ dàng khi đất nước còn nằm dưới ách thống trị của bộ máy thực dân Pháp theo Pétain và bộ máy quân phiệt Nhật Bản, hàng ngũ ĐCS bị đàn áp nặng nề, liên lạc với các xứ ủy Trung Kì và Nam Kì dường như bị cắt đứt trong mấy năm. Tình trạng phân hóa khá phổ biến: như ta sẽ thấy, Nam Kì sẽ có hai xứ ủy; ở Trung Kì, có tỉnh có tới ba tỉnh ủy bất đồng với nhau (xem David G. Marr: Vietnam 1945 / The Quest for Power, University of California Press, 1995).
3 Xuyên Vân Nhạn: con chim nhạn bay xuyên qua mây mù.
4 Kinh cung chi điểu: con chim đã bị tên bắn rồi thì trông thấy cành cong cũng kinh hãi (tưởng là cung).
5 Hội nghị Trung ương lần thứ VIII: họp từ ngày 10 đến 19.5.1941 tại Pắc Bó (Cao Bằng), chấp nhận sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh: “ Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc ”; “Đế quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”. Quan niệm, tầm nhìn, ngôn ngữ khác xa quan niệm “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của những Trần Phú, Hà Huy Tập…
6 Năm Đông: Dương Quang Đông, tức Dương Văn Phúc (1902-2003). Ông Năm Đông là nhà cách mạng lão thành đã tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí hội của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sớm hoạt động trong Công hội Đỏ của cụ Tôn Đức Thắng. Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kì. Trong thời kháng Pháp, ông là Phó phòng Hàng hải Nam Bộ, phụ trách văn phòng thường trực của ta ở thủ đô Xiêm quốc, Bangkok. Ông đóng vai doanh thương có cửa hàng xuất nhập cảng lớn tại thủ đô Bangkok, mua sắm tàu biển chở súng đạn, hóa chất, máy móc về nước đánh Tây. Trong cuộc sống đầy gian nguy giữa hàng ngũ mật vụ Pháp bố trí dày đặc ở Xiêm, dưới cái tên Xiêm là Nai Chran ông vẫn bình tĩnh làm tròn sứ mạng của mình cho tới ngày bị phe đảo chính bắt. Xem tiểu sử đầy đủ trong cuốn Dương Quang Đông xuyên Tây của Nguyên Hùng (sách đã dẫn). Những năm cuối đời, tuy tuổi cao, ông vẫn lên tiếng chống tiêu cực và sự lưu manh hóa hàng ngũ đảng (như tố cáo sự gian trá của tướng Lê Đức Anh).
7 Tức Nguyễn Văn Trân: xem chú thích ở các phần (I) và (IV).
8 Chúng tôi chưa tìm ra được những tập sách bỏ túi này cũng như những lời phê phán của Trường Chinh. Rất mong được bạn đọc giúp đỡ.
9 Tam quá kỳ lư bất nhập: ba lần đi qua ngôi nhà nhỏ đó mà không ghé vào. Người biên tập xin cảm ơn nhà Hán học Nguyễn Xuân Diện đã cho biết đây là tích Đại Vũ bận trị thủy, việc gấp, nên ba lần đi qua nhà mà không có thời giờ tạt qua.
(Xem tiếp Phần thứ Ba - tiếp theo)
Về lại Sài Gòn: Chỉ thị của Xứ ủy cho Ban cán sự thành
Về Sài Gòn lần này, lần cuối năm 1943, tôi đi thẳng lên Gò Vấp. Gò Vấp là một quận ngoại ô kế cận của Sài Gòn. Trong ý thức của tôi, Gò Vấp của Sài Gòn là Saint-Denis của Paris; sát với Paris, thị xã Saint-Denis nổi tiếng là thị xã “đỏ”, ở đây Đảng Cộng sản luôn luôn toàn thắng trong các lần bầu cử hội đồng thị xã. Đa số nhân dân Gò Vấp có cảm tình với Đảng Cộng sản Đông Dương, không phải mới đây thôi mà từ 1930 kìa. Những năm 1933, 1934, 1935, khi Xứ uỷ Nam Kỳ lập lại và hoạt động, thì vùng Xóm Thuốc - Bàu Lăng - Hàng Điệp từng là căn cứ, là một nơi an toàn của Xứ uỷ chúng tôi. Năm 1942, khi tôi từ Đà Lạt về Phú Lạc, tôi đã nhờ Bảy Trân lên Gò Vấp, lại nhà Sáu Sáng để xem nơi đó còn là nơi an toàn không? Kỳ này về Sài Gòn, định “cắm sào” hơi lâu, thì ngoài Phú Lạc, tôi chọn Gò Vấp làm một nơi căn cứ, căn cứ thứ hai, căn cứ thứ ba sẽ là Chợ Đệm sau khi tôi gặp Bảy Trân.
Xóm Thuốc, Bàu Lăng, Hàng Điệp là một vùng tiểu công nghiệp: nhuộm vải, sắc thuốc. Đa số dân làm nghề nhuộm, sắc thuốc. Ở đây gần con sông thường được gọi là sông “Miếu nổi” (có một cù lao trên đó dựng lên một cái miễu không biết từ bao giờ, tiếng đồn linh thiêng lắm), dưới sông này có một thứ bùn gì mà, hễ vải dệt xong, đem chôn dưới bùn đó một thời gian, vải trắng trở thành vải đen, đem vải phơi ở miếng đất trống xung quanh cái đồn Tây bỏ hoang gần đó khô rồi cuốn lại thành cây vải, đem về đập nện mấy ngày thì vải trở nên láng lẫy. Tiếng vồ đập vải cộp cộp cả ngày đêm, tháng này qua tháng nọ. Vùng này lại là vùng trồng thứ thuốc lá ngon nhất Nam Kỳ, thuốc Gò Vấp, hút say mê tơi; tới mùa thì cây thuốc đầy đồng bao nhiêu chục, có khi cả trăm mẫu, cao lút đầu người. Họp hội nghị trong đám ruộng thuốc lá thì có trời mới phát hiện nổi và có trời mới vây bắt được. Dân chúng ở cái vùng ngoại ô này làm nghề nhuộm, nghề sản xuất thuốc lá, rồi cả ngàn người làm thợ, làm thầy trong thành phố, chiều năm giờ, sáu giờ thì cỡi xe đạp về nhà để sáng sớm lại vào thành. Các tiểu chủ xe thổ mộ, những người trồng, sắc thuốc, dệt nhuộm và công nhân lao động của vùng này đã từng đi biểu tình vào Sài Gòn nhiều lần từ những năm 1936-1937, từng tham gia tổng bãi công để ủng hộ Tạo[1], Ninh[2], Thâu[3] khi các anh này bị Thống đốc Nam Kỳ bắt giam hồi thời Mặt trận bình dân.
Trần Văn Giàu gặp tổng thống Pháp François Mitterrand tại TP. HCM trong chuyến đi thăm Việt Nam của Mitterand (tháng 2, 1993). François Mitterrand thua Trần Văn Giàu 5 tuổi, thuở trẻ thuộc phe hữu (thậm chí cực hữu). Lúc Trần Văn Giàu bị giam ở Tà Lài thì cũng là lúc Mitterand bị bắt làm tù binh ở Đức. Cả hai vượt ngục thành công. Năm 1943, khi Trần Văn Giàu làm Bí thư Xứ ủy Nam Kì, Mitterand mới bắt đầu tham gia kháng chiến.
Trong số hàng trăm gia đình cảm tình cách mạng, tôi tin cậy nhất là gia đình anh Sáu Sáng, tôi đã ở đó trong những năm 1933-1935 và luôn luôn được an toàn. Những khi tôi bị bắt, căn cứ Xóm Thuốc, Bàu Lăng, Hàng Điệp vẫn không hề hấn gì. Anh em nhà Sáu Sáng làm việc ở bệnh viện Đồn Đất[4] và ở tổng kho súng đạn Pyrotechnie, gần cầu Thị Nghè, Sài Gòn. Anh Sáu Sáng, trước là học sinh trung học, thạo tiếng Pháp, người cao lòng khòng, gầy nhom; chị Sáu thì lùn, giỏi bếp núc, đóng vai hậu cần và bảo vệ tin cậy được. Vợ chồng Sáu Sáng gặp lại tôi, tôi trở lại thăm vợ chồng Sáu Sáng, mừng mừng tủi tủi, chỉ có nhà văn trữ tình mới tả được nỗi lòng. Anh chị đọc báo biết tôi là tù vượt ngục mà anh chị vẫn tiếp tôi không có vẻ sợ sệt gì hết, chỉ sợ bà con hàng xóm nhận ra tôi, nên phải đề phòng kỹ lưỡng; vả lại nhà Sáu Sáng cũng trồng thuốc như xưa, vườn không rộng mà nhà đủ kín đáo; ngõ vào có một, ngõ ra thì nhiều. Được sự đồng ý của anh Sáu Sáng, tôi triệu tập ở nhà anh một cuộc hội nghị mở rộng của ban cán sự thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Ban cán sự lúc đó mới có ba đồng chí: anh Oanh (cũng có tên là Bạch Đằng lớn), anh Tư Chí và anh Mười Thức, cả ba là công nhân kỳ cựu của thành phố, mời thêm hai đồng chí nữa là Hảo, nguyên học sinh tốt nghiệp trường Kỹ nghệ thực hành và chú thanh niên Hoàng, cháu tôi, học sinh lớp Tú tài trường trung học Pétrus Ký. Oanh, trạc tuổi với tôi, người Bắc Ninh, làm thợ giỏi, giao thiệp rộng, siêng công tác, chỉ có một cái dở là thỉnh thoảng ghé tiệm “làm vài điếu”[5] nhưng không ghiền. Anh sống ở Chợ Cũ, đường Guynemer[6], hồi đó có thể xem là khu phố đóng giày; anh hoạt động đâu từ 1935, 1936, cũng đã sẵn sàng khởi nghĩa hồi tháng 11 năm 1940 mà giờ chót không được lệnh. Thức, rể ông hương trưởng Hoài, chồng đồng chí Mười, cũng thợ giày, cùng người Bắc, từ chiến tranh về ở Tân Thuận Bình, tôi mời anh trở lại Sài Gòn, nơi anh từng hoạt động những năm Mặt trận bình dân. Từ Chí, người Quảng Nam, làm bồi bếp cho Tây ở bót mật thám Bô-Lô, Chợ Lớn, đã dám mở còng cho Hà Huy Giáp chạy trốn, bấy lâu nay về vùng Phú Lạc mở tiệm bán cá khô không xa nhà Bảy Trân, là người trong nhóm cộng sản Phú Lạc.
Cuộc họp Ban cán sự lần này quan trọng nhiều cho công tác Đảng ở Sài Gòn vì một mặt Ban cán sự thành lập chưa đầy nửa năm, đã bắt đầu tập hợp được cả chục đảng viên “nằm chờ” từ sau 1940, mặt khác, và đây mới là điều quyết định nhất, một phương châm được vạch ra cho Thành bộ theo đó mà hoạt động. Những chỉ thị của Thường vụ Xứ ủy cho Ban cán sự thành có thể được xem như một bộ phận của đường lối chung của Xứ ủy (đã được trình bày trên kia). Hãy nói lại rằng: nếu người phụ trách Sài Gòn là anh Phúc thì anh ấy đã lập Thành uỷ lâm thời rồi. Tôi tổ chức hơi khác anh Phúc một chút; tôi lập Ban cán sự để rồi sau đó xây dựng lại được một số cơ sở, một Đại hội đại biểu sẽ bầu ra Thành ủy. Hai cách làm không chắc cách nào hơn cách nào.
Thay mặt cho Xứ ủy, tôi truyền đạt và giải thích tỉ mỉ cho Ban cán sự thành những điểm sau đây của một đường lối cách mạng trong thành phố, một phương hướng hoạt động nhằm làm cho Sài Gòn và ngoại ô thật sự trở thành một pháo đài của chủ nghĩa cộng sản.
Thứ nhất: trong tương lai, chắc là không xa mấy, Sài Gòn sẽ phải trở thành trung tâm điểm của một phong trào đấu tranh cách mạng nổi lên khắp Nam Kỳ lục tỉnh nhằm thực hiện thành công nhiệm vụ vinh quang nhất, cũng là khó khăn nhất là khởi nghĩa vũ trang giành độc lập dân tộc. Có khởi nghĩa vũ trang mới có độc lập dân tộc; không có cách nào khác giành độc lập cho nên mọi hoạt động của chúng ta bây giờ đâu phải nhằm vào cái mục tiêu khởi nghĩa cách mạng. Và cần phải khẳng định rằng một cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ, muốn thành công, muốn tránh khỏi thất bại đau đớn như hồi 1940, thì nó phải là bộ phận không tách rời của một cuộc khởi nghĩa trên toàn quốc. Khởi nghĩa địa phương, cô độc, không thể thành công dù là ở trong một địa phương lớn như là Nam Kỳ. Một cuộc tổng khởi nghĩa, tất nhiên là cuộc tổng khởi nghĩa trên toàn quốc, chắc không thể nổ ra cùng ngày mà sẽ nổ ra chỗ trước chỗ sau, nhưng trước sau phải không cách nhau bao lâu. Kinh nghiệm khởi nghĩa tháng Mười năm 1917 ở Nga do Lênin chỉ đạo, đã cho ta biết như vậy. Xứ ta, Bắc, Trung, Nam cách bức, phương tiện liên lạc của ta còn thô sơ thì càng không có khởi nghĩa đồng thời được. Xưa nay, trên thế giới, ở nước nào cũng vậy, phong trào cách mạng phát triển bất đồng. Vấn đề lớn được đặt ra trước mắt của chúng ta là, mặc dù hậu quả những cuộc đàn áp thực dân hồi 1939, 1940, 1941 rất nghiêm trọng cho phong trào cách mạng ở Nam Kỳ, đương nhiên Nam Kỳ không được phép vắng mặt, cũng không được phép đến quá trễ trong một cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng nhất định sẽ phải nổ ra trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Điều đáng lo nhất là, nếu hồi đầu chiến tranh (1939, 1940), Đảng bộ Nam Kỳ có đông đảo đảng viên, đông đảo quần chúng (được Trung ương nhận xét là xứ bộ mạnh nhất nước), thì sang 1941, 1942, cơ sở của ta còn lại hết sức thưa thớt, hệ thống của chúng ta tan vỡ, quần chúng của chúng ta phần thì mất phương hướng, mất lòng tin, phần thì chưa tập hợp lại được. Sắp tới, nếu tình hình chiến tranh thế giới chuyển biến mau có lợi về phe ta (thời điểm này đã bắt đầu trông thấy rõ) thì liệu ta, ở Nam Kỳ có kịp xây dựng lại cơ sở và hệ thống Đảng, tập hợp đủ lực lượng nhân dân hợp lực với Trung, Bắc làm tổng khởi nghĩa cùng một lúc, hoặc gần cùng một lúc, hay là, đến khi có điều kiện khách quan, có thời cơ lịch sử, thì ở Nam Kỳ và ở Sài Gòn ta lại bất lực đứng nhìn thời cuộc trước những lực lượng kình địch to lớn hơn ta nhiều? Nam Kỳ mà không khởi nghĩa kịp với Bắc, Trung, thì tình hình đó sẽ gây ra vô cùng khó khăn cho cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương. Ta mà không giành được chính quyền ở Nam thì kẻ địch ngoại bang hoặc tay sai bản xứ của đế quốc sẽ giành lấy và các đế quốc sẽ dựa vào Nam Kỳ chưa làm nổi cách mạng để mà chống phá cách mạng thành công ở Bắc, Trung tựa như một trăm năm trước Pháp căn cứ vào Nam Kỳ lục tỉnh để đánh lấy Bắc Kỳ. Bởi vậy cho nên chúng ta ở Nam Kỳ phải nỗ lực “chạy đua với thời gian”, khẩn trương, không để mất thời giờ, cũng hết sức thận trọng không để tổn thất lớn về lực lượng nòng cốt – cán bộ đảng viên nay còn lại không bao nhiêu. Vấn đề lớn được đặt ra là mấy năm nay, ở Nam Kỳ, chúng ta không được biết là Trung ương Đảng còn hay không (sau khi Thường vụ bị bắt đầu 1940 ở Sài Gòn), nếu còn thì đã có những nghị quyết, chỉ thị gì? Chúng ta cho tới bây giờ chưa có liên lạc được với Đảng bộ Bắc, Trung. Đọc nghị quyết Trung ương cuối 1939, thấy ghi rằng Đảng phải “tìm cách khôi phục hệ thống Trung, Nam, Bắc”; như vậy có nghĩa là hệ thống Trung, Nam, Bắc của Đảng ngay từ chiến tranh thế giới bắt đầu đã bị trục trặc, đứt đoạn như thế nào đó chớ không đợi đến sau khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại. Cho nên để đảm bảo cho tổng khởi nghĩa sắp tới mang tính chất toàn quốc, chúng ta phải “tìm cách khôi phục hệ thống Trung, Nam, Bắc”.
Thứ hai: Trong tương lai, một cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ phải lấy thành phố Sài Gòn làm nơi quyết định sự thành bại. Chúng ta hoàn toàn không xem nhẹ nông thôn; ở đảng bộ Nam Kỳ từ những năm 1930, đã có truyền thống nông vận mạnh, truyền thống tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh. Nay ta tiếp tục truyền thống đó. Nhưng ngày nay là lúc vấn đề chuẩn bị tổng khởi nghĩa cách mạng đã được đặt ra thì chúng ta cần có ý thức rất rõ rằng đầu não của địch, yết hầu của địch tại Nam Kỳ đều tập trung ở Sài Gòn. Muốn đánh địch cho chết tươi, chết không kịp ngáp, thì phải đánh mạnh nhất vào đầu não, vào yết hầu của chúng. Ví như ta lấy được năm, mười quận, ba, bốn tỉnh mà chưa làm chủ được Sài Gòn thì cách mạng ở Nam Kỳ chưa thể xem là thắng lợi. Đốn cành mà chưa chặt bứt gốc thì cây chưa đổ. Gốc còn thì cành lá sẽ mọc lại. Chúng ta tin rằng cuộc “chạy đua với thời gian” ở Nam Kỳ sẽ kết thúc thắng lợi cho ta mặc dầu rằng nơi đây năm 1940, chúng ta đã bị địch giáng cho những đòn tối tăm mày mặt. Nhưng trong Sài Gòn hồi 1940 không có khởi nghĩa nên tổn thất của ta tương đối ít vì lực lượng không phải đã bộc lộ hết, cán bộ còn khá nhiều các hội ái hữu (làm nhiệm vụ công đoàn) cũng còn khá nhiều, có thể móc nối lại và dựa vào đó mà phát triển mau. Nội thành Sài Gòn, nhân dân, không chỉ nhân dân lao động, có truyền thống đấu tranh mạnh nhất Đông Dương, không có thành phố nào hơn, không có thành phố nào bằng. Và, đặc biệt là chung quanh Sài Gòn, ta có một “vành đai đỏ” nổi tiếng mà sức chiến đấu phối hợp với nội thành đã từng được chứng minh nhất là ở những năm 1936-1937, hay trở về trước, ở những năm 1930-1931. Ta sẽ “nắm sừng con trâu để vật ngã nó”; ta phải đánh quỵ địch ngay tại chỗ nó mạnh nhất là Sài Gòn. Giành được chính quyền ở Sài Gòn là tạo điều kiện thuận lợi để mau chóng giành chính quyền ở các tỉnh, các quận, dễ như trở bàn tay. Bởi vậy cho nên các tỉnh đảng bộ sẽ có lợi mà đóng góp cho Sài Gòn những cán bộ biết công tác thành thị. Xứ ủy Nam Kỳ sẽ tập trung nhiều trí tuệ, nhiều lực lượng về Sài Gòn, các tỉnh lân cận và ngoại ô thành phố, nhằm có ngày phải đánh một đòn quyết định, một đòn chí tử vào đầu não, vào yết hầu của địch. Khởi nghĩa sắp tới sẽ được thực hiện khác hẳn với hồi tháng 11 năm 1940.
Thứ ba: Một cuộc khởi nghĩa cách mạng muốn được thành công thì không thể làm theo kiểu Blanqui [7] ở Pháp, hoặc theo kiểu Thiên Địa Hội ở Nam Kỳ những năm 1911, 1916, hoặc theo kiểu Việt Nam Quốc dân đảng ở Bắc Kỳ năm 1930, chỉ tập trung ra trận một số chiến sĩ kiên quyết mà đồng thời chưa có phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao đến tột đỉnh. Một cuộc khởi nghĩa cách mạng không thể là một cuộc “âm mưu”; đảng cách mạng, đảng mác-xít, đảng cộng sản tuy là đảng bí mật “bất hợp pháp” nhưng không phải là một “hội kín”. Ta sẽ làm cuộc khởi nghĩa theo những chỉ thị của chủ nghĩa Marx và Lenin; theo Marx và Lenin thì khởi nghĩa là một khoa học, một nghệ thuật, ta phải nắm chắc. Các đồng chí lãnh đạo Xứ uỷ và Thành bộ phải thuộc lòng những lời dạy của Lenin về khởi nghĩa, chớ không phải của ai khác, thì mới tránh được những sai lầm tai hại của xứ ủy năm 1940.
Cụ thể trước mắt, chúng ta ở Sài Gòn phải nỗ lực đến mức cao nhất làm cho được năm công tác lớn sau đây:
Một là: Xây dựng lại cơ sở và hệ thống Thành bộ Sài Gòn của Đảng cho hoàn chỉnh, cho vững chắc, nhanh chóng, đủ số lượng tối thiểu cho việc thực hiện quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cái thành phố lớn nhất Đông Dương (với số dân non già 800.000 người) và trong đó có nhiều đảng phái chính trị và nhiều tổ chức tôn giáo có lực lượng lớn và ảnh hưởng sâu. Vực dậy các đồng chí ẩn náu, đưa thêm đồng chí ở các tỉnh lên.
Hai là: Mạnh dạn thâm nhập vào đội ngũ công nhân, đi vào xí nghiệp, thu phục đa số giai cấp công nhân, khắc phục cho kỳ được cái nhược điểm lớn từ trước tới nay của ta là mạnh ở công nhân lao động lẻ tẻ, ở khu phố và xí nghiệp nhỏ mà yếu ở công nhân lao động tập trung, ở các công sở và tư sở. Nói đi vào công nhân lao động cũng là nói đi vào tầng lớp công chức và tư chức (tầng lớp các “thầy”). Ở Sài Gòn lâu nay hai chữ thầy thợ, đi liền nhau. Xem trọng thợ mà không được xem nhẹ thầy. “Biến các công sở và tư sở thành pháo đài của chủ nghĩa cộng sản” điều này ta nói mãi mà từ khi lập đảng tới nay, ít nhất là ở Sài Gòn ta chưa làm được; bây giờ, để đi đến tổng khởi nghĩa thì điều chủ yếu là phải khởi nghĩa thành công ở Sài Gòn trước hết; Sài Gòn khởi nghĩa phải thành công thì khởi nghĩa mới thành công ở khắp Nam Kỳ. Muốn được như vậy phải tổ chức công đoàn và nhiều hội biến tướng như hồi thời kỳ Mặt trận dân chủ; ta phải chú trọng đặc biệt vào việc cấp tốc đào tạo cán bộ công đoàn, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu nhảy vọt một khi tình thế cách mạng xảy ra. Tình thế cách mạng sẽ xảy ra, nếu ta không có đủ cán bộ thì không lãnh đạo nổi quần chúng, quần chúng không được lãnh đạo thì đã không thành sức mạnh thật sự mà lại còn có thể bị đảng này, phái nọ lôi kéo đi vào hướng sai lệch nguy hiểm. Hãy nhớ rằng một thời, phái La Lutte tờ-rốt-kýt có ảnh hưởng trong một số không nhỏ công nhân viên chức Sài Gòn. Ta phải làm thế nào để cho đa số, cho tất cả công nhân viên chức nhất trí đứng dưới cờ lãnh đạo của Đảng cộng sản để cho ta có thể chiếm lấy các cơ quan của địch chủ yếu bằng lực lượng của công nhân viên chức trong các cơ quan đó, chớ không phải chủ yếu bằng dân làng được đưa lên “ém” trước trong nội thành như kế hoạch hồi 1940, lực lượng nông dân quanh thành sẽ hỗ trợ đắc lực cho nội thành là khi nào bản thân dân nội thành là chủ lực.
Ba là: Chú trọng vận động thanh niên thành phố. Ở thành phố Sài Gòn, nếu công nhân được xem là tay mặt của đảng thì thanh niên phải được xem là tay trái. Ở đây, nói thanh niên là chẳng những nói thanh niên lao động, mà còn nói cả thanh niên học sinh, sinh viên, tiểu tư sản, trí thức nữa. Họ là tầng lớp tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, có nhiều khả năng đấu tranh cho cách mạng giải phóng dân tộc, dám hy sinh, nếu ta biết đem lại cho họ một lý tưởng cách mạng tốt đẹp và khoa học. Ở Sài Gòn, lâu nay, người ta thấy thanh niên học sinh và sinh viên từ Hà Nội về nghỉ hè sáng tạo nhiều hình thức hoạt động yêu nước đáng được khuyến khích như diễn những vở kịch lịch sử dân tộc, hát những bài hát yêu nước hùng tráng, cắm trại hè rầm rộ ở Thủ Đức, họ không theo phong trào của “Tổng ủy Thể dục và thanh niên”[8] của chính quyền thực dân Pháp. Triệu chứng rất tốt. Ta có thể tìm cách chuyển về hướng cách mạng các phong trào đang phát triển đó. Nếu ta không làm được công việc quan trọng này thì sẽ có những chính đảng tư sản, hay tiểu tư sản, hay Trốt-kýt, lôi cuốn thanh niên đi chệch con đường yêu nước chân chính. Điều mà ta thấy quá rõ là cả Nhật lẫn Pháp đều ra sức hoạt động để lôi kéo thanh niên, trước hết là thanh niên có học thức. Ta phải gấp gáp tìm cho những hình thức tổ chức thích hợp và có hiệu quả (hiện tại ta chưa tìm ra) để thu hút thanh niên về phía cách mạng giải phóng dân tộc. Các cuộc xung kích chiến đấu sau này phải cậy nhiều ở thanh niên và công nhân. Tin cậy thanh niên thì cầm chắc là không thất vọng.
Bốn là: Đi vào nông dân các quận huyện, các tỉnh xung quanh Sài Gòn trong vòng ba, bốn mươi cây số. Lịch sử các cuộc khởi nghĩa 1885, 1911, 1916, 1940, rồi các cuộc tổng bãi công, tổng biểu tình trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, đều nói lên rằng nội và ngoại thành Sài Gòn, nhân dân vì được thống nhất nên rất mạnh, nội thành, ngoại thành tương tuỳ mật thiết. Vả lại, hơn nửa số công nhân viên chức Sài Gòn, Chợ Lớn có nhà cửa ở ngoại thành, sớm đi tối về; công nhân nông dân thực tế là sát cánh. Những điều ấy cho phép chúng ta thấy trước rằng một cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn sẽ phải do hàng chục vạn công nhân lao động, thanh niên và nhân dân thành phố thực hiện, những cuộc nổi dậy đó nhất thiết phải được sự yểm trợ tích cực của cả triệu nông dân ở ngoại thành và ở các tỉnh kế cận. Bởi vậy cho nên Xứ ủy và Thành ủy cần giúp sức cho hai Tỉnh đảng bộ Gia Định và Chợ Lớn xây dựng lực lượng nông dân cho vững vàng, nhanh chóng để cho việc phối hợp được thực hiện thành công tốt đẹp nhất trong những ngày tổng khởi nghĩa.
Năm là: Đi vào binh vận một cách mạnh dạn và có kế hoạch, trước hết là vận động số lính người Việt Nam trong quân đội Pháp, số này đông cả mấy vạn người. Một vạn người tay trắng là ít; một vạn người có súng đạn trong tay là lớn. Chắc rằng lực lượng chính trị nào cũng ra sức tranh thủ số binh lính đó. Nhưng cũng chắc chắn rằng số binh lính đó sẽ ngả về phía chính đảng nào có nhiều quần chúng công nông dưới cờ. Từ chiến tranh thế giới lần thứ hai, Pháp tăng nhiều số lính người Việt Nam; chúng đào tạo ra một lớp sĩ quan người Việt Nam; chúng đưa số lính các binh chủng ở Nam Kỳ lên tới 40.000 người; riêng ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định có khoảng 10.000 quân. Vài năm nay, Nhật tổ chức quân “Hai Hô” , một thứ lính thủy đánh bộ. Nhật cũng tổ chức một lực lượng bán vũ trang của Cao Đài phái Trần Quang Vinh. Trọng tâm binh vận của ta là binh đoàn bảo an lưu động Gia Định Chí Hoà (brigade mobile) và binh đoàn phụ thuộc sở Sen đầm Chợ Lớn (brigade auxiliare de la gendarmerie de Cholon). Phải làm tất cả để cho các binh đoàn đó ngả về phía cách mạng. Chúng ta chưa đủ cán bộ để làm binh vận đối với lính Pháp, lính Nhật; việc binh vận trong số lính người Việt mà thành công sẽ giải quyết được một phần vấn đề vũ trang quần chúng trong khởi nghĩa cách mạng sắp tới. Pháp đã bị Đức đánh bại, Nhật sẽ bị Mỹ, Anh, Trung Quốc đánh bại, thì việc binh vận của ta hiện nay và từ nay về sau khắc có điều kiện thuận lợi. Vấn đề còn lại là phải đưa một số cán bộ giỏi làm việc binh vận.
Đó là năm nhiệm vụ, năm phương hướng công tác chủ yếu mà tôi, nhân danh Xứ ủy đã đề ra cho ban cán sự thành Sài Gòn những ngày cuối năm 1943. Dĩ nhiên là tôi đã dành đủ thời gian để giải thích luôn đường lối cách mạng mà Xứ ủy đề ra.
Lúc này Xứ ủy ra quyết định ra báo “Tiền Phong” làm cơ quan tuyên truyền của mình. Báo Tiền Phong, cơ quan của Xứ uỷ Nam Kỳ đặc biệt chú trọng vào hai đề tài lớn trong nước: đấu tranh chống “Chủ nghĩa Liên Á” ( Đại Đông Á) của Nhật và đấu tranh chống chủ nghĩa “Pháp-Việt phục hưng” của gã thực dân Pháp Decoux. Từ năm 1943 việc giải thích tình hình chiến tranh thế giới không còn khó khăn lớn như trước nữa, nhưng báo Tiền Phong cũng ra sức cung cấp cho các đồng chí những lập luận cần thiết đã nói lên rằng Liên Xô, Trung Quốc và phe Đồng minh nhất định thắng, phe Đức, Ý, Nhật nhất định thua, phe phát xít quân phiệt thua thì càng có điều kiện thuận lợi, càng mau thắng, song phải rõ, Đồng minh thắng thì không phải tự nhiên Việt Nam ta được giải phóng đâu, ta phải nỗ lực hết sức, thừa cơ để làm khởi nghĩa cách mạng, tự mình giải phóng cho mình, bằng không làm nổi cách mạng thì nước ta sẽ bị thống trị nữa dưới ách một vài trong số các nước Pháp, Anh, Trung Quốc, Mỹ.
Bước sang năm 1944, tôi gần như là túc trực ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định thỉnh thoảng mới đi Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre.
Đấu tranh chống “Huyền thoại Đông Dương”
(mythe de l’Indochine) của Pháp và chống
“Chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật
Trong suốt năm 1942 và phần lớn năm 1943, mọi hoạt động của bọn tôi đều nhằm dựng dậy một số đồng chí còn sót lại sau khởi nghĩa 1940, đang ẩn náu, đang nằm nhà và tránh mọi công tác Đảng. Nói các đồng chí ấy là “mất tinh thần” thì không đúng lắm. Gọi họ là “Chờ xem” thì đúng hơn. Quả tình thời thế lúc ấy buộc phần lớn các đồng chí ấy “chờ xem”, chờ xem coi sau 1940 các nhà lãnh đạo Đảng rút ra những bài học gì, chẳng lẽ cứ theo dấu xe đã đổ thì theo sao được? Nhưng lãnh đạo ở miền Nam thì đã bị bắt hết rồi còn ai đâu mà rút kinh nghiệm? Còn ai đâu mà vạch đường lối? Làm cách mạng không phải ai cũng có sức và có chí tự động. Phần thì khi ấy tình hình chiến tranh thế giới đen tối quá, triển vọng cách mạng thế giới chưa sáng sủa chút nào. Vậy thì, trong hoàn cảnh đó, “nằm chờ” có một mặt ý nghĩa tích cực là bảo tồn những cán bộ đã được đào tạo từ hàng chục năm, phòng có ngày xây dựng lại sự nghiệp. Những anh Khiêm (Ung Văn Khiêm), anh Tây (Nguyễn Văn Tây), v.v… miễn là các anh ấy còn sống, thì sẽ có ngày đắc dụng hết sức. Nhưng cần phải biết rõ trong số đồng chí 1939, 1940 còn sống thì ai ở đâu, ai “rót”[9] hẳn, ai còn có thể dựng dậy, muốn dựng họ dậy thì cần giải quyết những vấn đề tư tưởng gì? Bởi vậy cho nên trong lúc đầu, vào 1942 đầu 1943, tôi để hết tâm trí làm một cuộc tuyên truyền hẹp, chủ yếu là trong số đồng chí còn sống sót sau cuộc khủng bố 1939 và 1940, và ngay trong số đó cũng chỉ chọn một ít mà thôi. Không có báo, không có sách, không có hội nghị học tập. Chỉ tuyên truyền miệng, giải thích cho từng cá nhân, từ nhóm nhỏ là chính; đến không tiếng, đi không dấu, bảo đảm bí mật an toàn.
Nhưng từ khi Ban cán sự Sài Gòn, miền Đông, và Xứ uỷ Nam Kỳ được thành lập lại rồi thì sự tuyên truyền cách mạng phải rộng ra để vũ trang lý luận cho đồng chí, để trong chừng mực có thể, truyền bá rộng đường lối của đảng bộ và đấu tranh chống các tư tưởng địch đang tuyên truyền lúc bấy giờ. Lúc bấy giờ tư tưởng địch, chính trị địch đang quảng bá rộn ràng nhất là “chủ nghĩa liên bang” của Decoux, còn gọi là “Huyền thoại Đông Dương” và chủ nghĩa Đại Đông Á, cũng gọi là “Liên Á” của Nhật. Cả Pháp lẫn Nhật đều dùng tất cả các phương tiện để cổ vũ cho “chủ nghĩa” của chúng bằng những nha, những hãng thông tin, bằng những đoàn thể thân Pháp, thân Nhật, và chúng tuyên truyền cổ động trên các mặt báo chí, bằng thể dục thể thao, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục v.v… Từ giữa 1943 tụi tôi có kế hoạch tuyên truyền cách mạng ở Nam Kỳ, chủ yếu là chống chủ nghĩa Đại Đông Á và chống chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới, và bằng cách đó, khẳng định đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản.
Tôi bàn với các đồng chí là phải xuất bản một loạt sách tuyên truyền “bỏ túi”, giống như lời “Cộng sản Tùng thơ” hồi 1933, 1934, 1935; mỗi quyển dài bằng một bài tạp chí gọn giải quyết một vấn đề. Các vấn đề nối tiếp nhau có hệ thống. Sách “bỏ túi” phải ra đều kỳ nhất có thể được, một vài tháng một lần. Có hai cái khó; thứ nhất là Văn (Kiệt) chết rồi, lúc ấy chỉ còn có một mình tôi viết được sách dù là sách “bỏ túi” để cho các đồng chí căn cứ vào đó mà có nội dung tuyên truyền thống nhất; thứ hai là, nếu hồi 1933, 1934, tôi có một cái máy Gestetner[10] của Đảng Cộng sản Pháp mua dùm, thì, bây giờ phương tiện in ấn của tôi hết sức lạc hậu: xu xoa[11]. Tụi tôi có cải tiến nghề in của chúng tôi: cắt kiếng, đổ xu xoa mấy lớp một lần nấu, mỗi tấm kiếng cho phép in hai mặt, mỗi mặt in được mấy chục trang lớn bằng giấy học sinh. Tạm được. Kế bên bộ “tùng thơ” còn có tờ báo Tiền Phong phát hành không đều kỳ để thông tin về tình hình lớn trong nước và trên thế giới. Sách tuyên truyền bỏ túi và báo Tiền Phong đều do tôi làm cả! Bao biện quá; mà làm thế nào khác được? Do “biên tập” có một mình tôi và phương tiện in ấn hết sức đơn giản, cho nên “trụ sở” biên tập lúc thì như đi theo tôi lúc ở Phú Lạc, lúc thì ở Gò Vấp, lúc thì ở Chợ Gạo. Ở mỗi “trụ sở” thì chọn một chú hay một cô học khá văn không cần hay nhưng chữ viết thì phải đẹp. Quả là tôi bao biện, bao biện thì không nên, nhưng bây giờ làm sao khác được? Các tay “bỉnh bút” còn ở trong tù.
Máy in roneo của hãng Gestetner, mẫu 1913 (quay tay)
Chống chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới
Hồi 1942, 1943, cái “Huyền thoại Đông Dương” (mythe de l’Indochine), còn gọi là “Pháp-Việt đề huề mới” của Decoux, được Pháp và đám tay sai của Pháp tuyên truyền mạnh lắm. Còn lúc ấy, ở cả Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng, cái hy vọng mà bọn thân Nhật đặt vào Nhật (lật đổ Pháp) ban đầu (1942) rất mạnh, đến sau 1943, yếu dần, suy dần cho đến đỗi chủ tịch Hội Liên Á là tướng Tòng Tỉnh phải bay sang Sài Gòn, Hà Nội để “lên dây cót” cho bè đảng người bản xứ, rồi Nhật phải gởi một số lãnh tụ tay sai (người Việt Nam, nghe đâu trong số đó có Diệm, Ân, Sâm[12]) sang lánh mặt ở Singapore. Tụi thân Pháp lên chân một chút. Thì chính trong lúc ấy tôi viết một loạt sách “bỏ túi” để công kích chủ trương chính sách “Liên bang Đông Dương” của Decoux. Mấy mũi nhọn tôi chĩa vào chính sách của Decoux là:
Thứ nhất: Cái “Liên bang Đông Dương” ngày nay của Decoux, cũng như cái “nước Pháp Á châu” (la France d’Asie) của Sarraut hồi chiến tranh thế giới thứ nhất, cũng như cái “chính sách đề huề hợp tác” (politique de collaboration) của Varenne hồi 1925 khi ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc dội mạnh vào Việt Nam, đều là những cách của thực dân đối phó với một tình thế khó khăn, đều là những lừa phỉnh, đều là những bánh vẽ chỉ có nghe nhãn hiệu mà chưa hề thấy đường bột, hễ khó khăn qua thì Pháp không nói tới nữa. Decoux, Varenne, Sarraut giống nhau. Mà kỳ này thì Decoux chắc sẽ không có thì giờ để mà ca ngợi lâu cái bánh vẽ của mình, chó sói Pháp sẽ bị chó sói Nhật giật mất miếng mồi ngon trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Vấn đề tư tưởng cần giải quyết ở đây là làm cho đồng chí, đồng bào không bi quan ở chỗ Việt Nam một cổ hai ách khó bề giải thoát.
Thứ nhì: cái “Liên bang Đông Dương” của Decoux đề nghị sẽ chỉ là cái “nhà tù trong nhà tù” thôi, không có gì mới. Decoux tính sẽ lập ra “năm nước”: nước Lào, nước Miên, nước Bắc Kỳ, nước Trung Kỳ, nước Nam Kỳ. “Năm nước” hợp lại thành Liên bang Đông Dương do Pháp nắm các đòn bẩy chỉ huy. Liên bang Đông Dương đó ở trong Liên hiệp Pháp; dân mỗi nước có quyền lập chế độ cộng hoà hay giữ chế độ quân chủ, có quyền nói lên lòng yêu đất nước mình nhưng có nghĩa vụ phải yêu nước Pháp là nước “cha đỡ đầu” cho Liên bang Đông Dương. Dân mỗi nước được phép tuyên dương những sự kiện lịch sử anh hùng của dân tộc mình miễn là không chống đối lại Pháp. Như vậy, Pháp vẫn giữ chính sách chia cắt Việt Nam làm ba; cái “nước Nam Kỳ” phải ở trong Liên bang Đông Dương, Liên bang phải ở trong Liên hiệp Pháp; tất cả phải trung thành với Pháp. Nhà tù nhỏ ở trong tù vừa, tù vừa ở trong tù lớn. Cái “Huyền thoại Đông Dương” của Decoux chỉ là thế thôi. Rốt cuộc lại thì Decoux chỉ đề nghị là sẽ thay chữ “Đông Dương thuộc Pháp” bằng chữ “Liên bang Đông Dương”, sẽ thay những chữ “xứ thuộc địa”, “xứ bảo hộ”, bằng cái chữ “bang”, chữ “nước”; sẽ không còn “Trung Kỳ xứ bảo hộ”, “Nam Kỳ xứ thuộc địa” mà thành ra “nước Trung Kỳ”, “nước Nam Kỳ”, “nước Bắc Kỳ”, cả ba ở trong “Liên bang Đông Dương” do nước Pháp làm “cha đỡ đầu”.
Ai muốn theo thì theo! Cái bánh thời Decoux hơn là cái bánh thời Sarraut, Varenne ở chỗ nó có hình vẽ, nội việc xem hình vẽ thôi thì đã ớn rồi! Nhưng nếu không kịp thời vạch trần thực chất của chủ trương “Liên bang Đông Dương” thì chủ trương này có thể đánh lừa nhiều người, nhiều người tưởng đâu bây giờ để cạnh tranh với Nhật, Pháp chịu một số nhượng bộ nào đó cho chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, tưởng đâu Pháp dọn đường cho một chủ trương Đông Dương tự trị sau chiến tranh.
Nếu chỉ có thế thôi thì chủ trương đường lối của Decoux sẽ không lấy gì làm nguy hiểm, không lừa dối được số đông dân. Decoux trong những năm 1942, 1943, 1944 còn làm làm nhiều chuyện mị dân có ít nhiều kết quả. Tôi chú ý đến hai việc nổi bật sau đây:
1. Pháp bỏ ra nhiều công sức, tài chính để gây nên và phát triển khá rầm rộ một phong trào thể dục, thể thao lớn thu hút nhiều vạn thanh niên và uốn nắn thanh niên theo khẩu hiệu “Thống chế Pétain muôn năm!” của chính phủ Vichy tay sai Đức Hitler. Tuyên cáo của Xứ uỷ Nam Kỳ nhận định và tuyên bố rộng rãi rằng đó là cách của Pháp chuẩn bị chiến tranh vì quyền lợi của Pháp, đó là Pháp giành thanh niên Việt Nam với Nhật. Tuy vậy, Xứ uỷ Nam Kỳ không yêu cầu thanh niên tẩy chay phong trào thể dục thể thao do Ducoroy đứng đầu. Trái lại “ở đâu có quần chúng thì Đảng Cộng sản phải có mặt”, tuy rằng khi ấy Đảng bộ Nam Kỳ còn rất yếu, chúng tôi cũng cố gắng đưa người vào trường Phan Thiết xem họ làm gì và xem ta có thể làm gì được để tranh thủ tuổi trẻ với địch. Một trong những người đó sau này là Ngô Thất Sơn, đến tháng 8 năm 1945, là cận vệ của tôi, sau làm đến cấp tá của quân đội và được tuyên dương “anh hùng”.
2. Lúc ấy, có một ngành hoạt động của bọn Decoux ở ngoài tầm tay của Xứ uỷ chúng tôi; ấy là hoạt động của chúng trên mặt trận văn hoá. Tôi thấy rằng bọn Decoux sớm nhận ra tầm quan trọng chính trị của vận động văn hoá, trước bọn tôi; trong lúc đó thì ở Nam Kỳ bọn tôi gần như mù tịt về vấn đề này, và thực tế không có chút phương tiện nào để hoạt động cả. Mắt tôi sáng ra khi thấy nhà cầm quyền thực dân dùng đến những từ “chấn hưng văn hoá dân tộc”, lập một số trường học nhằm khôi phục nghệ thuật Lào, Khmer, nghệ thuật Việt Nam. Decoux cổ vũ rất nhiều cho việc y tổ chức những giải thưởng văn học, những cuộc triển lãm nghệ thuật. Việc ấy không phải không gây nhiều ảnh hưởng có lợi cho Pháp. Decoux còn mở rộng đại học, lập thêm trường phổ thông. Ảnh hưởng ngó thấy trong các giới tư sản trí thức. Mà ở Nam Kỳ chúng tôi không có phản ứng kịp thời, chúng tôi bị động; chúng tôi chỉ biết nói rằng đó là cách thực dân Pháp xoa dịu tinh thần dân tộc đang lên trong thời cuộc chiến tranh thế giới. Mãi cho đến khi sinh viên Hà Nội về nghỉ hè ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn với học sinh Sài Gòn lục tỉnh họp nhau lại để tổ chức diễn những vở kịch yêu nước, hát những bài hát yêu nước được đồng bào hoan nghênh nhiệt liệt, thì chúng tôi ở Sài Gòn mới sáng mắt thêm rằng văn nghệ có tác dụng chính trị lớn, rằng nếu không kịp có chính sách đối phó thì thanh niên có thể bị kẻ khác lôi kéo đi chệch đường cách mạng giải phóng dân tộc. Và bản thân tôi mới nhận ra rằng cái chính sách gọi là “chấn hưng văn hoá dân tộc” có chỗ mạnh và chỗ yếu của nó, mạnh là dưới hình thức giả vờ dân tộc, Pháp có thể lôi kéo thanh niên, có thể làm cho dân tin lầm rằng chúng không còn khắc nghiệt áp bức dân tộc như trước nữa. Nhưng đảng cách mạng, người yêu nước, có thể dùng “gậy ông đập lưng ông”, ngày nọ cũng nói chơi là “giáo Tàu đâm Chệt”, ta có thể lợi dụng cái mức chủ nghĩa dân tộc được cho phép ấy để công khai hợp pháp tuyên truyền sâu rộng cho chủ nghĩa yêu nước. (Việc này tôi sẽ có dịp nói lại khi nói tới vấn đề thanh vận và Thanh niên Tiền phong ở Sài Gòn).
Trước những ngày tàn tạ, chết yểu của “Huyền thoại Đông Dương” (le mythe de l’Indochine) của Decoux, thì De Gaulle ở Brazzaville đề nghị cho Đông Dương một thứ “tự trị sau một thời gian”. Cái bả De Gaulle và cái huyền thoại Decoux đều trở thành mảnh giấy lộn.
Vấn đề là tuyệt đối không được trông mong ở bất cứ phái nào của đế quốc dù Pháp Pétain hay Pháp De Gaulle, sẽ ban bố tự trị cho Việt Nam, cho Đông Dương. Vấn đề là phải tính toán, phải hoạt động sao cho chính quyền Pháp bị đánh đổ, các dân tộc Đông Dương, trước hết là dân tộc Việt Nam được giải phóng bằng một cuộc cách mạng nổ ra ngay trong lúc tàn cuộc chiến tranh thế giới hiện nay. Pháp vẫn cứ là đế quốc thực dân dù là tàn cuộc chiến tranh thế giới Pháp thoát khỏi ách của Đức Hitler, cái hứa hẹn “tự trị sau một thời gian” chỉ có thể là một thứ mặt nạ Pháp đeo vào để tranh giành ảnh hưởng của Nhật, để cố giữ Đông Dương dưới ách của nó.
Vấn đề là tuyệt đối không phải lựa chọn giữa Nhật và Pháp; chúng đều là đế quốc thực dân cả; không thằng nào hơn thằng nào. Mà kẻ thù số một trong thời thế bấy giờ là Pháp, đế quốc Nhật; Nhật cho Pháp sống sót một thời gian và chỉ một thời gian thôi, để làm việc hậu cần cho Nhật, để giữ an ninh cho quân Nhật trên một đất nước có truyền thống cách mạng giải phóng dân tộc. Tới ngày nào đó, trong cuộc chiến tranh, Nhật sẽ lật đổ Pháp để gạt bỏ một lưỡi gươm bên hông, điều ấy hoàn toàn sẽ không có ý nghĩa rằng Nhật giải phóng Việt Nam, mà chỉ có ý nghĩa rằng Nhật giành quyền độc chiếm Đông Dương; một sự thay thầy đổi chủ, không hơn không kém.
Chống chủ nghĩa Đại Đông Á
“Chủ nghĩa Đại Đông Á” hay là “chủ nghĩa Liên Á” của Nhật thực tế chỉ là một ngọn cờ xâm lược thực dân. Nhưng không phải ai cũng biết như thế. Và có nhiều người biết song lại cho rằng có thể “tương kế tựu kế” lợi dụng Nhật được. Tư tưởng này đã có từ đầu thế kỷ XX lận kìa chớ đâu phải bây giờ mới có.
Xe tuyên truyền cho "chủ nghĩa Đại Đông Á" của Nhật ở Sài Gòn.
Bên trái là áp-phích ca ngợi Thống chế Pétain của Pháp.
(Nguồn: J. M. Pedrazzani, La France en Indochine de Catroux à Sainteny, Flammarion).
Trong số sách của tôi viết ra hồi thời kỳ khôi phục cơ sở và hệ thống Đảng ở Nam Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai, tôi xem quyển “Việt Nam trên đường độc lập” chống “chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới” và quyển “Rạng đông của một dân tộc”- chống “chủ nghĩa Đại Đông Á”, chống Nhật xâm lược, là tài liệu tuyên truyền chính trị và tư tưởng có tác dụng thiết thực nhất. Hồi đó (1942, 1943), ảnh hưởng tai hại của “chủ nghĩa Đại Đông Á” ở Nam Kỳ rất lớn, có thể nói là đến mức cao nhất. Tôi nói ở Nam Kỳ là nơi tôi đang hoạt động lúc bấy giờ. Chắc là khắp Nam, Trung, Bắc không nơi nào mà bè đảng thân Nhật nhiều và mạnh như ở Nam Kỳ. Ở Nam Kỳ thì một phần số đạo Cao Đài chủ yếu là phái Cao Đài Tây Ninh mà người đứng đầu lúc này là Trần Quang Vinh, ra mặt thân Nhật; Cao Đài có vài triệu tín đồ khắp lục tỉnh. Còn Phật giáo Hoà Hảo thì phát triển rộng ở Hậu Giang, và từ khi quân Nhật đưa thầy Hoà Hảo (bị Pháp an trí ở Bạc Liêu) về Sài Gòn, ở đường Miche[13], và được sở Sen đầm Nhật bảo vệ, thì Phật giáo Hoà Hảo cũng hướng mạnh về phía Nhật. Tín đồ của Phật giáo Hoà Hảo cũng đông có tới hàng chục vạn. Ngoài ra, Nhật còn làm chỗ dựa cho phái chính trị gọi là Phục quốc do Trần Văn Ân đứng đầu, cựu chủ tịch hội nhà báo là Nguyễn Văn Sâm cũng ở trong đó. Họ suy tôn Cường Để lâu nay ở bên Nhật (tôi không rõ ông Cường Để có đồng ý hay không) và tiếng đồn khắp xứ là Nhật sẽ hạ Pháp, sẽ đem Cường Để về làm vua của nước Việt Nam được trao trả độc lập. Tất cả chúng đều đi theo cờ “chủ nghĩa Đại Đông Á” cũng gọi là “chủ nghĩa Liên Á”. Từ 1941 cho đến giữa năm 1943, quân Nhật luôn luôn chiến thắng ở tây và nam Thái Bình Dương đánh bại Mỹ, Anh, Hà Lan, thế như chẻ tre, đến đâu Nhật cũng phất cờ chủ nghĩa Đại Đông Á, khua môi múa mép rằng Nhật là người anh cả da vàng quyết tâm và có đủ sức giải phóng các nước Á châu khỏi ách các đế quốc thực dân da trắng. Ảnh hưởng lớn, rộng, không dễ gỡ.
