. .

Saturday, March 28, 2009

ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 7- 12 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên

:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 7

- Cung, cung, cung !
Viên quản giáo nông dân đứng trong khung cửa, mặt dửng dưng buông một câu trống không. Thành ngồi im, đầu gối quá tai, không tỏ ra phản ứng nào.
Tôi ngơ ngác : anh ta gọi tôi ? Hay gọi Thành ?
- Cung, cung, cung !
Anh ta nhắc lại.
Ðến lúc ấy Thành mới nói :
- Ông quản giáo gọi ông kìa !
Ra thế ! Vậy mà anh chàng quản giáo cù lần kia không nói rõ là đi cung cho rồi, cứ lằng nhằng mãi cái từ ngữ thổ tả của nhà tù, bắt tội tôi phải hiểu.
- Mặc quần áo vào còn đi chứ ! - Thành lại giục.
Khốn nạn, tôi có còn gì nữa mà mặc ! Tôi đã mặc hết cả rồi. Trong xà lim lạnh buốt tôi đã phải đắp lên mình tuốt tuột những gì tôi có mà vẫn còn thấy rét. Nhiệt độ mấy ngày qua tụt xuống đùng đùng. Mùa đông thực sự đã đến. Nằm khàn trong xà lim, không bị gọi ra đi cung, tôi ngán ngẩm nghe gió bấc thổi ù ù bên ngoài. Nếu tôi bị bắt muộn vài ngày chắc chắn tôi đã có thêm cái áo len. Hôm bị bắt trời còn ấm, may mà tôi lại vận áo bông.
- Nhanh lên ! - Viên quản giáo nhắc.
Tôi cẩn thận khép chặt hai vạt áo bông cho gió khỏi lùa vào trong người. Chỉ còn có việc xỏ chân vào giày là xong. Giày cũng không cần buộc dây. Dây giày đã bị thu, chắc hẳn người ta nghĩ rằng có thể dùng nó mà treo cổ.
Phải dành vài dòng cho đôi giày, nó đáng được nói đến. Tôi bị tê thấp. Lo sắp tới mùa đông vợ tôi xăng xái kiếm cho tôi một đôi giày đen, da Mông Cổ hẳn hoi. Ðôi giày bị Huỳnh Ngự khám rất kỹ, tưởng y sẽ dùng dao banh cả đế ra để tìm cái y muốn thấy. Ðôi giày đẹp là thế, da mềm lắm, đóng cũng khéo, nhưng về mặt thực dụng, khốn nạn cho tôi, nó lại thua xa đôi dép lốp rẻ tiền.
Tù xà lim buổi sáng được ra ngoài làm vệ sinh thân thể một lần cho cả ngày. Mỗi lần được dăm phút, không tính thời gian đóng cửa mở cửa. Xà lim có hai người, mỗi người được ngót nghét hai phút rưỡi. Chúng tôi phải đi như chạy (nhưng không được phép chạy thật) để vào phòng tắm đổ bô, rửa bô, rửa mặt rồi đi về. Thế mà sau này, áp dụng vận trù học tôi và Thành còn đi đại tiện được (xin lỗi), còn tắm được trong mấy phút ngắn ngủi ấy mới tài.
Tôi còn có thể làm nhanh hơn nếu không vướng đôi giày. Ði rửa phải xếp nó ở xa cái vòi nước chảy tồ tồ trong phòng tắm chật hẹp. Rửa xong phải nhảy lò cò tra chân và cho nhanh để trở về phòng giam, có khi phải đi cà nhắc vì một bàn chân chưa xỏ hẳn được vào giày. Bất tiện là thế nhưng lại không thể quăng nó đi được. Nhà tù Việt Nam không có lệ phát dép. Trừ một bộ quần áo, một cái chăn sợi, một manh chiếu, người tù nhập trại không được phát một thứ đồ dùng thiết thân nào khác. Bàn chải, thuốc đánh răng, xà-phòng đều do gia đình tiếp tế(1). Bên cạnh Thành tôi là người vô sản chính cống. Khác với tôi, khi bị bắt anh đã biết phải mang theo cái gì.
Chúng tôi đi qua xưởng thợ, nơi mấy người tù áo xọc đang cặm cụi gò hàn. Họ chăm chú làm việc, không để ý đến chúng tôi. Nhưng không phải, những con mắt tò mò vẫn liếc xéo quan sát người tù đi qua. Viên quản giáo đứng trên đống sắt ngổn ngang la hét, giọng Nghệ An đặc sệt : " Ê, anh tê, mần đi chợ ! Ngọ ngọ cải chi ? Vào nơi ni rồi phãi chăm chĩ lao động ! Không chăm chĩ lao động thì đừng cỏ hòng về, chị cỏ chệt mục xương !" Trong khu xà lim tù binh cây thông Noen ủ rũ vẫn đứng đó, mấy ngọn đèn màu leo lét. Cái máy ghi âm vẫn chạy, tiếng méo xẹo. Ðỗ Nhuận vẫn ê a "Hồng Hà mênh mông...trôi cát tới chân làng quê.ê.ê...Cuối sông, ngoài bến Việt Trì có những chàng áo nâu về..."
Lần này viên quản giáo không đưa tôi tới phòng hỏi cung lần trước mà đi xa hơn, tới gần cổng Hỏa Lò, nơi có một lối đi hẹp dẫn vào những ngôi nhà dài thuộc cánh phải. Anh ta bảo tôi đứng đợi trong lối hẹp đó.
Từ chỗ tôi đứng mở ra một nhánh nhỏ với một dẫy phòng đóng kín cửa. Nhìn bề ngoài những phòng này giống các phòng tập thể cho cán bộ độc thân, nhưng tôi nhanh chóng gạt đi ý nghĩ đó - ở cửa mỗi phòng là một cái khóa Tuto treo lủng lẳng.
Bỗng tôi giật mình : cách tôi chừng mươi mét, phía ngách hành lang, một người tù già tóc bạc phơ, dáng đi nặng nhọc, hai tay bưng tô cơm, một con cá khô cắm đầu xuống giương chẽ đuôi cứng đơ lên trời. Người tù ngẩng mặt lên và tôi nhận ra tướng Ðặng Kim Giang. Bác Giang của tôi gày xọm, râu mọc dài, cũng bạc như cước. Chao ôi, chúng nó đã làm gì bác mà mới có hơn hai tháng tù bác thay đổi nhiều đến thế ? Nhưng phong thái ông xem ra vẫn không thay đổi, vẫn đàng hoàng lắm. Nhìn thấy tôi ông mỉm cười. "Ðừng sợ, cháu ! Phải cứng rắn lên !", cái nhìn của ông nói. Một giây sau ông đi khuất vào một khúc quanh, theo sau là một quản giáo màu hoàng thổ. Có phải với cái nhìn ấy, nụ cười ấy ông muốn nhắn tôi phải kiên định, không nhận gì hết. Nhưng tôi thì kiên định cái quái gì chứ ! Tôi có gì để mà nhận ? Hay ông lo tôi bị dụ dỗ, bị lung lạc, do quá sợ hãi mà bị bọn chấp pháp ép cung, khai bậy bạ cho người khác ?
Tướng Ðặng Kim Giang hoạt động cách mạng cùng với cha tôi từ những năm 30, từng ở tù cùng cha tôi tại ngục Sơn La. Trước khi trở thành đảng viên cộng sản ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Quốc dân đảng. Trong kháng chiến chống Pháp ông làm tổng cục phó Tổng cục Hậu cần, là chủ nhiệm hậu cần mặt trận Ðiện Biên Phủ. Hòa bình lập lại, ông phụ trách khối bộ đội chuyển sang làm nông nghiệp, với chức vụ thứ trưởng Bộ Nông trường. Nhanh nhẹn trong chiếc áo choàng bằng dạ kaki cấp tướng, ông xăng xái lúc ở chỗ này lúc ở chỗ khác trên địa bàn rộng lớn miền Bắc. Chúng tôi, những đứa cháu con bạn ông, rất yêu ông. Trong ông chẳng có gì của vị tướng trong cái hình dung thông thường của mọi người. Ông giản dị, xuề xòa và hồn hậu. Cũng giống như chúng tôi, những người lính nông dân vừa rời tay súng về cầm cày không coi ông là tướng, mà là người cha, người chú trong gia đình.
Khi nổ ra cuộc xung đột ý thức hệ Trung-Xô, ông không do dự đứng ngay về phía Liên Xô. Là đảng viên cộng sản lão thành, nhưng ông không rành lý thuyết cộng sản bao nhiêu. Ông, theo chỗ tôi biết, là một nho sĩ với phương châm xử thế bất biến lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm đầu. Với tinh thần nho sĩ ông gay gắt lên án Stalin giết hại đồng chí để củng cố quyền lực, ông chống Mao, mà ông gọi là "tên đồ tể" cũng mạnh mẽ không kém.
- Stalin ngập trong máu, bác biết lắm chứ, nhưng đó không phải là chủ nghĩa xã hội. - ông nói với tôi - Cái nhà không xấu chỉ vì chủ nhà là một thằng khốn nạn. Bác nghĩ thế. Hôn quân có thể làm sập một vương triều, nhưng không làm mất nổi một đạo. Cháu thấy không, các triều vua thay nhau đổ trong khi Nho giáo, Khổng giáo vẫn cứ trường tồn. Chủ nghĩa Mác với tư tưởng giải phóng nhân loại còn mãi. Chủ nghĩa Mác không muốn thấy một nhân loại như bây giờ. Nhân loại phải được sống hạnh phúc. Con người phải được sống như con người. Khrusov lên án sùng bái cá nhân là phải lắm, người có luân thường tất không thể làm khác. Mao mới là tên ăn cháo đá bát. Lợi dụng chống Khrusov chống luôn Liên Xô. Thử hỏi không có Liên Xô làm sao Trung Quốc có ngày nay ? Công nghiệp gang thép ai dựng cho ? Rồi công nghiệp máy cái, tàu bay, tàu biển, ô tô ? Trước kia Trung Quốc có gì ? Ngày nay có gì ? ỉ thì lãnh đạo Liên Xô cư xử không nên không phải khi nổ ra bất đồng, nhưng ai là người đổ mồ hôi sôi nước mắt giúp Trung Quốc vững vàng được như bây giờ ? Là nhân dân Liên Xô chứ, là người lao động Liên Xô chứ. Xét cho cùng, cũng chẳng lấy gì làm lạ - mộng vương bá là cố tật của người Trung Hoa. Cứ xem sử Trung Quốc thì thấy, mỗi vùng mỗi vua, anh nào cũng lăm le bá chủ thiên hạ, chưa bá chủ được chưa yên. Nước ta rồi còn khổ với mấy cái anh bá này !
Trong thời gian làm thứ trưởng Bộ Nông trường ông đã đề xuất những chủ trương táo bạo như khuyến khích sản xuất bằng lợi ích vật chất, chia ruộng phần trăm cho nông trường viên, hợp tác đầu tư với các nước xã hội chủ nghĩa, cho các nông trường liên doanh với các nông trường nước bạn. Tất cả những chủ trương cách tân đó đều bị Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ coi là "xét lại", "đi theo con đường tư bản chủ nghĩa".
Tướng Giang đi khuất rồi, tôi còn phải đứng đợi một lúc nữa mới thấy viên quản giáo xuất hiện.
Anh ta lẳng lặng dẫn tôi tới một phòng hỏi cung khác nằm sâu trong dãy nhà bên cánh trái Hỏa Lò. Ðợi tôi ở đó là một người đàn ông cao to, da mặt bì bì, đẹp trai như một con hà mã. Trong quân phục dạ dành cho cấp tá, không quân hàm, bên trong chiếc áo choàng cũng bằng dạ, y lừ lừ nhìn tôi.
Thế là chúng nó phải thay người làm việc với mình, tôi nghĩ. Nhìn Huỳnh Ngự khúm núm bên cạnh y, tôi đoán y là cấp trên của Huỳnh Ngự.
Ðã một tuần lễ trôi qua kể từ hôm tôi bị bắt, nếu không hơn. Trong những ngày đó, sau cuộc cãi vã tay đôi làm Huỳnh Ngự tức điên, y còn gọi tôi ra vài lần nữa, nhưng cứ vừa nhìn thấy y là tôi bắt viên quản giáo đưa tôi lộn lại xà lim. Cái lối chơi chướng ấy thế mà được việc. Cần phải cho chúng nó biết tôi không dễ nhá. Cha tôi nói về đối sách của ông với nhân viên sở Liêm phóng :"Chỉ cần run sợ một chút là chúng lấn tới. Cho chúng nó đánh, cho chúng nó tra khảo, tra chán rồi chúng nó mệt, chúng nó bỏ. Chứ tỏ ra sợ đòn thì cứ cần hỏi gì là chúng nó lại lôi ra".
- Tôi đã đọc những báo cáo về anh. - người đàn ông đặt tập hồ sơ đang đọc khi tôi bước vào lên bàn - Hôm nay tôi bố trí thời gian gặp anh ...
Tôi lặng thinh nhìn y.
- Chỉ để khuyên anh một điều, với tư cách người lớn tuổi ...
Tôi không nói gì.
- Trước hết, tôi khuyên anh không nên cố chấp. - bằng giọng không có hồn, y dề dà nói - Anh là trí thức, hẳn anh biết cổ nhân có câu :"chấp kinh thì phải tòng quyền"...
Tôi liếc nhìn Huỳnh Ngự. Bên cạnh con người này y nhỏ bé hẳn, so rụi hẳn, chẳng giống Huỳnh Ngự những ngày trước.
Không đợi con hà mã nói hết, tôi hất hàm chỉ Huỳnh Ngự, làm ra vẻ không biết hoặc không nhớ tên y :
- Nếu anh có ý định phổ biến nội quy trại giam cho tôi một lần nữa, như anh này đã phổ biến thì tôi xin cảm ơn, tôi đã được nghe kỹ...
- Khoan đã. Tôi hiểu anh đang bực bội trong lòng. Bực bội là phải thôi, ai muốn mình bị Ðảng coi là kẻ thù của cách mạng ? Nhưng cho tới giờ đã có ai coi anh là kẻ thù đâu ! Sai thì có, sai quá đi ấy chứ. Do nhận thức sai nên hành động sai. Cũng là lẽ thường tình. Sai thì sửa. Mao chủ tịch dạy : chỉ có hai thứ người không sai thôi - ấy là đứa trẻ trong bụng mẹ và người nằm trong quan tài. Mình chưa hiểu ra cái sai, Ðảng biết thì Ðảng chỉ ra, Ðảng uốn nắn cho, sửa chữa cho. Vì thế, như tôi vừa nói với anh, tôi nhắc lại lần nữa anh nghe cho rõ : đừng cố chấp. Nội quy, xét cho cùng, nó là cái gì ? Nó chẳng là cái gì hết - một quy ước được soạn ra cho cuộc sống tập thể mà mọi người có trách nhiệm tuân thủ để duy trì trật tự chung...
- Tôi nói rồi : tôi không thích cái nội quy ấy. - tôi lạnh nhạt, đồng thời cương quyết - Tôi không chấp nhận nó.
- Bình tĩnh, bình tĩnh nào ! Nghe tôi nói đã. Sáng nay anh Thành(2) thay mặt anh Sáu, có vào đây gặp các anh, từng người một. - người đàn ông vẫn bình thản, nhưng qua giọng nói, cách nói của y tôi hiểu y phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh như thế - Nhưng rồi do công tác đột xuất lại phải quay về ngay, không gặp được. Anh Thành ủy nhiệm tôi phổ biến cho các anh quyết định mới nhất của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương...
Người được ủy nhiệm của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương không thèm tự giới thiệu. Sau mới biết tên y là Trúc, không rõ họ gì, cục trưởng Cục chấp pháp. Trúc là nhân vật quan trọng nhất trong đám quan binh mà tôi được tiếp kiến kể từ khi bước chân vào Hỏa Lò. Trong ngành công an người giữ chức cục trưởng quan trọng hơn thứ trưởng ở các bộ khác.
Y đúng là một nhà mác-xít - lê-nin-nít chân chính. Y nói nhân nói nghĩa, nhưng không nhích một li khỏi lập trường chuyên chính vô sản. Tôi không ngạc nhiên nếu sau những lời phi lộ dài dòng đầy nhân ái y sẽ nói tới những quyết định tàn bạo.
Có thể nói toàn thể cán bộ hồi ấy được Ðảng nhuộm đỏ một màu máu. Bạo lực được tôn sùng như biểu hiện của tính kiên định cách mạng. Những câu cách mạng đầu lưỡi được đánh giá như nhiệt tình chiến đấu cho sự thắng lợi của đường lối mác-xít.
Tại tòa soạn chúng tôi học tập liên miên. Tài liệu học tập là những bài giảng của Trung ương gửi xuống, của Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh do sứ quán Trung Quốc phát không. Công việc củng cố lập trường chiếm hết thời giờ làm báo. Ðược cái làm báo xã hội chủ nghĩa không khó. Tờ báo là công cụ giáo dục nhân dân, không cần bán chạy, chỉ cần minh họa các chủ trương của Trung ương sao cho khéo là được. Không ai trách anh nếu anh viết giống bài nào đó đã in rồi trong báo Ðảng. Nhai lại những gì báo Ðảng viết đã không mang tội đạo văn thì chớ, lại còn được khen : ý thức tổ chức cao. Nay có viết giống Ðài phát thanh Bắc Kinh hoặc Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh thì cũng được khen không kém : lập trường vững.
Trong những buổi kiểm điểm theo tinh thần nghị quyết 9 các nhà báo ngồi cùng các nhân viên tòa soạn, cả anh tiếp phẩm lẫn chị cấp dưỡng. Mọi người đua nhau lên án bọn xét lại hiện đại chủ trương chung sống hòa bình giữa các chế độ xã hội khác nhau, thi đua hòa bình, quá độ hòa bình lên chủ nghĩa xã hội. Ai đọc được nhiều tài liệu của Ðảng, của Trung Quốc, lại có trí nhớ tốt, phát biểu hăng hái, thì được coi là tích cực học tập.
Trong Hỏa Lò Huỳnh Ngự cũng ông ổng chửi chung sống hòa bình :
- Là người thời không thể sống với dã thú. Mà bọn tư bản là dã thú, chung sống làm sao được với chúng nó. Bây giờ anh đã thấy đường lối nớ sai chưa ?
- Chưa. - tôi đáp - Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có hòa bình trước đã, tôi quan niệm như vậy. Còn cụm từ chung sống hòa bình mà báo chí quen dùng là do dịch sai gây ra hiểu nhầm. Người Nga nói mirnoe soshushestvovanie, người Pháp nói coexistence pacifique không có nghĩa chung sống hòa bình, mà là cùng tồn tại trong hòa bình.
Huỳnh Ngự hừ một tiếng không rõ rệt.
Vài năm sau trên báo chí không thấy dùng cụm từ chung sống hòa bình nữa. Người ta dùng đúng như tôi nói hôm đó : cùng tồn tại trong hòa bình.
Cuốn Người Với Người Là Bạn của nhà văn Liên Xô Boris Polévoii(3) bị đặt lên bàn mổ. Nó bị phỉ nhổ là lá cờ rách của "chủ nghĩa nhân đạo chung chung", thứ đồ bỏ nhặt từ trong đống rác thối tha của chế độ tư bản. Các nhà tuyên giáo(4) nói rằng thứ nhân đạo chung chung của bọn xét lại hiện đại không mê hoặc nổi ai. Nhưng cứ phải cảnh giác (!), họ nhấn mạnh, bởi vì nó thường dùng hình thức văn học là cái đi vào lòng người một cách êm ái.
Chủ nghĩa cộng sản, cũng theo các nhà tuyên giáo, đương nhiên hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo tiến bộ nhất, văn minh nhất, rộng rãi nhất, cao cả nhất. Mọi thứ chủ nghĩa nhân đạo khác, không phải của giai cấp vô sản, chỉ là những ngôn từ rỗng tuếch, là lời lẽ mị dân.
Chúng tôi họp suốt ngày. Không phải một hai ngày, mà ngày này qua ngày khác. Dưới cái quạt trần quay vù vù và sự chủ tọa của thư ký tòa soạn Nguyễn Thanh Ðịch, các cán bộ của tờ báo mồ hôi nhễ nhại phê phán tính chất nhân đạo phi giai cấp của những bộ phim xô-viết : Số Phận Con Người, Ðàn Sếu Bay Qua và Bài Ca Người Lính(5). Dù không tán thành, mỗi người cũng phải phụ họa đôi ba câu vô thưởng vô phạt. Tôi ngồi im. Ngồi im cũng là một thái độ, và các nhà mác-xít cấp phường nhìn tôi bằng cặp mắt hằn học. May cho tôi, bí thư chi bộ Hoàng Nguyên Kỳ là một họa sĩ. Anh chỉ giữ ý thức tổ chức đến mức vừa đủ. Anh dặn tôi : "Chớ có phát biểu ngang xương đấy nhá !".
Nhân đợt học tập chống chủ nghĩa xét lại hiện đại, những chồng báo lưu của tòa soạn được mang ra. Dưới ánh sáng của Nghị quyết 9, người ta đọc lại các số báo xuất bản một hai năm trước bằng kính lúp. Một số bài bị mang ra phê phán, trong đó không thể thiếu những bài của tôi. May cho tôi - những câu chữ bị đem ra mổ xẻ, bị lên án hóa ra lại là của quý vị Phạm Văn Ðồng, Trường Chinh, Lê Duẩn, mà tôi đã lười biếng cóp vào bài viết. Thậm chí tôi còn nghịch ngợm đóng vai phản tỉnh, đề nghị cho tôi được nghỉ học để ngay lập tức viết thư lên các vị lãnh đạo. Tôi giận các vị lắm, tôi nhất quyết buộc các vị phải công khai nhận sai lầm, chính vì các vị mà tôi sai lầm theo. Thư ký tòa soạn tỉnh giấc đấu tranh vội vã ngăn tôi lại.
Không khí chỉnh huấn tưởng đã vĩnh viễn lùi xa vào quá khứ nay trở lại với sức mạnh gấp đôi.
Nạn nhân đầu tiên của cuộc tiến công ầm ĩ vào chủ nghĩa xét lại là Minh Tranh, giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật. Là một Nhà xuất bản chuyên cho ra những cuốn kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lẽ thường giám đốc phải là người con trung thành của những giáo điều mác-xít. Ai ngờ Minh Tranh lại là một trong những tên xét lại cứng đầu. Mấy anh cán bộ tuyên giáo không có thông tin cập nhật, không biết tôi là phần tử có nghi vấn nói với tôi : "Bọn xét lại có ba pháo đài kiên cố là Viện Triết học, Nhà xuất bản Sự Thật và ỷy ban khoa học nhà nước". Viện Triết có Hoàng Minh Chính, Nhà xuất bản Sự Thật có Minh Tranh, còn ỷy ban khoa học nhà nước thì có Tạ Quang Bửu.
Minh Tranh không bị hạ ngục. Ông được Ðảng ban cho ân huệ được rời bỏ cái ghế giám đốc mà chính ông không thiết tha. Trước khi rời Hà Nội ông tới chia tay với cha tôi. Hai người lững thững đi bộ dọc đường Hai Bà Trưng. Tôi không biết họ nói gì với nhau trong buổi chiều đầy lá rụng hôm đó. Cha tôi đánh giá cao Minh Tranh, coi ông là một đồng chí có học và có tinh thần cách mạng kiên định. Tôi không rõ Minh Tranh đi đâu. Ông biến khỏi thành phố, như rời xa ổ dịch. Không ai nghĩ ông sợ. Mọi người đều hiểu - ông đi vì chán ngán.
Tôi buồn. Tôi ngơ ngác. Tôi không thể hiểu nổi những lời thóa mạ bỗng dưng nổi lên đùng đùng nhằm vào một kẻ thù không biết mặt. Cứ như thể mọi người chung quanh tôi bất thình lình phát điên. Không điên thì không thể nói ra những luận điệu phi nhân như thế với bè bạn, anh em mình. Ðến chủ nghĩa Mác họ cũng chỉ biết bập bõm thì làm sao họ biết được mặt ngang mũi dọc cái chủ nghĩa xét lại chủ nghĩa Mác nó thế nào.
Nhìn sâu vào phong trào chửi bới chủ nghĩa xét lại, tôi rùng mình. Chưa bao giờ tôi chứng kiến một sự hư hỏng trong tâm hồn người như thế. Người ta bới lông tìm vết trong các đồng chí với nhau, người nọ vu cáo người kia, anh này hại anh khác, đấu đá nhau không thương tiếc. May là số đông vẫn cố giữ đạo đức truyền thống. Họ tham gia cuộc đại đấu đá do Ðảng đề xướng một cách vừa phải, chỉ đủ để trình ra cái lập trường không thể thiếu, để cấp trên khỏi quên họ trong những đợt xét lên lương, xét thăng chức. Mỗi người đều có những đứa con phải nuôi, một ngân sách gia đình eo hẹp, tất cả đều bị viêm màng túi, như chúng tôi thường cay đắng tự nhạo báng. Nỗi sợ hãi bị Ðảng nghi ngờ làm cho người ta phải ra sức chứng minh rằng họ trước sau một lòng một dạ trung thành với Ðảng.
Cái sợ được vun trồng, chăm bón nhiều năm đã cho vụ mùa bội thu.
Năm 1963 tôi có viết một kịch bản điện ảnh nhan đề Ðêm Cuối Cùng, Ngày Ðầu Tiên. Nội dung kể chuyện một anh du kích đường sắt trong đêm chót của chiến tranh đã lặn lội đi gỡ trái mìn anh dặt và dự tính sẽ được giật nổ sáng hôm sau. Lệnh ngừng bắn làm đảo lộn kế hoạch của anh. Anh du kích đã mất cả gia đình trong chiến tranh. Anh coi chú bé liên lạc đi cùng anh như con ruột. Hai người bị quân Pháp trong một đồn ven đường phát hiện. Chú bé hy sinh. Vượt qua nỗi đau anh du kích tiếp tục gỡ mìn, thực hiện lệnh trên. Kịch bản được thông qua để đưa vào sản xuất. Những biên tập viên Xưởng phim truyện Hà Nội tâm đắc đoạn cuối tả con tàu dừng lại trước người du kích đường sắt vừa gỡ xong quả mìn. Những người lính Pháp trên chuyến tàu "ngượng nghịu tháo những cái mũ sắt nặng nề xuống, cầm trước bụng bằng hai tay, như cách cầm mũ phớt, đầu cúi thấp trước thi hài người du kích tí hon, người anh hùng đã cứu họ khỏi cái chết cầm chắc...Trước khi là lính, mọi người lính đều là dân".
Anh Phạm Văn Khoa(6) đề nghị tôi để anh làm đạo diễn. Ðoàn làm phim được thành lập. Tôi được lĩnh một món tạm ứng kha khá cho kịch bản, là của hiếm trong những năm ấy. Kịch bản hoàn toàn phù hợp với tinh thần hướng về nền hòa bình chung và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Những nhà điện ảnh Việt Nam vừa dự Liên hoan phim ở Leiptzig(7) về đã nghĩ tới Giải thưởng lớn hoặc một Huy chương vàng cho nền điện ảnh nước nhà.
Ðùng một cái, tướng Nguyễn Chí Thanh đăng đàn diễn thuyết trong một hội nghị cán bộ trung cao cấp quân đội kịch liệt lên án kịch bản này. Ông tướng nông dân buộc tội tác giả kịch bản trắng trợn tuyên truyền cho chủ nghĩa nhân đạo chung chung, tính người chung chung bên ngoài tính giai cấp. Giọng điệu của Nguyễn Chí Thanh khi phê phán các tác phẩm văn học không khác giọng điệu Ðài phát thanh Bắc Kinh là mấy.
Bộ phim chưa được quay bị đình lại, coi như xóa sổ.
Hồi ấy Xưởng phim truyện Việt Nam đã cho đánh máy kịch bản Ðêm Cuối Cùng Ngày Ðầu Tiên thành nhiều bản để chuyển cho các cơ quan văn nghệ nghiên cứu, hi vọng dùng ý kiến của nhiều nguồn dư luận khác nhau buộc Nguyễn Chí Thanh rút lại ý kiến của ông(8). Nhưng chẳng ai dại gì đối đầu với viên đại tướng nhà quê tự thị trong cảnh loạn lạc của cuộc đấu tranh không biết lối ra ở đâu.
Thời gian này các nhà lãnh đạo bỗng nổi cơn sính văn chương. Các nhà-thơ-lãnh-tụ xuất hiện, lúc đầu còn bẽn lẽn, còn dè dặt, càng về sau càng tự nhiên. Nguyễn Chí Thanh không làm thơ được như Trường Chinh, Lê Ðức Thọ(9) thì làm nhà phê bình. Các tác phẩm vốn đã bị các tên lính gác cổng tư tưởng ở các Nhà xuất bản, các cấp tuyên giáo xét nét duyệt đi duyệt lại, nay lại thêm ông tướng Quảng Lạc(10) nhảy vào soi mói. Lác đác cũng có những tác phẩm không đến nỗi tồi, nhưng chỉ cần trong đó có vài dòng không vừa lòng ông tướng, thế là sấm sét lại nổi lên đùng đùng trên bầu trời văn chương, tác giả của chúng bị đánh tơi tả. Ðó là những trường hợp xảy ra với Hà Minh Tuân (tiểu thuyết Vào Ðời), với Phù Thăng (tiểu thuyết Phá Vây).
Tôi đã đi hơi xa sự kiện trong Hỏa Lò.
Cục trưởng Cục chấp pháp bắt tôi phải chờ đợi một lúc lâu để tôi ý thức được tầm quan trọng của điều y sẽ nói :
- Quyết định mới nhất của Ðảng về việc xử lý vụ của các anh là như sau...
Tôi chẳng bao giờ hiểu nổi khái niệm Ðảng trong những ông cán bộ này. Họ thường nói Ðảng chủ trương thế này, Ðảng quyết định thế nọ, nhưng Ðảng là Ðảng nào - Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban tổ chức Trung ương, hay là đảng đoàn Bộ thì người ta lại không nói rõ. Tại đồng bằng sông Hồng thậm chí tôi còn được nghe một câu nói thế này trong một hội nghị cán bộ xã :"Chúng ta đã cấy hết diện tích theo đúng kế hoạch trên giao xuống trong điều kiện"toàn Ðảng toàn dân ho gà...". Hóa ra toàn Ðảng có nghĩa là cái Ðảng bé của xã, có khi chỉ là một chi bộ mươi người, chứ không phải cái Ðảng to. Không hiểu cái Ðảng mà ngài cục trưởng đang nói tới có phải là Ðảng to không, hay chỉ là Ðảng bé, Ðảng đoàn Bộ Nội vụ chẳng hạn ?
Tôi dán mắt vào mặt y, chờ đợi lời phán quyết của Ðảng.
- Bộ Chính trị đã họp và quyết định để vụ của các anh trong phạm vi nội bộ.
Tôi không tin ở tai mình. Thế tức là chủ trương của cái Ðảng lớn rồi ! Không phải của Ðảng bé !
- Do đó - y nói tiếp, cố ý để tôi nuốt từng lời - vụ án sẽ được xử lý nội bộ, coi như mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ Ðảng, nội bộ nhân dân, nội bộ phong trào cộng sản quốc tế, chứ không áp dụng luật pháp hoặc các biện pháp xử lý hành chính...
Chao ôi, chẳng lẽ một sự bắt bớ ồn ào như thế, rùm beng dư luận như thế, để rồi kết thúc lặng lẽ thế này ư ? Nhà cầm quyền đã tỉnh, hay là dư luận xã hội đã đánh thức họ ?
Xử lý nội bộ có nghĩa là chúng tôi sẽ được thả, sẽ được trở về nhà mình, sau khi phải viết những bản xưng tội, phải đấm ngực mà kêu rên thống thiết mea culpa, mea maxima culpa(11). Một thứ xà lách chỉnh huấn trộn xà lim ?
Hãy cảnh giác, không có lẽ mọi chuyện lại đơn giản như vậy.
- Có phải chúng tôi sắp được về ? - tôi thọc một mũi thăm dò - Ðảng bao giờ cũng sáng suốt.
- Cái đó tôi không biết - Trúc nhăn nhó - Ðảng sẽ thả các anh hôm nay, ngày mai hay thả lúc nào là do Ðảng quyết định. Mà giá có biết chúng tôi cũng không được phép nói trước khi Ðảng lệnh xuống cho chúng tôi.
Y nói tràng giang đại hải một hồi về chính sách nhân đạo của Ðảng, rằng chủ trương của Ðảng bao giờ cũng nhất quán là trị bệnh cứu người. Vả lại, phòng bệnh hơn chữa bệnh, thậm chí có trường hợp chưa tới mức phải bắt mà Ðảng vẫn bắt thì chẳng qua cũng chỉ nhằm để các anh không đi quá xa. Ðảng đau lòng lắm, y nói, khi phải bắt cán bộ của mình, nhưng trong sự việc cụ thể này những hành động sai trái của chúng tôi đã vượt quá giới hạn mà Ðảng có thể chịu đựng, cho nên Ðảng buộc phải dùng biện pháp giam giữ, tuy nhiên giam giữ thế này cũng không nhằm mục đích nào khác hơn là "giáo dục các anh, để đưa các anh trở lại trong lòng Ðảng..."
Nghĩa là, than ôi, chẳng có gì mới. Chúng tôi vẫn tiếp tục ở tù. Lạy Chúa tôi lòng lành ! Ðảng của chúng tôi tốt quá, tử tế quá !
Tôi buồn ngủ. Dù sao con béc-giê của Huỳnh Ngự cũng làm tôi ngủ ít hơn là không có nó. Tôi nói ngủ ít hơn vì đòn đánh của Huỳnh Ngự không gây được hiệu quả mong muốn. Thành xé một mụn giẻ, tước sợi tơi ra như bông, chúng tôi vê lại làm nùi nhét vào lỗ tai, gắng rồi cũng ngủ được.
Tôi cúi xuống, giấu cái ngáp trẹo quai hàm.
- Sở dĩ Ðảng giao việc trông nom các anh cho cơ quan an ninh chúng tôi vì cơ quan chúng tôi có điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để giúp đỡ các anh cải tạo tư tưởng...
Tôi không nhịn được cười. Thì ra người ta tin rằng xà lim Hỏa Lò là điều kiện thích hợp nhất, tốt nhất cho sự cải tạo tư tưởng. Cứ đà này Ðảng sẽ lần lượt cho hết thẩy cán bộ vào ở xà lim để cho tư tưởng họ tiến bộ hơn, trung thành với chủ nghĩa xã hội hơn.
- Các anh đang làm một công việc rất cần thiết cho Ðảng, đó là : bằng những báo cáo của mình giúp Ðảng củng cố tổ chức, để Ðảng đã vững mạnh rồi còn vững mạnh hơn nữa. Có nghĩa là ngay tại đây các anh cũng có công tác để làm, cũng tham gia chống Mỹ cứu nước.. Chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ các anh hoàn thành nhiệm vụ. Công việc của chúng ta càng được tiến hành khẩn trương bao nhiêu thì Trung ương càng có điều kiện quyết định tương lai của các anh sớm bấy nhiêu. Tôi mong chóng được gặp lại các anh trên những cương vị công tác mới...
Trời hỡi, cứ như tôi là đứa trẻ không bằng ! Ban tổ chức Trung ương muốn quăng một mẻ lưới lớn đây. Nhưng sai những con chim mồi ngớ ngẩn đi làm mẹ mìn thì ngu quá !
Viên cục trưởng không nhận thấy cái nhếch mép của tôi.
- Tôi cũng thông báo để các anh được biết : chiếu cố công lao của các anh đối với cách mạng, Ðảng giữ nguyên biên chế cho các anh. Giữ nguyên biên chế có nghĩa là các anh vẫn được hưởng nguyên lương, nhưng gia đình chỉ được lĩnh một nửa, cho tới khi các anh trở về. Mọi tiêu chuẩn cung cấp ở ngoài thế nào ở đây thế vậy, nguyên như trước ...Tiêu chuẩn thịt của anh bao nhiêu nhỉ ?
- Một cân.
- Hơn cả tôi đấy. Ðường bao nhiêu ?
- Cân rưỡi.
- Nhiều thế ?
Nghe trong câu hỏi của y có âm sắc khó chịu. Y tiếc cho nhà nước hay ghen tị với tôi ?
Tôi lạnh nhạt :
- Ðó là tiêu chuẩn cho phóng viên phải công tác xa tòa soạn trong điều kiện chiến tranh(12)...
- Ra thế ! Anh sẽ được hưởng đúng tiêu chuẩn của anh khi còn ở đây, coi như đang công tác xa tòa soạn...
Từ chỗ chúng tôi đang ngồi tới phòng làm việc của tôi tại tòa soạn chưa đầy hai trăm mét tính theo đường chim bay. Theo cách y diễn đạt thì không phải tôi đang ở tù, tôi chỉ công tác xa tòa soạn mà thôi.
Không biết trong những ngày này ở tòa soạn người ta đang nói gì về tôi ? Nhiều người thương tôi, tôi biết. Kể cả những người buộc phải nói theo Ðảng rằng tôi là tên phản động. Với nửa lương của tôi vợ tôi khó bề xoay xỏa để nuôi hai đứa con. Khi chưa bị bắt lương tôi đã chẳng ra gì, nhưng hàng tháng còn kiếm thêm chút ít bằng nhuận bút dịch và viết, cũng đỡ. Trong những ngày đó tôi không biết tôi sắp có đứa con thứ ba.
Sau khi cha tôi bị bắt, gia đình tôi được một tổ sản xuất thương binh giúp đỡ. Không hề quen biết riêng cha tôi hoặc tôi, các anh thương binh thời chống Pháp tỏ ra có lòng nhân ái không ngờ. ỏi ngại cho một gia đình cách mạng bị trấn áp, các anh tự tìm đến bàn cách giúp chúng tôi sinh sống. Ðó là một việc mạo hiểm. Ngôi nhà số 5 Hai Bà Trưng bị theo dõi ngày đêm. Những người đến thăm đều bị công an hỏi : đến gặp ai, có việc gì, nói những chuyện gì ? Các anh chân thật và mộc mạc trong sự phản kháng thầm lặng.
Mẹ tôi lúc đầu còn e dè : hay họ là cá chìm(13) ? Chẳng bao lâu sau chúng tôi hiểu ra : tình đồng chí vẫn còn lại trong những con người bình dị.
Các anh đã có mặt bên cạnh gia đình tôi trong suốt thời gian hai cha con tôi nằm trong tù. Chúng tôi mãi mãi coi các anh là ân nhân. Làm sao có thể quên anh Trường cụt một tay một chân, anh Phúc thương tích đầy mình, đã nhường cơm xẻ áo cho chúng tôi trong những ngày khốn khó.
Cho đến ngày tôi bị bắt, chúng tôi đã được lĩnh hai lần tiền công dán túi ni-lông trong hợp đồng mà các anh thương binh nhường cho.
Mẹ tôi đếm tiền, nhẩm tính, rồi vui mừng ra mặt :
- Sống được, các con ạ !
Ðang vui bà bỗng ngẩn người :
- Nếu chúng nó chặn nốt cả đường sống này nữa thì biết làm sao đây ? Thời Pháp thuộc mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều khó, chúng nó bịt kín mọi đường, bắt mọi người muốn sống phải phụ thuộc chúng nó. Lạy Trời, nếu chúng nó không phá thì các anh ấy giúp được. Mẹ tin các anh ấy, có các anh ấy mẹ thấy yên tâm hẳn. Nhưng nếu các anh không giúp được nữa thì các con phải tự lo, tính trước đi thì vừa...