Để làm cho đồng bào trước hết là cán bộ, đảng viên hiểu sự thật, hiểu các chính sách của Nhật, tôi viết một loạt sách tuyên truyền “bỏ túi” về những vấn đề như:
- Mấy nét về cuôc duy tân của Nhật. Nhật đã trở thành một cường quốc tư bản chủ nghĩa. Các cuộc xâm chiếm thuộc địa của Nhật hồi đầu thế kỷ XX.
- Tham vọng bá chủ của Nhật; chương trình Điền Trung (Tanaka) và sự khởi đầu thực hiện chương trình đó trong thời gian trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Nhật đánh Trung Quốc.
- “Chủ nghĩa Đại Đông Á” chỉ là kế hoạch của Nhật làm bá chủ ở châu Á, là kế hoạch chiếm lấy thị trường lớn nhất thế giới.
Tôi nhắc lại chuyện Phan Bội Châu và các chí sĩ Đông Du, hồi 1908 bị chính phủ Nhật trục xuất theo lời yêu cầu của Pháp; đế quốc Nhật, đế quốc Pháp cũng đồng một phường, khác nhau là nước Nhật và nước ta gần nhau, sớm đi tối về được, nếu Việt Nam bị Nhật thống trị thì càng khó giải phóng và khác nhau là Pháp ít dân đất rộng, còn Nhật đất hẹp người đông, nước ta về tay Nhật có thể trở thành một thuộc địa di dân, nếu ngày nào đó ở trong nước ta và ở Miên, Lào có năm mười triệu người Nhật định cư, thì khi ấy cuộc giải phóng sẽ khó khăn đến chừng nào? Tai hoạ của một chủ nghĩa Đại Đông Á thành công sẽ là tai hoạ vô biên. Sách “Rạng đông của một dân tộc” được in lại nhiều lần, quay roneo nữa.
Vào 1943 thì Nhật dẫm chân và bắt đầu thối lui ở tất cả các chiến trường, uy tín Nhật bắt đầu xuống, tướng Tòng Tỉnh, Chủ tịch Hội Liên Á được phái qua Sài Gòn, Hà Nội để “lên dây cót” cho đám tay sai thân Nhật, mà chỉ “lên” được một lúc nào, một phần nào thôi. Hẳn rằng chủ nghĩa Đại Đông Á mất đà từ 1943 trở đi, tất nhiên là không phải nhờ các sách tuyên truyền bỏ túi chống Nhật của tôi… Vài tuần một tập sách dày không quá 32 trang, in không quá một trăm bản làm thế nào ảnh hưởng đáng kể đến thời cuộc, nhưng hoạt động tư tưởng chính trị đó của toàn Đảng bộ Nam Kỳ ít nhất cũng nói lên được rằng, ở Nam Kỳ, Đảng Cộng sản không chết mất sau cuộc đại tàn sát 1940, mà đã hồi sinh rồi và sẽ tới ngày đứng lên phất cờ giải phóng dân tộc.
Đó, hình như cái “nghiệp” của tôi là vừa làm công tác thực tiễn vừa làm công tác tư tưởng, mà công tác tư tưởng, có những lúc là chính. Tôi nhận thấy rằng khi nào và ở đâu mà công tác tư tưởng hoặc bị xem nhẹ hoặc bị quên lửng thì không thể làm việc tổ chức và lãnh đạo đấu tranh được. Cho nên sau khi từ trại giam Tà Lài về tới Phú Lạc là tôi lo giải quyết các vấn đề tư tưởng cho các đồng chí còn sống sót sau những cuộc khủng bố trắng 1940, 1941. Cho nên, khi Xứ ủy được thành lập lại, tôi đã nghĩ đến các vấn đề tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Và để giành nhân dân với các tổ chức thân Nhật, thân Pháp tôi có ý thức dành nhiều thời giờ viết sách, mở lớp huấn luyện chính trị nhằm giải thích đường lối cách mạng, củng cố lòng tin, đả phá nguy cơ của chủ nghĩa Đại Đông Á, của chủ nghĩa Pháp – Việt phục hưng. Bọn tôi làm được việc, một phần do nỗ lực chủ quan, một người làm việc bằng năm, bằng mười, phần nữa là do tình hình thế giới từ 1943, 1944 mới thêm thuận lợi lạc quan, có “tận lực” mà trước hết là có “thời thế”. Không phải nói như thế để ra vẻ “khiêm tốn” đâu, sự thật quả như thế.
Về sau, kiểm điểm lại, tôi thấy Xứ ủy Nam Kỳ đã “dám” tự mình vạch ra một đường lối để tiến tới trong thời kỳ tiền cách mạng. Thực tế là dám nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử và nhìn chung, đường lối tự vạch ra đó là đúng, bằng cớ của cái đúng ấy là Cách mạng Tháng Tám ở Nam Bộ đã thành công gần cùng một lúc với Cách mạng Tháng Tám ở Bắc, Trung. Tuy vậy, truy nguyên thì không phải là cái “dám lãnh trách nhiệm” ấy nó khai đường cho chiến thắng. Khai đường mở lối cho chiến thắng là chủ trương của Lênin: rằng những người cách mạng phải ra sức thừa cơ hội chiến tranh thế giới để làm cách mạng thành công, chủ trương đó được Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định lại trong Luận cương chính trị 1930, và một lần nữa trong Nghị quyết Trung ương lần thứ VI cuối năm 1939, mà chủ yếu, hơn hết, là chủ nghĩa Lênin về vấn đề chiến tranh đế quốc và cách mạng vô sản mà người cộng sản nào cũng thấm nhuần ngay từ khi mới vào Đảng. Ngay từ khi gặp Đảng thì không người yêu nước nào mà không đặt câu hỏi chính, câu hỏi này được trả lời thông suốt thì người yêu nước đó mới vào Đảng. Đó là hai câu hỏi:
- Đế quốc thực dân Pháp mạnh như thế, lại có sự tương trợ của các đề quốc Anh, Hà Lan - như lời Nguyễn An Ninh đã nói nhiều lần - thì làm sao ta có thể đánh đuổi nó được?
Trả lời:
- Để quốc có lúc thịnh, lúc suy, lúc mạnh, lúc yếu; nhưng suy yếu nhất là lúc nổ ra chiến tranh giữa các đế quốc, như cuộc chiến tranh 1914-1918, khi ấy chúng như cọp bị mắc bẫy một chân, nếu ta đồng lòng nổi dậy thì ta có thể tiêu diệt được chúng và ta phải tiêu diệt chúng trong thời cơ chúng bị kẹt, bị mắc bẫy một chân đó, nhất thiết không để cho thời cơ trôi qua mà không làm việc giải phóng.
Cho nên, năm 1939, khi chiến tranh thế giới nổ ra thì các đồng chí cộng sản bất kỳ ở đâu cũng đều nói: “Thời cơ tới rồi!”. Vấn đề chỉ là: ta có đủ sức hay không? Những người đã thuộc chủ nghĩa Mác-Lênin như Văn, như tôi, không có quyền ngồi chờ nghị quyết, chỉ thị cấp trên, ngồi chờ sẽ là một hình thức ta bỏ trách nhiệm trước khó khăn. Phải dám chủ động, tự vạch đường đi tới, nếu sai lệch chút ít chắc lịch sử sẽ hiểu cho mình.
Hết Phần thứ Ba
Chú thích của người biên tập:
1 Tạo: Nguyễn Văn Tạo (1908-1970), Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, phụ trách các vấn đề thuộc địa (1929), bị trục xuất về nước cùng với Tạ Thu Thâu, Trần Văn Giàu… năm 1930 sau cuộc biểu tình ở trước phủ tổng thống Pháp, một trong những người lãnh đạo cộng sản ở Nam Bộ, cùng Dương Bạch Mai làm báo La Lutte (do Nguyễn An Ninh chủ trương) cùng với những người trốt-kít như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm…, bộ trưởng Bộ lao động trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946-1965).
2 Ninh: Nguyễn An Ninh (1900-1943), sang Pháp học luật năm 1918, một trong nhóm “Ngũ Long” (Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền), hợp tác với Nguyễn Ái Quốc làm báo Le Paria, về nước năm 1922, diễn thuyết kêu gọi thanh niên học hành đàng hoàng: “ Bằng cứ theo nẻo hoạn đồ, lấy việc làm quan là mục đích của việc học thì hỡi ơi! Sau này giòng giống sẽ yếu ớt, ắt có ngày kia rút vô rừng mà ở! ” (hoạn đồ, làm quan, nghĩa hiện đại là vào đảng, làm cán bộ). Từ đó đến ngày mất trong tù (14.8.1943), ông trở lại Pháp ba lần (trong những thời gian ngắn), ngồi tù bốn lần, ra báo (La cloche fêlée, La Lutte), lập đảng (Thanh niên cao vọng). Ông là người Việt Nam đầu tiên dịch Khế ước xã hội của J.-J. Rousseau và Tuyên ngôn cộng sản của K. Marx và F. Engels.
3 Thâu: Tạ Thu Thâu (1906-1945), sang Pháp năm 1927, học khoa học ở Đại học Paris, gia nhập nhóm “Đối lập phái tả” (trốt-kít). Tháng năm 1930, tổ chức cuộc biểu tình trước phủ tổng thống Pháp, phản đối đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Bái, bị trục xuất về nước (cùng với Nguyễn Văn Tạo, Huỳnh Văn Phương…). Về nước, thành lập nhóm trốt-kít Đông Dương cộng sản (cơ quan ngôn luận là báo Vô sản), một trong ba, bốn nhóm trốt-kít ở Việt Nam (khác với các nhóm cộng sản trước năm 1930, các tổ chức trốt-kít ở Việt Nam – cũng như trên thế giới – chưa bao giờ hợp nhất được). Tuy nhiên, được sự thôi thúc của Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu và các đồng chí đã hợp tác với các đảng viên cộng sản Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, ra báo La Lutte, ứng cử (và thắng cử) trong cùng một danh sách “Sổ lao động”. Từ năm 1932 đến 1944, ông bị bắt 6 lần, kết án 6 lần (tổng cộng các bản án là 13 năm tù, 10 năm biệt xứ). Cuối năm 1944, được phóng thích từ Côn Đảo về, ông đi vận động thành lập đảng Xã hội Thợ thuyền từ nam ra bắc (theo Hồ Hữu Tường kể với D. Marr, Tạ Thu Thâu ra bắc cùng với Komatsu Kiyoshi, một nhân vật khó định vị). Nhật đầu hàng, triển vọng tổ chức ở Bắc Bộ không mấy sáng sủa, ông lên đường về nam, tháng 9-1945 ông bị bắt ở Quảng Ngãi và bị thủ tiêu tại đây. Quảng Ngãi là nơi nhiều người hoạt động chính trị đi qua đã bị bắt, có người bị giết, có người thoát chết, đủ mọi xu hướng: Lê Văn Hiến (cộng sản), Ngô Đình Diệm, Hồ Tá Khanh… Ai, cấp nào đã ra lệnh thủ tiêu Tạ Thu Thâu? Câu hỏi này chưa được trả lời dứt khoát. Một số người trốt-kít quy trách nhiệm vào Hồ Chí Minh (viện dẫn ba bức thư năm 1939 của Nguyễn Ái Quốc lên án chủ nghĩa trốt-kít) hay Trần Văn Giàu (mà người ta cho rằng có trách nhiệm trong việc thủ tiêu các lãnh tụ trốt-kít ở Nam Bộ năm 1946). Các nhà sử học có uy tín như D. Hémery, D. Marr đều cho rằng đây là trách nhiệm của một nhóm Việt Minh ở địa phương.
4 Tức là bệnh viện Grall, nay là bệnh viện Nhi đồng 2.
5 Làm vài điếu: thuốc phiện.
6 Guynemer: nay là đường Hồ Tùng Mậu.
7 Auguste Blanqui, nhà cách mạng Pháp (thế kỉ XIX), chủ trương cách mạng là bạo động của một nhóm nhỏ, rồi quần chúng sẽ “tự động” hưởng ứng.
8 Cơ quan do toàn quyền Decoux thành lập, đặt dưới quyền của “tổng ủy” Maurice Ducoroy, đại úy hải quân, chủ trương tập hợp thanh niên, chạy đua ảnh hưởng với Nhật. Ducoroy cho rằng thanh niên bản xứ, giữa hai con đường “Nhật hoàng, chúng con đây” và “Thống chế (Pétain), chúng con đó” (!), nhất thiết phải chọn một. Thanh niên phong trào Ducoroy hát bài “Maréchal, nous voilà!” và đi đều bước sau ngọn cờ… Jeanne d’Arc (đoàn thanh nữ mang tên là “Jeannettes”). Đầu óc Ducoroy không mường tượng ra khả năng thứ ba: thanh niên Việt Nam chọn con đường giải phóng đất nước (xem Maurice Ducoroy, Ma trahison en Indochine, Paris 1949).
9 rót: phương ngữ Nam Bộ, nghĩa là bỏ cuộc, rút lui hay đầu hàng.
10 Gestetner: Máy in roneo thường dùng trong văn phòng, thông dụng từ đầu thế kỉ 20 cho đến thập niên 1970, khi được thay thế bằng máy photocopy và máy tính & máy in điện tử. Máy in roneo mang tên người sáng chế, gốc Hung: David Gestetnet (1854-1939). Máy Gestetner đã đóng một vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản, nên khi nắm toàn bộ chính quyền ở miền Bắc (1954-1975), ĐCSVN đã trưng thu tất cả các máy in -- máy chữ, kể cả máy chữ xách tay Hermès Baby cũng phải đăng kí.
11 Xu xoa: thạch trắng (agar agar). Đây là lối in thủ công. Đoạn văn sau đây, do Nguyễn Ngu Í ghi lại lời kể của Hồ Hữu Tường, mô tả khá chính xác cách in xu xoa: “Úp bản cái lên mặt khuôn xu xoa, vuốt cho đều tờ giấy, để đó mười lăm phút cho mực thấm vô xu xoa, vuốt cho giấy sát. Rồi gỡ bản cái ấy lên, mình có bản chánh "in" ngược lên xu xoa. Giờ chỉ còn lấy giấy để lên mặt xu xoa, vuốt giấy cho sát, để chừng một phút, gỡ ra. "In" độ năm mươi bản thì chữ mờ. Tôi có nghĩ ra một cách có lợi cho việc "in xu xoa" này. Thói thường là nấu xu xoa, đổ vô một cái khuôn, và chỉ dùng được có mặt xu xoa ở trên mà thôi. Tôi cho cắt những tấm kiếng bằng nhau để trong khuôn, tấm này cách tấm kia độ một phân (giữa hai tấm kiếng ở hai đầu, có cây cạnh cao chừng một phân), đổ xu xoa vô, thì mỗi lớp xu xoa có hai mặt, mặt trên in cũng được, mà lật lại mặt dưới, in cũng được. Ví như ta có năm tấm kiếng thì ta có sáu miếng xu xoa, tức là mười một mặt xu xoa in được.”
12 Diệm, Ân, Sâm: tức là Ngô Đình Diệm, Trần Văn Ân, Nguyễn Văn Sâm.
13 Rue Miche: nay là đường Phùng Khắc Khoan.
Phần thứ tư
TIẾN TỚI TỔNG KHỞI NGHĨA
Chương này ghi lại một phần những điều tôi đã nghĩ, đã làm, đã thấy trong khoảng thời gian từ sau khi chúng tôi lập lại Xứ ủy Nam Kỳ, tháng 10 năm 1943, đến trước khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Thời gian ngắn, chỉ 20 tháng, mà cuộc sống thì hết sức phong phú, sôi nổi nhất trong cuộc đời tôi, kể từ khi được sinh ra. Khó khăn chồng chất từ lâu, cao như núi; khó khăn mới thêm vào khó khăn cũ chưa giải quyết hết. Thuận lợi chỉ xuất hiện như kết quả sự nỗ lực kiên trì của tập thể anh chị em; lúc bấy giờ còn quá ít người, mà người nào cũng hoạt động không biết mệt, không ai “rớt đài” cả; thuận lợi cũng dồn dập đến với chiến thắng của Liên Xô và của Đồng Minh trên các chiến trường Âu châu và Thái Bình Dương. Thành công nhiều, mà về sau tai tiếng cũng lắm. Có sáng tạo cần thiết để ứng phó kịp thời với tình hình mà cũng không ít vấp váp, sai lầm. Vừa đánh kẻ thù trước mặt, lại vừa đỡ ngọn giáo của bạn bên hông. Mệt ơi là mệt! Nhưng, xét cho cùng, đời bằng phẳng chưa chắc là đáng sống hơn đời sóng gió. Tôi thích khoảng đời sóng gió mà cô đặc này; phần khác, vì thấy mình đóng vai của một người vo quần, cởi áo nhảy xuống sông, góp sức đẩy thuyền qua khúc cạn chớ không phải đứng trên thuyền “tiếp” đẩy cái mui, càng không phải đứng trên bờ mà vỗ tay cổ vũ hay là phẩy quạt phê bình.
Từ cuối năm 1943, tôi bám sát Sài Gòn, ít đi lục tỉnh. Lục tỉnh được sự chú tâm của tuyệt đại đa số các đồng chí trong Xứ ủy. Còn Sài Gòn là chiến trường mà tất cả bọn tôi đều xem như nơi quyết định sự thành bại của tổng khởi nghĩa, mà khi ấy, rất ít người kham. Anh em ta có nhiều kinh nghiệm về nông vận, hiếm đồng chí biết làm công vận, càng hiếm đồng chí làm được trí vận, binh vận. Cho nên, với ý thức nhận lãnh cái khó nhất về phần mình, tôi phải để hầu hết thời giờ và tâm trí vào Sài Gòn, mong có thể kịp thời xoay chuyển tình thế. Ta không hề xem nhẹ công tác nông thôn. Trong một xứ nông nghiệp lạc hậu như xứ ta, tuyệt đại đa số đồng bào là nông dân, ai đi làm cách mạng mà lại xem nhẹ công tác nông thôn bao giờ? Nhưng vào cuối năm 1943, qua đầu năm 1944, Đảng Cộng sản chưa có lực lượng đáng kể ở thành phố, cụ thể là ở Sài Gòn. Tại Sài Gòn, cơ sở ít và nhỏ; hệ thống tổ chức chưa hoàn chỉnh. Phong trào cách mạng như ở giữa hai làn sóng. Cán bộ thưa thớt như sao buổi sớm; anh em ở tù, ở căng chưa về; anh em ở ẩn phần nhiều chưa ra; số đồng chí có khả năng hoạt động thành phố như những người ở báo Le Peuple, Dân chúng, ở “Ủy ban sáng xuất công đoàn”, hồi 1937, 1938, 1939, đều cao bay xa chạy hay đều bị án “biệt xứ” không có phép đi Sài Gòn. Trong lúc đó thì chính đảng và giáo phái thân Nhật vừa nhiều, vừa mạnh, tập hợp ở thành phố dưới sự bảo trợ của sở Sen đầm Kempeitai[1]. Vấn đề được đặt ra là làm sao, trong một thời gian tương đối ngắn (tôi nhấn mạnh ở chữ “ngắn”), ta phải bám rễ chắc chắn trong Sài Gòn, phải đưa rất đông đảo công nhân, thanh niên, trí thức vào tổ chức yêu nước, phải thổi bừng lên một phong trào quần chúng cách mạng sâu rộng, phải làm cho Đảng Cộng sản theo kịp và mạnh hơn tất cả các chính đảng và giáo phái thân Nhật, thân Pháp cộng lại. Tôi không chủ quan lấy gàu tát sông đâu; khó khăn lớn lắm; nhưng nếu không làm được như vậy, nếu không nhảy vọt mà cứ phát triển từ từ thì sẽ không làm gì có cách mạng. Tôi lường được những nỗi khó khăn trước mắt và lâu dài; nhưng tôi không đến nỗi đơn thương độc mã; tôi lạc quan, lạc quan cách mạng vốn là bản tính của tôi. Tôi tin tưởng ở tài đức của số đồng chí đã tập hợp được, tin tưởng ở truyền thống nhạy bén chính trị và đấu tranh bất khuất của người dân Sài Gòn đặc biệt là của công nhân và thanh niên; tôi tin ở bản chất yêu nước và cách mạng của đồng bào nói chung, tin ở thế tất thắng của Hồng quân Liên Xô, khiến phong trào sắp có ngày đột biến và khiến tư tưởng chính trị của các tầng lớp nhân dân chuyển động rất mau về hướng cách mạng tức là về phía Đảng Cộng sản và mặt trận dân tộc thống nhất mà bọn tôi đang nỗ lực xây dựng.
1. Tình hình chiến tranh thế giới biến chuyển thuận lợi
cho công tác cách mạng của chúng tôi
Không ai dám bảo rằng mình tài giỏi, tài giỏi mấy cũng còn phải nhờ thời thế mới làm nên; mà phần lớn những yếu tố của thời thế không do ta tạo thành. Thời thế nghịch thì “anh hùng ẵm hận”, ngày xưa bảo là “vận khú”. Dù sao, chèo ngược vẫn hơn là buông trôi. Ông bà từng dạy: “chớ đem thành bại luận anh hùng”. Còn thời thế thuận mà không sử dụng được mới là dở thật, là đáng chê trách, há miệng chờ trái sung rơi xuống, càng dở hơn, trái sung rất có thể rơi trên mũi, trên mắt.
Hồi 1941, khi Hồng quân Liên Xô thua đậm, khi Nhật thắng Mỹ, Anh như chẻ tre, thì hoạt động tuyên truyền của bọn tôi ủng hộ Liên Xô, chống Nhật, gay go lắm nhưng mà tôi và anh em vẫn ra sức ủng hộ Liên Xô, ủng hộ Liên Xô là trợ lực cho tinh thần cách mạng Việt Nam. Khi ấy, ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ, chắc là trên toàn Việt Nam cũng vậy thôi, phe thân Trục, thân Nhật thắng thế dữ. Trong Nam, phe thân Trục mạnh lắm, có hàng vạn ức người theo, đặc biệt là một số giáo phái lớn như Cao Đài. Lúc ấy ta đi tuyên truyền cho cách mạng, chống Nhật, Pháp, tin tưởng vào Liên Xô, thì gần như là gào thét trong sa mạc, hát vọng cổ ở chợ cá đang đông. Nói gì đến dân thường ít chính trị? Ngay cả cái việc mời những đồng chí ẩn náu từ 1939, 1940 (kể cả các đồng chí nguyên là Xứ ủy viên), mời anh em đó trở lại hoạt động cũng khó, khó lắm, khó hết sức! Xét cho cùng thì không nên trách ai cả. Nếu mọi người đều vững như núi thì tuyên huấn sẽ là thừa; mà tuyên huấn có bao giờ thừa đâu? Đúng! Hồi 1941, 1942, đầu 1943, bọn vượt ngục Tà Lài chúng tôi thưa thớt như sao ban ngày. Thỉnh thoảng chúng tôi ngâm lại câu “gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”[2] để tự mình an ủi và khuyến khích lấy mình.
Vào cuối năm 1943, đầu năm 1944 thời cuộc chiến tranh thế giới không còn u ám như hồi 1941-1942 nữa. Bĩ cực, thái lai.
Mỗi ngày tôi nhờ mua nhiều báo Tây, Nam để theo dõi tin tức chiến sự và chính trị. Tôi cũng nhờ vài người bạn nghe các đài phát thanh chống phát xít, thuật lại cho tôi. Lúc này, chúng ta nghèo quá; nông dân làm ra lúa mà không bán được. Lúa bán được thì mấy cắc bạc một thùng quan; đi làm thuê chỉ mấy xu một ngày, ở nhà quê, nhiều nơi bao cà ròn[3] thay cho quần vải; thì chúng tôi chạy đâu cho ra tiền mua một chiếc máy thu thanh, mướn một căn phố để đặt máy nghe tin; khó hơn là hồi 1928, 1929 mua một chiếc xe hơi, mướn một villa!
Ở châu Âu vào thời điểm cuối năm 1943 sang1944, chiều gió của chiến tranh đổi hẳn. Phe Đức, Ý thất bại lớn, thất bại liên tiếp. Các báo Tây, Nam ở Sài Gòn, trừ các bài “xã luận”, đều đăng tin kể cũng là khách quan. Sau chiến dịch Stalingrad long trời (11.1942-2.1943), Hồng quân đuổi quân phát xít về phía Tây, quân Đức thoái mau như chúng đã tiến. Vòng vây quân Đức ở Leningrad bị phá vỡ. Rồi phát xít Đức bị đuổi ra khỏi biên cương Liên Xô và Hồng quân bắt đầu vào Đông Âu, Trung Âu, Bancăn, kích động mạnh cuộc chiến tranh giải phóng chống phát xít của nhân dân các dân tộc ở vùng đó. Hồi chiến thắng Stalingrad, tụi tôi ở Chợ Gạo, Phú Lạc, Gò Vấp mổ gà ăn mừng; bây giờ chiến thắng của Hồng quân nhiều quá, đâu có đủ tiền mua gà để mà mổ nữa, vả lại nghe tin chiến thắng trở thành quen, như bình thường, không còn kích thích mạnh nữa, trái lại, tôi càng sốt ruột về những tiến bộ chậm chạp của công tác cách mạng trong Sài Gòn, sợ thời cơ sẽ đến mau mà lực lượng Đảng còn quá yếu; mấy chục, một trăm anh chị em trong một Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định gần một triệu người thì như nắm muối bỏ mái nước[4] đầy.
Quân Anh, Mỹ, sau khi đánh thắng quân Ý, Đức ở Bắc Phi liền đổ bộ lên miền Nam nước Ý. Quân đội Ý tan rã. Mussolini bị bắt; y được Đức giải thoát mà chẳng làm nên trò trống gì. Ô hô một trong ba chân của chiếc ghế có thời lừng danh cũng gọi là trục Bá Linh - La Mã - Đông Kinh. Hồi 1942, Liên Xô đòi Anh, Mỹ mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu đỡ bớt đòn nặng cho Liên Xô thì Anh, Mỹ không chịu, vì chuẩn bị chưa đủ hay có lẽ đúng hơn, vì muốn cho Đức tiêu diệt thêm nhiều sinh lực của Liên Xô và Liên Xô tiêu hao thêm nhiều sinh lực của Đức. Nay, tháng 6 năm 1944, khi Hồng quân Liên Xô đã quét sạch Đức khỏi Liên Xô và đã vào tới Trung Âu, thì Anh, Mỹ mới mở mặt trận thứ hai ở Pháp, thực hiện một cuộc đổ bộ lớn nhất trong lịch sử với nhiều triệu lính, mấy vạn máy bay, nhiều tàu đủ loại. Quân Đức tháo lui. Paris được giải phóng. Chính phủ De Gaulle vừa thành lập ở thủ đô Pháp thì đã quyết định tuyên chiến với Nhật (cho có chừng, để tạo thế pháp lý, chớ sức mấy mà đánh đấm), và quyết định chuẩn bị quân đội gửi sang chiếm lại Đông Dương. Một mối lo mới cho chúng tôi bắt đầu xuất hiện. Đám “Pháp-Việt đề huề” lại ngo ngoe mạnh ở Sài Gòn. Tụi thực dân Pháp trở nên phách lối, láo xược ra mặt và ngày nào cũng như ngày nào, độ 11 giờ trưa, chúng nó đánh trận mồm chống Đức, chống Nhật ở các nhà hàng Majestic, Continental, trước những ly áppêrô đắt giá. Trong lúc đó, những chiến thắng liên tục, vang dội của Liên Xô đánh bại một đội quân nổi tiếng là không ai đánh bại nổi, làm cho dư luận chê bai cộng sản trước đây, nay không còn nữa, ngược lại, tiếng khen đều trời, những người cách mạng Việt Nam dù ở góc biển chân trời phương Đông xa xôi này cũng được thơm lây: Nói người ta nghe hơn, đoán người ta tin hơn, hoạt động người ta ủng hộ hơn. Các đồng chí ẩn náu từ 1939, 1940 nay lục tục tự động ra xin công tác; đội ngũ cán bộ không phải là đông đủ mà đã tăng lên trông thấy; không còn cảnh lẻ loi buồn tẻ như vài năm trước. Chính lúc này gần cuối năm 1944, là lúc tôi gặp Nguyễn Văn Trấn (Chợ Đệm) và nhóm “các anh La Sơn - Bàn Tiên Động” của anh ấy là Tươi và đại ca Nguyễn Thiện Hành, các anh “hạ san” về thành phố bắt tay làm việc ngay.
Đặc biệt của chiến cuộc Đông Á và Thái Bình Dương qua 1943, 1944 là quân Nhật từ dẫm chân đến thoái lui, thua trên bộ thì ít, thua trên biển nhiều hơn… sau khi mất quần đảo Gilbert, Nhật mất luôn quần đảo Marshall rồi mất cả quần đảo Mariannes. Trên các đảo Saipan và Guam quân Nhật chiến đấu với một tinh thần tuyệt đỉnh anh hùng nhưng rút cuộc đều bị vũ khí hiện đại Mỹ tiêu diệt. Như vậy là cái “vòng đai an toàn” của nước Nhật bị vỡ toang rồi. Từ Saipan, từ Guam, máy bay ném bom hạng nặng của Mỹ có thể đánh thẳng vào nội địa Nhật và Mỹ đã thật sự bắt đầu dội bom xuống các thành phố Nhật. Gần cuối 1944, sau khi nhấn chìm một bộ phận lớn của hải quân Nhật ở đông Philippines, quân Mỹ đổ bộ lên Philippines, chiếm lại các quần đảo quan trọng mà Mỹ đã phải chịu nhục bỏ chạy 2, 3 năm trước. Đầu năm 1945, quân Mỹ vào Manille. Xuất hiện một khả năng mới trong cuộc chiến tranh ở Đông Nam châu Á là khả năng quân Mỹ từ Philippines đổ bộ lên Trung Kỳ của Đông Dương thuộc Nhật, Pháp nhằm cắt đứt đại quân Nhật trên lục địa Đông Nam Á ra làm hai[5]. Câu hỏi khẩn cấp đặt ra cho Xứ ủy Nam Kỳ chúng tôi là quân Mỹ sẽ đổ bộ lên Trung Kỳ hay không? Họ đổ bộ lên Trung Kỳ thì may hay rủi, lợi hay hại cho ta? Chưa rõ. Điều đó chắc chắn là những người cách mạng phải chú ý đến vấn đề và tính toán sách lược đối phó với khả năng đó. Chúng tôi dự tính (mà dự tính này rốt cuộc là sai) rằng Mỹ mà muốn trong thời gian ngắn bắt buộc Nhật phải xếp giáp quy hàng thì Mỹ không thể không đổ bộ vài ba triệu quân lên đất Nhật, ở đó người Nhật sẽ đánh một trận cuối cùng, một trận xáp lá cà mà Mỹ chắc ngán run, một trận trong đó máy bay, đại bác đều bất lực, nghĩa là ưu thế của Mỹ trở thành vô dụng. Bởi vậy, Mỹ phải tìm chỗ yếu nhất của quân Nhật trên lục địa Đông Á, cắt đứt quân Nhật ra để mà diệt, vì vậy Mỹ sẽ đổ bộ lên “cái bụng mềm” của Đông Dương là một khả năng lớn. Nếu Mỹ và đồng minh của chúng ở Viễn Đông đổ bộ lên Nam Trung Kỳ thì ở Nam Kỳ ta phải làm gì? Các bạn của tôi trong Xứ ủy và tôi đều nhất trí là chúng ta sẽ tuỳ sức mà làm khởi nghĩa từng phần ở những nơi nào có thể khởi nghĩa được, như miền đông rừng núi hay miền tây sình lầy dựng cờ độc lập dân tộc chống cả hai bọn thống trị Pháp, Nhật, xem cả hai như là “bệnh dịch hạch và bệnh dịch tả, không phải lựa chọn một cái nào”, hình ảnh này tôi đã có lần dùng trong một bài báo công khai hồi 1939, được nhiều anh em tán thưởng mà cũng bị vài anh em công kích hồi thời trước chiến tranh khi mà báo ta “lắm khi” cũng công khai tán thành “phòng thủ Đông Dương”!
Xa hơn, ở phía Tây, trên xứ Miến Điện, vào đầu 1945, con đường bộ Miến Điện – Vân Nam lại được mở ra do thắng lợi của quân Anh. Trong tình hình chiến sự đó, ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn, việc tuyên truyền của Nhật và tay sai bản xứ cho chủ nghĩa Đại Đông Á dẫu còn mà đã mất hẳn đà. Uy thế của Cao Đài, Phục Quốc chẳng những khựng lại mà còn giật lùi mau. Các đảng thân Nhật đã đâm lao thì phải theo lao vậy thôi, theo với một lòng tin bị bào mòn, bởi thời cuộc chiến tranh, bởi chính sách gian trá lừa đảo của Nhật. Họ còn tuyên truyền theo Nhật mà đã có ý một ngày nào đó sẽ phản lại Nhật, thời bây giờ gọi là “bỏ giò lái”.
Tất cả những chiến sự kể trên, các báo Tây, Nam đều nói rõ, nói hết, công chúng theo dõi dễ dàng. Các báo quốc ngữ chỉ còn hai trang, nhưng Sài Gòn không ngày nào thiếu báo. Mỗi sáng anh cứ đi “kéo ghế nhẩm xà”[6] thì anh thông thạo tình hình, anh cứ yên tâm ngồi nghe người ta bình luận, máy bay Mỹ trưa trưa mới đến. Bọn tôi chẳng những cho ra đều tờ báo Tiền Phong cơ quan của Xứ uỷ mà chúng tôi còn phát hành Bản tin rônéo để kịp thời hướng dẫn dư luận. Dư luận quần chúng làm cho chúng tôi thích thú nhất là: hồi 1941, 1942, khi Đức tiến, Liên Xô lùi, mà cộng sản đoán trước rằng Đức sẽ bị Liên Xô đánh bại, khi Mỹ, Anh thua, Nhật Bản thắng thì cộng sản khẳng định rằng Nhật sẽ bị Đồng minh đánh bại; cộng sản đoán trúng; “anh hùng đoán giữa trần ai mới cừ”, có người bảo như vậy. Còn lời đoán của cộng sản rằng cách mạng Đông Dương sẽ thắng lợi ngay trong cuộc chiến tranh thế giới này, Việt Nam, Miên, Lào sẽ giành được độc lập tự chủ, thì theo nhiều người, sự đoán trước ấy phải còn chờ thực tế chứng minh, chắc không lâu lắc gì đâu. Song người ta bàn tính với nhau rằng một ách Pháp còn chưa bẻ gãy, nay cả hai ách Pháp, Nhật thì bẻ cách nào cho xong? Khi Nhật thua, Pháp sẽ trở lại và trở lại với quân Đồng minh, thì làm sao cản được? Huống chi là ở Nam Kỳ từ sau cuộc bạo động 1940 thất bại, Đảng cách mạng còn, mất, mạnh, yếu chưa rõ, phong trào cách mạng như chìm xuống, chìm đến bao giờ mới nổi lên trong lúc chiến tranh chắc không còn kéo dài lắm? Vậy, dư luận quần chúng có tin tưởng lẫn với hoài nghi. Bọn tôi biết rằng đối với người dân thường, thuyết lý không đủ, phải có thực tế, họ cần được tự kinh nghiệm thì lòng tin mới toàn vẹn và khi ấy thì tinh thần quần chúng mới thật cao vọi.
Tựu trung, vấn đề được đặt ra là: thời cơ thì nhất định sẽ đến nhanh nhưng khi thời cơ đến, liệu phe cách mạng có đủ lực lượng hay không? Thời cơ là cái ngoài ta. Lực lượng cái do ta. Có cả hai tụ hội, có đủ lực lượng khi thời cơ thuận lợi thì mới có cách mạng giải phóng thành công.
Tôi nhớ mãi và luôn nhắc với đồng chí của mình bằng những lời than thở tuyệt vọng của cụ Phan Bội Châu, cụ Nguyễn Thượng Hiền khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc thắng lợi về phía thực dân Pháp. Và chúng tôi hạ quyết tâm làm cho kỳ được nhiệm vụ thiêng liêng mà các cụ đã mất và các đồng chí đã hy sinh trao lại cho chúng ta: giành độc lập tự do với bất cứ giá nào trong thời cơ chiến tranh thế giới này.
2. Những bước đầu xây dựng lực lượng
trước cuộc đảo chánh Nhật tháng 3 năm 1945
1) Vận động thành lập Tổng Công đoàn
Tôi không nhớ đã lên lớp bao nhiêu lần về công vận, về sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng Đông Dương. Có lẽ cho đến đó, tôi là một người chiếm kỷ lục về việc mở lớp dạy công vận. Tôi không nhớ có lần lên lớp nào mà tôi không nhấn mạnh vào những lời của Trung ương Đảng hay của Đại hội Đảng phê bình các sai lầm và thiếu sót trong công vận từ 1930 đến 1939. Tôi giảng bài công vận ai cũng khen là đúng. Bây giờ tới phiên tôi làm, tới phiên tôi thực hiện những điều tôi nói. Tôn Văn của nước Tàu bảo “tri nan, hành dị”, biết khó, làm dễ. Thì câu ấy cũng có phần đúng, nhưng đúng chỉ một phần thôi. Biết như Karl Marx biết vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong thế giới ngày nay, thì khó thật. Chớ còn sau Marx, Engels, Lenin, tôi biết lý luận về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, thì khó gì? Còn như thực tế làm làm sao cho giai cấp công nhân xứ mình đóng nổi vai trò lịch sử ấy? Thì khó lắm! Khó lắm! Tôi lo quá, đôi khi sợ anh em cười mình “Năng thuyết bất năng hành”[7]. Anh em cán bộ lão luyện công vận bây giờ còn ai? Nguyễn Công Trung mà hồi chọn người vượt ngục tôi nhắm để làm công vận, thì đã bị bắt lại rồi. Nguyễn Thành A còn bó gối ở căng Bà Rá. Văn Công Khai, Nguyễn Văn Chùa nghe nói ở Bến Súc, Thủ Dầu Một, điều tra mãi mới gặp Khai và anh ấy đã nhận nhiệm vụ Bí thư Ban cán sự tỉnh Thủ Dầu Một. Mà Thủ Dầu Một cũng là nơi có hàng vạn công nhân đồn điền cao su thì điều động Khai về Sài Gòn sao được? Phần nhiều cán bộ cũ, nhân viên báo Dân Chúng, Lao Động điều bị án “biệt xứ”, không được rời các tỉnh mình ở, mà dầu có dời được anh em vị tất đã chịu lên Sài Gòn và vào vườn cao su đâu? Người lên Sài Gòn được, không phải ai cũng làm được cái chuyên môn công vận. Khi ấy công vận khó hơn nông vận. Một cái khó nữa là trong thời kỳ chiến tranh, công nhân Sài Gòn bị phân tán. Như Ba Son (công xưởng thuỷ quân) bị xé lẻ thành mấy bộ phận ở xa nhau. Vì thiếu nguyên liệu, thiếu chất đốt, nhiều nhà máy đóng cửa. Nhà đèn Chợ Quán kia còn phải lấy lúa thay than đá thì các xưởng thợ khác làm sao có than, có điện. Thợ trở thành thủ công, nông dân, người đi buôn vặt. Những người còn lại thì ngày làm, ngày nghỉ bất thường. Trong lúc đó Nhật Bản nhờ phe Trần Quang Vinh chiêu mộ hàng vạn tín đồ Cao Đài lên Sài Gòn - Chợ Lớn làm nhiều nghề mà nhà binh Nhật dùng, ví dụ như cưa gỗ, đóng tàu dọc theo Kinh Đôi từ cầu Nhị Thiên Đường (Chợ Lớn) ra tới cầu Tân Thuận (Sài Gòn). Những công nhân mới này lạc hậu về tư tưởng và ta rất khó chen vào đây để làm việc tuyên truyền. Lại thêm, hồi 1937, 1938, 1939 (mà trước đây cũng vậy) một nhược điểm lớn của chúng ta là mạnh ở xưởng nhỏ và các hãng lao động lẻ tẻ, thủ công, nhưng yếu ở xưởng lớn, và các xưởng lớn thì mạnh ở số thợ “áo nâu”, mà yếu ở thợ “áo xanh”; viên chức, công chức đông mà ít được tổ chức, tổ chức họ cũng khó. Tự phê bình không biết bao nhiêu lần rồi mà chưa vượt qua khuyết điểm. Bây giờ phải thực sự phải vượt qua những khuyết điểm đó một cách nhanh chóng. Nói thì dễ, làm thì khó hơn rất nhiều: muốn kiếm một đồng chí khuân vác được, nay bảo mai có; muốn kiếm một đồng chí làm nghề điện, máy, “cạo giấy” kiếm đâu ra, kiếm ra rồi làm sao xin vào sở? Xin vào sở rồi phải có thời gian mới làm quen với anh em đồng nghiệp, chớ đâu phải họp mít tinh nói chương trình công đoàn rồi ghi tên vào tổ chức như ở xứ có tự do dân chủ đâu? Việc thì đòi hỏi nhiều thì giờ mà tình hình không trì hoãn được, trái lại rất khẩn trương. Làm sao đây? Bài toán khó giải quyết. Chúng tôi thấy: muốn đi nhanh trước hết phải tìm lối mòn cũ, Đảng đã hoạt động công đoàn từ năm 1930; trước khi có Đảng thì Tôn Đức Thắng tổ chức công hội đỏ (bí mật). “Tàn dư” của công hội Tôn Đức Thắng nay hãy còn. Lê Văn Lưỡng, Ca Him – đều là bạn thân của Phúc, Xứ uỷ viên Thường vụ. Rồi những năm 1937, 1938, 1939, ta có nhiều hội ái hữu lớn làm nhiệm vụ công đoàn; từ 1940, hội viên, đoàn viên nằm yên không hoạt động, nhưng ý thức của họ hãy còn, đó là kết quả của một cuộc tuyên truyền bền bỉ nhiều năm của nhiều thế hệ cán bộ cách mạng. Công nhân viên chức Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định chắc chắn là có truyền thống sâu xa, họ không giống như một đám ruộng khô đất nẻ mà giống như là đám ruộng đã có nước chân, mưa thêm vài đám thì cấy lúa được; ta phải hết sức chú tâm đi tìm người cũ còn “mai phục”, còn “dấu mũi nhọn” làm ăn hiền lành vô sự ở nhà máy, ở văn phòng và chờ bắt liên lạc trở lại với Đảng. Ta tin chắc còn những người cũ, và họ cũng tin chắc sẽ có ngày lại gặp Đảng. Quả đúng như vậy. Làm tuyên truyền cách mạng là cả một sự kế thừa; trong cái gián đoạn về tổ chức còn cái liên tục về ý thức tư tưởng. Chúng tôi ở Sài Gòn có nhiều anh em đã sống trong thành phố hàng chục năm, đã tham gia mấy giai đoạn phong trào, cho nên việc tìm lại người cũ, lối mòn, không phải là điều khó lắm, vấn đề mấu chốt là nói sao cho anh em nghe, làm gì cho anh em tin, đưa người nào đến thì anh em mới chịu hợp tác.
Dân ta dưới ách Tây-Nhật, tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc
(báo Việt Nam Độc Lập)
Năm 1943 trôi qua nhanh như một thời gian dành cho việc tìm lại manh mối ở các công sở và tư sở lớn, chớ còn những tiệm giày, thợ giặt ủi, tiệm may, bồi bếp Tây, nhà riêng và nhà hàng thì các anh Oanh, Chí, Thức trong Ban cán sự Sài Gòn đã quen lớn liên lạc từ đời nào. Riêng tôi có một ông bạn là cò-mi Hên ở Ba Son, hùng mạnh hồi 1938, 1939; anh em của Sáu Sáng (ở Bàu Lăng, Gò Vấp), người làm trong kho thuốc đạn Pyrotechnie, người làm ở nhà thương Đồn Đất. Anh Nỉ, anh Vị (đường Mới, Gò Vấp) vẫn làm nhà in Ardin. Hai anh em Khương, Lương (đường Mới, Gò Vấp) vẫn còn làm ở sở Trường Tiền và Ba Son. Nắm mấy cái mối ấy mà phăng ra thì bắt liên lạc được với nhiều cơ sở xí nghiệp lớn. Nhờ các chi bộ xã ở Bà Hom, Bình Trị thì sẽ biết người mình ở hãng rượu Bình Tây và nhiều nhà máy xay Rạch Cát…
Vào cuối năm 1944, Đảng bộ Sài Gòn đã có chân đứng ở hơn 30 nơi lớn nhỏ, công tư sở, không kể các khu phố lao động, đã có khá đông cán bộ công đoàn, mà nổi nhất là Nguyễn Lưu, Hoàng Đôn Văn, Từ Văn Ri, Huỳnh Đình Hai, Nguyễn Văn Tư. Ở hãng FACI có Nguyễn Văn Lưỡng, ở xe lửa có anh Chiêu, ở Eiffel có anh Giỏi, ở Labbé có các anh Trần Mạnh Quyền, Trần Mạnh Phú, Trương Luyện, Phạm Văn Củng; ở tàu thuỷ có Từ Văn Ri, ở MIC có Nguyễn Viết Phái, ở nhà đèn Paul Blanchy[8] có Vũ, ở nhà đèn Chợ Quán có Dương, Thức, Mao, Anh; ở máy cưa Vĩnh Hội có Lê Tấn Ích, ở Scama có Xuyên, v.v… Tuy cơ sở đã khá, nhiều sở lớn ta chưa có tổ chức: hãng dầu Nhà Bè, đề pô Dĩ An, sở Bưu điện, v.v. Công đoàn xí nghiệp, buồn thay, chưa đông người bằng những công đoàn thợ may, thợ giày, thợ giặt ủi, thợ nhuộm, thợ mộc… lúc này tôi ở Phú Lạc (Chợ Lớn), hay ở Bàu Lăng (Gò Vấp), hoặc ở các trại bán tre của anh chị Tám Chiếu tại bến Cầu Ông Lãnh. Anh chị Tám là cơ sở của Đảng từ thời Mặt trận Bình dân. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, Trấn người chợ Đệm (người báo Dân Chúng), đi “ẩn” ở núi La Ba, động Bàn Tiên với một nhóm người anh em, như Marcel Tươi, Sáu Hành, nay trở về Sài Gòn hoạt động đắc lực với Xứ uỷ mà anh em trở thành trụ cột. Tôi thêm một chỗ trú chân tại thành phố; tôi đỡ đạp xe đi về xa xôi lại dễ bị lộ bí mật. Tôi không nhớ rõ là những ngày cuối năm 1944 hay là những ngày đầu năm 1945, bọn tôi đã có thể tổ chức Tổng Công đoàn Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định với non già 5.000 đoàn viên. 5.000 đoàn viên trong thời bình và trong bí mật là khá lớn, là giỏi, có triển vọng. Nhưng so với thời “loạn” (chiến tranh) với nhu cầu lịch sử (cần chuẩn bị lực lượng cho tổng khởi nghĩa), thì 5.000 hãy còn quá ít. Sắp tới tình hình có thể biến đổi nhảy vọt, đột biến thì ở cái đất Sài Gòn có nhiều chính đảng và giáo phái này, chẳng nói 5, 6 ngàn mà đến 10.000, 20.000 cũng chỉ là muối bỏ biển. Làm sao bây giờ? Làm sao tổ chức cho được 10, 15 vạn công nhân viên chức ở thành phố lớn nhất nước là Sài Gòn bấy giờ đông hơn tám chục vạn dân.
Bàn tới bàn lui, chẳng biết có gì quan trọng hơn, mấu chốt hơn là gấp rút đào tạo nhiều cán bộ công đoàn để phòng khi thời cuộc biến chuyển ta có đủ người làm việc cho giỏi. Chúng tôi nhắc lại lời của Stalin: “cán bộ quyết định tất cả”, xem đó là chí lý. Đó cũng là “chuyên môn” của tôi trong huấn luyện đào tạo cán bộ. Vả lại, bây giờ anh em khá đông, tôi không phải trực tiếp đi nhiều nơi, nên lo việc huấn luyện là chính, đồng thời kiểm tra, đôn đốc chỗ nào cần. Các anh Văn, Lực, Lựu, Ri, Tư cà phê, Hai Râu, Giỏi (Eiffel) và Giỏi (cứu hoả) đều hăng hái lắm, nhưng họ ít kiến thức “sai đâu đánh đó” chớ lý luận cách mạng chưa có gì, chưa ai có một bó đuốc trong tay; vì vậy, sáng kiến bị hạn chế. Phải ra sức đào tạo họ thành những nhà lãnh đạo công đoàn, lãnh đạo phong trào công nhân, và khi cần thì đủ sức đương đầu với các lãnh tụ chính đảng tư sản, tiểu tư sản, tôn giáo. Phải đào tạo nhiều, phải thật nhiều cán bộ cơ sở xuất thân từ xí nghiệp, để khi thời thế đến, họ có sức nhân lên gấp mười, gấp hai mươi sức lao động và sức tổ chức công đoàn, làm cho lực lượng công nhân lao động trở thành mạnh nhất ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, làm cho phong trào công nhân có tác dụng tập hợp và dẫn đầu tất cả các phong trào yêu nước. Nói thực hiện vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, là một mặt thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản – đội tiên phong mácxít lêninnít của giai cấp công nhân, mặt khác (và đồng thời) là làm sao cho phong trào công nhân thật sự dẫn đầu tất cả các phong trào yêu nước, thu hút các phong trào yêu nước theo mình. Một mặt không đủ; phải hai mặt thì mới chọn là sự “lãnh đạo của giai cấp công nhân”, lúc đó cũng gọi là “bá quyền của giai cấp công nhân” – điều kiện cốt yếu cho cách mạng dân tộc dân chủ triệt để thành công. Trong mục đích chính trị đó, Thành uỷ và Thường vụ Xứ uỷ quyết định mở những lớp học liên hoàn cho cán bộ công đoàn toàn thành phố và một số anh chị em từ lục tỉnh lên tiếp tay làm công vận. Học viên chủ yếu do các công đoàn lựa chọn. Ban đầu giảng viên chỉ có mình tôi, cùng lúc dạy nhiều lớp, ở chùa Bà Đầm, ở nhà Hoàng Đôn Văn (ĐaKao) ở Xóm Lách, ở Bàu Lăng, v.v. Khi ấy Lý Chính Thắng chưa tham gia, Nguyễn Thành A còn ở căng Bà Rá chưa về, Hà Huy Giáp ở căng ngoài Trung Kỳ chưa vào, Nguyễn Văn Nguyễn mới từ Côn Lôn về Mỹ Tho cũng chưa chịu nhập cuộc, Nguyễn Văn Tây ẩn náu nơi nào đó ở Hậu Giang, Ung Văn Khiêm giả đi làm cố nông ở Cần Thơ, các anh lúc đó đều chưa nhận công tác, còn “chờ xem”. Các đồng chí đó, sau 9 tháng 3 sẽ có điều kiện góp phần đào tạo cán bộ công đoàn và các anh em sẽ hoạt động đắc lực lắm. Tạm thời tôi “bao sân”, anh Oanh (Bạch Đằng lớn) nói đùa rằng tôi một mình day trở như “Tam chiến Lữ Bố”! (lớp học Đảng và công đoàn, lớp học thanh niên và trí thức).