(1) Quà gia đình gửi vào cho người tù. Gọi bằng tiếp tế trong thời kỳ này rất sát nghĩa, bởi vì phần nhiều quà gửi vào là thực phẩm để cho người tù đỡ đói.
(2) Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng vào thời kỳ đánh xét lại. Trong thư gửi Tổng bí thư Ðảng cộng sản Việt Nam Trần Minh Việt (Lê Quang Dụ), phó bí thư thành ủy Hà Nội kiêm phó chủ tịch ỷy ban hành chính Hà Nội, bị bắt ngày 18.10.1967 có viết :"Hai người trực tiếp tham gia vụ đàn áp này là ông Thành (nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng, Ban tổ chức Trung ương) và ông Dương Thông (Bộ Nội Vụ)".
(3) Vào thời kỳ này cuốn Người Với Người Là Bạn của nhà văn xô-viết Boris Polévoy đang bị những lý thuyết gia cộng sản Việt Nam phê phán về lập trường tính người chung chung.
(4) Tuyên truyền và giáo dục.
(5) Vào giai đoạn sau Ðại hội XX ÐCSLX, ngành điện ảnh Liên Xô đã cho ra đời nhiều tác phẩm tiến bộ như Ðàn Sếu Bay, Số Phận Con Người, Bài Ca Người Lính...Những tác phẩm này bị các cơ quan tuyên giáo Trung Quốc, Việt Nam tấn công dữ dội. Ðài phát thanh Bắc Kinh dành hàng tháng trời để phê phán chúng.
(6) Nguyên giám đốc Quốc doanh chiếu bóng và chụp ảnh được thành lập năm 1953, tiền thân của ngành điện ảnh Việt Nam, năm 1954 làm giám đốc Xưởng phim truyện Hà Nội, rồi đạo diễn phim truyện.
(7) Một tỉnh thuộc Cộng hòa Dân chủ Ðức (Ðông Ðức), thường được tổ chức các cuộc Liên hoan phim trong các nước xã hội chủ nghĩa.
(8) Sau khi tôi ra tù, vào cuối thập niên 70, nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ, giám đốc một trong hai Xưởng phim truyện Hà Nội muốn tiếp tục công việc bỏ dở đã cho người đi tìm kịch bản này, nhưng không tìm ra. Bản thảo bị công an thu khi khám nhà đã không được trả lại.
(9) Trường Chinh có bút danh Sóng Hồng, Lê Ðức Thọ (Phan Ðình Khải) dùng chính bí danh.
(10) Tướng trong các vở tuồng, khi bước ra sân khấu bao giờ cũng vỗ ngực xưng danh "Như ta đây...!". Quảng Lạc là một gánh hát thời trước Cách mạng Tháng Tám, sau lập một nhà hát mang tên của gánh tại Hà Nội.
(11) Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng (tiếng la-tinh, lời cầu nguyện hàng ngày của tín đồ Thiên chúa giáo).
(12) Vào thời gian này cán bộ được mua nhu yếu phẩm theo tiêu chuẩn hàng tháng như sau : gạo - 13,5kg, thịt 0,3kg, đường 0,5 kg, đậu phụ 1kg, vải 4,5m/năm... Nhưng không phải các hàng tiêu chuẩn đều được mua đúng với tên gọi của chúng : gạo thường được thay bằng ngô hoặc nửa ngô nửa gạo, thịt thường được thay bằng đậu phụ hoặc cá khô vv...
(13) Công an mật.




:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 8

- Nào, ta mần việc, hỉ ?
Huỳnh Ngự nói, run rẩy xoa xoa hai bàn tay vào nhau cho đỡ cóng.
Thái độ Huỳnh Ngự mềm mỏng hẳn. Cứ như thể nhờ cấp trên xuống giải quyết chúng tôi đã giảng hòa được với nhau, giờ đã có thể thân mật với nhau được rồi. Tôi thấy cũng nên quên đi cuộc cãi cọ bữa trước. Muốn hay không, tôi vẫn phải làm việc với một tên chấp pháp, mà làm việc với tên mình biết rồi tốt hơn nhiều so với tên mình chưa biết.
Huỳnh Ngự bận rộn bầy ấm chén lên bàn, lấy nước sôi pha trà, ra dáng chủ nhà. Vừa chuyên trà từ chén nọ qua chén kia, y vừa ôn tồn nói với tôi :
- Nè, tui nói anh đừng tự ái, chớ đám nhà văn các anh là chúa hay nghĩ ngợi lung tung. Việc bình thường rơi vào tay các anh là cứ rối tinh rối mù lên không còn biết đâu là đầu đâu là cuối nữa. Còn về lập trường thì ôi thôi, khỏi nói, khi tả khuynh khi hữu khuynh, nói tóm lại dao động lung tung. Trong bọn nhà văn các anh, Nguyễn Ðình Thi(1), Nguyễn Khải được coi là lập trường vững nhất, đúng vậy không ?
- Tôi không rõ. Trong giới văn nghệ chưa có bình bầu lập trường. Nhưng cứ tạm coi là vậy đi. Thì sao ?
- Vậy mà, tui nói cho anh hay, kể cả mấy anh nớ, cũng không thể làm việc trong cơ quan an ninh tụi tui lấy một ngày. Nói rứa để anh rõ Ðảng lựa chọn người mần chuyên chính vô sản khe khắt ra răng. Cơ quan an ninh tụi tui không lạ chi ba cái lập trường tả hữu bất tường của mấy ảnh... Anh cũng rứa, lập trường cái chi, Ðảng tính cái chi mà vừa bị bắt đã bi quan muốn chết, mất hết lòng tin ở Ðảng. Ðó, anh coi, Ðảng đã có quyết định rồi, có giống như các anh nghĩ mô...
Tôi không hiểu y muốn gì. Tôi lặng thinh.
- Hì hì, nghe trên phổ biến rồi, bữa ni anh còn thắc mắc không ? Hết rồi chớ ? Có thắc mắc thì cứ phát biểu, Ðảng cho phép các anh nói thẳng, nói thật, nói hết, thì cứ mạnh dạn mà nói. Tui có trách nhiệm giải đáp mọi thắc mắc của các anh, tuốt tuột. Anh phải biết khi tư tưởng chưa thông suốt thì làm việc sẽ khó, khó lắm. Mà ta phải làm sao cho công việc Ðảng giao được tốt nhứt, hiệu quả nhứt. Anh hiểu chớ ?
Câu đáp bật ra theo phản xạ tự nhiên, như không phải tôi nói :
- Khoan nói tới chuyện hiệu quả. Trước khi làm việc chúng ta cần phải thỏa thuận với nhau chuyện hôm nọ còn bỏ dở cái đã.
Chà, sao tôi lại thế nhỉ ? Tôi đã định bụng quên cái chuyện đôi co bữa trước trong ngày hôm nay rồi kia mà. Có lẽ thái độ coi tôi như trẻ con của Huỳnh Ngự làm tôi phát khùng.
Huỳnh Ngự ngạc nhiên, hay làm ra vẻ ngạc nhiên :
- Chuyện chi hè ?
Tôi thấy ái ngại cho y. Y thiệt thòi quá ! Ðáng lẽ đương nhiên được gọi bằng ông ngon lành thì y lại đụng đầu với một thằng dở hơi và cù nhầy là tôi để phải mà cả lằng nhằng cả buổi chỉ vì một từ. Mà tôi cũng dở. Quay lại đề tài cũ trong một ngày có điều kiện để không cãi nhau làm gì ? Khi bị gọi đi cung tôi đã vạch cho mình cách ứng xử khác. Tôi định bụng nếu có gặp một chấp pháp khác hay gặp lại Huỳnh Ngự thì tôi cũng sẽ không gây sự nữa, mà sẽ mềm mỏng để moi ở người đối thoại những điều tôi cần biết. Không có những tên chấp pháp thì làm sao tôi có thể biết được sự gì đang xảy ra bên ngoài. Nhưng gọi y bằng ông để y gọi mình bằng anh là bất bình đẳng, cũng không được !
Chúng tôi im lặng hồi lâu.
Tôi quyết định rút chân ra khỏi bãi lầy :
- Hay là thế này vậy : gọi bằng anh thì không được, quy định cấm, chính tôi cũng không muốn. Gọi bằng ông thì tôi đã nói rồi, tôi không chịu - nó quá ư bất bình đẳng. Thôi thì, nếu anh không phản đối, chúng ta sẽ chọn một cách xưng hô khác, ở giữa, vừa phải cho cả hai...
- Anh cứ nói.
- Anh lớn tuổi hơn tôi nhiều, tuổi anh nằm giữa hai thế hệ cha tôi và tôi, chi bằng tôi gọi anh bằng bác xưng tôi, còn bác thì cứ gọi tôi bằng anh là xong. Như vậy tuy không hợp với nội quy cho lắm, nhưng cũng không trái với nó...
Huỳnh Ngự lưỡng lự vài giây. Rồi chặc lưỡi :
- Vậy cũng được.
Rốt cuộc, chúng tôi đã đạt được một thỏa hiệp không đến nỗi tồi. Nếu không chúng tôi còn lúng túng còn lâu, chưa biết khi nào mới thoát khỏi ngõ cụt.
Huỳnh Ngự còn khó chịu một chút, tôi biết. Về phía mình, tôi hài lòng. Ðã đến lúc phải chấm dứt, bằng cách này hay cách khác, cuộc tranh luận vô bổ.
Tôi hiền lành nhìn Huỳnh Ngự, nói bằng giọng yêu cầu được thông cảm :
- Bác đừng buồn tôi, bác Ngự ạ. Con người thường có những nguyên tắc không thể vượt qua. Bác vừa nói đám nhà văn hay nhiễu sự. Cái đó có phần đúng...
- Chu cha, lại còn có phần đúng ! - Huỳnh Ngự lườm tôi, nhưng trong cái lườm không có ý ghét bỏ - Ðúng quá đi chớ ! Các anh là rứa, chỉ thấy cây mà không thấy rừng, đã vậy lại còn thích chẻ sợi tóc làm tư, chẻ làm tư rồi còn muốn chẻ làm tám. Rút cuộc đa thư loạn thị, mới hiểu sai đường lối của Ðảng, hiểu sai rồi đâm mất lòng tin. Nghĩ làm chi cho mệt trong khi ở trên đã có Ðảng, có Trung ương nghĩ hộ cho hết trơn hết trọi. Ðảng là trí tuệ, là bó đuốc soi đường, là lương tâm thời đại(2)... Ðảng được võ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, cho nên Ðảng không thể sai lầm. Chúng ta, như anh hùng Lôi Phong bên Trung Quốc đã nói, mà nói rất đúng, chỉ là những cái đinh ốc của cách mạng. Nhưng phải là những cái đinh ốc không rỉ kìa !
Tôi bất giác mỉm cười.
Anh chàng Lôi Phong mà Huỳnh Ngự nói là một anh hùng từ nông dân được những nhà lãnh đạo mao-ít Trung Quốc đôn lên làm anh hùng, làm tấm gương sáng cho cả nước noi theo. Anh chàng gàn bát sách này quyết không đi xe điện để dành hai xu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Anh ta nhặt bàn chải răng người ta vứt đi trong thùng rác, rửa sạch để dùng lại, cũng vì mục đích cao cả đó. Ðể đồng đội khỏi phải đi cả chục cây số đến hiệu cắt tóc, Lôi Phong lấy tiền dành dụm mua cái tông-đơ rồi đè đầu một đồng chí Lý nào đó ra mà cắt. Sau đây là đoạn tôi nhớ gần như nguyên văn trong cuốn sách mang tên anh ta :"Ðồng chí Lý kêu váng lên, nói tông-đơ rứt tóc chịu không nổi. Lôi Phong "bèn mở sách Mao chủ tịch ra đọc". Ðọc rồi, thông rồi, Lôi Phong thêm quyết tâm, lại tiếp tục cắt. Ðồng chí Lý vẫn kêu la. Lôi Phong vò đầu bứt tai rồi "lại mở sách Mao chủ tịch ra đọc". Anh tiểu đội trưởng Giải phóng quân là người đề xướng cái thuyết nổi tiếng toàn Trung Quốc rằng mỗi con người trong xã hội phải là cái đinh ốc không rỉ của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Tất nhiên, mỗi người mỗi nghề, tui không đi sâu, tui không hiểu giới văn nghệ sĩ bằng anh, - mắt kém, Huỳnh Ngự không nhận thấy nụ cười thoảng qua trên mặt tôi - nhưng tui cũng có gặp người nầy người nọ trong đám văn nghệ sĩ chớ, tui cũng hiểu được các anh phần nào chớ. Nói thiệt, tui thấy các anh đông tây kim cổ cái chi cũng biết, nhưng cái chính, cái cốt lõi, là chủ nghĩa Mác vô địch thì, hè hè, các anh lại chẳng nắm được là bao...
- Thì bác chả nói mỗi người mỗi nghề đó sao ! - tôi nhấp trà, hiền lành đáp - Bác có nghề của bác, tôi có nghề của tôi, bác thạo nghề của bác, chúng tôi thạo nghề chúng tôi...
Huỳnh Ngự không để cho tôi nói hết câu, y chặt ngang :
- Nhưng trong chế độ của chúng ta thì làm nghề nào cũng vậy, phải lấy chủ nghĩa Mác làm đầu. Nhiều người mắc sai lầm là bắt đầu từ chỗ nớ, từ chỗ không đánh giá đúng tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác vô địch, không chịu học tập chủ nghĩa Mác vô địch, khoa học của mọi khoa học. Nó là kim chỉ nam cho hành động. Chỉ có dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác ta mới nhìn mọi sự được minh bạch, trắng ra trắng, đen ra đen...
Ðĩa hát cũ, chẳng cần nghe cũng biết trong đó có gì.
Không khí trở lại như ban đầu, không còn căng thẳng.
Tôi tận hưởng chén trà ngon đậm đặc trong căn phòng lạnh căm căm, dưới ánh sáng không phải chủ nghĩa Mác mà của ngọn đèn vàng vọt trong buổi sáng ảm đạm. ê ngoài nhìn vào chắc hẳn ai cũng phải nghĩ ở đây có hai người đang dông dài chuyện trà dư tửu hậu.
- Bữa ni ta chưa dùng tới giấy bút. - Huỳnh Ngự đổ bã ấm thứ nhất rồi không vội vã pha ấm thứ hai - Chuyện vãn cũng là một hình thức làm việc, anh có đồng ý vậy không ? Nhứt là đối với những người làm công việc trí óc như tụi mình. Uở, râu anh sao mà mọc nhanh quá vậy ?
Tôi bất giác đưa tay lên mặt. Ðúng là râu mọc nhanh thật. Tôi chẳng bao giờ có ý định để râu, thành thử chẳng quan tâm tới râu ria. Tôi có thói quen cạo mặt hàng ngày kể từ khi thành đàn ông.
- Cạo đi ! Ðể vậy gớm chết đi được !
- Kệ, chẳng sao. - tôi chặc lưỡi - Có phải tôi đang ở nhà mình đâu. Cũng chẳng có việc gì phải ra phố.
Huỳnh Ngự sững một giây, nghĩ xem có phải tôi định nói xỏ không.
- Ðể tui kêu quản giáo cắt tóc cho anh. Tóc cũng tốt rồi. Hôm nay anh cạo đi cái đã, tui sẽ đưa dao bào cho anh.
- Cảm ơn.
Huỳnh Ngự đưa tôi tới cửa ngách. Nó mở ra một mảnh sân tí din, nơi ri rỉ một vòi nước hỏng van. Chỉ cần động khẽ vào cái vòi là nước chảy tung tóe, nhưng không dễ khóa nó lại. Muốn khóa nó phải vặn nhẹ nhàng cho tới khi nước ngừng chảy, nín thở mà hãm nó tại đúng vị trí ấy rồi rón rén đi ra. Tôi tranh thủ rửa mặt mũi chân tay cho thoải mái trong khi chờ viên quản giáo đi lấy dao cạo.
Mảnh sân tiếp giáp với tường Hỏa Lò, mặt quay ra đường Hàng Bông Thợ Nhuộm. Ðứng bên vòi nước tôi nghe rõ mồn một tiếng bánh xe đạp lăn trên mặt đường nhựa, tiếng người lao xao. Chao ôi, giá mà lúc có được mảnh giấy trong tay nhỉ ! Tôi sẽ viết mấy dòng nhắn tin cho gia đình rồi lợi dụng một phút sơ hở của Huỳnh Ngự, xin ra rửa ráy và ném nó qua bức tường kia. Người nhặt được sẽ đem mẩu thư tới cho gia đình tôi. Tôi tin vẫn còn nhiều người tốt bụng. Nhưng trong tay tôi chẳng có mẩu giấy nào, chẳng có cái bút nào.
- Nè, dao bào đây, cạo đi !
Nhìn thấy con dao tim tôi thắt lại.
Tôi nhận ra nó, con dao cạo cũ mà lớp kền mạ đã bong từng mảng. Ðó là con dao của cha tôi. Ông dùng con dao nhãn hiệu Gillette này đã nhiều năm.
Nghĩa là cha tôi đang ở đây, ngay trong Hỏa Lò này. Nghĩa là tin đồn ông bị Ðảng giữ tại một biệt thự đầy đủ tiện nghi là tin vịt. Bằng việc cho tôi thấy con dao, Huỳnh Ngự muốn tôi hiểu một điều : nếu cha tôi cũng đang ở Hỏa Lò, thì điều đó có nghĩa là Ðảng đã thẳng tay trừng phạt, không chiếu cố gì hết. Không có chuyện người ta nể nang gia đình cách mạng mà nương nhẹ cho cha con tôi. Chúng tôi chỉ có một con đường: đầu hàng, chịu khuất phục.
Tôi điềm tĩnh cạo mặt, cố tình không cho Huỳnh Ngự được hí hửng thấy kết quả dự liệu. Thậm chí tôi còn khe khẽ huýt sáo.
Trả lại Huỳnh Ngự con dao, tôi hồn nhiên nói :
- Bác có biết không, cạo mặt sướng nhất là dùng loại dao cạo này, nhưng lưỡi phải đúng là lưỡi Gillette, và phải nhúng dao vào nước thật nóng kia, lúc ấy râu cứ đi êm như ru.
- Vậy hả ?
Huỳnh Ngự chưng hửng.
Càng thấy rõ việc tôi nhìn thấy tướng Ðặng Kim Giang chẳng phải là ngẫu nhiên. Huỳnh Ngự dựng vở, có điều y là đạo diễn vụng... Y muốn đánh tiếng cho tôi biết đến những bậc lão thành cách mạng, thành tích đầy mình, vào đây rồi cũng đành chịu tho, huống hồ tôi.
Cái gọi là xử lý nội bộ của Ðảng là thế. Nó không hơn một lời hứa suông nhằm moi ở chúng tôi lời nhận tội theo ý muốn. Cụm từ xử lý nội bộ chỉ tô đậm thêm tính chất phi lí của vụ án do Ðảng làm. Ðảng, mà lại làm án đã là phi lý rồi. Chẳng Ðảng nào có quyền lập án, xử án cả.
- Tui mừng cho anh. - Huỳnh Ngự đặt tay lên vai tôi - Nếu Ðảng đã quyết định để vụ này trong nội bộ có nghĩa là ở đây không có mâu thuẫn địch ta, mâu thuẫn đối kháng, mà chỉ có mâu thuẫn nội tại, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân mà thôi. Anh thấy chưa ? Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào người cộng sản cũng cứ phải tin tưởng ở Ðảng. Ðảng bao giờ cũng anh minh, cũng sáng suốt. Ðã bảo là không phải mâu thuẫn địch ta thì tức là mâu thuẫn trong nhà với nhau, Ðảng chỉ giơ cao đánh sẽ, ví như cha mẹ thấy con cái hư thì phải đánh, chớ đánh con mình lòng cha mẹ cũng đau đớn lắm...
Tội nghiệp cho Ðảng quá !
Tiếp theo Huỳnh Ngự cho chạy đĩa hát khác về các loại hình mâu thuẫn được Mao Trạch-đông tổng kết trong trước tác Bàn Về Mâu Thuẫn. Tôi đã đọc cuốn này qua bản viết lại theo cách Việt Nam cho dễ hiểu của Hồ Chí Minh. Ðối với Mao, đó là cẩm nang chia để trị dành cho các giáo đồ, phân biệt các loại kẻ thù lớn bé, xa gần, các loại đồng minh lâu dài và giai đoạn. Nó là một chương trong bộ Sấm truyền mao-ít.
Huỳnh Ngự không phải là ngoại lệ trong lớp cán bộ cỡ gia nhập cách mạng theo phong trào, tiến thân bằng lý lịch. Vỗ ngực khoe thành phần cơ bản, hợm hĩnh với những ưu đãi tinh thần được Ðảng ban phát, những loại cán bộ này luôn phô ra, một cách rất hoạt kê, vốn hiểu biết nghèo nàn của họ bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu. Họ vênh vang tự đắc về những hiểu biết chỉ riêng họ mới có. Các lãnh tụ - những người độc quyền chân lý - bao giờ cũng dành cho họ những suất chân lý lớn hơn hẳn lũ thần dân bên dưới. Không hiếm lần chúng tôi phải chầu chực ở nhà ông chủ nhiệm tờ báo để được nghe ông nói lại những gì ông được trên phổ biến. Thông thường, mỗi khi có những sự kiện lớn hoặc chính sách mới ban hành thì Trung ương phổ biến cho cấp tỉnh, cấp tỉnh phổ biến cho cấp huyện, cứ thế chân lý của Ðảng đi lần lần xuống đến người cuối cùng trong bậc thang xã hội.
Xã hội Việt Nam trong những năm ấy là xã hội khép kín. Một lỗ thủng để dân chúng có thể nhòm được ra ngoài là sơ suất của ngành an ninh, là trọng tội đối với kẻ đã dám khoét cái lỗ thủng đó hoặc phát hiện ra nó để sử dụng.Mọi thứ sách báo nước ngoài đều là sách báo địch, mọi thứ đài nước ngoài đều là đài địch, trừ các sản phẩm văn hóa của các nước xã hội chủ nghĩa. Sau Ðại hội XX ít lâu, sách báo Liên Xô và các nước Ðông Âu cũng bị cấm nốt, cũng bị coi là những sản phẩm văn hóa độc hại(3). Tin của Việt Nam Thông tấn xã cũng chia làm nhiều loại : loại thường, loại mật và loại tối mật. Loại thường là tin tức trong nước, tin nước ngoài được biên soạn lại cho sự sử dụng rộng rãi. Cán bộ cấp cao được đọc tin mật, hoặc tin tối mật. Tin mật và tối mật, không phải lấy từ kho tin tình báo mà lấy từ các đài phát thanh nước ngoài, vẫn là thứ bị cấm ngặt, không ai được nghe. Cán bộ thấp, cấp cơ sở hoặc dân thường thì nghe loa truyền thanh cũng đủ. Người dân, không trừ cả giới trí thức, trí thức kỹ thuật hay trí thức nhân văn thì cũng thế, chỉ còn cách tự túc món ăn tinh thần bằng những câu chuyện ngồi lê đôi mách.
Ngu dân là chính sách không của riêng Việt Nam. Chỉ sau Ðại hội XX người dân xô-viết mới được biết đến Giã Từ Vũ Khí của Ernest Hemingway, Chùm Nho Nổi Giận của John Steinbeck(4). Ðến cả thơ của Esenin(5) cũng bị cấm trong thời gian dài, người Nga chỉ được đọc thơ ông qua các bản chép tay. Vào năm 1957, khi thơ Esenin được xuất bản, trước mỗi cửa hiệu sách là những dòng người xếp hàng rồng rắn cả cây số. Tôi cũng phải xếp hàng cả nửa ngày để mua cuốn Bút Ký Triết Học của Lênin trong thời kỳ này.
ê Việt Nam kiến thức được chia thành hai loại : chính thống và phi chính thống. Người giám định văn hóa duy nhất có thẩm quyền là Ðảng, hiện thân trong cái gọi là Ban Tuyên-Giáo, Ban Tuyên-Huấn, Ban Khoa-Giáo, Ban Văn hóa-Tư tưởng vv. Những gì không được các Ban nói trên cho là chính thống thì nhân dân không được dùng. Cho nên những vụ đốt sách Victor Hugo, Shakespeare, Guy de Maupassant, Molière...đập đĩa nhạc của Beethoven, Verdi, Mozart(6), ... được lặp đi lặp lại nhiều lần không phải chuyện lạ. Nhà cầm quyền không muốn nhân dân được biết những gì họ không muốn cho biết. Và ở đây, một nghịch lý nảy sinh : trong khi các lãnh tụ ngủ yên trên chức vị, thì nhân dân ngày một trưởng thành về nhận thức do sự học hỏi vụng trộm, còn các vị thì mỗi ngày một lùn thêm trong mắt họ.
- Tôi muốn hỏi bác câu này.
- Ðược, anh cứ hỏi.
- Theo bác, chừng nào tôi sẽ được về nhà với vợ con ?
Huỳnh Ngự lắc đầu :
- Cái nớ tui không trả lời được. Cái nớ phụ thuộc ở anh nhiều hơn ở tui. Căn cứ thái độ của anh mà Ðảng sẽ cho anh về lúc nào.
- Tôi chắc cũng không lâu nữa đâu.
- Căn cứ nơi mô mà anh nghĩ rứa ?
- Thì căn cứ vào quyết định của Ðảng mà cấp trên vừa phổ biến đó. Ðảng đã nói rõ : đây là mâu thuẫn trong nội bộ Ðảng, nội bộ nhân dân, Ðảng không áp dụng luật pháp cũng như các biện pháp hành chính...
- Ðúng vậy !
- Nhưng đó là đối với các đảng viên của Ðảng thôi chứ ! Tôi không phải đảng viên thì Ðảng giữ tôi làm quái gì ? Ðã không phải là đảng viên thì lẽ đương nhiên tôi không phải chịu bất cứ kỷ luật nào của Ðảng...
Huỳnh Ngự ngớ ra. Câu hỏi và cách suy luận ngây ngô của tôi đưa y vào ngõ cụt.
- Vả lại, theo thiển ý của tôi, Ðảng cho bắt đảng viên thế này cũng là vạn bất đắc dĩ, Ðảng không nghĩ được cách nào khác nên mới làm như thế. Nó không đúng Ðiều lệ. Kỷ luật cao nhất đối với đảng viên chỉ có khai trừ là hết, không thể có chuyện bắt giam. Chẳng riêng điều lệ Ðảng ta, các đảng phái khác cũng vậy.
- Anh lý sự gớm.
- Cho nên Ðảng mới có quyết định vừa rồi. Thả ra là phải. Nếu các đảng viên còn được thả thì dĩ nhiên, là người ngoài Ðảng, tôi phải được thả sớm hơn họ...
- Cái nớ thì tui lại không dám khẳng định. Các hình thức kỷ luật của Ðảng không phải là bất di bất dịch. Ðảng linh hoạt trong đối sách, luôn sáng tạo những hình thức đấu tranh mới, kể cả trong lãnh vực đấu tranh tư tưởng...
Y đối đáp kể cũng giỏi. Y có cái lô-gích của y. Nhưng cách y phát triển lô-gích mới tài. Y bảo :
- Còn chuyện anh bị bắt cùng các đảng viên thì anh nghĩ thử coi, nghĩ kỹ chút thì hiểu liền à ? Anh tham gia cách mạng từ lúc còn là đứa trẻ, đúng vậy không hè ?
- Nếu tính cả những việc mà cha tôi và các bạn ông sai tôi làm hồi bí mật là tham gia cách mạng thì đúng thế ...Còn nếu tính từ ngày tôi ăn cơm của cách mạng, lĩnh phụ cấp của cách mạng để làm việc cho cách mạng thì có thể tính từ năm 1946 khi tôi gia nhập một đội tuyên truyền xung phong ở Nam Ðịnh.
Huỳnh Ngự cười hì hì :
- Thấy chưa ? Tui là tui nắm lý lịch anh rõ lắm. Anh đã ở trong hàng ngũ cách mạng từng ấy năm, từng ấy năm anh chiến đấu dưới lá cờ của Ðảng, được Ðảng giáo dục, bồi dưỡng để trở thành trí thức cách mạng như bây chừ, cho nên Ðảng mặc nhiên coi anh như đảng viên. Anh phải lấy làm hãnh diện mới phải. Còn bây chừ có khuyết điểm thì Ðảng lại giáo dục cho tốt lên. Sửa chữa xong khuyết điểm thời lại về với Ðảng.
Ngụy biện đến nước ấy là cùng !
Tôi không cãi. Tôi còn nghịch ngợm đeo lên cho tôi cái mặt nạ xúc động nữa kia. Thử nghĩ mà xem, có thể nào không xúc động cho được khi Ðảng dành cho mình vinh dự lớn đến thế ! Nếu mang cái cuộc đối thoại kỳ cục đó nhào nặn thành một truyện ngắn kiểu Azis Nexin(7) thì ắt hẳn phải đặt cho nó cái tên : Tôi Ðược Coi Như Ðảng Viên Của Ðảng Vĩ Ðại Như Thế Nào.
Tôi không còn gì để nói nữa. Câu chuyện vãn cho một ngày làm việc đến đó kết thúc được rồi.
- Bữa ni có vậy thôi, anh về nghỉ. - Huỳnh Ngự đứng lên, vuôn vai nặn ra một cái ngáp thân mật - Quên, còn chuyện thuốc lá cho anh. Tui đã báo cơ quan anh gởi tiêu chuẩn trà thuốc của anh vô, không hiểu sao chưa thấy gởi... Ðợt cung cấp nầy hơi chậm. Cơ quan tui cũng rứa hà, bữa đực bữa cái, thời chiến mà...Anh cầm tạm bao nầy về hút cho đỡ ghiền.
Trong suốt buổi gặp gỡ Huỳnh Ngự nhiều lần nhả khói thuốc về phía tôi nhưng không thấy phản ứng y muốn thấy. Bao thuốc để trên bàn, trước mặt tôi, không được tôi đụng đến.
- Cảm ơn. Tôi đã quyết định không hút nữa là không hút.
Huỳnh Ngự điềm nhiên bỏ bao thuốc vào túi.
- Còn việc nầy nữa ! Anh Hoàn(8) sẵn sàng cho anh gặp. Anh có đề nghị được gặp anh Hoàn không ?
- Không ! Tôi nghĩ rằng tôi chẳng có gì để nói với ngài bộ trưởng.
Cách gọi Trần Quốc Hoàn bằng ngài rõ ràng chướng tai Huỳnh Ngự, nhưng lần này y không bắt bẻ. Nếu cái gì cũng bắt bẻ chắc y chẳng còn thời giờ nào làm việc với tôi về những chuyện khác.
- Tùy anh.
Chúng tôi chia tay, lần này không giống như những kẻ thù, nhưng cũng không phải là những người bạn.
Tôi trở về xà lim, lòng trĩu nặng. Bỏ ra ngoài tính chất bất cần đời pha chút tinh nghịch cố hữu đã giúp tôi sống qua mấy ngày tù đầu tiên, tôi thấy trước mặt một tương lai xám xịt. Không thể nói trước cái gì sẽ đến với chúng tôi. Xử lý nội bộ chỉ là một cách nói. Họ chẳng dại gì mang chúng tôi ra xử công khai. Họ thừa hiểu chúng tôi là người thế nào. Họ sợ khi có diễn đàn chúng tôi sẽ vạch trần tội ác của họ, vạch trần sự lộng quyền đã mang lại những tai họa cho dân tộc, cho đất nước. Cho dù sau đó là pháp trường hoặc thủ tiêu.
"Con người là một sinh vật kỳ lạ. Chỉ mình nó thích nghi được với mọi hoàn cảnh", Dostoevsky vĩ đại đã nói như thế trong Hồi Ký Nhà Chết(9). Quả nhiên, rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống bị giam cầm. Nói quen thì không đúng, tôi dần thích nghi được với nó, hơn nữa còn thích nghi được một cách không đến nỗi quá khổ sở.
Tôi tự khẳng định rằng một khi đã sa vào tay bọn độc tài thì đừng hi vọng được chúng rủ lòng thương. Những tên độc tài ở mọi thời đại, mọi quốc gia đều giống nhau. Chúng hoặc là những tên vị kỷ đến cùng cực, trong trường hợp tốt hơn cũng là những tên cuồng tín thâm căn cố đế. Chúng sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng của người khác để thực hiện mục đích. Thảng hoặc cũng có những tên độc tài có công làm cho quốc gia trở nên thịnh vượng trong thời điểm nào đó. Nhưng những cái tưởng chừng là công trạng ấy chẳng gột sạch được tội ác của chúng khi vinh quang của chúng được xây dựng trên những núi xác chết và những đại dương bi kịch.
Không thể so sánh bi kịch của cá nhân với bi kịch của một quần thể, một dân tộc, để nói rằng bi kịch cá nhân không có ý nghĩa. Bi kịch nào cũng là bi kịch. Mỗi con người cảm nhận bi kịch của mình cụ thể hơn bi kịch của số đông và vì thế nỗi thống khổ của một cá nhân là nỗi thống khổ cần được chia sẻ trong tình nhân ái.
Thành lồm cồm bò dậy đón tôi :
- Về sớm thế ?
- Họ bảo đi thì đi, họ bảo về thì về. Anh có phải đi đâu không ?
- Không.
Thành trả lời, tránh cái nhìn của tôi. Tôi thấy anh lúng túng. Không hỏi thêm, tôi lẳng lặng về chỗ mình.
Nếu người ta bắt tên chỉ điểm gặp họ để báo cáo về tôi thì gọi y ra vào lúc tôi đi cung là tiện nhất.
- Ăn đi, cơm canh nguội ngắt rồi.
Thành bối rối đẩy suất cơm tù đến trước mặt tôi.
Tôi ngồi xuống, xếp chân bằng tròn trước khổ hình hàng ngày.