Chương trình huấn luyện cán bộ công đoàn lấy vấn đề “vai trò lịch sử của giai cấp công nhân” làm trung tâm, các vấn đề khác đều xoay quanh vấn đề trung tâm đó. Huấn luyện công nhân, tôi giảng một hệ thống tám bài. Không nói về triết học, về kinh tế học; không trình bày chủ nghĩa Marx - Lenin theo kiểu nhà trường mà đi thẳng vào “các vấn đề căn bản của cách mạng Đông Dương” – một cái “tủ” của tôi, bao gồm bốn phần, mỗi phần hai bài, mỗi bài một buổi. Phần thứ nhất: những tiền đề (thế giới và quốc gia) của cách mạng Đông Dương. Phần thứ hai: nhiệm vụ, tính chất của cách mạng Đông Dương. Phần thứ ba: các giai cấp và động lực của cách mạng Đông Dương. Phần thứ tư: tình hình hiện tại và những nhiệm vụ cần thiết (trong nhiệm vụ cần kíp, nhấn mạnh vào việc tổ chức công đoàn). Anh em đi học nghiêm túc lắm, tới đúng giờ, về có trật tự. Có lần anh Ca Him thợ kỳ cựu nhà đèn Chợ Quán, bạn của Tôn Đức Thắng, của Dương Văn Phúc (Năm Đông), đi tới trễ (có lẽ vì anh lớn tuổi) anh em không cho vào lớp, tôi phải xin mới được. Tôi có kinh nghiệm giảng dạy cán bộ công nông ở tù, ở căng Tà Lài, ở U Minh, nên anh em hiểu rõ, một số anh ghi được, tất cả đều nhớ các chương, tiết mục và khi về có thể ít nhiều “quay” lại cho bạn bè. Tôi khuyến khích anh em chất vấn. Tôi trả lời tất cả các câu hỏi. Tôi biết rằng hồi 1936, 1939, ở Sài Gòn ảnh hưởng của tờ-rốt-kýt trong anh em công nhân viên chức không phải không có, nên tôi chú ý đánh đổ tư tưởng chính trị của đệ tứ. Có lần mấy học viên lớp công đoàn xin phép tôi mời lãnh tụ một nhóm đệ tứ là Hồ Hữu Tường đến tranh luận với tôi, ngay ở nhà Hoàng Đôn Văn. Ai cũng tưởng đâu cuộc tranh luận sẽ nảy lửa. Nhưng không! Tường xuôi xị trong lúc một học trò của tôi, chú Tổng (người Càng Long, thợ nhà in) công kích tờ-rốt-kýt dữ dội. Tàn cuộc, anh em bảo rằng gà của đệ tứ chạy “rót”, đừng hòng nói trạng với thợ thầy Sài Gòn nữa. Chính tôi bảo anh em tổ chức cuộc đụng độ đệ tam, đệ tứ này để chứng tỏ cho anh em rằng đệ tứ không phải là đối thủ lợi hại, họ không có lý luận gì chân chính và họ không có tinh thần cách mạng đâu. Điều chính là tôi cố vũ trang cho cán bộ công đoàn một số vốn tối thiểu về lý luận cách mạng Đông Dương, trong đó có vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân phải được thực hiện, một số vốn càng cụ thể càng hay về tổ chức công đoàn, hoạt động xưởng máy, các hình thức đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động thành phố.
Ảnh căn cước ở nhà tù Côn Đảo năm 1935 của Trần Văn Giàu (số tù 588). Thời đó, ông được gọi là "Giáo sư Đỏ"
Quả thật đúng với dự đoán, mà dự đoán này không có gì là tài tình cả, cuộc đảo chánh Nhật ngày 9-3-1945 nổ ra. Trái với ý muốn của Nhật, cuộc đảo chánh làm phát sinh một tình hình thuận lợi cho cuộc vận động chống Nhật, trong cuộc vận động đó, phong trào quần chúng phát triển nhảy vọt. Lúc này mấy lớp cán bộ công đoàn thứ nhất của chúng tôi đã học xong và mấy lớp thứ hai đã bắt đầu, chúng tôi có một lực lượng nòng cốt tối thiểu để chèo chống, không đến nỗi phải “theo đuôi” phong trào. Có cán bộ, lại có mấy chục công đoàn cơ sở và mấy ngàn đoàn viên có thể được đánh giá là nòng cốt, công vận chắc chắn sẽ phát triển rất nhanh, đưa lực lượng của giai cấp công nhân lên hàng tiền đạo.
Ở đây cần chú ý rằng, trong Nam, ở Sài Gòn, chúng tôi lập công đoàn chớ lúc ấy không lập công đoàn cứu quốc. Không phải vì lý do gì khác hơn là, khi ấy, chúng tôi không biết có chỉ thị lập công nhân cứu quốc. Chúng tôi theo Nghị quyết Trung ương tháng 11-1939. Vả lại đó là “đường mòn” quen thuộc. Mà xét cho cùng thì công đoàn cho phép tổ chức một cách rộng rãi hơn, cho phép hoạt động nhiều khi công khai, mà nhiệm vụ cứu quốc thì tất nhiên là làm được, đồng thời không hạn chế nhiệm vụ công đoàn trong khuôn khổ phản đế. Cho nên về sau, khi gần đến cách mạng tháng Tám, khi chúng tôi biết điều lệ công nhân cứu quốc, chúng tôi cũng không thấy cần thiết phải đổi tên. Liền sau 9 tháng 3, lực lượng công đoàn lớn nhanh tới 15.000 đoàn viên, vào thời điểm tháng 4, không nơi nào có lực lượng công nhân, có tổ chức mạnh bằng Sài Gòn, nhưng 15.000 đoàn viên vẫn quá ít đối với thời cuộc.
2) Những bước đầu của phong trào thanh niên
Những bước đầu lập lại Tổng công đoàn và gây dựng lại phong trào công nhân ở Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn, đều là do Xứ uỷ Nam Kỳ của Đảng Cộng sản chủ trương, do cán bộ Đảng đứng ra thực hiện trước hết. Nên biết rõ là hoàn toàn không có đảng phái chính trị hay khuynh hướng tôn giáo nào chen vào. Kể cả Tờ-rốt-kýt hồi 1936, 1939 đã hoạt động khá ồn ào trong công nhân, hay kể cả Cao Đài Trần Quang Vinh hồi 1943, 1944, 1945 đã đưa hàng vạn tín đồ lên làm công nhân đóng tàu gỗ cho Nhật. Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất có tổ chức trong giai cấp công nhân ở Sài Gòn lúc này.
Còn những bước đầu của phong trào thanh niên ở đây trước khởi nghĩa tháng Tám là một cuộc vận động tự phát, sau đó Đảng mới chú ý và ra sức hướng dẫn, phát triển. Thừa nhận rằng phong trào lúc đầu là tự phát, tất nhiên không phải chê trách các đồng chí ta, trong đó có tôi. Thành bộ có một số đoàn viên thanh niên cộng sản mà ít lắm; còn bảo rằng Đảng chú ý dìu dắt thanh niên đi đúng hướng yêu nước, không phải là kể công với tuổi trẻ, nếu kể công hãy kể cho Bà Trưng hay xa hơn nữa là cho ông Thánh Gióng mà tất cả chúng ta kế thừa sự nghiệp. Có thể ghi nhận rằng trong các cao trào 1930-1931, 1935-1939, chưa hề có ở Nam Kỳ một tổ chức, một cao trào thanh niên rộng lớn như năm 1945.
Từ năm 1930, khi Đảng mới ra đời, Trung ương Đảng đã từng quyết nghị là đảng viên phải chú ý lãnh đạo các phong trào “đột nhiên” (tức là tự phát) của quần chúng. Trong một xứ đang đi vào đường cách mạng, cách mạng chưa thành công, thường thấy nhiều loại vận động yêu nước của đồng bào mà Đảng cách mạng không thể biết trước cho hết. Làm sao biết trước cho hết được? Chống thực dân, nào phải chỉ có một mình Đảng Cộng sản? Nhiều lớp người tự động chống thực dân là lẽ thường ở một dân tộc yêu độc lập tự do. Biết việc mình chưa chắc đã hết, biết trước sao được việc của mọi người? Cái đó không có gì là “xấu hổ” cả, cũng không có gì gọi là “sai lầm”. Nhưng sẽ sai lầm thật nếu mình không chú ý đến những phong trào tự phát để biến nó thành phong trào tự giác.
Trước đảo chánh 9 tháng 3, ở Sài Gòn có một số đồng chí trẻ hoạt động đắc lực, như Trần Bạch Đằng (Bạch Đằng nhỏ, là anh thợ thụt lò nướng sắt, khác với Bạch Đằng lớn là anh Oanh thợ giày), nhưng Bạch Đằng nhỏ lúc này lại hoạt động trong phong trào công nhân là chính. Chưa có ban bệ nào của Xứ uỷ chuyên lo về thanh vận.
Tôi có một thằng cháu trai bên vợ tên là Đỗ Tường Hoàng, học sinh cấp ba ở trường Pétrus Ký. Qua nó, tôi được biết vài nét lớn của phong trào học sinh Sài Gòn mấy năm 1940, 1941, 1942. Còn từ 1943 thì tôi đã bám sát Sài Gòn nên có thể tự mình trực tiếp theo dõi phong trào học sinh, sinh viên (Hoàng hy sinh năm 1948 với chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn Quyết Tử của Sài Gòn).
Lúc thực dân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ cuối 1940 cũng là lúc Pháp giải tán “Câu lạc bộ học sinh” Sài Gòn. Câu lạc bộ học sinh này nguyên là một tổ chức mang tính chất thuần văn hoá của học sinh trung học thành phố được thành lập đầu năm 1940, dựa vào hội SAMIPIC (Nam Kỳ đức trí thể dục) và hoạt động dưới các hình thức thông thường như nói chuyện, dạ hội, du lịch, điền kinh, thể thao. Câu lạc bộ học sinh Sài Gòn[9] không có chí hướng cải lương hay cách mạng, quốc ca hay cộng sản gì hết. Nếu nhìn bề ngoài, thấy hình như nó chịu ít nhiều ảnh hưởng của Pétain – cái ông thống chế có thời là anh hùng dân tộc Pháp, nay cầm đầu chính phủ đầu hàng (Vichy); hình như có những ai đó, tôi không biết rõ tên, muốn kéo câu lạc bộ học sinh theo chủ trương “cách mạng quốc gia” và “Pháp-Việt phục hưng” của Decoux. Không có gì lạ. Độ này báo chí đầy dẫy những “lời của thống chế’ và sáng sáng các thầy các trò các trường phải chào cờ tam sắc và hô “Thống chế, có chúng tôi đây”. Câu lạc bộ học sinh (CLBHS) cũng đưa ra một số khẩu hiệu cần lao, danh dự, đoàn kết là những vị thuốc gọi là hồi sinh của Pétain - Decoux. Nhưng thực ra, nhà cầm quyền thực dân không chỉ đạo được Câu lạc bộ học sinh, không ngăn nổi ảnh hưởng của phong trào cách mạng đối với tuổi trẻ nhà trường. Câu lạc bộ học sinh tập hợp nhiều thanh niên các trường trung học công và tư Pétrus Ký, Tabert, Lê Bá Cang, Huỳnh Khương Ninh v.v… Câu lạc bộ học sinh tổ chức nhiều buổi nói chuyện, dạ hội, cắm trại. Những buổi sinh hoạt đó thực ra chẳng có nội dung gì tiến bộ lắm đâu, những nội cái sự tập hợp tổ chức và hoạt động văn hoá của tuổi trẻ đủ làm cho nhà cầm quyền Sài Gòn sinh nghi và quyết định giải tán CLBHS. Cạp vỏ dưa, thấy vỏ dừa thì sợ. Bấy giờ là sau khởi nghĩa Nam Kỳ. Như vậy là nhà cầm quyền chọc tức tuổi trẻ, vô tình nhà cầm quyền Pháp gắn liền CLBHS với nhân dân khởi nghĩa mà chúng vừa nhận chìm trong máu.
Trong không khí Nam Kỳ khởi nghĩa bị trấn áp dã man còn CLBHS thì bị giải tán, tâm trạng của tuổi trẻ không khỏi bàng hoàng. Người ta cho rằng phần nào đó, bài hát “Khóc quốc hồn” – nhạc của Mỹ Ca, lời của Mai Văn Bộ – một lúc phổ biến trong học sinh Nam Kỳ là ít nhiều biểu hiện tâm trạng có lúc bàng hoàng đó nếu có và nếu có thì ấy là một cái bàng hoàng đang chuyển sang sự chuẩn bị thái độ chống đối. Phương hướng hành động thì chưa có, mà lòng yêu nước thương nòi thì sẵn rồi:
Hương trầm theo gió đưa
Khơi nguồn thương tiếc xưa,
Tiếng nước non vang rền dư âm,
Điêu tàn thay quốc gia,
Đau lòng thương xót xa,
Khóc giống nòi bao đời lầm than…
Sau khi CLBHS Sài Gòn bị giải tán thì một số cậu tú Sài Gòn đi học Đại học Hà Nội. Lúc này, sinh viên Hà Nội có một tổ chức (hợp pháp) gọi là “Tổng hội sinh viên Đông Dương” (A.G.E.I). Trong Tổng hội này xu hướng trì trệ và xu hướng tiến bộ chọi nhau. “Trì trệ” không có nghĩa là theo Tây mà có nghĩa là: hãy lo việc học giỏi, thi đậu, lấy bằng đã rồi sẽ hay. Sinh viên y khoa Phạm Biểu Tâm, chủ tịch Tổng hội, đại diện cho khuynh hướng này. Còn “tiến bộ” có nghĩa là học hành nhưng đồng thời quan tâm nhiều đến những việc yêu nước thương dân; con người thì ở Hà Nội mà chí khí thì ở Việt Bắc (nơi đó nghe nói có chiến khu). Xu hướng trì trệ bị đẩy lùi, xu hương tiến bộ thắng thế với việc bầu sinh viên Luật khoa Dương Đức Hiền lên làm chủ tịch Tổng hội sinh viên Đông Dương. Ngay trong sinh viên Nam Kỳ cũng có hai phe, một phe “trưởng giả” và một phe mà sau này người ta gọi là “dám nghĩ dám làm”, học thì giỏi mà “xem thường công danh như phù vân”: một mức, còn thấp, của sự phân hoá chính trị trong tình thế chiến tranh và cách mạng.
Hè năm 1942, một số sinh viên Nam Kỳ ở Hà Nội về Sài Gòn, liên kết với học sinh các trường trung học Sài Gòn để mở một đợt hoạt động văn hoá và chính trị. Lúc này thì toàn quyền Decoux đã tuyên bố chính sách mới của y rồi, sinh viên học sinh có thể lợi dụng được một số điểm của chính sách ấy. Đứng ngoài ngó vào, ở xa đọc báo (như tôi hồi này đang ở U Minh, Rạch Giá) thì có thể ngờ rằng cái đám sinh viên, học sinh này, ít nhất, những anh cầm đầu, là tay sai của Decoux, đi truyền bá học thuyết “cách mạng quốc gia” của Pétain và bè lũ. Tại trụ sở quen thuộc của SAMIPIC (Sài Gòn), sinh viên Mai Văn Bộ lên đàn diễn thuyết về “Con đường cách mạng quốc gia”. Vậy đích thị Pétain - Decoux chớ còn gì nữa? Thế nhưng không phải! Bình Tây mà rượu đế! Diễn giả hô hào tuổi trẻ Việt Nam “hãy làm một cuộc cách mạng trong tâm hồn và trong tư tưởng mình trước tình hình biến động hiện nay và hãy trở về với chân giá trị dân tộc”. Vẫn còn mù mờ gần như buổi diễn thuyết của Nguyễn An Ninh năm 1923, cũng tại hội trường SAMIPIC này, khi ấy anh Ninh hô hào thanh niên hãy đi tìm lý tưởng, khác một điều là hai mươi năm trước Nguyễn An Ninh bảo thanh niên phải dám rời bỏ tổ ấm gia đình, đi thật xa, tìm chân trời mới. Còn bây giờ Mai Văn Bộ hô hào thanh niên “hãy trở về với giá trị dân tộc”. Xét cho cùng thì ở hai đầu của thời gian lịch sử hai mươi năm, hai diễn giả bổ túc cho nhau chớ không đối lập nhau, duy cả hai, ít ra là trong diễn văn của họ, không ai nói lên được cái lý tưởng (khi ấy gọi là cao vọng) mới đó là gì và cái chân giá trị truyền thống dân tộc đó là gì. Dù sao đi nữa, diễn văn của Mai Văn Bộ đã gieo vào tâm trí một số thanh niên Sài Gòn, thanh niên lục tỉnh, những khái niệm “cách mạng tư tưởng”, “cách mạng tâm hồn”, “chân giá trị dân tộc”. Lần theo đường tìm hiểu những khái niệm đó, có thể và sẽ gặp cách mạng giải phóng dân tộc mà Đảng Cộng sản chủ trương, tôi sơ bộ nghĩ như vậy.
Còn vở kịch hè 1942 của sinh viên học sinh Sài Gòn là gần như vô thưởng vô phạt.
Bộ ba Hoàng Mai Lưu năm 1955 tại Hà Nội.
Từ trái sang phải: Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ
Đáng chú ý hơn hết là sự xuất hiện một hiện tượng văn hoá đặc sắc trước kia ít thấy trong vòng hợp pháp; nhiều bài ca nhạc mới được phổ biến, mang nội dung chính trị tiến bộ; nổi tiếng nhất là bài “Tiếng gọi sinh viên” của Lưu Hữu Phước, lời ca của Mai Văn Bộ[10], nhạc hùng tráng, lời mạnh mẽ, tinh thần quật cường, có giá trị cổ động như hàng trăm người hô hào.
“Này sinh viên ơi, đứng lên đáp lời sông núi!”
Không còn sướt mướt nữa như trong “Khóc quốc hồn” năm trước, mà kêu gọi tuổi trẻ nỗ lực vượt khó, mở đường, bền chí trước mọi khó khăn.
“Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta
Dù muôn chông gai vững lòng chi sá…”
Hè 1942, hoạt động của học sinh, sinh viên để lại một kỷ niệm khó quên được tô đậm bằng hoạt động của họ cuối 1942, khi Sài Gòn có hội chợ lớn. Thừa hội chợ, Tổng hội sinh viên Đông Dương gởi vào một đoàn đông hơn 100 người (do Nguyễn Ngọc Minh, Huỳnh Văn Tiểng, Lê Khắc Thiều cầm đầu). Vào Sài Gòn, đoàn sinh viên đã đông rồi, lại được tăng cường bởi hàng trăm học sinh nam nữ của hai trường Pétrus Ký và Nữ học đường; đoàn hoạt động rầm rộ lắm. Tinh thần sinh viên, học sinh bồng bột, tinh thần công chúng Sài Gòn cũng bồng bột, hai bên gặp nhau ở chỗ khêu gợi ý thức yêu nước và tự hào dân tộc. Đứng xa mà ngó (cuối năm 1942, tôi mới chuẩn bị rời U Minh) thì nửa mừng nửa lo. Mừng là vì phong trào nhân dân ở Sài Gòn hình như bắt đầu lên trở lại, có lẽ tự phát, nhưng không thể chối cãi là có thật. Lo là vì, lạ quá, tại sao lại nổi lên được cuộc vận động sinh viên, học sinh khá lớn như vậy, hay là phong trào này do một đảng quốc gia tư sản, tiểu tư sản nào khuấy động? Nếu vậy thì ta vừa thêm đồng minh mà cũng vừa thêm đối thủ đấy! Tôi nghĩ như vậy. Nghĩ sai. Có đồng minh chớ không phải gặp đối thủ.
Không thể kéo dài cuộc ẩn náu trong rừng tràm, trong vườn thơm nữa. Phải mau mau trở về Sài Gòn thôi. Về hỏi anh Oanh, anh Chí mới rõ được. Về mới có thể theo kịp với thời cuộc bắt đầu chuyển. Quân Đức đang đại bại trước Stalingrad, ngọn gió chiến tranh thế giới đổi chiều.
Sự xuất hiện của đoàn sinh viên, học sinh hơn 200 người kia làm cho Sài Gòn vốn rộn rịp vì hội chợ càng thêm rộn rịp. Đoàn bắt đầu hoạt động bằng một buổi dạ hội ở một nhà hát lớn. Nói là “Nhà hát lớn” chớ nó lớn lao gì đâu! Ngồi chen chúc thì được một ngàn người là cùng. Nhưng nó “oai”: không phải ai cũng thuê được; phải có thân thế mới thuê được. Đoàn sinh viên, học sinh thuê được bởi vì Decoux kẹt cứng trong cái đường lối “liên bang” của y, buộc y phải thừa nhận “thực tế dân tộc”, phải mua lòng thanh niên, nhằm tranh giành ảnh hưởng với Nhật Bản. Độ 42, 43 này, cuộc “tranh giành” đó dữ dội lắm. Cho nên bọn đầu xanh “dám nghĩ dám làm” lại được một số nhân vật bự (như Michel Văn Vĩ - Giám đốc Ngân hàng Pháp-Hoa) ủng hộ mạnh, họ được phép vào cửa Nhà hát lớn Sài Gòn diễn thuyết về một đề tài rất hấp dẫn là “Trần Hưng Đạo phá Nguyên” và giới thiệu các bài ca nhạc yêu nước mới. Ở Nhà hát lớn mà diễn thuyết về Trần Hưng Đạo phá Nguyên thì khác gì nổ bom (tư tưởng) trong thành phố từng được gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”? Hai diễn giả Nguyễn Ngọc Minh và Trần Văn Khê thuở ấy là sinh viên không tên tuổi gì lắm; nhưng khán giả đông nứt rạp vì các đề tài nói chuyện riêng nó đã hấp dẫn rồi!
“Trần Hưng Đạo phá Nguyên” thì người Việt Nam có học chút ít, ai mà không biết? Diễn giả lại là một sinh viên luật khoa, biết gì nhiều về lịch sử đâu, vậy mà anh được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Có lẽ vì câu chuyện gảy đúng sợi dây đàn tự hào dân tộc trong tâm hồn của người Việt Nam. Có lẽ vì chuyện thì xưa mà ý thì nay: dân tộc Việt Nam nhỏ yếu phen này phải đánh đế quốc hùng cường và phải thắng, chẳng phải thấy ông cha ta đã đánh bại quân Nguyên đó sao? Diễn giả hoàn toàn không đụng chạm tới Nhật, tới Pháp mà thính giả thì cứ nghĩ đến việc giải phóng dân tộc trước mắt. Có lẽ vì mấy năm nay, người mình mệt nghe đại thắng của Đức, của Nhật, bây giờ cần nghe và được nghe đại thắng của Việt Nam. Trong đầu của nhiều người: chuyện xưa đã có thì nay sao không thể có? Dám có lắm chớ! Cho nên khi Minh chấm dứt bài nói, thính giả “vỗ tay dài như không bao giờ dứt”. Tâm hồn Việt Nam của dân Sài Gòn biểu lộ rõ: người ta vỗ tay cho tổ tiên ông cha mình anh hùng, cho ngày mai vinh quang của dân tộc. Đêm ấy, đi về, người ta bảo nhau “Sài Gòn nổi sóng Bạch Đằng!”.
Nhớ lại mấy năm trước, hồi thời Mặt trận Bình dân, hồi thời nhóm La Lutte và Le Peuple xung khắc nhau, La Lutte là đệ tứ, Le Peuple là đệ tam, giáo sư Trần Văn Thạch trên La Lutte tuyên bố rằng “đã lâu rồi, sợi dây đàn yêu nước trong lòng bọn tôi không còn rung lên nữa” (il y a longtemps, chez nous, la fibre patriotique ne vibre plus)[11]. Ý muốn nói rằng chủ nghĩa yêu nước không còn được xem là có khả năng kích thích nữa. Thì nay, ở Nhà hát lớn Sài Gòn, người ta thấy cái chủ nghĩa yêu nước truyền thống rõ ràng là có tác dụng kích thích rất cao ở Nam Kỳ cũng như ở cả nước Việt Nam. Đảng Cộng sản phất cao ngọn cờ chủ nghĩa yêu nước cách mạng; sinh viên, thanh niên và Đảng cộng sản gặp nhau ở đây.
Sau diễn thuyết có đồng ca mấy bài hát yêu nước. Lại có triển lãm của Vương Quang Lễ về “nguồn gốc của dân tộc Việt Nam”.
Công chúng theo dõi sự hoạt động của sinh viên, học sinh một cách rất cảm tình. Đồng chí Oanh (tức Bạch Đằng lớn) mừng lo lẫn lộn, lo hơn là mừng. Anh báo cáo, nói rằng anh ngờ rằng, đằng sau việc này, hoặc có một ý đồ gì của đế quốc Pháp, muốn khai sinh cho một loại chủ nghĩa quốc gia cải lương tả phái mang nhiều khả năng hấp dẫn thanh niên hơn là các loại quốc gia cải lương hữu phái bất lực trước đây; nếu không phải như vậy thì tại sao đám chính khách và nghệ sĩ này mượn được Nhà hát lớn để vận động cho chủ nghĩa dân tộc? Hoặc có một chánh đảng quốc gia tư sản nào đứng sau lưng đám thanh niên hăng hái này. Lịch sử hiện đại sau chiến tranh thế giới thứ nhất cho biết rằng, ở nhiều xứ thuộc địa và nửa thuộc địa, phong trào học sinh, sinh viên chống thực dân thường gắn liền với một chính đảng quốc gia tư sản hay một tôn giáo có tinh thần dân tộc. Đồng chí Oanh không tự giải đáp cho mình được thì làm sao các bạn xung quanh cũng thắc mắc như anh. Anh chờ tôi về Sài Gòn.
Khoảng vài tháng đầu năm 1943, tôi có mặt gần như thường trực ở Sài Gòn, bỏ đứt vườn thơm mười mẫu cho anh Hai Đen, tức anh Mười Nhung (Chợ Lớn) muốn làm gì thì làm. Tôi về Sài Gòn không phải vì bị kích thích bởi phong trào sinh viên học sinh mà được thúc đẩy bởi chiến thắng Stalingrad của Hồng quân Liên Xô trước hết. Tôi xáp gần sinh viên học sinh yêu nước, sinh viên học sinh yêu nước xáp gần tôi. Hai bên cần nhau. Nhớ rằng hơn mười năm trước, 1930, Xứ uỷ do Ung Văn Khiêm làm Bí thư chỉ định hai thanh niên đảng viên được vào Ban phản đế và học sinh của xứ: tôi và Hải Triều. Thanh vận không phải là việc mới đối với tôi. Một cái “nghiệp” (nói theo kiểu nhà Phật), “đã mang lấy nghiệp vào thân”.
Hè năm 1943, sinh viên người Nam Kỳ học ở Hà Nội lại về Sài Gòn. Lại hợp tác với học sinh Sài Gòn. Lại hoạt động văn hoá. Họ trình diễn liên tiếp ba vở kịch: “Đêm Lam Sơn”; “Nợ Mê Linh”, “Hội nghị Diên Hồng”. Cả ba đều của Huỳnh Văn Tiểng.
Toàn là những đề tài lịch sử, đề tài yêu nước chống ngoại xâm. Tôi không được đi xem diễn, chỉ được đọc kịch bản “Hội nghị Diên Hồng”. Không có vở nào cấu kết hay. Diễn xuất không có gì xuất sắc. Nhưng công chúng Sài Gòn hoan nghênh “Đêm Lam Sơn” dữ lắm. Tại sao? Tìm hiểu thì có thể thấy được rằng điều đó chứng tỏ một tâm trạng chính trị của quần chúng mà những người cán bộ Đảng cách mạng không dễ xem thường: bằng mọi cách khêu gợi lòng yêu nước, khêu gợi tinh thần dân tộc, khêu gợi tự hào dân tộc, thì dễ khuấy lên được phong trào quần chúng, đẩy nhanh cách mạng tới trước, chớ nếu chỉ lo bênh vực quyền lợi thiết thực của dân thì chưa đủ, không đủ. Đành rằng người cộng sản không được một phút xem nhẹ quyền lợi thiết thực của dân, nhưng, trước mắt và lâu dài, nếu muốn huy động hết sức đông đảo quần chúng thuộc tất cả các tầng lớp xã hội thì phải giương cao ngọn cờ dân tộc, phải không rời chủ nghĩa yêu nước chân chính. Vở kịch “Đêm Lam Sơn” gây xúc động lớn. Tới màn chót, khi Lê Lợi tuốt gươm thề quyết tâm tiêu diệt giặc Minh, thì cả rạp hát công chúng, không ai bảo ai, đều đứng dậy, vỗ tay, hò reo, nhịp tay nhịp chân đồng hát và hát đi hát lại bài “Tiếng gọi sinh viên” (từ nay được đổi tên là “Tiếng gọi thanh niên” cho hợp với yêu cầu xã hội và chính trị). Dư luận Sài Gòn nêu cao sức đồng cảm sâu sắc giữa người xem vở kịch và tác giả, diễn viên vở kịch yêu nước. Đêm ấy, anh Oanh đi xem về, kết luận rõ ràng: ta phải đến với nhóm sinh viên, học sinh này, phát huy đầy đủ khả năng của họ, hướng dẫn họ đi đúng đường, bằng không thì hoặc địch (Pháp hay Nhật) sẽ lợi dụng họ, sẽ lái họ vào đường sai lầm nguy hiểm, hoặc tự họ sẽ tổ chức thành một chánh đảng quốc gia tiểu tư sản, khi ấy sẽ khó nắm họ hơn nay. Tôi đồng ý. Nhất là vì, ít lâu nay, do điều tra, tôi biết chắc rằng phong trào sinh viên, học sinh là một phong trào tự phát. Còn như nếu phải trả lời câu hỏi tại sao Toàn quyền Đông Dương và Thống đốc Nam Kỳ cho phép sinh viên, học sinh hoạt động như thế kia mà không kiểm duyệt kịch bản, cấm cản công diễn, thì trước hết ta chớ nghi ngờ tấm lòng trong sáng của tuổi trẻ, ta hãy tìm nguyên nhân trong chính sách “Liên bang” của Decoux thì rõ (tuyên cáo của Xứ uỷ chú trọng đến việc phê phán “chủ nghĩa Liên bang của Decoux”). Nói theo kiểu của ta thì ấy là đám thanh niên táo bạo và yêu nước kia đã biết “lợi dụng khả năng công khai hợp pháp” tựa như Xứ uỷ Nam Kỳ năm 1933, mười năm trước, đã lợi dụng khả năng hợp pháp đưa “Sổ lao động” Nguyễn Văn Tạo tranh cử hội đồng thành phố.
Cũng trong hè 1943, sinh viên, học sinh tổ chức cắm trại ở bờ suối Lồ Ồ, gần Thủ Đức. Việc cắm trại Lồ Ồ sẽ tạo ra một mẫu cắm trại phổ biến trong học sinh các trường trung học Nam Kỳ. Trại trưởng trại Lồ Ồ là Đặng Văn Chung, nội trú năm thứ VI trường đại học Y khoa. Anh này xem chừng như không sợ mất bằng cấp bác sĩ đã ở trong tầm tay. Nhiều sinh viên, nhất là các cậu người lục tỉnh “xem thường công danh”, trước mắt họ, đường đời rộng thênh thang, đâu phải chỉ có hoạn lộ? Trại viên tự rèn luyện tinh thần đoàn thể, kỷ luật, tự quản; cũng còn luyện cho mình lòng yêu đồng bào, yêu nhân dân: trại viên là sinh viên y thì khám bệnh, chữa bệnh, truyền bá vệ sinh; trại viên khác thì dạy chữ, dạy hát; tất cả tổ chức nhiều màn kịch cho đồng bào xem. Trại là một lớp học sử, lịch sử nước nhà trước hết, học sử để tự hào dân tộc, để tự lập, tự cường. Ngày ngày, nhất là thứ bảy, chủ nhật, đồng bào trí thức, nhân sĩ, thanh niên từ Sài Gòn, từ các tỉnh đến thăm trại. Trại Lồ Ồ chỉ có một tháng mà ảnh hưởng của nó trong học sinh thì dài hơn nhiều.
Sau trại Lồ Ồ, học sinh Sài Gòn dẫn đầu là học sinh Pétrus Ký tổ chức đoàn SET[12] (đoàn du lịch và cắm trại). Cái tên vô thưởng vô phạt đó gói bên trong một tổ chức thanh niên yêu nước hẹp hơn, một “hạt nhân” gọi là “Đoàn Hùng”. “Đoàn Hùng” không phải là thanh niên cộng sản hay thanh niên cứu quốc đâu, nhưng nó đã có ít nhiều màu sắc chính trị yêu nước, làm nòng cốt cho SET; SET lấy huy hiệu “con đường”, nền xanh tươi, đường đỏ hồng. Có nhiều cách giải thích ý nghĩa của huy hiệu: nền xanh là tuổi trẻ, đường đỏ là cách mạng; hoặc, ôn hoà hơn: đường đỏ thắm chạy thẳng trên cánh đồng xanh um. Thanh niên đoàn viên hát:
Trời mây lồng lộng,
Đồng ruộng mênh mông,
Chân trời xa xa,
Con đường màu hồng,
Cùng nhau thẳng tiến.
Ai muốn hiểu “con đường màu hồng” là gì, thì tự do: đường cách mạng hay là đường đá Biên Hoà.
Đoàn SET có thể được xem như dọn một khúc đường cho Thanh niên Tiền phong sau này. Đoàn viên hợp thành một đội ngũ, mặc đồng phục, quần soóc màu, sơ mi trắng, ngực đeo biểu tượng “con đường” đi, nghỉ theo sự chỉ huy hoàn toàn bằng tiếng Việt. Đến tập trung, đi cắm trại, đoàn viên vừa đi vừa hát bài “Tiếng gọi thanh niên”. SET cũng tổ chức dạ hội. Tháng 12 năm 1944, SET trình diễn vở kịch “Nguyễn Huệ phá Thanh”, được đồng bào cổ vũ, lại một sự kiện văn hoá nhằm nói lên cái chân lý rằng một dân tộc nhỏ có thể đánh bại được một kẻ xâm lược lớn, rất lớn. Tư tưởng chính trị này phù hợp biết mấy với tình hình đất nước ta lúc đó.
Đoàn trưởng thứ nhất của SET ở Sài Gòn là Trịnh Kim Ảnh, con một ông thợ mộc ở Thủ Dầu Một. Đoàn trưởng kế tiếp là Đỗ Tường Hoàng, cháu ruột của vợ tôi. Ở Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ, Thủ Dầu Một cũng có đoàn SET.
Anh em trong Xứ uỷ chúng tôi rất lúng túng trong việc cần thiết phải tìm ra – như anh Dương Văn Phúc thường nói, những “hình thức tổ chức biến tướng” để tập hợp quần chúng cho thật đông. Cái “đường mòn” là lập ái hữu, trợ táng, đổi công, hội thể thao, v.v… những thứ biến tướng đó vào buổi này không mấy hấp dẫn và không mấy tác dụng trong tình thế chiến tranh và cách mạng. Đối với thanh niên, SET có phần hấp dẫn, nhưng nó chỉ là một tổ chức có tính chất văn hoá, còn cái mà ta cần hiện giờ và sắp tới là một tổ chức rất rộng lớn mang tính chất chính trị, yêu nước, cao hơn SET, chẳng những của học sinh mà của các tầng lớp trẻ tuổi khác nữa. Cao hơn SET thì là cái gì? Chưa trả lời được. Dù sao thì sự xuất hiện, sự hoạt động của SET cũng gợi ý cho chúng ta rất nhiều.
Mùa đông 1944, nhiều sinh viên Nam Kỳ học ở Hà Nội khởi xướng một phong trào mới lạ mà hợp thời, ấy là phong trào “xếp bút nghiên”. Không phải chỉ có những người học năm thứ hai, thứ ba đại học, có cả những người học năm thứ năm, thứ sáu, sắp thi ra, như anh Huỳnh Bá Nhung, họ cho rằng lúc này không phải là lúc chà mòn đũng quần trên ghế nhà trường nữa để lấy một cái văn bằng ra làm ăn, cưới vợ giàu; không phải “công danh trước đã, sau sẽ hay”. Họ nhận định rằng tình thế kêu gọi thanh niên các trường Đại học “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” sát cánh với nhân dân để giành độc lập tự do. Đúng là “xếp bút nghiên theo việc kiếm cung”. Hoạt động như thế nào, họ chưa biết rõ lắm. Song họ biết rằng, về Nam họ sẽ tìm Đảng bộ Cộng sản và Kỳ bộ Việt Minh ở đó. Họ đi về bằng xe đạp, vừa đạp xe vừa ca hát để thâu đường ngàn dặm.
“Xếp bút nghiên, lên đường đấu tranh
Coi thường công danh như phù vân.
Xếp bút nghiên, sơn hà xao xuyến, tiến ta tiến!
Hồn Việt Nam hùng thiêng,
Từ nghìn xưa bừng chuyển,
Kêu ta lên đường…
(nhạc Lưu Hữu Phước, lời Huỳnh văn Tiểng)
Hàng trăm sinh viên Hà Nội tiễn đưa các bạn “xếp bút nghiên” của họ bằng xe đạp. Tới Hà Nam, một số sinh viên “xếp bút nghiên” bị Pháp bắt đày lên Sông Đà, số còn lại về tới Sài Gòn bắt tay ngay vào việc truyền bá quốc ngữ, sang báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền, ban biên tập báo Thanh niên có Huỳnh Tấn Phát (kiến trúc sư), Huỳnh Văn Tiểng (sinh viên y khoa), Nguyễn Hải Trừng (hoạ sĩ và thi sĩ). Trong lúc Đảng Cộng sản tìm cách đi đến với sinh viên, thanh niên, trí thức thì họ cũng tìm cách bắt liên lạc với Đảng Cộng sản. Họ tỏ ý muốn học chính trị, học lý luận và kinh nghiệm cách mạng. Phạm Ngọc Thạch (và cả Huỳnh Văn Phương[13] nữa) nói với họ rằng ở Sài Gòn bây giờ chỉ có anh Ba (cũng gọi là anh Sáu) mới có thể thoả mãn được yêu cầu sinh viên, thanh niên, trí thức, các trường đại học. Anh Ba, anh Sáu đó là tôi.
Thế là tôi buồn ngủ mà gặp manh chiếu! Xứ uỷ đồng ý mở lớp huấn luyện liên hoàn cho thanh niên trí thức, một ít lâu sau khi mở lớp huấn luyện cán bộ công đoàn. Nói “liên hoàn” là nói: những chú đi học ở Sài Gòn ngày chủ nhật, ngày thứ hai về cơ sở, về tỉnh, tập hợp anh em nói lại bài đã học, rồi thứ bảy lại lên Sài Gòn để sáng chủ nhật học nữa. Cứ như thế. Tôi còn nhớ tên một số thanh niên trí thức dự lớp học chính trị vào đầu năm 1945 như: Huỳnh Tấn Phát, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn Tiểng, Vương Văn Lễ, Nguyễn Việt Nam, Tạ Bá Tòng, Trường Công Cán, Trương Công Trung, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Trương Cao Phước, Trương Công Nhơn, Trần Ngọc Hiền, Lương Phán, Bùi Sĩ Hùng, v.v… Bên công đoàn cũng qua học bên sinh viên như: Hoàng Đôn Văn, Từ Văn Ri, Huỳnh Đình Hai, Sỹ Trúc, mấy tay công đoàn này cũng xấp xỉ tú tài cả (tất cả đều tham gia cách mạng và kháng chiến đến cùng). Thật là một lớp thanh niên đẹp, đẹp lắm!
Lớp học đầu tiên mở tại nhà một dược sĩ giàu có, tiến bộ, anh Trần Kim Quang.
Chương trình học là tám bài về chủ nghĩa Lenin, lý thuyết và thực hành, mỗi bài liên hệ mật thiết với các vấn đề cách mạng Đông Dương. Chương trình nhằm mục đích cung cấp cho thanh niên trí thức một lý tưởng cao đẹp và khoa học, cung cấp cho họ một đường lối cách mạng Đông Dương sáng tỏ, làm cho thanh niên trí thức tin tưởng chắc chắn vào sự thành công tất yếu của sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Tôi mở đầu chương trình bằng đề bài: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Tôi kết thúc chương trình bằng đề tài: Tình hình hiện tại và những nhiệm vụ cần kíp. Mỗi bài giảng xong thì Trần Bửu Kiếm cũng đã ghi xong các tiết mục và ý chính, đánh máy cho mỗi học viên một bản để về cơ sở, về tỉnh “quay” lại cho nhóm của mình (y như bên công đoàn). Tôi khuyến khích anh em đặt câu hỏi, bất cứ câu hỏi gì miễn là ở trong đề. Tôi trả lời tất. Qua các câu hỏi, tôi hiểu thêm thanh niên trí thức và qua các câu trả lời, anh em họ càng tin tưởng lý luận Marx-Lenin thật uyên thâm chứ không phải chỉ là lý luận thường thức.
Ban đầu tôi hơi bao sân. Sau đó Nguyễn Văn Nguyễn, Hà Huy Giáp tham gia giảng những bài phụ. Lớp học liên hoàn này của trí thức trẻ tuổi góp phần đào tạo kịp thời một số cán bộ nòng cốt của phong trào thanh niên phát triển nhảy vọt từ tháng 4 năm 1945 cho đến tổng khởi nghĩa tháng Tám.
Có thể thấy rằng lớp học hoàn toàn là lớp học cách mạng, cộng sản, nhằm cung cấp trong 2, 3 tháng cho mấy chục thanh niên trí thức và trí thức lý tưởng tốt đẹp và khoa học là chủ nghĩa cộng sản Marx-Lenin, nhằm cung cấp cho họ một hệ thống lý luận về chiến lược và chiến thuật cách mạng Đông Dương, nhằm đặt cho họ những nhiệm vụ trước mắt và cách thực hiện những nhiệm vụ cần thiết. Tóm lại, tôi không có nhân nhượng bất kỳ một số điểm nào về mặt tư tưởng, và anh em thanh niên trí thức rất nhất trí với tôi. Tất nhiên, vấn đề còn lại là hướng dẫn sự hoạt động thực tế của họ, bởi họ là những người trẻ tuổi, sôi nổi, tuy chưa có kinh nghiệm, dễ bị vấp thì họ cũng cứ đi tới nơi tới chốn, không ngồi lại nhất là không quay đầu nhất là một khi đã “giác ngộ lý luận” (conscience théorique).
Hoạt động của Xứ uỷ Nam Kỳ đang biến phong trào thanh niên trí thức, sinh viên, học sinh từ tự phát thành tự giác, biến những dòng suối nhỏ thành một nhánh sông đổ vào sông cái.
Chú thích của người biên tập
1 Kempeitai : 憲兵隊 Hiến binh đội, bộ phận công an của quân đội Nhật Bản (1881-1945) thành lập theo mô hình Gendarmerie (Sen đầm) của quân đội Pháp. Công cụ trấn áp và đàn áp của phát xít Nhật ở Triều Tiên, Mãn Châu, Đông Dương… trong Thế chiến Thứ hai. Tại mỗi nước Nhật Bản chiếm đóng, Kempeitai sử dụng khá đông người bản địa. Ở Nam Kì, đặc biệt là hàng ngũ Cao Đài.
2 Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần: Nhà nghèo mới biết (người) con nào có hiếu, nước loạn mới hiểu (ai là) tôi trung.
3 Bao cà ròn: bao (nhỏ) đan bằng cói.
4 Mái nước: chum nước.
5 Mỹ có kế hoạch đổ bộ lên Đông Dương không? Kế hoạch quân sự ấy liên quan thế nào với ý đồ chính trị của Hoa Kì đối với Đông Dương và vai trò của Pháp? Đúng là mùa hè 1944 tổng thống F. Roosevelt đã ra lệnh cho bộ tổng tham mưu chuẩn bị kế hoạch đổ bộ lên đảo Hải Nam và vào bắc Trung Kì và Bắc Kì, lấy đó làm bàn đạp đánh lên phía bắc. Ý đồ chiến lược này giải thích một phần các cuộc ném bom của Mĩ ở Đông Dương, và đó cũng là nguyên nhân chính thúc đẩy Nhật đảo chính, hất cẳng Pháp (9.3.1945). Về mặt chính trị, Roosevelt sử dụng ngôn ngữ “đả thực”, hứa hẹn sau ngày chiến thắng phe Trục, sẽ đặt các nước thuộc địa dưới sự ủy thác quốc tế, tiến dần (20 năm?) tới tự chủ, độc lập. Những tuyên bố của ông khá mập mờ, không rõ sẽ áp dụng cho các thuộc địa của phe Trục, hay cho cả các thuộc địa của những nước đồng minh. Một điều chắc chắn: Roosevelt không có ý hoặc không muốn đụng tới thuộc địa của Anh; còn đối với thuộc địa của Pháp, thì tùy nơi. Bắc Phi và Phi châu, không đụng tới, thậm chí còn cam kết tôn trọng chủ quyền của Pháp. Còn đối với Đông Dương, thì trong nội bộ chính quyền, hoặc trong các cuộc gặp riêng với Stalin và Tưởng Giới Thạch, Roosevelt tỏ ý không cho Pháp quay trở lại Đông Dương, và nêu khả năng Mỹ-Trung cùng ủy trị. Ý đồ này không những gặp sự kháng cự của Churchill (vì quyền lợi đế quốc Anh, Churchill ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương) mà còn gặp sự bất tuân của ngay bộ máy Bộ ngoại giao Mĩ. Chỉ có bộ phận OSS ở Vân Nam và Hoa Nam là ủng hộ, thậm chí còn đi xa hơn trong việc ủng hộ Việt Minh và ngăn cản đoàn Sainteny – một phần vì họ được Hồ Chí Minh chinh phục, một phần vì trong số họ số đông là những người có tư tưởng phóng khoáng, một số tiến bộ (sau này, từ Việt Nam về Mĩ, chiến tranh lạnh bắt đầu, nạn McCarthy hoành hành, họ sẽ bị loại trừ hoặc phải “lặn” mất tăm). Trong mấy thập niên sau đó, người ta vẫn giữ hình ảnh “chống thực dân” của Roosevelt và tưởng rằng khi ông mất đi, Truman mới chịu để cho Pháp trở lại Đông Dương. Vậy mà không phải vậy: ngay từ tháng 2.1945, Mĩ quyết định đánh thẳng từ Philippines lên Okinawa, bỏ kế hoạch đổ bộ lên Hải Nam và miền Bắc Việt Nam, câu chuyện “ủy trị” đã chìm xuồng. Khi huân tước Mountbatten chấp nhận cho Sư đoàn thiết giáp số 2 của tướng Leclerc tham gia lực lượng chuẩn bị đánh (hay giải giới) Nhật, Roosevelt biết mà không ngăn chận. Ông còn cho phép Bộ ngoại giao bắn tin cho phép Pháp trở lại Đông Dương dưới một dạng nào đó. Và một tháng sau khi Roosevelt từ trần (12.4.1944), tại hội nghị San Francisco (tháng 5.1945), ngoại trưởng Mĩ Edward Stettinius đã có thể tỉnh bơ nói với Georges Bidault, bộ trưởng ngoại giao của de Gaulle, rằng “chính phủ chúng tôi chưa bao giờ có tuyên bố chính thức nào… đặt vấn đề, dù chỉ là hàm ý, về chủ quyền của nước Pháp ở Đông Dương cả” (xem tác phẩm của David G. Marr, Stein Tonnesson, George C. Herring, và lưu trữ Bộ ngoại giao Mĩ trên mạng)..
6 Nhẩm xà: uống trà.
7 Năng thuyết bất năng hành: nói thì giỏi làm thì không.
8 Paul Blanchy: nay là đường Hai Bà Trưng.
9 Có thể đọc thêm hồi kí của Mai Văn Bộ: Một ký ức sâu sắc không thể nào quên. Trong: http://www.petruskylhp.org/hkymvbo.htm
10 Bài Tiếng gọi sinh viên, trở thành Tiếng gọi thanh niên (có thể nghe trên Youtube: http://www.youtube.com/watch?v=9RVWWovJwHw) sau này đã bị chính quyền “quốc gia” rồi các chính quyền Việt Nam cộng hòa (1955-1975) mượn tạm làm quốc ca (đổi tên thành Tiếng gọi công dân). Trong suốt 15 năm trời (1960-1975), hai lực lượng, chính quyền đối nghịch nhau ở miền Nam Việt Nam đểu sử dụng làm bài ca chính thức tác phẩm của cùng một nhóm ba tác giả: Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước (mang tên tập thể, lấy từ ba họ: Hoàng Mai Lưu) tức là Huỳnh Minh Siêng (tác giả bài Giải phóng miền Nam) – có lẽ đây là trường hợp có một không hai trong lịch sử chính trị thế giới. Hoàng Mai Lưu đã sáng tác nhiều bài ca và nhạc kịch trong phong trào thanh niên những năm 1940. Năm 1960, khi thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Lưu Hữu Phước đã sáng tác nhạc, Mai Văn Bộ và Huỳnh Văn Tiểng soạn lời. Họ gửi vào chiến khu miền Nam, ký tên là Huỳnh Minh Liên (không ký Hoàng Mai Lưu, sợ “lộ bem”, nhưng vẫn giữ ba chữ cái HML). Bài ca được chấp nhận, điện gửi ra Hà Nội, viết tên tác giả là Huỳnh Minh Liêng. Tại Hà Nội – thời ấy người ta còn coi trọng chính tả –thấy chữ Liêng không có nghĩa, bèn nhanh nhảu sửa thành Huỳnh Minh Siêng, khiến cho tác giả bản nhạc (Lưu Hữu Phước) mất luôn cả chữ L trong cái tên tập thể.
11 La Lutte và Le Peuple: La Lutte từ 1933 đến tháng 5-1937 là tờ báo chung của phái tả, do Nguyễn An Ninh khởi xướng, tập hợp cả “đệ tam” (Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn) lẫn “đệ tứ” (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch, Hồ Hữu Tường). Đó là thời gian hai phái vừa “đoàn kết” vừa “đấu tranh”. Đến khi “đấu tranh” lấn át “đoàn kết” (xung đột trên nhiều vấn đề: thái độ đối với Mặt trận Bình dân Pháp, dân tộc và giai cấp) và dưới sức ép của Quốc tế Cộng sản (thông qua Đảng Cộng sản Pháp), phái “đệ tam” rút khỏi báo La Lutte; báo này (và ấn bản tiếng Việt Tranh Đấu) trở thành cơ quan của riêng xu hướng tờ-rốt-kýt (“đệ tứ quốc tế”); xứ ủy Nam Kỳ của ĐCS ra báo Le Peuple và Dân Chúng. Nhược điểm chính của những người tờ-rốt-kýt là coi nhẹ yếu tố dân tộc. Đây cũng là nhược điểm của phái “đệ tam” nhất là trong thời kì đi theo chủ trương “giai cấp đối đầu với giai cấp” của Stalin (chính trong giai đoạn này, Nguyễn Ái Quốc đã bị lên án mạnh mẽ là “quốc gia chủ nghĩa” và “cải lương chủ nghĩa”). Phải từng bước, ĐCSVN mới thoát ra khỏi quan niệm tả khuynh giáo điều này. Nhưng đối với những người đã được đào tạo trong tinh thần ấy, tiếp thu quan niệm Mặt trận đoàn kết dân tộc như Việt Minh của Nguyễn Ái Quốc không phải dễ dàng. Sự mâu thuẫn giữa hai nhóm “xứ ủy Tiền Phong” và “xứ ủy Giải Phóng” còn phức tạp hơn. Ngoài yếu tố cá nhân, có lẽ còn một nghịch lí khác: tuy chưa biết và chưa thấm chủ trương Việt Minh, nhưng quan điểm của Trần Văn Giàu đã đặt nặng vấn đề dân tộc, trong khi các đồng chí đối nghịch với ông, tuy đứng trên danh nghĩa Việt Minh, tổ chức Thanh niên Cứu quốc, nhưng quan niệm chưa chắc đã gột rửa bệnh tả khuynh của thập niên 1930. Chúng tôi nêu điều này với tất cả sự dè dặt, ngày nào hồ sơ lưu trữ của ĐCSVN chưa được công khai hóa (về những sự việc đã đi vào lịch sử, cách đây 70 năm rồi).
12 SET: Section d’Excursion et de Tourisme (Đoàn du ngoạn và du lịch)
13 Huỳnh Văn Phương: thuộc xu hướng tờ-rốt-kýt (trong ban biên tập La Lutte), bà con với cậu sinh viên Huỳnh Văn Tiểng. Khi bộ ba Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước ngỏ ý muốn học hỏi về chủ nghĩa Marx, chính ông Huỳnh Văn Phương đã khuyên họ đi tìm Trần Văn Giàu mà học. Đây không phải là thí dụ độc đáo duy nhất về mối quan hệ giữa những người “đệ tam” và “đệ tứ” những năm 1930 ở Sài Gòn. Theo nhiều nhân chứng, trong những cuộc mít-tinh 1935-37 tại đây, có một cặp vợ chồng khoác tay đi dự: ông Phan Văn Hùm và bà Mai Huỳnh Hoa (vợ thứ nhì). Khi Phan Văn Hùm lên đài diễn thuyết tuyên truyền cho chủ nghĩa Trotsky, thì bà Hoa ngồi ghế cử tọa đứng dậy hô với giọng ỏn ẻn “Đả đảo tờ-rốt-kýt Phan Văn Hùm!”. Mít tinh kết thúc, chàng và nàng lại khoác tay nhau ra về. Tiếc thay, cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị ấy, mười năm sau, đã chuyển sang lãnh vực khác và biến chất như thế nào.
Xem tiếp...Phần thứ tư
Phần thứ tư
TIẾN TỚI TỔNG KHỞI NGHĨA
(tiếp theo)
3. Chuẩn bị thành lập chiến khu Đất Cuốc và chiến khu Thủ Thừa
Hồi cuối năm 1944, trong lúc chúng tôi nỗ lực làm công vận, nông vận, binh vận, thanh vận thì bọn tôi cũng có nghĩ tới lập một vài chiến khu ở Nam Kỳ. Nói thật là bọn tôi không chịu ảnh hưởng gì nhiều lắm của các chiến khu ở Trung Quốc, của Chu, Mao[1]. Ai tưởng rằng người Việt Nam học ở Tàu, ở chiến tranh cách mạng Tàu cái việc lập chiến khu, đánh du kích, lập căn cứ địa, xây vùng giải phóng… thì người đó lầm to. Tất nhiên, không phải không có tiếng dội tới Nam Kỳ những kỳ công của Hồng quân Tàu. Các đồng chí ta ở đây đã từng vận động ủng hộ cách mạng Tàu, bí mật và công khai. Ủng hộ hết lòng. Nhưng, khái niệm căn cứ địa, vùng giải phóng, chiến khu, đánh du kích không xa lạ gì với lịch sử cứu nước của dân tộc Việt Nam. Về những vấn đề này, người Việt Nam nếu không hơn thì bằng chứ không thua kém người Tàu bởi lẽ đất nước ta bị ngoại bang xâm lược thống trị nhiều lần hơn, do đó người Việt Nam phải làm những việc cứu nước bằng kháng chiến vũ trang, bằng khởi nghĩa vũ trang nhiều, lâu, có thể gọi là có truyền thống. Nay, để chống Nhật, chống Pháp, tuy không xem nhẹ bài học Bắc phương, chúng ta trước hết thừa kế kinh nghiệm của tổ tiên ông cha là chính. Lê Lợi lập căn cứ ở Lam Sơn rồi cuối cùng quét sạch quân Minh. Ba anh em Tây Sơn căn cứ vào núi miền tây Bình Định mà làm nên đại nghiệp. Trương Định, ở Tân Hoà, đã tiếp tục đánh Pháp khi Tự Đức đã chịu thua. Phan Đình Phùng dựa vào một dải Hương Sơn và lòng dân Nghệ Tĩnh tận trung với nước mà chống giặc đến mười năm. Đề Thám hùng cứ một vùng Yên Thế mãi từ thời Cần Vương đến chiến tranh thế giới. Tuy là tên gọi thời xưa có khác nay, chiến khu, du kích là sản phẩm lớn của lịch sử dân tộc Việt Nam, không phải nhập cảng từ đâu cả. Đó là một phần câu chuyện của tôi đã nói với anh Hoằng, anh Trọng, anh Xuân ở Tân An khi bàn lập căn cứ ở Thủ Thừa[2] và với anh Giỏi, anh Nghệ khi bàn lập căn cứ ở Tân Uyên[3]. Hai trong mấy anh ấy nay vẫn còn sống. Điều phải nói là trong lúc phục tài của Chu-Mao, tôi cũng “liều lĩnh” nói với các bạn vừa kể tên là, trong cách mạng hiện đại, du kích không phải là cách hay nhất, có hiệu nghiệm nhất để giành chính quyền trong cả một nước; để giành chính quyền, trong lịch sử cách mạng hiện đại, điều chính yếu là phải làm khởi nghĩa vũ trang của nhân dân theo các nguyên lý chủ nghĩa Marx- Lenin, theo kiểu mẫu cách mạng tháng Mười năm 1917. Tôi quan niệm rằng những chiến khu, du kích đều quan trọng như là sức mạnh chuẩn bị, hỗ trợ cho tổng khởi nghĩa, mà đòn đánh chính là khởi nghĩa quần chúng ở các trung tâm chính trị lớn nhất trong nước. Tôi được biết rằng ở Nam Bộ năm 1940, có phát hành một tập sách “Chiến tranh du kích” (tôi chưa được đọc) nhưng thú thật, lòng tôi chủ yếu hướng về Petrograd[4] 1917, chứ không hướng về Diên An bao nhiêu. Tuy vậy, trái với tin đồn (sau này) tôi không “chê” chiến khu và du kích đâu.
Hồi cuối 1944 đó, quan niệm của tôi về “chiến khu” đơn giản lắm; tôi nghĩ rằng cần có một số chiến khu xung quanh Sài Gòn (chứ không phải ở nơi xa xôi hiểm trở) để làm những công việc sau đây không thể làm ở thành phố và ngoại ô: thứ nhất là để máy móc in ấn báo, sách, truyền đơn (tụi tôi đã đưa máy in chữ in và thợ xếp chữ xuống Thủ Thừa); thứ nhì là chứa và làm một số vũ khí súng đạn, lựu đạn, mìn; thứ ba là tập luyện một số anh em, một số đơn vị sau này, lúc nổ ra khởi nghĩa, sẽ đứng ra chỉ huy các đội xung kích đánh nhau với địch ở đường phố, điều đó anh em “tay ngang” khó mà làm nổi mặc dù can đảm có thừa; thứ tư là làm nơi vừa tạm lánh mặt, vừa bồi dưỡng chính trị cho những đồng chí nào bị truy nã quá; và thứ năm là làm tuyên truyền (dân vận) và đánh một số đồn lẻ tẻ, tước vũ khí của hội tề ở xa gần để mở rộng mãi thế lực cách mạng đang phát triển. Cũng có thể chiến khu là nơi mà “Đồng minh” một ngày nào đó, khi họ cần và khi ta đòi, sẽ thả xuống đó một số vũ khí, khả năng này ít lắm mà có thể có. Đối với tôi, chiến khu không phải là nơi tổ chức tụ tập phát triển bộ đội để có ngày kéo về chiếm Sài Gòn mà là nơi góp phần vào cuộc khởi nghĩa của nhân dân Sài Gòn và ngoại thành. Cái hiểu của tôi khi ấy về chiến khu và du kích thật đơn giản, sơ sài như thế; thú thật là phần lớn tâm trí của tôi để vào sự chuẩn bị ở Sài Gòn và ngoại ô. Cho nên chọn nơi lập chiến khu thì tôi chọn chỗ hiểm trở đã đành, mà phải gần Sài Gòn để việc vận chuyển vũ khí và tập hợp con người được dễ dàng, mau chóng. Nhưng chiến khu phải phục vụ trước hết cho cuộc khởi nghĩa mang tính chất quyết định ở Sài Gòn, của nhân dân Sài Gòn và ngoại ô; tôi hiểu như vậy.
Tôi không được chỉ thị nào từ trên về sự thành lập khu giải phóng, tổ chức du kích. Tụi tôi làm “mò” thôi, nghĩa là tự nghĩ, tự làm. Cho nên có khác với ngoài Bắc. Tôi có đọc một đoạn của tài liệu nào, tôi quên mất, về vũ khí thô sơ của du kích; tôi có viết ở đâu đó, hình như là trong sách “Rạng đông của một dân tộc” và “Việt Nam trên đường cách mạng”, khẳng định rằng đánh du kích không đủ giành chính quyền; giành chính quyền phải nhờ Tổng khởi nghĩa, quan trọng nhất là khởi nghĩa ở trong thành thị, ở Sài Gòn. Sau này, nghe nói quan niệm của tôi bị anh em ở Bắc phê bình, cho rằng đó là xem nhẹ tác dụng của du kích trong sự chuẩn bị lực lượng giành chính quyền. Có lẽ cũng có như vậy thật. Tôi mấy lần thổ lộ với Phúc, với Khuy, với Oanh rằng Chu-Mao đánh du kích non già 20 năm nay mà đã giành được chính quyền ở một tỉnh nào đâu? Nước Tàu hết sức rộng lớn, giao thông hết sức ít ỏi, chính quyền địa phương địch yếu ớt, đó là xứ du kích lý tưởng, vậy mà tới nay anh em nhà ta hãy còn ở trong Diên An thì còn bao lâu nữa mới vào Nam Kinh, Bắc Kinh, Thượng Hải với chiến tranh du kích của Chu-Mao, nếu ngày nào đó không làm được khởi nghĩa theo kiểu Cách mạng tháng Mười Nga ở Bắc Kinh, Nam Kinh, Thượng Hải ? Thú thật là, độ này đầu óc tôi ở Petrograd 1917, không ở Diên An.
Trở lại việc bắt đầu xây dựng chiến khu ở Đất Cuốc[5].
Anh Giỏi, cán bộ khá giỏi của Tổng Công đoàn, công nhân hãng xây dựng Eiffel, một hôm đưa Huỳnh Văn Nghệ tới giới thiệu với tôi tại tiệm Tân Việt đường d’Espagne[6], sát chợ Bến Thành. Nghệ trẻ hơn tôi năm, bảy tuổi, thân hình hộ pháp, coi bộ võ tướng như Tô Ký, mắt sáng, nói dòn, vui tính, thích ngâm thơ, làm được thơ nữa. Có lẽ anh chàng này đã có ý “tìm đường”; khi trốn sang Thái Lan; anh ta chẳng thấy đường nào hay, chỉ gặp ông tiến sĩ luật khoa ghiền á phiện là Dương Văn Giáo đang làm một thứ cố vấn cho chính quyền Băng Cốc. Giáo và Nghệ xung đột nhau như thế nào mà Nghệ định ám sát Giáo, nhưng ám sát hụt. Nghệ trở về Sài Gòn, gặp lại Giỏi là bạn cũ, qua Giỏi, Nghệ gặp tôi. Hỏi thăm thì biết Nghệ là người Tân Uyên (khi ấy thuộc tỉnh Biên Hoà). Nghệ chưa phải đảng viên, nhưng tôi thích những thanh niên dám làm việc táo bạo. Tôi bàn với Nghệ, Giỏi về việc mở một chiến khu bắc Tân Uyên, nơi trú ẩn an toàn mấy năm nay của mấy anh tù vượt căng và nghe đâu cũng có một toán anh em du kích còn sống sót sau khởi nghĩa 1940. Nghệ đồng ý. Tôi chỉ định Giỏi, Nghệ phụ trách việc quan trọng này. Nghệ, thổ địa xứ Tân Uyên, lựa khu Đất Cuốc làm nơi “hạ trại”. Một số chòi, kho được dựng. Một số thợ, số máy, số vật liệu được Tổng Công đoàn đưa lên; có thợ đúc, thợ in; bắt đầu lựa mấy thanh niên ở Sài Gòn và lục tỉnh để học tập quân sự, chúng tôi đã có một số cây súng trường, súng lục, nhiều lựu đạn. Lương thực bắt đầu được tích trữ. Lại có kế hoạch “chụp” vài cái đồn điền cao su, lấy vũ khí và lấy tiền. Công việc tiến hành không có gì trắc trở lắm thì:
Đùng một cái, nổ ra cuộc đảo chánh Nhật 9 tháng 3 năm 1945. Chính quyền Pháp sụp đổ trong nháy mắt. Một chiếc tàu nhỏ của Pháp chạy ngược sông Đồng Nai, lên khỏi Tân Uyên thì bị anh em chiến khu Đất Cuốc đón bắt. Ta thêm một ít súng đạn. Vốn liếng có, tình hình thuận, chiến khu có thể “làm ăn” được tốt. Tôi định mở lớp “combat de rue” – chiến tranh trên đường phố – ở Tân Uyên, Đất Cuốc.
Nhưng tôi thấy rằng, chiếu theo tương quan lực lượng khi ấy, nhất là ở Sài Gòn và đồng bằng, nếu ta dồn nhiều sức vào việc xây dựng chiến khu ở Tân Uyên, ở Thủ Thừa (còn tính một cái ở Nhà Bè hay Cần Giuộc nữa) thì việc vận động chính trị ở Sài Gòn sẽ chậm trễ, ta sẽ không chạy kịp với thời thế. Tôi cho rằng chiến khu không phải là yếu tố quyết định sự thành bại của khởi nghĩa cách mạng ở Nam Kỳ; yếu tố quyết định sự thành bại của khởi nghĩa ở Sài Gòn là công nhân, binh lính, thanh niên, nhân dân, ở trong và nông dân xung quanh Sài Gòn. Phải tập trung lực lượng vào đây, chứ không phải vào những nơi xa xôi hẻo lánh, hiểm trở. Phải gấp rút đào tạo cho kỳ được một “đạo quân chính trị” rất hùng hậu, ta phải mạnh hơn tất cả các chánh đảng và giáo phái thân Nhật cộng lại thì mới mong đem chính quyền về tay nhân dân được, chớ hoàn toàn không thể quan niệm được rằng sẽ đem quân có vũ trang súng ống từ các chiến khu về cùng nhân dân bản địa lấy Sài Gòn. Cho nên tôi quyết định “đốt đèn cầm canh” ở Đất Cuốc, duy trì nó mà không có kế hoạch phát triển; Giỏi trở về làm công vận, Huỳnh Văn Nghệ chuyển sang làm binh vận hợp tác với Tô Văn Của và Huỳnh Thiện Nghệ – cũng là những ông “hộ pháp” của tỉnh Biên Hoà – tập hợp gần ngàn người cựu binh sĩ đã đi lính cho Pháp, móc nối với các tổ chức, đơn vị quân sự người Việt Nam đi theo Nhật cốt để lấy súng đạn đưa về chiến khu hay giấu trong dân. Công việc này ba anh (anh Của và hai anh Nghệ) làm thành công lắm. “Liên đoàn cựu binh sĩ” được thành lập gồm lính trơn và hạ sĩ, trụ sở ngay trước bùng binh chợ Bến Thành - Sài Gòn.
4. Bắt liên lạc với cánh Pháp De Gaulle
Vấn đề tế nhị nhất, cũng là vấn đề khó khăn nguy hiểm nhất là vấn đề xác định thái độ với bọn Pháp chống phát xít, chống Nhật ở Đông Dương; cũng gọi là bọn Pháp De Gaulle, Pháp gaulliste. Thời ngắn ngủi Catroux còn làm toàn quyền, thì tuyệt đại đa số bọn Pháp quân sự và dân sự đều muốn dựa vào Anh để tiếp tục chống Đức. Nhưng khi Decoux thay Catroux làm toàn quyền thì đại đa số bọn Pháp dân sự quay theo chủ trương đầu hàng Đức, đầu hàng Nhật để bảo toàn bộ máy cai trị thực dân Pháp ở Đông Dương. Một số người Pháp dân sự chống Đức, chống Nhật; đa số quân Pháp theo tướng Mordant, tướng Aymé, mà cả hai tướng này đều kín đáo theo De Gaulle, nói là kín đáo, mà không ai không biết. Từ 1943, nhất là từ 1944, phe De Gaulle ở Đông Dương lần lần mạnh lên và có chút ít hoạt động chống Nhật, liên lạc với bọn Anh ở Ấn Độ, với bọn Mỹ ở Tàu. Họ không làm gì lớn chuyện đâu, họ chỉ làm chỉ điểm cho máy bay Mỹ đến ném bom, họ tích cực chuẩn bị để gặp dịp thì hưởng ứng quân Anh, Mỹ đổ bộ. Phe Decoux không để họ yên mà đàn áp họ cũng hơi mạnh; Pétain, Decoux chủ trương nên chơi tốt với Đức, Nhật để duy trì chính quyền Pháp ở Đông Dương cho đến chiến tranh chấm dứt. Bọn Decoux quỷ quyệt tính rằng nếu khi chiến tranh chấm dứt mà bộ máy thực dân Pháp ở đây còn, bất luận ai thắng, ai bại, thì Đông Dương vẫn là thuộc Pháp, chứ không ai lọt vào được.
Vấn đề đối với chúng ta là hỏi vậy nên hay không nên, cần hay không cần bắt tay với bọn Pháp De Gaulle để chống bọn Decoux và chống Nhật quân phiệt. Lôgic thì bảo rằng nên, rằng cần, “hành động chống Nhật”, chống thù chung là phải, dầu đó là tạm thời. Nhưng, còn ai không rõ bọn Pháp De Gaulle ở Đông Dương hầu hết là thực dân, không ai được chủ quan ở chỗ này. Bắt tay với cái tụi chủ trương giành lại chủ quyền hoàn toàn của Pháp trên Đông Dương à? Nhưng, mũi nhọn chính của chúng ta phải chĩa vào Nhật quân phiệt, vào tụi phản động thực dân phát xít Decoux, mà bọn Pháp De Gaulle thì chống Nhật, chống Decoux, thì sao không thể tạm thời bắt tay với họ nếu họ cần và nhất là nếu họ thuận theo một số đòi hỏi hợp lý của chúng ta? Thường vụ Xứ uỷ, tôi và Bảy Trân quyết định tìm bắt liên lạc với bọn Pháp De Gaulle, đặt vấn đề hợp tác chống Nhật Bản và Decoux, đòi họ và đồng minh giao cho chúng ta một số súng đạn.
Chúng tôi ở trong Nam hoàn toàn không biết ở ngoài Bắc các đồng chí mình chủ trương như thế nào về vấn đề tế nhị này. Nhưng việc phải làm thì cứ lấy tinh thần trách nhiệm mà làm.
Gia đình bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ở chiến khu Đ cuối thập niên 1940. Từ trái sang phải: Alain Định, bà Marie-Louise, ông Thạch, Colette Như Mai (nguồn: gia đình Colette & Alain)
Người Pháp làm trung gian giữa Trân và tôi với bọn Pháp De Gaulle là anh Sauterey một công chức bậc trung khuynh hướng công đoàn vô chính phủ, do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch giới thiệu cho chúng tôi, trong lúc Thạch giới thiệu ba đồng chí đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Sauterey độc thân, ở xóm René Héraut, khu Tân Định.
Cùng lúc, một dịp nữa để bắt liên lạc với cánh Pháp De Gaulle ở Nam Bộ là như sau: hồi học bên Pháp, đồng chí Nguyễn Văn Trân tức Prigorny (Phú Lạc) có một bạn học tên là Brocheux (cha của giáo sư sử học hiện nay ở đại học Paris VII chuyên nghiên cứu về Việt Nam). Trân đi Liên Xô, trở thành đảng viên cộng sản. Brocheux sang Đông Dương trở thành Inspecteur de la Sureté (cò mật thám).Trân bị bắt, Brocheux nhìn ra, hai bạn cũ lại làm quen. Độ 1944, Brocheux – một người của phe gaulliste – xuống Phú Lạc tìm Trân, tính chuyện cùng cộng sản chống Nhật. Trân bàn việc đó với tôi. Brocheux trở thành một nơi liên lạc mà tôi muốn dùng, cũng như dùng Sauterey để có thể thương thuyết với tướng Mordant. Rốt cuộc, không làm được gì. Mordant không chịu gặp tôi. Có một chuyện nhỏ đáng ghi: khi Brocheux xuống Phú Lạc tìm gặp Bảy Trân để bắt liên lạc với tụi tôi bàn về hành động chống Nhật thì Trân thấy việc này có thể sinh ra vấn đề ngờ vực, nên Trân (báo cáo với tôi) là anh đã viết một bài tự thuật về vấn đề này, cuốn tròn giấy lại nhét vào một cái chai, khằng nút lại bỏ xuống mương, hay chôn dưới đất, cố làm bằng chứng rằng mình hành động có mục đích cách mạng chứ tuyệt nhiên không vì lẽ gì bất chánh. Nay Trân còn sống (90 tuổi).
Trân và tôi, những lúc đi đến nhà Sauterey hay ở nhà Sauterey về, thường hay nói với nhau là tụi mình sẽ cho tụi Tây “trượt vỏ chuối” chơi (nghĩa là lợi dụng họ mà không để cho họ lợi dụng mình). Thực ra thì bọn Pháp De Gaulle cũng khẳng định cho tụi tôi “trượt vỏ chuối”, chúng tôi biết trước như vậy. Hai bên chưa chắc ai khôn hơn ai. Điều đầu tiên làm cho chúng tôi bất bình là bọn gaulliste không chịu để chúng tôi bàn luận trực tiếp với lãnh tụ của họ như đòi hỏi của chúng tôi là Mordant hay Aymé, họ chỉ để chúng tôi nói chuyện với mấy tay không có quyền quyết định gì cả. Ví dụ như Brocheux. Chúng chỉ muốn chúng tôi thông báo cho chúng tình hình quân Nhật, mà không muốn bàn tới việc trao một số súng đạn cho chúng tôi. Ngay cả Sauterey cũng chán, thì chúng tôi có lý do gì để “làm ổ cho chó đẻ”? Đến khi De Gaulle về Paris và chuẩn bị đưa quân sang Đông Dương đánh Nhật, nhất là vào đầu năm 1945, có tin quân Mỹ sắp đổ bộ lên Trung Kỳ, thì phái Pháp De Gaulle ở Đông Dương càng kiêu căng hơn trước, chúng tôi chuyển sang một kế hoạch khác, kế hoạch khởi nghĩa địa phương (những tỉnh có thể làm căn cứ là Biên Hoà, Tân An, Mỹ Tho, Rạch Giá, Bạc Liêu) nếu quân Mỹ từ Philippines đổ bộ vào duyên hải Đông Dương; không còn tính chơi với tụi gaulliste như trước.
Không tiếp tục liên lạc và thương lượng với bọn Pháp De Gaulle nữa, tụi tôi và riêng cá nhân tôi vẫn tiếp tục cộng tác với ba đồng chí người Pháp và một số đảng viên Đảng Xã hội Pháp. Tôi (và Thạch) tới lui hội họp với các đồng chí Pháp. Sự giao thiệp với mấy người Pháp Cộng sản và Xã hội đem lại một số lợi ích thiết thực cho công tác cách mạng; ít nhất là chúng tôi nắm được ít nhiều tình hình trong hai phe Decoux và Mordant. Đảng ta thêm một nguồn thông tin quan trọng về chủ trương của thực dân Pháp.
Một buổi tối, khi tôi đang họp Chi bộ đặc biệt của các đồng chí Pháp tại Đakao thì tối ấy, 9/3, quân Nhật làm đảo chánh lật đổ Pháp.
5. Cuộc đảo chánh Nhật 9 tháng 3 năm 1945
Đồng chí Pháp ở Sài Gòn chỉ có ba anh, hợp lại thành một chi bộ đặc biệt (do tôi chỉ đạo trực tiếp[7]): một làm ở Sở Vô tuyến điện Đakao, một làm ở thương chánh[8], một giáo sư trung học. Chi bộ đặc biệt họp ở nhà bên cạnh Sở Vô tuyến điện (bây giờ là đoạn đường Điện Biên Phủ từ cầu đúc lên đường Đinh Tiên Hoàng). Cuộc họp mới bắt đầu; các đồng chí Pháp đang thông báo về tình hình tư tưởng của các loại người Pháp ở Sài Gòn, về việc bên Pháp De Gaulle chuẩn bị hưởng ứng Mỹ, Tàu đổ quân vào Đông Dương, thì từ phía đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng ngày nay) vọng qua cửa sổ tiếng reo hò dữ dội, kéo dài của đông đảo người, không rõ của phe phái nào; rồi đến tiếng xe bọc thép; không có tiếng đại bác, nhưng nhiều tiếng súng mút, mấy loạt súng liên thanh. Có biến rồi! Biến gì đây? Ngoài sự xung đột Nhật-Pháp, không thể có thứ “biến” nào khác. Trong lúc ba đồng chí khác nhìn ra phía cửa sổ về hướng “trung đoàn thuộc địa thứ 11” (11e RIC) thì tôi xin chấm dứt cuộc họp, chạy xuống thang rất nhanh, dắt xe đạp ra đường. Tôi vừa khỏi cửa vài chục thước đã thấy một toán lính Nhật thiệt và lính Nhật lô-can[9] tới gõ cửa Sở Vô tuyến điện. Hú hồn! Thiếu chút nữa, tôi có thể bị kẹt một cách vô lý và dại dột.
Quân nhân Pháp đầu hàng Nhật, thành Hà Nội 1945
(nguồn: Thư viện Quốc gia Pháp)
Tôi dắt xe, đi theo dòng người, theo đường Albert 1er lên sân Hào Thành[10] xem có việc gì ở đó. Lạ một điều là trong nhân dân tôi không thấy ai hoảng hốt cả. Phố xá, nhà cửa vẫn sáng choang đèn điện. Chỉ một số ít tiệm Hoa Kiều đóng cửa sớm. Người Sài Gòn lạ thật, nghe tiếng súng mà như nghe tiếng pháo. Họ bàn luận về chiến tranh gần như bàn luận về một trận đá banh. Bên kia Cầu Hang, lính Nhật và lính Cao Đài gác rất đông, không cho dân qua sân Hào Thành.
Chắc là “đảo chánh” rồi. Quân Nhật xuống tay trước. Ngày mai sẽ rõ. Bây giờ tôi ghé hội ý với Oanh, Thạch rồi sẽ đạp thẳng về Phú Lạc để họp Thường vụ Xứ uỷ bàn về tình hình mới, nhiệm vụ mới, không quên ghé anh Hai Sô trước cửa nhà thờ Huyện Sĩ[11] để trách anh và nhóm của anh trong Quốc Gia Đảng không làm được nhiệm vụ thông báo cho tôi biết trước cuộc đảo chánh này. Kể ra thì cứ trách anh Hai Sô cũng oan. Bọn Pháp có trăm, ngàn tai mắt mà chẳng biết trước ngày giờ cuộc đảo chánh thì nhóm chuyên trách của anh Hai Sô trong Đảng Quốc Gia của Ngô Đình Đẩu[12] mù tịt có gì lạ? Trong chiến tranh cái “bất ngờ” quan trọng thật. Pháp ở vùng Sài Gòn có hàng vạn quân mà chẳng bắn được một phát súng nào! Sáng hôm sau, ai nấy đều hay rằng đêm qua, quan Toàn quyền đô đốc Decoux, tướng Mordant, tướng Aymé, tất cả đầu sỏ Pháp, đều bị bắt gọn, tất cả quân đội Pháp đều bị tước khí giới. Chỉ có mấy thằng cò Tây với quan ba Dergue – các tên đã đưa bọn tôi chuyến đầu tiên lên căng Tà Lài – và ít chục lính khố xanh, trung thành, nhờ hôm đó không ở Sài Gòn nên tạm thoát nạn, kéo theo mấy bà đầm, chạy sống chạy chết xuống Cà Mau, mong được tàu Đồng minh đón rước ở ngoài mũi. Quân Nhật và quân Cao Đài đuổi theo bén gót. Tụi quan ba Dergue bị bao vây, bị tiến công bất ngờ, Dergue lãnh một nhát kiếm từ vai xuống lưng. “Kháng Nhật” của bọn Pháp De Gaulle ở Nam Kỳ hình như chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Anh Phúc đang ở Cà Mau lúc xảy ra đảo chánh Nhật, khi về Sài Gòn, thuật lại chuyện “tử chiến” của quan ba Dergue, bà chủ chùa Phú Lạc, dì Bảy của Bảy Trân, bảo rằng đó là “quả báo nhãn tiền!”.
Trở lại nguồn gốc đảo chánh 9 tháng 3.
Nhắc lại trước một chút, khi nước Pháp được giải phóng nhờ sức tiến công thắng lợi của Liên Xô ở Mặt trận Đông Âu, nhờ cuộc đổ bộ thắng lợi của Mỹ, Anh ở Tây Âu, nhờ cuộc nổi dậy của nhân dân Pháp, đặc biệt là cuộc nổi dậy của nhân dân Paris dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản; chính phủ De Gaulle liền “tuyên chiến” với Nhật. Tuyên chiến cho “ra vẻ” thôi, cho cái gọi là “pháp lý” rằng Pháp cũng chống Nhật và do có chống Nhật nên có quyền trở lại làm chủ Đông Dương sau chiến tranh. Chớ thực ra, lúc ấy, dù nước Pháp đã khôi phục chủ quyền, nó không khác mấy với một anh chàng bị vật ẹo xương sống, còn đang chống nạng tập đi, thì có lực lượng quân sự và tàu bè chuyên chở đâu mà sang Viễn Đông tham chiến? Dù sao, nội cái việc Paris tuyên chiến với Nhật, quyết giành lại Đông Dương bằng mọi cách ̶ vũ lực và ngoại giao ̶ đủ làm cho tụi thực dân Pháp ở Đông Dương hăng lên dữ lắm. Trên đường phố, trong nhà hàng, ai cũng thấy cái bộ mặt con gà Gaulois[13] chạy rót bấy lâu nay mặt tái mét, nay có máu trở lại. Lại thêm, gần cuối 1944, quân Mỹ đổ bộ thành công lên quần đảo Philippines; người Pháp ở Đông Dương mong rằng, tin rằng quân Mỹ sắp đổ bộ lên miền Nam Trung Kỳ được xem như cái “bụng mềm” của Nhật ở Đông Nam châu Á. Năm mươi ngàn quân Pháp sẽ hưởng ứng quân Đồng minh, đánh sau lưng quân Nhật, quân Đồng minh toàn thắng tức là quân Pháp toàn thắng, chủ quyền hoàn toàn của người Pháp trên Đông Dương sẽ được khôi phục, cộng sản có nổi dậy nơi này nơi nọ cũng không tới đâu. “Ăn ngon” như thế ấy! Quân Nhật ở Đông Dương cũng chỉ độ 50.000 thì sá gì? Chọi sao lại với 50.000 quân Pháp và hàng trăm ngàn quân đồng minh Mỹ, Anh, và Trung Quốc? Nhật chết đến nơi rồi! Quân Pháp hí hửng lắm. Mordant, Aymé gấp rút chuẩn bị tác chiến; tụi nó dự trữ lương thực ở một số địa phương ngoài thành phố ở hướng rừng miền Đông Nam Bộ, hướng Tháp Mười, Cà Mau; tụi nó đào công sự, di chuyển quân đội, lấy cớ là đề phòng Mỹ đổ bộ. Phe Pháp quân sự thì giữ bí mật ý đồ và hoạt động của chúng, chứ còn phe Pháp dân sự thì đổ bộ đánh Nhật xung quanh cốc rượu, chén cà phê ở bất cứ nhà hàng nào. Lại thêm đài phát thanh New Delhi (Ấn Độ thuộc Anh) và đài phát thanh Trùng Khánh của Mỹ-Tàu, ngày nào cũng oang oang lên tiếng kêu gọi người Pháp ở Đông Dương nổi lên đánh Nhật. Con ếch nó chết vì tiếng uệch uệch; con gà nó chết vì tiếng ó o, Pháp chết vì nói dóc khắp nơi. Tôi nhớ, có lần báo Tiền Phong vẽ một con gà trống đứng trên bàn đang gáy, kề bên mấy củ hành và một bầu rượu. Gà cất tiếng gáy “đánh Nhật a!”, “đánh Nhật a!”.
Bọn Nhật ở Đông Dương, ở Sài Gòn làm như không biết gì, không nghe gì, không thấy gì. Kỳ thật là chúng nghe hết, thấy hết, biết hết.
Tụi tôi được biết mang máng rằng trong Đồng minh, về vấn đề Đông Dương, có nhiều phe phái chủ trương khác nhau: Tàu (Tưởng) thì muốn sáp nhập Bắc Kỳ vào nước Tàu để cho Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây có đường ra biển tiện lợi; Mỹ thì muốn đặt Đông Dương dưới chế độ uỷ trị, tức là muốn biến Đông Dương thành một thứ thuộc địa (sau này gọi là thuộc địa kiểu mới) của Mỹ. Anh thì ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương như cũ.
Tụi tôi lại được biết rõ rằng thực dân Pháp ở Đông Dương có hai chủ trương khác xa nhau. Phe của Decoux thì chủ trương tiếp tục làm lành với Nhật, Nhật bảo sao thì cứ nghe vậy, Nhật đòi gì được nấy, miễn là bộ máy chính quyền Pháp còn nguyên cho đến khi Nhật đầu hàng. Nhật đầu hàng mà bộ máy Pháp còn nguyên tức là Pháp còn làm chủ chứ không ai lọt vào đây được. Còn phe của Mordant-Aymé thì cho rằng nếu người Pháp ở Đông Dương không đánh Nhật chút đỉnh thì Pháp sẽ mất Đông Dương vì Pháp đã làm tay sai cho Nhật từ đầu đến cuối. Hai phe chọi nhau gay gắt. Phe của Mordant-Aymé thắng thế vì được sự đồng ý của De Gaulle.
Tụi tôi về sau còn biết rằng, được báo cáo rõ về tình hình Đông Dương đầu năm 1945, những nhà lãnh đạo quân sự Nhật ở Đông Kinh có hai chủ trương khác nhau; một bên tán thành đề nghị của bọn chỉ huy Nhật ở Đông Nam Châu Á (đóng ở Sài Gòn) là lật đổ Pháp bằng một hành động chớp nhoáng; một bên muốn dùng áp lực quân sự buộc Pháp phải giải ngũ toàn thể quân đội Pháp ở Đông Dương, chỉ còn giữ việc cai trị dân sự mà thôi, việc phòng thủ hoàn toàn do Nhật phụ trách. Hai bên đều có lý do của mình. Cuối cùng phe chủ trương làm đảo chánh quân sự lật đổ Pháp được thắng thế. Quân Nhật ở Đông Dương chuyển sang hành động, điều động thêm nhiều quân tinh nhuệ vào Đông Dương, lật đổ Pháp một cách dễ dàng, gọn ghẽ như trở bàn tay. Còn gà gaulois mới vỗ cánh gáy ó o, bỗng bị đem ra lấy tiết, nó không kịp giãy giụa.
Không cần phải tài tình sáng suốt gì lắm mới đoán trước Nhật sẽ lật Pháp ngày nào đó. Từ mấy năm nay ai cũng thấy rằng hai con chó tranh nhau một miếng thịt có ngày phải cắn nhau, không sao tránh khỏi, Nhật sẽ thắng, Pháp sẽ thua. Nhưng rất ít người ở Sài Gòn, kể cả tôi, có thể đoán được rằng phải chờ đến gần ngày tận số của nó, Nhật mới lật đổ Pháp! Các phe phái thân Nhật xem là trễ quá. Nếu Nhật lật Pháp hồi năm 1943, khi tướng Tòng Tỉnh – chủ tịch hội Liên Á sang Sài Gòn để lên dây cót tinh thần cho bè đảng khi ấy chưa phải đã trễ. Để cho tới nay, tháng 3 năm 1945, thì ngay cả bọn thân Nhật cũng nản, lần này Tòng Tỉnh sang Sài Gòn “lên dây cót” cho họ chỉ là một viên thuốc không có hiệu quả lâu dài. Đến đầu năm 1945, thì người dốt chính trị nhất nước Việt Nam này, cũng thấy Nhật sắp thua, vậy cái việc Nhật lật Pháp chỉ là một hành động tự vệ cho Nhật. Nhật sợ Pháp đánh sau lưng, chứ hoàn toàn, tuyệt đối không phải là một “nghĩa cử”, không phải là “vì người da vàng mình với nhau”, không phải “vì dân tộc Việt Nam đồng văn đồng chủng với dân tộc Nhật”. Đêm 9, quanh trại lính đường Norodom[14], khoảng 5.000 lính Cao Đài làm thanh viện cho vài ngàn lính Nhật đủ buộc quân Pháp đầu hàng. Mấy ngày sau dân chúng Sài Gòn được phe thân Nhật hô hào dữ mà chỉ có mấy ngàn người đi biểu tình hoan hô “anh cả da vàng”. Tôi không muốn đánh giá quá cao truyền đơn và báo chí mật, bản tin mật của chúng tôi có tác dụng “lật tẩy” ý đồ của Nhật trong cuộc đảo chánh; tôi cho rằng nhân dân Sài Gòn vốn nhạy bén về chính trị, tự mình cũng thấy được cái ý đồ xấu xa của Nhật từ mấy năm nay đã tự nó lật mặt nạ nó bằng hành động cụ thể. Tất nhiên là trong xu thế đó, sự tuyên truyền cổ động của chúng tôi đã có tác dụng. Trong nhân dân thành phố nói riêng, nhân dân Nam Kỳ nói chung, mà chắc là ở cả nước Việt Nam cũng thế thôi, cuộc đảo chánh 9 tháng 3 không làm cho nhân dân ta có ảo tưởng gì đối với Nhật cả. Cái khải hoàn môn mà phe Cao Đài Trần Quang Vinh dựng lên ở khúc rộng đường Blansubé (Phạm Ngọc Thạch ngày này, trước nhà Văn hoá thanh niên), làm bằng hoa lá, tươi rồi héo, héo rồi khô đến khi bị một que diêm đốt cháy rụi chỉ mấy phút tiêu biểu cho “hy vọng” đến thời tàn của phe đã cổ vũ cho thuyết Đại Đông Á mấy năm nay. Bọn sử gia thực dân về sau sẽ viết lếu viết láo rằng, đêm 9 tháng 3, dân chúng Sài Gòn bị bất ngờ, không hoan hô Nhật bởi vì luyến tiếc Pháp, rằng dân chúng Sài Gòn “dửng dưng” nên đứng trân mà ngó thời cuộc. Sự thật đâu phải như vậy! Tuyệt đại đa số dân Sài Gòn, dân Nam Kỳ, dân Việt Nam ai mà luyến tiếc Pháp? Tám mươi năm mang ách thực dân chẳng nhiều quá rồi sao? Nhưng người ta cũng không mấy ai hy vọng gì Nhật đứng được lâu, càng không tin rằng độc lập mà Nhật sắp ban cho là độc lập thật. Nếu có cái gì gọi là “bất ngờ”, là không ngờ rằng quân phiệt Nhật ngu xuẩn đợi cho đến nay mới làm cái việc chúng có thể làm hai, ba năm trước. Nếu làm hồi hai, ba năm trước thì Nhật có thể phần nào bao bọc cái lợi ích đế quốc ích kỷ của chúng trong cái vỏ “nghĩa cử” dễ tin hơn.
Người Pháp ở hai mươi tỉnh Nam Kỳ bị Nhật dồn về Sài Gòn ở tương đối thong thả trong khu vực đất cao ráo nhất, tại trung tâm thành phố. Không phải là trại tập trung đâu. Có lần đạp xe qua đó tôi thấy mấy đồng chí cộng sản và anh bạn xã hội râu xồm của tôi đang đi bách bộ trong một sân rộng, họ chào tôi bằng cái cười không lấy gì làm thiểu não. Tôi chưa hề nghe nói người Việt Nam đánh đập hay chửi mắng người Pháp; nào phải người Việt Nam tiếc kẻ đã thống trị mình; ấy là đồng bào không muốn đánh người “dưới ngựa”, một thái độ mà thời trước gọi là quân tử, trượng phu, thời nay gọi là có chính trị cao.
Những người Việt làm việc cho sở Mật thám Pháp trình diện quân đội Nhật trước khi được dùng để phục vụ cho Kempeitai. Biển chữ Hán: Đông Kinh châu lược trinh cục / Cục tình báo Bắc Kì (ảnh Thư viện Quốc gia Pháp)
Ban đầu, ở một số nhà máy, nhà thương, tụi Nhật còn giữ một số kỹ sư, bác sĩ quản lý người Pháp. Còn tất cả các quan cai trị người Pháp đều bị thay bằng quan cai trị người Việt Nam. Không ai lạ đâu, các quan cai trị Việt Nam thay cho Pháp đều là những ông phó hay tay sai kế cận của quan Tây: đốc phủ, tri phủ lên làm chủ tỉnh, làm phó chủ tỉnh, các quận giữ y nguyên; hội tề xã hoàn toàn không gì thay đổi, dưới áp lực quần chúng Nhật cũng có thể bắt giam vài tên quan Việt Nam ác ôn khét tiếng xưa nay. Trong quân ngũ cũng vậy; lính tây thì bị tước vũ khí nhốt vào trại; lính Việt thì được giữ lại y nguyên, các ông quản, thầy đội thay cho sĩ quan và cò tây. Trong toà án, bộ máy y như cũ, chỉ gỡ bọn da trắng ra, đưa da màu lên cho dầu người da màu đó là “dân Tây”. Nói theo cách nói mác-xít, ấy là làm “đảo chánh”. Nhật giữ gần nguyên bộ máy Nhà nước thực dân của Pháp. Để hiểu tại sao? Đảo chánh chớ có phải là cách mạng đâu, mà ngay cả cách mạng quốc gia tư sản đi nữa cũng đâu chắc có thay đổi gì quan trọng trong bộ máy cai trị cũ. Bọn Nhật cầm quyền muốn thấy ít xáo trộn nhất, họ muốn cho bộ máy cũ tiếp tục công việc phục vụ Nhật một cách đắc lực như bấy lâu nay. Buồn bã nhất, thất vọng nhất là giáo phái Cao Đài (Tây Ninh). Từ mấy năm rồi, từ cả chục năm rồi, họ tôn phù Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, tính rằng hễ Nhật lật Pháp thì Cường Để về Huế làm Hoàng đế nước Đại Nam thống nhất. Nào dè, lật Pháp rồi, Nhật giữ Bảo Đại làm vua cai trị Trung và Bắc; Nhật giữ Nam Kỳ làm đất Nhật như Đài Loan, Triều Tiên, Lưu Cầu; Nhật đặt Minoda làm thống đốc Nam Kỳ thay thống đốc người Pháp.
Hội nghị Xứ uỷ ở Phú Lạc bàn về tình hình và nhiệm vụ sau cuộc đảo chánh tháng 3, tôi nhớ có năm ý lớn sau đây của một nhận định thống nhất:
1. Một đế quốc đã “rót đài”, đế quốc Pháp. Đúng như đã đoán trước, nó không còn là đối tượng đánh đổ của cuộc khởi nghĩa cách mạng sắp tới, nhưng nó được nhận định là “nguy cơ chính” (lúc đó tôi dùng chữ khác “le danger principal” để phân biệt với “đối tượng cách mạng”(“l’ennemi principal”). Nhật một mình cầm quyền thống trị, hợp tác với đám tay sai bản xứ của chúng – triều đình Huế. Nhật và tay sai bù nhìn của chúng là đối tượng đánh đổ của cách mạng Việt Nam. Lại phải thấy trước rằng, Đồng minh sắp toàn thắng ở châu Âu, châu Á, Nhật sắp đầu hàng, tất nhiên những nước Anh, Mỹ, nhất là Anh sẽ ủng hộ cho Pháp trở lại làm chủ Đông Dương, khi ấy thực dân Pháp sẽ là đối tượng đánh đổ của cách mạng. Ngay từ bây giờ, bọn Pháp bên Pháp và tay sai của chúng ở Đông Dương đang tích cực chuẩn bị cho việc Pháp trở lại; cho nên, ngay từ bây giờ ta nói rằng thực dân Pháp tuy bị đánh đổ, vẫn là nguy cơ chính của cách mạng ở xứ ta. Không thể mơ hồ được. (Về sau có người nói Xứ uỷ Nam Kỳ rút khẩu hiệu chống Nhật, thay vào đó là khẩu hiệu lợi dụng Nhật. Không có như vậy đâu; hoàn toàn không có; nói láo đó; khẩu hiệu của chúng tôi đã rõ từ lâu là: “đánh đổ đế quốc Nhật, bài trừ phản động Pháp, Đông Dương độc lập muôn năm”).
2. Nhật làm cuộc đảo chánh 9 tháng 3 không phải vì giải phóng Việt Nam (và Miên, Lào) mà vì lợi ích của Nhật. Hành động lật Pháp của Nhật không phải là một nghĩa cử, mà là một hành động ích kỷ, đế quốc. Các tầng lớp đồng bào cần nhận rõ điều ấy. Lại cần phải nhận rõ rằng cái độc lập của Nhật sẽ đem cho là độc lập giả hiệu, là một thứ nô thuộc mới, không phải là cái độc lập mà các thế hệ người yêu nước Việt Nam và các đồng chí trong Đảng Cộng sản đã hy sinh giành cho kỳ được. Nhân dân phải tiếp tục đấu tranh để giành độc lập thật sự, giành thống nhất tổ quốc bằng cách đánh đổ quân phiệt Nhật và chính quyền tay sai bản xứ của Nhật.
3. Cuộc đảo chánh 9 tháng 3 không tạo nên một cục diện chiến tranh quyết liệt và kéo dài giữa Nhật, Pháp. Rốt cùng, không có xáo trộn chính trị và xã hội đáng kể nếu chỉ ngó bên ngoài. Sự thật bên trong là Nhật không nắm được bộ máy Nhà nước đang rệu rã nhanh chóng, bù nhìn tay sai cũng không có điều kiện, uy tín và thời giờ để xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước, ở đó, trên không nắm được dưới, dưới không phục tùng trên, các địa phương không biết tới trung ương, cả lũ không biết ngày mai ra sao. Tình hình này rất thuận lợi cho cuộc hoạt động cách mạng của chúng ta, cách mạng phải tiến tới thật nhanh như Tôn Ngộ Không làm phép cân đẩu vân, nhanh thì được tất cả, chậm thì không được gì hết. Tình hình sẽ không chờ đợi ta đâu.
4. Hồng quân Liên Xô đã đến gần sát Berlin. Đức phát xít sẽ sụp đổ nay mai thôi. Đức sụp đổ rồi, Đồng minh sẽ dồn sức qua Viễn Đông và Thái Bình Dương thì Nhật cũng không thể kháng cự lâu dài được. (Thành thực mà nhắc lại, hồi đó tôi nghĩ rằng Nhật nhất định sẽ đầu hàng, nhưng mà không đầu hàng sớm lắm đâu, ít nào cũng đến cuối năm 1945; tôi nghĩ rằng Nhật thua trận trên mặt biển thì chúng sẽ dựa vào lục địa mà chờ đợi một trận quyết chiến hết sức lớn, hết sức đẫm máu khi Mỹ đổ bộ lên đất Nhật, tôi hoàn toàn không biết gì về vũ khí hạt nhân; tôi chắc chắn rằng mọi người cũng chẳng hơn gì tôi. Tôi cũng tính sai rằng Liên Xô sẽ không can thiệp sớm vào chiến tranh Viễn Đông, rằng Liên Xô sẽ trả đũa quân Mỹ, Anh về cái tội Mỹ, Anh dây dưa quá trong việc mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu để “chia lửa” với Liên Xô, trả đũa bằng cách để cho Anh, Mỹ, Nhật đánh nhau lâu hơn nữa. (Sau rồi tôi mới thấy rằng tính toán của tôi nông cạn, sai, lấy cái chủ quan – cần thì giờ để hoàn thành chuẩn bị khởi nghĩa – làm hướng xét đoán). Trong trường hợp đổ bộ lên Trung Kỳ từ Philippines thì chúng tôi chủ trương khởi nghĩa từng phần, thừa lúc Nhật, Mỹ đánh nhau lập chính quyền độc lập ở bất cứ nơi nào có thể lập được. Trong tình hình thế giới khi ấy, thì dù Mỹ có hay không có đổ bộ lên Trung Kỳ, Nhật trước sau cũng sẽ phải đầu hàng. Nhật đầu hàng thì sẽ xảy ra tình thế cách mạng trực tiếp cho chúng ta. Nhật đầu hàng thì quân Đồng minh, trong đó có quân Pháp, sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật và để giành lại Đông Dương cho chủ cũ. Cho nên khởi nghĩa cách mạng ở Việt Nam nhất thiết phải nổ ra và thành công trước khi (nhấn mạnh là trước khi) quân Đồng minh vào. Khi quân Đồng minh vào mà đã có chính quyền độc lập của dân tộc Việt Nam thống nhất an bài rồi lại được toàn dân hết lòng ủng hộ, thì họ phải thương lượng với chính quyền cách mạng đó. Nếu ta không giành được chính quyền thì họ sẽ không đếm xỉa đến cuộc kháng Nhật của ta đâu. Thương lượng với họ, ta sẽ có hai cái thế mạnh, một là ta đã chống Nhật, đã ủng hộ đồng minh, hai là ta đang nắm chính quyền và được đồng bào tín nhiệm; ta sẽ hết sức lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Mỹ, Tàu. Tiếng nói của Liên Xô chắc có trọng lượng mặc dầu Liên Xô ở rất xa Đông Dương. Chắc chắn là anh em ta ở ngoài Bắc cũng nghĩ như vậy và cũng làm như vậy, chứ không thể khác.