(1) Nhà văn, nhạc sĩ, nhà thơ, nổi tiếng với những tác phẩm Xung Kích, Sống Mãi Với Thủ Ðô...Ông là một nhà văn hàng đầu trong đội quân Văn nghệ của Ðảng.
(2) Câu chữ của Phạm Văn Ðồng.
(3) Giới thạo tin kể rằng chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô A.N. Kosyghin (1904-1981) trong cuộc hội đàm với thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Ðồng năm (1965 ?) đã hỏi thẳng về chuyện báo chí Liên Xô bị cấm bán. Thủ tướng Phạm Văn Ðồng chối. Kosyghin đề nghị ngừng hội đàm để cả hai cùng đi ra phố xem hư thực ra sao thì Phạm Văn Ðồng thoái thác. Ðể giữ hòa khí với nước đàn anh, người ta vẫn mua sách báo Liên Xô với khối lượng lớn như trước, nhưng chở thẳng đến các nhà máy giấy để tái chế.
(4) Ernest Miller Hemingway (1899-1961), nhà văn Mỹ nổi tiếng. John Ernst Steinbeck (1902-1968), nhà văn Mỹ nổi tiếng, giải thưởng Nobel.
(5) Nhà thơ trữ tình (Nga).
(6) Victor Marie Hugo (1802-1885), William Shakespeare (1564-1616), Jean Baptiste Poquelin Molière (1622-1673), Guy de Maupassant (1850-1893), Ludwig Van Beethoven (1770-1827), Volfgang Amadeus Mozart (1756-1791), Giuseppe Verdi (1813-1901)... - các nhà văn, nhà soạn kịch, nhạc sĩ nổi tiếng thế giới.
(7) Nhà văn châm biếm Thổ Nhĩ Kỳ, nổi tiếng trong độc giả Việt Nam với tập truyện Nếu Tôi Là Ðàn Bà.
(8) Trần Quốc Hoàn.
(9) Fiodor Mikhailovich Dostoevsky (1821-1881), nhà văn nổi tiếng của Nga cuối thế kỷ XIX, tác giả Tội ỏc Và Trừng Phạt, Thằng Ngốc, Anh Em Nhà Karamazov... Mấy năm trước đó tôi có dịch cuốn Hồi Ký Nhà Chết theo kế hoạch Nhà xuất bản Văn hóa. Bản thảo đã chuẩn bị xong, nhưng cuốn sách không được phép in vì Dostoevsky bị Maxime Gorky nhận định là "một thiên tài độc ác".





:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 9

Chiến thắng Cao-Bắc-Lạng (1950) không chỉ xóa sổ hai binh đoàn cơ động Le Page và Charton, giải phóng một vùng rừng núi rộng lớn, nó còn mở tung cửa biên giới phía Bắc, chấm dứt tình trạng cô lập của nước Việt Nam kháng chiến.
Ngay lập tức sau khi biên giới hai nước được nối liền, người anh em cộng sản phương Bắc đã viện trợ cho nước Việt Nam kháng chiến đủ thứ - lương thực, vũ khí, quân dụng. Cùng với các thứ hàng hóa thiết yếu, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hẳn lên với những điệu Ương ca tưng bừng, những buổi chiếu bóng lưu động ngoài trời với những bộ phim hấp dẫn : Bạch Mao Nữ, Nam Chinh Bắc Chiến, Chiến Sĩ Gang Thép...Chúng tôi được phát bát men, ca men thay cho cái gáo dừa khổ hạnh của nhà chùa. Trên ngực chúng tôi chói sáng huy hiệu Mao chủ tịch.
Chẳng bao lâu sau tôi phát hiện ra rằng kèm theo những niềm vui mới, sự nối liền biên giới Việt-Trung còn đem đến cho chúng tôi những điều khó chịu.
Ðập vào mắt chúng tôi là sự phân biệt phẩm trật kỳ cục trong Giải phóng quân. Ðàng sau khẩu hiệu "tất cả để phục vụ cách mạng", những anh lính trơn và hạ sĩ quan sống như trâu ngựa, cúc cung tận tụy phục vụ cấp trên, bảo gì làm nấy, như những cái máy. Cuộc cách mạng Việt Nam khởi đầu bằng một lối sống khác hẳn, làm cho chúng tôi sững sờ trước những cảnh tượng khó hiểu nọ. Chúng không phải chỉ khó hiểu mà còn khó chịu. Chúng tôi không phải quá ngu để không thấy được Ðảng Việt Nam hoàn toàn tin theo hình mẫu Trung Quốc, do đó nếp sống của quân đội Trung Quốc anh em sẽ là nếp sống tương lai của quân đội Việt Nam.
Thời kỳ này tôi đang theo học khóa 6 Trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Ðây là nơi quân kỷ quân phong được tôn trọng và thi hành khắt khe hơn hẳn ở các đơn vị khác, quân chính quy cũng như quân địa phương.
Nhưng kỷ luật sắt của bộ đội Việt Nam không có gì giống trật tự phong kiến trong quân đội nước bạn. Như ở mọi đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, chúng tôi sống với nhau như trong một gia đình lớn, không có sự phân biệt sĩ quan với học viên, ăn cùng mâm, nằm cùng lán, mọi tiêu chuẩn gần như ngang nhau. Những cái đó không có trong Giải phóng quân Trung Quốc, ít nhất thì cũng trong các đơn vị Giải phóng quân đầu tiên qua Việt Nam.
Lần đầu tôi được thấy tận mắt trong quân đội cách mạng cũng có lính hầu là ở trạm Quảng Nạp, một trong cửa ngõ vào ATK(1) từ ngả Thái Nguyên. Trước đó tôi không bao giờ hình dung có người đi làm cách mạng chỉ để hầu ai đó. Trong quân đội Việt Nam cũng có các vệ sĩ , hồi mới kháng chiến còn gọi là gác-đờ-co(2) nhưng họ hoàn toàn không phải là lính hầu. Cơn sốt rét rừng bất chợt buộc tôi phải nằm lại trạm này đã cho tôi có dịp quan sát mấy đoàn cố vấn Giải phóng quân đi ngang. Những cố vấn Trung Quốc, thường là cấp tướng, đến Việt Nam mang theo cả đoàn lính hầu nhộn nhịp, nào bảo vệ, nào cần vụ, nào cấp dưỡng, nào giám mã. Khi cố vấn lên đường công tác, anh cấp dưỡng quảy nồi niêu xoong chảo lên vai, anh cần vụ lỉnh kỉnh chăn màn gối đệm trên vai, anh giám mã chạy tới cúi gập mình xuống làm cái kê cho cấp trên đạp lên lưng mình mà leo lên ngựa. Cố vấn đến nơi cần nghỉ ngơi thì cần vụ kê giường trải nệm, bày ra nào chậu nào thau cho cấp trên rửa mặt rửa chân, cấp dưỡng te tái lo nấu cơm nấu nước, bảo vệ lăm lăm súng đứng gác, giám mã te tái đi cắt cỏ ngựa. Răm rắp, răm rắp, không chê vào đâu được.
Nhìn cảnh đó tôi vừa ngạc nhiên vừa ghê tởm. Có lẽ không có quân đội nào trên thế giới có thứ lính hầu khốn khổ khốn nạn như lính cần vụ Trung Quốc.
Ăn uống trong quân đội Trung Quốc cũng phân biệt rõ rệt theo cấp bậc, hay nói cho đúng hơn, theo đẳng cấp. Lính trơn cho tới cấp chỉ huy trung đội thì ăn tiêu chuẩn đại táo, tức là mức ăn phổ thông, thấp nhất. Trên đại táo là trung táo, dành cho cấp chỉ huy đại đội tới tiểu đoàn. Tiểu táo là mức ăn dành cho cấp trung đoàn trở lên. Cao nhất là đặc táo, dành riêng cho các nhà lãnh đạo, để đãi khách, bữa nào cũng như tiệc.
Nỗi kinh ngạc của chúng tôi kéo dài không lâu - cả về mặt này quân đội Việt Nam cũng nhanh chóng tiếp cận quân đội đàn anh. May mắn thay, cái sự phân biệt các thứ táo tồn tại không lâu, và ở mức độ thấp hơn nhiều. ê ngoài mặt trận không ai dám liều lĩnh sao chép nguyên bản cái trật tự đẳng cấp kỳ cục ấy. Trước mặt người lính là kẻ thù xâm lược, người lính có thể nổi giận. Mà ở chiến trường thì chẳng ai biết được người lính nổi giận sẽ hành động thế nào. Ðiều chắc chắn là sức chiến đấu của quân đội sẽ giảm sút.
Tiếp đến là chỉnh huấn. ê quê hương nó, nó mang tên chỉnh phong, gọi tắt cuộc vận động chỉnh đốn tam phong : học phong, văn phong, Ðảng phong trong Ðảng cộng sản Trung Quốc(3). Chỉnh huấn là chuyện hết sức lạ lùng đối với chúng tôi, những chàng trai học trò vừa xếp bút nghiên lên đường kháng chiến. Cứ đinh ninh rằng mình cũng tựa những tráng sĩ thời xưa, thanh gươm yên ngựa ra sa trường. Ðến chỉnh huấn mới ngã ngửa ra rằng không phải : đi theo cách mạng trước hết là để cải tạo những tư tưởng thối tha, bao giờ cũng sẵn có trong mình như một thứ tội tổ tông truyền. Phải cải tạo tư tưởng để xứng đáng là người của Ðảng, của xã hội mới. Người ta giảng cho chúng tôi : tất cả ưu điểm các anh có được là nhờ ơn Ðảng, nhờ ơn cách mạng. Tất cả khuyết điểm các anh mang trong mình là do phong kiến, đế quốc truyền cho.
Nhờ chỉnh huấn chúng tôi mới biết ngoài thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai, chúng tôi còn một lũ một lĩ kẻ thù khác. Hi vọng rồi đây sẽ có người viết kỹ về chỉnh huấn, bởi vì không thể nói ngắn về nó được. Không nói kỹ về chỉnh huấn thì không thể hiểu được cái cơ địa tâm thần của vài thế hệ cách mạng, không giải thích được vì sao con người Việt Nam có thể trở thành ù lì trong mấy thập kỷ như vậy được. Ðọc báo chí phương Tây tôi buồn cười thấy họ hiểu biết quá kém về cái trò chỉnh huấn mà họ gọi là tẩy não.
Tôi được biết chỉnh huấn vào năm 1951, trong một hội nghị cán bộ Liên đoàn Thanh niên Việt Nam. Trong hội nghị này Ðoàn Thanh niên Lao động Việt Nam ra đời, thay cho Ðoàn Thanh niên Cứu quốc trước nó, trong vai trò trợ thủ và hậu bị của Ðảng, trên ngực mỗi đoàn viên từ nay sẽ sáng chói huy hiệu tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên do họa sĩ Tôn Ðức Lượng vẽ. Cuộc chỉnh huấn được tổ chức ngoài chương trình được thông báo trong công văn triệu tập. Những cán bộ vừa dự chỉnh phong ở Hoa Nam về làm hướng dẫn viên(4). Những người vừa qua một cuộc đại tẩy não bên nước bạn rất nghiêm nghị, ít cười nói, trong bộ đồng phục cán bộ Trung Quốc, với cây bút Kim Tinh gài trước ngực, với cuốn sổ tay có hình Mao chủ tịch phương phi.
Thoạt đầu hướng dẫn viên giới thiệu một số tài liệu - bài giảng của Mao Trạch-đông, Lưu Thiếu-kỳ, Ngãi Tư-kỳ dành cho cán bộ ... Sau đó, mỗi học viên liên hệ những điều học được với tư tưởng và hành động của bản thân, đưa những thu hoạch ra trình bày trước tổ để tập thể góp ý, phân tích, phê phán. Chúng tôi lén gọi những buổi phê phán là những tự xỉ vả. Ai tự xỉ vả nhiều được coi là thành khẩn. Những bản cung khai tội lỗi xuất sắc nhất được báo cáo trước toàn hội nghị, gọi là báo cáo điển hình.
Vắt óc mãi không nghĩ ra tội gì khả dĩ coi được, tôi bộc lộ rằng tôi thương địa chủ, tôi lén lút đem khoai lang cho mấy đứa con kẻ thù đói lả; tôi có tư tưởng sợ địch khi nhìn thấy trong tờ Paris Match ảnh chụp hàng đàn máy bay với những trái bom bay ra như trấu vãi. Mặc dầu đã tố thêm cho ra vẻ thành khẩn, tội lỗi của tôi vẫn chưa ăn thua gì với tội lỗi những người cùng tổ : họ bộc lộ cha mẹ là phú nông, địa chủ; có anh bộ đội khai đóng quân ở đâu là hủ hóa(5) ở đó, có anh còn khai đã ngủ với em ruột... Học viên vận dụng kiến thức vừa học được xỉ vả thậm tệ những người bộc lộ. Nào là với tư tưởng bóc lột của cha mẹ truyền lại đồng chí không xứng đáng là cán bộ cách mạng. Nào là hủ hóa với con gái nông dân lao động có khác nào con hủ hóa với mẹ vân vân và vân vân. Nói chung, sự suy diễn theo luật tam đoạn được tha hồ đẩy tới phi lý. Tôi nhớ mãi một buổi báo cáo điển hình, khi một anh chàng hùng hổ đứng lên xơi xơi xỉ vả người báo cáo :"Ðồng chí có biết với tư tưởng như thế, với hành động như thế, đồng chí là cái giống gì không? Ðồng chí là... là... con chó, là con chó ghẻ...., con chó ghẻ lang thang...trên...trên..." Ðến đó anh ta ngắc ngư mãi không tìm ra đoạn tiếp cho câu ví. Thế rồi đánh liều, anh ta nói một hơi : "...lang thang trên...cánh đồng... cánh đồng xanh".
Tôi nhìn quanh. Mặt người nào người nấy đỏ lựng. Không phải vì căm thù tư tưởng địch, mà vì nhịn cười.
Thâm ý của các tác giả chỉnh huấn, theo tôi nghĩ, nhằm làm cho con người tự ti đi, hạ mình xuống mức thấp nhất bên cạnh Ðảng cao vòi vọi, đấng cứu thế vô song, để trở thành dễ trị.
Cái mớ tạp pí lù made in China ngày một lớn sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc. Một phái bộ Trung Quốc với La Quý Ba (cố vấn tối cao về chính trị), Vi Quốc Thanh (cố vấn tối cao về quân sự) đặt bản doanh tại Việt Bắc, tham gia vào mọi công việc của ban lãnh đạo Ðảng (La Quý Ba và Vi Quốc Thanh còn tham gia các cuộc họp của Bộ Chính trị) khẳng định thêm vị trí hình mẫu Trung Quốc trong đời sống của khu kháng chiến. Họ đều có mặt trong những bức ảnh cha tôi giữ, với ông Hồ, với Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh.
Tôi nói lại chuyện cũ để giải thích việc đang xảy ra trong Hỏa Lò.
Ðùng một cái, Huỳnh Ngự bảo tôi :
- Ta ngừng công việc. Anh viết lý lịch cái đã.
Lại lý lịch ! Tôi muốn kêu trời. Chúng bắt tôi viết lý lịch làm gì khi chúng có thể lấy lý lịch cán bộ của tôi tại cơ quan ?
Cần phải làm dân Trung Quốc hoặc Việt Nam mới biết đến tận cùng nỗi bực mình do chứng lý lịch cuồng gây ra. Trước hết, đó là cái sự phải khai không chỉ cuộc đời mình, cha mẹ anh em mình, mà cả chú bác cô dì nội ngoại, khai đầy đủ chi tiết họ tên, thành phần, nghề nghiệp, trước cách mạng làm gì, ở đâu, sau cách mạng làm gì, ở đâu vân vân. Những thế hệ đã nằm yên dưới mộ cũng bị dựng dậy để khai trước Ðảng họ là ai.
Mà có phải viết một lần là xong đâu. Thỉnh thoảng lại có lệnh viết lại lý lịch, không biết để làm gì. Trong kháng chiến lý lịch bị mối xông phải viết lại đã đành, hòa bình rồi vẫn viết và viết. Thuyên chuyển công tác - viết, chuyển cơ quan - viết, đi học nghiệp vụ - viết, vào Ðoàn(6) - viết, vào Ðảng - viết. Ðể khỏi phải viết quá nhiều, tôi nhờ cô văn thư cơ quan đánh máy sẵn cho một tập. Khốn nỗi người ta lại không nhận lý lịch đánh máy mới cực.
Tôi còn khổ với sự khai lý lịch ở chỗ tôi cảm thấy mình dối trá. Ðể tránh bị lục vấn lôi thôi, tôi lờ tịt một ông bác bên nội, một ông bác bên ngoại. Từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, nào tôi có biết hai ông ở đâu, làm gì. Chỉ biết hai ông dinh tê(7) vì không chịu được gian khổ, thế thôi. Nghe nói một ông buôn bán chi đó, ông kia làm thư ký Nhà Dây thép (Bưu Ðiện). Có anh cán bộ tổ chức chẳng hiểu tình cờ thế nào lại biết tôi có hai ông bác ấy, nhưng anh ta lờ đi cho tôi. Thế là tôi đâm ra mắc nợ. May là anh ta chỉ vì cảm tình cá nhân với tôi chứ không có ý lợi dụng.
Sự quản lý cán bộ và dân chúng nói chung bằng lý lịch là đặc điểm chung cho tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. ê Việt Nam, trong hai thập niên 50 và 60 nó được đẩy tới mức cao nhất nhờ chủ nghĩa thành phần. Nếu anh là bần nông, cố nông nữa càng tốt, ba đời không dính dấp gì với các giai cấp bóc lột, không có thân thuộc làm việc cho chính quyền cũ, đi lính chẳng hạn, thì anh được coi là cán bộ có lý lịch trong sạch, anh cứ yên tâm thẳng tiến. Ngược lại, chẳng may anh ra đời trong một gia đình giàu có, phú nông hoặc địa chủ, hoặc tệ hơn, cường hào gian ác, thì đời anh ra tóp(8). Một anh bạn cùng công tác với tôi có ông chú ruột ở miền Nam. Chẳng hiểu anh ta nghe ai nói, thành khẩn khai trong lý lịch có ông chú làm việc cho chính quyền Sài Gòn. Từ đó anh không được giao một công việc quan trọng nào, không được cử đi nước ngoài, mỗi lần xét tăng lương là một lần lý lịch anh được giở ra. Sau khi đất nước thống nhất mới biết ông chú làm cho địch của anh chỉ là một ông tùy phái trong một trường tư thục, gọi nôm là loong-toong.
Nhà báo Chính Yên mai mỉa :
- Khi nào có suất đi nước ngoài, nhất là các nước tư bản, thì chúng nó rêu rao thằng Chính Yên là con quan tuần phủ(9), để nó đi Tây cho nó chạy sang với địch à ? Còn khi nào phải sang Lào viết phóng sự chiến tranh thì chúng nó khiêm tốn nhường ngay cho đồng chí Chính Yên, đồng chí ấy có kinh nghiệm chiến đấu. Tổ sư đời !
Chính Yên làm biên tập viên báo Nhân dân, một nhà báo có tài theo chúng tôi đánh giá, một "bồi bút siêu hạng" theo anh tự nhận. Anh tham gia tổng khởi nghĩa Tháng Tám, chiến đấu bảo vệ thủ đô, là sĩ quan lâu năm trong quân đội. Nhưng suốt cuộc đời đi với cách mạng (đi theo cách mạng, nói cho đúng cách thời ấy), anh chỉ là kẻ ăn nhờ ở đậu, gánh vác mọi khó khăn, phần ngon anh chưa kịp nhường đã có kẻ khác hưởng.
Chẳng phải chỉ chúng tôi khổ về chuyện lý lịch. Ngay thủ tướng Phạm Văn Ðồng cũng khổ. Ông Ðặng Xuân Thiều, anh em con chú con bác với nguyên tổng bí thư Trường Chinh, không rõ từ đâu lại biết được câu chuyện hi hữu trong lịch sử nước ta, rằng do sự trớ trêu của số phận vị thủ tướng thâm niên cao nhất thế giới lại... chưa từng vào Ðảng cộng sản(10) bao giờ.
Huỳnh Ngự hài lòng. Tôi hoàn thành bản lý lịch một cách xuất sắc, không nói gì tới hai ông bác, cũng không bỏ sót đứa em nào.
- Anh thấy đó ! Anh sinh trưởng trong một gia đình cách mạng nòi, có lý mô anh lại đi với bọn phản cách mạng ? Con đường anh đi đã được Ðảng vạch sẵn. Ðó là con đường duy nhất : đi theo sự lãnh đạo của Ðảng, của Bác Hồ vĩ đại. Ðược đi dưới lá cờ vinh quang của Ðảng, của Bác là hạnh phúc vô cùng lớn lao của mỗi cán bộ cách mạng !
Từ trên bức tường đối diện, ngay trên đầu Huỳnh Ngự là Bác Hồ tiên phong đạo cốt, với vầng trán cao lồng lộng, cặp mắt anh minh và chòm râu thưa phơ phất, đang hiền từ nhìn xuống đứa cháu bị bỏ tù. Bên dưới chân dung Bác là lời Bác dạy "Công An Là Bạn Dân" viết nắn nót, chữ đỏ rực trên nền giấy vàng !
Chúa ơi, tôi đang ở đâu thế này ? Phải sống với một ông bác và đám bạn bè thế kia mà gọi là hạnh phúc được ư ?
Tôi buồn. Hi vọng mau chóng được ra khỏi đây nguội dần.
Thành tìm cách an ủi tôi. Nhưng anh không vẽ ra một viễn cảnh dễ chịu, mà làm ngược lại - cho tôi quen với sự thật.
- Ai sa chân vào đây mà mang tội chính trị là coi như đời tàn. Anh ta chỉ có một sự lựa chọn : hoặc là quyết sống, hoặc là tự sát.
- Anh cho rằng với tù chính trị người ta cứ giam miết, không thả ??
- Sao không ? Có thả chứ. Nhưng người ta chỉ thả khi nào tin chắc tên tù đã mất hết ý chí. Mà biết đến mùa quít nào người ta mới tin chắc ?
Trong những cuộc học tập chính trị, giảng viên bao giờ cũng nhấn mạnh mục đích tiêu diệt ý chí của địch. Tiêu diệt sinh lực đã đành là quan trọng, tiêu diệt ý chí mới là cơ bản. Tiêu diệt sinh lực cũng nhằm mục đích cuối cùng là tiêu diệt ý chí.
Bây giờ tôi là địch rồi. Họ sẽ sử dụng đối sách như đối với địch. Mà tôi có ý chí quái gì đâu cơ chứ !
- Anh có hay nhận được thư nhà không ? - tôi hỏi Thành.
- Thi thoảng.
- Chị với các cháu lười viết à ?
- Ðâu phải. Chấp pháp có cho nhận mới được nhận chứ. Thời gian mới bị bắt tôi không được nhận thư, người ta sợ thông cung. Sau, họ cho nhận, nhưng kiểm duyệt kỹ, cái nào đúng lập trường, khuyên mình cải tạo tốt thì họ cho nhận, thư nào có giọng oán trách Ðảng thì họ hủy.Ðược nhận thư hay không còn phụ thuộc vào thái độ cải tạo của mình nữa...
Tôi rõ ràng không phải là tù cải tạo tốt rồi, ngay từ ngày đầu tiên.
Cái sự vô công rồi nghề làm tôi rầu rĩ. Không rầu rĩ sao được khi cả ngày ngồi bó gối nhìn vào bức tường trước mặt và không sao xua đuổi được hàng đống bòng bong những ý nghĩ quậy lộn trong đầu.
Huỳnh Ngự cho quản giáo mang vào cho tôi mấy tờ Nhân dân có đăng "Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng". Tôi hiểu : y muốn cho tôi thấy chúng tôi là loại tội phạm nào theo pháp lệnh này. Khi đã ra tù tôi có ý tìm lại, mới biết Trường Chinh ký "Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng" vào ngày 30.10.1967, nhưng hồi đó hoặc giả tôi không chú ý, hoặc giả mãi tới tháng 12 người ta mới đăng, nhưng tôi nhớ rất rõ rằng tôi được đọc nó trong Hỏa Lò, tức là vào cuối tháng 12 chứ không sớm hơn. Sự việc Trường Chinh ra sức hợp pháp hóa việc làm của Lê Ðức Thọ chứng tỏ Trường Chinh đã cum cúp tuân lệnh Duẩn-Thọ, chứng tỏ họ đã kết lại với nhau thành một băng rồi, và như vậy thì chúng tôi chẳng còn gì để mà trông đợi. Giọng hàn lâm phố huyện của pháp lệnh này, với những khái niệm mơ hồ về sự liên hệ với "nước ngoài" và "người nước ngoài" xới lên mảnh đất màu mỡ cho những hành động không kiềm tỏa của bọn độc tài.
Thành nhìn tôi ái ngại. Bằng những câu chuyện xa xôi, anh khuyên tôi đừng tuyệt vọng. Người tù mang tâm trạng tuyệt vọng sẽ thua ngay từ trận đầu trong cuộc chiến dai dẳng với những nỗi khốn khó trong cuộc sống giam cầm. Người tù chỉ có thể sống được đến ngày ra khỏi nơi tù ngục nếu anh ta không để nỗi tuyệt vọng hủy hoại. Cách tốt nhất là buộc mình quên mình đi, tự xóa sổ sự hiện diện của mình đi trong tâm thức, như cách các đạo sĩ yoga thường làm.
Tôi buồn rượi. Làm sao học được cách biến mình thành gỗ đá vô tri vô giác đây ? Con người từ tấm bé vốn chỉ quen học sự khẳng định mình, bằng mọi cách nó nhắc nhở mọi người rằng nó có, nó đang hiện diện trong cộng đồng, nó không phải vô hình vô ảnh, thế mà giờ đây nó lại phải học cách quên mình đi, xóa mình đi, khốn nạn là thế !
Phải mất bao nhiêu thời gian tôi mới học được nghệ thuật đó ?
Viên cai ngục không nhắc nhỏm gì tới việc tôi nhờ anh ta nữa. Tôi nghĩ anh ta chưa có thời gian. Sau mới biết lời hứa của cai ngục với tù là thứ lời hứa tào lao nhất trần đời. Chẳng bao giờ anh ta nhắn hộ tôi cả.
Sau mấy ngày hỏi cung liên tục, với những câu hỏi lăng nhăng nhảy từ đề tài này qua đề tài khác, đề tài nào cũng xa cách cái mà tôi rất muốn biết - họ định buộc tôi vào tội gì - Huỳnh Ngự bỗng nhiên bỏ bẵng, không gọi tôi ra đi cung tiếp.
Một hôm tôi lại bị điệu ra. Lần này không phải đi cung. Ðón tôi là mấy tay công an trẻ, lạ hoắc. Họ đưa tôi tới một góc sân đầy rêu, bảo tôi ngồi xuống một cái ghế đẩu, đàng sau là một mảnh vải xám bẩn thỉu mắc vào một sợi dây phơi quần áo.
Thì ra họ đưa tôi ra chụp ảnh, lăn tay. Một phó nháy ra lệnh cho tôi ngồi trong mọi tư thế thẳng, nghiêng phải, nghiêng trái. Tôi phải đeo một biển số trước ngực, đúng cách chụp ảnh tội phạm. Một người khác, phụ việc cho anh ta, ép mười đầu ngón tay tôi vào cái bảng mực in đen xì để lấy dấu. Sau đó tôi được đưa đi rửa tay. Không có xà phòng, tôi phải chà tay vào đất cát đến khi hai bàn tay đỏ ửng. Thế mà cái mực in quái ác vẫn không đi. Cả tuần sau tay tôi vẫn còn đen.
Thế là rõ. Ðây là cách người ta làm với tù chứ chẳng phải xử lý nội bộ gì hết.
Tôi cho rằng diễn biến của tình hình có chiều hướng xấu đi, chí ít thì cũng không tốt lên. Là đoán vậy thôi, chứ làm sao biết được ở ngoài kia cái gì đang xảy ra. Từ khi vào xà lim tôi không được đọc một tờ báo nào.
Que sera sera(11), ngồi bó gối trong cái chuồng chật hẹp tôi hát khẽ, tự an ủi, tự khuyến khích, cảm thấy lòng mình dần tĩnh lại. Bên ngoài, bầu trời mùa đông vẫn xám xịt một màu chì bức bối.
Thường một lần đi cung kéo dài cả buổi sáng hoặc chiều, thành thử tôi cứ đinh ninh trong lúc tôi vắng mặt những người tù ở xà lim bên cạnh cũng bị gọi ra đi cung như tôi. Hóa ra không phải. Chỉ những người mới bị bắt mới đi cung nhiều. Sau một thời gian làm việc liên tục, thỉnh thoảng họ mới bị gọi ra. Thành nói anh không đi cung đã hơn hai tháng. Có xà lim cả năm không đi cung.
Cũng Thành cho biết, ở Hỏa Lò có vài khu xà lim nằm rải rác ngoài rìa, giữa là trại chung gồm những nhà giam lớn mà tôi đã đi qua. Nơi chúng tôi đang ở gọi là xà lim 3, nằm ở khu vực bên trái Hỏa Lò, gần nhà bếp. Con đường gần xà lim 3 nhất là đường Hai Bà Trưng. Nhà tôi nằm ở đầu đường đàng kia con đường này, phía sông Hồng. Từ đây đi bộ về nhà tôi mất chừng mười lăm phút.
Tù xà lim Hỏa Lò không được đi dạo hàng ngày. Cũng không được đọc báo, không được mượn sách. Tôi đồ rằng Hỏa Lò không có cả thư viện cho công an, đừng nói gì thư viện cho tù. Nói tóm lại, nó chẳng giống như cái nhà tù mà tôi hình dung qua sách báo và phim ảnh nước ngoài.
Một ngày cửa xà lim được mở ra năm lần : buổi sáng một lần cho tù ra đổ bô, rửa ráy; trưa và chiều mỗi bữa hai lần cho tù nhận cơm và trả bát rếch. Thay vào viên cai ngục nông dân hôm trước là một người đàn ông, cũng dáng nông dân nhưng đã được cách tân, rất hách dịch, rất ít lời, tù sợ một phép. Thành nói y tên Hách, nhưng tôi đồ rằng đó là biệt hiệu tù đặt cho y chứ không phải tên thật. Quả vậy, tên cúng cơm của y là Dư, chắc hẳn cha mẹ y đặt cho với hi vọng đời y sẽ sung sướng trong thừa thãi.
Cai ngục thường không tự giới thiệu tên họ với tù. Phép lịch sự ở đây đại khái cũng giống như phong tục nước ngoài, người ta biết nhưng không theo. Viên cai ngục thoạt vào Hỏa Lò tôi gặp có hai biệt hiệu : Sứ giả Hòa bình hoặc Ðiền Mũi đỏ. Tên Sứ giả Hòa bình là do tù đặt. Viên quản giáo này bao giờ cũng thân mật đáp lễ khi tù chào chứ không kênh kiệu lặng thinh như các quản giáo khác. Ði kiểm tra khu xà lim anh ta luôn dừng lại ở các judas, nói một câu hỏi thăm, cho tù lửa hút thuốc hoặc vui vẻ đáp lại một câu hỏi về ngày giờ. Người tù cảm thấy mình được an ủi với một viên quản giáo như thế. Ðiền là tên thật. Anh ta có cái mũi lúc nào cũng đỏ lựng như mũi người nát rượu, mặc dầu anh ta không phải dân nghiện.
Tôi thích quan sát Hách. Tôi nghĩ nếu rồi đây tôi có may mắn được làm phim về nhà tù Việt Nam thì anh ta sẽ là nguyên mẫu không chê vào đâu được. Cai ngục phải như anh ta mới đúng là cai ngục chứ. Một vai cai ngục giống Sứ giả Hòa bình thì thể nào cũng bị khán giả chê, cho là không giống, không đúng. Thế mới biết cuộc đời phong phú hơn trí tưởng tượng, còn chúng ta thường nô lệ những hình dung giáo điều.
Thấp bé, với số tuổi đáng trọng, Hách đi những bước đĩnh đạc, khoan thai, rõ ràng là vay mượn, nhưng đã nhập thần. Người tù cúi đầu len lén chui qua cái nhìn lừ lừ bên trên cặp tròng kính lấp loáng của viên quản giáo quyền uy. Hách đứng đó, nhìn những con vật ở trong chuồng chui ra, mái đầu còn xanh của y hơi cúi, như thể bị sức nặng của vẻ đường bệ đè xuống, đôi giày tây khẽ nhún nhẩy trong một nhịp chậm chạp cố ý. Tôi khoái mẫu người của Hách đến nỗi nhiều lần tôi bắt chước dáng điệu trịnh trọng của anh ta. Thành cười rúc rích khen tôi bắt chước khéo, còn tôi thì hình dung nếu có lúc phải hướng dẫn cho diễn viên thì phải biết cách đóng thế nào cho thật giống.
Khi mở cửa xà lim bao giờ Hách cũng lùi ra xa, nhún nhẩy ở bức tường đối diện. Tôi nghĩ y cẩn thận, lo bị tù tấn công bất ngờ.
- Dào, có gì đâu. - Thành giải thích - Trong xà lim hôi thối lắm. Mình ở quen không nhận thấy chứ người ở ngoài vào uế khí xộc vào mũi chịu không nổi đâu.
Niềm mong ước của cha mẹ Dư đã thành. Y không giàu, nhưng so với các quản giáo khác, y có nhiều thứ sang trọng hơn người. Trong các trại giam mọi thứ đều rẻ - một phong thuốc lào có thể đổi lấy một cái quần simili mới, một bao Tam Ðảo là giá cho một cái áo len. Thành kể cặp kính gọng đồi mồi của Hách giá ba cái bánh mì.
Kể ra ở trong xà lim ngày này qua ngày khác mà không có lần đi cung nào thì cũng chán. Ði cung cũng ví như một sự đổi gió, cho dù nó căng thẳng. Căng thẳng thì căng thẳng, vẫn còn hơn là sự đơn điệu kéo dài. Người tù ở hàng năm trong xà lim không đi cung hệt như con thú bị nhốt trong chuồng.
Nằm trong xà lim những ngày đầu tiên, ngoài nỗi nhớ vợ nhớ con, tôi bỗng nổi cơn nhớ Hà Nội da diết. Ai đời nằm giữa lòng Hà Nội mà nỗi nhớ cứ bổi hổi bồi hồi như thể mình đang ở nơi nào tít tắp bên kia địa cầu. Nhớ cồn cào. Nhớ lắm lắm. Bỗng thấy Hà Nội như một người. Bỗng phát hiện Hà Nội có bộ mặt không lẫn với bất cứ bộ mặt nào khác. So
sánh Moskva với Hà Nội, tôi thấy Hà Nội đáng yêu vô cùng. Có lẽ chỉ có người Hà Nội mới coi thành phố là ngôi nhà của mình. Người Moskva coi Moskva là thành phố, là tài sản của nhà nước. Người Moskva chỉ ra đường khi có việc. Người Hà Nội bắc cái chõng ra hè, ngồi đấy mà cảm thấy như ngồi trong nhà. Sau năm 1954 người tứ chiếng theo chân đoàn quân chiến thắng ùa vào, người Hà Nội tản mát khắp bốn phương trời, kẻ di cư vào Nam, người bị đẩy đi mạn ngược lập vùng kinh tế mới. Tưởng chừng Hà Nội không còn là Hà Nội nữa, thế mà không - Hà Nội vẫn là Hà Nội. Nó nuốt chửng những người xa lạ vào lòng, nhào nặn họ theo kiểu của nó, biến họ nếu không thành người Hà Nội hẳn thì cũng thành người của hè phố, nhưng là hè phố của nó.
Tôi là người Hà Nội tính theo đàng mẹ. Hà Nội là quê ngoại của tôi, là nơi tôi ra đời, vì mẹ tôi là "con gái hàng Bạc". Người Việt vẫn quen với phụ hệ, tính quê theo bên nội, mà như thế thì tôi lại là người của đồng bằng đất thịt.
Ðể về quê, tôi phải đáp xe lửa tới Nam Ðịnh, qua Ðò Quan sang hữu ngạn sông Hồng, đi ô tô theo đường hàng tỉnh số 21 tới thị trấn Cổ Lễ rồi từ đó cuốc bộ vài cây số nữa theo con đê Vàng mới về đến làng. Tôi cũng gắn bó với cái quê nội đất thịt lắm, một phần tuổi thơ của tôi đã trôi qua ở đó. Thỉnh thoảng ở đâu đó bên ngoài Hỏa Lò người ta đốt lá rụng đầu đông, gió đưa khói những đống lá cháy âm ỉ lọt vào tận xà lim, y như khói những đống rấm ở nông thôn, và thế là nỗi nhớ cái quê đất thịt lại nổi lên xao xuyến lạ lùng.
Những ngày đầu tiên trong tù tôi không hề nghĩ tới một thời hạn giam giữ lâu tới vài năm. Chỉ vài tháng thôi, trong cái chuồng người gọi là xà lim, đã đủ chết rồi.
Suốt ngày anh bạn tù của tôi ngồi bó gối nhìn chòng chọc vào một điểm nào đó rất xa, mặc dầu trước mặt anh là bức tường xám xịt lốm đốm máu muỗi máu rệp và những tên người, trái tim bị mũi tên xuyên thủng, hai cổ tay bị xích, ngày bị bắt, những lời than van, những lời nguyền rủa, những câu chửi đời... Thành thử bức tường vì thế giống vách đá chùa Hương hoặc hang Ðầu Gỗ trên vịnh Hạ Long.
Lâu lâu đang ngủ Thành choàng tỉnh, ngồi dậy cục cựa một lát để sửa soạn cái nghi thức trang trọng của sự hưởng lạc trong xà lim. Trước hết, anh sờ soạng lấy cái điếu và gói thuốc giấu trong bọc quần áo ra, vê rất lâu những sợi thuốc màu cánh gián cho tới khi chúng xoắn vào nhau thành một viên tròn xoe đúng kích cỡ và tiêu chuẩn ngầm định rồi mới từ tốn nhồi vào nõ. Những sợi rơi ra ngoài được anh thu vén nhặt cho bằng hết cho khỏi phí. Ðoạn, anh khẽ khàng quẹt diêm lấy lửa, châm vào mảnh giấy đã vê sẵn thành đóm, dùng đóm này hút thuốc. Hút xong, Thành từ từ nhả khói rồi gục mặt vào hai đầu gối hồi lâu, người hơi đung đưa. Ðó là anh đang ngụp mình trong khoái lạc mà điếu thuốc mang lại.
Tôi thèm thuốc lá lắm nhưng làm sao có được nó trong bốn bức tường xà lim bây giờ ? Thành mời tôi thuốc lào, nhưng lần nào hút tôi cũng ho sặc sụa.
Tôi không thể đừng để không nói thêm vài lời về cái điếu tự tạo của anh bạn tù. Nó là một cái hộp dẹt, hình chữ nhật, làm bằng hai vỏ bao diêm ghép lại, được bồi cho cứng thêm bằng giấy. Nõ điếu là khúc đầu của tuýp kem răng lộn ngược. Cái điếu có bề ngoài sặc sỡ bởi những ảnh mầu cắt trong họa báo, chắc hẳn từ giấy gói đồ tiếp tế. Tuy không có nước bên trong nhưng cái diếu kín hơi và thỏa mãn được cơn nghiền chẳng kém gì điếu ống hoặc điếu bát.
Ðể tiết kiệm diêm Thành chẻ một que thành hai, dùng tới đâu chẻ tới đó. Khi tôi vừa vào anh còn kín đáo quay mặt vào tường để chẻ diêm, cái chăn lòa xòa che khuất hành động giấu giếm. Trong xà lim chỉ có hai người với nhau, giấu cũng chẳng được, anh đành tiết lộ :
- Trong tù cấm ngặt không được giữ dao hoặc vật gì có thể dùng làm dao. Chết nỗi con dao ở đây lại cần lắm, bao nhiêu việc phải dùng nó, không có không xong : cắt móng chân móng tay, vót que tăm hay là chẻ diêm thế này chẳng hạn... - anh rì rầm giải thích - Không phải người ta sợ mình dùng dao đâm cán bộ đâu, thứ dao này thì đâm chết ai, cơ mà người ta sợ cái khác...
Anh cho tôi xem con dao anh chế tạo. Nó là một mẩu sắt đai thùng dài lối bốn năm phân, rất bén. Tôi không hiểu anh làm cách nào để cho mẩu đai thùng nọ trở thành cứng và bén như thế. Trong xà lim tất nhiên không có lửa để tôi, không có đá để mài. Với kích cỡ liliput con dao dễ dàng chui gọn vào nẹp quần nẹp áo.
- Họ sợ tù tự sát ?
- Cũng chỉ trong thời kỳ giam cứu thôi. - Thành lắc mạnh cái đầu bù xù - Trong thời kỳ này, là khi còn đang hỏi cung, cán bộ chấp pháp phải chịu trách nhiệm về người tù. Có trường hợp cán bộ chấp pháp dọa dẫm thế nào không biết, anh tù vừa mới vào được mấy ngày đã treo cổ chết tốt. Ðiều tra xong mới biết anh ta chẳng có tội tình gì ráo. Dĩ nhiên, trách nhiệm là liên đới - không riêng cán bộ chấp pháp, cả cán bộ quản giáo, cả bộ đội gác cũng có khuyết điểm.
- Chỉ là khuyết điểm thôi ư ? Có ai trong bọn họ bị truy tố không ?
- Làm gì có ! Tất nhiên, cũng bị lôi thôi tí chút. Giả thử anh tù nọ bà con với cán bộ cỡ, người ta moi móc ra, cố tình kiện cáo thì cũng phiền lắm đấy. Nhưng kiện công an thì phải coi chừng, công an người ta bênh nhau lắm, có khi đã chẳng được gì mà còn mắc vạ. Con kiến mà kiện củ khoai. Với dân đen thì họ chẳng lo, cứ lờ tịt đi là xong. Thằng tù ấy mà, cái mạng nó có giá gì !
- Anh tù lấy đâu ra thừng mà treo cổ ?
- Xì, có gì khó, xé cái quần ra, hoặc cái chăn, bện lại một loáng là xong.
Thảo nào, người ta phát cho tôi cái quần không có dải rút.
- Còn xong cung rồi thì xin mời, muốn tự sát tự sinh gì mặc mẹ mày. Càng đỡ tốn gạo. ấy là nói tù xà lim, chứ tù ở các trại làm ra của cải gấp bao nhiêu lần tiền nuôi họ ấy chứ. Thử tính mà xem, nuôi thằng tù hết có mười hai kí rưỡi gạo một tháng, mà nó làm như trâu, nó chẳng cần ai nuôi, tự nó làm ra cái để nuôi nó, nhà nước chẳng mất gì sất. Nước sông công tù, đã có câu như vậy.
- Thế thì nhà nước lợi nhỉ ? Càng nhiều tù càng lợi.
- Thời Pháp thuộc chỉ có mấy trại ai cũng biết tên Hỏa Lò là một, Chí Hòa là hai, Sơn La là ba, Ban Mê Thuột là bốn, Lao Bảo là năm, Bá Vân là sáu, Côn Ðảo là bảy... - Thành thủng thẳng liệt kê các nhà tù của Tây - đếm đầu ngón tay còn thừa. Thời ta thì sao ? Trung ương hàng chục trại, tỉnh nào cũng trại... Chẳng nói đâu xa, ngay ở Hà Nội ngoài cái Hỏa Lò ra, còn có một nhà tù nữa, cũng lớn lắm, thuộc Bộ quản lý, là trại B, hay là trại Thanh Liệt. Ông có nghe nói đến trại Thanh Liệt bao giờ không ?
- Không.
- Ông không nghe nói là phải. Chẳng ai biết cái trại này đâu, người ta giữ kín lắm. Nó đâu ở gần thị xã Hà Ðông. Xà lim ở đấy mới thật ác, không có chút ánh sáng nào lọt vào. Diện tích còn hẹp hơn xà lim Hỏa Lò nhiều. Mấy ngày rồi ông chưa đi cung nhỉ ?
- Bốn.
Anh gật gù.
- Lạ thật. Thường tù mới bắt vào người ta hỏi cả ngày lẫn đêm, cho đến khi mệt lử ra rồi họ còn chưa tha, đàng này... Cái ông chấp pháp của ông có dễ chịu không ?
- Tôi không rõ anh cho thế nào là dễ chịu ? Có thể tay này là dễ chịu cũng nên, phải qua vài tay mới so sánh được. Mà này, anh có biết vì sao người ta gọi cái anh công an
hỏi cung là chấp pháp không ? Trước kia người làm việc hỏi cung gọi là dự thẩm, nếu tôi không nhầm.
Thành suy nghĩ một lát.
- Tôi nghĩ đó là do mấy chữ chấp hành pháp luật nói tắt.
Cách Thành giải thích không đủ thuyết phục tôi.
- Chấp hành pháp luật thì mọi công dân đều phải chấp hành. Nếu anh ta thừa hành pháp luật thì sao không gọi là thừa pháp, hoặc hành pháp ? Lại còn cái lối nói đi cung nữa, nghe chướng không chịu được.
- Thoạt kỳ thủy, tôi cũng không hiểu như ông, nghe cũng chướng lắm, nghe mãi rồi quen, thấy nó cũng bình thường. Ngôn từ trong ngành công an này tựa như tiếng lóng của lưu manh vậy, không ở trong nghề chúng nó nghe cứ như vịt nghe sấm. Thế mà ở tù ít lâu là hiểu hết, chẳng cần ai giải thích.
Cách so sánh của Thành làm tôi bật cười.
Thành kiên nhẫn giải thích cho tôi những điều đối với tôi là lạ lẫm, anh độ lượng không coi lỗ hổng kiến thức của tôi là sự đần độn. Mà làm sao tôi có thể biết được những từ quỷ quái ấy kia chứ, khi trại giam là một thế giới cách biệt hoàn toàn với thế giới người thường. Người đọc Việt Nam hầu như chẳng biết gì về cái thế giới đóng kín ấy. Ðề tài trại giam là đề tài cấm kỵ. Các nhà báo không được phép thò mũi vào công việc của ngành trừng phạt, xin lỗi, tôi nói nhầm, ngành cải tạo. Trong những người tôi quen chỉ có anh Trần Ðĩnh, phóng viên báo Nhân Dân, là đã có dịp tham quan Hỏa Lò để lấy tư liệu cho cuốn hồi ký Bất Khuất anh ghi chép cho ông Nguyễn Ðức Thuận. Trần Ðĩnh rồi cũng rơi vào số những người bị gọi là xét lại hiện đại, nhưng anh chỉ bị ép về hưu non, bị trù úm, chứ không bị đưa vào ở trong những cái xà lim anh đã được xem ở Hỏa Lò.
Thảng hoặc cũng có vài nhà văn nhà báo được mời đi xem để viết về trại giam xã hội chủ nghĩa. Họ ngồi trên com-măng-ca phóng vù vù qua những cánh đồng, những lán sản xuất thủ công của tù để tối đến dự các cuộc chè chén với Ban Giám thị, với tư cách khách quý của ngành. Ðể hiểu tâm tư người tù, họ vừa ngồi xỉa răng vừa nghe anh tù do Ban Giám thị lựa chọn cho gặp. Anh tù, tất nhiên, một mực ca tụng hệ thống cải tạo của Ðảng và Nhà nước. Về sau tôi có được đọc mấy bài báo loại này. Cứ như mấy nhà văn nọ miêu tả thì hệ thống cải tạo của Việt Nam là tuyệt hảo, là cây gậy thần gõ vào đầu tên tội phạm nào là tên ấy lập tức cải tạo tốt, thành người tử tế, thành công dân lương thiện, thậm chí thành công dân gương mẫu.
Trong thời gian ở trại Phong Quang (Lao Kai) tôi biết nhà văn Bùi Huy Phồn tức Ðồ Phồn có đến thăm trại này. Chắc chắn ông phải biết tôi đang ở đó, nhưng ông không gặp tôi, hoặc vì người ta can gián, hoặc chính ông coi tôi là tên cầm bút phản động. Những người tù được Ban Giám thị lựa chọn trong số cải tạo tốt sau cuộc gặp gỡ kể rằng họ vừa gặp "một thằng nhà văn nói láo nhà báo nói điêu".
- Thế còn cai ngục ? Bây giờ được gọi là quản giáo, có phải vì ngoài việc canh giữ cho tù khỏi xổng anh ta còn phải dạy dỗ chúng mình không ?
Thành cười toác. Anh có tiếng cười thật hồn hậu.
- Làm gì có chuyện dạy dỗ ! Trình độ của quý vị ấy thường chỉ trên mức thoát nạn mù chữ một ít thôi thì hỏi giáo dục ai ? Giáo dục cái con khỉ !
Anh cho biết ngành công an đặc biệt coi trọng lý lịch cán bộ. Người được chọn vào ngành này nhất thiết phải thuộc thành phần cơ bản (tức là bản thân hoặc cha mẹ thuộc các tầng lớp vô sản - công nhân, nông dân hoặc bộ đội), hơn thế, phải tuyệt đối trong sạch, tức là không có dây mơ rễ má gì với các giai cấp bóc lột bởi huyết thống, trực hệ cũng như bàng hệ. Người ta nói vào ngành công an bị truy xét lý lịch bốn đời là chuyện không ngoa đâu, nếu không phải bốn thì cũng ba. Nếu anh đã là công an thì con anh, cháu anh được nhận vào công an dễ hơn hẳn so với người khác, cho dù họ cũng con bần cháu cố. Cũng theo Thành thì trong ngành này đông nhất dân Thanh Nghệ Tĩnh, những tỉnh không có chiến sự trong kháng chiến chống Pháp. Những cán bộ đắc thọ này, kháng chiến thành công rồi, mới dắt díu con cháu vào theo. Trong ngành quản lý trại giam nhiều người Sơn Tây và Thanh Hóa, cái đó cũng có ý nghĩa truyền thống - hai tỉnh này có những trại giam đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tôi nghe Thành dẫn giải, phục lăn. Càng ngày tôi càng tin Thành không phải một tên giết người. Anh phải là cán bộ đã lăn lộn nhiều, hiểu biết rộng, có cách nhìn nhận, phân tích sự việc sắc bén, chứ nhất quyết không phải cán bộ thường. Dần dà, qua những câu chuyện tâm tình tôi thấy trong anh lộ ra hình ảnh một cán bộ quân đội lâu năm, dày dạn kinh nghiệm. Bằng cách gợi đến những chiến dịch lớn trong kháng chiến chống Pháp, nhắc đến những người tôi quen ở các cấp tiểu đoàn, trung đoàn, Thành cho biết anh đã từng gặp ai trong những người đó. Quan hệ giữa chúng tôi vì thế càng thêm gần gụi. Ðiều tôi không hiểu là nguyên nhân nào làm anh không dám thổ lộ với tôi về vụ án của anh ?
Khi tôi làm ra vẻ tình cờ nói tới tướng Ðặng Kim Giang, hỏi anh có biết tướng Giang không thì anh nói :
- Ông ấy tôi biết. Ông ấy còn có một cái tên nữa là Lý Giang. Chả là trước ông có chân lý trưởng hay phó lý trong hội đồng kỳ mục(12). Thế mà tác phong lại rất chi là bình dân mới lạ, lính tráng lắm. Hồi Ðiện Biên ấy, tiếng là ông Trần Ðăng Ninh làm tổng cục trưởng, chứ toàn bộ công tác hậu cần cho mặt trận này, tôi biết, là do một tay ông Giang lo, công to lắm. Anh cũng biết ông Giang à ?
Tôi lắc đầu :
- Tôi không quen.
Lát sau, tôi nói thêm :
- Nghe nói ông ấy vừa bị bắt.
Ðang nằm gối đầu trên đôi tay, Thành bật dậy :
- Sao ? Anh nói sao ? Bậy, làm gì có chuyện ấy được ? Ông Giang là bậc lão thành cách mạng, hoạt động chống Pháp từ trước khi có Ðảng, là bậc khai quốc công thần, công lao còn hơn cả mấy ông lãnh đạo bây giờ, ai bắt được ông ấy ?
Nhìn vẻ mặt Thành, tôi hiểu tin này làm anh choáng váng.
- Vừa qua nhiều người bị bắt lắm. Cùng bị với thiếu tướng Ðặng Kim Giang còn có một số người nữa, như viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính...
- Anh nghe nói hay biết chắc ?
- Tôi nghe, nhưng chuyện đó là chắc chắn. Cả Hà Nội biết.
- Lạ thật ! Lạ thật ! - Thành lẩm bẩm - Phải anh Hoàng Minh Chính trước kia làm công tác thanh niên không ?
- Chính anh ấy. - tôi đáp.
- Tôi không quen Hoàng Minh Chính, nhưng nghe tiếng anh ấy thì nghe nhiều - anh nói, tư lự - Anh Chính này hồi 54 lãnh đạo một đội quyết tử quân đánh sân bay Gia Lâm mà, người giỏi lắm, được ông Trường Chinh quý lắm. Sao lại thế được ? Chà chà, chuyện gì đang xảy ra ở ngoài kia vậy ? Anh còn nghe nói những ai bị nữa ?
- Cục trưởng Cục quân báo Lê Trọng Nghĩa, anh biết chứ ?
- Anh Nghĩa, cục trưởng Cục 2 ?
Thành kêu lên. Lần này anh nhảy hẳn sang bên phản tôi.
- Thật thế không ? - anh thì thào.
- Thật. Anh biết anh Nghĩa à ?
Thành vỗ đùi đánh đét.
- Biết quá đi chứ. Ai nữa ?
- Còn ai nữa nhỉ ? À, còn ông này, không biết anh có biết không : ông Vũ Ðình Huỳnh, nguyên vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao ?
Thành trợn mắt.
- Cả ông Vũ Ðình Huỳnh nữa ư ?
Tôi giả bộ ngạc nhiên :
- Anh cũng quen ông ấy ?
- Không. - Thành thần ra, lắc đầu - Tôi cũng chỉ biết tiếng. Trước ông này làm bí thư cho cụ Hồ.
- Ðúng đấy.
Thành bậm môi suy nghĩ rồi thở dài :
- Tôi biết tiếng ông ấy là do thế này. Tôi có anh bạn thân, anh ấy chịu ơn ông ấy lắm. Nếu không có ông Vũ Ðình Huỳnh thì ông cụ anh ta đã bị bắn. Công ông ấy là công sống tết chết giỗ với gia đình bạn tôi. Hồi Cải cách ruộng đất nghe nói ông ấy còn cứu nhiều người nữa, không phải chỉ mình gia đình anh bạn...
- Chuyện ông Huỳnh bị bắt là chính xác. Nhà ông chú tôi ở sát nách nhà ông ấy, tin ấy không sai được. Ông chú tôi còn trông thấy công an xích tay ông ấy giải đi.
- Chà chà, - Thành buồn bã lắc đầu - Chẳng lẽ cụ Hồ còn đấy mà lại để mặc cho người ta muốn làm gì thì làm ?
Tôi im lặng một lát rồi nói :
- Biết đâu chả phải chính cụ Hồ muốn thế ? Anh thử nghĩ mà xem : Cụ là lãnh tụ tối cao cơ mà, ai dám qua mặt Cụ.
- Anh nghĩ thật như vậy à ?
Anh nhìn tôi như nhìn một tên khiêu khích.
- Tôi không biết, - tôi lắc đầu - nhưng trước nay có việc gì quan trọng ở đất nước mà không có sự chỉ đạo của cụ Hồ ?
- Ừ nhỉ.
Thành thở dài :
- Tội nghiệp quá !
Ðúng là Thành chẳng biết gì về vụ án chúng tôi. Anh không đóng kịch.
- Anh có nghe nói vì sao các ông ấy bị bắt không ?
- Ban Tổ chức Trung ương Ðảng có thông báo gì đó, nhưng chỉ trong phạm vi nội bộ Ðảng. Tôi không được dự, cũng không biết đích xác là thế nào. Nghe nói các ông ấy bị buộc tội có âm mưu phản loạn...
- Bậy. Anh có tin thế không ?
- Chuyện quốc gia đại sự ai thèm cho dân đen biết. Thông báo vậy thì biết vậy, biết có thật hay không ?
Thành buồn xỉu. Anh bò về phản mình hút hai điếu thuốc liền.
- Không hiểu nổi ! Chịu ! Không thể tưởng tượng được !
Suốt hôm ấy anh không nói gì nữa. Một nỗi buồn, mà cũng có thể nỗi lo âu, xâm chiếm lòng anh. Trước khi đi ngủ, anh xem xét mọi xó xỉnh trong xà lim, rồi xuống ngồi bên tôi.
- Này, anh đừng có nói gì về chuyện hôm nay nhá ! - anh thì thào - Nói chẳng có lợi gì đâu, mà hại cho cả hai. ê trong nhà tù, tốt nhất là câu trả lời : không. Không biết, không nghe, không thấy.
- Tại sao vậy ?
- Trong tù nó thế.
Tôi ngạc nhiên :
- Mình có nói chuyện gì ghê gớm đâu.
- Rồi anh sẽ hiểu. Nhà tù, nó phức tạp lắm. Phức tạp vô cùng. Tôi không dọa anh đâu, nhưng có khi chỉ vì chuyện không đâu mà mình đâm ra thêm tội. Tôi đã có một tội kinh tế rồi, thêm một tội chính trị nữa là tàn đời...