5. Điều quan trọng bậc nhất là Nam Kỳ không được vắng mặt, cũng không được phép tới trễ trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng sắp tới trên toàn Việt Nam và toàn Đông Dương. Nhưng phải nhìn nhận một sự thật là: nay ta còn yếu. Mà thì giờ chắc không còn lâu, vậy phải “chạy đua với đồng hồ” (hồi đó trình bày ý kiến trước Xứ uỷ, tôi thường hay dùng chữ Pháp là “course contre la montre”) để xây dựng, củng cố, phát triển Đảng thống nhất, Mặt trận phản đế thống nhất, để xây dựng hết sức nhanh một “đạo quân chính trị” (từ này mượn của Stalin: armée politique) rất lớn; để làm sao trong một thời gian ngắn, cho Đảng ta trở thành Đảng mạnh nhất ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn, chẳng những mạnh hơn mỗi chính đảng khác mà còn mạnh hơn tất cả các đảng thân Nhật, thân Pháp cộng lại. Phải nối liên lạc với các đảng bộ ở Bắc, Trung, để cho cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra khắp Nam, Trung, Bắc gần cùng một lúc với nhau.
Hội nghị Xứ uỷ vừa xong, anh em chưa kịp chia tay nhau về các tỉnh thành, thì được tin từ Bà Rá[15], các đồng chí ta đã vượt căng, có người đã về tới Sài Gòn. Một số anh em ở lại hoạt động trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định như A (báo Lao Động); một số về tỉnh nhà của mình như Tô Ký (Gia Định), như Ty (Bạc Liêu), Tiến cụt (Rạch Giá), Thiệt, Thế (Vĩnh Long) v.v… cả trăm anh em (và chị em nữa) nhận công tác mà không cần phải được giải thích, động viên. Dù sao gia đình cộng sản lớn lên một cách “đột biến” vượt bậc. Có thể nói một cách khẳng định rằng: nếu nhóm đồng chí vượt ngục Tà Lài bắt đầu gây dựng lại cơ sở và hệ thống, thì nhóm thoát khỏi Bà Rá tăng cường đảng bộ chính trong lúc đảng bộ cần tăng cường nhất, nhờ đó chúng tôi ở Nam Kỳ mới có thể đối phó kịp thời với thời cuộc khẩn trương sau đảo chánh 9 tháng 3; chứ nếu chỉ có đường lối đúng mà thiếu người giỏi thì cũng không làm gì nên việc được.
Hơn nữa, sau đảo chánh 9 tháng 3, số còn lại của anh em “ở ẩn” từ 1940, nay lục tục ra hoạt động. Nguyễn Văn Nguyễn hoạt động trước hết, Nguyễn Văn Tây ra hoạt động trước đảo chánh một chút, Ung Văn Khiêm ra hoạt động sau đảo chánh một chút. Hà Huy Giáp khi ra căng Ban Mê Thuột thì vào Sài Gòn ngay, được chữa trị ở bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và hoạt động với chúng tôi. (Bùi Công Trừng vào Sài Gòn chỉ mấy ngày trước khởi nghĩa). Xứ uỷ Nam Kỳ từ đây không thể được than là ít và yếu nữa, mà nỗ lực đương đầu với trọng trách một cách tin tưởng. Ba anh này, Khiêm, Tây, Giáp (Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây, Hà Huy Giáp), hồi cuối 1930 đầu 1931 là Xứ uỷ viên Nam Kỳ trong lúc tôi bị trục xuất từ Pháp về Việt Nam, được giao cho một việc nhỏ mà khó trong Ban Mặt trận phản đế và học sinh, sinh viên, trí thức. Từ đó đến giờ, tôi mới lại gặp Khiêm trên đất Sài Gòn xưa những năm trước.
Chú thích của người biên tập
1 Chu, Mao: Mao đây, tất nhiên, là Mao Trạch Đông; Chu không phải là Chu Ân Lai, mà là Chu Đức (1886-1976), nguyên soái, người thường được coi là cha đẻ của Giải phóng quân Trung Quốc.
2 Thủ Thừa: nay là một huyện thuộc tỉnh Long An, cách thành phố Hồ Chí Minh 45 km về phía tây nam, ở phía bắc Tân An.
3 Tân Uyên: nay là một huyện của tỉnh Bình Dương, ở phía bắc thị xã Biên Hòa, cách TP. HCM khoảng 45 km.
4 Petrograd: Tức Leningrad, nay đổi thành Saint-Petersburg (của Liên bang Nga), nơi nổ ra các cuộc cách mạng Nga (1905, 1917).
5 Đất Cuốc: Nay là một xã thuộc huyện Tân Uyên (xem chú thích 3 ở trên).
6 Rue d’Espagne: Nay là đường Lê Thánh Tôn.
7 Trong truyền thống của Quốc tế Cộng sản (1919-1943), chỉ có một “Đảng” trên toàn thế giới, tại mỗi nước (hay vùng) là một “đảng bộ” của ĐCS; đảng viên ở đâu thì sinh hoạt trong đảng bộ tại đó. Ba đảng viên người Pháp sống ở Sài Gòn, do đó, đương nhiên là đảng viên của ĐCS Đông Dương, hoạt động dưới sự chỉ đạo của bí thư Xứ ủy Trần Văn Giàu. Sơ đồ tổ chức của QTCS cũng giống như “quốc tế” khác là Giáo hội Roma, người Công giáo là “dân chúa” ở đâu thì sinh hoạt trong giáo hội tại đó. Năm 1943, để tranh thủ sự hợp tác với Anh-Mỹ, Stalin tuyên bố giải thể Quốc tế Cộng sản (Komintern), hàm ý mỗi đảng cộng sản từ nay là một tổ chức độc lập, không chịu chỉ thị của “giáo hoàng” ở Moskva, thay thế QTCS bằng một “Phòng thông tin Cộng sản” (Kominform). Trên thực tế, với sự có mặt của Hồng quân ở Đông Âu, QTCS còn kéo dài ở Âu châu ít nhất cho đến cái chết của Stalin. Ông Trần Ngọc Danh (em trai của cố tổng bí thư Trần Phú), tổng đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pháp từ năm 1946, năm 1948 bỏ nhiệm sở, về Praha (Tiệp Khắc) còn tiếp tục gửi báo cáo cho Kominform (thực chất là cho Stalin) tố cáo sai lầm “hữu khuynh” của Hồ Chí Minh, “nguyên nhân gây ra những khó khăn của cách mạng Đông Dương”.
Đảng Cộng sản Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc thành lập ngày 3.2.1930 với một cương lĩnh tuy vắn tắt nhưng khá phù hợp với tình hình Việt Nam. Mấy tháng sau, Quốc tế Cộng sản áp đặt tên gọi, cương lĩnh và lãnh đạo khác. Trong suốt thập niên 30, đường lối của ĐCSĐD đi theo đường lối không mấy nhất quán của QTCS (cụ thể là của Stalin), với những thành công và thất bại mà mọi người có thể tìm biết. Cũng trong thời kì này, nó còn chịu ảnh hưởng ít nhiều trực tiếp của hai đảng “đàn anh” là Pháp và Trung Quốc. Phải đợi đến năm 1941, sau khi lãnh đạo đảng bị thực dân triệt hạ (sự kiện Nam Kỳ khởi nghĩa), Nguyễn Ái Quốc về nước, được chấp nhận, ĐCS mới “trở lại” cương lĩnh “vắn tắt”, triển khai quan niệm giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc, trong sự độc lập (nhờ cách biệt, cô lập đối với QTCS và các đảng “đàn anh”). Giai đoạn độc lập tư tưởng và thực tế này chấm dứt năm 1950 với thắng lợi của cách mạng Trung Quốc. Phải đến thập niên 1960, ĐCSVN, tuy về đối nội vẫn bị chủ nghĩa Mao khuynh loát, về mặt đối ngoại đã giành được sự độc lập dứt khoát đối với cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, nhờ đó, sự nghiệp độc lập và thống nhất mới hoàn thành mà không bị quyền lợi quốc gia của các cường quốc hạn chế, biến chất.
Nhóm mấy người Pháp cộng sản ở Sài Gòn sẽ lập ra “Cercle Culturel Marxiste” (Câu lạc bộ văn hóa mác-xít Sài Gòn) mà trụ sở những năm 1946-50 đặt ở nhà bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (106, đường Léon Combes, nay là Sương Nguyệt Anh). Chính tại nơi đây, Georges Boudarel (1927-2003), giáo sự triết học ở Lycée Marie Curie đã có thể liên lạc được với kháng chiến và từ đó, ra bừng biền tham gia kháng chiến vào cuối năm 1950. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, những người châu Âu cộng sản (Pháp, Đức, Áo…) tham gia kháng chiến đều sinh hoạt trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam. Sang những năm 1960, trong bối cảnh mâu thuẫn Trung-Xô, do bất đồng với chủ nghĩa Mao, họ đã lần lượt rời Hà Nội trở về sống ở Châu Âu (có khi không về nước ngay, như G. Boudarel, A. Clavier và J. Tarago, ba người Pháp đã bị tòa án quân sự tuyên án tử hình vì “đào ngũ” và tham gia kháng chiến Việt Nam – mãi đến năm 1967 mới được “ân xá”).
8 Thương chánh: hải quan.
9 lô-can: tính từ tiếng Pháp local nghĩa là bản địa, địa phương, cục bộ.
10 sân Hào Thành: nay là sân vận động Hoa Lư, nằm ở góc đường Đinh Tiên Hoàng (thời đó là Albert 1er) và Nguyễn Thị Minh Khai.
11 Nhà thờ Huyện Sĩ: ở số 1, đường Tôn Thất Tùng, TP. HCM. Do ông bà Lê Phát Đạt (tức Huyện Sĩ) hiến đất và bỏ tiền ra xây, khánh thành năm 1905.
12 (Chú thích của tác giả) Anh Lê Quang Sô, anh Ngô Đình Đẩu là lãnh tụ của Đảng Quốc Gia (thân Nhật như Đảng Quốc Gia Độc Lập của Hồ Văn Ngà; Hồ Văn Ngà thì dựa vào trí thức Sài Gòn; Sô, Đẩu thì dựa vào Tịnh độ cư sĩ Tiền Giang, hợp tác với lực lượng của Nguyễn Hoà Hiệp). Tôi có ở tù chung với Lê Quang Sô hồi 1933 ở Khám Lớn. Ngô Đình Đẩu (bà con rất gần với Diệm) là một người thuộc phái Cường Để từ thời Đông Du, từ lâu tôi quen Đẩu, sếp của Đảng Quốc Gia - thực tế làm “tai mắt” cho sở Sen đầm Nhật. Hoà Hiệp là Quốc Dân Đảng từ hồi Trần Huy Liệu ở Sài Gòn, cũng quen lớn với tôi từ 1930, sau khi tôi bị trục xuất khỏi nước Pháp. Tôi thấy có thể dùng Đảng Quốc Gia để biết tin tức trong cơ quan chỉ huy của quân Nhật ở Nam Kỳ (về sau các anh đó thuộc Kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ). Nhưng anh Sô, anh Đẩu đều không biết trước vụ Nhật đảo chính ngày 9 tháng 3.
13 Gaulois: người xứ Gaule, thuộc về xứ Gaule. Gaule (không dính gì tới tướng De Gaulle, lãnh tụ kháng chiến Pháp) là tên vùng đất thuộc về Đế quốc Roma, bao gồm nước Pháp ngày nay, Bắc Ý, Bỉ, Luxembourg. Gaule tiếng Latinh là gallia, mà chữ đồng âm có nghĩa là con gà trống. Từ đó, (do một sự ngộ nhận hay nhận vơ) người Pháp (France) coi xứ Gaule là nước gốc của mình và người Gaulois là tổ tiên của mình (rồi sau đó, dân châu Phi hay “An nam mít” cũng phải học “Tổ tiên ta là người Gaulois”). Biểu tượng của nước Pháp do đó là con gà trống – con gà trống gaulois – gáy “cocorico”. Trên nóc tháp chuông nhà thờ Huyện Sĩ (xem chú thích 11 ở trên) còn có con gà trống gaulois nay vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
14 Norodom: sau là Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn.
15 Bà Rá: tên ngọn núi cao 733 mét ở miền đông Nam Bộ, nay thuộc tỉnh Bình Phước (những năm 1940 thuộc địa phận tỉnh Biên Hòa), cách Sài Gòn 180 km.
Tiếp theo 2 Phần thứ Tư
Phần thứ tư
TIẾN TỚI TỔNG KHỞI NGHĨA (tiếp theo)
6. Lo việc thống nhất các tổ chức cộng sản ở Nam Kỳ và lo việc đặt lại liên lạc với miền Bắc
Triển vọng tươi sáng thật. Thế nhưng hãy còn một chấm đen trong tình hình tổ chức của Đảng ở Nam Kỳ, hãy còn một vấn đề, một vướng mắc, nếu không kịp giải quyết xong bây giờ thì sau sẽ có trở ngại: thống nhất cộng sản ở Nam Kỳ và nối lại với Trung ương.
Trần Văn Giàu trước Mur des Fédérés, nghĩa trang Père Lachaise Paris, nơi 147 chiến sĩ Công xã Paris đã bị giết chết và chôn tập thể ở chân tường. Ảnh chụp tháng 7.1989 (NNG).
Hồi 1942, 1943, khi anh Phúc đi Long Xuyên để tổ chức Tỉnh uỷ lâm thời ở đó thì nhóm của các đồng chí kỳ cựu của các đồng chí Nhung, Phẩm đồng ý liền, và Tỉnh uỷ lâm thời Long Xuyên được thành lập (chính cái Tỉnh uỷ này sẽ lãnh đạo khởi nghĩa lập chính quyền cách mạng tháng Tám năm 1945). Đồng chí Nhung là người đã vào Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội hồi 1927, anh từ Ngã tư Vĩnh Long lên ở Long Xuyên và công tác ở đó lâu rồi. Hồi 1933-1934, khi Nhung còn ở Ngã tư (Vĩnh Long), tôi đã đến cùng anh hoạt động. Năm 1942, Nhung ở Long Xuyên thì tôi nhờ Châu Văn Giác lên bắt liên lạc với anh. Ở Long Xuyên khi ấy có một vài đồng chí không tán thành lập Tỉnh uỷ lâm thời với các anh Nhung, Phẩm. Nghe đâu ở Vĩnh Xuân, Trà Ôn cũng có một nhóm đồng chí mà Phúc tìm bắt liên lạc không được. Nghe Phúc báo cáo thì tôi sanh nghi là ở Nam Kỳ hồi 1933-1934, còn có vài nhóm cộng sản rời rạc, chưa lập thành hệ thống. Khác với Long Xuyên, ở Mỹ Tho, còn đồng chí cũ sau 1940, mà anh Khuy đã hợp tác với các anh em đó lập ra Tỉnh uỷ lâm thời một cách dễ dàng, ví dụ như Chín Còn, em của Hai Giác (Hai Giác là chồng của chị Mười Tốt - Nguyễn Thị Thập, còn gọi là Mười Thập). Giác là tử sĩ anh hùng trong cuộc khởi nghĩa 1940 ở Chợ Bưng). Chín Còn giống như Hai Giác, cao như cây tre, Tỉnh uỷ Mỹ Tho làm việc được tốt trong tinh thần thống nhất. Tôi nghe nói chị Mười Tốt vẫn còn có dấu hiệu hoạt động, tuy là bề ngoài chị đi buôn cám. Chị Mười quen biết với tôi khá nhiều từ hồi 1934-1935, khi ấy tôi làm Bí thư Xứ uỷ và chị Mười làm cán bộ cơ sở, tôi đưa chị xuống Phú Xuân, Nhà Bè đi gánh dầu để hoạt động trong công nhân. Tôi tin rằng anh Chín Còn tham gia Tỉnh uỷ Mỹ Tho cũng là được sự tán thành của chị dâu là Mười Tốt.
[Sau 9-3-1945, chị Mười còn ở Mỹ Tho, vậy mà theo một đoạn hồi ký của Thép Mới (in ấn năm 1995, nhân kỷ niệm cách mạng tháng Tám), có bài của Thép Mới nói rằng, tháng 3 năm 1945, có chị Mười và Dân Tôn Tử có mặt ở Bắc và Trường Chinh đã trao cho họ chỉ thị: “Nhật-Pháp đánh nhau, hành động của chúng ta”. Ôi! Chị Mười khi ấy ở Mỹ Tho và Dân Tôn Tử (tức đồng chí Trần Văn Vi), ngày 10-3-1945, mới ra khỏi căng (trại giam) Bà Rá thì làm sao họ đem Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 9 tháng 3 về Nam được? Bịa như thế thì than ôi, cũng có người tin, hễ tin như vậy thì tất phải đặt câu hỏi: “tại sao được chỉ thị của Trung ương mà Xứ uỷ Nam Kỳ và anh Giàu không làm theo?”. Sao mà bày đặt ác thế? Ác thế để làm gì? Bịa trắng trợn, sao mà sách ở một nhà xuất bản lớn ở Hà Nội lại đăng? Tai hại cho lịch sử quá.]
Thành công của Dương Khuy ở Mỹ Tho trong việc lập Tỉnh uỷ cùng với Chín Còn, em chồng chị Mười Tốt (Mười Thập) có cái để mà phấn khởi. Riêng tôi thì, vào đầu năm 1945, tôi có đi Bà Điểm, Hóc Môn đến mấy lần. Vùng Củ Chi, Hóc Môn, Bà Điểm, tôi quen biết khá nhiều từ mười năm trước. Hồi 1933, khi tôi ở Liên Xô về, cái Đặc uỷ (ngang với Tỉnh uỷ) mà tôi tổ chức trước hết ở Nam Kỳ (trong sự cố gắng xây dựng lại hệ thống Xứ uỷ đã bị tan vỡ từ 1932), là Đặc uỷ Vàm Cỏ Đông, gồm các cơ sở Đảng ở quận Thủ Thừa (Tân An), quận Đức Hoà (Chợ Lớn) và quận Hóc Môn (Gia Định). Lúc ấy, tôi công tác với anh em Võ Văn Tần, Võ Văn Ngân và nhiều đồng chí ở Bà Điểm, Hóc Môn trong khi đó chị Hai Sóc (người phụ nữ vóc vạc lớn), chú Voi, (người thanh niên rất nhỏ thó), anh Ngữ (em của Bùi Thủ là bạn thân của tôi hồi ở Toulouse, rồi ở Moscou), anh Đối (một tay nghề võ có tiếng ở địa phương), anh Mười Thinh (ở tại chợ Hóc Môn) và nhiều anh em khác mà tôi đã từng dạy học chính trị trong Khám Lớn, Sài Gòn, hồi thời Mặt trận Bình dân. Tôi tin rằng nếu ở Nam Kỳ mà có một trung tâm chỉ huy nào (Xứ uỷ hay Xứ uỷ lâm thời), khác với Xứ uỷ chúng tôi thì nó phải đóng hoặc ở vùng Hóc Môn, Bà Điểm hoặc ở Mỹ Tho chứ không thể ở đâu khác. Mà ở Sài Gòn, ở Mỹ Tho thì dứt khoát là, cho đến đầu 1945, không có Xứ ủy, Tỉnh uỷ nào khác rồi. Chỉ còn Bà Điểm, Hóc Môn. Tôi lên đó thì được biết rằng còn một nhóm đồng chí hoạt động ít nhiều nhưng cũng không có Xứ uỷ Đảng Cộng sản. Tôi bàn với nhóm đồng chí đó là nên thống nhất với chúng tôi. Nhưng các đồng chí xem chừng không muốn, họ nói với tôi là bây giờ không tổ chức Đảng nữa mà chỉ tổ chức Việt Minh (?). Tôi lấy làm lạ và cho rằng có cái gì mới đây, và nếu các đồng chí nói đúng thì như vậy là “Chủ nghĩa thủ tiêu” (tôi nói tiếng Pháp là “liquidationnisme”) tức là một màu chủ nghĩa quốc gia dân tộc chứ không phải chủ nghĩa Marx-Lenin nữa. Chủ nghĩa Marx-Lenin nào mà lại thay Đảng bằng Mặt trận, thay Cộng sản bằng Việt Minh? Xứ uỷ Cộng sản thì tôi hiểu ngay chứ làm sao tôi hiểu được “Xứ uỷ Việt Minh”. Chỉ có thể có kỳ bộ Việt Minh nếu Việt Minh là một thứ Mặt trận phản đế. Hay là các anh ấy hiểu sai, hiểu lầm những chỉ thị nào đó của cấp trên của họ? Nếu họ hiểu sai, hiểu lầm thì sẽ là may mắn, còn nếu như họ hiểu đúng mà đúng như vậy thì chết rồi, họ đi ngược với chủ nghĩa Marx-Lenin rồi. (Về sau, sau cách mạng tháng Tám tôi mới hay rằng nghị quyết của Hội nghị Trung ương năm 1941 chỉ thị phải đưa Mặt trận Việt Minh ra hàng đầu để cho sự tuyên truyền cổ động về chủ nghĩa yêu nước được triển khai dễ dàng, Đảng Cộng sản đứng bên trong mà lãnh đạo một cách khéo léo, chớ tuyệt nhiên không phải lấy Việt Minh thay Đảng Cộng sản[1]). Tôi trở về Phú Lạc, nhờ Bảy Trân lên Bà Điểm điều tra thêm, Bảy Trân biết anh em, chị em Bà Điểm còn nhiều hơn tôi; Bảy Trân đi về báo cáo cũng y như tôi đã nghe biết. Mới đáng lo chớ! Nhưng, anh em Bà Điểm hồi đầu 1945, không có thực lực và không có hoạt động gì làm bọn tôi ngại, chớ nếu khuynh hướng “thủ tiêu chủ nghĩa” mà mạnh, dù một chút thôi, thì chắc là bọn tôi sẽ “đấu” dữ lắm, nghĩa là sẽ giải thích cho anh em chớ không thoả hợp, bọn tôi chủ trương là, y như trước nay, Đảng là Đảng Cộng sản, Đảng Marx-Lenin, còn Mặt trận có thể gọi là phản đế, dân chủ, Việt Minh, hay dân tộc, gì cũng được.
Tôi đi Bà Điểm lần thứ hai, thương lượng cũng không kết quả gì.
Tôi đi Bà Điểm lần thứ ba, sau cuộc đảo chánh Nhật độ tháng. Lần này thì thương lượng có kết quả. Tôi nghe nói một Xứ uỷ tự gọi là “Xứ uỷ Việt Minh” (của các anh em không muốn thống nhất với chúng tôi, vừa mới được thành lập ở Mỹ Tho, sau khi đồng chí Trần Văn Vi ở Bà Rá về). Vi ở trại giam Bà Rá mới về sau đảo chánh 9 tháng 3. Tôi (và nhiều anh em) biết rõ Vi là người mưu xảo, đâm bị thóc, thọc bị gạo. Nhưng anh này quả có tinh thần chiến đấu. Lâu nay tôi tưởng đâu anh này đã vượt căng (như bọn tôi, căng Bà Rá tuy ở xa hơn mà không khắt khe kỷ luật như căng Tà Lài), nhưng không; Vi từ căng về mới đây thôi, sau đảo chánh Nhật, mà khi về thì vận động ngay lập Xứ uỷ riêng (tháng 4/1945), mặc dầu Nam Kỳ quả có Xứ uỷ từ tháng 10/1943, có ra báo, ra sách. Thương lượng có kết quả, tôi hết sức mừng khi hai Xứ uỷ đồng ý thống nhất với nhau. Để bắt đầu làm việc thống nhất đó, hãy làm một việc quan trọng chung với nhau là cùng ra một tờ báo. Tờ báo tên gì? Tôi đề nghị lấy tên là báo Giải phóng. Tại sao lấy tên Giải phóng? Nguyên là hồi 1933-1934, khi lập ra Đặc uỷ Vàm Cỏ Đông cùng với các đồng chí Tần, Nguyên, Năm Quảng, tôi đã cùng với các anh trong Đặc uỷ lập ra báo Giải phóng, xuất bản hàng tháng, in xu xoa, có khi in ở Bà Điểm, có khi in ở Tân Phong, Tân Phú. Phần nhiều các bài xã luận đều do tôi viết. Bây giờ tôi đề nghị lấy lại tên báo Giải phóng để cho có một sự nối tiếp truyền thống đoàn kết. Anh em đều đồng ý.
Tôi về Phú Lạc sắp đặt cuộc Hội nghị thống nhất.
Thất vọng! Tôi về rồi thì anh em trong “Xứ uỷ Việt Minh” không đồng ý thống nhất nữa.
Tụi tôi liền mời đại biểu của “Xứ uỷ Việt Minh” xuống Trung Huyện (Chợ Lớn) tiếp tục thương lượng. Anh em Bà Điểm phái người xuống. Họp ở nhà cô Tám Đẹt (em gái của Bảy Trân và ở nhà vợ bé của Tư Ó – con trai bà Chùa). Ở hội nghị thì đồng ý tất cả cũng như lần vừa rồi. Nhưng về nhà thì không đồng ý nữa. Anh em Bà Điểm tự mình ra tờ Giải phóng riêng và như vậy, từ nay tự gọi là phe “Giải Phóng” đối lập với phe “Tiền Phong” – tờ báo của Xứ uỷ Nam Kỳ, của Đảng Cộng sản, bọn tôi phát hành từ cuối 1943, đầu 1944. Đó, nguồn gốc của việc “Tiền Phong”, “Giải Phóng” là như vậy. Tôi không biết phải làm gì nữa để thống nhất.
Vào tháng 4, tháng 5 năm 1945, Hà Huy Giáp vượt ngục ở Trung vào Nam nằm ở nhà thương tư Phạm Ngọc Thạch. Anh Giáp đồng ý với bọn tôi là phải tổ chức Thanh niên Tiền phong; Giáp cùng chúng tôi đi giảng bài ở một số cơ sở lớp học Công đoàn và lớp học Thanh niên trí thức. Tôi nhờ Giáp làm cái việc thương lượng thống nhất mà tôi làm không được. Tôi nói rõ với Giáp là: với giá đắt mấy cũng phải thống nhất, cái giá đó có thể là tôi – Trần Văn Giàu – từ bỏ chức vụ Bí thư Xứ uỷ nếu bên kia đòi hỏi. Cũng không thành công. Vì sao? Các đồng chí “Giải Phóng” trước hết là Vi và Dự nói: Giàu đầu hàng Pháp năm 1935, đã bán Deschamps cho mật thám Pháp; Giàu là tay sai của Pháp; ở Tà Lài, Giàu được Pháp biệt đãi; Pháp tổ chức cho Giàu và đồng bọn vượt căng Tà Lài để phá cộng sản! Cho nên Giàu lập “Xứ uỷ Tiền phong” lấy cờ vàng sao đỏ làm cờ hiệu chống lại “Xứ uỷ Việt Minh” lấy cờ đỏ sao vàng làm cờ hiệu. Phe “Giải Phóng” báo cáo ra Bắc cũng y như vậy: Xứ uỷ của Giàu chống Đảng! Tôi nghe đâu anh em ngoài Bắc có gửi Bùi Lâm vào Sài Gòn điều tra tình hình hư thật thì Bùi Lâm về đã nói y như “Giải Phóng” và nói thêm rằng “Ngay cả thằng Giáp cũng bị thằng Giàu nó mua chuộc mất rồi”.
Nói đến việc Bùi Lâm thì, luôn thể nói luôn vụ Ngoạn. Sau này tôi mới hay rằng, trước khi phái Bùi Lâm vào Sài Gòn để bắt liên lạc với các đồng chí trong Nam, thì Trung ương đã phái một đồng chí tên là đồng chí Ngoạn. Trước cách mạng tháng Tám, tôi không biết việc này, không biết người nào hết trong số ba đồng chí đó. Nhưng cái “Xứ uỷ Giải phóng” đã loan truyền rằng Ngoạn bị bắt ở Sài Gòn gần nơi ở của Trần Văn Giàu. Không ai nói thẳng rằng Giàu chỉ chỗ Pháp bắt Ngoạn, nhưng họ ám chỉ rằng Ngoạn bị bắt khi ở nhà Giàu đi ra. Hay không! Sau này tôi hỏi lại nhiều người thì được biết rằng, Ngoạn bị bắt cuối năm 1944. Từ mấy năm nay, sau khi vượt ngục, có ai biết nhà của tôi là ở đâu? Tôi chưa được liên lạc nào với người của các nhóm sau này tự xưng là “Giải Phóng”. Vậy mà họ vẫn có thể bày chuyện để sinh ra nghi vấn rằng tôi là tay sai của Pháp chỉ điểm bắt người liên lạc của Trung ương. Khai bắt Deschamps, chỉ bắt Ngoạn là một loại việc làm như nhau thôi!
Bịa chuyện để vu cáo như thế, không còn cái gì trắng trợn, gian ác hơn! Họ nói có, mình nói không; lấy gì làm bằng cớ để mà cải chính? May thay, có nhà nghiên cứu lịch sử Nam Kỳ khởi nghĩa: anh Giang, đã tìm thấy trong kho lưu trữ Sài Gòn tư liệu gốc sau đây, xin chép nguyên văn (photocopy):
Annexe à l’envoi No7540-s du 27-10-1944 de S.S.Co.
ULTRA SECRET
Cochinchine
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Le 27 Octobre 1944 No 46
Exploitant les déclarations de BUI Van DU la Police Spéciale a appréhendé au début l’après-midi du 27 Octobre le Tonkinois NGUYEN Huu NGOAN dit NGUYEN Tien NGOAN agent de liaison entre les organisations communistes de la Cochinchine et du Tonkin.
P.S.Saigon.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Gặp MT 279.
3. Hoạt động cộng sản. Địch bắt được Bùi Văn Dự và Nguyễn Hữu Ngoạn ở Sài Gòn.
4. Bắt được Nguyễn Hữu Ngoạn Nhà in Giải phóng.
Dịch:
Ngày 27 tháng 10 năm 1944 Số 46
Khai thác lời khai của Bùi Văn Dự, Sở Công An Đặc Biệt trưa ngày 27 tháng 10, đã bắt tên Bắc Kỳ Nguyễn Hữu Ngoạn tức Nguyễn Tiến Ngoạn nhân viên liên lạc giữa tổ chức Nam Kỳ và Bắc Kỳ.
Có lẽ anh Lê Đức Thọ đã biết từ khá lâu tư liệu này cho nên trong Nghị quyết của Ban tổ chức về các vấn đề đòi giải oan của tôi, không thấy có kể vấn đề Ngoạn bị bắt. Nhưng vu cáo đồn đãi lâu ngày, có thể nào lấy cái “im” mà giải oan được? Có cần chăng phải nói thêm rằng Bùi Văn Dự là lãnh tụ số 2 của “Xứ uỷ Giải phóng” sau Trần Văn Vi, là người đã dẫn đầu mấy ngàn tín đồ Hoà Hảo có vũ trang kéo vào Cần Thơ, tháng 9 năm 1945, đòi nắm chính quyền trên 7 tỉnh miền Tây Nam Bộ. Dự bị ta bắt và được Hoàng Quốc Việt xin tha. Tập kết ra Bắc, Dự được làm một chức lãnh đạo ở Ban thống nhất, quản lý anh chị em miền Nam tập kết!!!
Rồi từ ngày Thanh niên Tiền phong xuất hiện, phe “Giải phóng” tặng thêm cho tôi (Giàu) một danh hiệu mới “tay sai của Nhật”, có người trong bọn họ giải thích: “đã làm tay sai cho Pháp được thì làm tay sai cho Nhật cũng được, chớ sao”. Cái nhóm Trần Văn Vi, Bùi Văn Dự (Giải Phóng) đi tới mức cho người ám sát tôi bằng bất kỳ cách nào. Theo lời một người đồng chí tên là Võ Văn Thanh con của Võ Văn Tần ở Đức Hoà, khi ấy được lệnh của Vi hễ gặp Giàu thì có thể chém bằng mác, đâm bằng xà búp[2], giết chết một tên ở Tà Lài đã ngày ngày cùng sếp căng đi săn bắn, kiếm thịt rừng ăn nhậu; ở căng Tà Lài cũng như ở bót Catinat đều nằm giường ruột gà, nệm dày một chống[3]!
Dựng đứng lên như vậy, mà than ôi cũng có người tin! Về sau, gặp tôi, Thanh, cũng tên là Sáu Voi (Giám đốc Sở Lương thực Thành phố) thú nhận kể lại cái sự ly kỳ ấy. Hoàng Quốc Việt biết chán âm mưu đó, nên ở cuộc chỉnh huấn Việt Bắc, Việt nói với tôi, để bảo tôi “khai thiệt” rằng“anh em để cho mình sống tới nay là may rồi” thế là Việt cũng tin và đã ghìm rằng ở bót Catinat, Giàu nằm giường lò xo, nệm một chống; ở Tà Lài Giàu xách súng đi săn, ăn nhậu với sếp Tây; rằng Pháp tổ chức cho bọn Giàu vượt căng Tà Lài.
Thế là hết đường! Giữa năm 1945, sau khi phái viên đầu tiên của chúng tôi là Lý Chính Thắng[4] ra Bắc tìm Trung ương về tới Sài Gòn thì chúng tôi được chỉ thị phái người ra Bắc họp Quốc dân đại hội. Xứ uỷ phái Giáp và Khiêm đi Việt Bắc để dự Hội nghị Quốc dân ở Tân Trào vì hai anh là xứng đáng đại diện, cũng vì hai anh cũng chưa làm công tác cụ thể gì, đi xa thì không phải khó tìm người thay. Còn tôi thì ở lại “chịu trận”.
Chán quá sức!
Có những phút tiểu khí lên cao, tôi tự bảo là có lẽ nên giao lại hết cho anh em mọi việc ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn rút lui về Đồng Tháp Mười cùng vợ với một chiếc thuyền con, một giạ[5] gạo, một hũ mắm, một lu nước thả dọc sông Vàm Cỏ Tây, đậu dưới mấy cây bần gục trên mặt nước, giết thời gian bằng câu cá, bắt chim; hoặc tích cực hơn một chút, một thân một mình lên Cao Miên hoạt động, trong mấy tháng học cho rành tiếng Miên, chữ Miên rồi vào Nam Vang, lên Biển Hồ, nếu muốn làm nổi sóng, nổi gió cho mau thì tổ chức đánh theo kiểu Giảo Kim cướp muối nhà Tuỳ, ai mà bắt mình nổi? Làm cách mạng thì lâu dài, khó khăn, không làm giùm cho dân tộc bạn được, chớ đánh du kích nay đây mai đó, lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo, trừng trị kẻ gian ác, bênh vực người yếu hèn, thì khó gì đâu? Tôi đã gợi ý với anh Kỉnh, gọi là “Kỉnh Ấn Độ” (vì anh này giống người Ấn); cũng gọi là “Kỉnh bóng đèn” (vì anh này cao nghều có khả năng giơ tay lên gỡ bóng đèn điện trên trần nhà), Kỉnh đã từng đi làm thuê trên xứ Chùa Tháp; tôi cũng đã liên hệ với anh bạn trẻ Trang Văn Nhứt lúc ấy đang làm việc cảnh binh ở Nam Vang. Ở lại làm gì tại cái đất Nam Kỳ này để mang tăm mang tiếng, làm gì trầy vi tróc vẩy mà chịu hết vu cáo này đến vu cáo khác, phải chi là vu cáo của địch thì chẳng nói làm gì, đầu này lại là vu cáo của người cộng sản, đồng chí của mình thì ớn quá, chán quá!
Nhưng, vẫn còn những sợi dây vô hình buộc tôi lại với các bạn chiến đấu, hoặc đã chết, hoặc đang làm việc với tôi. Người chết quả có thế lực rất mạnh với người sống. Chú Văn râu xồm (Trần Văn Kiệt) học với tôi một trường, một lớp, hồi ở Chasseloup Laubat[6], cùng vào Đảng Cộng sản Pháp, cùng học ở Đại học Đông Phương, cùng ở căng Tà Lài, cùng vượt ngục; nó chết rồi. Anh em thề thốt làm cách mạng đến thắng lợi. Bây giờ nó không còn, tôi đang làm bí thư, một nghĩa vụ, một gánh nặng, một trách nhiệm. Công việc cách mạng đang tiến mạnh; mà bỏ cuộc à? Biết bao nhiêu anh em đã chết rồi nhưng hình như họ sẵn sàng chê trách, phản đối tôi. Tôi không sợ Tây, không sợ Nhật, thì sợ gì bọn Biện Vi và Ba Dự? Nhưng mà tôi sợ con mắt trách móc, phê phán của tụi bạn bè đã chết… Vả lại, Xứ uỷ không đồng ý với ý định tiêu cực xin từ chức của tôi; anh em tỏ ý hoàn toàn tín nhiệm vào tôi. Thì tôi bỏ anh em sao được, tuy rằng đi Cao Miên cũng là tiếp tục làm cách mạng. Tôi bỗng nhớ rằng hồi cuối những năm 1920, ở Pháp, lúc đó tôi mới vào Đảng Cộng sản Pháp, có xảy ra vụ đồng chí Pierre Sémard[7], Tổng Bí thư bị vu cáo là nhân viên sở mật thám. Bọn vu cáo tính đánh một đòn chí tử vào đội tiên phong cách mạng ở nước Pháp. Tôi cũng có lúc nhớ (để mà tự an ủi) đến vụ Lenin, vâng, chính Lenin, bị bọn men-sơ-vích, bọn s.r.[8] và nhiều lũ khác vu cáo là tay sai của Đức vì Lênin được phép từ Thụy Sỹ qua nước Đức đang chiến tranh để về Nga sau cách mạng tháng Hai năm 1917. Nhưng, rốt cùng, bị lật mặt nạ chính là bọn vu cáo. Mình bị vu cáo mà mình bỏ đi thì kẻ vu cáo tự xem là đại thắng. Mình chết đi thì xem như mình thua cuộc. Tôi quyết định ở lại với anh em. Tôi hoạt động hăng hái hơn lúc nào hết. Tôi thiết tha với sự thống nhất các lực lượng cộng sản ở Nam Kỳ không phải vì “Xứ uỷ Việt Minh” hay “Xứ ủy Giải Phóng” thành lập tháng Tư năm 1945, có cơ sở hay quần chúng; họ không có những cái đó, họ chỉ có từng lúc liên lạc với Bắc mà tôi chưa có. Tôi thiết tha là thiết tha với sự thống nhất của tất cả các người yêu nước cộng sản, vì Lenin từng dạy rằng phải giữ gìn sự thống nhất đó như giữ gìn con ngươi của chính mình. Tôi hiểu nhiều đồng chí trong đó. Tôi dốt gì mà không biết chắc rằng làm như các anh ấy thì chẳng bao giờ có cách mạng thành công ở Nam Kỳ đâu; có sức đâu mà làm? Thời cơ tốt thì anh em đó nhiều lắm là giành được chính quyền ở mấy làng, ở một vài quận là cùng. Tất nhiên không phải nhất thiết phải có các anh đó thì Xứ uỷ Nam Kỳ mới tổ chức và lãnh đạo được khởi nghĩa cách mạng, bọn tôi không tự cao tự đại mà có ý thức sâu sắc về khả năng của Xứ uỷ, của Đảng bộ mà chúng tôi xây dựng mấy năm nay, tiếp tục sự nghiệp lớn của các đồng chí đi trước. Không tự phụ mà chúng tôi tự tin lắm. Tôi (và tất cả các đồng chí cộng tác với tôi) sở dĩ hết sức thiết tha với sự thống nhất các lực lượng cộng sản ở Nam Kỳ, bởi vì theo nguyên lý của chủ nghĩa Marx-Lenin, Đảng Cộng sản phải là một ý chí duy nhất, không có bè phái, không có rạn nứt thì mới thật mạnh, mới khỏi bị kẻ địch lách mũi dao vào kẽ hở để phá phách, quần chúng khỏi hoang mang vì lẽ ông cách mạng này nói ông cách mạng kia là xấu, là gian. Chuyện phê phán nhau giữa Đông Dương, An Nam, hồi 1929 là một bài học lớn. May hồi đó có Nguyễn Ái Quốc. Bây giờ Nguyễn Ái Quốc còn sống không, nếu còn thì làm sao anh biết được mọi uẩn khúc ở Nam Kỳ? Tôi ở địa phương, chẳng gì đi nữa thì cũng là một thầy giáo đỏ dạy hàng hai ba chục lớp về Đảng, về sự thống nhất là nguồn sức mạnh của Đảng Marx-Lenin phân biệt với các đảng xã hội dân chủ. Bây giờ mình thực hiện không nổi sự thống nhất thì “năng thuyết bất thành hành”[9] hay sao? Anh em “Giải Phóng” hình như có liên lạc với Trung ương, mình thì chưa, họ báo cáo, anh em ngoài kia có hiểu cho mình không hay là hiểu rằng bọn mình chia rẽ, bọn mình là tay sai của Pháp, của Nhật? Chúng tôi hối hả chạy tiền gửi Lý Chính Thắng ra Bắc. Rồi tiếp tục gửi đại biểu đi họp Quốc dân đại hội, Xứ uỷ Nam Kỳ vui mừng gửi hai đồng chí Ung Văn Khiêm và Hà Huy Giáp ra Bắc, mong rằng hai chiến sĩ kỳ cựu này có thể có đủ uy tín để báo cáo đầy đủ tình hình và sẽ mang về một sự thống nhất từ bên trên xuống, khi mà ở cấp xứ chúng tôi thất bại liên tiếp trong việc thiết yếu này. Nhưng mãi đến sau cách mạng thành công thì Ung Văn Khiêm mới về đến Sài Gòn, cùng đi với Hoàng Quốc Việt, một ông đã đứng về phía các bạn của Biện Vi, Ba Dự rồi!
Hãy ghi rõ điều này. Trước khi Hoàng Quốc Việt vào tới Sài Gòn, nghĩa là sau Tổng khởi nghĩa, sau ngày độc lập (chiều tối ngày 2 tháng 9), tôi và Xứ uỷ chúng tôi không có nhận được một chỉ thị nào hết của Trung ương. Nếu sau 9 tháng 3, tôi được đọc một vài tài liệu về Việt Minh ấy là tình cờ do giao thiệp cá nhân mà có. Không chỉ thị viết, không phái viên nào đến gặp chúng tôi để chỉ thị miệng, nghe nói có vài người vào mà các anh chị ấy không hề gặp Xứ uỷ và tôi. Sau, nghe nói có đồng chí Ngoạn vào Sài Gòn, đồng chí ấy bị bắt thì Trần Văn Vi và Bùi Văn Dự hô lên rằng tôi chỉ điểm bắt Ngoạn ở một địa điểm gần nhà tôi sau khi gặp tôi. Ghê chưa? Hồi đó, tôi có nhiều nhà. Ai biết tôi ở nhà nào? Và tôi chưa hề gặp một ai từ Bắc vào liên lạc, kể cả Bùi Lâm mà sau này tôi mới biết mặt. Chúng tôi chỉ tuỳ sức mình, tuỳ tình hình mà liệu công việc phải làm; cho nên không thể không có sự khác biệt giữa Xứ uỷ chúng tôi và các quyết nghị của Trung ương, khác biệt nhiều khi quan trọng, nhưng không thể chối cãi rằng về mục tiêu lớn của Tổng khởi nghĩa cách mạng là đồng nhất.
Bây giờ hãy trở lại mấy điều vu cáo đầu tiên, kể theo thứ tự thời gian.
Không biết tôi sanh vào cái năm gì, nhằm cái ngày nào, cái giờ nào, mà riêng một khoảng đời chỉ vài ba năm, tôi bị liên tiếp mấy cái vu cáo, cái nào cái nấy lớn bằng trái núi, riêng mỗi cái thừa sức đè tôi nát như tương bầm.
Vu cáo thứ nhất: “Ông Giàu bán Deschamps cho Pháp và khai bắt các đồng chí hồi tháng Tư năm 1934”.
Vu cáo thứ hai: “Ông Giàu và đồng bọn được Pháp tổ chức vượt ngục Tà Lài năm 1941, để ra phá cộng sản, phá cách mạng”.
Vu cáo thứ ba: “Nhân viên liên lạc của Trung ương ở Bắc vào Nam, đến Sài Gòn, khi ở nhà Giàu đi ra thì bị mật thám bắt!”.
Vu cáo thứ tư: “Ông Giàu là tay sai của Nhật, chủ trương lập Thanh niên Tiền phong ở Nam Kỳ để giúp Nhật làm chiến tranh Đại Đông Á!”.
Còn một số vu cáo khác nữa. Hãy kể bốn cái vu cáo lớn đó đã. Không phải giống như đánh một roi cá đuối vào lưng hay bị một trận đánh nhiều roi, đau ở lúc đó rồi thôi; đầu này, bị vu cáo, nhất là vu cáo chính trị, thì tai tiếng kéo dài, không biết đến chừng nào dứt, người ta cứ xầm xì xầm xít, rỉ tai nhau, người nghe tin thì chưa chắc đã tin, mà không thì chẳng phải là không, ngờ ngờ, vực vực. Ba chữ “có vấn đề” thật vô cùng tai hại. Tất nhiên địch lợi dụng tình hình khoét sâu thêm chỗ chia rẽ tăng thêm, bày thêm ngờ vực; dại gì mà không làm.
Tiếng đồn này dồn dập hồi đầu và giữa năm 1945, khi ấy tôi làm Xứ uỷ Nam Kỳ, đang cùng anh em xúc tiến mạnh sự chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Tôi thường nghĩ rằng, nếu hồi đó tôi chỉ là Bí thư của một chi bộ xã ở một xó Đồng Tháp Mười, thì chẳng ai vu cáo tôi làm gì, có khi lại còn được khen là chịu khó và được việc. Nhưng mà “chữ tài lại với chữ tai một vần”, “đã mang lấy nghiệp vào thân”, tôi đứng đầu sóng ngọn gió và công việc phát triển rất mạnh, nên bị vu cáo dồn dập. Cái thứ triết lý “tài mạng tương đố”, “nghiệp quả” là chỉ để nghe mà chơi cho nó bớt căng thẳng chính trị, chớ có nhằm vào đâu? Còn như điều phải chú ý, phải không thể không chú ý, là, đáng lý trong một đảng cách mạng chân chính, tuy không nên xuề xoà che lỗi cho nhau, hẳn không nên quen cái thói đâm nhau đàng sau lưng. Không nên có sự vận động mờ ám hãm hại lẫn nhau. Hữu sự thì kiểm thảo, thì họp “toà án đồng chí” mà xét xử cho đâu đó rõ ràng, chưa rõ ràng thì tạm kết luận là chưa rõ, còn rõ thì có kỷ luật. Có đâu lại thọc gậy bánh xe, mà xe là xe cách mạng đang tiến nhanh. Thiếu gì đất trống để ai muốn khai phá tới đâu thì khai phá, quèo chân nhau làm gì, bôi lọ nhau làm gì, quèo chân người ta, người ta có ngã đâu, bôi lọ người ta, hàng triệu nhân dân có mất tín nhiệm người ta đâu, mà thường lệ, như người xưa nói, “hàm huyết phún nhơn, tiên ô tại khẩu”, ngậm máu phun người trước dơ miệng mình. Dơ miệng họ, tất nhiên, mà cũng lấm áo mình. Chúng tôi chẳng khi nào đi nói xấu bất cứ một điều gì, bất cứ một ai của nhóm Giải Phóng, tuy ở đó không phải mọi việc, mọi người đều hoàn hảo, không phải không có người cũng đứng đầu mà có tai tiếng và tai tiếng có bằng cớ rõ ràng nữa? Mà bên Xứ uỷ Tiền Phong có bao giờ hở môi đâu? Sao không chút nghĩ rằng, làm chuyện vu cáo thì ít nhiều cũng là làm lợi cho quân thù, làm hại cho cách mạng? Hoặc chính thằng Pháp nó gài bẫy cho ta mắc chân vào thì nó cười hì hì? Mà giá thắng Giàu nó chịu đòn không nổi, nó khai cho Deschamps và anh chị em đồng chí đi nữa, mà rồi ở trong nhà tù, nó dạy anh em học, nó tìm cách vượt ngục và nó tiếp tục hoạt động không nản chí, thì đáng lẽ phải khuyến khích nó chớ sao lại đâm lưng, đâm hông nó? Ích gì? Để thoả mãn cái tính gì? Tính đó chắc hẳn không có gì là yêu nước, là cách mạng, là cộng sản. Những người có vai trò quan trọng trong công tác mà bị địch bắt giam, tra khảo, nhất là khi cùng bị bắt lại có đông người, mấy ai được như Trần Phú? Mấy ai không khai, không nhận gì hết? Còn như không hề bị bắt, hoặc có bị bắt mà không bị tra tấn, hoặc ít bị tra tấn, đối chiếu, vì lẽ này hay lẽ khác, nên khai ít, nhận ít, thì xin chớ tự cao tự đại, lên mặt lên mày, kết án người này người kia để đề cao mình.
Sự thật trong vụ Deschamps năm 1935 như thế nào?
Giàu có nằm bệnh viện ở bót Catinat không? Làm gì có chuyện đó? Nếu có thì ai thấy? Kể tên một người xem! Nó ở truồng nằm xà lim Catinat hơn 4 tháng. Ai được biệt đãi thì nói người ấy, sao lại bảo là Giàu? Lúc đó ở xà lim Catinat có hàng chục anh em, giấu ai được? Vì sao mà Deschamps bị bắt? Giàu có bán Deschamps không? Hồi 1935 báo La Dépêche của De Lachevrotière[10] có viết như vậy; tôi có đọc. Nhưng Tây nó viết thì tin là đúng hay sao? Hồi đó anh em ở bót Catinat ai cũng biết, người bị bắt mà được Tây ưu đãi không phải là Giàu. Giàu vẫn trần truồng chịu còng, chịu muỗi trong xà lim số 4, như tất cả mọi người. Ở bót, ai ra sao, bị tra tấn tới mức nào, khai báo cái gì, không ai giấu ai được. Qua Khám Lớn lại càng rõ hơn. Vì hễ ai khai cho ai thì cả hai đều bị Tây đem ra cho giáp mặt với nhau. Không một ai là người đồng chí Việt Nam trong vụ Deschamps này đã giáp mặt với tôi tại bót hết. Sáu Vi, Mười Tốt, v.v… hai anh chị này sau thuộc nhóm “Giải Phóng”. Bảy Trân, các anh Phúc, Đức, Khuy, v.v. sau này ở trong Xứ ủy, cùng vụ Deschamps với tôi, có ai nói tôi bán Deschamps đâu, có ai không tín nhiệm tôi đâu, chính họ bầu tôi làm bí thư Xứ uỷ đó; Châu Văn Giáp, Phan Văn Đại, Nguyễn Hữu Thế cũng vậy, trong vụ Deschamps có ai bảo rằng tôi đầu hàng Tây đâu, họ vẫn hợp tác chặt chẽ với tôi về sau. Sau khi từ Catinat về Khám Lớn có kiểm điểm. Có ai tố cáo là tôi bán Deschamps và khai bắt anh chị em đâu! Tôi có trách nhiệm gì trong vụ bắt này không? Nói là hoàn toàn không thì đúng. Tôi không bằng Trần Phú, cái đó thì quá rõ rồi. Báo La Lutte lúc đó cũng viết như vậy. Nhưng bảo rằng tôi bán Deschamps, khai bắt anh em thì sai, không đúng, không đúng chút nào. “Bán” để được cái gì? – Để được cái không được ân xá trong suốt thời kỳ Chính phủ Mặt trận Bình dân, trong lúc hàng trăm tù chính trị và tuyệt đại đa số anh em trong vụ Deschamps (trừ ba: Giàu, Thế, Vi) đều được về trước khi mãn án? – Để được tống đi trại tập trung sau chín ngày mãn án về nhà? Lên Tà Lài tôi được trăm phần trăm anh em tín nhiệm, bầu làm đại diện. Vượt ngục, lập lại Xứ ủy, trăm phần trăm đại biểu hội nghị bầu tôi làm bí thư. Trong số đại biểu này có bốn, năm đồng chí nguyên là trong vụ Deschamps.
Vậy ai khai bắt Deschamps?
Có ai trong những người lãnh đạo Xứ bộ Nam Kỳ hồi 1935 “bán” Deschamps không?
Tại sao người liên lạc của Đảng Cộng sản Pháp bị bắt?
Nói người này, nói người kia thì bằng cớ ở đâu? Trong những vấn đề loại này rất khó mà chứng minh. Nhưng cuối cùng rồi cũng vẫn có thể làm sáng tỏ vấn đề. Tôi nghe phong phanh rằng, hồi 1952, ở Nam Bộ có cuộc chỉnh huấn; rằng trong cuộc chỉnh huấn này có một đồng chí đã nhận hồi năm 1935, chính mình đã khai bắt Deschamps. Hồi 1952 đó, hình như Ban Tổ chức Trung ương Đảng có điện hỏi Xứ uỷ (hay Trung ương Cục) về vấn đề này thì được điện trả lời rằng, khai bắt Deschamps không phải là đồng chí Giàu mà là một đồng chí khác. Tôi không được đọc bức điện. Nhưng có mấy đồng chí được đọc, và họ có can đảm nói lên sự thật ấy trong vài cuộc họp hội nghị cán bộ bàn về lịch sử Đảng bộ thành phố Sài Gòn. Tôi mừng lắm, nên có viết thơ cho người đã được đọc điện của Ban Lịch sử Đảng thành phố Sài Gòn, người đó là Lưu Phương Thanh (Phó trưởng ban Lịch sử Đảng thành phố Hồ Chí Minh).
Tôi xin chép lại ở đây bức thơ của Lưu Phương Thanh trả lời cho tôi:
Kính gửi: Đồng chí Trần Văn Giàu
Thưa đồng chí,
Chúng tôi nhận được thơ của đồng chí hỏi về vụ Deschamps. Vì quá bận rộn mãi tới nay mới viết thơ này trả lời đồng chí được.
Cơ quan chúng tôi không làm công tác tổ chức nên không lưu hồ sơ thuộc về lý lịch của các đồng chí, mà chỉ lưu một số tư liệu có liên quan đến tiểu sử một số ít đồng chí có cương vị lãnh đạo trước đây tại thành phố để nghiên cứu.
Về vụ Deschamps chúng tôi có đọc một tư liệu hiện lưu tại văn phòng Trung ương Đảng, trong đó có một bức điện của Xứ ủy Nam bộ điện trả lời Trung ương hỏi, có nói rõ việc khai ra Deschamps là một đồng chí khác chớ không phải đồng chí Trần Văn Giàu.
Chúng tôi thiết nghĩ Trung ương đã biết rõ việc này thì đồng chí khỏi lo gì. Đảng không đánh giá sai đảng viên.
Kính chúc sức khỏe đồng chí.
Lưu Phương Thanh
Phó Ban nghiên cứu lịch sử Đảng
Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh
Ký tên (đóng dấu)
1.7.1983
“Đồng chí khỏi lo gì”: cám ơn đồng chí Thanh.
Về vấn đề này thì đúng là từ ấy tôi hết lo!
Nhưng trước đây không lo sao được?
Tôi định tới 75 tuổi sẽ viết một hồi ký về những năm 1940-1945, giải quyết mấy vấn đề lịch sử cá nhân. Nhưng hồi 1980-1981, tôi bị cấp cứu tới ba lần. Lo chết mà hàm oan chưa được giải. Cho nên tôi mới viết thư cho Thanh. Chẳng những viết thư cho Thanh tôi còn viết thư cho Bảy Trân mà gia đình ở Phú Lạc đã chứa chấp, bảo vệ tôi nhiều lần, mỗi lần khá lâu. Vùng quê của Bảy Trân đã chứng kiến nhiều hội nghị tôi tổ chức; ở đó, tôi quen tất cả, biết mọi người. Tôi bị bắt hai lần, lần tháng 10 năm 1933; lần tháng 4 năm 1935, trước đó cũng đã lui tới ăn ở tại vùng Bảy Trân mà câu hỏi đầu tiên của mật thám khi chúng bắt được anh là: “Anh ở đâu?”. Tôi không lần nào làm phiền gia đình và chòm xóm của Bảy Trân khi tôi bị bắt. Tôi nghĩ rằng Trân có thể là một nhân chứng của vụ Deschamps, trong đó Bảy Trân và mấy anh em nhà cũng bị bắt giam. Tôi viết thư cho Trân:
“Đồng chí Trân,
Người bảy mươi tuổi hiếm có. Mà bác và tôi đều đã quá bảy mươi, nghĩa là gần đất xa trời lắm rồi. Mấy năm nay, tôi bị cấp cứu mãi, trước khi đi theo Cụ Hồ, Cụ Tôn tôi muốn làm rõ một vài vấn đề chính trị của cá nhân để nhắm mắt yên ổn và để con cháu khỏi thắc mắc vì lời qua tiếng lại.
Vụ Deschamps xảy ra hồi tháng Tư năm 1935, cách đây gần 50 năm rồi, mà vẫn còn mấy điểm mờ. Hồi trước cách mạng tháng Tám, Trân còn nhớ, có một nhóm người nói rằng, tôi, Trần Văn Giàu, khai bắt Deschamps, nhân viên liên lạc của Đảng Cộng sản Pháp và khai bắt nhiều đồng chí khác. Tai tiếng đến nay chưa hết.
Trân là người trong vụ Deschamps. Đồng chí biết gì về việc khai bắt Deschamps thì xin đồng chí viết ra rõ ràng. Giàu có phải chịu trách nhiệm việc Tây xuống tàu Félix Roussel bắt Deschamps không? Nhờ đồng chí nói thật kỹ. Trần Văn Giàu tuy không can đảm tuyệt vời như Trần Phú, nhưng có đến đỗi phụ bạc lòng tin của gia đình, làng xóm Bảy Trân đã đùm bọc tôi nhiều năm không?...”
Tôi được thư trả lời sau đây của Trân (thư viết tay, bản thảo tôi còn giữ):
“Tôi Nguyễn Văn Trân, bí danh Xồi, năm nay 77 tuổi, cán bộ hưu trí hiện ngụ ở 468/19 Võ Di Nguy, phường 3, Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh, là một đảng viên kỳ cựu, có tham gia các phong trào cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương nay là Đảng Cộng sản Việt Nam, từ 1930, sau khi học trường Đại học Đông Phương ở Moscou khoá 1927/30. Nay tôi còn nhớ rõ nội vụ Complot Giàu-Dứt-Deschamps, tháng Tư năm 1935 như sau: trước cái năm 1935, đồng chí Trần Văn Giàu ở đóng trong gia đình bà con dòng họ tôi tại vùng Phú Lạc gần xã Đa Phước, xã An Phú và xã Phong Đước, để công tác lãnh đạo cho Đảng Cộng sản mà tôi có nhiệm vụ bảo vệ, bố trí chỗ ở đóng. Đồng chí Trần Văn Giàu ở vùng tôi rất lâu, bà con họ hàng tôi ai cũng biết, và coi đồng chí Giàu như ruột thịt, cảm mến và thương yêu như bà con trong họ. Khi vụ Deschamps đổ bể, Đảng bộ bị bắt bớ, có một số đồng chí, thậm chí Trung ương Đảng, nghi là vụ bắt bớ đồng chí Deschamps là do đồng chí Giàu khai báo, phản phúc. Sự thật là vô cùng oan ức cho Giàu, mà sự bắt bớ đó do D. tức L. đi học ở Liên Xô về, do Giàu chỉ thị tôi lên rước D. tại nhà Huỳnh Tấn Phát, kiến trúc sư ở đường Legrand de la Liraye góc đất Thánh Tây[11] Sài Gòn, đem về Phú Lạc bố trí ăn ở nơi các nhà bà con họ hàng tôi và tham gia công tác Đảng với chúng tôi. D. đi công tác, bị bắt, bị tra tấn, chịu không nổi mà khai báo, nên các cơ sở bị đổ vỡ, khai bắt luôn Deschamps. D. dẫn một bầy lính kín xuống xét bắt các nhà chứa nuôi và cộng tác gồm mẹ, dì ruột, mợ, cậu, con cậu dì và anh em ruột tôi cả thẩy mấy chục người, không từ người nào, bị tra tấn, bị tù… Cơ sở liên lạc tin cậy lâu nay của Đảng là chùa Cao Đài của dì Bảy tôi bị hết. Chớ đồng chí Giàu không hề khai báo một ai, ở vùng này mặc dầu ở lâu, biết nhiều người, cơ sở. Sau D. cũng phản tỉnh, thú nhận là anh bị tra tấn, chịu không nổi mà khai thôi, khi Giàu ra tù vẫn tiếp tục xuống và hoạt động lại ở vùng tôi, mọi người đều chứa chấp, nuôi dưỡng coi Giàu như ruột thịt. Cho tới bây giờ, Giàu già, về hưu mà mọi người đều cảm phục, nhớ thương, nhắc nhở, mời mọc về quê luôn; họ gọi Giàu là thầy Sáu Trắng…”.
Những bức thư trên, bất đắc dĩ tôi mới chép ra đây, nguyên tôi chỉ muốn giữ làm gia bảo, nhưng bây giờ tôi sắp theo Cụ Hồ rồi, chẳng còn ai nói rằng tôi kiếm cách để trở lại quyền vị; mà phải làm sáng điều còn tối, nên ghi lại đó thôi. Trong công việc làm cách mạng có một số bạn vô tình mà hiểu lầm, và, than ôi, cũng có một vài người cố ý bày chuyện, hay vẽ thêm để hạ anh em hòng được quyền vị. Hạng ấy chẳng đáng kể, nhưng quả là những con sâu làm sầu nồi canh!
Hai bức thư của Thanh và của Trân nói đã rõ, nhưng chưa hết.
Theo chỗ tôi (Trần Văn Giàu) biết, biết chắc lắm, thì ngay cả đồng chí D. tức L. cũng không phải là nguyên nhân đầu tiên của việc bắt đồng chí Deschamps và một số đồng chí Việt Nam hồi tháng 4 năm 1935. Hồi 1935, sau khi bị bắt, trước khi bị đưa ra toà, Vi, Dựt, tôi (Giàu) và sau đó hỏi ý chị Mười Tốt (sau này là Nguyễn Thị Thập), chúng tôi nhất trí với nhau rằng thủ phạm vụ này là thằng thợ Sáu, cũng gọi là Sáu Nhỏ. Thợ Sáu, người Quảng Nam, vào Sài Gòn không rõ từ hồi nào, nói là làm thợ máy và thật ra thì y cũng biết máy ô-tô chút đỉnh. Một hôm, chúng tôi còn ở Khám Lớn (vụ trước) thì Sáu và hai người nữa bị bắt ở Xóm Chiếu vì rải truyền đơn cộng sản, họ bị tù ba đến sáu tháng. Ai vô tù, bọn tôi cũng huấn luyện chính trị. Vi (Trần Văn Vi tức Biện Vi) lo dạy học cho ba tay thợ mới vào. Trong ba tay này, Sáu nhanh nhảu hơn hết, chịu huấn luyện đến nửa năm đã có thể làm một cán bộ trung cấp. Vi và Sáu mãn tù gần cùng một lúc. Ra tù, Vi hoạt động tại Sài Gòn, cộng tác mật thiết với Sáu. Vi làm Xứ ủy viên, Sáu làm cán sự thành, sau đó kiêm cả liên lạc quốc tế vì nó biết nói chút ít tiếng Pháp, tiếng Quảng Đông; hàng ngày nó đối phó là chồng chị Mười Tốt, khi ấy làm việc ở hãng dầu Phú Xuân mà nhà thì ở Bàn Cờ. Trước khi tôi phụ trách cả Bí thư Xứ ủy và liên lạc quốc tế (những mối liên lạc này chủ yếu do tôi tạo lập từ khi tôi ở Moscou về Sài Gòn). Sau đó, Dựt ở Tàu về Sài Gòn, tôi giao liên lạc quốc tế cho Dựt (1934), và Vi giới thiệu thằng Sáu Nhỏ cho Dựt để lên xuống tàu trực tiếp với các đồng chí Pháp, Trung Quốc, chớ để Dựt trực tiếp thì dễ lộ bí mật lắm. Công việc bình thường, tàu bè qua lại, báo cáo chỉ thị và tài liệu gửi đều. Tôi ra nước ngoài vài tháng. Khi tôi trở về Sài Gòn, tháng 3 năm 1935, thì Sáu Nhỏ đón tôi; có Vi có Dựt nữa. Vi bảo Sáu Nhỏ đem tôi gửi tạm một nơi trước khi bố trí chỗ ở lâu dài. Sáu Nhỏ đem tôi lại ở nhà anh sốp-phơ của một thằng Pháp xếp hãng rượu Bình Tây, thằng Pháp thì ở đường bây giờ là Võ Văn Tần; sốp-phơ của nó ở Bàn Cờ, từ đường Verdun (bây giờ là Cách mạng tháng Tám) vô không đầy một trăm thước, một căn phố gỗ lợp ngói, nhà không có ống nước, phải xài nước giếng. Tôi về nhà mới một buổi tối, liền đã sanh nghi, bởi vì không rõ người bên cạnh là ai mà vách bổ kho[12] cho phép người bên cạnh trông sang và nghe nói. Không thể ở được. Tối hôm đó, tôi ngồi ngoài sân, sân không đèn điện, chỉ có đèn trời, thấy người nhà bên cạnh ra cùng ngồi chơi mà sao anh ta lại chọn hai chỗ ngồi lạ lùng, ngó thẳng mặt và ngó cạnh mặt. Chắc nó nhìn theo hình chụp ở bót để xem tôi là ai, có đúng đối tượng nó phải bắt không? Đêm ấy tôi không ngủ, đợi tới khuya, lúc có người ta đi gánh nước thì tôi mặc quần xà lỏn, xách gàu, xách thau ra giếng. Với ý định là “giông” với cái xà lỏn đó, lẩn vài phút trong bụi rậm của Bàn Cờ, trong xóm ngõ quanh co như trận đồ bát quái thì thánh mà tìm ra! Nhưng, tôi vừa đặt gàu xuống miệng giếng thì một bầy lính kín đến còng tay tôi. Bị bắt lần này khác với hai lần trước, cò không hề hỏi tôi vậy tôi ở nhà ai, ai đem lại ở nhà đó, chủ nhà làm gì, tên gì. Cũng không thấy Tây nó bắt chủ nhà và thằng thợ Sáu. Thế là rõ. Mười ngày sau, Deschamps và một đồng chí Trung Quốc (làm tàu khác) bị bắt. Thợ Sáu vẫn an toàn! Anh ta lại vào thăm tụi tôi khi tụi tôi bị thành án. Lạ một điều, theo lời chị Bảy Huệ (sau đó là Phó trưởng Ban Tổ chức), thợ Sáu vẫn tiếp tục hoạt động và nhà nó lại là chỗ tá túc của một số anh chị em ta đang công tác! Chị Bảy Huệ nói rằng, lúc đó anh chị em đã nghi ngờ sự đi về của thợ Sáu mà không biết gì rõ hơn.
Đầu đuôi là như vậy. Tụi tôi Vi, Dựt, Giàu đều tính chắc rằng thằng Sáu là người của Sở Mật thám gài vào. Vậy thì chuyện rải truyền đơn bên Xóm Chiếu năm trước là một sự giả mạo, một cái bẫy. Mà tụi tôi, nhất là Vi, không điều tra rõ lý lịch của Sáu; lại ai nấy đều thích có một anh thợ máy trong hàng ngũ để làm công vận cho nên Sáu mau lên, lên cao, thế mới chết! Chính nó làm ra cớ sự. Chính nó dâng Deschamps (và đồng chí Trung Quốc mà tôi quên tên) cho Tây. Mối liên lạc mà tôi dày công đặt từ đầu 1933 bỗng bị đứt đoạn. Có lẽ theo dõi báo Tây, anh em đồng chí Đảng Cộng sản Pháp thắc mắc về tôi, sao khỏi? Nhưng, các đồng chí ơi, có phải tại tôi đâu? Việc đã đổ bể, bây giờ nói tại anh này thiếu cẩn thận, anh kia thiếu điều tra, ích gì? Ngay tôi là một thằng không phải không có chút mưu trí, tại sao tôi nghe lời Vi để cho thợ Sáu dẫn tôi lại một nhà người tôi chưa hề biết, vào một nhà tôi chưa hề tới? Sao tôi lại ngốc đến thế? Sao tôi không về Phú Lạc, Bàu Lăng, Chợ Gạo, thiếu gì chỗ?
Đầu đuôi như vậy. Deschamps bị bắt, không phải tại tôi, chắc chắn cũng không phải tại Dựt mà do thợ Sáu, Sáu Nhỏ là nhân viên của Sở Mật thám chui vào hàng ngũ của ta.
Ấy vậy mà, khi cần đạt một mục đích “chính trị”, mục đích phá hoại hay cản trở công tác đang phát triển mạnh của Xứ ủy Nam Kỳ mà chính tôi làm bí thư thì người ta đồn đại, báo cáo rằng “Giàu bán Deschamps”, “khai bắt đồng chí”. Bán để được cái gì? Để không được “ân xá” suốt từ 1936-1939 khi hàng trăm, (hàng ngàn) anh em, chị em được ra tù? Để ở hết án không thiếu một ngày? Để khi mãn tù, ra được chín ngày thì lại bị bắt đem đi trại tập trung?
Vu cáo ghê gớm quá! Đê hèn quá! Nhưng trong đảng bộ Nam Kỳ, trong Xứ ủy Nam Kỳ, không ai không tín nhiệm tôi. Cho nên tôi quyết tâm đền đáp cái nghĩa lớn ấy bằng cách dám hy sinh tất cả, suốt đời phục vụ cách mạng, phục vụ quê hương. Nếu có những phút yếu đuối, muốn “thôi cho rảnh”, muốn, “đi nơi khác làm ăn”, thì đó chỉ là tạm thời, thoáng qua.
Vu cáo lớn thứ hai: “Tây tổ chức vượt ngục Tà Lài của Giàu”. Lý do: “Mọi đoàn người vượt ngục đều bị bắt lại, chỉ có Giàu và đồng bọn thoát khỏi”.
Vu cáo này được truyền ra ở Nam Kỳ sau cái vu cáo tôi vừa trình bày ở bên trên, và trước một ít cái vu cáo rằng Giàu là tay sai của Nhật, nó phổ biến nhất là vào giữa năm 1945, mà người ta đã xầm xì xầm xít từ đầu năm kìa sau khi biện Vi ra khỏi căng Bà Rá và lập “Xứ ủy Việt Minh” ở Mỹ Tho với năm, ba đồng chí mà anh ta là bí thư.
Sao lạ vậy? Vượt ngục được là nhờ Tây tổ chức! Lý do gì mà “hay” đến thế? Trước nay, biết bao cuộc vượt ngục thành công? Tưởng đâu là chuyện tầm phào bậy bạ của vài anh chàng nào đó không đáng quan tâm. Thế mà, đến cuộc chỉnh huấn hồi mùa đông 1951-1952 ở Tân Trào, ông Hoàng Quốc Việt[13], một đêm, – người ta có cái thói “hỏi cung ban đêm” –, tôi được Việt mời lên văn phòng của ban phụ trách. Có mặt Việt, vài anh cố vấn Tàu trẻ bân, một phiên dịch cho cố vấn, Việt hỏi tôi:
– Sao, hồi 1941 anh ra khỏi căng Tà Lài như thế nào, nói lại hết cho chúng tôi nghe. Pháp nó tổ chức cho anh đi làm sao, kể lại cho rõ, cho đúng. Người Nam Bộ anh hùng, có gì nói nấy, không sợ ai, đúng nói, sai cũng nói. Nói đi!
Nghe Việt bảo, như sét đánh bên tai! Nói thật, nếu không phải là chỉnh huấn, nếu là ngày thường mà Việt bảo như vậy, tôi sẽ đặt cho anh một câu hỏi: “Anh hỏi thật hay nói chơi?”. Nếu Việt trả lời “thiệt chớ”, thì tôi đã cất cái mũ văn nhân của tôi vào túi rồi. Đó là vào năm 1952, hơn chín năm sau cuộc vượt ngục Tà Lài, bảy năm sau khởi nghĩa tháng Tám! Như vậy là người ta từ đó đến nay vẫn không trông thấy cái phi lý của lời vu cáo ở nhóm “Giải Phóng” của biện Vi mà ra. Trái lại, anh em phụ trách tổ chức và lãnh đạo vẫn ngờ vực rằng Pháp tổ chức cuộc vượt ngục Tà Lài của tôi! Trời ơi là trời!
Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông Hoàng Quốc Việt (quần áo sẫm), viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân tối cao, tiếp phái đoàn VKSNDTC Trung Quốc.
Có cái điều khá hài kịch trong cái chuyện bịa này là Hoàng Quốc Việt không rõ đã học của ai cái thứ khiêu khích trẻ con này: “Anh là người Nam Bộ anh hùng, có gì nói nấy, không giấu giếm, nói cái sai của mình là một sự can đảm; nói đi, Pháp nó tổ chức cho anh vượt ngục thế nào?”. Cái thứ khiêu khích trẻ con còn được kèm theo sau đó một sự đe doạ; cũng không lấy gì làm “người lớn”: “anh em người ta để cho mình sống tới nay thì may lắm rồi! Hãy nói thật đi!”. À té ra Việt và một bọn nào đó đã có tính “khử” tôi thật! Mà khử chưa được, hoặc còn do dự! Việt nói tới đây thì tôi đã nổi giận xung thiên rồi. Nhưng đây là chỉnh huấn, với phương châm là thành thật, nói theo lối Tàu khi ấy là “thực sự cầu thị”. Biết đâu người ta chẳng có gì ác ý mà thành thật, vậy ta hãy cứ bình tĩnh mà trả lời. Tôi đáp:
“Anh Việt à!
Vượt ngục Tà Lài lần đó không phải chỉ có mình tôi, có nhiều anh em, trong đó có cả Tô Ký, bây giờ là khu trưởng kiêm chính uỷ Khu 7, là người trong phe “Giải Phóng”. Vậy các anh điện hỏi Tô Ký đi! Hỏi thêm Phúc, Đức, Khuy, Tỵ, hàng chục anh em cùng ở căng Tà Lài, cùng vượt ngục, cùng công tác và bây giờ nếu còn sống mà tôi biết là còn sống thì đều có cương vị lãnh đạo cả. Hỏi đi thì rõ, chớ vu cáo tôi, mạt sát tôi như thế, giữa rừng Tân Trào này, tôi thanh minh cách nào được, chỉ có “thề” mà thôi, mà “thề” thì tin sao được?”
Việt “quần” tôi mãi tới quá nửa đêm!
Sáng hôm sau tôi ra ngồi bên bờ sông Đáy gần đó. Ngẫm nghĩ mà cười cho đời! Mình hy sinh hết tuổi trẻ của mình (năm 1952 này tôi đã 41 tuổi) bỏ cha mẹ, vợ con, gia tài, ra đi làm cách mạng; lúc không còn mấy ai gánh vác việc nước, việc Đảng, mình liều thân ra gánh vác và gánh vác được, khởi nghĩa thành công, để rồi bị Hoàng Quốc Việt và những người phụ trách tổ chức bảo rằng Pháp tổ chức cho mình vượt ngục để phá cách mạng! Trước mình, trong lịch sử Việt Nam và thế giới, sau mình, đã có và còn mấy người? Tôi đã học sử; tôi đã đọc vô số truyện trung nịnh, chân giả, thì tôi còn lạ gì với cái vụ vu cáo mà tôi đang bị. Dù sao một câu hỏi từ đêm qua lởn vởn trong đầu tôi: “Đời còn đáng sống không?”. Có chim, có cá rồi, thì ná nơm nếu chưa nhúm bếp thì cũng dễ mọt ăn. “Đời còn đáng sống nữa không?”. Sông Đáy[14] không như sông Lô, sông Thao; nó cạn quá; mùa này ít nước quá, xăn quần lội qua được. Vả lại, người chết là người thua, người chịu thua, vô tình đó là chịu nhận cái bịa là cái thật. Tôi lại về trại, tiếp tục ngồi vào tổ kiểm điểm.
Chắc là Việt đã có dịp để hỏi Tô Ký và anh em khác nữa rồi, cho nên tôi mới được yên. Hay là “khỏi lỗ vỗ vế”[15] ta có quyền vu cáo, vu cáo rồi, thấy sai cũng không cần đính chánh đính phó gì cả, cái thói chỉnh huấn kiểu Mao là như thế! Thảo nào mà tôi nghe Nguyễn Khánh Toàn kể lại khi chỉnh huấn ở Diên An có khối đồng chí kỳ cựu đâm đầu xuống giếng tự tử. Mà giếng ở Diên An thì sâu lắm!
Chuyện vượt ngục Tà Lài rõ quá; vượt ngục vì sao, vượt ngục với ai, vượt ngục để làm gì, tôi đã kể rõ. Không cần nói lại. Vu cáo tới mức đó, mà xem vu cáo dễ như chơi, như đùa. Những kẻ vu cáo, khiêu khích, hăm doạ như kiểu họ Hoàng và tay chân của ông ta thì cứ điềm nhiên như không có trách nhiệm gì. Sau khi giải phóng được nửa nước (1954), Tào Tỵ, Tô Ký, v.v… cựu trại viên Tà Lài đều có mặt ở Hà Nội. Sao người ta không bảo các anh làm sáng tỏ vấn đề? Phúc ở lại trong Nam không tập kết mà vẫn liên lạc được dễ, sao không đánh điện hỏi Phúc? Tưởng chừng như người ta cứ muốn để lơ lửng cái vu cáo khốn nạn để cho người bị vu cáo càng khổ thì họ càng bằng lòng, chớ họ không chịu nhận là đã nói bậy, nói láo có toa rập với nhau. Làm gì có việc ông Giàu đi săn nai, săn heo với sếp Tây nhậu nhẹt trong lúc anh em ở trong căng khốn cùng, làm gì có chuyện Pháp tổ chức cho Giàu, Tô Ký, Phúc (Dương Quang Đông), Văn, Trung, Nhâm, Đức, Giác trốn ra để phá Đảng Cộng sản? Dựng đứng lên như vậy mà có một vài ông lớn tin mới là lạ cho. Anh em Tà Lài đến nay hãy còn sống hàng mấy chục người, họ đã chết hết đâu?
Chú thích của người biên tập:
1 Chủ nghĩa thủ tiêu: Vì những lí do lịch sử của Đảng xã hội Nga trước Cách mạng tháng mười (đấu tranh giữa phe bôn-sê-vic và phe men-sê-vic), danh từ “chủ nghĩa thủ tiêu” đã trở thành một điều cấm kỵ tuyệt đối (hao hao giống khẩu hiệu “đổi mới mà không đổi màu” của phe bảo thủ trong ĐCSVN đầu thập niên 1990). Người ta hiểu tại sao Trần Văn Giàu chống lại chủ trương “thay đảng bằng Việt Minh” (một cách hiểu méo mó chủ trương Mặt trận Dân tộc Thống nhất của Nguyễn Ái Quốc, từ những người trước đó đã được nhồi sọ về “chủ nghĩa dân tộc” mà Nguyễn Ái Quốc bị quy kết). Và cũng hiểu thêm những khó khăn mà Hồ Chí Minh gặp phải ở Moskva khi Stalin tra hỏi tại sao đã “giải tán Đảng cộng sản” (thực ra là rút vào vòng bí mật) và hạch sách “giữa cái ghế của giai cấp vô sản và cái ghế của giai cấp tư sản, đồng chí chọn cái ghế nào mà ngồi?”).
2 Xà búp: cái chĩa (có hai chìa) dùng để đâm cá.
3 Giường ruột gà, nệm dày một chống: người biên tập đoán mò (sau khi tham khảo các từ điển phương ngữ Nam Bộ không ra, và gửi “meo” tứ phương) là giường có giát (sommier) bằng những dây lò xo nhỏ (như ruột gà), nệm (matelas) thì dày bằng một chống tay (15 cm?!!!). Rất mong được các thức giả chỉ giáo.
4 Lý Chính Thắng: tên là Nguyễn Đức Huỳnh (1917-1946) quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, hoạt động ở Nam Bộ, tham gia thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn. Tháng 3-1945 được phái ra Bắc để liên lạc với Trung ương, trở về kịp thời. Kháng chiến bùng nổ, ông hoạt động trong ngành giao thông liên lạc vùng Sài Gòn. Bị giặc Pháp bắt, tra tấn, mất tại bệnh viện Chợ Rẫy ngày 30.9.1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh ngày 25.4.1949 truy tặng Lý Chính Thắng huân chương Độc lập hạng nhì (theo Từ điển Nhân vật Lịch sử).
5 Giạ: đơn vị đo lường dung tích truyền thống ở Nam Bộ, thường dùng để đong lúa gạo, muối. Thay đổi từng vùng, chính quyền thực dân Nam Kì quy định là 40 lít, nhưng có nơi một giạ bằng 20 lít.
6 Thời thuộc địa, Chasseloup Laubat là trường trung học dành cho nam học sinh người Pháp, dân Tây hay con cháu những gia đình khá giả (giống Lycée Albert Sarraut ở Hà Nội). Thời kì 1954-1975, đổi tên là Jean-Jacques Rousseau, dạy theo chương trình trung học Pháp. Sau 1975, thành trường trung học Lê Quý Đôn.
7 Pierre Sémard (1887-1942): lãnh đạo công đoàn và cộng sản, bị phát xít Đức giết hại. Từng giữ chức vụ tổng bí thư Đảng cộng sản Pháp (1924-1928), ủy viên Ban bí thư Quốc tế Cộng sản. Cuối thập niên 1920, có lời xì xầm ông làm cho mật thám Pháp. Buồn bực, ông xin rút khỏi những trách nhiệm chính trị, chỉ hoạt động công đoàn.
8 men-sơ-vich, sr: cùng với bôn-sơ-vích (tiếng Nga là đa số), men-sơ-vich (thiểu số) và S.R. (xã hội cách mạng) là những xu hướng trong đảng xã hội Nga (1905-1917). Xu hướng bôn-sơ-vich (của Lenin) liên minh với phái tả của S.R., làm Cách mạng tháng mười, loại trừ men-sơ-vich, rồi S.R.
9 năng thuyết bất thành hành: nói giỏi, làm không thành.
10 De Lachevrotière: Henri Chavigny de Lachevrotière (1883-1951) là nhân vật thế lực trong giới thực dân ở Nam Kỳ. Sinh tại Sài Gòn, con một nhà quý tộc Pháp đã sống ở thuộc địa Bắc Mỹ và Trung Mỹ trước khi tới Nam Kỳ, mẹ là một phụ nữ Việt Nam gốc Bắc Kỳ. Chủ tờ báo Pháp ngữ La Dépêche d’Indochine (lớn nhất Đông Dương, số in 3500), chủ đồn điền cao su ở Campuchia và Nam Kỳ. Lập trường thực dân kiên định, từng luận chiến kịch liệt với André Malraux và luật sư Paul Monin, ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương sau 1945. Chết trên xe hơi bỏ mui, do một quả lựu đạn ném từ một chiếc xe hơi mang biển số ngoại giao ở Sài Gòn nên không rõ thủ phạm là “quân khủng bố” (ý nói Việt Minh) hay “lực lượng ngoại lai” (hàm ý Mỹ lúc đó đã bắt đầu nhảy vào Việt Nam).
11 Đường Legrand de la Liraye góc đất thánh Tây: Legrand de la Liraye sau đổi thành Phan Thanh Giản, nay thành Điện Biên Phủ; đất thánh Tây là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi nay đã trở thành công viên Lê Văn Tám.
12 Vách bổ kho: vách được đóng bằng những tấm ván ngang, xếp chồng lên nhau, cạnh dưới của tấm trên đè lên cạnh trên của tấm dưới, nhờ đó gió có thể thổi qua mà nước mưa không hắt vào được.
13 Hoàng Quốc Việt: tên thật là Hạ Bá Cang (1905-1992), quê Đáp Cầu, Võ Giàng, Bắc Ninh. Học trường Kĩ nghệ Thực hành Hải Phòng, bị đuổi vì tham gia bãi khóa phản đối thực dân kết án tử hình chí sĩ Phan Bội Châu. Thuộc thế hệ các chiến sĩ cộng sản đi “vô sản hóa” (làm thợ nguội, thợ mỏ, thợ cơ khí). Sau khi bị đuổi khỏi nhà máy, Đảng cử ông vào Nam Kỳ hoạt động. Ủy viên Ban chấp hành trung ương (lâm thời) tháng 10 năm 1930, bị bắt, kết án tù chung thân, đày ra Côn Đảo. Được trả tự do năm 1936 (nhờ Mặt trận bình dân Pháp) nhưng buộc trở lại Bắc Kì. Bí thư Xứ ủy Bắc Kì năm 1937. Là một trong số ít những người lãnh đạo (cùng với Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ) thoát khỏi cuộc khủng bố và đàn áp của Pháp năm 1930-40. Năm 1941, tại Hội nghị Pắc Bó, được cử vào Ban chấp hành Trung ương và Ban thường vụ (tương đương với Bộ chính trị ngày nay). Sau Cách mạng tháng Tám, được cử vào Sài Gòn giải quyết những tranh chấp trong nội bộ xứ ủy Nam Bộ. Được bầu vào Bộ chính trị tại Đại hội II (1951). Sau thất bại Cải cách ruộng đất, chuyển sang công tác tòa án, mặt trận công đoàn.
Hoàng Quốc Việt là điển hình đảng viên từ ngày trứng nước của Đảng cộng sản, vào tù ra khám, tuyệt đối trung thành với lý tưởng, nhưng hẹp hòi, cứng rắn, thiếu trí tuệ, “không mao-ít mà mao nhiều”. Ứng xử của ông trong “vụ Trần Văn Giàu” – qua chứng từ của đương sự trong thiên hồi ký này – cho thấy rõ khía cạnh đó. Theo nhiều nguồn tin: tháng năm 1941 ở Pắc Bó, Hoàng Quốc Việt đã hỏi Nguyễn Ái Quốc chứng minh thư và giấy ủy quyền của Quốc tế Cộng sản. Điều này không có gì lạ, nếu ta biết rằng trong thập niên 30, Nguyễn Ái Quốc đã bị phê phán là “dân tộc chủ nghĩa”, “cải lương chủ nghĩa”, không theo đúng đường lối của đảng. Nếu lúc đó, Ban chấp hành ĐCS không bị thực dân tiêu diệt gần hết, và nếu Trường Chinh không tuân phục sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, thì gần như chắc chắn Nguyễn đã phải chịu chung số phận của những nhà lãnh đạo phong trào giải phóng ở hải ngoại trở về (cộng sản ở Hy Lạp năm 1945, không cộng sản ở Algérie năm 1962), không được cho về vườn thì cũng bị vô hiệu hóa.
14 Sông Đáy: chính xác hơn, là Sông Phó Đáy, chi lưu của Sông Lô ở tả ngạn. Sông Phó Đáy chảy qua Tân Trào. Sông Phó Đáy vào Sông Lô được khoảng 2 km thì Sông Lô nhập vào Sông Hồng (đoạn này, Sông Hồng còn được gọi là Sông Thao). Đừng nhầm Sông Phó Đáy ở trung du Bắc Bộ này với Sông Đáy, phụ lưu của sông Hồng, tách khỏi Sông Hồng ở gần Hà Nội rồi chảy ra Vịnh Bắc Bộ, song song với Sông Hồng. Ở đoạn vừa tách khỏi Sông Hồng, Sông Đáy còn có tên là Sông Hát / Hát Giang.
15 Khỏi lỗ vỗ vế: câu tục ngữ đầy đủ là “dâm bôn khỏi lỗ vỗ vế”, vừa giở trò dâm dục xong là vỗ đùi, bỏ đi, bất kể sự đời.
Tiếp theo 3 Phần thứ Tư
Phần thứ tư
TIẾN TỚI TỔNG KHỞI NGHĨA (tiếp theo)
7. “Buồn ngủ gặp chiếu manh, hay là việc tổ chức Thanh niên Tiền phong
Sau cuộc đảo chánh Nhật 9/3, bọn tôi lần lượt đặt ra cho Xứ bộ mấy nhiệm vụ cần kíp:
Một là, nhiệm vụ tuyên truyền; sự tuyên truyền lúc này nhằm vào mấy đề tài lớn sau đây:
- Đảo chính 9 tháng 3 và việc Nhật tuyên bố Việt Nam (Trung, Bắc) độc lập không phải là một nghĩa cử của Nhật, mà là hành động vì lợi ích ích kỷ của Nhật. Nhưng hành động đó, khách quan góp phần tạo ra cho nhân dân ta một số điều kiện thuận lợi để ta đẩy cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc tới trước.
- Chính phủ Bảo Đại lập ra, dầu có gồm những nhân sĩ trí thức, “nhân sĩ” nào đi nữa, cũng chỉ là một chính phủ bù nhìn tay sai của Nhật, chính phủ đó, dầu các cụ Thượng có thiện chí đến đâu, cũng sẽ không làm được việc gì cho đất nước và nhân dân đâu. Phải chống nó như chống tay sai của đế quốc Nhật, chứ không phải ủng hộ nó, giúp sức nó; cũng không phải chờ xem nó làm gì.
Nội các Trần Trọng Kim, từ trái sang phải: Hoàng Xuân Hãn, Hồ Tá Khanh, Trịnh Đình Thảo, Trần Trọng Kim (bị micro che mặt), Vũ Ngọc Anh, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Vũ Văn Hiền, Phan Anh, Nguyễn Hữu Thi (ảnh Trung Bắc Chủ Nhật, 20.5.1945, Thư viện Quốc gia Pháp).
- Nhật cố giữ Nam Kỳ làm thuộc địa, như Triều Tiên, như Lưu Cầu, như Đài Loan. Làm chủ Nam Kỳ thì khống chế toàn bộ Đông Dương. Nhật không muốn một nước Việt Nam độc lập thống nhất. Nó chống lại sự thống nhất của dân tộc Việt Nam. Trái lại thì thống nhất, độc lập là mục tiêu lớn của cách mạng. Phát xít Nhật là đối tượng của cách mạng Việt Nam.
- Phe Trục sẽ hoàn toàn bị đánh bại. Cách mạng sẽ thành công trong một loạt nước, trong đó phải có nước Việt Nam. Việt Nam phải ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới bằng một cuộc cách mạng thắng lợi; nếu không làm được cách mạng thắng lợi trong thời cơ này thì ách nô lệ sẽ còn kéo dài không biết tới bao giờ.
Hai là, nhiệm vụ tổ chức: nhiệm vụ tổ chức gồm có:
- Tổ chức Đảng mau chóng lớn mạnh, nối liên lạc hệ thống với Bắc, Trung. Đồng thời, tập hợp tất cả các đồng chí cũ ẩn náu bấy lâu nay ở căng mới về, ở tù mới được thả, đưa anh em vào công tác cho thích hợp với khả năng của họ, với yêu cầu của Đảng. Cách mạng là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân, lúc này không ai được thoái thác, không ai được chần chừ lo làm ăn; ai cũng phải đem hết sức lực, dùng hết thời giờ cho Đảng. (Riêng tôi có dặn các đồng chí là lúc này mà đồng chí cũ nào không chịu hoạt động thì kể như không còn là đảng viên nữa).
- Tổ chức hội quần chúng công, nông, binh, thanh, phụ, lão cho mạnh nhất, rộng nhất, hoạt động nhất xưa nay (hơn cả thời kỳ Mặt trận bình dân gấp bội), đưa ý thức chính trị, cách mạng vào mỗi đoàn thể, mỗi người. Tổ chức mặt trận bao gồm các chánh đảng yêu nước, các cánh tôn giáo tiến bộ và yêu nước, các hội quần chúng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đưa các tổ chức quần chúng ra hoạt động nửa công khai và công khai để cho tổ chức và phong trào có thể phát triển nhảy vọt thì mới kịp với tình hình. Trong tình hình này, tổ chức và phong trào mà chỉ phát triển từ từ thì sẽ hoá ra lạc hậu, trễ tràng, bất lực. Tổ chức phải tính với con số hàng trăm ngàn, hàng trăm vạn, chớ không phải tính với con số hàng ngàn, hàng vạn như trước đây.
- Đặc biệt chú trọng vào Sài Gòn và ngoại ô phụ cận. Trong Sài Gòn, thì đặc biệt chú trọng vào công vận, thanh vận, binh vận (xem đó là cái kiềng ba chân của một phong trào cách mạng bền vững, là cái lõi của sự tập hợp “ một đạo quân chính trị ”, lớn nhất xưa nay). Phải tổ chức tự vệ chiến đấu mạnh mẽ, hướng tới thành những lực lượng xung kích như chỉ thị của Lênin hồi tháng 10 năm 1917, ở Nga. Sự phát triển của tự vệ chiến đấu và xung kích phải đồng nhịp với sự phát triển của hội quần chúng và phong trào đấu tranh.
Phải làm sao để trong một thời gian không lâu, mấy tháng thôi, ở Sài Gòn và ngoại ô, Đảng Cộng sản (và các tổ chức yêu nước xung quanh Đảng) trở thành mạnh hơn tất cả các chính đảng và giáo phái hợp lại; đường lối làm cách mạng giải phóng dân tộc, lập chính quyền dân chủ cộng hoà phải chiếm ưu thế trong tư tưởng của quảng đại đồng bào ta. Ta có điều kiện và khả năng để đạt mục tiêu cao ấy bởi vì tình hình chiến tranh thế giới, tình hình chính trị xã hội trong nước và tổ chức của Đảng, cũng như các đoàn thể đã phát triển khá rồi; có thể đoán trước là thuận lợi mỗi lúc mỗi nhiều. Các đồng chí tự tin, tin dân và nỗ lực hết mức thì làm được. Tôi giải thích hàng chục lần ở hàng chục cấp ủy và địa phương, cố làm cho các đồng chí thấy được nhiệm vụ phải lớn lên cực nhanh như Phù Đổng Thiên Vương, bằng không thì sẽ không có cách mạng, cách mạng chỉ ở trên giấy mà thôi.
Nói thì dễ, thì xuôi như vậy, chớ làm cho được thì khó, rất khó. Không ít người bảo rằng đó chỉ là ảo tưởng, mơ mộng, chuyện Phù Đổng chỉ là một thần thoại. Nhưng số đông các đồng chí trả lời rằng: đó là thần thoại Việt Nam; nghĩa là nhân dân Việt Nam muốn tồn tại, muốn tên nước Việt Nam đừng bị bôi bỏ trên mặt địa cầu, thì dân Việt Nam phải thật có “phép” Phù Đổng chớ không phải chỉ ước mong mà thôi. Nhân dân Việt Nam tới nay vẫn tồn tại, tức hiện tượng Phù Đổng phải là một sự thật lặp đi, lặp lại nhiều lần. Đại Việt đánh bại quân Nguyên là một hiện tượng Phù Đổng trong lịch sử nước nhà. Vậy khó thì rất khó, nhưng làm được, chắc được. Miễn là các đồng chí đều nỗ lực đến mức cao nhất, thì khó mấy cũng không sao.
Khó khăn đáng sợ nhất, chưa phải là Nhật, là đại Nhật Bản với số quân ở Đông Dương sáu, bảy hay mười vạn người có quá đầy đủ súng đạn, thừa can đảm, thạo chinh chiến; bởi vì quân Nhật sắp thua rồi, ta đâu cần phải đánh đồn phá luỹ của chúng nó, tuy không phải có lúc phải làm như vậy ở nơi này, hay nơi nọ. Khó, khó khăn thực tế đáng chú ý nhất mà nhất thiết phải vượt qua là các giáo phái ở Nam Kỳ lớn lắm, và thực ra đó là những chánh đảng hoạt động dưới hình thức tôn giáo. Cao Đài đông hàng triệu người, tỉnh nào cũng có, họ tập trung ở Sài Gòn đến mấy vạn làm công nhân và làm binh lính, chính phe của Trần Quang Vinh lấy danh nghĩa là Đảng Phục Quốc. Hoà Hảo đông hàng chục vạn người, nhiều nhất là ở Hậu Giang, họ theo gương Cao Đài tập trung lên Sài Gòn cũng khá đông đến nhiều ngàn. Hoà Hảo hoạt động lấy danh nghĩa là Dân Xã Đảng. Giáo phái Tịnh độ cư sĩ, không đông bằng hai nhóm trên mà đã có hàng vạn, họ không tập trung lên Sài Gòn, nhưng họ làm cơ sở quần chúng cho Quốc Gia Đảng (phân biệt với đảng Quốc Gia Độc Lập). Phe Trốt-kít từ 1930 nằm im lìm, bây giờ sau 9 tháng 3 đã bắt đầu cựa quậy lại. Đám này không có sức lực gì đáng kể nhưng có ý đồ tập hợp tất cả các lực lượng chống cộng, chống đệ tam. Một cánh Trốt-kít, cánh Hồ Vĩnh Ký, Huỳnh Văn Phương nhảy ra cầm đầu Sở Mật thám và Sở Cảnh sát Nam Kỳ dưới chế độ Nhật, tự tạo ra một cái thế mà họ cho là thuận lợi để bảo vệ cho mấy cánh khác hoạt động. Nghe phong phanh, họ bàn tới việc vận động lập “Mặt trận quốc gia thống nhất”. Tất cả những tổ chức kể trên đều thân Nhật, đều được Nhật sử dụng. Từ sau 9 tháng 3, họ tăng cường hoạt động. Còn những tổ chức có năm, bảy trăm, vài ba ngàn người thì nhiều lắm, quây quần xung quanh Sở Sen đầm Kempeitai của Nhật.
Ta phải làm gì để trở nên mạnh cho thật nhanh, và mạnh hơn tất cả các tổ chức trên cộng lại?
[Trước khi trả lời cho câu hỏi đó tôi muốn thêm vào đây một việc xảy ra sau 1995, nghĩa là 50 năm sau Cách mạng tháng Tám, việc ấy liên quan sâu xa đến việc người ta vu cáo tôi và Xứ ủy Nam Kỳ là “không chịu theo đường lối, chỉ thị của Trung ương”, cứ theo đường lối riêng của mình. Năm 1995, Nhà xuất bản Chính trị có cho ra đời hai quyển sách về Cách mạng tháng Tám; một quyển có tính chất tổng kết, một quyển có tính chất hồi ký. Cả hai đều có đóng góp tốt. Trong quyển có tính chất hồi ký, người đọc thấy có bài của Thép Mới[1] nói rằng: Trung ương họp ở Đình Bảng (Bắc Ninh) thì đêm ấy, ở Hà Nội (9/3) Nhật đảo chánh. Trung ương ra nghị quyết “Nhật – Pháp đánh nhau, hành động của chúng ta”; đồng chí Trường Chinh liền đem nghị quyết đó sang nhà in Cờ Giải phóng in ra nhiều bản, một bản trao cho đồng chí Nguyễn Thị Thập và đồng chí Dân Tôn Tử (tức Trần Văn Vi) đem về Nam Bộ. Nếu vậy là chỉ thị rất kịp thời!... Tôi xin trễ tràng cải chính (mà cải chính để làm gì?). 9 tháng 3 năm 1945, chị Mười Thập còn ở Mỹ Tho (Nam Bộ), anh Vi (sau trong kháng chiến mới lấy tên là Dân Tôn Tử còn ở căng (trại tập trung) Bà Rá! Ngày 10 tháng 3, tù nhân căng Bà Rá mới ra khỏi căng. Thì làm gì hai đồng chí ấy đã có mặt ở Hà Nội để lãnh chỉ thị “Nhật Pháp đánh nhau hành động của chúng ta”. Chị Mười tới tháng 7 mới ra Bắc. Dân Tôn Tử tới năm 1954 mới ra Bắc. Vậy Thép Mới lấy “tin tức” ở đâu? Hay là, hoặc “vô tình” hoặc “cố ý” đưa ra một “bằng cớ” là Xứ ủy Nam Bộ, cụ thể là Trần Văn Giàu đã được chỉ thị nghị quyết của Trung ương mà không chịu thi hành? Sự thật trăm phần trăm là mãi cho đến Tổng khởi nghĩa, chúng tôi, Xứ ủy Nam Kỳ chưa hề tiếp được chỉ thị nào của cấp trên cả. Sau 9 tháng 3, các nhiệm vụ đều do chúng tôi tự mình đặt ra cho mình. Đúng, sai là một việc khác, chẳng lẽ mình ngồi chờ?]
Đặt ra nhiệm vụ nặng nề, lớn lao như thế có phải là chúng tôi chủ quan ảo tưởng chăng?