(1) Tên gọi An toàn khu của chính phủ kháng chiến tại Tuyên Quang - Thái nguyên (khu Việt Bắc). Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu cũng nằm trong khu vực này.
(2) Garde-corps theo tiếng Pháp.
(3) Ngày 1.2.1942, trong lễ khai giảng trường Ðảng của Trung ương Ðảng cộng sản Trung Quốc tại Diên An Mao đã đọc diễn văn về "Chỉnh đốn tác phong của Ðảng". Ðó lần chỉnh phong đầu tiên ở Trung Quốc nhằm chống chủ nghĩa giáo điều, về thực chất là chống ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản.
(4) Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng hình như trong những người này có Nguyễn Ðức Bình, về sau này là ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa VII.
(5) Hủ hóa ở đây không còn nghĩa gốc là tồi tệ đi, xấu đi, hư hỏng đi. Nó có nghĩa là sự ăn nằm với phụ nữ không phải vợ mình (ngủ với vợ hoặc chồng chưa cưới cũng bị coi là hủ hóa). Trong các cuộc chỉnh huấn người ta thường lục vấn nhau chuyện hủ hóa, dường như nó quan trọng hơn những khuyết điểm khác.
(6) Ðoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, về sau đổi tên thành Ðoàn Thanh niên Cộng sản Việt Nam.
(7) Bỏ vùng kháng chiến về nội thành, do tiếng Pháp entrer.
(8) Nghĩa là không ra cái gì, theo cách nói hồi ấy.
(9) Thực ra Chính Yên cũng không phải con quan tuần. Cha anh chỉ là một ông huyện, nhưng quê ở Hà Nội, nhà cửa khang trang, khiến những cán bộ không biết gì về hệ thống hành chính thời Pháp thuộc đôn ông lên làm ông tuần phủ.
(10) Ông Ðặng Xuân Thiều (1911-1965) tham gia cách mạng rất sớm, bị tù nhiều năm. Tôi tin ông nói có sở cứ. Cha tôi cho rằng trong chuyện này có lẽ chỉ có vấn đề thủ tục kết nạp không được rõ ràng (ngày tháng, người giới thiệu), do một sự ngẫu nhiên nào đó, chẳng hạn những người giới thiệu đã chết và không có ai xác nhận việc kết nạp, chứ cuối năm 1940 các ông Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan cùng dự một lớp huấn luyện ở Hoa Nam do ông Hồ Chí Minh tổ chức, điều này có nghĩa ngay từ hồi ấy ông Ðồng đã hiển nhiên là đảng viên cộng sản.
(11) Muốn ra sao thì ra (tiếng Tây-ban-nha).
(12) Một hình thái quản lý hương thôn cổ, gồm những người có uy tín trong làng, được tập hợp lại theo sự tiến cử của những bậc tiền nhiệm và các bô lão chứ không phải do dân cử, có nguồn gốc từ xã hội bộ lạc.


:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 10

Con người có số mệnh hay không có số mệnh ?
Câu hỏi này luẩn quẩn suốt trong óc tôi vào những ngày tù đầu tiên. Tôi ghi lại ở đây câu chuyện về một hiện tượng thoạt nhìn có vẻ chẳng ăn nhập gì với cuốn sách nhưng là cái làm lung lay tận gốc thế giới quan tưởng chừng đã vững chắc trong tôi, ảnh hưởng tới tâm trạng tôi trong những năm sau này.
Trước hết, cần phải nói ngay rằng hồi ấy tôi duy vật từ đầu đến chân. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật trong tôi có nguồn gốc tầm thường. Cha mẹ tôi duy vật thì tôi duy vật, như lẽ đương nhiên phải thế. Nghe chuyện mẹ tôi kể thì vào thời con gái của bà chủ nghĩa duy vật đặt chân lên nước ta không phải với tư cách một triết thuyết mà như một cái mốt. Nó như ánh sáng điện bỗng bừng sáng trong ngôi nhà xưa nay leo lét đèn dầu. Phàm người thuộc thế hệ bà mà có chút ít tây học đều trở thành duy vật. Chí ít thì họ cũng khoe mình là như thế. Người có chân trong tổ chức cách mạng lại càng duy vật hơn ai. Duy vật đồng nghĩa với cách mạng. Bạn bè cha mẹ tôi đều duy vật cả, trừ ông Tiến cố. Ông có số phận long đong. Vốn là một nhà duy vật cuồng nhiệt, đảng viên Ðảng cộng sản, không hiểu sao ông nhảy sang Thiên Chúa giáo. Rồi trong một mưu toan đầy thiện chí nhằm làm mai cho hai thứ mà ông yêu, Thiên chúa giáo bác ái và chủ nghĩa cộng sản bạo hành, ông bị các đồng chí tống ra khỏi hàng ngũ(1).
Tôi chưa bao giờ tin cả thần thánh lẫn ma quỷ. Bà ngoại tôi sùng Phật, thích đi lễ chùa và ăn chay, làm việc bố thí. Bên nội hãnh diện về mấy đời theo Thiên Chúa giáo, xưng mình đạo gốc, chăm đọc kinh, chăm xưng tội chịu lễ. Bên ngoại lặng lẽ nhập đạo Phật với đạo thờ cúng tổ tiên, coi hai thứ là một.
Cha tôi bỏ đạo khi thành cộng sản. Việc cha tôi bỗng dưng không đi nhà thờ, không xưng tội chịu lễ không những chỉ làm cho ông bà tôi rụng rời chân tay. Nó làm cho cả họ nhớn nhác. Người làng xì xào cha tôi vào hội kín, vì thế ông bỏ đạo. Cha tôi nói ông bỏ đạo vì cho rằng thực dân Pháp đã dùng Thiên Chúa giáo để thôn tính nước ta. Mẹ tôi giải thích việc cha tôi bỏ đạo bằng sự tiếp xúc của cha tôi với ông Ðinh Chương Dương(2) và phong trào cách mạng. Ông cho rằng người cách mạng phải dứt khoát với mọi cái gắn liền với những mưu mô của thực dân.
Cái còn lại của đạo Chúa trong cha tôi là lời dạy của Ðức chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô ": Hãy thương yêu người ta như mình vậy". Ông thường căn dặn chúng tôi rằng nhân vô thập toàn, con người ta ai cũng có khuyết điểm, mình cũng vậy, cho nên phải độ lượng với nhau, phải sống khoan dung, nhân ái. Gặp hồi chỉnh huấn, cán bộ luôn miệng nói phải vì nhân dân quên mình, thì cha tôi cười. Ông nói rằng chẳng bao giờ ông tin những người khoe họ yêu nhân dân hơn yêu bản thân. "Yêu người bằng yêu mình là tốt lắm rồi ! - ông dạy tôi - Chúa cũng chỉ dám mong người ta yêu người bằng yêu mình mà còn không xong. Hai ngàn năm rồi nhân loại vẫn chưa thực hiện được lời Chúa dạy, mà nay muốn thực hiện điều hơn thế là nói khoác".
Mẹ tôi thờ ơ với cả hai thứ đạo. Bà không từ chối đi nhà thờ, không chăm chỉ đi chùa, nhưng cũng không phản đối các bà chị chồng đưa các con bà đi rửa tội, chịu Mình Thánh Chúa. Cả bên nội lẫn bên ngoại đều không trách được mẹ tôi, bà chỉ không siêng năng chứ không báng bổ đạo như cha tôi, nhưng cả hai bên đều ngấm ngầm không hài lòng về bà. Bà ngoại tôi không chịu được những lời sàm báng của con gái đối với giới sư sãi, nhưng nhất quyết bắt mẹ tôi phải trung thành với đạo thờ cúng tổ tiên thuần Việt, là thứ đạo mẹ tôi bao giờ cũng tôn trọng.
Vào thời gian xảy ra vụ xét lại chống Ðảng, tôi đang viết tiểu thuyết Pháo Ðài Xanh, cuốn sách được ấp ủ từ nhiều năm. Ðó là cuốn biên niên sử của một làng. Nó sẽ là hình ảnh của sự thay đổi diễn ra trên đất nước. Ngôi làng trong cuốn sách chính là quê nội của tôi. Tôi sống lâu hơn, nhiều hơn với cái quê nhà gạch và đường nhựa, nhưng trong tình cảm tôi gắn bó với cái quê nghèo bùn lầy nước đọng hơn.
Quê nội để lại dấu ấn đậm nét trong tuổi thơ của tôi. Nó là miền đất ruột rà của tôi. Nó chiếm hết tình yêu bé bỏng của tôi.
Tôi được mẹ tôi đưa về quê nội năm tôi lên sáu. Cha tôi vừa bị Pháp bắt. Mẹ tôi không thể cùng lúc vừa nuôi mấy anh em tôi, vừa đi làm thuê, vừa hoạt động cách mạng. Bà đưa tôi về quê cho bà chị chồng nuôi đỡ. Ðó là một bà già cô độc, cao lớn, mặt mũi dữ tợn, đuồn đuỗn như một cái phất trần, tên là bà Gái. Cô tôi sống trọn đời đồng trinh trong ngôi nhà ông bà tôi để lại khi đàn em của bà đã tứ tán phương xa. Trong thời gian mấy năm ở với cô Gái, tôi quyến luyến bà, và qua những lời dẫn tích của bà, nhà ái quốc chân chính của làng mình, tôi quyến luyến mảnh đất của cha ông.
Chúng tôi ở trong một ngôi nhà gỗ năm gian, với mấy gian nhà ngang bằng tre nứa mọc ra ở một đầu hồi, kết thúc bằng một gian bếp thấp tè và một chuồng lợn lụp xụp. Nơi đây các bác tôi, các cô tôi (tức là các bà chị của cha tôi) ra đời và lớn lên trong sự ấp ủ của cha mẹ, một ông nhà nho không gặp thời làm nghề bốc thuốc với một bà vợ không biết chữ, nhưng tần tảo và đảm đang, như bất cứ người vợ nào trong những năm xa xưa ấy. Trong ngôi nhà trước kia hẳn rất ồn ào, nay vắng lặng, chỉ còn hai cô cháu tôi, tôi tìm thấy những quyển vở bằng giấy bản với những chữ nho ngòng ngoèo - vở học của cha tôi khi ông bắt đầu ê a Tam tự kinh của một nền học đã chìm nghỉm trong quá khứ.
Tình yêu đối với đất nước ở mỗi con người cũng khó giải thích như tình yêu trai gái. Trong sáu anh chị em của cha tôi chỉ có mình ông đi làm cách mạng. Với đất nước ông có một tình cảm ruột thịt lạ lùng, khó hiểu đối với chính tôi, đứa con ông. Dường như ông không thể sống không có tình yêu dâng hiến đó, như tình yêu Chúa trong lòng tín đồ tử vì đạo. Tôi nhớ ông đã bực bội như thế nào khi đọc trong một cuốn sách giáo khoa của đứa cháu gái lời dạy của một nhà lãnh đạo cho học sinh rằng các cháu phải yêu nước vì "nước ta giàu và đẹp". Ðó là tình yêu vụ lợi, chứ đâu còn là yêu nước, ông kêu lên, nếu nước ta nghèo và xấu thì sao ? không cần yêu nữa à ?
Mặc dầu rời bỏ quê hương từ khi còn nhỏ, cha tôi lúc nào cũng quyến luyến nó, và ông truyền tình yêu đối với mảnh đất tuột rà lại cho những đứa con mình.
Trong cuốn sách dự định, khởi đầu bởi tình yêu đó, tôi muốn ghi lại những số phận người trong làng tôi, một làng quê của đồng bằng Bắc bộ, như là hình ảnh thu nhỏ của cách mạng giải phóng dân tộc qua những thời kỳ tiền khởi nghĩa, kháng chiến chống Pháp, Cải cách ruộng đất... Tôi hi vọng qua những sự kiện xảy ra qua những số phận người trong một làng dựng nên một mảng lịch sử với những bước thăng trầm không phải chỉ của một thế hệ nông dân mang trong mình khát vọng truyền nối về một cuộc sống no đủ, thanh bình.
Mấy cuốn sổ tay của tôi kín đặc tên người tên đất, phong tục, tập quán, thổ ngữ, gia phả, thần phả, những phác họa nhân vật, tính cách, tiểu sử của những nhân vật ấy, cả những tư liệu về chức vụ, quân hàm của quân đội lê-dương, quân đội viễn chinh Pháp vv...
Kể chuyện này ra thì buồn cười, nhưng đúng thế : cái mà tôi còn thiếu cho cuốn tiểu thuyết là một ông thầy bói. Ông này, theo tư liệu thu được, phụ trách một cơ sở kháng chiến trong thành phố. Nhà chiêm tinh phương Ðông được viên đại tá tư lệnh xếch-tơ(3), một cựu sinh viên toán-lý ham nghiên cứu phương Ðông thần bí, coi như thầy học. Ông thầy bói cũng yêu mến đệ tử của mình.Trong ông tình yêu cuộc kháng chiến và tình yêu anh học trò đánh nhau chí tử.
Tôi không biết gì về bói toán, nhất là khoa tử vi. Từ ngữ của cái nghề cổ xưa nhất thế giới, tên gọi các vì sao không có thật trên bầu trời thế tục xa lạ đối với tôi. Ðể có được những nhân vật sinh động tôi không ỷ vào trí tưởng tượng vốn không được giàu có, mà thường tìm kiếm trong đời thực những nguyên mẫu cho tới khi có thể, như các nhà văn thường nói, sờ thấy được nhân vật tương lai. Hemingway chia xẻ kinh nghiệm viết văn cho người đi sau "Cái bịa lớn bao giờ cũng giống thật". Tôi bịa kém. Tôi nghĩ khác : cái thật phong phú hơn cái bịa. Nói cách khác, cuộc đời mới là người bịa chuyện giỏi nhất.
Ðúng vào lúc tôi đang viết mấy chương đầu cho cuốn sách thì cha tôi bị bắt, nhà tôi bị khám, bản thảo bị tịch thu. Vào thời điểm rối ren như thế mà tiếp tục viết thì thật gàn dở, nhưng tôi không muốn công việc bị gián đoạn. Tôi chán nản, tôi hụt hẫng, tôi có cảm giác mình chẳng còn lúc nào để viết nữa. Tôi chạy tới với sáng tác như thể nó là cứu cánh. Mà cũng có thể tôi cần được ngụp lặn trong bận rộn để tách mình khỏi những ý nghĩ đen tối về tai họa đang đến.
Tôi đã gặp kẻ hủy diệt thế giới quan của tôi trong bối cảnh như vậy.
Ðồn rằng gần đền Hàng Trống có một ông thầy bói giỏi. Ông có thể nói ra vanh vách chuyện quá khứ của mình, còn những gì ông nói về tương lai thì sau nghiệm ra thấy đúng cả.
Người khuyên tôi đến xem bói là cô em dâu tôi, rất tin ở bói toán, và vợ tôi, vốn chẳng bao giờ mê tín dị đoan.
Ðược chứng kiến cảnh công an nửa đêm hùng hổ tới nhà bắt cha tôi, vợ tôi lo cho số phận của tôi. Mà số phận tôi cũng tức là số phận cái gia đình bé nhỏ mới được xây dựng gồm vợ chồng tôi và hai đứa con lít nhít, một trai một gái. Nếu tôi cũng bị bắt thì gia đình tôi tan nát. Lương vợ tôi không đủ nuôi thân, nói gì nuôi hai đứa con. Trong hoàn cảnh chúng tôi bất cứ ông thầy bói nào cũng đáng tin nghìn lần hơn một chính quyền dối trá.
Ông thầy bói mù cảm thấy sự có mặt của chúng tôi qua những tiếng dép bước rón rén vào nhà. Ông nói, giọng sẽ sàng :
- Xin các vị chờ cho một lát.
Chúng tôi đến đã sớm nhưng có người còn sớm hơn. Ông thầy bói đang xem cho một bà đứng tuổi mặt mày thiểu não, luôn miệng vâng dạ, thỉnh thoảng lại suỵt soạt khấn khứa.
Nhà chật, ông hành nghề trên cái phản. Người trong nhà đi lại loẹt xoẹt, ra đụng vào chạm ầm ĩ, coi như không có ông. Chúng tôi ngồi ghé vào mép cái phản không mấy sạch sẽ. Tôi thất vọng. Tôi tưởng sẽ gặp một cụ đồ nho thất thế với cặp mắt sáng anh minh, giọng nói sang sảng, chứ không phải ông già mù với đôi tay xương xẩu sờ soạng trên chiếc chiếu bẩn để tìm cái đĩa ông vừa đặt xuống. Giọng ề à ông nói với bà khách những chuyện tương lai tầm phào : tháng này bà có lộc, nhỏ thôi, nhưng cũng là lộc, còn tháng sau thì phải cẩn thận kẻo mất cắp, tháng sau nữa sẽ có người nhà ở xa về mang đến tin vui...
Ông không có chỗ trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Ông sẽ lạc lõng trong đó như một nhân vật quặt quẹo. Ðã định đứng lên ra hiệu cho vợ tôi lẻn về thì quẻ bói của bà khách đến trước cũng vừa xong.
- Mời ông bà ngồi.
Vẫn yên vị, xếp bằng tròn, ông thầy bói quay mặt về phía chúng tôi, hướng rất đúng, như thể đàng sau cặp kính đen là đôi mắt sáng.
Ðành lê chân ngồi vào chỗ bà khách vừa bỏ đi.
- Sáng nay tôi độn, biết ông sẽ đến. - cặp kính đen nhìn tôi - Thánh dạy : có quý nhân đến nhà !
Trời đất quỷ thần ơi, tôi mà là quý nhân của ông ư, ông thầy bói ? Quý nhân theo cái nghĩa nào vậy ? Ông nhầm rồi. Tôi chẳng có thể là quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, cho bất cứ ai.. Một ngàn lần không, ông thầy bói của tôi ạ, tôi không phải quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, càng không thể là quý nhân của ông. Thậm chí tôi cũng chẳng còn tiền để đặt quẻ cho hậu hĩ.
- Không dám. - tôi lúng túng nói - Chúng tôi đến phiền xin cụ xem cho một quẻ.
- Vâng. Ông muốn xem hung cát ? Hay công danh, tài lộc ?
- Cụ cứ nói những gì cụ thấy, xin lỗi, những gì Thánh dạy...
Một nụ cười độ lượng thoảng qua mặt ông thầy.
- Xin ông cho biết ngày sinh tháng đẻ.
Tôi nói. Nhìn xéo qua cặp kính đen, tôi thấy một đôi mắt trắng đục - ông già bị lòa thật. Ông già ngẩng đầu lên, trán hơi nhăn lại, lẩm bẩm một hồi rồi sờ soạng tìm cái đĩa. Bằng hai bàn tay thành kính, ông nâng cái đĩa lên ngang trán, suỵt soạt khấn. Rồi hạ cái đĩa xuống, ông trầm ngâm gieo tiền. Ba đồng trinh rơi xuống mặt đĩa kêu rổn rảng. Sau khi rờ rẫm sờ từng đồng một để biết sấp ngửa, và hẳn cũng để kéo dài thời gian suy nghĩ, ông xoa xoa chúng trên mặt đĩa một lát rồi chậm rãi nói với tôi :
- Tôi sẽ nói ba điều. Nếu ông thấy tôi nói đúng thì ta xem tiếp. Nếu sai, tức là Thánh không cho, xin ông lại đây vào bữa khác.
Tôi sẽ không trở lại đây nữa, bất kể Thánh cho hay không cho.
- Xin cụ cứ nói.
- Thứ nhất, ông đã từng xuất ngoại.
Một câu chẳng quan trọng, không có ý nghĩa. Nhưng kể cũng lạ, căn cứ vào đâu mà ông già mù kia đoán được tôi đã ở nước ngoài ? Tôi không ở nước ngoài lâu tới mức giọng nói bị thay đổi. Một mùi lạ, xà phòng thơm hoặc nước hoa ? Cũng không có chuyện đó. Tôi vừa mới từ những hố bom trở về. Tôi tắm nước ngòi, nước ao tù, không xà phòng, chỉ cốt gột sạch bùn đất. Người mù có khứu giác tinh tường, nhưng ông không thể thấy ở tôi mùi nước ngoài nào.
- Có đúng vậy không ?
- Dạ, thưa cụ cứ nói tiếp.
- Thứ hai, mùa thu năm nay nhà ông có hỉ, hỉ qua tiếp đến hạn.
- Dạ ?
- Hỉ đây ứng vào anh em ông, hoặc em trai lấy vợ, hoặc em gái lấy chồng. Còn hạn, nó ứng vào cụ thân sinh ra ông.
Ông thầy bói nhẩn nha nói trúng vào những sự kiện vừa xảy ra trong gia đình tôi - mùa thu em trai kế tôi lấy vợ, sau đó đến cha tôi bị bắt. Tôi sững sờ.
- Sao mà lại có người số lận đận thế ! - ông già ngẩn người, tư lự - Lạ thật, lạ thật !
- Là sao, thưa cụ ?
- Cứ như Thánh dạy thì hiện nay cụ thân sinh ra ông đang mắc hạn tụng đình, tức là có chuyện lôi thôi nơi cửa quan...
Tôi vờ phản bác :
- Sao có chuyện thế được, thưa cụ ? Cụ thân sinh tôi đã về hưu, hiện sơ tán ở Tam Ðảo. Cụ đã có tuổi, chẳng làm gì để có thể mắc vào chuyện lôi thôi.
Ông thầy bói nghiêng đầu kiên nhẫn nghe.
- Vậy mà cứ như quẻ này thì cụ nhà bị bắt rồi.
Ông nói sau một lát im lặng, như thể khi tôi nói ông bận lắng nghe ai đó đang nói với ông, chứ ông không nghe tôi.
Tôi lặng đi. Có thể có sự thật như thế không : một ông già xa lạ, và ông ta biết được những việc xảy ra trong nhà người khác ?
- Nhưng...
- Lận đận quá ! - ông già lắc đầu ái ngại - Tính ra thì thời Tây Tây bắt, thời Nhật Nhật bắt, đến thời ta cũng không yên. Con người sao mà khốn khổ thế ! Cương cường quá, thẳng tính quá, nên mới bị tai vạ. Cự môn đắc địa lại gặp Hỏa tinh, Thất sát... Lại còn thêm mấy hung tinh nữa, mới nguy... Cứ như tôi suy thì cụ nhà không vướng vào chuyện kinh tế đâu, mà đây là chuyện chính trị...
Tôi không còn muốn chối nữa. Nhưng tôi chỉ nói :
- Tôi sẽ đi Tam Ðảo thăm cụ tôi ngay.
- Ông đi đi ! Tuy chẳng giúp gì được cụ nhà đâu, nhưng đạo làm con ông phải đi. Mà lạ, cụ nhà gặp nạn ít ra cũng gần cả tháng rồi mà sao không ai báo cho ông biết ?
- Thưa cụ, tôi vừa đi công tác khu 4 về.
Vợ tôi đưa mắt cho tôi.
- Bây giờ phiền cụ xem cho tôi.
Ông thầy bói cúi đầu xuống. Ngón cái đi những bước chậm chạp trên những ngón tay xương xẩu.
- Tôi nói thẳng ra nhá ?
- Vâng, cụ cứ nói thẳng.
- Thế này : chính ông cũng sẽ gặp hạn, ông ấy, nhưng không phải ngay bây giờ. Qua tháng này đã, trong tháng sau...
Tôi liếc vợ tôi. Mặt nàng nhợt đi khi nghe câu nói đó. Tội nghiệp, vợ tôi thương tôi biết bao nhiêu.
- Hạn sẽ xảy ra bất ngờ...- ông ta nói tiếp - Tôi biết, ông không tin đâu, nhưng nó sẽ đến đấy. Hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa...
Tôi suy nghĩ. Thế là thêm một người khẳng định tôi sẽ bị bắt. Khác ở chỗ người này không nhìn vào tình hình chính trị mà căn cứ ở những vì sao không có thật.
- Hạn liệu có dài không, thưa cụ ? - tôi hỏi.
Ông thầy bói lắc đầu :
- Tôi không nói trước được. Nếu ông cúi mình xuống, không cãi lại, người ta nói gì cũng gật, buộc cho mình cái gì cũng ừ, cứ nhận hết thì xong. Bằng không hạn sẽ kéo dài : hai thành bốn, bốn thành tám, tám thành mười sáu... cứ thế mà nhân lên mãi...
Vợ tôi nước mắt đã lưng tròng.
Xong quẻ, tôi đưa cho ông thầy bói nhiều hơn số tiền tôi định đưa. Tôi hỏi ông về chữ quý nhân mà ông dùng cho tôi thì ông nói :
- Quý nhân là người đáng quý, không có nghĩa nào khác. Không phải ông cho tôi tiền hay cho tôi quà mới là quý nhân. Mong còn có dịp gặp lại nhau.
Trước khi ra về tôi đặt câu hỏi cuối cùng :
- Thưa cụ, cụ đã xem cho nhiều người, biết nhiều số phận, tôi muốn hỏi cụ : có phải thời nay người xấu nhiều hơn người tốt không ?
Ông già cười khà khà :
- Cuộc đời phải có âm có dương, có đực có cái, có xấu có tốt, mới là cuộc đời chứ. Dĩ nhiên, có hồi âm thắng dương, có hồi dương thắng âm, tựu trung chông chênh là thường tình, cân bằng là hãn hữu. Ông có số nhìn xa trông rộng, ông thừa hiểu sự đời, còn hỏi tôi làm gì ?
Trong khi đối thoại với Huỳnh Ngự ở sân Hỏa Lò tôi lại nhớ đến lời tiên tri của ông thầy bói mù : hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa...
Vậy cái kẻ gắp lửa bỏ tay người kia là ai ?
Rõ ràng không phải cái anh chàng thư lại đang đứng trước mặt tôi rồi. Y bất quá là một tên công sai nhiệt tình.
Kẻ gắp lửa bỏ tay người là chủ của y kia. Tôi nghĩ tới Lê Ðức Thọ. Nhưng cả khi đó, cả bây giờ tôi vẫn không hiểu : Thọ muốn gì ở tôi ?
Tôi không hoạt động chính trị. Tôi làm việc, như bất cứ ai trong bất cứ xã hội nào. Tôi thích chủ nghĩa xã hội bởi nó hứa hẹn một tương lai đẹp - tự do, công bằng xã hội, kinh tế phồn vinh. Nhưng những thứ bán kèm với nó như đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, ý thức tổ chức, dân chủ tập trung không được lòng tôi. Cuộc đấu tranh gọi là chống chủ nghĩa xét lại hiện đại mà nhà cầm quyền dấy lên không phải của dân tộc Việt Nam. Càng không phải cuộc đấu tranh của tôi, vì tôi, cho tôi. Tôi chẳng thích chủ nghĩa xét lại nào hết, hiện đại cũng như không hiện đại.
"Hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa...". Tôi không thích chính trị mà nhà cầm quyền cứ lôi tôi vào là đúng với câu việc không có nó bảo là có. Tôi đã xa lánh chính trị mà nhà cầm quyền cứ giữ rịt tôi trong nó là ứng với câu việc xong rồi nó bảo là chưa...
Rất có thể người ta không ưng được tôi vì tôi đã vi phạm không phải một lần những điều cấm kỵ. Lần đầu với truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ (báo Văn Nghệ, 1961), tôi bị Tố Hữu lên án "Vũ Thư Hiên lộ rõ tâm trạng bất mãn với chế độ hiện hành", trong bài viết :"Giương cao ngọn cờ tính Ðảng, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ". Cùng bị vạch mặt chỉ tên như những tên xét lại hiện đại trong văn học còn có Nguyên Ngọc và Ngô Ngọc Bội. Tố Hữu coi Nguyên Ngọc nói móc họng Ðảng, ví lòng dân như mạch nước ngầm, không dễ thấy nhưng quật đổ được những công trình lớn. Ngô Ngọc Bội (với truyện ngắn Chị Cả Phây) bị Tố Hữu gọi là freudiste(4). ê Việt Nam mà bị coi như freudiste là nặng lắm.
Lần thứ hai tôi bị đánh là vì kịch bản Ðêm Cuối Cùng Ngày Ðầu Tiên, tôi đã kể trong chương trước. Lần thứ ba nhẹ hơn cả, do truyện ngắn Ðêm Mùa Xuân. Nó không bị đánh trên mặt báo, nhưng tập truyện ngắn cùng tên (Nhà xuất bản Lao động, 1963) bị thu hồi một cách lẳng lặng.
Ðòn nặng nhất là bài báo của Tố Hữu. Nó xuất hiện trên báo Nhân dân, sau đó được tất cả các báo nhất tề đăng lại, không trừ cả báo Văn Nghệ đã đăng truyện ngắn này. Giáo sư Hoàng Xuân Nhị còn gán thêm cho tôi một tội mà nhà lãnh đạo văn nghệ bỏ sót : "Vũ Thư Hiên đã phất cao ngọn cờ ấn tượng chủ nghĩa nhằm chống lại đường lối văn nghệ xã hội chủ nghĩa của Ðảng". Trong trận đòn hội chợ, nhà phê bình văn học Phong Lê bồi thêm cho tôi một quả đấm muộn trên tập san Nghiên cứu Văn học, cũng với ý ấy. Tôi giận Phong Lê hơn giận vị giáo sư khả kính. Phong Lê thuộc lớp trẻ chúng tôi, lẽ ra không bảo thủ mới phải. Anh em nói Phong Lê chậm hiểu, nhưng không cơ hội. Hai chục năm sau quả nhiên anh cũng bị đánh vì những ý nghĩ vượt ra ngoài khuôn phép.
Từ sau những sự kiện đó tôi không được in nữa.
Nói chung, nhà văn, nhà thơ nào một lần lỡ bút hoặc lỡ lời đều bị như vậy. Vũ Bão(5), tác giả cuốn Sắp Cưới, một cuốn sách hay về Cải cách ruộng đất vì giọng văn dân dã hiếm có, để cho nhân vật nói Trường Chinh bị mất chức tổng bí thư bằng câu "mất bay cái chức Ðảng trưởng", mà nhiều năm bị treo bút, còn hơn cả Lev Tolstoi bị Nhà Thờ Chính giáo Nga phạt vạ anaphema(6) vì tội báng bổ.
Cái khác là Nhà Thờ có thông báo hẳn hoi, có cha đạo cao rao trên tòa giảng cho đàn chiên được biết, còn chúng tôi bị rút phép thông công ngầm, bằng chỉ thị ngầm.
Năm 1964, Nghị quyết 9 được phổ biến rộng rãi, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại hiện đại được phát động người ta liền rầm rộ tổ chức những cuộc rà soát các ấn phẩm để tìm ra những cái có tư tưởng xét lại hoặc bị ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại.
Ai nấy sợ xanh mắt. Bói ra ma quét nhà ra rác, đầu chẳng phải cũng phải tai. Ðến nhà văn Ðỗ Quang Tiến ở báo Văn Nghệ, người chọn đăng truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ(7) của tôi, vốn hiền lành, chẳng ai có thể buộc tội ông xét lại, cũng chối phăng tội của ông, đổ ụp nó cho tập thể. Tất nhiên, truyện ngắn được in phải qua mấy người duyệt, Ðỗ Quang Tiến đã ranh mãnh cho nó qua được những con mắt cảnh giác lúc chúng mệt mỏi. Ðỗ Quang Tiến cười hì hì bảo tôi : "Không làm thế truyện ngắn của cậu không thể ra được, ra rồi mình chối phăng, làm gì nhau tốt ?".
Tôi quý Ðỗ Quang Tiến không phải chỉ vì ông đã tìm cách "lăng xê"(8) tôi. Ðối với người mới vào nghề đó là cái ơn lớn. Năm 1956 tôi mới có vài truyện ngắn in trên các tờ Văn Học, Tổ Quốc và Ðộc Lập. Ðỗ Quang Tiến, với tư cách biên tập viên báo Văn Học, đã chọn in Ðường Số 4 và sau đó Ðêm Mất Ngủ, vào năm 1961. Ông nhà văn xuất thân công chức, trước Cách mạng Tháng Tám ở Nha Thương chính hay Ty Kiều lộ tôi không nhớ rõ, đã có sự hy sinh thầm lặng cho việc vun xới các mầm non văn nghệ. Tôi và các bạn văn trẻ thường tới nhà ông. Chúng tôi chen chúc nhau trên chiếc chiếu hẹp, uống trà đặc, nói chuyện văn chương. Ðỗ Quang Tiến có nhiều ý hay, nhiều câu chuyện dí dỏm và những dự định viết không thành. Có người chê Ðỗ Quang Tiến hèn. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi tiếc những tác phẩm không ra đời. Tôi không coi sự hèn chút ít, tức là hèn nhưng không hại ai, được lịch sự gọi bằng không có gan, là thói xấu. Hầu như các nhà văn vào thời kỳ đó đều hèn một chút, nếu không nhiều. Ðó là bản năng tự vệ, có sẵn trong bất cứ sinh vật nào. Không hèn, chính anh sẽ rơi vào sổ đen, nhẹ thì không được lên lương, hoặc mất đứt cơ may ra nước ngoài một chuyến. Nặng, anh có thể bị đẩy đi lao động, chuyển công tác, hoặc bị tống ra ngoài biên chế.
Không kể vụ Nhân văn - Giai phẩm xảy ra đã hơn chục năm, với Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Phan Tại, Hoàng Công Khanh, Phùng Cung(9) bị đi tù, hình thức bắt giam chưa được dùng cho văn nghệ sĩ. Trừ trường hợp Tuân Nguyễn(10), nhà thơ, cán bộ Ðài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, bị bắt mùa hè năm 1965.
Một sáng chủ nhật tôi đến rủ Tuân Nguyễn đi ăn sáng thì thấy cửa nhà anh khóa trái. Tôi ngạc nhiên. Bình thường vào ngày nghỉ nhà thơ lười của chúng tôi chẳng bao giờ dậy sớm. Chủ nhật, mười hai giờ trưa anh vẫn còn trên giường. Tuân Nguyễn có thói quen đọc sách khuya. Uống cà phê một mình thì buồn, tôi dong xe đi tiếp, đến Vũ Huy Cương(11). Cương rầu rầu báo cho tôi tin dữ : Tuân Nguyễn bị bắt rồi. Chuyện thế này : Tuân Nguyễn cả tin hớ hênh đưa cho một ông bạn nào đó cuốn sổ tay trong có mấy bài thơ anh mới làm. Cuốn sổ rơi vào tay công an. Ông bạn của Tuân Nguyễn, hoặc là một nhà mác-xít chân chính, hoặc là một tên chỉ điểm, trong trường hợp này rất có thể chỉ là một. Ðáng tiếc, chẳng bao giờ chúng tôi được biết kẻ làm việc nhơ bẩn đó là ai.
Chúng tôi đoán, và đoán không sai : Tuân Nguyễn bị bắt vì bài thơ Trái Tim Hồng Ngọc. Nó được làm nhân đám tang ông Dương Bạch Mai. Anh rất quý ông, gọi ông bằng thầy, ví trái tim ông như viên hồng ngọc vĩnh viễn ngời sáng : "Một tiếng nói chúng tôi chờ đã mất. Ðau đớn này đau đớn nào hơn. Chân lý không muốn nằm dưới đất..." Tôi tiếc không tìm được bài thơ của anh để giới thiệu ở đây. Nó vĩnh viễn biến mất. Bài thơ gây xúc động sâu sắc trong chúng tôi hồi ấy. Vì bài Trái Tim Hồng Ngọc, và vì một số bài thơ chưa từng đăng báo, anh bị tù tám hoặc chín năm, tôi không nhớ rõ.
Khi bị bắt Tuân Nguyễn ốm yếu lắm. Anh em đồn anh bị lao phổi. Các đồng chí quẳng anh vào tù, ở trong tù anh lại được các bạn tù, phần đông là lưu manh, chăm sóc. Ðêm đầu tiên từ trại tù trở về Hà Nội anh ngủ gục ở ga Trần Quý Cáp. Một cô điếm đi ăn sương gặp anh, thương tình đưa anh về túp lều của cô trong khu ổ chuột sau Khâm Thiên. Cô an ủi anh, cưu mang anh trong những tháng đầu tiên trở về với cuộc sống, khi anh quá chán nản, không muốn gặp mặt bè bạn, thậm chí muốn tự sát. Tuân Nguyễn đứng lên được là nhờ cô. Cảm động trước lòng nhân ái bao la của người con gái không quen biết, anh ngỏ ý muốn gá nghĩa cùng cô, nhưng cô từ chối :"Anh ơi, chúng mình khác nhau nhiều quá, anh làm sao có hạnh phúc với em được. Anh sống sao nổi trong xã hội này nếu vợ anh là em, một con điếm ?!".
Thời kỳ này là thời kỳ phần lớn những cây bút trẻ im tiếng. Họ không chịu gò mình vào nền văn nghệ quan phương khô xác và kênh kiệu.
Trong bầu không khí ngột ngạt đầy những điều cấm kỵ khó có hứng để mà viết. Nguyễn Tuân phân trần về những cái ông viết để trả nợ cho những chuyến đi :'' Khi ngồi vào bàn nhà văn phải thấy thoải mái trong lòng thì may ra, may ra thôi, hắn mới viết được một cái gì đó ra hồn. Ngòi bút khi viết mà ngập ngừng, mà run rẩy thì chỉ cho ra những văn phẩm nước ốc, có khi lại còn bốc mùi thum thủm. Khốn nỗi, thời nay im lặng không xong. Im lặng người ta bảo mình không bằng lòng họ, mình có ý chống họ. Cho nên anh đừng lấy làm lạ thấy tôi viết mấy cái ba lăng nhăng. Chẳng qua thỉnh thoảng tôi phải nhảy ra mà hô présent(12) một cái cho phải phép, để cho người ta khỏi bẻ hành bẻ tỏi..."
Ông thầy bói đúng. Có kẻ gắp lửa bỏ tay người...
Sau khi bị bắt tôi tin có thật một Nostradamus(13), cũng như có thật một Trạng Trình.
Nhưng nếu mọi hành động của con người đều nằm trong tiền định thì con người còn là cái gì ? Nó chẳng quyết định được gì hết sao, loại sinh vật có trí khôn là chúng ta ? Nó chỉ là con rối trong tay định mệnh sao ? Nguyễn Du của chúng ta đúng hay sai khi ông nói "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều" ?

(1) Ông Tiến cố (tên thật là Nguyễn Văn Tiến) có lần bị mật thám bắt tại nhà tôi, khoảng năm 1937, hồi ấy ở phố Huế. Mẹ tôi đề nghị viên thanh tra mật thám người Pháp Lanèque để ông Tiến ăn bữa cơm đã xong trước khi vào tù vì "Trời đánh còn tránh bữa ăn". Lanèque nhận lời dùng cơm cùng gia đình tôi. Bữa cơm chia tay được chụp ảnh kỷ niệm nhưng bức ảnh này đã bị mất trong vụ công an khám nhà năm 1967. Mẹ tôi nhận xét : "Mật thám Pháp đối với kẻ thù lịch sự và tử tế hơn công an ta đối với dân". Do quan hệ với các chức sắc Thiên Chúa giáo ông Tiến bị chính quyền bắt đi tập trung cải tạo nhiều năm.
(2) Cụ Ðinh Chương Dương (1885-1972) là một trong những người sáng lập Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội, người tổ chức và đào tạo rất nhiều nhà cách mạng có xu hướng cộng sản tại Việt Nam. Một số được cụ Ðinh gửi sang Tàu dự các lớp huấn luyện do cụ Hồ tổ chức. Quê ở huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. Bị Pháp cầm tù nhiều lần tại nhiều nhà tù khác nhau với số năm tù tổng cộng là 33 năm. Sau Cách mạng Tháng Tám, cụ Ðinh ít được nói đến, cho dù với tư cách một nhà cách mạng lão thành đã có nhiều cống hiến cho cách mạng.
(3) Tiếng Pháp secteur, tiểu quân khu, thường bao gồm lãnh thổ của một tỉnh (province) thời thuộc Pháp). Không có khái niệm tương đương trong thuật ngữ quân sự Việt Nam.
(4) Sigmund Freud(1856-1939), nhà tâm thần học người ỏo, người xây dựng ngành phân tâm học, chủ trương bản năng dục bị dồn nén vào vùng vô thức chỉ huy cách hành xử của con người. Ông là tác giả của những cuốn Khoa Học Các Giấc Mơ (1901), Ba Khảo Nghiệm Về Lý Thuyết Tính Dục (1905), Tâm Lý Tập Thể Và Sự Phân Tích "Cái Tôi" (1923).
(5) Tên thật là Phạm Thế Hệ (sinh năm 1932), một nhà văn thiên về lối viết trào lộng, vốn không phải là lối viết được các nhà lãnh đạo yêu thích.
(6) (1828-1910), nhà văn lớn của nước Nga, tác giả Chiến Tranh Và Hòa Bình, Anna Karenina. Do những tư tưởng tiến bộ Lev Tolstoi bị Giáo hội Chính thống Nga rút phép thông công.
(7) Ðêm Mất Ngủ - truyện ngắn nói về một thương binh đã chuyển ngành. Vết thương ở đầu gây ra chứng mất ngủ triền miên. Trong một dêm không ngủ được anh đi lang thang trong thành phố. Trên đường anh phát hiện một bóng đen bám sát anh lẵng nhẵng. Anh hiểu đó là một nhân viên công an. Họ chạm trán lúc trời hửng, trò chuyện với nhau và nhận ra nhau là hai người lính ở hai đơn vị quân đội đã từng phối hợp đánh một đồn địch.
(8) Từ tiếng Pháp lancer = ném ra, tung ra, ở đây có nghĩa là giúp đỡ vào văn đàn, để làm quen với độc giả.
(9) Những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ bị đi tù liên quan tới vụ Nhân văn - Giai phẩm, trong đó có những người có án và những người không có án.
(10) Tuân Nguyễn, (1931-1983), nhà thơ. Sau khi được tha, với tư cách cán bộ miền Nam tập kết, anh được hưởng trợ cấp hàng tháng khi trở về thành phố Huế sau năm 1975. Tuân Nguyễn vào Sài Gòn sinh sống, rồi mất vì một tai nạn giao thông. Trong lời điếu một người bạn thân của Tuân Nguyễn nói về anh " Thời đại như ngã ba sông. Anh như con thuyền giữa dòng nước xoáy. Thuyền anh vượt thẳng mà sông lại cong. Chạm bờ sông nước dìm anh tận đáy..."
(11) Biên tập viên Xưởng phim hoạt họa. Sau bị bắt trong vụ "nhóm xét lại chống Ðảng" vào đầu năm 1968.
(12) Présent : tiếng Pháp, có nghĩa là : Có mặt !
(13) Nostradamus (tên thật Michel de Nostredame, 1503-1566) nhà vật lý và thiên văn Pháp, nổi tiếng với cuốn Thế Sấm Ký, gồm những lời tiên tri từ năm 1500 tới ngày tận thế, được coi như sẽ xảy ra vào năm 3797.



:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 11

- Anh ngủ tốt chớ, anh Hiên ?
Không ngẩng lên, Huỳnh Ngự vừa lúi húi soạn chồng hồ sơ trên bàn vừa hỏi tôi thay lời chào. Tôi biết thừa : y chẳng bận gì hết, y làm ra vẻ bận bịu để bắt tôi phải chờ, cho những gì sẽ xảy ra sau đó thêm quan trọng.
- Cảm ơn, tôi ngủ được. - tôi nhạt nhẽo đáp.
Ngồi vào vị trí thường ngày, tôi lơ đãng nhìn quanh.
Công việc hỏi cung được Huỳnh Ngự tiến hành theo lối du mục, không cố định một nơi, nay phòng này mai phòng khác, không hiểu tại Hỏa Lò thiếu phòng làm việc hay do nguyên nhân nào khác. Căn phòng hôm nay hẹp nên có vẻ ấm hơn. Cách bài trí bên trong thì phòng nào cũng như phòng nào - bàn chấp pháp đặt sát tường hậu, sau lưng chấp pháp là chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh, với vài băng khẩu hiệu bên dưới. Ghế cho phạm(1) được đặt cách chỗ ngồi của chấp pháp hơn một tầm với, đề phòng sự tấn công bất ngờ. Bên phải hoặc bên trái, là cái bàn nhỏ dành cho phạm viết lời khai, phần lớn là bàn mộc, cái nào cái nấy lem nhem mực tím. Ghế cho phạm là ghế đẩu, thấp hơn ghế chấp pháp. Ở vị trí này bao giờ người bị hỏi cung cũng phải ngước mắt lên nhìn kẻ hỏi mình. Một cách tính toán để nâng cao uy thế cho chấp pháp. Cũng có lần tôi được đưa tới một căn phòng khác loại, bài trí theo kiểu phòng khách, được ngồi ghế có tựa, ở khoảng cách gần chấp pháp. Ðó là khi tôi chấp nhận một sự lùi bước.
- Hừm, bữa hổm ta làm tới mô rồi hè ? Anh nói anh ngủ được, hả ? Vậy mà trong y bạ của anh vừa lấy về tui thấy bác sĩ toàn kê thuốc ngủ với thuốc an thần. - Huỳnh Ngự nói, giọng thân mật cố ý - Dùng nhiều mấy thứ nớ hại lắm đó.
Tôi hiểu ẩn ý câu nói : anh bạn, tụi tui nghiên cứu anh kỹ lắm, anh coi, tài liệu cả đống nè, tụi tui biết về anh không ít đâu.
Huỳnh Ngự sắp xếp xong đống giấy má, đặt chúng gọn gàng vào góc bàn.
- Còn nếu khó ngủ thì tốt nhứt là trước khi đi ngủ anh thở theo khí công. Anh biết luyện khí công chớ ?
- Không. Tôi chưa tập khí công bao giờ.
Tôi nói dối. Tôi biết khí công và yoga. Nhưng tôi thích nói dối Huỳnh Ngự, cho dù trong những chuyện chẳng có gì quan trọng, nhằm kiểm tra sự hiểu biết của Huỳnh Ngự về tôi. Cách tốt nhất để đối thủ không hiểu được mình là tạo ra một mê cung lẫn lộn cái thật và cái giả. Vả lại, nói dối để thấy đối thủ bị mắc lừa âu cũng là một thú vui trong tù.
Huỳnh Ngự nghiêng ngó nhìn tôi :
- Tui sẽ bày cho anh cách chữa căn bản. Coi tui thị phạm(2) cho anh nè. Cứ làm theo cách tui bày ít lâu là bịnh mất ngủ hết liền.
Y ngả người trên ghế, nhắm mắt lại, chầm chậm hít vào thở ra nhiều lần. Tôi cười thầm. Cách nói đi ngẩu thay cho đi ngủ làm tôi nhớ tới cách anh bạn tôi nhại vợ mình :"Eng ơi eng téc đèng đi ngẩu(3)". ê vợ anh cái gì anh cũng ưa, trừ cách phát âm của cô, anh uốn mãi nhưng cô không sửa được. Trong giọng nói, cách nói của Huỳnh Ngự sau hơn chục năm ở đất Bắc đã không còn nguyên chất giọng quê hương, nhưng khi nào tức giận lên y nói một tràng dài mà tôi không hiểu gì.
- Phải hít cho thiệt sâu, hít vô bụng dưới nè, đẩy cái khí nớ xuống, nhịn thở lâu thiệt là lâu, sau đó mới thở ra từ từ, từ từ như rứa cho tới khi hết khí rồi vẫn còn vận nó lên hoành cách mô đặng tống cho bằng hớt ra ngoài. Cứ thở như vậy lối mươi, mười lăm phút là ngủ liền hà. - Huỳnh Ngự cười hì hì - Anh không biết chớ nhiều người ở Hỏa Lò nầy một thời gian ra là hớt sạch mọi bịnh đó.
Thảo nào, để tăng cường sức khỏe cho nhân dân Nhà nước tăng số lượng nhà tù lên vòn vọt trong một thời gian kỷ lục !
Chúng tôi thong thả uống trà, nói chuyện vãn. Huỳnh Ngự có sắc khí của người hài lòng về mình. Y có vẻ vừa vượt qua một chặng đường vất vả. Tôi đồ rằng cái đó có liên quan tới tình hình mới. Từ khi biết Ðảng có quyết định mới về cách xử lý vụ án, có thể anh em trong vụ tôi cũng bớt căng thẳng với y.
Ngoài tôi ra Huỳnh Ngự còn làm việc ít nhất cũng với mấy người nữa. Y ra đầu đề, nói theo cách của y, bảo tôi ngồi viết, rồi tất bật chạy đi đâu đó. Lát sau y chạy về, sắc mặt khi buồn khi vui, bực bội nhiều hơn phấn khởi, thỉnh thoảng còn nổi khùng lên một cách rất vô lý, chắc hẳn vừa trải qua một cuộc cãi cọ.
Hỏi thăm sức khỏe tôi xong, Huỳnh Ngự huyên thuyên đủ mọi chuyện tầm phào. Thậm chí y còn quan tâm tới sắc đẹp của tôi nữa. Y hỏi tôi có muốn cạo râu không, râu tôi mọc dài, trông gớm chết, mất cả đẹp trai. Tôi cảm ơn, nói bữa khác cạo cũng được, trong xà lim bộ râu chẳng làm phiền tôi bao nhiêu, cái mà tôi cần bây giờ là bàn chải và thuốc đánh răng. Y phàn nàn nói đã nhắn vợ tôi gửi mấy thứ đó vào cho tôi rồi mà sao vẫn chưa gửi, chắc bả bận đi công tác địa phương. Y nói dối ráo hoảnh - nhà tôi đông người, không người này đi gửi thì người khác đi, không khi nào để tôi ở đây phải thiếu.
- Trong tù mọi người đều dối trá, cả anh cai ngục lẫn anh tù. Môi trường nhào nặn con người theo mẫu của nó. - Thành nhận xét.
Chẳng cần nhiều thời gian ở tù tôi mới thấy Thành nói đúng.
- Mấy bữa rầy tui bận quá xá! - Huỳnh Ngự cười hì hì, tự mãn - Anh biết không, từ hôm biết tin Vũ Thư Hiên bị bắt, bè bạn anh nườm nượp kéo tới văn phòng xin được báo cáo, tiếp không xuể. Ðành phải lên lịch tiếp từng người một. Bộ anh không tin hả ?
Tôi trương lên vẻ mặt hồn nhiên nhất
- Có gì mà không tin. Gặp cơ hội kiếm chác được trong thời buổi khó khăn này khắc có khối kẻ bâu lại. Ðảng rất khuyến khích sự lập công :"thành khẩn bộc lộ khuyết điểm của mình và hăng hái tố cáo người khác là thước đo lòng trung thành với Ðảng", họ sẽ được Ðảng chiếu cố. Có điều những người này có thực là bạn tôi hay không ? Bạn của cơ quan công an là cái chắc rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.
- Nè, bỏ cái lối xóc óc đi nghen. Chẳng có lợi chi cho anh đâu, thiệt đó. May cho anh gặp tui, chớ phải người khác họ quyết không để cho anh yên.
- Tôi cũng nghĩ thế, may thật !
Huỳnh Ngự nguýt tôi một cái dài.
Công bằng mà xét, Huỳnh Ngự không phải người xấu. Y chẳng qua là một công bộc trung thành với nhà nước hoặc với cái ghế y được ngồi, y làm việc như một robot không biết đến hỏng hóc. Y ngầy ngà, y dai hoi, nhưng y cũng không làm gì tồi tệ hơn, đôi lần tôi còn thấy y có vẻ ái ngại cho tôi nữa là khác. Nếu Ðảng mang tôi đi bắn chắc y cũng bùi ngùi một phút, mà cũng có thể là hai.
- Hôm nay ta không làm tiếp việc bữa trước, mà bắt đầu làm việc chính thức. - y bình thản nối điếu thuốc kế tiếp rồi thong thả nhả khói về phía tôi. - Trước tui hỏi anh, anh trả lời, nay anh tự khai báo với Ðảng những tội lỗi của anh cũng như của những kẻ mà anh có liên quan.
- ??
- Tức là tui sẽ đề ra câu hỏi. Anh trả lời bằng miệng. Tui gợi ý thêm. Anh khai vô giấy. Ðơn giản vậy thôi hà. Anh hiểu chớ ?
Buồn cười thật ! Tôi tự khai báo, nhưng y vẫn hỏi cung tôi. Như cũ.
Tôi đáp gọn lỏn :
- Không.
Cặp kính trắng loáng lên :
- Không cái chi ?
- Tôi không hiểu.
- Sao lại không ? Có chi khó hiểu đâu.
Huỳnh Ngự ngừng hút, điếu thuốc thây lẩy trên môi. Tôi cũng làm ra vẻ ngỡ ngàng.
- Tôi không phải là phạm nhân, sao lại phải khai ?
Huỳnh Ngự hiểu ra.
- Bộ anh không thấy anh là người có tội với Ðảng à ?
- Tội gì ?
- Anh nghĩ đi, nghĩ cho kỹ, anh sẽ thấy anh có tội chi ! Nếu không có tội thử hỏi Ðảng bắt anh làm chi ?
Cái lô-gích tuyệt vời này chỉ có ở những kẻ ấm đầu ! Nhưng tôi không muốn cãi nhau với y. Tôi chỉ muốn cù nhầy một chút để suy nghĩ : thằng cha định lái câu chuyện đi hướng nào ?
- Anh không phủ nhận anh có tội với Ðảng chớ ?
- Tôi phủ nhận.
Câu trả lời tỉnh bơ làm y sững sờ.
- Anh ? Phủ nhận ?
- Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi, - tôi lạnh lùng - nhưng rất tiếc, cho đến hôm nay tôi vẫn chưa được nghe Ðảng công bố cho tôi biết tôi phạm tội gì ?
Huỳnh Ngự trợn mắt. Y bắt đầu mất bình tĩnh.
- Anh không biết thiệt ? Ðến hôm ni vẫn không biết ?
- Ðúng thế ! Khi bị bắt, tôi nghĩ Ðảng buộc phải đưa tôi vào đây để hỏi vài điều gì đó mà để tôi ở ngoài hỏi thì không tiện. Sau, được nghe trên phổ biến tôi lại càng tin mình hiểu đúng.
- Hứ ?
- Thật vậy, một mâu thuẫn đã được coi là mâu thuẫn nội bộ thì không phải là vụ án. Mà đã không có vụ án thì không thể có phạm nhân. Tôi hoan nghênh Ðảng đặt việc này trong phạm trù mâu thuẫn nội bộ. Nhưng tôi thắc mắc : bất kỳ đảng chính trị nào cũng chỉ có những hình thức kỷ luật như phê bình, cảnh cáo, nặng quá thì khai trừ, tuyệt nhiên không có chuyện giam giữ, đúng thế không ạ ?
- Hừm.
- Muốn giam giữ một công dân chế độ nào cũng phải thông qua các thủ tục tố tụng thông thường, phải có lệnh khởi tố, lệnh tạm giam, mà tạm giam cũng chỉ được phép trong thời hạn luật định. Tôi không hiểu sao trong vụ này lại không có những cái tôi vừa nói. Như vậy có quá đáng không ? Hơn nữa, tôi thấy tôi chẳng có tội gì nếu đối chiếu các việc làm của tôi với Hiến pháp và luật pháp nhà nước...
Huỳnh Ngự lúng túng. Y không chờ đợi ở tôi một thái độ ngang như cua sau khi đã được nghe phổ biến về ân sủng của trên..
- Tui đã biểu anh rồi mà, cứ nghĩ cho kỹ đi khắc hiểu vì sao anh bị bắt.
- Nghĩ kỹ đến mấy cũng thế mà thôi. Tôi thật sự không hiểu, và nếu Ðảng không cho biết thì tôi đành chịu tiếng ngu mà hỏi nữa, hỏi mãi cho tới khi nào hiểu được mới thôi.
- Tui đã biểu đừng vội mà. Chưa nghĩ kỹ đừng trả lời.
Vui thật, thì ra người ta bắt tôi vào đây để ra cho tôi một câu đố : đố đằng ấy biết tại sao đằng ấy bị bắt ?
- Một công dân bị bắt có quyền đặt câu hỏi : họ bị bắt vì tội gì, thậm chí có quyền không trả lời khi chưa được gặp luật sư của mình.
Huỳnh Ngự cười ngất. Tiếng cười hé hé căng thẳng, giả tạo của y vang to đơn độc trong căn phòng trống.
- Chà, sao mà hai cha con nhà anh giống nhau quá vậy ! Anh còn trẻ hổng nói làm chi chớ ông già anh hoạt động cách mạng từng ấy năm mà vẫn còn mơ hồ mới lạ ! Trong đầu cha con nhà anh rặt một thứ khái niệm dân chủ tư sản ! Anh phải hiểu : nền dân chủ của ta khác hẳn nền dân chủ tư sản, như ánh sáng và bóng tối, như đêm với ngày, nghĩa là khác về chất, rõ chưa nào ? Bởi vì nó là nền dân chủ được xây dựng trên cơ sở chuyên chính vô sản, một nền chuyên chính vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động chống lại thiểu số bóc lột... Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới thiệt là dân chủ, nó dân chủ gấp triệu lần nền dân chủ của các ngài tư sản, như Lênin đã dạy...
Lại một cách chạy trốn câu hỏi trực diện.
- Tuyên bố với người phạm tội về tội của họ phỏng có mâu thuẫn gì với chuyên chính vô sản ? - tôi tấn công tiếp - Chuyên chính vô sản là đường lối công khai, Ðảng tuyên bố thẳng thắn, Ðảng cần gì phải giấu giếm hành động chuyên chính của mình ?
Huỳnh Ngự đỏ bừng mặt.
- Anh tưởng Ðảng không biết chi về những hành động của các anh sao ? Chẳng qua Ðảng muốn anh tự giác nhận ra tội mình mà thành khẩn khai báo, để qua đó đánh giá mức độ giác ngộ của anh mà thôi.
Tôi vặn lại :
- Nhưng nếu chính tôi không biết mình phạm tội gì thì làm sao tôi có thể trình bày với Ðảng tội của tôi được. Tội lỗi là một khái niệm không đồng nhất. Cái mà người này coi là tội, người kia lại coi là không.
Huỳnh Ngự phát bẳn.
- Nói rứa mà nghe được ! Vô đây mà còn lý sự. Trước hết anh phải thấy mình có tội với Ðảng đã ! - giọng y bắt đầu the thé - Anh phải khẳng định một ngàn lần rằng Ðảng-bao giờ-cũng-sáng-suốt. Bắt cán bộ của mình lòng Ðảng xót xa lắm chớ. Anh không có tội thì không đời nào Ðảng bắt anh. Anh có biết phương châm Ðảng chỉ ra cho chúng tôi ra răng không ? Nếu bắt cũng được mà không bắt cũng được thì kiên quyết không bắt !
Trong các nghị quyết của Ðảng tôi không thấy có phương châm này. Theo tôi biết, nó là một câu nói của Trần Quốc Hoàn trong một huấn thị cho cán bộ công an, rồi được ngành này khoe khoang ầm ĩ như thể đó là mẫu mực của lòng nhân ái vô sản. Tại sao lại có thể bắt cũng được mà không bắt cũng được ? Ðáng ngạc nhiên là một chủ trương phô bày sự đần độn như thế lại được tờ Học Tập, tạp chí lý luận của Ðảng tán dương.
- Thế những người bị xử trí oan trong Cải cách ruộng đất thì sao ? - mặc cho Huỳnh Ngự giận dữ, tôi lại vặn tiếp - Họ bị quy kết, bị bắt buộc phải nhận tội, rồi sau đó Ðảng phải thừa nhận sai lầm, phải xin lỗi, phải sửa sai...
- Anh đừng có móc máy chuyện Cải cách ruộng đất ! - y vỗ bàn, gầm lên - Từ bấy tới chừ cách mạng ta đã tiến bộ rất nhiều, cả về lý luận lẫn thực tiễn. Không phải Ðảng cứ sai một lần thì những lần khác Ðảng cũng sai mô...Rồi coi : lần ni Ðảng có sai không ?
Tôi mỉm cười, nhớ tới câu nói dân dã :" Một lần ỉa bậy, lần sau thấy cứt người ta gọi đến".
Mặt Huỳnh Ngự tím lại :
- Nè, đừng giỡn mặt tui nghen. Bất cứ khi mô Ðảng cũng có thể thay đổi nhận định hôm ni đối với lũ các anh. Tới lúc đó thì chỗ của các anh không phải xà lim nữa, mà là pháp trường, pháp trường ! Các anh là bọn phản Ðảng. Mà phản Ðảng coi bằng phản quốc. Chỉ có đem bắn. Bắn tuốt !
Bàn tay cầm điếu thuốc của y run bần bật.
Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. Giống như trong trò chơi trẻ con, bên nào chớp mắt trước bên ấy thua, chúng tôi nhìn nhau trừng trừng, không ai chịu ai.
Tôi quyết thắng. Nếu tôi thua, tôi không chỉ thua trong trò chơi. Tôi thua có nghĩa là tôi sợ Huỳnh Ngự, có nghĩa là tôi có tội, nhưng không có can đảm nhận tội.
Huỳnh Ngự bỏ cuộc. Y quay đi, không chịu nổi cái nhìn lạnh giá của tôi. Nhưng chẳng bao giờ tôi có địa vị kẻ thắng, ngay cả trong trò chơi này. Vấn đề thua hay không thua chỉ đặt ra trước một mình tôi thôi.
Tôi được đưa trở lại xà lim.
Tôi làm mất thời giờ bạn đọc, kể một câu chuyện nhạt phèo. Nhưng câu chuyện dù có nhạt tới mấy thì cũng không nhạt bằng cái thực tế mà tôi gặp. Nó chẳng những nhạt mà còn phi lý. Phi lý đến mức không tưởng tượng nổi. Như thực tế trong một nhà thương điên.
Tôi mệt rũ. Tôi chán nản. Tôi tuyệt vọng.
Thành đã trải qua cảm xúc đó. Anh khuyên tôi phải luyện cho mình thói quen không ngạc nhiên trước bất cứ điều gì :
- Ông ngây thơ lắm. Với Nhà nước ta công dân nào mà chẳng có tội. Khác nhau ở chỗ tội nhiều hay tội ít mà thôi. Nghĩ mà xem : nếu mỗi công dân lúc nào cũng nơm nớp thấy mình có tội thì tiện cho Ðảng lắm chứ ! Ðảng chỉ còn việc nghĩ xem có nên bắt thằng A hay thằng B không, bắt hôm nay hay để đến mai ? Ông cho là tôi nói quá à ? Tôi không nói quá đâu. Ông cười ? Ðừng cười, bởi vì nó đúng là như thế đấy. Bộ máy chính quyền nào cũng gồm những con người, như ông với tôi đây, nó cũng biết nghĩ đấy, nó có cách suy luận của nó đấy, nó có bản năng tự vệ của nó đấy... Bộ máy chính quyền nào cũng sĩ diện lắm. Nó thích được ca ngợi, nó không thích bị chỉ trích, bao giờ nó cũng tìm cách phô rằng nó sạch sẽ... Ông có biết rằng khi bắt một đảng viên người ta phải khai trừ anh ta trước đã để làm gì không ? Ðể đến lúc bị bắt anh ta không còn là người của Ðảng nữa, để Ðảng không phải xấu hổ...
Chuyện khai trừ Ðảng trước khi bị bắt đã không xảy ra với những người trong vụ nhóm xét lại hiện đại(4). Tại sao, tôi không hiểu. Tôi cho rằng trong thời điểm đó những nhà lãnh đạo chưa có thái độ dứt khoát trong sự trấn áp những người cộng sản bất tuân. Việt Nam không phải là Trung Quốc. Những việc mà người Trung Quốc làm phứa không cần suy tính thì ở Việt Nam người ta còn phải dò dẫm, cân nhắc.
Cái ngoại lệ này kể cũng lạ. Tên cục trưởng Cục chấp pháp nói đúng chăng ? Hiểu theo lời y thì một hình thức trấn phản chưa có tiền lệ đang được dùng cho chúng tôi : vừa bắt vừa không bắt. Xử lý nội bộ được hiểu như những người bị Ðảng còng tay đưa đi không phải bị giam giữ, mà chỉ bị tập trung lại một chỗ để giáo dục thôi (!).
- Khi bắt một con người, việc trước tiên người ta phải làm là bắt hắn nhận tội cái đã. - Thành giảng giải - Có tội hay không có tội, mặc. Ðã bảo Ðảng không bao giờ sai lầm cơ mà. Thế thì trong tay Ðảng phải có bản nhận tội của thằng bị Ðảng bắt cái đã. Nó có nhận tội thì Ðảng mới không sai. Vụ việc để đó, xem xét sau cũng chẳng muộn...
Huỳnh Ngự đang cố gắng áp dụng bài bản này với tôi. Tôi muốn Thành phát triển đề tài nên giả vờ thích thú :
- Như thế đâu có được.
- Rồi ra ông còn biết ối chuyện lạ hơn nữa kia. - Thành nói - Tôi biết có người hoàn toàn vô tội, ở tù sơ sơ cũng vài năm, thế mà ra tù cậy miệng anh ta cũng không dám nói anh ta bị oan. Thậm chí anh ta còn một mực nói Ðảng bắt anh ta là đúng, rằng sở dĩ anh ta được tha, không bị xử là nhờ lượng khoan hồng của Ðảng... Ông có biết vì sao không ? Là vì anh ta nhận tội rồi, ký vào bản cung người ta mớm cho rồi, bây giờ há miệng mắc quai, lại còn sợ bị trả thù vì phản cung nữa chứ. Tội nghiệp, bị oan rồi mà đến một cái lệnh tha cũng chẳng được cấp, chỉ được thí cho một cái lệnh tạm tha thôi. Tạm tha là thế nào ? Là người ta tạm cho về, nhưng coi chừng, bất cứ lúc nào anh cũng có thể bắt lại, đừng có đùa ! Trong lệnh tạm tha người ta ghi : xét tội trạng chưa tới mức phải xử lý theo pháp luật...
Tôi kêu lên :
- Như thế là vi phạm nhân quyền !
Thành cười hức hức :
- Ông bạn ngốc nghếch của tôi ơi ! Ðể có thể vi phạm một cái quyền thì phải có nó trước đã, ông ạ !
Rồi anh thở dài, giọng yếm thế :
- Trong xã hội chúng ta, ông ạ, mỗi công dân chỉ là một người tù dự khuyết.
Tôi im lặng. Tôi buồn.
Có tiếng gào khóc thảm thiết ở đâu đó vọng đến, không biết từ xà lim nào. Thành lắng tai nghe.
- Cái gì thế, anh Thành ?
- Tôi không rõ. Trong xà lim nghe tiếng khóc là chuyện thường. Khi nào nghe người ta cười, ấy là có người đã phát điên.
- Công an ở đây có tra tấn tù không ?
Thành lắc đầu :
- Không. Nghe nói thỉnh thoảng người ta cũng đánh bọn lưu manh. Bọn ấy đánh là phải, tôi không thương. Với những can phạm khác thì không, họ không đánh, tôi chưa thấy. Âu cũng còn là cái tốt của chế độ. Tra tấn can phạm bây giờ bị cấm ngặt.
Chuyện bọn lưu manh bị đánh tôi có nghe. Nhưng đó là việc xảy ra ở những trại xa nào chứ ở Hỏa Lò thì tuyệt nhiên không có. Anh bạn tôi tên Quý, biệt hiệu Quý Cao, làm công an trong Hỏa Lò chuyên hỏi cung tù hình sự kể rằng bọn lưu manh đã biết tính anh. Ðứa nào bị anh hỏi cung mà cho một cái tát đuổi về thì đứa ấy mừng rơn, tí tởn khoe với bè bạn : "Bố Quý vừa tát tao một cái !". Ðó là điềm lành, nó cầm chắc được tha. Chúng sợ nhất khi anh ân cần hỏi thăm gia cảnh, tỏ vẻ thương hại, cho điếu thuốc hút tại chỗ rồi vỗ vai cho về - như thế sẽ còn nằm lâu, có thể đến mùa quít. Không phải mình có ý gì hoặc giở trò nghịch ác đâu, Quý Cao nói, mình thương chúng nó lắm chứ, chúng nó xấp xỉ bằng thằng lớn nhà mình. Từ hôm vào Hỏa Lò tôi có ý nhìn ngó xem có thấy Quý Cao không, nhưng không thấy. Trước khi bị bắt tôi hay chạy lại anh để hỏi thăm tin tức cha tôi, nhưng anh chẳng biết gì. Vụ án được giữ bí mật, ngay cả với công an. Tôi bao giờ cũng cẩn thận cắt đuôi rồi mới tới Quý Cao, nhưng làm sao biết chắc không còn cái đuôi nào vẫn lẵng nhẵng theo được tới nhà anh ?
Có lần tôi đang bị hỏi cung thì nghe có tiếng kêu khóc trong một phòng gần đấy, kèm theo là tiếng vật lộn huỳnh huỵch, tiếng quát tháo om xòm. Tôi đoán đây là trò Huỳnh Ngự bày ra nhằm áp đảo tinh thần tôi. Tôi chưa lần nào bị tra tấn, chính mắt tôi cũng chưa thấy người khác bị tra tấn. Khi tôi ra tù có nhiều bạn hỏi, tôi có trả lời nhưng họ không tin. Không phải tôi sợ không dám nói, mà đúng vậy - chuyện tra tấn là không có, tôi không thấy.
Nhục hình khác thì có, chẳng hạn những người không chịu khai, hoặc có hành động chống lại trong khi hỏi cung thì bị cùm chân dài ngày, có khi cả tháng. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi nhục hình chưa phải là cái ác lớn nhất. Có cái còn ác hơn.
Do nhu cầu hiểu biết tôi có dịp làm quen với hình pháp học. Những tác phẩm về ngành học này không có nhiều ở nước ta, tôi có được vài cuốn là nhờ người đi nước ngoài mua giùm. Nhưng hồi đó tôi còn nhìn mọi vấn đề qua lăng kính đấu tranh giai cấp, cho nên tôi đọc không công bằng. Chỉ cần thấy Cezare Lombroso(5), Durkheim(6) không phải mác-xít là tôi đã coi nhẹ tác phẩm của hai ông rồi. Trong lĩnh vực này tôi chỉ thừa nhận mỗi một Kudriavsev(7) với những luận điểm siêu hình của ông ta, như sau này tôi hiểu ra. Nhưng cái đáng tiếc nhất là những cuốn sách về khoa học hình sự của cả phe xã hội chủ nghĩa lẫn phe tư bản chủ nghĩa đã chẳng mang lại cho tôi điều gì hữu dụng trong thực tế.
Thành nhận xét trong công tác giam giữ công an Việt Nam về cơ bản du nhập kinh nghiệm Trung Quốc. Gần đây người ta có xu hướng học tập Cộng hòa Dân chủ Ðức, cho rằng trong phe xã hội chủ nghĩa nước này có nhiều thành tựu tiên tiến nhất do phải trực diện đối đầu với đế quốc. Ấy là gần đây thôi, chứ trước kia mọi thứ của Liên Xô đều hay nhất, tốt nhất. Sau Ðại Hội XX người ta coi mọi cái của Liên Xô đều xấu đều dở. Hệ thống trừng phạt vốn đã khắc nghiệt của Liên Xô, theo báo chí phương Tây mô tả, vẫn còn bị phê phán. Người ta nói nó bị ảnh hưởng nặng nề chủ nghĩa xét lại hiện đại, thậm chí trong luật pháp Liên Xô cũng còn đầy rẫy yếu tố tư sản.
Xà lim ở một số trại giam hiện nay được rập khuôn theo hình mẫu Stasi(8), hiện đại hơn của thực dân Pháp nhiều - có nước máy dẫn vào tận nơi, tù cả năm không bước chân ra ngoài trừ khi đi cung, phòng hỏi cung thì lại được đặt ngay trong khu xà lim, tiện lắm. Như vậy khả năng quan sát vị trí nhà tù bị hạn chế tối đa, triệt tiêu ý muốn vượt ngục. Hệ thống nghe trộm điện thoại của Ðức nhập về đã hoàn tất năm 1964.
- Dân có điện thoại đâu mà phải nghe trộm họ nói gì ? - tôi ngạc nhiên.
Vào thời kỳ này hầu như chẳng có nhà dân nào có điện thoại. Tôi nói hầu như cho chắc ăn, lỡ có ngoại lệ nào chăng, biết đâu có nhà được mắc điện thoại mà mình không biết. Ðiện thoại chỉ có ở các cơ quan và trong nhà các ông kễnh(9).
Thành cười khục khục trong họng.
- Các vị theo dõi nhau là chính chứ. - anh thì thào - Ông tưởng các ông kễnh tin nhau lắm sao ? Còn lâu. Thời nào cũng vậy.
Tôi đồng ý với anh. Ðến ngay hoàng đế Napoléon cũng còn sử dụng mật thám riêng nữa là. Có điều mình quen hình dung xã hội chủ nghĩa là tốt đẹp, là tình nghĩa, cho nên mình mới ngỡ ngàng, mình mới cho là không có chuyện đó mà thôi.
Vào thời kỳ có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối việc nhiều nhân vật cao cấp bị công an mật theo dõi không còn là chuyện lạ. Thậm chí các công an viên được phân công theo dõi đại tướng Võ Nguyên Giáp còn khoe với bè bạn công việc vinh quang của họ. Ðến nhà cách mạng cao niên rất mực hiền lành Tôn Ðức Thắng cũng không thoát khỏi con mắt cú vọ của Lê Ðức Thọ. Mà cụ đâu phải người thèm muốn chức quyền. Với đám con cháu, cụ Tôn bảo : "Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa cái con ráy lắm ! Người ta đặt đâu tao ngồi đó, chớ tao không màng cái chức chi hết". Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm việc gì khác ngoài một việc cụ thích thú hơn cả là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày trước buồn tay buồn chân. Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn. Thương cụ quá, đôi khi họ còn làm cho xe trục trặc đi để dắt đến nhờ cụ sửa giùm. Một người bạn tôi quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ, kể rằng một hôm anh đến thăm cụ, vào thời gian Nghị quyết 9, thì cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào :"Mầy có thấy lính kín(10) theo mầy tới đây không mầy ?" Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu :" Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu".
Tôi ngày càng mến Thành. Tuy nhiên, tôi vẫn tránh đụng chạm tới chuyện chính trị. Nhưng có chuyện gì ở nước này mà không dính dáng tới chính trị kia chứ ? Ðành phải ngậm miệng khi Thành vô tình hỏi đến vụ án chúng tôi. Thành linh cảm được điều đó và anh lảng xa vùng cấm. Tôi chắc Thành cũng biết mong manh về tôi. Anh không có ý moi móc những gì tôi không muốn nói, và là cái công an muốn biết. Rất có thể người ta đã chiêu mộ anh làm chỉ điểm, cái thế của anh buộc anh phải nhận, không nhận không xong với họ, nhưng trong thâm tâm anh không tán thành việc làm vô sỉ đó, vì thế anh nhận đấy nhưng lại hành động ngược lại. Mấy ngày ở gần anh cho tôi cảm giác như vậy. Ðể giúp tôi đối phó với chấp pháp anh kín đáo đưa ra những lời khuyên dưới dạng những câu chuyện kể về đời tù, những chuyện tiếu lâm vô thưởng vô phạt. Nhờ những lời khuyên của anh tôi biết cách ứng xử khéo léo hơn trong những cuộc hỏi cung, và nói chung chúng rất có ích cho tôi trong cuộc sống trong tù những năm sau.
Ngoài sân, con chó béc-giê được thả vào. Nó bắt đầu lồng lộn trong những chồng tôn vứt hỗn độn. Nhưng chúng tôi đã quen rồi.
Phía xà lim xế cửa có tiếng sụt sùi.
Thành nói anh tù vừa được tin mẹ chết. Anh này nằm xà lim đã hơn ba năm. Bình thường là người tù có kỷ luật bỗng dưng anh ta nổi khùng, chửi loạn xạ từ ông quản giáo đến ông Ðảng, ông Nhà nước. Phớt lờ những hình phạt mà người tù xà lim nào cũng sợ, anh ta cứ chõ ra hành lang mà kể lể. Rằng mẹ anh ta ở nhà chết đói mà anh ta chẳng tội tình gì thì cứ phải ở mãi nơi này. Rằng anh ta là đứa con duy nhất, tại Ðảng mà trở thành bất hiếu, không nuôi được mẹ, để mẹ chết thảm. Quản giáo rầm rập chạy vào, đè nghiến anh ta xuống, nhét giẻ vào miệng, cùm lại. Việc xảy ra buổi sáng, lúc tôi đi cung. Nhân sự kiện này Thành kể cho tôi nghe ở một số trại còn có cả dụng cụ chuyên dùng để bịt miệng những người tù kêu la. Nó trông tựa cái hàm thiếc ngựa. Nếu người tù chửi bới, anh ta sẽ bị đóng hàm thiếc vào, cùm chân lại, cho tới khi thôi chửi bới. ê trong khu xà lim chuyện này thường xảy ra. Chẳng phải những người tù có tư tưởng chống Ðảng chống điếc gì hết. Bị giữ trong xà lim quá lâu, thế là vào một ngày nào đó họ nổi cơn điên.
K. Mác viết trong cuốn Gia Ðình Thiêng Liêng rằng chế độ giam giữ người trong xà lim cá nhân quá lâu là vô nhân đạo. "Con người chỉ có thể chịu đựng một sự giam giữ như thế trong giới hạn năm năm. Vượt quá giới hạn này người bị giam sẽ mất trí", ông nhận định như vậy trong khi điểm cuốn Những Bí Mật Thành Paris của Eugène Sue.
Những kẻ tự xưng là học trò Mác, là người kế tục sự nghiệp của Người (viết hoa) đang thực hiện điều mà Mác lên án.
Tôi muốn an ủi Mác quá : thôi mặc họ, ông ơi, chấp làm gì ba cái chuyện vặt ! Mà ông cũng chẳng phải xấu hổ - đám mao-ít vô học và thất học nọ có bao giờ là học trò ông đâu. Họ chưa bao giờ đọc ông, trừ những cuốn giản lược mà nội dung đã bị vo tròn bóp méo đến mức, nói thật, đến mức chính ông cũng không nhận ra là của ông nữa. Ông không biết đấy thôi, Mác của tôi ơi, chứ sách của ông cũng bị làm mồi cho lửa đấy. Cùng với sách của các đại văn hào được cả loài người kính trọng. Nói cho công bằng, những nhà chuyên chính vô sản ở nước tôi cũng không chủ bụng đốt sách của ông đâu, dù sao ông cũng được họ tôn làm thầy kia mà, cũng xưng là trò của ông kia mà. Khốn nạn là sách của ông, cũng như sách của bất cứ ai, phàm được in bằng tiếng Tây, đều bị đốt tất, không cần phân biệt, trong những đợt truy quét văn hóa độc hại. Cũng có một số sách may mắn không bị đốt mà chỉ bị thu, chúng được chất thành đống trong kho Hỏa Lò. Chính mấy anh bạn công an đã tha về cho tôi một số sách của ông, và của cả ông Engels nữa, từ khi tôi còn chưa biết Hỏa Lò là thế nào.
Ông nên lấy làm mừng đã ra đời ở một thế kỷ khác, ở một nước khác, chứ không phải ở Việt Nam (hay Trung Quốc, hay Bắc Triều Tiên) trong những năm rồ dại này. Với tư tưởng ngạo ngược của ông, tôi đoan chắc ông phải ở đâu đây, bên cạnh tôi, trong một xà lim nào đó.
Xà lim Hỏa Lò làm cho con người mất trí nhanh hơn xà lim thời ông nhiều, Mác ạ.
Với sự giúp đỡ của những con chó.

(1) Mọi người bị bắt đều bị gọi chung là phạm, gọi tắt phạm nhân.
(2) Làm mẫu cho học trò học.
(3) Anh ơi anh, tắt đèn đi ngủ.
(4) Sau khi ra tù tôi mới được biết các ủy viên Trung ương Ðặng Kim Giang, Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm và các cán bộ Trung ương Hoàng Minh Chính, Vũ Ðình Huỳnh, Lưu Ðộng... bị khai trừ cùng một lúc vào tháng 5 năm 1968.
(5) Cezare Lombroso (1836-1909) bác sĩ thần kinh, giáo sư pháp y ở Turin (Italia). Cùng với Enricco Ferri (1856-1929), Raffaele Garofalo (1851-1954) sáng lập ra trường phái hình pháp học nhân chủng, chủ trương nguồn gốc tội phạm nằm trong sự cấu thành con người về mặt nhân chủng, nói cách khác, những tên tội phạm sống trong xã hội loài người như một loại hình riêng xét về nhân chủng học.
(6) Emile Durkheim (1858-1917), nhà xã hội học người Pháp, tác giả Le Suicide (Kẻ Tự Sát) và cùng với Adolf Prins, tác giả La Défense Sociale et Les Transformations du Droit Pénal (Sự Phòng Vệ Xã Hội và Những Biến Thể của Luật Hình), được các nhà tội phạm học châu Âu ngưỡng mộ bởi cách lý giải nguồn gốc tội phạm từ những điều kiện xã hội.
(7) Kudriavsev, tác giả cuốn Hình pháp học - Kriminologia), được coi như sách gối đầu giường của công an các nước xã hội chủ nghĩa, giải thích nguồn gốc tội phạm như hậu quả của xã hội có giai cấp, nơi ngự trị những quy luật người bóc lột người. ê Việt Nam tôi không thấy có bản dịch cuốn này, hoặc nó có ở dạng tài liệu nội bộ mà tôi không biết.
(8) Staatssicherheitsdienst, Bộ Mật vụ quốc gia của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Ðức, tồn tại từ năm 1957 tới năm 1989. Cơ quan này có 85.000 nhân viên và 500.000 chỉ điểm viên. Người lãnh đạo Stasi từ năm 1957 là Erich Mielke, bị tống giam năm 1989.
(9) Ông to, quan lớn.
(10) Mật thám, cách gọi thông thường ở miền Nam hồi trước.

:::Vũ Thư Hiên:::
Ðêm giữa ban ngày
Chương 12

Sáng chủ nhật, khác với thường lệ, tôi bỗng bị gọi đi cung.
Khi Hách mở cửa, tôi còn ngái ngủ. Ngày thường tù xà lim phải dậy sớm để lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng đi cung, tuy chuyện đi cung đối với số đông tù xà lim chỉ năm thì mười họa. Cũng theo quy định, khi quản giáo mở cửa cho tù đi đổ bô, rửa ráy và ăn sáng thì tù phải ăn vận nếu không tề chỉnh thì cũng không được lôi thôi. Cái đó chứng tỏ sự tôn trọng chính quyền. Tiếng là ăn sáng, là điểm tâm cho oai, chứ cái suất ăn sáng ở đây chỉ điểm vào cái tâm mình một cái khe khẽ gọi là có. Một khúc sắn ôi, ba củ khoai hà - bữa lót dạ cho tù là thế.
Chủ nhật tù không có tiêu chuẩn ăn sáng, quản giáo vào xà lim chậm, cho nên tha hồ dậy muộn. Cứ tưởng trong xà lim ngày nào cũng như ngày nào, hóa ra không phải. Người tù xà lim cũng như người ở ngoài kia, cũng ngong ngóng mong chủ nhật như thường, không phải vì nó là ngày nghỉ, mà vì nó là cái mốc thời gian. Mỗi chủ nhật qua đi là anh ta tiến gần thêm cái đích trở về ở chân trời xa tít. Còn có một nét tâm lý này nữa : được một ngày khác với ngày thường, dù sao cũng vẫn là ngày không bị dựng dậy đi cung, người tù có thể nằm ườn đến tận trưa, cái đó làm cho anh ta thấy mình giống với người ở bên ngoài.
Trong Hỏa Lò hiếm khi tù đi cung vào chủ nhật. Trường hợp đi cung chủ nhật chỉ xảy ra với những can phạm vừa mới bị bắt, mà phải là can phạm trọng án kia, chấp pháp cần lấy cung gấp kia, chứ can phạm thường thì có thể yên tâm ngủ kỹ. Chủ nhật mọi người đều nghỉ, cả kẻ bắt tù lẫn kẻ ở tù. Không hiểu Huỳnh Ngự giở giói bắt tội tôi phải thức dậy khi chưa đẫy giấc làm gì ? Y chưa chán đấu khẩu với tôi sao ?
Tính ra đã bốn tuần lễ trôi qua kể từ hôm tôi bị bắt. Ðúng là thời gian thấm thoắt thoi đưa ! Ấy là nhờ Thành thông báo tôi mới biết chứ tôi chẳng nhớ gì hết. Tôi đã nhất định không tính đếm là không tính đếm. Ðếm những ngày ngồi tù làm gì kia chứ ? Ðể vận công thức nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại ra mà so mình với ông Bành Tổ chăng ? Chao ôi, khi nghĩ tới thời gian thì cái thời gian xà lim nó dài lắm, chẳng có cái thời gian nào dài bằng nó ! Tốt nhất là quên đi, quên ngày quên tháng, quên mẹ quên cha, quên con quên vợ, quên nhiều thứ khác nữa, quên tuốt. Như thế mới chịu đựng nổi, mới không phát điên, mới không xé quần áo chăn màn ra mà bện lấy một sợi thừng treo cổ. Chỗ để treo thì bao giờ cũng có, ở đâu cũng có, mặc dầu thoạt nhìn thì cái xà lim trống trơn có vẻ như chẳng có chỗ nào để mà treo. Thành kể có người tù buộc dây ngay vào cái song sắt bé tí tẹo nơi cửa kiểm tra (le judas) mà treo. Thế mà chết đấy ! Nhưng phải rất quyết tâm kia, phải rất có gan kia : le judas chỉ cao ngang mặt một người tầm thước.
Tôi hình dung mình treo ở cái song sắt đó, đầu ngoẹo về một bên. Không, mình sẽ không chọn cái chết như thế. Trông chẳng ra làm sao cả !
Thỉnh thoảng, như để động viên tôi, Thành lại ngâm nga hai câu thơ chẳng rõ của anh hay của ai :
Còn trời còn đất còn non nước,
Có lẽ ta đâu mãi thế này !
Hách chăm chú quan sát tôi mặc thêm áo bông, đi giày. Tôi cảm thấy cái nhìn của y lướt trên thân mình, như thể cái nhìn của y có sức nặng. Hách có cái nhìn vô tình, nhìn người mà như thể nhìn vào khoảng không hoặc nhìn đồ vật. Dưới cái nhìn như thế người tù thấy mình thuộc về cái phần nhân loại bỏ đi theo cách phân loại nazi(1), không đáng được sống mà đáng quẳng vào lò thiêu. Hách chẳng thương xót cũng chẳng ghét bỏ. Y ở trên cao, dửng dưng ngó xuống.
Cũng có khi tôi tưởng tượng ra điều không có, tôi suy diễn, chứ trong khi đi cùng y ra phòng hỏi cung Hách cư xử với tôi cũng chẳng đến nỗi nào. Ngắm cái đầu bù xù của tôi một lát, y nói bằng giọng khá thân tình :
- Tóc anh tốt rồi đấy ! Chiều rỗi, tôi cắt cho.
Huỳnh Ngự đón tôi trong chiếc áo bông khoác ngoài bộ dạ đen kiểu Tôn Trung-sơn thường lệ. Trời lạnh cắt da. Ngồi trong phòng đóng kín cửa mà tôi vẫn còn thấy cái run từ trong ruột.
Trong tù không có gương. Chẳng biết mình già, trẻ ? Thành vẫn thường ngâm nga câu ấy. Nhìn cổ tay tôi biết mình gày đi nhiều. Còn già đi bao nhiêu thì không biết. Trong Hỏa Lò tôi chưa bao giờ gặp một cái gương. Tôi mới ba mươi tư tuổi. Nỗi lo sợ cái già chưa làm phiền tôi.
Bên ấm trà, Huỳnh Ngự tào lao với tôi một lúc lâu. Qua câu chuyện lấp lửng, đầy những câu úp mở của y, tưởng chừng lấp ló đâu đây, ngay sau lưng y một tương lai nếu chưa sán lạn thì cũng rất dễ chịu - chẳng còn bao lâu nữa chúng tôi sẽ được trở về với gia đình. Rồi đây Ðảng vô cùng anh minh và rất mực nhân từ(2) sẽ bố trí cho chúng tôi mỗi người một công tác thích hợp và một vị trí xứng đáng.
Tôi im lặng nhấp từng ngụm trà đặc, lơ đãng nghe y ba hoa.
Nghe y tán như khướu tôi lại nhớ tới câu nói "nghe Việt Minh nói kiến trong lỗ cũng phải bò ra" mà bật cười. Thế mà hồi trước nghe ai nói thế tôi giận lắm đấy. Tôi cũng là Việt Minh mà. Về sau này, khoảng 1954 trở đi, dần dà thiên hạ biết sợ, không còn ai dám nói cái giọng châm chọc ấy ra nữa.
Một người đàn ông đứng tuổi bước vào, lẳng lặng ngồi xuống ghế bên cạnh Huỳnh Ngự. Người đàn ông có gương mặt xương xương này dường như tôi đã gặp ở đâu đó nhưng tôi không nhớ ra. Chỉ thấy Huỳnh Ngự có vẻ kính nể anh ta, định ngừng lời để chào hỏi, nhưng anh ta phẩy tay ra hiệu cứ tiếp tục. Về sau mới biết là một nhân vật quan trọng - cục trưởng Cục bảo vệ Ðảng Nguyễn Trung Thành.
Ðang thao thao bất tuyệt, bỗng Huỳnh Ngự sực nhớ ra điều gì, y lục lọi trong các túi rồi rút ra một mảnh giấy :
- Nè, anh nhận ra nét chữ ai đây không ?
Y vui vẻ khoắng khoắng mảnh giấy trước mặt tôi.
Tôi nhận ra ngay nét chữ của cha tôi, mặc dầu khoảng cách khá xa. Cha tôi thuộc thế hệ nho học cuối cùng, bỏ chữ nho đi học chữ quốc ngữ. Vào thời ông còn trai trẻ, và rất lâu sau đó, người ta đặc biệt chú trọng chữ viết - học trò phải tập viết nắn nót cho đến khi đạt được cách viết chữ đẹp như chữ mẫu trong sách giáo khoa. Trong học đường giờ viết tập được coi trọng không kém gì các môn học khác. Không hiểu thực dân Pháp cần đào tạo lớp thư lại mẫu mực cho chính quyền thuộc địa hoặc giả nền giáo dục thời trước thích bề ngoài hào nhoáng, nhưng thế hệ cha tôi đã được rèn cặp để viết chữ rất đẹp. Thế hệ tôi viết tồi hơn nhiều. Thế hệ sau tôi còn tồi hơn nữa.
Tôi vờ nheo mắt, chăm chú. Rồi lắc đầu :
- Không, tôi không nhận ra.
Huỳnh Ngự đưa mảnh giấy lại gần thêm chút nữa :
- Nhận ra chưa nào ?
Tôi vẫn lắc đầu.
- Mắt anh kém đến thế kia à ?
- Cũng không đến nỗi kém lắm.
- Vậy mà anh không nhận ra đó.
Y thú vị với trò trẻ con của y.
- Chừ nhận ra chưa ?
Màn kịch hôm ấy về sau hóa ra có lợi. Tưởng tôi cận thị nhẹ không chịu mang kính, Huỳnh Ngự thường hớ hênh để những bản cung trên bàn không che đậy, trong tầm mắt tôi. Nhờ đó tôi biết ai mới bị bắt, ai đã yếu lòng.
- Nè, thư ông già anh gởi cho anh đó ! - Huỳnh Ngự đặt mảnh giấy xuống trước mặt tôi, ôn tồn - Ðọc đi. Tui qua bển một lát.
Y đứng lên cùng với cục trưởng Cục bảo vệ Ðảng. Hai người đi ra ngoài.
Thư cha tôi viết :
"Con của bố,
Bố mấy hôm nay trong người yếu lắm. Bố rất lo lắng cho mẹ và các con ở nhà. Mẹ và các con cứ yên tâm về bố, ở đây bố có đủ thuốc men và được chăm sóc chu đáo. Ðảng bắt bố là việc vạn bất dắc dĩ, Ðảng buộc lòng phải làm như vậy vì bố có tội với Ðảng, Là đảng viên hoạt động cách mạng lâu năm, nhưng bố có khuyết điểm chỉ nhìn thấy những điều bất đồng chứ không nhìn thấy cái chung lớn lao, do thiếu ý thức tổ chức mà phạm vào những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Ðảng. Bố mong con nghe lời bố thật thà báo cáo hết với Ðảng những sai lầm khuyết điểm của mình trong bước ngoặt này của cách mạng. Phương châm của Ðảng là trị bệnh cứu người, chứ với cán bộ cách mạng Ðảng không có mục đích trừng trị. Bố".
Tôi nghiến ngấu đọc bức thư không chờ đợi.
Cảm giác duy nhất của tôi lúc ấy, khi đọc xong, tôi nhớ rất rõ, là xấu hổ, xấu hổ vô cùng. Mặt tôi nóng bừng. Mồ hôi vã ra. Ðúng như người ta thường nói, tôi muốn có một lỗ nẻ để chui xuống đất.
Nguyên nhân nào đã khiến cha tôi viết cho tôi một bức thư như thế ? Chao ôi, đó là cái gì nếu không phải là sự đầu hàng nhục nhã. Trong khi chúng tôi vô tội. Trong khi chúng tôi đang cắn răng lại để được ngẩng cao đầu. Trong khi chúng tôi đang đòi bọn độc tài phải trả lời trước công luận.
Bức thư của ông đặt vào tay chúng bằng chứng nhận tội. Một bức thư không có lợi gì cho chúng tôi. Tôi như nhìn thấy bộ mặt Huỳnh Ngự nhăn nhở trong tiếng cười khoái trá.
Những dòng chữ thân thương của cha tôi quay cuồng trước mắt.
Trời hỡi, cha tôi, mà tôi quen nhìn như một anh hùng, lại hèn nhát đến thế ư ?
Trong phút ấy, lạy Trời, tôi là đứa con bất hiếu ! Tôi chỉ muốn cha tôi chết đi, nhưng hãy chết như một anh hùng ! Tôi không muốn ông sống hèn hạ như thế này ! Chết đứng còn hơn sống quỳ, chẳng phải chính ông đã dạy tôi như vậy sao ?
Chúng tôi, những đứa con của ông, chúng tôi đã yêu ông biết mấy, đã kính trọng ông biết mấy !
í nghĩ đầu tiên đến với tôi là tôi sẽ đứng vững đến cùng. Cha tôi có thể đầu hàng, nhưng tôi thì không(3) !
Trong phút ấy tôi sợ nhất phải gặp Huỳnh Ngự để y nhìn thấy sắc mặt tôi biến đổi. Y có thể quay về bất cứ lúc nào. Cái rét run biến đâu mất. Mồ hôi toát ra. Tôi chưa đầu hàng. Vậy mà cha tôi đã kéo cờ trắng thay cho tôi. Tôi sẽ chẳng dám nhìn thẳng vào mặt Huỳnh Ngự như trước. Nước mắt tôi trào ra.
Tôi cứ ngồi bất động, đọc đi đọc lại bức thư, trong lòng tê tái. Tôi quên hẳn anh chàng công an phụ tá của Huỳnh Ngự vẫn ngồi lặng lẽ trong một góc, một người thấp bé, trán hói, gương mặt hiền lành, giống một thầy giáo làng.
Cục 2(4), người ta kể, có những tay tổ trong nghề giả mạo chữ viết trong bộ phận chuyên làm giả giấy tờ cho các điệp viên. Chưa từng có điệp viên nào bị lộ vì sử dụng giấy tờ của họ. Sau khi hòa bình lập lại (1954) Nha Công an Việt Nam đổi thành Thứ bộ Công an rồi Bộ Công an, Cục 2 đã chuyển cho Cục Tình báo của bộ này một số chuyên gia của nó.
Bức thư có thể là của giả chăng ?
Ðáng buồn cho tôi, càng đọc kỹ, càng xem kỹ, tôi càng tin rằng công an không làm giả bức thư. Chính là nét chữ của cha tôi.
Nhưng tôi cũng không tin cha tôi hèn nhát. Ông không phải người như thế. Cần bình tĩnh tìm bên trong bức thư quá khiêm nhường này những lời nhắn nhủ khác.
Trước ngày bị bắt, công an có chuyển đến cho tôi một bức thư cũng của cha tôi, trong đó ông khuyên tôi đến Ban tổ chức Trung ương để báo cáo về những khuyết điểm của mình. Tôi không tin đó là cha tôi viết. Tôi cũng không đến Ban tổ chức Trung ương. Không dại gì đi nhận những cái tội không có, để Lê Ðức Thọ sử dụng nó vào việc hại người.
Liệu cha tôi có biết tôi bị bắt không ? Căn cứ lời lẽ trong thư, tất nhiên không rõ ràng, thì nhiều phần là không, ông chưa biết tôi bị bắt. Thì đây, nếu biết tôi bị bắt ông đã không viết "bố rất lo lắng cho mẹ và các con". Như vậy là ông viết trong hoàn cảnh muốn bảo vệ vợ con trước sự đe dọa của những kẻ nắm quyền. Cha tôi muốn cứu tôi. Ông sợ nếu tôi cũng bị bắt nốt thì một mình mẹ tôi sẽ khó bề xoay xỏa.
Tại sao bức thư lại bị cắt ngắn ở phía dưới. Phải chăng người ta đã cắt đi dòng đề ngày tháng ? Hoặc ở đó có dòng tái bút không vừa ý kẻ kiểm duyệt ?
Tại sao ông lại viết : "Bố rất lo lắng cho mẹ và các con" ? Cái gì làm ông phải lo lắng ? Ông lo ông bị bắt, không có lương của ông thì mẹ tôi không nuôi nổi con cái chăng ? Ðành rằng Ðảng đã xích chặt cán bộ với mình bằng đồng lương - cán bộ đã quen sống bao cấp đến nỗi anh ta không thể sống nổi nếu như anh ta bị cắt lìa khỏi cái vú Nhà nước. Mẹ tôi là người tháo vát. Bà có thể ra đường với một gánh hàng rong chứ không chịu vì mình mà chồng phải khuất phục cường quyền. Ông rất hiểu điều đó. Chưa bao giờ tôi thấy ông viết một câu tương tự trong những bức thư gửi cho mẹ tôi. Mẹ tôi đã cho ông thấy không phải một lần rằng bà biết tự mình chèo chống khi vắng ông. Mà ông thường xuyên vắng nhà trong cuộc đời hoạt động cách mạng của hai người.
Ghép những câu đùa bỡn của bạn bè cha mẹ tôi với những câu chuyện mẹ kể về thời trẻ của hai ông bà, tôi mường tượng ra mối tình của hai người. Nó bắt đầu từ cuộc gặp gỡ giữa hai tổ chức yêu nước để bàn việc hợp nhất. Tổ chức của mẹ tôi gồm một nhóm nữ sinh tự động kết hợp với nhau mà thành(5). Trong sách sử người ta ghi lại tình hình này bằng câu : các tổ chức cách mạng mọc lên như nấm. Trong thời kỳ này mẹ tôi, một nữ sinh, đã cùng các bạn học tổ chức cuộc bãi khóa bảo vệ Phạm Tất Ðắc(6), tác giả bài thơ nổi tiếng Chiêu Hồn Nước.
Thành lập năm 1925, Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội hồi bấy giờ đã là một tổ chức vững chắc, có uy tín trong dân chúng. Cha tôi đại diện cho tổ chức này đi chắp nối với các tổ chức yêu nước khác, kêu gọi hợp nhất để tăng thêm sức mạnh. Mối tình của hai người nẩy nở từ những cuộc gặp gỡ đó(7). Ðó là một mối tình lãng mạn, đầy chất thơ cộng với lòng yêu nước của những con người bất bình với thân phận nô lệ.
Chúng tôi lần lượt ra đời. Không thể nào cả hai ông bà cùng đi hoạt động để không còn ai trông nom dạy dỗ con cái. Trong hai người phải có một người ở nhà làm việc đó. Người phải ở nhà tất nhiên là mẹ tôi. Bà vừa trông con, vừa làm các công tác thích hợp được Ðảng giao phó - lo toan kinh tế cho đoàn thể, giữ liên lạc với các đồng chí. Các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu, Trần Ðình Long, Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh, Lê Quang Ðạo, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Ðăng Ninh, Khuất Duy Tiến, Ðặng Châu Tuệ, Ðặng Kim Giang, Bùi Lâm, Ðặng Việt Châu... đều đã qua lại cơ sở được đảm bảo chắc chắn này của cách mạng.
Vậy thì lần này, lần kế tiếp của những sóng gió xảy ra trong cuộc đời đôi vợ chồng cách mạng, cái gì đã làm cho cha tôi lo lắng đến như thế ?
Tôi suy nghĩ rất lung.
Cuối cùng rồi tôi cũng nhận ra những lời đích thực mà cha tôi muốn nhắn nhủ, đặt những dòng viết vào trong văn cảnh thời hiện tại : "bố lo bọn chúng sẽ không từ một thủ đoạn khủng bố nào để đàn áp những người dám cưỡng lại ý chúng.."
Chính mẹ tôi cũng đã căn dặn chúng tôi :
- Xem ra chuyện này không đơn giản đâu, các con ạ. Nó không phải chuyện địch dựng vụ để ta tàn sát lẫn nhau như đã từng xảy ra(8). Có điều chính quyền ngày nay không phải của ta nữa rồi. Bọn lợi dụng thành quả cách mạng chỉ chưa xưng vương được mà thôi. Chúng đã leo được lên đầu lên cổ nhân dân, chúng sẽ không dừng lại. Phải biết giả câm giả điếc mà sống qua giai đoạn này. Nếu chúng nó bắt mẹ thì Hiên trông các em. Nếu Hiên cũng bị bắt thì đến Phương...Cứ thế mà trông nom nhau.
Bà đưa chúng tôi vào Hà Ðông để thăm bác Ðinh Chương Dương.
Bác Ðinh là người đưa cha tôi vào đường cách mạng, cho nên cha tôi coi bác như nghĩa huynh. Hai người gặp nhau khi cha tôi còn là một học sinh 15 tuổi, tại thị xã Tuyên Quang. Ông Vũ Ðình Linh, anh cả của cha tôi, hồi ấy làm công chức cho Pháp trên cái tỉnh mạn ngược này. Những người tù chính trị làm cỏ-vê(9) ở núi Cố đã giác ngộ lòng yêu nước cho cha tôi, trong đó bác Ðinh gần gụi với cha tôi hơn cả. Cha tôi đã nhịn quà sáng, xin thêm tiền chị dâu để sắm quần áo cho cuộc vượt ngục của bác Ðinh và một số đồng chí. Sau đó, mất liên lạc với bác Ðinh, cha tôi tự viết truyền đơn, tự tay đi rải ở thị xã Thái Bình và bị bắt lần đầu.
"Huỳnh ơi ! Huỳnh ơi ! Huỳnh ơi !", nghe tin dữ bác Ðinh đang nằm liệt đập tay xuống giường kêu lên ba lần, khóc nức nở. Nhìn người già lăn lộn khóc lóc, lòng tôi đau quặn. Mẹ tôi nói với bác Ðinh :"Em cũng có thể bị chúng nó bắt, bởi vì em cũng biết nhiều điều bí mật chồng em biết. Nếu em bị bắt thì cháu Hiên sẽ thay mặt vợ chồng em vào thăm bác, cháu Hiên bị còn cháu Phương, còn lại một đứa nào trong mười đứa con em thì còn có đứa vào đây thăm bác". Rồi mẹ tôi nghẹn ngào, nụ cười méo xệch :"Ðẻ nhiều đâm ra những lúc như thế này lại có lợi, bác ạ !". Bác Ðinh hỏi tôi :"Cháu có nhớ chuyện "giật giải mũ"(10) không ?". Tôi thưa có. Bác nói :"Người xưa còn thế được, người nay mà thế a ?!".
Mẹ tôi ít đọc sách, nhưng trái tim trong sáng luôn mách bảo bà, giúp bà nhìn thấu bản chất sự việc. Tại sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ ? Phải chăng trong góc sâu kín nào của tâm hồn tôi vẫn còn ngờ có những điều cha tôi giấu tôi. Phải chăng vì ông giao du với những người mưu toan cướp chính quyền nên lãnh đạo Ðảng mới bắt ông ? Nhiều người ngây thơ cũng đã nghĩ như tôi, sau này ra tù rồi tôi mới được biết. Chúng tôi tin Ðảng, như bây giờ người ta nói, hơi bị nhiều.
Dưới thời Sta-lin không ít người cộng sản vô tội bị hãm hại, giờ ai cũng biết. Ðiều ít ai biết là những người này, sau một thời gian được xử lý tại các xà lim, đã nhận những tội họ không hề phạm, đã nói những lời ăn năn, hối lỗi. Những nhà nghiên cứu đã tìm hiểu hiện tượng này và họ thống nhất trong nhận định : nguyên nhân của sự đầu hàng chóng vánh là bộ máy đàn áp hứa hẹn chắc chắn sẽ thanh toán cả gia đình họ nếu họ không chịu nhận tội. Trong nỗi tuyệt vọng trước viễn cảnh đen tối những người bị trấn áp chỉ còn một con đường duy nhất : làm ra vẻ khuất phục để ít nhất cũng cứu được vợ con(11).
Huỳnh Ngự nhắc khéo tôi :
- Hôm rồi vợ anh dắt các cháu tới đây xin cho các cháu gặp ba ! Các cháu xinh xắn hỉ ? Chị khóc, các cháu khóc, chúng nó nhớ ba, trông mà ái ngại. Anh phải nghĩ tới vợ con anh chớ. Ai cho vợ một tên chống Ðảng ở trong biên chế Nhà nước ? Mất việc rồi lấy chi nuôi con ? Rồi đây con cái anh sẽ ra sao ? Chúng nó sẽ đứng đường một khi anh vẫn ngoan cố, vẫn không chịu hối cải để được Ðảng khoan thứ(12). Ðừng sợ Ðảng trừng trị mà giấu giếm tội lỗi. Hãy lo mình chưa tận trung. Ðảng bao giờ cũng giơ cao đánh sẽ...
Một hôm khác y dụ dỗ :
- Này, anh phải cố gắng lên chứ. Anh Sáu nói ảnh sẽ bố trí thời gian cho anh được gặp đấy. Nhưng anh phải thế nào chứ cứ thế này thì ảnh chẳng cho gặp đâu. Ðược gặp anh Sáu anh cứ xin ảnh, biết đâu ảnh chẳng thương tình mà cho về...
- Tôi không hiểu cố gắng nghĩa là thế nào.
- Còn nghĩa là thế nào nữa ! Là phải thành khẩn khai báo, phải nhận mọi tội lỗi với Ðảng, thì Ðảng sẽ khoan hồng.
Cha tôi nói ông "có tội với Ðảng...thiếu ý thức tổ chức, do đó phạm những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Ðảng". Những sai lầm nghiêm trọng nào ? Ông nhận tội gì kia chứ ? Ông nhận ông thiếu ý thức tổ chức, nhưng ý thức tổ chức là cái gì khi chính cái tổ chức không còn là tổ chức của ông ?
Thời gian cuối trước khi hai cha con bị bắt, do thường xuyên công tác xa nhà tôi ít có dịp gần cha tôi. Qua những buổi tâm sự rời rạc tôi hiểu cha tôi cuối cùng đã giác ngộ được điều mà người ngoài Ðảng đã biết từ lâu : Ðảng không còn là đảng trước kia nữa.
Tôi không tin ông chống Ðảng theo quan niệm thông thường. Do tính cố chấp nhà nho, lòng ông bất nhẫn khi phải chống lại tổ chức mà trước kia ông từng là thành viên.
Hay ông bị người khác lôi cuốn vào những việc làm chống Ðảng mà chính ông không biết ? Có thể người ta lợi dụng ông, người ta cần đến những nhà cách mạng lão thành như cần một ngọn cờ ? Chuyện đó cũng không thể có. Ông không đến nỗi ngây thơ để bị lợi dụng. Ông cũng chưa lú lẫn. Trong ông niềm tin ở Ðảng chưa tắt. Ông vẫn hi vọng Ðảng sẽ thay đổi. Không thể nào một Ðảng đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc như thế lại không hiểu được rằng nền độc lập sẽ không thể là độc lập khi lệ thuộc ngoại bang, rằng tự do không thể là tự do nếu không có tự do tư tưởng.
Vậy thì mâu thuẫn gây ra cuộc trấn áp tàn bạo chỉ nằm trong sự không đồng nhất của những quan điểm về chủ nghĩa cộng sản chăng ?
Khi Lê Ðức Thọ xưng "Ðảng là tao !", khi Lê Duẩn tuyên bố "Kẻ nào không theo ta, kẻ đó chống ta", thì bất cứ ai nghĩ khác họ trong bất cứ lĩnh vực nào cũng là kẻ chống Ðảng. Và kẻ chống Ðảng phải bị trấn áp.
Nhờ ảnh hưởng văn hóa phương Tây, ảnh hưởng tinh thần tự do của Ðại Cách mạng Pháp, cha tôi không sùng bái cá nhân. Tuy nhiều năm làm việc với ông Hồ, cha tôi chỉ kính trọng ông như kính trọng một nhà cách mạng kiên cường, một nhà lãnh đạo tài ba, nhưng không bao giờ mù quáng sùng phục ông Hồ. Với cha tôi, không có thánh nhân trong các đồng chí. Mỗi người cộng sản lãnh một chức trách để thực hiện mục đích của cách mạng. Vị trí anh ta ở đó, giá trị anh ta cũng ở đó. Ông khinh bỉ thói luồn cúi.
Cũng không phải ông Hồ Chí Minh khó chịu với cha tôi mà cho Lê Ðức Thọ bắt ông. Giữa hai người quả đã có những mâu thuẫn về quan điểm đối với vấn đề ruộng đất, trong thái độ đối xử với trí thức, với những nhà tư sản và địa chủ yêu nước. Lê Ðức Thọ, và rất có thể cả Lê Duẩn, chắc phải xúc xiểm nhiều lắm, bịa đặt nhiều lắm mới làm cho ông Hồ bằng lòng bỏ tù một loạt cán bộ có công với cách mạng.
Cha tôi khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong sự gây ra những sai lầm trong Cải cách ruộng đất là ông Hồ Chí Minh chứ không phải Trường Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ.
Nhưng, lại cũng công bằng mà nói, ông Hồ không hề có ý định làm Cải cách ruộng đất trong kháng chiến chống Pháp. Ông không muốn khuấy động sự ổn định của chính quyền cách mạng trong lúc trước mặt là kẻ thù xâm lược. Ông đã buộc phải làm Cải cách ruộng đất khi bị Mao nhắc nhở. Trong quyết định này khía cạnh tâm lý có tầm quan trọng lớn : ông Hồ không muốn bị vu vạ thêm một lần như ông đã từng bị vu vạ rằng ông là người không có lập trường cách mạng kiên quyết.
Như vậy, Cải cách ruộng đất được quyết định trong hoàn cảnh có sự thúc ép mạnh mẽ từ bên ngoài. Nó bắt đầu vào những năm 1953-1954, khi tình hình các chiến trường, tình hình trong nước và thế giới trở nên đặc biệt thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp, làm cho ông Hồ có cảm giác chiến thắng cuối cùng đã gần kề.
Những nhân vật kế cận ông Hồ như Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Hoàng Văn Hoan(13), Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt... vốn là những mao-ít nòi. Họ vừa thúc bách ông, vừa hùn vào quyết định còn đang lung lay của ông. Tuy nhiên, đối với ông Hồ Chí Minh họ lúc nào cũng giữ tư cách những học trò khiêm tốn. Bên cạnh ngôi sao sáng Hồ Chí Minh tổng bí thư Trường Chinh không có vai trò lớn như nhiều người lầm tưởng. Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp không bao giờ dám, và cũng không bao giờ được phép tự mình quyết định những chủ trương lớn.
Vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, khi ở vùng tự do Thanh hóa, Nghệ An thuộc Liên khu 4 cán bộ giảm tô giảm tức kích động nông dân hành hạ dã man những địa chủ, nói cho đúng là những nông dân giàu có, cha tôi tức tốc lên Việt Bắc báo cáo tình hình xảy ra với chủ tịch. Ông Hồ hốt hoảng hạ lệnh đình chỉ tức khắc cuộc giảm tô giảm tức cường đạo và gửi thư xin lỗi đồng bào.
Ông đã nghe cha tôi vào thời kỳ ấy, nhưng đến Cải cách ruộng đất thì ông không nghe nữa. Lúc ấy ông đã bị các cố vấn Trung Quốc và những lý thuyết gia mao-ít nội hóa thuyết phục. Ông nghe làm sao được khi trên báo Nhân dân ngày nào cũng tràn ngập tin tức về những thắng lợi rực rỡ của cuộc cách mạng long trời lở đất.
Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì nó mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người muốn bào chữa cho ông là chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không chỉ cứu một bà Nguyễn Thị Năm(14), nó còn cứu hàng ngàn người bị giết oan trong cả Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông Hồ đã không cứu bà Năm. Ông không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê. Nhưng đã muộn.
Trong những ngày u ám đó cha tôi được cử làm bí thư Ðoàn ủy một đoàn Cải cách ruộng đất. Là người có kinh nghiệm vận động quần chúng, ông thấy Cải cách ruộng đất đang mắc sai lầm. Nó đi chệch mục tiêu "người cày có ruộng", biến thành một cuộc tàn sát chỉ để tàn sát, một dịch cuồng amok(15) của châu ỏ. Trong cuộc đời cách mạng của ông, ông đi nhiều, tiếp xúc nhiều, ông hiểu đất nước ông, ông hiểu đồng bào ông. Ông không tin kết luận của các thầy Tàu nói phàm nông dân giàu có đều là địa chủ chống cách mạng, chống kháng chiến. Ông tin ở lòng yêu nước của đồng bào. Chính những nông dân giàu có, những địa chủ nhỏ, theo ông, là những người sớm giác ngộ cách mạng do ý thức được phải tự giải phóng khỏi thân phận nô lệ hơn lớp bần cố nông do quá nghèo đói và mù chữ không có điều kiện tiếp xúc với trí tuệ cách mạng. Những nông dân giàu đã có công lớn trong việc nuôi cán bộ, bộ đội trong những ngày đầu kháng chiến, khi chính quyền cách mạng còn trứng nước. Không phải sự nghèo khổ làm cho người ta có ý thức cách mạng. Trong chuyện này người ta quên hẳn lời những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác " í thức cao nhất của công nhân chỉ là ý thức công đoàn".
Sự tráo trở được dựng thành lý thuyết : những nhà giàu mà người ta gọi bằng các nhà hằng tâm hằng sản khi cần đến sự giúp đỡ của họ chỉ là đồng minh giai đoạn, gọi theo đúng chữ dùng trong các tài liệu học tập cho cán bộ. Giờ đây, khi cách mạng đã qua cái giai đoạn cần họ thì họ bị coi như kẻ thù.
Lại một lần nữa, cha tôi bỏ công việc về Hà Nội gặp ông Hồ Chí Minh. Ðang trong cơn đau gan nặng, ông chống gậy lên Chủ tịch phủ. Ông nói lớn với ông Hồ :"Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác còn ngồi yên được à ? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào, đồng chí !(16)"
Sau sai lầm Cải cách ruộng đất ông Hồ và những người phụ tá luôn bị ám ảnh rằng mọi người đều lên án họ. Do đó ai nói đụng tới Cải cách ruộng đất cũng đều làm cho họ khó chịu. Trường Chinh ngay trong Cải cách ruộng đất đã phàn nàn rằng cha tôi giờ bất mãn với Ðảng, trở thành cái loa cho bọn tư sản, địa chủ.
Mà cha tôi bất mãn thật. Ông bất mãn về nhiều việc làm của Ðảng mà ông cho là không quân tử, không đạo đức. Ông bất mãn vì nhìn thấy cuộc cách mạng mà ông tham gia cuối cùng đã dựng nên một xã hội không tử tế.
Ông không bằng lòng cách Ðảng giải quyết vụ Nhân văn-Giai phẩm, trấn áp và hạ nhục nhiều trí thức và văn nghệ sĩ, là những người có tâm huyết với đất nước. Ông buồn rầu nói với các bạn : "đối xử với nhân sĩ, trí thức như thế không phản động họ cũng thành phản động".
Cha tôi thương Nguyễn Hữu Ðang, đồng chí của ông từ thời kỳ hoạt động bí mật. Khi ở Liên Xô về, tôi hỏi ông về vụ Nhân văn - Giai phẩm thì cha tôi nói :"Ðó là một vụ bày đặt. Nguyễn Hữu Ðang đâu có ý định chống Ðảng. Anh ta chỉ muốn cách mạng tốt hơn. Vu oan giá họa cho người ta là không quân tử". Ông Ðặng Kim Giang có mặt hôm đó nói :" Ðang cũng có khuyết điểm, lúc Ðảng gặp khó khăn làm tình hình đã rối rắm rồi lại càng rối rắm thêm, thì không nên. Nhưng cách Ðảng giải quyết vụ này cũng rất tồi". Ông kính trọng sĩ khí của cụ Phan Khôi(17) :"Ðó là một nhà nho đúng nghĩa nhà nho, không biết cúi đầu. Có thể tranh luận với ông ấy, nhưng dùng lối bịt miệng, vu cáo người ta thì hèn quá !"
Vào thời kỳ ấy, cả cha tôi, cả ông Ðặng Kim Giang, và nói chung những người cộng sản thuộc thế hệ già, chưa thoát khỏi cách suy nghĩ bị trói trong khuôn phép của cái gọi là ý thức tổ chức. Họ không đồng tình với Ðảng đấy, nhưng họ chỉ biết than thở với nhau. Nếu thấy hậu quả việc làm của Ðảng không đến nỗi quá tai hại, quá nghiêm trọng, theo như họ nghĩ, thì họ buồn rầu cho qua, tôn trọng quyết định của lãnh đạo.
Những chính sách của Ðảng sau khi Lê Duẩn lên ngôi làm cho cha tôi không bằng lòng ngày một nhiều thêm. Mỗi ngày ông xa Ðảng thêm một chút.
Cha tôi không bằng lòng việc đẩy nhân sĩ trí thức ra ngoài bộ máy Nhà nước để thay vào đó những đảng viên bất tài, kém học. Ông cảm thấy ông có lỗi với những người trước kia ông vật nài, lôi kéo họ tham gia chính phủ lâm thời năm 1945-1946, như các ông Nguyễn Văn Tố, Bùi Bằng Ðoàn, Phan Kế Toại, Hoàng Minh Giám, Ðặng Phúc Thông, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Văn Huyên, Hồ Ðắc Di, Trần Ðăng Khoa, Vũ Ðình Tụng(18)... Chế độ đảng trị càng vững chắc thì quyền dân chủ của nhân dân càng mỏng manh, càng bị cắt xén.
Cha tôi cũng không đồng tình với đường lối lấy chiến tranh làm phương sách duy nhất để thống nhất đất nước. Ông cho rằng từ giữa thập niên 50 tình hình thế giới đã có những tiền đề thuận lợi cho việc giải quyết các cuộc tranh chấp mà không cần tới bạo lực. Cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt giữa hai miền Nam Bắc đem đến đau khổ cho mọi nhà. Cần phải tích cực tìm kiếm giải pháp hòa bình, chứ không loại trừ nó ngay từ đầu. Không tìm là sai lầm. Tìm mà không được là chuyện khác.
Nhân chuyện thống nhất đất nước, tôi xin nói tới một mẩu lịch sử ít người biết. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Ngô Ðình Diệm(19) bị bắt. Tại Hà Nội ông Diệm bị giam không phải ở Hỏa Lò mà ngay trong Bắc bộ phủ. Theo ông Chu Ðình Xương, nguyên giám đốc Sở Liêm phóng Hà Nội, thì việc Ngô Ðình Diệm bị giam tại Bắc bộ phủ là do ông Hồ Chí Minh quyết định. Tại sao ông Hồ lại có quyết định đó thì ông Chu Ðình Xương không hiểu. Rất có thể do những dây mơ rễ má nào đó giữa gia đình ông Hồ với các quan lại triều Nguyễn trong quá khứ mà ông Hồ Chí Minh lo cho số phận của Ngô Ðình Diệm, không muốn để mặc tính mạng con người nổi tiếng chống Cộng này nằm trong tay những đồng chí nóng tính.
Cha tôi là người giữ chìa khóa phòng giam. Ðến bữa, cảnh vệ lên lấy chìa khóa, cho Ngô Ðình Diệm ăn xong thì nộp lại. Một hôm, ông Hồ bảo cha tôi :"Chú Huỳnh ạ, tôi tính nên thả ông Diệm. Mình làm ân cho người ta tốt hơn là làm oán". Cha tôi bàn với ông Lê Giản(20). Hai ông cho rằng để ngăn ngừa những hành động chống cách mạng của ông Diệm cách tốt nhất là để cho ông ta được hưởng chế độ câu lưu tại Việt Bắc. Ông ta sẽ sống như dân thường, chỉ bị hạn chế tự do đi lại mà thôi.
Ông Hồ Chí Minh bỏ ngoài tai ý kiến phản bác, ông đã định thả là ông thả :"Các chú không ở Huế không biết, chớ dân Huế có câu "Ðầy vua không Khả, đào mả không Bài(21). ", là nói về cụ thân sinh ông Diệm đấy. Vị người cha thả người con là điều nên làm lắm chứ. Các chú không nên hẹp hòi!"
Nhiều người nhận xét khi ở cương vị tổng thống Việt Nam Cộng hòa ông Ngô Ðình Diệm không bao giờ có những lời khiếm nhã đối với chủ tịch Hồ Chí Minh. Một trong những nguyên nhân, theo tôi nghĩ, có thể là do ông Diệm không quên ơn ông Hồ đã tha mạng mình, là điều không phải khó hiểu.
Cho tới khi cuộc đấu tranh giữa hai đường lối nổ ra ráo riết thì Hồ Chí Minh rơi vào tình trạng khó xử. Ông vốn không mấy quyết đoán trong đấu tranh nội bộ. Ông thích cái sự ăn ở hòa thuận, có gì không nên không phải thì cùng nhau bàn bạc giải quyết, đã là anh em một nhà thì đóng cửa bảo nhau, không nên chửi bới, lại càng không nên thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Chính ông, chứ không phải ai khác trong những nhà lãnh đạo cách mạng, đã viết như sau :"Nghe người ta nói đấu tranh giai cấp mình cũng ra khẩu hiệu đấu tranh giai cấp mà không xét hoàn cảnh nước mình thế nào để làm cho đúng(22)". Ông ngán cái cảnh đấu tranh giai cấp mà ông được thấy tận mắt ở nước Nga xô-viết sau khi Lênin qua đời.
Những người gặp ông Hồ Chí Minh kể lại rằng nhìn tình hình loạn lạc bên nước láng giềng, ông tỏ ra rất lo lắng, ông không muốn Việt Nam bị cuốn vào cuộc đấu tranh lý thuyết đã vô bổ mà còn có thể gây ra cảnh nồi da nấu thịt.
- Ông Cụ phiền muộn vì cái vụ Liên Xô Trung Quốc chửi nhau này lắm. - thiếu tướng Lê Liêm kể cho tôi sau một lần gặp Hồ Chí Minh - :Ông Cụ nói với tôi : thế này thì phe xã hội chủ nghĩa còn mặt mũi nào nữa trước các nước nhược tiểu, người ta trông cậy vào mình. Trong nhà còn lục đục, nói ai người ta nghe...
Khi ban lãnh đạo Ðảng ngả theo Bắc Kinh, ông Hồ còn buồn hơn. Ông hiểu Mao Trạch-đông, hiểu tham vọng bá, tính cách bá của ông ta. Với đường lối "tọa sơn quan hổ đấu" (ngồi trên núi xem hổ đánh nhau) đã nhiều năm Mao xúi Liên Xô đụng đầu với Mỹ, nay ông ta lại khuyến khích Việt Nam xông trận. Mao sẵn sàng hy sinh đến người Việt Nam cuối cùng trong cuộc đấu tranh chống "con hổ giấy(23)", là điều Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết.
Tôi được đọc nhiều lời buộc tội Hồ Chí Minh chia cắt đất nước. Tôi nghĩ điều này không đúng với thực tế. Khi phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi dự hội nghị Genève về Ðông Dương vấn đề chia đôi Việt Nam không có trong hành trang. Ông Hồ Chí Minh không hề có ý muốn như vậy. Sự chia cắt, như một giải pháp hòa bình cho Ðông Dương, được quyết định bởi các cường quốc, trước hết là Trung Quốc, rồi đến Liên Xô và Mỹ. Trước những sức ép quá mạnh Hồ Chí Minh đành chịu. Dù sao mặc lòng đã đến lúc phải chấm dứt cuộc chiến tranh đã kéo quá dài.
Ðó là nhận định của cha tôi, người gần gụi ông Hồ Chí Minh trong giai đoạn lịch sử đó. Cũng theo cha tôi, ông Hồ thật sự không chủ trương dùng bạo lực để thống nhất đất nước. Ông thật sự tin rằng sau hai năm đất nước bị chia cắt tạm thời sẽ có tổng tuyển cử và thắng lợi chắc chắn sẽ đến với những người cộng sản. Cha tôi cho rằng trong cách nhìn nhận một con người điều quan trọng hơn cả là phải giữ được lẽ công bằng. Sau vụ bắt bớ, giam cầm những người cộng sản bất đồng chính kiến, nhiều người buộc tội ông Hồ Chí Minh, thậm chí gán cho ông những tính chất mà ông không có, như tính hiếu chiến, hiếu sát. Cha tôi giận ông Hồ, nhưng ông không đồng tình với lời buộc tội đó. Những ngày ở trong rừng Việt Bắc, cha tôi kể, mỗi khi sắp mở một chiến dịch ông Hồ trở nên bẳn gắt và hút thuốc lá luôn miệng, có khi thức trắng đêm. Hồ Chí Minh hiểu hơn ai rằng gắn liền với mỗi thắng lợi trên chiến trường là máu chiến sĩ, đồng bào phải đổ ra. Có lẽ trong những người cộng sản thế hệ ông Hồ Chí Minh là người ít thích thú chiến tranh nhất.
Lê Duẩn thuộc loại người khác hẳn. Ông ta lớn lên nhờ chiến tranh. Không có chiến tranh Lê Duẩn không còn là Lê Duẩn. Lê Duẩn chẳng ngần ngại chê bai Hồ Chí Minh không dám chủ trương dùng bạo lực giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. "Bác còn do dự, chớ khi rời miền Nam tui đã chuẩn bị hết cả rồi. Với tui chỉ có uýnh thôi, uýnh cho tới thắng lợi cuối cùng".
Cha tôi cho rằng việc ban lãnh đạo Ðảng mời Giải phóng quân Trung Quốc vào Việt Nam là sai lầm tệ hại. Trong công tác phóng viên tôi đã đến Khu tự trị Việt Bắc và Khu mỏ nhiều lần. Trở về tôi kể lại cho cha tôi những gì tôi thấy. Nghe chuyện dân vùng núi Việt Bắc không được phép kiếm củi trong những khu rừng quê hương, nay đã trở thành khu vực đóng quân của Trung Quốc, những người thợ mỏ muốn đi tắt qua phần đất đã được giao cho Trung Quốc(24) bị bộ đội Trung Quốc xua đuổi, ông rơm rớm nước mắt.
Ông lo lắng trước tình hình nước nhà bị lệ thuộc. Ông tự đi thuyết phục các nhà lãnh đạo, họ là các đồng chí cũ của ông trong thời kỳ bí mật, kêu gọi họ cảnh giác trước chủ nghĩa bành trướng và bá quyền của nước láng giềng đã từng đô hộ Việt Nam. Họ nghe ông với nụ cười mơ hồ, trịch thượng. Việc nước đã có họ lo, không cần đến ông.
Ông rất bất bình về việc Nguyễn Chí Thanh, người nắm thực quyền trong quân đội hồi ấy, đã đặt Cục đồ bản của Trung Quốc in bản đồ 1/1000, là thứ bản đồ dùng cho pháo binh. "Ðó là bí mật quốc gia, không một nước nào tự nguyện trao cho nước khác.Sao nó ngu thế ! Sao nó bậy thế !", ông bực bội kêu lên.
Ông còn kêu ca nhiều về những chính sách không được lòng dân, về cách đối xử phân biệt đảng viên với quần chúng ngoài Ðảng trong việc giao công tác. Lãnh đạo Ðảng không nghe ông. Người ta không thích nghe những lời chỉ trích. Ông đành chia sẻ tâm sự mình với những đồng chí cũ đã về hưu thường đến thăm ông. Ông nghĩ rằng nếu mọi người đồng lòng can ngăn Trung ương trong những việc không nên làm thì Trung ương sẽ nghe theo. Ông tin ông trong sáng trong những ý kiến nhằm bảo vệ cách mạng. Ông không coi việc người cộng sản phát biểu ý kiến về các vấn đề của đất nước là có tội.
Trong chuyện này cha tôi đã lẫn lộn thời khắc. Năm 1964 không có gì giống với năm 1946. Ðất nước, chính quyền, đã không còn là của chung mọi người.
Không ! Một người như cha tôi không thể hèn. Phải có một nguyên nhân nào đó khiến ông phải hành động khác với bản chất mình.
Thì ra ông nói ông "có tội với Ðảng" là để nhấn mạnh ông không có tội với cái gì khác trừ ra với Ðảng. Ông không có tội với nhân dân, với Tổ quốc. Cần phải giải mã bức thư theo cách đó, tôi nghĩ. Ông nói ông phạm vào những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Ðảng là có ý nói cái hại ấy cũng lại chỉ cho Ðảng mà thôi. Những người nắm quyền lãnh đạo Ðảng bắt ông vì ông có tội với họ.
Cũng có thể bằng những lời thú nhận ông muốn lừa Lê Ðức Thọ, để Thọ đưa ông ra xử. Lúc đó ông sẽ có điều kiện tuyên bố chính kiến, ông sẽ nói với đồng bào những điều ông muốn nói. Than ôi, đó chỉ là hi vọng hão huyền, là ý nghĩ ngây thơ thường có ở người bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Không bao giờ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ cho những người cách mạng được phép nói điều gì khác ngoài sự lặp lại những tín điều do họ ban bố.
Ông hiểu trong vụ án được dựng nên này Lê Ðức Thọ nắm vai trò chính, tính cách Thọ thế nào thì ông đã biết từ nhà tù Sơn La. Thọ đã nhiều lần mưu mô hạ uy tín các đồng chí lão thành cách mạng để tôn mình lên. Việc Thọ xúi giục một số đồng chí hăng hái thái quá buộc ông Trần Huy Liệu, cựu đảng viên Quốc dân đảng, phải lên án Ðảng cũ của mình là manh động trong khởi nghĩa Yên Bái là một thí dụ. Ông Trần Huy Liệu đã xử sự như một kẻ sĩ ngoan cường. Ông cao ngạo và thẳng thừng từ chối không đọc một bản báo cáo như thế, ông không chịu đứng trên lập trường kẻ ngoài cuộc lên án những đồng chí của ông đã hy sinh. Ông nói với tôi rằng sự hy sinh của các chiến sĩ Quốc dân đảng trong cuộc khởi nghĩa thất bại có giá trị thức tỉnh lòng yêu nước trong nhân dân. Nguyễn Thái Học không phải không đoán trước được kết cục bi thảm của cuộc khởi nghĩa khi ông phát ra câu nói nổi tiếng "Chuyến này không thành công cũng thành nhân".
Ngoài chuyện tính cách, chắc cha tôi còn có điều nghi ngờ Thọ trong sự liên lạc thậm thụt với công sứ Cousso(25), mà ông biết trong thời gian ông làm thư ký trong nhà tù Sơn La. Vào những năm này, những cựu tù nhân Sơn La kể lại, Lê Ðức Thọ một hồi được Cousso lấy ra làm tạp dịch tại nhà y. Cũng vào thời gian này một số việc bí mật của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ. Tướng Ðặng Kim Giang cũng có chung với cha tôi mối nghi ngờ đó. Trong một câu chuyện giữa hai người tôi nghe tướng Giang nói :"Phải chi Tô Hiệu(26) còn sống. Vía nó (chỉ Thọ) cũng không dám như vậy". Nhưng cả hai im lặng. Với một Lê Ðức Thọ quyền sinh quyền sát như thế, giữ im lặng là phải. Mặc dầu cùng tù với nhau ở Sơn La, cha tôi không bao giờ coi Thọ là bạn. Ông Ðặng Kim Giang cũng vậy. Dưới con mắt của ông Lê Ðức Thọ là một tên hạ lưu hãnh tiến.
Cha tôi rõ ràng muốn nhắc tôi cảnh giác kẻo sa vào một âm mưu dựng vụ. Ông nhấn mạnh ông chỉ nhận thiếu ý thức tổ chức mà thôi.Về phần tôi, ông khuyên tôi phải thức thời, phải cúi mình xuống mà nhận khuyết điểm. Nhận sai lầm, khuyết điểm chứ không nhận tội, ông muốn nhấn mạnh, khuyên tôi không được cứng nhắc trong bước ngoặt này của cách mạng. Lời lẽ nhún nhường trong bức thư chỉ để pha loãng những ý chính, không cho bọn công an đoán ra những điều cha tôi nhắn nhủ.
Cũng không loại trừ việc Lê Ðức Thọ không bẻ gãy được cha tôi trong việc ép buộc cha tôi phải nhận một tội nào đó, là cái Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ cần có để dùng nó triệt hạ những kẻ mà họ coi là đối thủ, đã buộc ông viết thư cho tôi, hòng dùng bức thư áp đảo tôi, hoặc may ra có thể kích thích tôi phản tỉnh mà bằng lòng khai ra một điều gì đó. Nếu tôi chịu khai người ta sẽ dùng chính lời khai của tôi để áp đảo cha tôi, áp đảo tướng Ðặng Kim Giang và những anh em khác.
- Anh khỏi lo đi. Việt-Xô(27) đã chuyển bịnh án của ông già anh qua đây. Việc chăm sóc sức khỏe cho ổng vẫn do Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương cáng đáng. Mà ở nước ta thời nơi mô có đủ thuốc bằng Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương ? Nói chi thời nói chớ ông già anh vẫn là bậc lão thành cách mạng, vẫn có tiêu chuẩn đặc biệt, ổng được săn sóc tới nơi tới chốn. Nói chung, mấy bữa đầu ổng nói cho đúng ổng cũng không được khỏe cho lắm, nhưng chừ đã bình thường...
- Tôi có được phép viết thư cho ông cụ tôi không ?
- Tui nghĩ được.
- Tui có được giữ bức thư không ?
- Không. Anh đọc xong đưa lại cho tui. Có cần đọc lại lần nữa không ? Anh ở một mình thì tui cho anh mang về.
Họ vẫn phải giữ kín vụ án. Tại sao lại như vậy ?
- Tôi nhắc lại : anh không được phép kể cho người ở cùng phòng về vụ các anh. Vụ này thuộc về bí mật của Ðảng !
Thì ra cái chỗ tôi đang ở gọi là phòng, chứ không phải xà lim.
Tôi cố gắng nhưng không sao hiểu câu nói của Huỳnh Ngự. Bắt người là việc bàn dân thiên hạ đều biết, vậy mà lại là bí mật của Ðảng, buồn cười quá !
- Với cán bộ quản giáo cũng không được nói. Anh biết răng là giữ bí mật chớ ?
- Tôi biết.
Ðiếu thuốc lá làm tôi buồn nôn. Mồ hôi lạnh rịn ra trên trán. Anh hương sư hói đầu đã pha xong ấm trà. Về món pha trà anh ta kém hẳn Huỳnh Ngự, loãng toẹt. Tôi uống liền hai chén.
- Các vị cách mạng lâu năm như ông già anh là vậy đó - Huỳnh Ngự phủ dụ - Khi chưa hiểu ra chân lý thì bướng bỉnh lắm, ngoan cố lắm, rứa mà được Ðảng cảnh tỉnh rồi thì lại có tinh thần tự phê bôn-sê-vích rất đáng khâm phục. Hậu sinh chúng mình còn phải học tập các cụ nhiều. Anh tưởng tụi tui hổng biết trước đây ổng bị Pháp tra khảo ròng rã mấy tuần liền, đánh đập, tra điện, đi tàu bay, tàu ngầm(28) đủ kiểu, mà vẫn không khai hả ? Tụi tui biết cả đó ! Vậy mà vô đây Ðảng hỏi, ông già khai sạch trơn, không hề giấu giếm chút mô...
Cha tôi đã làm gì để phải khai với bọn này sạch trơn ? Tôi còn nhớ khi anh Hoàng Minh Chính bị bắt cha tôi còn nói với ông Lê Giản :"Tại sao chúng nó lại bắt thằng Chính ? Nó làm gì mà bắt nó ?" Ðáp lại, ông Lê Giản chỉ cười buồn. Lúc ra về ông nói với cha tôi :"Bắt đầu một thời kỳ mới rồi : thời kỳ người ta ngồi xổm lên dư luận và ỉa vào luật pháp. Chúng mình rồi chửa chắc đã được yên".
Tôi lặng thinh.Trước mắt tôi hiện lên cái buổi sáng đã xa, tôi và mẹ tôi tới đây, vào trong chính nhà ngục này. Hồi ấy tôi còn nhỏ đến nỗi mẹ tôi có thể bế bổng tôi lên mà đút tôi qua ghi-sê nhận quà để cha tôi ôm hôn tôi. Những cái hôn cuống quýt của cha tôi lên trán, lên má tôi, bộ râu cứng của ông làm rát mặt tôi, tôi nhớ tới tận bây giờ.
Cha tôi bị bắt tại ga Hàng Cỏ ngay sau khi đưa Trường Chinh lên Phúc Yên chạy trốn cuộc tổng khủng bố. Ðó là thời kỳ Mặt trận Bình dân bên Pháp đi vào thoái trào. Chính quyền thuộc địa nhân cơ hội liền thẳng tay đàn áp các lực lượng cách mạng vừa mới trồi lên trong những hoạt động công khai. Ðó là thời kỳ cam go nhất đối với những người cộng sản. Cha tôi thường xuyên không có mặt ở nhà. Ông chỉ về bất chợt, thoáng lại đi, trong đêm. Trong những giấc mơ tôi nghe tiếng ông thì thào với mẹ tôi.
Về việc cha tôi đưa Trường Chinh đi trốn tôi được biết thêm chi tiết trong câu chuyện hàn huyên giữa cha tôi và ông Xuân Thủy(29) sau khi hòa bình lập lại : "Thằng Thận đoảng vị lắm, mày biết đấy. - cha tôi kể - Nó nhớn nha nhớn nhác, mặt xám ngoét lại, cứ như bị mật thám đuổi sau đít, nằng nặc đòi tao bố trí ngay cho nó một chỗ trốn. Nó nói đi tìm mày không được. Tóm được Hạ Bá Cang ở Phủ Lý, nó bảo Hạ Bá Cang cho nó một chỗ, thằng Cang ừ hữ rồi biến. Thằng Thận chỉ chúi mũi vào sách vở, có bao giờ công tác quần chúng đâu, đến khi lâm sự thì cuống cà kê lên, sợ vãi ra quần. Nghe nó chửi thằng Cang tao chỉ cười. Chính tao đưa thằng Cang đi trốn chứ ai. Cơ sở thằng Cang có, nhưng vỡ rồi. Còn một cái thì lại không an toàn. Tao chỉ dặn thằng Thận cải dạng cho tốt rồi tao đón, mà nhớ đừng tha sách theo đấy nhá, mật thám đầy đường, tao bảo nó thế. Tao đưa nó lên nhà thằng Vần(30), mày nhớ thằng Vần chứ ? Hồi ấy nó có cái trại con con gần thị xã Phúc Yên. Ðưa thằng Thận đi xong, tao về đến ga Hà Nội thì bị tóm. Nằm ở Sở Liêm Phóng ăn điện, đi tầu bay, tầu ngầm một tháng thì sang Hỏa Lò...Chúng nó chỉ hỏi tao hai câu : "Ðặng Xuân Khu đâu ? Hạ Bá Cang đâu ?" Mà sau mày bị ở đâu nhỉ ?"
Tôi thích tình bạn thân thiết của các chiến sĩ cộng sản. Tôi yêu chủ nghĩa cộng sản một phần cũng vì lẽ đó. Trong ngôi nhà chật hẹp của gia đình tôi ở số 27 bis rồi số 65 phố Nhà Rượu, những người đồng chí của cha mẹ tôi đến ăn dầm nằm dề hàng tháng. Họ ngủ la liệt trên sàn gạch hoa, gối đầu trên những chồng báo, trên những cái chổi lúa, ngáy ầm ĩ. Khi tỉnh dậy họ lại tiếp tục tranh luận đến khản tiếng, nhưng không bao giờ cãi nhau. Những người này đến rồi đi, thay chân họ là những người khác, tất cả đều giống nhau ở tính tình cởi mở, thân thiết như ruột thịt. Mẹ tôi sung sướng được hầu hạ họ những bữa cơm ngon lành, tuy không sang trọng nhưng nhộn nhạo tiếng cười.
Và họ mới thương nhau làm sao ! Tôi nhớ những ngày thực dân Pháp tổng khủng bố năm 1939. Một đêm tôi thức dậy bởi những tiếng thì thào. Tôi mở mắt thì thấy bác Ba Lâm đứng ở đầu giường. Tôi nhảy lên, ôm choàng lấy bác. Ông là người được lũ trẻ chúng tôi yêu nhất. Cao lộc ngộc, vụng về, ông không biết gọt khoai róc mía theo kiểu ta, mà chỉ biết làm theo kiểu tây, nghĩa là gọt ngược. Nhưng ông tham gia mọi trò chơi của chúng tôi như một đứa trẻ con lớn, say sưa. Ðêm đó ông trở về nhà chỉ để mang tiền cho mẹ tôi trả thợ giặt, sợ mẹ tôi không còn tiền. Mẹ tôi thì lo ông bị bắt, giục giã bắt ông đi ngay...
Giờ đây chắc bà đau đớn lắm nhớ về những ngày xa xưa ấy. Bà đi dạy học, bán hàng thuê cho cửa hiệu tơ lụa Palais de Soie ở phố Tràng Tiền, của ông chủ người Ấn Ðộ tên là Kevarah. Ông Kevarah là người chủ tốt. Ông biết cha tôi bị bắt vì sao, ông đoán cha mẹ tôi là những người cách mạng, cho nên đối với mẹ tôi ông có sự trọng thị đặc biệt. Tuy mẹ tôi chỉ là người làm công, nhưng ông chủ Ấn Ðộ không bao giờ gò ép giờ giấc để bà có thể làm thêm những việc riêng của bà : "Tôi biết, tôi biết, bà còn bận nhiều chuyện quan trọng. Bà cứ về sớm đi, không sao cả. Tôi gửi lời chào ông. Chúc bà may mắn !"
Những đồng tiền dành dụm được bà đưa cho cha tôi và các đồng chí. Khi ông Sao Ðỏ Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La về nhà tôi, mẹ tôi tẩm bổ cho ông bằng chim hầm hạt sen, chân giò tần thuốc bắc. Lũ con bà chưa bao giờ được biết đến những thức ăn sang trọng ấy. Tôi nhớ rất lâu món rau muống sống chấm bỗng rượu trong những thức ăn thường nhật trong gia đình tôi hồi ấy. Rau muống ăn sống thường được chẻ nhỏ, nhưng chị Tường, người ở trong nhà chúng tôi, quá bận việc, chị chỉ vặn cọng rau làm đôi làm ba rồi đập vào tay cho dập. Bỗng rượu thì đi xin. Nó chảy ri rỉ suốt ngày từ những lỗ thải ở tường Nhà máy Rượu làm cho cả phố sực mùi chua nồng. Bên lỗ thải bỗng, những chiếc xe bò quây cót chầu chực để nhận phần mua tháng, rồi chở ra ngoại thành bán cho dân nuôi lợn. Chỉ cần chìa cái bát ra là chủ xe đã múc cho, không tiếc rẻ.
Cách mạng thành công, tôi ít gặp lại các bác các chú ngày trước. Những người sau này vẫn còn lai vãng là các ông Trần Huy Liệu, Lê Giản, Bùi Lâm, Khuất Duy Tiến, Nguyễn Lương Bằng, Ðặng Xuân Thiều, Ðặng Việt Châu... Các bác bận, mẹ tôi giải thích, nhưng dường như bà chẳng mấy tin ở lời mình.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi càng ít gặp các bác các chú cách mạng ngày trước hơn nữa. Trong tôn ti trật tự mới cha tôi ở phẩm trật thấp hơn những người bạn ngày trước và chúng tôi chỉ gặp ảnh họ trên mặt báo, thấy tên của họ trên bìa những cuốn sách chờ được thành kinh điển.
- Anh nghĩ sao về bức thơ của ông già ? - Huỳnh Ngự hỏi.
Không nên đầu hàng quá dễ, chúng sinh nghi. Sau một lúc im lặng, tôi hỏi khẽ, giọng mệt mỏi :
- Chúng ta kết thúc buổi làm việc hôm nay ở đây được không ?
- Anh mệt hả ?
- Không. Lúc này tôi muốn ngồi một mình.
Huỳnh Ngự không hài lòng. Nhưng y chiều tôi.
- Ðược, cho anh về. - y nói, giọng ái ngại - Suy nghĩ kỹ đi rồi ta làm việc. Tui hi vọng anh đã hiểu ra.
Ðưa tôi về, Hách bảo tôi đứng chờ ở khoảnh sân hẹp dẫn vào khu xà lim. Y không vội vã vào phòng trực lấy ra một cái ghế đẩu, bảo tôi ngồi xuống. Lấy đồ nghề ra, không cần choàng khăn, y bắt đầu cắt tóc cho tôi. Sau vụ chụp ảnh, lăn tay, cái sự cắt tóc trong tù làm cho tôi càng thêm tin rằng còn lâu tôi mới ra khỏi nơi này. Hách cắt rất vụng, đúng là tay mơ trong nghề, tông đơ rứt tóc làm tôi đau không chịu được. Râu ria tôi mọc dài, y phải húi chứ không cắt, mũi tông đơ cứ rúc vào nhân trung, hích mạnh vào đầu mũi, làm tôi cứ phải ngửa đầu rồi rướn cả người lên cho y đừng làm mình bị thương. Hách thì lại không biết tôi đau. Y còn phấn khởi huýt sáo miệng nữa chứ. Nếu y dùng kéo mà cắt còn tốt hơn. Sau đó sẽ dùng dao cạo, như trong hiệu cắt tóc người ta thường làm. Nhưng y không có ý định cạo mặt cho tôi.
Tôi ngồi đấy, mặc y muốn làm gì với cái đầu tôi thì làm. Nhìn những túm tóc rơi lả tả xuống đất tôi thấy lẫn vào tóc đen đã có nhiều sợi bạc. Như vậy chuyện Ngũ Tử-tư qua một đêm suy nghĩ đầu bạc trắng là chuyện có thật ? Mà tôi thì đã bao nhiêu đêm ? Vừa sửa gáy cho tôi Hách vừa thủng thẳng tâm sự :
- Tôi còn chẵn hai năm nữa là hưu, anh ạ. Nhìn lại mới thấy đời người nhanh thật. Trên duyệt cho tôi về rồi.
- Sao ? Bác còn trẻ mà.
- Trẻ gì, năm mươi ba rồi.
- Vẫn sớm. Phải bẩy năm nữa kia.
- Tôi khác. Ăn nhau ở cái thành tích đóng góp. Không phải hưu đúng tuổi, cũng không phải hưu non, mà là hưu ương ương, tức là được tính thêm cái thâm niên, cộng với lại thương tật...
- Trước bác ở sư nào ?
- Tôi á ? Trước ở địa phương quân, sau chuyển sang 320. Anh cũng đã ở bộ đội đấy hử ?
- Vâng.
- Mình về hưu rồi cũng phải nghĩ cách kiếm ăn, anh ạ. Lương hưu, anh biết đấy, đủ sao được. Ðảng dạy mình phải tự lực cánh sinh, tự lực tự cường, không được ỷ lại vào nhà nước, vào Ðảng, là đúng lắm. Tôi tính chán ra rồi, cầm sổ hưu một cái là tôi mở ngay hiệu cắt tóc, ngay lối vào chợ làng tôi, chỗ ấy thì hết ý. Chỉ sợ từ nay tới đó có thằng nào chõm mất thì toi...
- Hai năm nữa cũng còn lâu.
- Tôi đã dạm rồi. Ðảng ủy, ủy ban nhất trí cả. Nhất định họ dành cho tôi. Ðược cái bí thư lại là ông em họ...
- Thế thì tốt quá rồi.
- Tôi cắt tóc cho anh thế này là để tập thôi, cho nó lên tay, chứ cắt tóc cho phạm không phải việc tôi, đã có người khác...
Thì ra vị lãnh chúa của khu xà lim này lại là một đồng chí của tôi trong quân ngũ. Anh ta đang làm nốt những ngày cách mạng cuối cùng để trở về với cuộc sống dân thường, mà hi vọng lớn nhất là có được một cửa hiệu cắt tóc đông khách.
Lẽ ra tôi cũng nên như anh ta - sống cuộc sống bình dị của người dân thường với một ước mơ nho nhỏ.