Nếu không đủ mạnh, mạnh hơn tất cả các đảng phái khác cộng lại, nếu ta lẹt đẹt trong vòng cô độc, không ai trông thấy lực lượng hùng hậu của ta mà chỉ nghe tiếng tăm của ta thôi, thì, vào lúc Nhật Bản bị bại trận, khủng hoảng chính trị xảy đến, các đảng phái quốc gia và giáo phái sẽ giành chính quyền, chớ ta nhỏ yếu thì làm gì được? Vậy ta cấp tốc phải trở nên mạnh. Nhưng làm cách nào để trở nên mạnh cho thật nhanh? Hội truyền bá quốc ngữ, đoàn SET[2] hoạt động công khai, nhưng sức thu hút quần chúng của các tổ chức đó đều có giới hạn. Những hội biến tướng như tương tế, thể thao, trợ táng, v.v… thì, lúc này không làm sao tập hợp được đông đảo nhân dân, nhất là không làm sao xung động được phong trào, không làm sao có sức đưa quần chúng xuống đường biểu tình theo một số khẩu hiệu chính trị được.
Phải tìm một số hình thức tổ chức và hoạt động công khai – không nhất thiết phải là hợp pháp – hợp với ý đồ của ta, mang tính chất động viên chính trị cao, trước hết là cho thanh niên, động viên được hàng vạn, hàng chục vạn, hàng triệu người dân, đưa họ xuống đường theo khẩu hiệu cách mạng giải phóng dân tộc.
Nghĩ mãi không ra. Song chúng tôi cho rằng hễ có vấn đề đặt ra một cách hợp lý thì tất phải có giải đáp cần thiết. (Lúc này tôi nhớ đến câu nói của Hegel: “Những cái gì hợp lý là hiện thực” – tout ce qui est rationel est réel).
Trong lúc bọn tôi còn đang lúng túng, thì thống đốc Nhật ở Nam Kỳ Minoda và Tổng lãnh sự Ida mời bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và kỹ sư Ngô Tấn Nhơn đứng ra tổ chức thanh niên ở Nam Kỳ. Thạch báo cáo với Xứ ủy, bàn riêng hơn thiệt với Hà Huy Giáp (ở Trung Kỳ mới vào) và tôi, Hà Huy Giáp nằm ở nhà thương của Thạch, tại đường Chasseloup-Laubat (bây giờ là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh).
Tụi Nhật ở Nam Kỳ nhờ Phạm Ngọc Thạch đứng ra tổ chức thanh niên thì cũng như ở Trung, Bắc tụi nó nhờ Phan Anh, Tạ Quang Bửu đứng ra tổ chức thanh niên ở ngoài đó, chẳng có gì khác đâu ở trong ý đồ của Nhật. Cái khác là ở chỗ Phạm Ngọc Thạch là đảng viên Đảng Cộng sản và Minoda, Ida hoàn toàn không biết, không ngờ rằng đằng sau lưng Phạm Ngọc Thạch là một Xứ ủy đang tìm kiếm một hình thức tổ chức và hoạt động công khai của thanh niên, không phải trong phương hướng thể thao, văn hoá đi trong đường hướng Đại Đông Á, mà trong phương hướng chính trị yêu nước và độc lập dân tộc. Cũng phải nói thật: nếu không được anh Giáp, anh Giàu đồng ý thì Bác sĩ Thạch chẳng chịu đứng ra tổ chức Thanh niên Nam Kỳ theo đề nghị của Minoda và Ida đâu, mà dầu có đứng ra làm cũng không gây ra được một phong trào rộng lớn đâu, bất quá cũng như Phan Anh ở Bắc, ở Trung. Và, nếu việc quan trọng đó không được một đồng chí có nhân cách, tài ba như Phạm Ngọc Thạch và các bạn thân thiết của anh đứng ra phụ trách tập hợp thanh niên thì Xứ ủy cũng không biết lấy ai đảm nhiệm công việc lớn lao này.
Đúng là tụi Nhật (chính khách và quân nhân) không biết, không thể biết Thạch là cộng sản. Biết sao nổi? Thánh cũng không biết! Thạch lấy vợ đầm (một bà đầm không có chánh kiến nào khác hơn là chánh kiến của đức ông chồng (3) ); có vợ đầm nên cũng là dân Tây; Thạch lại là cháu ngoại của người hoàng tộc; anh học ở Hà Nội rồi học ở Pháp, giỏi chuyên môn (trị bệnh lao), có nhà thương tư, làm bác sĩ cho gia đình đại tư bản số một Sài Gòn Hui Bòn Hỏa với lương tháng trên vài ngàn đồng bạc Đông Dương thuở ấy; riêng Thạch có nhiều đất ruộng ở Đồng Tháp Mười, ở đồng bằng sông Cửu Long, và có gần trăm mẫu cà phê ở Dran trên đường Phan Rang-Đà Lạt. Giao du rộng, chơi thân với nhiều tai to mặt lớn Pháp, rồi chơi thân với Minoda, Ida và mấy tướng lãnh Nhật. Nghe nói Minoda cũng có vợ đầm như Thạch. Thì ai có thể ngờ rằng cái ông bác sĩ dân Tây, cháu hoàng tộc, lắm đất, lắm tiền này lại là cộng sản, là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương? Nhật không ngờ nên mới mời.
Nhận hay không nhận?
Làm hay không làm?
Bọn tôi bàn bạc, lật ngược lật xuôi, cân nhắc lợi hại, có thể xem là kỹ. Có thể có anh em (trước hết là nhóm “Giải Phóng”) ngờ ta làm việc không công hay, hơn nữa, làm tay sai cho Nhật; họ vốn cô độc hẹp hòi, bệnh cô độc hẹp hòi là bệnh mãn tính của nhiều anh em ta xưa nay; thời nào cũng có; anh em họ không quan niệm được rằng ngay ở thời chiến ta vẫn có thể lợi dụng công khai để mở rộng hoạt động quần chúng chống Nhật, chống thực dân, chống chiến tranh xâm lược. Thì ta sợ gì cái đánh giá sai lầm của người cô độc hẹp hòi? Cũng có thể là, lúc nào đó, Nhật ép buộc tổ chức thanh niên phục vụ không nhiều thời ít cho hoạt động chiến tranh Đại Đông Á của nó. Nhưng, nếu ta không đứng ra nắm thẳng việc tổ chức thanh niên thì Nhật cũng lựa được người khác (thiếu gì) để làm việc đó. Khi ấy Nhật sẽ nắm thanh niên chắc hơn, sẽ lợi dụng thanh niên nhiều hơn. Trái lại nếu ta nắm được thanh niên một cách vững vàng thì ta sẽ có nhiều khả năng vận động thanh niên chống lại mọi cách lợi dụng của Nhật mà Nhật không làm sao tự tung tự tác được, nhất là lúc nó ở trong thế yếu, thế thua. Chắc hẳn có đồng chí ít cô độc hẹp hòi hơn là Giải Phóng bảo rằng ra không nên đứng ra “bao” cái việc tổ chức thanh niên, ta hãy chờ khi kẻ thân Nhật đứng ra tổ chức, rồi khi ấy ta sẽ chen vào mà hoạt động, như vậy sẽ không mang tiếng, mà vẫn theo đúng lời dạy của Lenin trong sách “Bệnh ấu trĩ tả khuynh của chủ nghĩa cộng sản”. Có thể trả lời cho các đồng chí ấy rằng, việc đã sẵn có những tổ chức thanh niên của người thân Nhật lập ra thì tất nhiên ta sẽ chen vào đó để mà hoạt động quần chúng chống bọn lãnh tụ cơ hội và phản động (việc này thì ta đang làm đối với một số tổ chức thanh niên do Nhật lập ra như đoàn phòng vệ Nhật Việt). Nhưng nếu có cơ hội để chính chúng ta đứng ra tổ chức thanh niên, vạch ra phương hướng, tư tưởng chính trị, sắp xếp cơ cấu tổ chức, bố trí các người lãnh đạo ở Trung ương và địa phương, ở các ban, đưa hàng chục vạn thanh niên vào hàng ngũ một tổ chức công khai mà chúng ta vẽ ra phương hướng, chúng ta điều khiển một cách khôn khéo, theo đường lối cơ bản của ta, của cách mạng giải phóng dân tộc, thì tại sao ta chối từ, tại sao ta không làm, tại sao ta chần chừ để cho đám tay sai của Nhật tổ chức rồi ta mới lần hồi và lẽ tẻ chen vào ở cấp cơ sở và cấp dưới, dưới quyền chỉ huy của những kẻ kém về mọi mặt, nhất là mặt chính trị? Làm như thế, khác nào ta để mặc cho bọn kia thao túng?
Có thể là, trước sau rồi thì Nhật cũng biết ta (cộng sản) nắm tổ chức thanh niên; nó có thể sẽ ra tay khủng bố, nó bắt, nó giết hết thì làm sao? Không sợ! Khi Nhật đã vào bước suy tàn nhưng ngày nay thì nó sợ ta hơn là ta sợ nó; nó cố không gây chuyện với nhân dân ta để còn có thể đương đầu với địch thủ của nó là Mỹ. Vả lại, sự hoạt động của ta trong thanh niên sẽ khôn khéo hết sức, ta chĩa mũi nhọn đấu tranh vào nguy cơ thực dân Pháp trở lại, ta đặt vấn đề giành độc lập dân tộc, giành thống nhất Tổ quốc lên trên hết, tất nhiên ta không công khai nói cộng sản, ta nói yêu nước là chính, thì Nhật lấy cớ gì để khủng bố, để bắt giết; vả lại bắt giết ta có dễ đâu khi mà phong trào nhân dân vì độc lập tự do đã lên cao trong lúc uy thế của Nhật Bản xuống thấp, trong lúc Nhật Bản sắp phải đầu hàng? Mà cho dầu Nhật cuối cùng biết Phạm Ngọc Thạch hoạt động theo đường lối của Đảng Cộng sản đi nữa, thì lúc ấy đã trễ quá rồi, Nhật trở tay sao kịp? Phải đành chịu thôi! Nói cho rõ hơn, nếu hồi 1942, 1943 mà Nhật lật đổ Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, lúc ấy uy thế Nhật lên cao, Nhật đang thắng, chiến tranh đang mở rộng, nếu lúc bấy giờ mà Nhật mời bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng ra tập hợp thanh niên, làm thủ lãnh thanh niên, thì Xứ ủy chắc không tán thành đâu. Còn như vào giữa năm 1945, Ý, Đức đầu hàng, Nhật Bản trơ trọi, chết tới nơi, ta rất có thể và cần phải đứng ra lợi dụng công khai để huy động hàng chục vạn, hàng trăm vạn nhân dân làm lực lượng chính trị giành chính quyền khi thời cơ chín muồi, khi quân phiệt Nhật sụp đổ. Ở Nam Kỳ mà không làm như vậy thì cô độc, không tranh nổi với các đảng quốc gia, và giáo phái, tức là không có cách mạng thắng lợi. Cái điều đáng lo nhất, cần phải tránh nhất là sự khiêu khích cực tả, đặc biệt là khiêu khích của đám Trốtkít nhiều âm mưu nham hiểm.
Vậy cái hại không phải to lớn gì, không phải không thể trừ bỏ được. Còn cái lợi thì khỏi cần phải giải thích cho nhau làm gì nữa. Tụi này ở Nam Kỳ đã quen lợi dụng công khai, hợp pháp từ lâu đời rồi. Từ hồi Nguyễn An Ninh ra báo La Cloche Fêlée, diễn thuyết ở Xóm Lách, thanh niên đảng thành lập mà không xin phép, vận động bầu cử hội đồng thành phố và hội đồng quản hạt, làm biểu tình hàng vạn người và hàng mấy chục cuộc rước “lao công đại sứ” Justin Godart, ra báo Dân Chúng mà không xin phép, v.v… trong khi tổ chức Đảng Tiền phong vẫn bí mật thì tổ chức và hoạt động quần chúng công khai, nhờ vậy mà Đảng Cộng sản phát động được rất nhiều phong trào rộng lớn. Bây giờ, sau 9 tháng 3 năm 1945, nảy sinh ra một tình hình mới chứa đựng nhiều khả năng cho chúng ta một lần nữa sử dụng công khai, hợp pháp trên một trình độ cao hơn trước thì chắc là ta sẽ đạt hiệu quả lớn nhất xưa nay.
Bấy giờ chúng tôi thường nói với nhau: trên bầu trời, tinh tú nào lớn nhất thì có sức hút mạnh nhất. Đảng Cộng sản và Mặt trận dân tộc phải lớn mạnh nhất thì mới thu hút được tất cả lực lượng yêu nước vào quỹ đạo giải phóng của mình. Muốn được vậy phải thừa cơ tổ chức một đoàn thể thanh niên lớn mạnh, ở đó tinh thần yêu nước, thương dân, chống thực dân, tinh thần hy sinh, đấu tranh cho độc lập thống nhất sẽ là tư tưởng chính trị bao trùm.
Cuối cùng theo sự đề nghị của Giáp và Giàu, Xứ ủy quyết định cho đồng chí bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng ra công khai tổ chức Thanh niên. Một số đồng chí khác sẽ được phái vào tổ chức này để, khắp các tỉnh cùng với tất cả những người thanh niên cộng sản, nhanh chóng tạo ra một đoàn thể yêu nước rộng rãi mang tinh thần chiến đấu cao, có khả năng thu hút mạnh, đi theo đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.
Đó là vào tháng 5 năm 1945.
Về sự lựa chọn những nhân vật đứng ra lãnh trách nhiệm tổ chức Thanh niên ở Nam Kỳ, Xứ ủy quan niệm rằng tổ chức thanh niên trước hết phải theo một đường lối mặt trận; bọn tôi xem tổ chức Thanh niên này như là một cách hay để tập hợp tuổi trẻ của nhiều tầng lớp xã hội, trước hết phải đưa vào tổ chức và hoạt động các nhà trí thức tiến bộ, có danh vọng, mà chúng ta có thể nói chuyện được và thực thế ta đã bắt đầu nói chuyện rồi, nhưng chưa đưa vào tổ chức. Tổ chức Thanh niên của ta đang lập nên vừa là tập hợp thanh niên vừa là tập hợp trí thức yêu nước bằng công tác thanh niên. Trên tinh thần đó, ban quản trị, ban chỉ đạo (đóng ở số 14 đường Charner nay là Nguyễn Huệ) gồm:
- Lê Văn Huấn, giáo sư trường Pétrus Ký, một ông giáo sư khoa học dạy giỏi và tính nghiêm khắc, tư cách đúng đắn, hình dạng như một pho tượng đồng đen; thầy được xem là đại diện của tổ chức thanh niên đối với nhà chức trách trong sự giao tiếp, hàng ngày khi cần.
- Kha Vạn Cân, kỹ sư, làm phó cho Lê Văn Huấn, là ông chủ lò nấu sắt sớm nhất ở Nam Kỳ, một cầu thủ nổi tiếng của thành phố, thân hình hộ pháp, cười nói vui vẻ, nội cái “tướng” ấy đã đủ gây cảm tình.
- Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ, làm tổng thư ký, đứng đầu một ban thư ký gồm toàn nhà trí thức, nhất là những sinh viên “xếp bút nghiên” đã từng hoạt động thanh niên mấy năm qua. Quyền hành thực tế là ở ban thư ký này.
- Nguyễn Văn Thủ, bác sĩ nha khoa, con nhà giàu rất lớn ở quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, bản thân là một “cây” thể thao, làm trưởng ban thể thao.
Luật sư Thái Văn Lung (1916-1946)
- Thái Văn Lung[4], trạng sư, dân Tây, sĩ quan, phụ trách ban thanh niên.
- Tạ Bá Tòng, sinh viên “xếp bút nghiên”, phụ trách ban xã hội.
- Huỳnh Tấn Phát, kiến trúc sư, chủ bút báo “Thanh Niên”, đẹp trai, vui tính, diễn thuyết giỏi, nói có duyên, phụ trách ban tuyên truyền.
- Huỳnh Văn Tiểng, sinh viên “xếp bút nghiên”, tác giả nhiều vở kịch nổi tiếng, làm tráng trưởng.
Mấy người nữa, tôi không nhớ hết, ở trong một ban lãnh đạo đầy uy tín, có nhiều khả năng hoạt động sôi nổi. Hầu hết họ là học viên trong lớp lý luận chính trị do tôi phụ trách, có Hà Huy Giáp và Nguyễn Văn Nguyễn giúp sức.
Ở các tỉnh, trong ban trị sự, số trí thức tương đối ít hơn, số anh em cộng sản “công khai” nhiều hơn, phần lớn là những đồng chí có kinh nghiệm hoạt động hồi thời kỳ Đông Dương Đại hội và sau đó. Anh em nông dân nhìn vào thì thấy hơi “lo” vì các ông trí thức đứng đầu hầu như khắp nơi, nhưng rồi phấn khởi vì mọi việc thực tế đều do anh em của ta trước nay chịu khó phụ trách, mà khó thì không phải là điều mà anh em ta ngại.
Để làm việc có tính tập thể, Thạch đề nghị đưa Tiểng và Thủ, sau đó là Phát vào Đảng. Bọn tôi đồng ý, hoan nghênh nhiệt liệt nữa là khác. Từ nay thì Đảng Cộng sản có cán bộ trí thức “bự” để làm trí vận. Như vậy, trí vận là thanh vận kết hợp chặt chẽ và đưa lại rất nhiều kết quả tốt đẹp. Một bài học bắt đầu được rút ra là làm “trí vận” hay nhất là giao cho trí thức tiến bộ, yêu nước, một số công tác thích hợp với địa vị xã hội của họ. Công tác vận động thanh niên là ông thầy chính đã vô tình (hay là khách quan) làm việc huấn luyện tư tưởng cho họ, lẽ tất nhiên là với sự săn sóc của Đảng, cụ thể là của Xứ ủy và Đảng đoàn. Tôi quan niệm Đảng Cộng sản là đảng của trí tuệ, thì Đảng phải chú ý đến trí vận, như công vận, nông vận; trí vận tất phải đưa lại những thành tựu tương đương với các ngành vận động lớn khác. Trong trường hợp này, đưa tầng lớp trí thức ưu tú vào đoàn thể cũng là đưa các tầng lớp tư sản dân tộc vào phong trào chung.
Về tên của tổ chức thanh niên: chớ tưởng rằng tụi Ida đặt tên cho tổ chức Thanh niên Nam Bộ bấy giờ. Chẳng một ai hỏi ý kiến của y về vấn đề này. Y chỉ được thông báo, và y chẳng có gì phản đối hay hoan nghênh, nếu có ý gì, thì đó là ý tán thành Phạm Ngọc Thạch.
Chúng tôi bàn với nhau rằng cái tên của tổ chức có tầm quan trọng tượng trưng, tiêu biểu, in sâu vào tâm trí của đoàn viên, chớ không phải lấy tên nào cũng được. “Thanh niên tiền tuyến” thì không nên, là rất cấm kỵ; bởi vì chúng ta chống chiến tranh Đại Đông Á của Nhật. “Thanh niên cứu quốc” thì tất nhiên là đúng nhất mà không lấy được, bởi vì ta đang lập một tổ chức lợi dụng công khai, hợp pháp mà Thanh niên cứu quốc thì Nhật và bù nhìn làm sao để cho hoạt động công khai? Thạch và hai đồng chí phát kiến tên “Thanh niên tiền phong”, một cái tên hấp dẫn, có nghĩa là giao trách nhiệm xung kích, đi đầu trong chiến đấu cho tuổi trẻ đầy máu nóng. Vả lại, “Tiền Phong” là tờ báo của Xứ ủy Nam Kỳ trong bí mật, là tên của tờ báo Thanh niên Cộng sản ở bên Pháp. Năm 1937, ở Sài Gòn ngay chúng ta cũng có tờ Avant Garde. Chắc các bạn lâu nay trong phong trào cách mạng sẽ tán thành cái tên “Thanh niên Tiền phong”. Vậy, tổ chức thanh niên mà Phạm Ngọc Thạch và các bạn của anh lập ra sẽ mang tên “Thanh niên Tiền phong”, một cái tên quyến rũ, động viên, nhiều ý nghĩa tốt, không phải “SET”, càng không phải như “Thanh niên Ducoroy”. Phải nhắc lại rằng chúng ta đặt tên “Thanh niên Tiền phong” mà không cần phải báo cho Minoda, Ida, không cần chúng đồng ý hay không đồng ý. Xứ ủy đồng ý là đủ rồi.
Thanh niên Tiền phong tuyên bố mang “tinh thần mới”, theo “mục đích mới”. Tinh thần mới, mục đích mới đó là gì? Hãy đọc lại bản “tuyên cáo” đăng ở các báo Sài Gòn cuối tháng 5 năm 1945 thì rõ:
“Tinh thần cũ của các đoàn thanh niên trong vòng mấy năm nay là một tình thần trưởng giả, bạc nhược, chán nản. Thật vậy, những cuộc điền kinh, những cuộc tranh giải rất náo nhiệt, rất ồn ào, chỉ để che đậy cái khủng hoảng bên trong và để mê hoặc quần chúng. Tinh thần cũ là tinh thần phục tùng, nô lệ, bế tắc, rất đỗi hẹp hòi. Nói chi đến sáng kiến, tìm tòi, chiến đấu? Tinh thần cũ là tinh thần thụ động.
Ngày nay đối với phong trào giải phóng đang bồng bột khắp thế giới, dửng dưng lặng lẽ là chết, an phận là chết.
Phải tiêu diệt tinh thần ươn hèn ấy, để tạo nên một tinh thần mới, chính đáng hơn, vững bền hơn.
Tinh thần mới tức là tinh thần thiết thực, khoa học, luôn luôn tìm hiểu để vượt lên cao.
Cuộc phục hưng của dân Việt Nam sau này thành hay bại là do nơi thanh niên. Muốn làm tròn cái xứ mạng ấy, Thanh niên Tiền phong trước hết bẻ gãy cái ranh giới giai cấp đã chia rẽ lực lượng thanh niên… Thanh niên Tiền phong sẽ được huấn luyện kỹ lưỡng, dự bị chu đáo cho công cuộc vĩ đại của lịch sử, xứng đáng cho đời họ.
Hỡi thanh niên gần xa trong các đẳng cấp!
Chúng ta đang trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng. Xã hội chúng ta đang bày ra một cảnh tượng hỗn loạn. Chúng ta không thể đứng yên trong hoàn cảnh cũ với một tinh thần thối nát. Chúng ta phải theo đuổi mục đích mới với một tinh thần mới. Thanh niên Tiền phong tha thiết kêu gọi các bạn hãy kéo đến gia nhập hàng ngũ chúng tôi để cùng mạnh bước tiến trên đường xán lạn”.
Còn những ý chưa thật rõ, nhưng mà, ta sử dụng công khai hợp pháp thì tất cả đều rõ làm sao được? Còn thiếu từ cách mạng; nhưng mình đi tới với tay che trán của mình, che mắt của địch, thì đương từ “cách mạng” sẽ bộc lộ nguyên hình của mình còn gì? Từ “cách mạng” sẽ từ từ đến sau, đến ngay khi tổ chức đã xếp, khi phong trào bắt đầu khởi động, nói cho rõ hơn, khi sự chỉ đạo của Xứ ủy thêm chặt chẽ. Ngày chủ nhật 5 tháng 7, trong cuộc lễ Tuyên thệ Thanh niên Tiền phong lần thứ nhất (tuyên thệ là một sáng tạo có tác động tâm lý cao, hướng đi tới biến Thanh niên Tiền phong thành một tổ chức yêu nước nửa quân sự), trước 25 ngàn thanh niên tập hợp ở vườn Ông Thượng, trong đội ngũ hẳn hoi, thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng ra kêu gọi thanh niên, và trong lời kêu gọi đó, anh đã nhấn mạnh vào mục đích cách mạng, tinh thần cách mạng mà mỗi thanh niên đều phải có.
“Hỡi anh em thanh niên,
Ngày nay là một ngày long trọng của đời ta; cũng là một ngày đáng ghi trong lịch sử sau khi nước ta chìm đắm trong mấy chục năm nay. Ngày nay chúng ta được hân hạnh đứng dưới ngọn cờ Thanh niên Tiền phong, giữa trời xanh, dưới mắt chứng kiến của quốc dân, đồng bào đông đảo, quỳ gối tuyên thệ: “Tôi luôn luôn hết lòng hy sinh cho Tổ quốc”, “Tôi luôn luôn theo luật lệ Thanh niên Tiền phong”. Mà ngày nay cũng là một ngày kỷ niệm đau đớn trong lịch sử, vì, chính ngày này, tháng này, cách đây 60 năm, năm 1885, kinh đô Thuận Hoá thất thủ. Bọn đế quốc thực dân Pháp... đặt lên toàn bộ giang sơn ta một cái ách đô hộ, làm cho anh hùng nước ta khó vùng vẫy, làm cho quốc dân ta mất tinh thần đấu tranh hy sinh, làm cho nước ta biết bao nhiêu chậm trễ trên con đường tiến hoá. Vậy ngày nay là ngày tuyên thệ của Thanh niên Tiền phong cũng là ngày kỷ niệm thất thủ giang sơn…
Lịch sử nước ta từ xưa đến nay đều hoàn toàn là một lịch sử cách mạng. Từ đời Hùng Vương cho đến Nguyễn Thái Học, trải qua Bà Trưng, Lê Lợi, anh em Tây Sơn, máu anh hùng nhuộm đỏ giang sơn chỉ vì hai mục đích: giải phóng dân tộc Việt Nam và tìm chỗ sống dưới bầu trời.
Đáp lại yêu cầu của toàn thể quốc dân, Thanh niên Tiền phong ngày nay ra đời để bành trướng ở miền Nam một tinh thần đấu tranh cường tráng, để giữ quyền lợi cho dân tộc ta, để đánh đổ bọn trửơng giả, bọn ích kỷ, để cho người ngoại quốc biết rằng dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc hèn mạt. Không! Dân tộc Việt Nam không bao giờ là một dân tộc hèn mạt như bọn sâu mọt xã hội đó tỏ ra. Dân tộc Việt Nam ngày nay vẫn còn giữ hết tinh thần tranh đấu của các vị anh hùng xưa đã từng đem lại cho nước ta một địa vị độc lập trên trường quốc tế. Vậy anh em tráng sinh ta hãy quên hết những chia rẽ cá nhân hay đảng phái để một lòng hy sinh phụng sự nước nhà. Anh em tráng sinh ta hãy nhớ đến mấy nhà chí sĩ cách mạng trong mấy chục năm vừa qua. Ta luôn luôn đừng quên mấy nhà cách mạng ấy từ Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học, Đoàn Trần Nghiệp, Lý Tự Trọng, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, đều toàn là mấy nhà thanh niên trẻ tuổi đã hiến cho Tổ quốc một tinh thần cứng cỏi, đấu tranh. Ta nên cúi đầu trước bóng người xưa mà nhận lãnh từ nay một sứ mạng chiến đấu để khỏi thẹn với non sông.
Hỡi anh em huynh trưởng! Ta là tiên tiến trong đoàn Thanh niên Tiền phong, ta phải một lòng cương quyết để đem mối tráng sinh lên con đường tráng sĩ.
Anh em thanh niên, hãy gia nhập hàng ngũ Thanh niên Tiền phong để đáp lại di chúc của mấy nhà chí sĩ cách mạng xưa, để giải phóng dân tộc ta, để chống lại hết thảy các đế quốc thực dân, mà kiến thiết nền độc lập của nước Việt Nam.
Chữ “cách mạng”, “cách mạng giải phóng dân tộc”, “giành độc lập”, “chống lại tất cả các đế quốc” đã được công khai nêu cao, rõ ràng, không còn gì mù mờ che lấp nữa, tinh thần của Phạm Hồng Thái, Lý Tự Trọng, Minh Khai, Hà Huy Tập cũng đã được tuyên dương giữa trên dưới 50 ngàn người tuyên thệ và dự xem tuyên thệ ngày 5 tháng 7 giữa Sài Gòn. Thì bảo Thanh niên Tiền phong là của ai? Nói là của địch sao được? Đúng là của ta đó chớ. Bảo Thanh niên Tiền phong là của địch thì hoặc là một vu khống trắng trợn, hoặc là một sự lầm lẫn tệ hại, một quan niệm không lấy gì làm sáng suốt khôn ngoan, một thứ chủ nghĩa cô độc mà hằng chục năm nay Đảng đã cực lực phản đối, phản đối cô độc thì mới đúng chớ sao lại phản đối sự tập hợp rộng lớn để thực hiện tinh thần cao Phạm Hồng Thái, Minh Khai, Hà Huy Tập?
Cái hôm tuyên thệ lần thứ nhất này của Thanh niên Tiền phong, chính những kỷ niệm nhắc nhở các nhân vật lịch sử cách mạng hiện đại Việt Nam là chỗ được đoàn viên Thanh niên Tiền phong và công chúng hoan nghênh nhiệt liệt nhất. Hôm đó, tôi đội nói nỉ cũ, mặc bà ba, đi guốc vào sân ngồi ngoài rìa xem tuyên thệ, tôi đâm lo cho thủ lĩnh Phạm Ngọc Thạch, sợ cái đồng chí sôi nổi này vượt ra ngoài phạm vi đại đoàn kết và cách mạng dân tộc. Nhưng mọi việc đều ổn. Người ta ra về từng đoàn trong tiếng hát “Lên đàng”, hết sức phấn khởi. Sau đó, tôi có dịp vừa khen Thạch làm một bài diễn văn hay, vừa căn dặn anh (sắp đi các tỉnh), khi đưa tên chị Minh Khai thì cùng đưa tên Cô Giang, khi đưa tên Hà Huy Tập thì cùng đưa tên Nguyễn An Ninh, cho đồng bào các giới đừng nghi ngờ gì về tính chất mặt trận cần phải được nhấn mạnh của Thanh niên Tiền phong.
Nói đến lá cờ của Thanh niên Tiền phong, cờ vàng sao đỏ.
Đoàn thể chính trị, tôn giáo nào ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ lúc đó cũng đều có màu cờ của họ. Cờ quẻ ly của triều đình Bảo Đại, cờ chữ vạn của Cao Đài, cờ ngôi sao xẹt của Trốtkít, cờ điều của Hoà Hảo, v.v… Loạn cờ! Thanh niên Tiền phong là một tổ chức lớn, tất phải có cờ của đoàn thể mình. Vả lại, cây cờ là một sự hiệu triệu tập hợp; tập hợp mà không cờ xí gì hết thì thiếu một cái gì lớn. Thanh niên Tiền phong lấy cờ gì bây giờ? Cờ đỏ sao vàng từng xuất hiện trong khởi nghĩa 1940, nay là cờ Mặt trận Việt Minh; nếu ta lấy cờ này thì không còn tồn tại công khai và hoạt động công khai được nữa. Như vậy đã bộc lộ ngay cái mà ta không muốn bộc lộ. Phải chế một lá cờ khác, khác mà giống, giống mà khác, cũng hai màu vàng đỏ, cũng ngôi sao ở giữa, nhưng ở đây thì sao đỏ, ở kia là sao vàng. Sao đỏ, anh em nói là sao cách mạng, màu đỏ là màu cách mạng, sao là hướng dẫn đúng đường (trên huy hiệu của SET, năm nào, có con đường đỏ giữa nền xanh). Ta lấy sao đỏ, nhưng không kẻ ác ý nào tố cáo Thanh niên Tiền phong là cộng sản được, bởi vì nền cờ là màu vàng, màu vàng là màu dân tộc.
Cờ vàng sao đỏ như vậy có nghĩa là cách mạng dân tộc; sau này nhiều anh em bảo khi cần thiết thì cờ vàng sao đỏ sẽ đổi thành cờ đỏ sao vàng có sao đâu? Có thứ cờ không thể đổi được hoặc nếu đổi thì phải thủ tục nghiêm trang như quốc kỳ của một dân tộc đã gắn bó với lá cờ ấy. Cờ tam tài của Pháp, cờ mặt trời mọc của Nhật; cũng không đổi được nếu lá cờ biểu hiện một bản chất như cờ đỏ búa liềm của các Đảng Cộng sản toàn thế giới. Chớ còn như cờ đoàn thể quần chúng mà thay đổi, tên của đoàn thể có tính chất mặt trận đó mà thay đổi tuỳ thời thế, tuỳ chủ trương thì không có gì cấm cản, hễ có lợi cho cách mạng thì nên làm. Từ 1930 đến nay (1945) tên của Mặt trận Xứ ta bốn lần thay đổi. Không ai cho rằng sai, trái lại người ta cho rằng đó là uyển chuyển cần thiết.
Cờ vàng sao đỏ thực tế được thanh niên và nhân dân hưởng ứng dữ lắm, các đồng chí không ai đặt thành vấn đề. Ngày nào Thanh niên Tiền phong tuyên bố là thành viên của Mặt trận Việt Minh thì nó sẽ đi dưới cờ đỏ sao vàng, như tất cả đồng bào đều theo cờ đỏ búa liềm biểu hiện cho quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng.
Hồi đó, chế cờ vàng sao đỏ, trong lòng chúng tôi không bao giờ có ý nghĩ là phân liệt, là cạnh tranh với cờ đỏ sao vàng, càng không có ý nghĩ đối lập. Những người xem Thanh niên Tiền phong là “của Nhật” thì mới hiểu sai lầm quá đáng như vậy, hay là mới vu oan một cách kỳ cục như vậy. (Đến sau này, khi Mặt trận ở miền Nam mang tên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng, lấy cờ là nửa xanh, nửa đỏ sao vàng, thì đó là sự uyển chuyển cần thiết, không ai thắc mắc gì).
[Có chuyện này, lạ lùng, mà có kinh nghiệm hay lý luận chính trị đến đâu cũng không thể giải thích nổi: Ông học trò cũ của tôi là Trịnh Nhu chuyên nghiên cứu lịch sử Đảng ở Trung ương, mới đầu những năm 90 đây thôi, gửi cho tôi một bức thư kèm theo mấy trang sách in (tôi nhấn mạnh: sách in typô) trong đó có đoạn viết:… Ở Nam lúc ấy (1945) có hai Xứ ủy, một là Xứ uỷ Giải Phóng lấy cờ hiệu cờ đỏ sao vàng, hai là Xứ ủy Tiền Phong lấy cờ hiệu là cờ vàng sao đỏ. Trịnh Nhu hỏi tôi vậy sự thật như thế nào? Tôi buồn cười quá, cười ra nước mắt, sao mà gần 50 năm sau người ta còn in sách bậy bạ, ngốc ngác như thế, khi mọi chuyện đã rõ. Tôi viết thư trả lời cho Nhu: “Tôi không biết cái Xứ ủy nào gọi là Xứ uỷ Tiền Phong cả, chỉ có hồi 1943-1945, một Xứ ủy mà tôi là bí thư, Xứ uỷ Nam Kỳ của Đảng Cộng sản, Xứ uỷ đó có báo Tiền Phong làm cơ quan tuyên truyền và có công khai tổ chức Thanh niên Tiền phong, đoàn thanh niên lớn này lấy cờ vàng sao đỏ làm biểu tượng, còn cờ của Xứ uỷ Đảng vẫn là, chỉ có thể là cờ đỏ búa liềm mà thôi. Còn cái gọi là “Xứ ủy Việt Minh” mới lập sau 9 tháng 3 thì nếu anh em đó lấy cờ Việt Minh làm biểu tượng, thì tôi không có trách nhiệm gì”]
Vậy phải phân biệt cờ Đảng Cộng sản với cờ của Thanh niên Tiền phong.
Đừng lập lờ đánh lận con đen, sau bao chục năm mà còn nói bậy như vậy thì quả là có thể “cười ra nước mắt” vì làm sao mà trong hàng ngũ cách mạng tới nay vẫn còn cái thứ anh em mình có khối óc bằng đất sét như thế? Ai muốn đọc tài liệu gốc thì đến hỏi Trịnh Nhu, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Hà Nội.
Về “trang phục” của Thanh niên Tiền phong, đối với Sài Gòn, không có gì mới lạ hẳn, các tổ chức “hướng đạo” của thời Pháp đã có rồi. Mà thanh niên bao giờ cũng thích những hình thức bề ngoài có ý nghĩa. Về mặt này Thanh niên Tiền phong đã tiếp nối đoàn SET ở mức cao hơn. Vả lại, do trang phục, trang bị, một đoàn viên được phân biệt rõ ràng với những người xung quanh, được bà con chú ý, tất phải giữ danh dự cho “màu cờ, màu áo” của mình, không dám hay là ít dám làm bậy, nói bậy, mà phải làm điều tốt để bảo vệ danh dự của đoàn và của mình. Đoàn viên Thanh niên Tiền phong đội nón bàng, một thứ nón mà nguyên liệu sẵn có ở các bưng Nam Kỳ, rẻ, nhẹ và đơn giản; quần soọc màu, sơ mi tay ngắn, gọn và hùng, hùng còn ở cuộn dây thừng đeo ở thắt lưng, bên cạnh một con dao găm bọc da, về sao thêm một cây gậy tầm vông. Những thứ đó là khí cụ dùng hàng ngày mà lại có ý nghĩa là Thanh niên Tiền phong sẵn sàng chiến đấu. Thanh niên Tiền phong gặp nhau hay họp mặt thì chào nhau bằng cách đưa tay trái sè ra, ngang vai, hô: “Thanh niên, tiến!”. Khi ấy có anh em mình đề nghị Thanh niên Tiền phong chào kiểu nắm tay phải đưa lên ngang vai, lối chào này ta thường thấy những năm 1936-1937, gọi là lối chào Mặt trận Bình dân chống phát xít, nhưng, vào giữa năm 1945, ta muốn “giấu hình tích, che mũi nhọn”, cho nên mới chế ra kiểu chào Thanh niên Tiền phong vừa kể trên, bảo với nhau rằng tay bên trái là tay bên quả tim, làm Thanh niên Tiền phong bao giờ cũng phải có quả tim nóng, còn tay sè thì “vả” kẻ địch rồi nắm lại để mà “đấm” thêm!
Về kỷ luật Thanh niên Tiền phong: vào đoàn thể này phải thề trước hết là “phục vụ Tổ quốc, đấu tranh cho độc lập dân tộc”; lời thề thứ hai là “phục tùng kỷ luật của đoàn thể”; kỷ luật đó nếu tôi nhớ không sai là: “giữ danh dự cho cá nhân và đoàn thể, thân ái với đồng đội, can đảm trong mọi trừơng hợp, chống mọi sự bất công của kẻ cậy quyền thế, sẵn sàng giúp đỡ người bị hoạn nạn, chấp nhận sự phê bình thân ái của đồng đội, phục tùng đoàn thể”.
Những điều vừa kể do Thanh niên Tiền phong tự đặt ra cho mình, không do Xứ uỷ áp đặt từ bên trên, Thạch và các đồng chí, các bạn của Thạch có một khoảng tự do rộng để day trở thoả mái trong đường lối chung. Bảo rằng lãnh đạo lỏng lẻo thì chưa chắc là đúng; bảo rằng cho phép nảy sinh và thực thi nhiều sáng kiến thì sẽ đúng hơn. Suốt mấy tháng hoạt động hết sức sôi nổi và đa dạng, không có một mâu thuẫn nào hết giữa Xứ ủy và ban lãnh đạo Thanh niên Tiền phong; tôi đại diện chung cho Xứ ủy để trực tiếp chỉ đạo cho Thanh niên Tiền phong.
Về hoạt động chính trị xã hội của Thanh niên Tiền phong.
Hoạt động của Thanh niên Tiền phong thì đa dạng và náo nhiệt trên khắp Nam Kỳ, nhất là ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, mọi hình thức đều nhằm vào mục đích chính trị.
- Không thể thống kê hết số cuộc tập hợp để tuyên truyền cổ động cho chủ nghĩa yêu nước, cho ý thức độc lập, thống nhất, tự do, dân chủ; có những cuộc năm, bảy chục ngàn; một, hai chục ngàn, còn những cuộc mấy trăm, mấy ngàn thì vô số. Các cuộc tuyên thệ, mít-tinh, hội họp buổi chiều hay ban đêm tại các trụ sở với các bài diễn thuyết của thanh niên, giáo sư, cựu chính trị phạm, cộng với hết sức nhiều cuộc tuần hành với cờ xí, hàng ngũ chỉnh tề, lời hát hùng tráng, tạo nên một không khí chính trị xã hội mà ai cũng thấy rằng đó là dự triệu của một sự thay đổi gì rất lớn sắp diễn ra, đặc biệt là từ khi bên cạnh hàng tám vạn Thanh niên Tiền phong còn có mười hai vạn “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp” vốn là công đoàn.
- Một mặt lớn, có nhiều ảnh hưởng tốt, của hoạt động Thanh niên Tiền phong là cứu đói miền Bắc. Khi ấy miền Bắc đói nặng, đói rộng; tin tức vào Nam làm xúc động vạn ức đồng bào; đồng bào được biết là hết Pháp đến Nhật, cả hai đế quốc đều trưng thu lúa gạo, dự trữ cho chiến tranh, thêm nạn hạn hán, lụt lội; cảnh chết đói lan tràn, đau thương. Thanh niên Tiền phong hô hào mọi người tham gia cứu đói: quyên góp lúa gạo, mượn các thứ phương tiện vận tải, chuyên chở bằng thuyền, bằng xe lửa, bằng xe hai bánh, đưa lương thực ra Bắc. Lúc ấy, không chỉ có Thanh niên Tiền phong làm việc nghĩa này. Còn nhiều thứ tổ chức khác. Nhưng mà đoàn thể lớn nhất, hăng hái nhất trong việc nghĩa này là Thanh niên Tiền phong. Cuộc vận động mang tính xã hội này cũng đồng thời mang tính chính trị ngày thêm đậm. Đó là một cách hay, đúng để giáo dục đoàn viên về lòng thương dân và tình đồng bào trong cả nước; không có Bắc-Trung-Nam riêng rẽ, chỉ có Việt Nam thống nhất mà thôi. Người ta còn nhớ rằng khi ấy Nhật vẫn còn trực trị xứ Nam Kỳ, chưa thừa nhận nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, thì việc tuyên truyền có ý thức thống nhất, lại càng có ý nghĩa chính trị, cách mạng. Người thời bây giờ, ai cũng bất bình vô hạn đối với cái cảnh trái ngược, trong Nam thừa lúa cho đến đỗi Pháp rồi Nhật dùng biết bao nhiêu vạn tấn thay cho than đá làm nhiên liệu cho nhà máy đèn Chợ Quán, đi ngang sân sau của nhà máy đèn ấy, đập vào mắt người ta những núi lúa bị đốt thành than. Trong lúc đó thì hàng chục vạn, hàng triệu đồng bào ta ở Bắc chết đói hay phải cầm hơi bằng củ chuối, củ dong! Anh chị em Thanh niên Tiền phong nhận định khác với các tổ chức tư sản (thanh niên gọi là trưởng giả) rằng then chốt của sự cứu đói là vấn đề vận tải chớ không phải vấn đề quyên tiền; và anh chị em dồn sức vào việc vận tải gạo ra hướng Bắc đồng thời đưa một số đồng bào xuống phía Nam vừa làm việc xã hội và củng cố lòng yêu nước thương dân truyền thống, vừa chống lại chính sách diệt chủng của chủ nghĩa thực dân – bọn này đã buộc dân ta phải hút thuốc á phiện, uống rượu cồn, lại làm cho dân ta thiếu gạo, thiếu muối. Không mảy may có ý định làm việc cứu đói để tự quảng cáo, nhưng Thanh niên Tiền phong được đồng bào yêu mến, khen ngợi một phần nhờ không tiếc sức trẻ cho việc dân sinh khẩn cấp này.
Lại còn vấn đề chống dịch tả. Nghe nói bệnh dịch tả từ đâu đó sang Miên, từ Miên sang Nam Kỳ; đông người mắc phải, khắp nơi đều có chết vì bệnh dịch tả. Thuốc không đủ, không có. Nhân dân lo sợ. Thì Thanh niên Tiền phong nơi nơi trang bị cho mình mấy lít rượu thuốc trừ tả, theo toa dân tộc củ gừng, củ là, v.v… nhất là ý chí cứu nạn, cứu khổ cho dân chúng lao động thành thị và thôn quê. Xảy ra ca bệnh ở đâu thì ở đó nổi mõ một hồi, một dùi, thanh niên xa gần chạy tới ngay, đánh gió, xoa bóp, cho uống rượu thuốc. Vậy mà hàng trăm, hàng ngàn người được cứu sống. Người ta đồn rằng con bệnh dịch tả sợ Thanh niên Tiền phong. Đồng bào rất cảm kích.
Trong hai công tác này, “ban xã hội” của Thanh niên Tiền phong do Tạ Bá Tòng phụ trách đã hoạt động rất đắc lực. Chưa kể công tác truyền bá quốc ngữ, truyền bá vệ sinh, dạy hát những bài ca yêu nước, yêu dân làm vui thôn xóm, làm thức tỉnh nhiều người.
Cũng cần nhắc lại một chuyện nhẹ nhàng mà quan trọng của “Phụ nữ Tiền phong” là dạy học khoa cứu thương ở các trụ sở đoàn hoặc ở những nơi công cộng, ở nhà tư nữa, chị em học cách khiêng, cõng người bị thương, học cách băng bó, cho thuốc v.v… Hội phụ nữ Tiền phong quyên tiền, quyên vật để tích lũy một số phương tiện cứu thương. Rất nhiều bác sĩ, y tá trưởng tham gia công tác xã hội này. Lớp học thường mở từ 7 đến 9 giờ tối, không ai đòi tiền cả.
Về thực lực của Thanh niên Tiền phong
Đúng như dự đoán, Thanh niên Tiền phong phát triển nhanh, “nhảy vọt” vì mục tiêu chính trị của Thanh niên Tiền phong rõ ràng, thích hợp, thu hút; vì sự đổi mới của tinh thần tuổi trẻ; vì giải phóng dân tộc chống thực dân; Thanh niên Tiền phong có những nhà lãnh đạo đáng kính, gương mẫu, yêu nước chân thành, cách thức tổ chức có quy củ, sự hoạt động được đồng bào hoan nghênh. Ở Sài Gòn, ở các tỉnh Thanh niên Tiền phong đều phát triển nhanh, kể cả những tỉnh chưa có tỉnh ủy của Đảng Cộng sản như Bà Rịa, Hà Tiên. Mới hơn một tháng tồn tại mà Thanh niên Tiền phong Sài Gòn đã tổ chức được một cuộc lễ tuyên thệ cũng là một cuộc “tuần hành thị uy” 25 ngàn người có hàng ngũ chỉnh tề gần như một đạo quân không có súng ống; khí thế cao. Phần lớn các tỉnh cũng theo gương Sài Gòn tổ chức lễ tuyên thệ; trong lễ tuyên thệ ở tỉnh thường thường tập hợp cả vạn người, năm, bảy ngàn là ít nhất, những diễn văn còn mạnh hơn diễn văn ở Sài Gòn. Tỉnh hạng chót cũng tập hợp trên 10.000 đoàn viên. Giữa tháng 8 cả Nam Kỳ, Thanh niên Tiền phong đông hơn một triệu! Một triệu trong đội ngũ hẳn hoi, mang đồng phục, tuân theo mạng lệnh của một trung tâm chỉ đạo thống nhất.
Từ thời ủy ban hành động, Đông Dương Đại hội (1936) tới giờ, ở Nam Kỳ không lúc nào có nhiều hội họp, mít-tinh, tuần hành bằng lúc này, không lúc nào cựu chính trị phạm lên diễn đàn nhiều bằng lúc này. Anh em khắp nơi phát triển luận đề của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch về nhiệm vụ “chống hết thảy các đế quốc” để giải phóng dân tộc, về “biến tráng sinh thành tráng sĩ”, về gương chiến đấu cần phải noi gương của Phạm Hồng Thái, Lý Tự Trọng, Minh Khai, Hà Huy Tập và biết bao nhiêu là ý kiến tốt đẹp mạnh mẽ khác.
“Thanh niên Tiền phong xí nghiệp”
Xuất hiện kề bên Thanh niên Tiền phong, những tổ chức Phụ nữ Tiền phong, Phụ lão Tiền phong nữa! Đặc biệt nhất, cho nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Tân Bình chú ý nhất là sự tuyên bố ra đời của “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp”.
Thế nào gọi là “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp”?
Nguyên là từ 1943, chúng tôi đã lập lại cơ sở và hệ thống Công đoàn. Sau cuộc đảo chính Nhật 9 tháng 3, Tổng Công đoàn phát triển khá mau nhưng vẫn là một tổ chức nửa công khai; chúng tôi thấy rằng muốn phát triển thật mau thì Tổng Công đoàn phải hoạt động công khai; mà muốn hoạt động công khai thì phải mang một cái danh nghĩa nào đó, không phải là Tổng Công đoàn mà thực chất Tổng Công đoàn hoàn toàn không thay đổi; Tổng Công đoàn vẫn là tay phải của Đảng Cộng sản. Đã có “Phụ nữ Tiền phong” thì ta có thể có “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp”, danh xưng công khai của Tổng Công đoàn. Không phải là Tổng Công đoàn sáp nhập vào Thanh niên Tiền phong, mà ấy là mượn danh nghĩa công khai của Thanh niên Tiền phong mà hoạt động mạnh mẽ, rộng lớn, không cần xin phép hay thông báo với nhà cầm quyền. Từ nay, “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp” cử một số đại biểu vào trong ban lãnh đạo của Thanh niên Tiền phong, như Hoàng Văn Đôn, Nguyễn Lưu, Từ Văn Ri, Huỳnh Đình Hai, v.v… còn trong ban chấp hành của Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp tức ban chấp hành Tổng Công đoàn thì không thấy cần có đại biểu của ban lãnh đạo Thanh niên Tiền phong, khi cần thì mới đến dự. Bên cạnh Thanh niên Tiền phong không một ai đòi phải “có đi có lại”; ai cũng thấy rằng “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp” chỉ có thể nâng cao uy tín của Thanh niên Tiền phong. Không một ai bảo rằng Tổng Công đoàn mang tên “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp” là Tổng Công đoàn “theo đuôi Thanh niên Tiền phong” hay “hoà tan vào Thanh niên Tiền phong”; trái lại nhiều người thấy ở hành động đó một cách thực hiện quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân. “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp” không mang đồng phục như Thanh niên Tiền phong mà mặc y phục công nhân viên chức hàng ngày. Có điều là hội họp hay diễu hành ngoài phố, Thanh niên Tiền phong xí nghiệp không có bài hát riêng của mình mà vẫn hát “Lên đàng” như các tổ chức Thanh niên Tiền phong. Việc tập bài “Quốc tế ca” chưa được chú ý lắm. Một nhạc sĩ nổi tiếng hồi đó bảo tôi làm một bài thơ để anh em theo đó mà phổ nhạc cho công nhân. Nhưng tôi bổ củi dễ hơn làm thơ, cho nên cuối cùng thì Thanh niên có bài hát của họ, còn công nhân thì không; đêm 24 rạng 25, vài trăm ngàn công nhân Sài Gòn tập hợp chật đường Kitchener[5] từ mé sông đến ga, mà chẳng hát lên được một bài hát nào của riêng công nhân cả, ấy là một thiếu sót.
“Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp” đến giữa tháng 8 năm 1945 tập hợp được 120.000 đoàn viên, 324 công đoàn cơ sở; cộng với 80.000 Thanh niên Tiền phong thì “tay phải, tay trái” của Đảng, tức là công nhân và thanh niên, riêng ở trong Sài Gòn đã là 200.000 rồi, chưa kể ngoại thành. Trong số này, bọn tôi lựa lọc tổ chức non già 300 đội xung phong gồm chừng 20.000 người có tập luyện quân sự chút đỉnh ở một số sân banh, nhằm vào nhiệm vụ làm mũi nhọn cho những cuộc chiến đấu quyết liệt khi cần thiết (nghĩa là nhằm vào nhiệm vụ xung kích trong một cuộc khởi nghĩa cách mạng).
Vậy thì trong Sài Gòn khi ấy, Xứ ủy đã tập hợp được một “đội quân chính trị” như mong muốn: Thanh niên và Công đoàn đông 200.000 người, đó không phải con số của tờ giấy báo cáo lên cấp trên mà thực tế mọi người đều mắt thấy trên các đường phố, trên các sân banh, trong các cuộc biểu tình, các lần tuyên thệ.
Gần đến ngày khởi nghĩa thì “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp” lấy lại tên Tổng Công đoàn, và Tổng Công đoàn cũng như Thanh niên Tiền phong đều cùng lúc tuyên bố công khai là thành viên của Mặt trận Việt Minh.
Thanh niên Tiền phong là một sự sáng tạo của phong trào nhân dân Nam Kỳ. Nhờ đó mà Đảng Cộng sản, trong một thời gian tương đối ngắn, đã có thể trở thành đoàn thể yêu nước có lực lượng tổ chức lớn nhất ở Sài Gòn và toàn bộ Nam Kỳ, nghĩa là Đảng Cộng sản có một “đạo quân chính trị” hùng hậu như mong muốn.
8. Trí vận có hiệu quả cao, cao nhất trước nay
Tôi không được nhớ trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng từ 1930 đến 1940, có cái nào chuyên bàn về vận động trí thức. Đủ các chỉ thị, nghị quyết về vận động công, nông, binh, thanh, phụ, tự vệ, dân tộc ít người, mặt trận phản đế. Còn về trí thức thì hình như là chưa. Hồi giữa năm 1930, bị trục xuất từ Paris về Sài Gòn sau cuộc biểu tình của sinh viên Việt Nam trước dinh Tổng thống đòi thả những người chiến sĩ Yên Bái bị xử tử, tôi liền được Bí thư Xứ ủy Ung Văn Khiêm, bí danh là Huân, kết nạp ngay[6] vào Đảng Cộng sản Đông Dương và trao cho nhiệm vụ vận động học sinh và tổ chức hội phản đế. Tôi cùng làm việc với Hải Triều[7] và Phan Bôi[8]. Học sinh (trung học) chưa phải là trí thức. Hồi đó ở Sài Gòn lớp học cao nhất là lớp tú tài; mỗi niên khoá chỉ có năm, bảy người; và chỉ có một trường có cấp ba thôi; chưa có đại học, chưa có sinh viên. Còn trong hội phản đế, có thể có trí thức, nhưng trong phản đế có nhiều hạng người khác: tư sản, tiểu tư sản, tín đồ tôn giáo, v.v…Vậy, công việc của tôi hồi 1930 không phải chủ yếu là trí vận. Mà hồi đó Hải Triều, Phan Bôi, cả tôi nữa, đều đánh giá thấp khả năng tham gia cách mạng của trí thức. Chúng tôi chỉ hy vọng kéo về mình những thầy giáo nghèo, những viên chức nhỏ, chớ còn trí thức bự, viên chức lớn, mấy ông Tây da vàng đó thì bọn tôi xin không chịu mất thì giờ để tới lui tuyên truyền cách mạng cho họ. Tư tưởng đó ít nhất là sai một phần; quơ đũa cả nắm, đánh giá quá thấp khả năng yêu nước của trí thức; đánh giá thấp quả là không đúng mà trong thực tế thì số trí thức lớn ít lắm, càng ít tham gia cách mạng.
Hồi 1930-1931, thành kiến đối với trí thức Tây học khá phổ biến, và thật ra cũng không phải là không có căn cứ gì. Tụi tôi, đứa dạy trung học, đứa viết báo, cũng có thể xem là trí thức rồi, không bự mà cũng không đến nỗi nhỏ. Ấy thế mà lươn chê lịch nhớt[9], tụi tôi xem thường trí thức. Trong lúc đó thì nhiều đồng chí nông dân cũng có thành kiến khá nặng đối với chính bọn tôi, xem nhẹ bọn tôi, đừng nói gì là đối với các ông trí thức “bự”: bác sĩ, trạng sư, kỹ sư, hạng trí thức thượng lưu “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”. Đâu đâu, ngoài tự do và trong nhà tù, người ta luôn luôn đụng phải cái tư tưởng khá phổ biến là trí thức mất gốc, trí thức không kiên định, trí thức bị văn hoá thực dân nhồi sọ. Dạo đó Trung ương Đảng đã từng nghiêm khắc phê bình cái thứ “chủ nghĩa cộng sản ấu trĩ tả khuynh” ấy ở Nghệ Tĩnh. Vậy mà nó đã mau hết đâu? Rồi, hồi những năm phong trào Mặt trận dân chủ, “chủ nghĩa cô độc” lại một lần nữa bị Đảng đả phá. Ấy thế mà nó còn sống hoài. Trong thực tế, trí thức Việt Nam tham gia phong trào trong khoảng 1936-1939 cũng khá chớ không đến đỗi hầu như vắng mặt như trong những năm 1930-1931. Nhưng từ chiến tranh thế giới đến giờ với sự bại trận thảm hại của Pháp trước sức tấn công của Đức. Rồi theo đà thắng của Liên Xô và đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng ta, với cuộc tuyên truyền mạnh mẽ và tha thiết cho chủ nghĩa yêu nước, người ta nhận thấy tư tưởng của trí thức thiên về tả hơn trước, vấn đề được đặt ra cho tụi tôi là làm thế nào để đưa họ vào một phong trào có tổ chức của nhân dân do Đảng lãnh đạo. Một phong trào cách mạng giải phóng dân tộc mà thiếu sự tham gia tích cực của trí thức thì chưa phải đủ tầm rộng lớn cần thiết. Phong trào cách mạng cần có trí thức để có thêm sức mạnh: ít nhất là những người trí thức yêu nước có thể hô hào học sinh, thanh niên và quần chúng đông đảo chắc chắn sẽ làm cho trí thức gần gũi dân, đi với dân. Riêng trí thức thì lẻ tẻ, yếu sức và không mấy khi mạnh dạn, họ phải được khuyến khích ủng hộ bởi nhân dân; trí thức cần có phong trào của nhân dân thì mới thực sự vượt qua nổi những nhược điểm vốn có của tầng lớp xã hội mình. Nhiều lần tôi đã bàn luận trong Xứ ủy về khả năng của trí thức; thì nhiều anh như anh Phúc, với tôi nhắc lại rằng hồi Nguyễn Ái Quốc lập “Thanh niên”, những hội viên đầu tiên là những trí thức thời đó, cả Tây học lẫn Nho học; như trí thức Nho học thì có Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, cả anh Nguyễn Ái Quốc nữa; Tây học thì có Ngô Gia Tự ở Bắc, Trần Phú, Phạm Văn Đồng ở Trung, Châu Văn Liêm ở Nam. Thời ấy ít ai có bằng cử nhân, thì tú tài díp-lôm, bơrơvê là trí thức rồi. Họ đều trở thành đảng viên lãnh đạo, kiên cường, không có lý do cơ bản nào để xem rẻ trí thức. Trí thức tựa như gạch nung, riêng lẻ thì chẳng thành gì, có hồ, xi măng thì thành tường, thành lũy, hồ xi măng là tư tưởng yêu nước, là chủ nghĩa Marx-Lenin, là quần chúng nhân dân.
Vào năm 1943, khi bắt tay vào việc thiết thực chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn, thì Xứ ủy nhiều lần đả động tới vấn đề trí thức; sang 1944 còn bàn; đến 1945 lại bàn nữa. Nhưng chúng tôi chưa tìm ra giải đáp của vấn đề: phải tổ chức trí thức cách nào, vào đâu, theo chương trình hành động gì. Trong Nam, mãi đến sau cách mạng thành công chúng tôi mới hay rằng Đảng có “Đề cương văn hoá” và “Hội Văn hoá cứu quốc”. Trước đó, ở Nam, chúng tôi ở trong cái thế phải tự vạch lối mà tiến.
Khi bàn về trí vận, tôi thấy không một ai trong Xứ ủy xem nhẹ vấn đề. Không biết thì có, xem nhẹ thì không. Bây giờ số trí thức Tây học ở Sài Gòn đông hơn bất kỳ ở nơi nào khác trên đất nước ta. Cả Pháp lẫn Nhật đều ra sức lôi kéo trí thức. Các chính đảng tư sản gồm không ít trí thức. Ngay cả các giáo phái, hoặc tự họ “thỉnh” một số trí thức bự vào hàng ngũ để tỏ ra mình có những nhà thông thái chớ không phải chỉ gồm những dân dốt và đồng bào mê tín; hoặc có những ông trí thức, kể cũng lớn, tìm cách vào giáo phái để làm “cố vấn” mà thực ra là để có lá phiếu trong các cuộc bầu cử làm hội đồng này nọ, hay để cho nhà cầm quyền thấy “ta” có thực lực quần chúng sau lưng. Trong cấp xứ, cấp thành không ai xem nhẹ vấn đề trí thức, ai cũng nhận thấy rằng đây là một trận địa đấu tranh tư tưởng và đấu tranh chính trị quan trọng. Còn làm trí vận thật sự thì phần nhiều các đồng chí đều “ngán” trừ Bảy Trấn và tôi. Anh Oanh (Bạch Đằng lớn) giãy nảy nói: Vận động công nhân, thủ công, dân nghèo thì tôi bảo đảm tất; còn bác sĩ, kỹ sư, trạng sư, giáo sư thì tôi xin chịu, cái bọn i-tờ tụi tôi mà xáp gần họ sao nổi? Họ hỏi mình bí thì mình vận ai được? Anh Khuy, bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho; tự tin hơn: lịch sử, văn chương, khoa học, mình thua họ là tự nhiên, nhưng lý luận cách mạng, kinh nghiệm đấu tranh thì mình có nhiều hơn họ và nói “vận” tức là nói cái này, là nói cách mạng và đấu tranh, vậy thì ta ít học mà cứ trí vận được chớ sao không? Nhưng ở tỉnh của Khuy, trí thức “bự” có thể đếm chưa hết đầu ngón tay mà Khuy cũng chưa “vận” được một móng trí thức nào. Hồi 1943-1944, chúng tôi kiểm điểm lại, thấy trong cấp ủy, trong số cán bộ xung quanh cấp ủy, không còn ai là trí thức bự cả: các anh Thủ, Văn (cả hai đều là kỹ sư) thì đã chết rồi. Nguyễn (nhà văn) thì chưa ra khỏi “thảo lư”. Rốt cuộc rồi thì Trấn và tôi “bao sân” trong lúc chờ đợi thành quả của một công việc khó khăn và lâu dài là đào tạo một số đồng chí trí thức để họ vận động trong giới của họ. May quá, chúng tôi sớm gặp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và một số anh em bấy giờ gọi là “của trời cho”.
Trước hết bọn tôi phải trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Ai là trí thức? Người có học nào thuộc phạm trù trí thức? Vận động trí thức là vận động ai, vận động những giới nào?”. Phải xác định phạm vi công tác, phải biết đối tượng tuyên truyền, tổ chức. Bọn tôi xác định phạm vi trí vận là: giáo sư các trường kể cả tiểu học, chuyên nghiệp, trung học công và tư; bác sĩ, dược sĩ, y sĩ; trạng sư và những người làm nghề luật, toà án, kỹ sư và đốc công; chuyên môn quản lý ở các xí nghiệp công và tư; nhà văn, nghệ sĩ, nhà báo. Bọn tôi cho rằng không đợi đến có cấp bằng đại học mới thuộc vào phạm trù trí thức. Ai sống bằng cái trí óc, cái học vấn của mình, bao gồm các người có bằng cấp cao, là trí thức (sau này gọi là lao động trí óc; Phạm Văn Đồng chế ra từ “Lao động trí lực”). Trí thức thì có trí thức “bự”, có trí thức nhỏ, có trí thức “roi roi”. Nhỏ và “roi roi” đông hơn “bự” hàng mấy chục lần, nhưng có uy thế trong xã hội là những ông “bự”; những trí thức “bự” mà có tư cách, tiến bộ, là tiêu biểu đại diện cho số đông trí thức. Nghe nhận thức như vậy thì Oanh đỡ lo, vì bản thân anh đã quen biết hàng chục ông bà giáo tiểu học rồi. Song, nói trí vận là nói vận động trí thức “bự” tiêu biểu là quan trọng nhất bởi vì họ có nhiều uy thế trong dân; nếu ta đưa họ vào hàng ngũ của ta được, vào phong trào của dân tộc được, thì sẽ có hàng trăm, hàng ngàn người đi theo họ. Nếu một Lưu Văn Lang ủng hộ ta thì trí thức lớn nhỏ sẽ ủng hộ ta đông lắm. Nếu các giáo sư Đặng Minh Trứ, Lê Văn Huấn, Hồ Văn Lái đi với ta, thì hàng trăm cựu học sinh, hàng trăm phụ huynh học sinh cũng sẽ mạnh dạn đi với ta. Lẽ cố nhiên là Đảng phải tập hợp trí thức nhỏ, vì họ chỉ là những người “vô sản mặc sơ-mi trắng” mà thôi!
Thật không phải dễ vận động trí thức. Trí thức có nhiều ưu điểm mà cũng có nhiều nhược điểm lắm, chưa kể đến việc rất quan trọng mà cũng khó khăn là đấu tranh chống mọi thứ hoạt động của Pháp và của Nhật trong mưu đồ của chúng lôi kéo trí thức. Decoux mở rộng diện vô dân Tây và dùng một số công chức Việt Nam trả lương theo ngạch Tây; đồng tiền “hấp dẫn” khá lắm. De Gaulle hứa hẹn tự trị cho Đông Dương, cố giữ Đông Dương trong khối kinh tế văn hoá Pháp mà trí thức thì quen thuộc với văn hoá Pháp. Còn Nhật thì hẹn sẽ ban độc lập cho Việt Nam, cổ vũ cho tính cao đẳng của văn hoá Phù Tang. Có nhiều nhà trí thức Tây học vào những chính đảng thân Nhật; như giáo sư Hồ Văn Ngà, một bạn thân của tôi, một trong số 18 người cùng tôi bị trục xuất từ Paris về Sài Gòn hồi 1930.
Trước 1945, xem như bọn tôi không làm được gì đáng kể lắm về trí vận, trừ sự giao thiệp cá nhân và bắt đầu giúp sức cho phong trào sinh viên học sinh thanh niên. Bây giờ đi vào công tác cụ thể, anh em phụ trách thanh vận Sài Gòn có mấy cái “ngờ” cần phải đánh đổ thì họ mới làm việc được.
Họ bảo: “trí thức Sài Gòn “Tây” lắm! “Tây” nghĩa đen là tiêm nhiễm sâu sắc văn hoá và tập quán Pháp; “Tây” nghĩa trắng là dân Tây. Tây da vàng mũi xẹp ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ đông hơn ở Bắc, Trung gấp bội; đã là Tây thì khó thật thà yêu nước Việt Nam, đừng nói gì là trở thành cách mạng. Họ biết địa lý, lịch sử, chính trị nước Pháp nhiều, chớ biết gì về Việt Nam đâu? La Gaulle họ biết rõ; Văn Lang, Âu Lạc họ biết ít. Họ suy nghĩ bằng tiếng Pháp trước rồi sau mới dịch ra tiếng ta để nói lên, nói ấp a ấp úng. Chẳng những ở công sở, ngoài đường, họ giao tiếp với nhau bằng tiếng Pháp mà ngay cả trong gia đình họ cũng nói tiếng Pháp với nhau. Trong các nhà ông Văn Vĩ, Phạm Ngọc Thuần, Lưu Văn Lang, Thái Văn Lung người ta nói toàn bằng tiếng Pháp. Nhiều nhà khác, hở môi ra là “toa”, là “moa”, nửa nạc nữa mỡ; cho nên thầy Dương Minh Thới viết ra kịch cười “Toa toa moa moa” một thời nổi tiếng. Đó là chưa kể rằng khá nhiều ông Tây Annam là đạo dòng. Vậy thì làm sao tuyên truyền cách mạng cho họ được, làm sao đưa họ ra hoạt động vì độc lập dân tộc được? May mắn thì họ sẽ tán thành một nước Việt Nam tự trị đối với Pháp, kiểu Canada hay Australia đối với Anh. Nếu ta hy vọng nhiều vào họ thì ta sẽ thất vọng lớn vì họ.
Thật cũng có một phần như vậy; nhưng chỉ một phần thôi. Ta sẽ phạm sai lầm nghiêm trọng nếu ta khẳng định rằng hễ nhập quốc tịch Pháp là bỏ Tổ quốc Việt Nam, hễ nhiễm nặng văn hoá Pháp thì mất gốc dân tộc Việt Nam. Số người theo Tây cả hồn lẫn xác không chỉ có một vài tên, song phần nhiều vào dân Tây trước hết là để có quyền lợi vật chất và chính trị như Tây. Gốc dân tộc Việt Nam ở số đông vẫn còn; biết khêu lên thì nó trỗi dậy. Mấy người dân Tây, học Tây mà không thích canh chua cá kho? Nói tới con cháu Lạc Hồng, Bà Trưng, Hưng Đạo, Nguyễn Trãi thì họ tự hào liền. Máu Việt Nam sẽ chảy mạnh trong mạch của họ, họ như một hạt đá qúy bọc lại trong một cái vỏ bằng vải, bằng da, ta cứ bóc cái vỏ ấy ra thì bản chất dân tộc của họ lại xuất hiện tươi đẹp, cần trau dồi hạt đá quý ấy. Mà Đảng ta thì có dụng cụ, có thợ để trau dồi. Lẽ nào chúng ta lại thua cuộc vận động “đồng hoá” về văn hoá của thực dân Pháp? Vậy chớ ngày xưa ông cha ta học Hán mà đánh Tàu đó thì sao? Văn hoá nước ngoài, nếu qua cái bàn lọc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thì trở thành vũ khí phục vụ cho sự phục hưng của dân tộc ta một cách chắc chắn.
Không ít anh em bảo rằng: “Trí thức ‘bự’, số đông cũng là địa chủ, tư sản. Người ta kể trường hợp kỹ sư Kha Vạn Cân là chủ lò nấu sắt đúc thép đầu tiên ở Sài Gòn; Văn Vĩ làm giám đốc Pháp –Hoa ngân hàng; bác sĩ Nguyễn Văn Thủ đi học bên Pháp hồi mười tuổi, con nhà địa chủ lớn vào bậc nhất của quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long với mấy ngàn giạ lúa ruộng. Dược sĩ Trần Văn Luân (và bao dược sĩ khác) mở tiệm bán thuốc Tây, làm thuốc Tây khá lớn trước cửa chợ Sài Gòn. Kỹ sư ủy viên Hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương Huỳnh Thiện Lộc là cháu Cả Bé có hàng chục ngàn mẫu ruộng. Đó là chưa kể mấy thầy cử, ông tú làm cò mi, huyện, phủ, làm ông phán rồi khẩn đất, mua ruộng, mua phố. Quan hệ với địa chủ tư sản như thế đi cách mạng thế nào được? Làm gì có chuyện họ dám hy sinh cái chăn êm, chiếu ấm, cái ô-tô, cái villa để đổi lấy cực khổ của đời cách mạng bao giờ? Bỏ công vào đó như ném tiền xuống sông, vô ích hay là có hiệu quả không tương xứng”. Nhiều đồng chí bảo như vậy, nhất là các đồng chí nông dân.
Những cái đó có thật. Thật có những dây quan hệ giữa trí thức “bự” với thực dân, địa chủ, tư sản. Ai chối cãi làm gì? Không kể tới quan hệ giai cấp thì đâu còn là theo chủ nghĩa Marx-Lenin nữa. Song, có mấy điều cần chú ý thêm: thứ nhất, không phải tất cả các trí thức lớn đều như vậy; nhìn chung các ông giáo sư đều nghèo “rớt mòng tơi”. Thứ hai: có thể trông thấy, qua kinh nghiệm lịch sử của chính quyền ở nước mình, là trong trí thức ta, cái đặc tính “trọng nghĩa khinh tài” vốn có và có nhiều từ lâu đời, nay vẫn còn đậm. Vì nghĩa lớn, nhiều người có thể vứt bỏ giàu sang bóc lột và an nhàn nô lệ. Mà giải phóng dân tộc là cái nghĩa lớn nhất. Huống chi đối với một số trí thức có chuyên môn giỏi, những ruộng vườn, nhà cửa, cửa tiệm, chức tước kia không đến đỗi ràng buộc họ lắm đâu. Họ còn tài riêng của họ, cái đó mới là vốn lớn nhất, ai tước họ được, thời nào cũng cần họ, họ cần gì tô tức, lợi nhuận? Thứ ba, và điều này Mác cũng đã nhấn mạnh, nếu ở người công nông người ta bắt đầu giác ngộ cách mạng bằng quyền lợi sinh sống hàng ngày, thì ở tầng lớp trí thức người ta có thể giác ngộ cách mạng bằng cái ý thức về lẽ tất yếu của lịch sử. Nói một cách khác, những người trí thức chân chính vừa có thể đi về với cách mạng bằng tấm lòng yêu nước vốn có và tinh thần dân tộc truyền thống, họ lại vừa có thể đi với cách mạng bằng sự tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin, sự nhìn thấy lẽ tất yếu của lịch sử và, thật ra, xét cho cùng, chỉ có chủ nghĩa Marx-Lenin mới thoả mãn được trí tuệ thông minh của họ. Trí thức Việt Nam chân chính là một miếng đất dễ thấm tư tưởng cách mạng của Đảng.
Tôi nhiều lần, nhiều nơi giải thích cho anh em như vậy. Anh em tán thành. Chính lúc đó tôi được tiếp sức bởi phong trào sinh viên Nam Kỳ từ Hà Nội về Sài Gòn nghỉ hè và nhất là phong trào “xếp bút nghiên”, một phong trào có tiếng dội lớn và dài, nói lên rằng trí thức có thể đông đảo đi vào con đường yêu nước, dám hy sinh quyền lợi, danh vọng riêng. Trường hợp các bạn tôi ở Paris năm 1930, là một bằng chứng: chúng tôi đang học, mà cứ đi biểu tình ủng hộ khởi nghĩa Yên Bái; bị trục xuất, sợ gì? Đường lập thân không phải chỉ có hoạn lộ.
Anh Nguyễn Văn Trân (Bảy Trân ở Phú Lạc), người đã đứng lên phát hành một cuốn sách chống chủ nghĩa Trốtkít (1938), lưu ý tôi về một đặc điểm tư tưởng trong giới trí thức, công chức Sài Gòn những năm 1936-1939, ấy là ảnh hưởng chính trị của nhóm La Lutte, nhóm đệ tứ Trốtkít. Anh Trân nói: ở Huế ảnh hưởng chính trị của đệ tứ là một con số không thật tròn. Ở Hà Nội thực lực của đệ tứ không đáng kể. Nhưng ở Sài Gòn, không ít trí thức, công chức bỏ phiếu cho nhóm La Lutte, lập luận kiểu La Lutte, công kích Mặt trận Dân chủ Đông Dương, phê phán Liên Xô. Trân nhắc lại rằng, hồi 1940, lúc chúng tôi bị bắt đi Tà Lài thì một số trí thức nổi tiếng của thành phố tập hợp xung quanh tờ Văn Lang viết một số bài chống Xô Viết. Trân cho rằng làm trí vận ở Sài Gòn nhất định sẽ đụng phải cái trở ngại Trốtkít.
Tôi thấy đáng chú ý tới lời căn dặn của Bảy Trân. Tôi không xem thường đám đệ tứ; họ có học; nhưng tôi không đánh giá họ và ảnh hưởng họ cao lắm đâu. Nói là đám đệ tứ, chứ thật ra trong ấy có ba thứ đệ tứ: Nhóm La Lutte của Tạ Thu Thâu, nhóm Militant của Hồ Hữu Tường, nhóm Octobre của Lư Sanh Hạnh. Họ chưa hề thống nhất thành một Đảng. Trên thế giới cũng vậy, chưa thấy ở một nước nào mà nhóm Trốtkít thống nhất thành một Đảng. Trốtkít chưa hề vượt quá “cơ cấu nhóm” thì làm sao làm cách mạng? Chỉ nói cho sướng miệng. Ảnh hưởng tới trí thức công chức là nhóm của Tạ Thu Thâu. Song, phải nhận thấy rằng một số trí thức đáng kể đi với La Lutte, trong một thời gian dài gồm ba nhóm hợp tác với nhau: Nguyễn Văn Tạo, Võ An Ninh, Tạ Thu Thâu. La Lutte của Thâu thừa hưởng cái đó mà bản thân chủ nghĩa Trốtkít không làm sao có được. La Lutte viết tiếng Pháp cứng, trí thức Sài Gòn thích cái văn ấy, một cái văn làm cho người ta nhớ L’Annam, La Cloche Fêlée. Trí thức thích La Lutte công kích chủ nghĩa thực dân, chắc gì họ thích cái tư tưởng “hư vô dân tộc” của Trần Văn Thạch, cái “chủ nghĩa cô độc” của Tạ Thu Thâu mà Nguyễn An Ninh đã phê phán mạnh mẽ? Ảnh hưởng của La Lutte đâu phải chỉ là ảnh hưởng của chủ nghĩa Trốtkít. Nếu ta gần gũi những người ấy giải thích cho họ hiểu, nếu bằng thực tiễn ta chứng tỏ rằng ta chân thành, rằng dân theo ta, ta có khả năng lãnh đạo, có khả năng làm cách mạng thành công, thì họ sẽ đi với ta, còn những kẻ thọc gậy bánh xe thì lịch sử sẽ loại chúng ra thôi. Đừng trách sao hồi 1939,1940, có người trí thức Sài Gòn thắc mắc vì sao Liên Xô ký hiệp ước bất tương xâm phạm với Đức rồi kéo quân sang Ba Lan thu hồi nhiều đất mà Nga đã mất vào năm 1919. Trong những vấn đề chính trị, ngoại giao rắc rối khi chiến tranh thế giới sắp nổ ra và bắt đầu, ngay cả một số đảng viên cộng sản còn mù tịt, lo âu, không hiểu, dao động, thì trách gì người trí thức bình thường? Tôi không thành kiến. Tôi quyết đến với trí thức “bự” ở Sài Gòn cho dầu họ là dân Tây, đạo dòng, giàu có, Trốtkít, miễn là họ sạch sẽ, thật thà, yêu nước, cầu tiến. Tôi không chủ quan đến đỗi tin rằng mình sẽ giành toàn thể trí thức, gỡ hết trí thức Sài Gòn ra khỏi tay Pháp-Nhật, hay là ra khỏi thái độ thờ ơ với vận mệnh nước nhà; song tôi và các bạn của mình quyết tâm đưa số đông về “chăn chiếu” với đồng bào trong cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Làm thì có thắng, có bại, nhưng thành tâm và bền chí là điều tôi không thiếu. Mình yêu nước, yêu dân, có can trường đấu tranh cho độc lập, tự do, dân chủ và mình có lý luận cách mạng vững thì trí thức đa số sẽ đứng về phía mình.
Ngay từ cuối năm 1943, trong lúc tôi để phần lớn thì giờ và nghị lực vào việc mấu chốt là xây dựng Đảng và công vận thì tôi không quên tìm cách trực tiếp với một số trí thức “chọn lọc”, với cái ý định khiêm tốn là xây dựng cho nên một số đồng chí có tên tuổi, có địa vị xã hội, có tiếng tăm chuyên môn, có tư cách đứng đắn để giao việc trí vận cho họ. Trí thức làm trí vận mới hay, cũng như công nhân làm công vận mới tốt, chớ mình từ xa “bỏ cần câu vào” thì khó đạt hiệu quả cao.
Tôi nhớ một chiều tối năm 1943, một thanh niên Phú Lạc, giỏi võ, chở xe đạp tôi đến nhà bác sĩ Hồ Tá Khanh ở góc đường Pellerin-Colombert[10] ngó ra vườn cây sao trước dinh toàn quyền. Tôi vào một mình. Bấm chuông. Người nhà ra hỏi ai. Trả lời: Bạn cũ từ bên Pháp đến thăm. Cửa mở. Khanh ngó tôi một giây rồi khẽ kêu: Giàu, anh Giàu! Lâu nay tụi mình không gặp nhau! Khanh không thay đổi mấy, cặp mắt xếch một chút, người cao cao, ăn nói có duyên, lịch thiệp, con của nhà chí sĩ trong Duy Tân hội (Hồ Tá Bang), kinh doanh nước mắm ở Phan Thiết. Khanh nguyên là sinh viên y ở Marseille, bây giờ là bác sĩ nhi khoa nổi tiếng nhất ở Sài Gòn. Anh biết tôi vượt ngục. Hình như kỹ sư Phan Hiếu Kinh đã nói nhỏ với anh là có gặp tôi làm thợ hồ ở Đà Lạt. Tôi tranh thủ thời giờ để sau khi hỏi thăm qua loa, nói văn tắt về tình hình và nhiệm vụ. Khanh hỏi tới đâu, tôi trả lời đến đó. Câu chuyện giết hết nửa giờ thì tôi xin từ giã. Khanh bảo tôi ngồi chờ một chút. Anh đi vô buồng. Tôi hơi lo. Ông ấy đi đâu? Nếu nghe tiếng chuông tê-lê-phôn thì tôi sẽ nhảy liền. Nhưng chỉ nghe tiếng mở tủ sắt. Khanh trở ra salon, đưa tôi một cái phong bì no nóc. Anh nói: “Đây là số tiền còn lại của báo Văn Lang mà tôi là thủ quỹ. Văn Lang chết, tụi tôi làm tuần, làm giỗ cho nó, ăn mãi chưa hết; nay còn bấy nhiêu đây. Thay mặt anh em, tôi trao cho anh làm việc có ích”. Tôi cám ơn và hẹn sẽ trở lại nhưng không biết chừng nào, chắc là còn lâu. Tháng 4 năm 1945, tôi gặp lại Khanh một lần nữa khi Trần Trọng Kim mời Khanh làm tổng trưởng Bộ Kinh tế; khi ấy Khanh nhắn tôi đến nhà anh để hỏi coi có nên hay không nên nhận lời mời ấy[11], sự thật là để báo tin cho tôi rằng anh sắp ra Huế.
Có lần tôi lại thăm giáo sư Lê Bá Cang, hiệu trưởng trường trung học tư thục Lê Bá Cang. Cang, nhà riêng ở đường Pierre Flandin[12], gần căn nhà xưa của báo La Cloche Fêlée. Cang cũng bị trục xuất với tôi từ Paris về Sài Gòn, sau cuộc biểu tình trước điện Elysées hồi tháng 5 năm 1930. Vẫn anh ấy, nhỏ thó, đen đúa, lớn tuổi mà tính vui, nói toàn tiếng Pháp. Tiếng Pháp của anh rất là Pháp. Cang kín đáo không phát biểu ý kiến chính trị. Nhưng khi đưa tôi ra cửa, anh cũng trao cho một phong bì dầy.
Thú vị nhất là cuộc gặp gỡ bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, cũng năm 1943. Anh này chưa hề biết mặt tôi, chỉ biết tên. Tôi mặc áo Cao Đài, đi guốc vông vào phòng khám bệnh của anh lúc gần cuối giờ khi số khách của anh đã thưa. Tới phiên tôi được khám. Bác sĩ ngạc nhiên một cách thích thú khi tôi cười nói rằng tôi là Trần Văn Giàu, có giấy giới thiệu của Bảy Trân. Về sau, có người tưởng đâu rằng tôi tuyên truyền cộng sản cho Thạch. Không phải, ông bác sĩ này đã là “cộng sản không phải đảng viên” từ lâu rồi, đâu hồi anh còn ở bên Pháp kìa. Cho nên mấy đồng chí cộng sản Pháp ở Sài Gòn đều quen thân với Thạch. Cái mà tôi đem lại cho Thạch có hai điều. Điều thứ nhất là theo yêu cầu của Thạch tôi phải giải thích tại sao Liên Xô ký hiệp ước bất tương xâm phạm với Đức quốc xã, tại sao Hồng quân Liên Xô sang chiếm đóng miền Đông Ba Lan. Tôi đã đọc báo Văn Lang, đọc những bài của Thạch và của các anh em khác về những vấn đề này cho nên tôi giải đáp thắc mắc trúng hẳn những thắc mắc của họ. Điều thứ hai là tôi trình bày cho Thạch vắn tắt mà đầy đủ và có hệ thống tình hình, nhiệm vụ, triển vọng cách mạng Việt Nam. Xem chừng như ông bác sĩ này bằng lòng lắm. Tôi còn gặp Phạm Ngọc Thạch mấy lần và lần nào anh cũng đặt những vấn đề lý luận và thực tiễn. Cuối cùng tôi đề nghị Thạch vào Đảng Cộng sản Đông Dương; anh đồng ý. Như vậy là từ đó, từ 1944[13], ở Sài Gòn chúng ta có một trí thức cỡ “bự” trong Đảng, và có thể qua anh Thạch mà làm trí vận được. Thạch giao du rộng và có uy tín về nghề nghiệp cũng như về nhân cách đối với trí thức thành phố. Đáng chú ý là cả Pháp lẫn Nhật đều không nghi Phạm Ngọc Thạch là cộng sản. Bọn tôi giữ rất kín việc đưa Thạch vào Đảng, với ý định là giấu một con bài a-tu[14], ngày nào đó sẽ ném xuống bàn, để thắng cuộc. Một số đồng chí bảo rằng tôi không điều tra kỹ khi nhận Phạm Ngọc Thạch vào Đảng. Tôi có điều tra kỹ, kỹ lắm. Và bởi vì biết kỹ nên tôi thấy “con cờ Phạm Ngọc Thạch” sẽ có lúc đắc dụng phi thường ở Sài Gòn. Pháp, Nhật làm sao có thể nghi ngờ rằng Thạch là đảng viên cộng sản được? Sẽ đắc dụng là vì vậy trước hết.
Phạm Ngọc Thạch (người thứ nhì, từ bên phải) ở chiến khu Nam Bộ (cuối thập niên 1940)
Làm trí vận, bọn tôi ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ không chủ trương lập một tổ chức riêng, bí mật cho trí thức (và văn nghệ sĩ) như ở Bắc. Vả lại khi ấy chúng tôi chưa biết có hội “Văn hoá cứu quốc” đã ra đời ở Bắc. Bọn tôi muốn đặt trí thức vào trong một tổ chức quần chúng rộng lớn, hoạt động, chiến đấu, trong đó họ đóng một vai trò quan trọng. Trí thức lớn vốn xa quần chúng; xa quần chúng thì khó mà có tinh thần cách mạng cao, khó mà tin tưởng vững chắc vào tiền đồ của cuộc giải phóng dân tộc bằng lực lượng của bản thân dân tộc mình. Có hai tổ chức quần chúng ở Nam Kỳ, trong đó trí thức có thể phát huy tác dụng của mình, là “hội truyền bá quốc ngữ” và cao hơn, hoạt động cao hơn là đoàn Thanh niên Tiền phong. Trong hội truyền bá quốc ngữ, các nhà trí thức đứng tên “thị chứng” cho sinh viên, học sinh, trí thức nhỏ làm cụ thể những việc hàng ngày. Còn trong Thanh niên Tiền phong thì trí thức (bự) trực tiếp làm việc quản trị, làm thủ lĩnh, làm tráng trưởng, làm huấn luyện viên, làm đoàn viên thường nữa. Ở “Thanh niên Tiền phong” do trí thức và sinh viên phụ trách, đóng vai phụ trách thực sự (chớ không phải trên danh nghĩa như hội truyền bá quốc ngữ). Anh Thạch và các đồng chí Tỉnh ủy có ý thức lựa chọn và đưa ra một số trí thức có tiếng tăm và có uy tín ở các thị xã và hợp sức với cán bộ công khai (của Đảng), lãnh đạo Thanh niên Tiền phong tỉnh. Thanh niên Tiền phong thu hút đại đa số hay là hầu hết trí thức; trẻ tuổi, họ gia nhập đoàn; lớn tuổi, họ cảm tình và làm cố vấn, chủ toạ các cuộc hội nghị, mít tinh biểu diễn tuyên thệ.
Khó mà quên được tên tuổi:
- Các giáo sư: Lê Văn Huấn, Đặng Minh Trứ, Phạm Thiều, Nguyễn Văn Chì, Hồ Văn Lái v.v…
- Các bác sĩ, dược sĩ: Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Trần Kim Quang, Trần Văn Luân, Huỳnh Bá Nhung, Đặng Văn Chung, Ngô Như Hoà, Nguyễn Tá Vinh, Chị Lợi, Trần Nam Hưng, Bùi Sĩ Hùng, Trương Tấn Lũy, Hồ Thế Quang, Trần Văn Đệ, Nguyễn Văn Liễng, Trần Văn Nhựt, Huỳnh Kim Hữu, v.v.…
- Các kỹ sư và kiến trúc sư: Ngô Tấn Nhơn, Kha Vạn Cân, Phạm Ngọc Thảo, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Ngọc, Lý Văn Sâm, Nguyễn Văn Đức, Lưu Văn Lang.
- Các luật sư: Trần Công Tường, Phạm Ngọc Thuần, Thái Văn Lung, Lê Đình Chí, Dương Trung Tín, Huỳnh Văn Lang, cả ông Tây Annam Văn Vĩ nữa.
- Các nghệ sĩ, văn sĩ: Lưu Hữu Phước, Mỹ Ca, Nguyễn Hải Trừng, Huỳnh Tấn, Nguyễn Hữu Ngư, Nghiêm Xuân Việt, Nguyễn Tư, Tiêu Như Thủ, Quách Vũ, Lưu Cầu, Tạ Thanh Sơn v.v…
Đó là chỉ nói người Sài Gòn mà tôi biết hay được anh em báo cáo. Ở lục tỉnh anh em trí thức “bự” gia nhập Thanh niên Tiền phong cũng đông. Ít ai đứng ngoài. Những người này đến với cách mạng hơi lâu trước khi Cách mạng tháng Tám thành công.
Xứ ủy Nam Kỳ có thể nói rằng mình đã làm cho Đảng Cộng sản tự hào được là đã làm cho đa số trí thức Sài Gòn và Nam Kỳ đi với cách mạng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
[1] Bài của Thép Mới: Chúng tôi không có cuốn sách nay, nhưng rất có thể đây là bài đã đăng trên báo Nhân Dân ngày 19.8.1982 mà mạng Báo Mới: http://www.baomoi.com/Info/198-cach-mang-la-sang-tao/122/4674570.epi đã đăng lại. Đây là đoạn liên quan:
“Theo tài liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Hà Nội, cuộc hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương vào đêm mùng chín tháng Ba năm 1945 đã được triệu tập từ hai hôm trước với chương trình nghị sự chủ động bàn về chủ trương đưa phong trào lên một bước phát triển mới, trước tình hình tiềm tàng trực tiếp là Nhật nhất định thế nào cũng hất cẳng Pháp.
(…)
Tối mùng 9, có mặt đông đủ ở chùa làng Đồng Kỵ (thuộc Tiên Sơn, Hà Bắc ngày nay). Chưa kịp họp thì có động, phó lý và trương tuần thấy có người lạ, đến khám xét, hội nghị chuyển về làng Đình Bảng, cách Đồng Kỵ sáu kilômét. Khi đi đến rừng Sặt (địa điểm của trường Đại học Thể dục, thể thao Từ Sơn ngày nay) thì súng nổ đùng đùng từ phía Hà Nội, cách đó trên mười kilômét đường chim bay.
- Nhật - Pháp bắn nhau rồi, anh em ơi! - Đồng chí Trường Chinh reo lên như thế.
Tới nhà cơ sở ở làng Đình Bảng, đồng chí Trường Chinh gặp ngay Bí thư chi bộ xã, yêu cầu tìm người thanh niên nhanh nhẹn đạp xe qua cầu sông Cái, sang bên Hà Nội, nắm tình hình Nhật đảo chính Pháp. Hội nghị họp gần suốt đêm đó, thảo luận trên dự thảo chỉ thị chi tiết mà đồng chí Trường Chinh đã chuẩn bị. Cuộc họp chốc chốc lại bị ngắt quãng bằng những báo cáo tình hình sốt dẻo mà các "phái viên nhân dân đặc biệt" vào tận trung tâm Hà Nội, nắm tình hình, đạp xe nhanh về báo cáo.
Chỉ thị 12-3 "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" ra đời như thế đó.
Kết thúc hội nghị, đồng chí Trường Chinh về ngay làng Viên Nội bên Đông Anh, lúc đó thuộc Phúc Yên, sửa kỹ trong hai ngày, và đưa ngay sang nhà in báo Cờ Giải Phóng, đóng ở thôn bên cạnh in gấp mấy nghìn bản. Từ Hà Nội, đảng tổ chức hai chuyến giao liên mang tài liệu quan trọng này vào Sài Gòn, cộng với một chuyến đặc biệt, chị Nguyễn Thị Thập và anh Dân Tôn Tử, từ trong Nam ra, trực tiếp mang tài liệu về Nam.”
Như vậy là Thép Mới (sinh năm 1925, từ trần năm 1991) đã (chỉ) căn cứ vào tài liệu của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Hà Nội. Thông tin về chuyến đi của bà Nguyễn Thị Thập và ông Dân Tôn Tử như vậy mâu thuẫn không những với hồi ký của ông Trần Văn Giàu, với lời kể của những cán bộ lão thành Nam Bộ, mà còn mâu thuẫn với cả hồi ức của ông Hoàng Tùng, nhiều năm là tổng biên tập báo Nhân Dân, ủy viên Ban bí thư trung ương, thời 1945 lãnh đạo Thành ủy Hà Nội:
“ Trừ mấy trường hợp, như Trần Văn Giàu. Tôi được biết Trần Văn Giàu học ở Liên Xô về. Tôi biết có người tên là Phi Vân cũng học ở Liên Xô Về, vì hư hỏng bị đi tù ở Sơn La. Khoảng năm 1935, ở tù cùng Phi Vân tôi hỏi Phi Vân nhận xét về Nguyễn Ái Quốc, Phi Vân nói: “Ông này không có gì đâu, ở nhà cứ tưởng là nhân vật quan trọng lắm, chứ ông ta dân tộc chủ nghĩa, trình độ lý luận kém”. Đó là cách nhận định về Bác của mấy người đi Liên Xô về. Trần Văn Giàu thuộc loại nói trên. Có lần Trần Văn Giàu nói với tôi năm 1932 về anh là Bí thư, sau khởi nghĩa Nam kỳ bị thất bại, anh em mình nhiều người bị bắt, anh đứng ra lập một tổ chức Tiền Phong, coi như nòng cốt của cách mạng. Khởi nghĩa ở Sài Gòn chính anh là người lãnh đạo. Còn ở Nam Bộ một số đồng chí của ta như Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Nguyễn Thị Thập ra nắm vùng nông thôn. Ba người này ra ngoài Bắc dự Hội nghị Tân Trào. Nguyễn Thị Thập đến không kịp. Ung Văn Khiêm đến chỗ tôi rồi đi Tân Trào, chứ Trần Văn Giàu không được thừa nhận. Việc phân xử Trần Văn Giàu có các lớp đàn anh đi tù ở Côn Đảo về. Họ là bậc thầy ở Nam Bộ, là những người lãnh đạo quen thuộc của nhân dân Nam Bộ. Thế của Trần Văn Giàu yếu đi, về sau điều Trần Văn Giàu đi Xiêm.”
(nguồn: http://www.diendan.org/viet-nam/tu-lieu-hoang-tung-1920-2010-noi-ve-ho-chi-minh/?searchterm=%22ho%C3%A0ng%20t%C3%B9ng%22 - Những kỉ niệm về Bác Hồ)
Trích đoạn này cho thấy rõ Hoàng Tùng không ưa gì Trần Văn Giàu, do đó, khi ông nói rằng đến ngày họp hội nghị Tân Trào (16 tháng 8.1945), bà Nguyễn Thị Thập vẫn chưa ra tới Hà Nội, điều đó không phải nói ra để “bênh vực” Trần Văn Giàu.
[2] SET: Section d’Excursion et de Tourisme (Đoàn du ngoạn và du lịch), xem hoạt động của các đoàn SET ở phần VII.
[3] Về mối tình của ông bà Phạm Ngọc Thạch, có thể tham khảo bài Ba tôi của Colette Phạm Ngọc Thạch (Phạm Như Mai)
http://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/100-nam-ngay-sinh-bac-si-pham-ngoc-thach-7-5-1909-7-11-1968/
[4] Thái Văn Lung: xem tiểu sử trong Nguyên Hùng (http://www.quansuvn.net/index.php/topic,17085.40.html)
[5] Kitchener: nay là đường Nguyễn Thái Học.
[6] Kết nạp ngay: sự thực Trần Văn Giàu đã được kết nạp vào Đảng cộng sản ở Pháp từ năm 1929, khi ông là học sinh trung học ở Toulouse. Theo thực tiễn của phong trào cộng sản thời đó, không có lý do để ông phải được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương khi về nước, mà chỉ cần “chuyển đảng” (tất nhiên, với điều kiện là có bằng chứng đã gia nhập đảng Pháp). Nguyên tắc này được duy trì cho đến những năm 1950 giữa hai đảng cộng sản Việt Nam tại Pháp: những Việt kiều đảng viên ĐCS Pháp về Hà Nội năm 1956 đương nhiên được coi là đảng viên Đảng lao động Việt Nam. Đến năm 1958, nguyên tắc “chuyển đảng” này mới chấm dứt (tuy nhiên, năm 1964, khi bác sĩ Nguyễn Khắc Viện bị chính phủ De Gaulle kín đáo trục xuất về miền Bắc, ông được tính “tuổi đảng” từ năm 1949, là năm ông gia nhập ĐCS Pháp). Có thể xem thêm bài Nguyễn Ngọc Giao: Quan hệ về tổ chức giữa phong trào Việt kiều và Đảng Cộng sản Việt Nam (1945-1990), tạp chí Thời Đại Mới, số 9, tháng 11.2006. (http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai9/200609_NNGiao.htm)
[7] Hải Triều: tên thật là Nguyễn Khoa Văn (1908-1954). Cha là nhà nho Nguyễn Khoa Tùng từng làm nghị viên Viện dân biểu Trung Kì, mẹ là nhà văn Đạm Phương (1881-1947). Ông là nhà lí luận của ĐCS, được biết nhiều trong cuộc luận chiến với Phan Khôi về “Duy tâm hay duy vật”, với Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư về “ Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh ”. Ông là người Việt Nam đầu tiên dịch bộ Tư bản của Karl Marx. Ông hoạt động ở Huế và Sài Gòn, bị Pháp giam tù (1931-1932) và an trí (1940-1945). Có con trai là Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ, có thời làm to.
[8] Phan Bôi: tức Hoàng Hữu Nam (1911-1947), em ruột ông Phan Thanh (cả hai gọi ông Phan Khôi là anh họ). Tham gia tổ chức truy điệu Phan Châu Trinh (1926), gia nhập An Nam cộng sản đảng (1928), Đảng cộng sản Việt Nam (1930). Bị tù đày nhiều lần (1931-1939 ở Sài Gòn, Côn Đảo, 1940-1943 ở Hà Giang, Sơn La, Madagascar). Sau Cách mạng tháng Tám, làm thứ trưởng Bộ nội vụ (cụ Huỳnh Thúc Kháng làm bộ trưởng). Kháng chiến bùng nổ, lãnh đạo ngành công an. Từ trần tại Tuyên Quang năm 1947.
[9] Lươn chê lịch nhớt: Lươn và lịch đều là hai loại cá xương, da nhớt; lươn thì trơn tuột, thân hình thon dài từ đầu đến đuôi; lịch thì phía đuôi (từ rốn trở xuống) có 2 cái vè xòa ra như cánh quạt, như đuôi cá.
[10] góc đường Pellerin-Colombert: góc đường Pasteur và Alexandre de Rhodes.
[11] Trong một dịp phỏng vấn Trần Văn Giàu, ông khẳng định với tôi (Nguyễn Ngọc Giao) là khi bác sĩ Hồ Tá Khanh hỏi ý kiến có nên nhận lời mời tham gia chính phủ Trần Trọng Kim hay không, ông đã trả lời là nên. Điều này cũng tương tự như trường hợp Hoàng Xuân Hãn: khi nhận được lời mời, ông Hoàng Xuân Hãn đã tham khảo ý kiến ông Nguyễn Tạo, ông Tạo cũng nói là nên. Ông Hãn cho biết thêm: sau đó, ông Tạo hỏi lại cấp trên, thì ông Trường Chinh cho là không nên, nhưng khi đó, ông Hãn đã lên đường vào Huế rồi.
[12] Đường Pierre Flandin: nay là đường Bà Huyện Thanh Quan.
[13] Trong hồi ký này, Trần Văn Giàu chép là đã kết nạp Phạm Ngọc Thạch vào đảng từ năm 1944. Tháng 8.2008, khi chúng tôi hỏi, thì ông nhớ là đầu năm 1945. Cũng dễ hiểu là tài liệu viết không còn, trí nhớ về ngày tháng không thể chính xác. Điều chắc chắn là ông Phạm Ngọc Thạch đã tham gia Đảng cộng sản trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng 8.1945. Có lẽ ông là trí thức duy nhất (ở tầm cỡ đó, với nhân thân đó) đã quyết định như thế trước tháng 8-1945, mặc dầu sống ở Pháp giữa thập niên 1930, ông không thể không biết những tội ác của Stalin qua các “vụ án Moscou” và các cuộc thanh trừng khốc liệt. Rất tiếc rằng, cho đến nay, chưa có một nghiên cứu sử học nghiêm túc nào soi sáng sự chọn lựa của Phạm Ngọc Thạch, và rộng hơn, các hoạt động chính trị, quân sự và ngoại giao của ông trong thời kỳ 1945-1950, trước khi ông lên Việt Bắc làm bộ trưởng Bộ y tế.
[14] a-tu: tiếng Pháp atout là con chủ bài trong bộ bài tây (32 hay 52 lá bài).
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...