(1) Quốc xã.
(2) Hình như bệnh sáo ngữ là nét đặc trưng chung cho các quốc gia cộng sản sau khi chính quyền đã vững chắc. ê Việt Nam những nhà báo biết dùng nhiều từ kêu oang oang được đánh giá là có tài.
(3) Về sau cha tôi chê trách tôi không thức thời. Theo ông, vì tôi không ở trong Ðảng, tôi hoàn toàn không cần phải cứng rắn với bọn Duẩn-Thọ làm gì. Nếu tôi chịu hạ mình một chút thì không bị chúng giam thêm 3 năm, và 3 năm đó tôi có thể sống có ích hơn. Hơn nữa, vì sự cứng rắn vô ích tôi có thể bị chết trong tù. "Con phải sống để có lúc nói lại chuyện này cho đồng bào nghe. - cha tôi nói - Một xác chết, cho dù của người anh hùng, cũng chỉ là xác chết".
(4) Cục tình báo Quân đội nhân dân Việt Nam, còn gọi là Cục Quân báo, nay là Tổng cục 2.
(5) Trong nhóm này sau khi cách mạng thành công mẹ tôi chỉ còn gặp lại bà Ðỗ Ðình Thiện. Mẹ tôi kể có lần mật thám lùng bắt bà Thiện đã dùng dây thừng tụt từ trên gác cao xuống trốn thoát, nhưng bàn tay mãi mãi còn mang vết sẹo.
(6) (1910-1935), học sinh trường Bưởi, tham gia truy điệu cụ Phan Chu Trinh rồi viết bài thơ nổi tiếng Chiêu Hồn Nước, được Nxb Thanh Niên in, được chép tay để tán phát, nhiều người thuộc lòng bài thơ này. Vì những lý do trên ông bị chính quyền thuộc địa bắt (1926), mãi tới năm 1930 mới thả ra.
(7) Trong những cuộc gặp gỡ này còn có bạn mẹ tôi, bà Ðỗ Ðình Thiện. Số tiền lớn nhất mà Ðảng có để chuẩn bị Cách mạng Tháng Tám là của hai gia đình tư sản Ðỗ Ðình Thiện và Trịnh Văn Bô đóng góp.
(8) Mẹ tôi có ý nói tới vụ phản tình báo H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, khi lực lượng kháng chiến bị mắc lừa đã bắt giam rất nhiều cán bộ, nhất là cán bộ quân đội. Vụ này do Hoàng Quốc Việt phụ trách, đã làm chết oan nhiều người.
(9) Lao động khổ sai.
(10) Trang Vương nước Tề đăng quang, mở tiệc đãi quần thần đã cùng nhà vua nằm gai nếm mật. Tiệc đang vui thì có ngọn gió lớn làm tắt hết đèn nến. Nhân lúc nhá nhem, một viên quan đã xàm xỡ sờ vú hoàng hậu. Hoàng hậu giật được cái giải mũ đem mách vua. Nhà vua truyền cho các quan giật đứt hết giải mũ rồi mới được tiếp tục cuộc vui, thành thử không biết ai là người đã làm chuyện quấy. Trang Vương về sau có một tôi trung, những lúc khó khăn gian khổ bao giờ cũng ở bên cạnh ông, chính là viên tiểu quan phạm tội.
(11) Chín năm sau, hai cha con gặp nhau tôi mới biết chính Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã vào tận xà lim dụ hàng. Chúng hứa hẹn nếu cha tôi nghe theo chúng chấm dứt cuộc tuyệt thực đã kéo dài hơn 10 ngày thì chúng sẽ không khủng bố gia đình. Nhưng sau đó Lê Ðức Thọ đã cho bắt tôi mà không cho cha tôi biết.
(12) Trong thời gian xảy ra vụ nhóm xét lại chống Ðảng, con cái những người bị giam giữ trong vụ này không được thi vào đại học, thảng hoặc có trường hợp được thi thì chỉ được vào các trường kém vế như đại học nông lâm, đại học thư viện...Cho mãi tới năm 1981con gái đầu của tôi tốt nghiệp đại học ngoại ngữ với điểm cao, đủ tiêu chuẩn được đi nước ngoài thực tập nhưng không được đi vì "cha có tiền sự".
(13) Một nhân vật cách mạng nổi tiếng của Việt Nam. Sinh năm 1905, ông đến Thái Lan năm 1928, cùng với ông Hồ Chí Minh lập ra Ðảng cộng sản Thái Lan, đảng viên chủ yếu là người Tàu và người Việt. Hai ông cùng ra tờ Tiếng Chuông ở tỉnh Nakhuphanom. Sau đó ông Hoàng Văn Hoan đi Trung Quốc, hoạt động ở nước này trong nhiều năm. Ông Hoan là một người khắc kỷ, liêm khiết, từ chối mọi đặc quyền đặc lợi. Mặc dầu khác nhau về quan điểm đối với đường lối của phong trào cộng sản quốc tế, cha tôi rất quý mến và kính trọng ông. Hoàng Văn Hoan bị dưa ra khỏi Bộ Chính trị và Trung ương Ðảng ở Ðại hội IV, sau đó bị xử tử hình vắng mặt khi ông trốn sang Trung Quốc xin cư trú chính trị. Con cả của ông Hoàng Văn Hoan, anh Hoàng Nhật Tân, ngược lại với cha, không tán đồng đường lối Mao Trạch-đông, bị buộc tội có quan điểm xét lại. Khi bắt đầu có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, Trường Chinh nói với Hoàng Văn Hoan :"Coi chừng, quý công tử ảnh hưởng xét lại nặng lắm đấy !", và buộc anh Hoàng Nhật Tân phải đi lao động thực tế tại Thái Nguyên. Hoàng Nhật Tân may mắn không bị bắt trong vụ "nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng".
(14) Bà Nguyễn Thị Năm là địa chủ tích cực ủng hộ kháng chiến. Nhà bà ở huyện Ðồng Hỷ, Thái Nguyên, là nơi các cán bộ cao cấp thường qua lại, trong đó có cả các ông Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Giản...
(15) Những cơn cuồng giết chóc không kiềm chế nổi bất thần xâm chiếm cả một bộ lạc, một vùng ở châu ỏ, khi những con người như bị mụ mẫm đi khi lao vào cuộc chiến hỗn độn, giết nhau không vì cái gì.
(16) Ông Nguyễn Văn Hoan, phó chánh án Tòa Tối cao, kể cho tôi nghe chuyện này. Ông đang báo cáo với chủ tịch nước về tình hình công tác tư pháp thì cha tôi chống ba-toong bước vào (ông đang lên cơn đau gan). Thấy cha tôi quá bực mà to tiếng, ông Hồ bảo :"Ngồi xuống đã, từ từ nói tôi nghe, chi mà nóng như lửa vậy". Ông Hoan kết luận :" Ngày xưa triều đình phong kiến còn có chức gián quan chuyên một việc can vua. Bây giờ đâu có thế, người ta không trị bố cháu trước cũng trị sau". Ông Hoan vào Ðảng cộng sản do chính ông Hồ giới thiệu. Ông Hoan là người giới thiệu Trường Chinh vào Ðảng.
(17) Học giả, nhà báo, nhà ngôn ngữ, sinh năm 1887 (không rõ năm mất), bị đánh trong vụ Nhân văn-Giai phẩm, tên tuổi tới giờ không được nhắc đến mặc dầu ông là tác giả của những tác phẩm và bài báo có giá trị. Cùng bị đánh một lượt với ông, với sự luận tội tương tự, còn có nhà phê bình Trương Tửu.
(18) Những bộ trưởng và nhân sĩ làm việc trong chính phủ hồi đó. Về việc cha tôi đi mời các vị nói trên tham gia chính phủ như thế nào đã được nhà văn Sơn Tùng ghi lại đầy đủ trong một tác phẩm sẽ xuất bản về những ngày trứng nước của chính quyền cách mạng.
(19) Ngô Ðình Diệm (1901-1963), sinh trưởng trong một gia đình quan lại, dưới triều vua Bảo Ðại làm tới chức thượng thư tại triều đình Huế. Bị Việt Minh bắt, được thả, Ngô Ðình Diệm chạy ra nước ngoài (Mỹ, Pháp), sau năm 1954 trở về Việt Nam làm thủ tướng của chính quyền Bảo Ðại. Năm 1955 Ngô Ðình Diệm lật Bảo Ðại, tuyên bố miền Nam Việt Nam là nước cộng hòa và lên làm tổng thống. Năm 1963 bị phái quân nhân làm đảo chính giết chết.
(20) Tên thật là Tô Dĩ, đảng viên cộng sản, bị thực dân Pháp đầy đi Madgascar. Ðược quân đội Anh giải phóng, giao cho quân đội Mỹ. Theo ông kể cho tôi nghe thì một số tù chính trị Việt Nam trong đó có ông và ông Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam) được OSS (Cục tình báo chiến lược, tiền thân của CIA) huấn luyện rồi thả dù xuống Hà Ðông. Lê Giản mang điện đài, tiền và vũ khí về cho Ðảng. Năm 1945 được ông Hồ Chí Minh cử làm Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam. Sau, ban lãnh đạo Ðảng nghe theo kinh nghiệm Trung Quốc không để cho người từng có thời gian sống với địch nắm những công tác quan trọng, gạt khỏi ông khỏi chức vụ. Trước khi về hưu Lê Giản là phó chánh án Tòa án tối cao. Ông có uy tín rất lớn trong những người cộng sản thế hệ già.
(21) Cụ thân sinh ra ông Ngô Ðình Diệm là Ngô Ðình Khả, thượng thư bộ Lễ trong triều đình Huế. Khi thực dân Pháp quyết định bắt vua Thành Thái đi đầy cụ Ngô Ðình Khả đã phản đối, không ký tên vào bản án. Một chí sĩ khác, cụ Nguyễn Hữu Bài đã từ chối không ký tên vào văn bản đồng ý cho Khâm sứ Pháp Mahé đào lăng Tự Ðức để lấy vàng bạc châu báu.
(22) "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa", Nhà xuất bản Văn hóa,1991, tr.232.
(23) Cách Mao Trạch-đông gọi đế quốc Mỹ, xuất hiện trong thời kỳ cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên (Korea).
(24) Những người lính Trung Quốc hào phóng đã nhiều lần tiếp xăng cho chiếc xe máy Jawa của tôi trên những con đường Việt Bắc heo hút. Tôi đã múc nước với họ ở cùng một giếng tại Yên Sở (ngoại thành Hà Nội). Ông Hoàng Văn Hoan viết về sự kiện Hoa quân nhập Việt như sau : "Từ năm 1965 đến năm 1970...theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Ðảng lao động Việt Nam, Mao chủ tịch và Trung ương Ðảng cộng sản Trung Quốc đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc..." vào Việt Nam. (Giọt Nước Trong Biển Cả, tr. 345, Hoàng Văn Hoan). Ta có thể tin con số mà ông Hoàng Văn Hoan đưa ra. Trong giai đoạn quân Trung Quốc vào Việt Nam ông còn là ủy viên Bộ Chính trị, ông không thể không biết những việc lớn như việc này.
(25) Công sứ Sơn La vào cuối thập niên 30, đầu thập niên 40.
(26) Một nhà cách mạng nổi tiếng, chết tại ngục Sơn La về bệnh lao. Tại nền cũ nhà ngục này có một cây đào được đặt tên là cây đào Tô Hiệu, nhưng ông Trần Huy Liệu và cha tôi trong lần trở lại thăm nhà ngục đã xác định nó không phải cây đào do Tô Hiệu trồng.
(27) Bệnh viện dành cho cán bộ cao cấp
(28) Mấy cách tra khảo của mật thám trước đây : treo lên mà đánh (đi tàu bay), dìm vào bể nước (đi tàu ngầm).
(29) Một nhà báo cộng sản trước Cách mạng Tháng Tám, nguyên bộ trưởng Bộ Ngoại Giao.
(30) Ông Trần Văn Vần, một cơ sở tin cậy của Ðảng trong thời kỳ bí mật. Ông đã nuôi và bảo vệ các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Bùi Lâm, Xuân Thủy, Ðặng Việt Châu... trong thời kỳ các ông này phải lẩn trốn mật thám Pháp. Sau khi cách mạng thành công, ông sống nghèo khổ, xin đăng ký kinh doanh một cửa hàng đồng nát cũng không được. Ông gửi thư cho ông Trường Chinh nhắc lại chuyện xưa, xin được giúp đỡ. Ông Trường Chinh đã cho gặp và sai thư ký lo cho ông xin đăng ký kinh doanh. Hiệu chữa xe với tấm biển "Hưởng Honda" do anh Trần Văn Hưởng, con trai ông đứng chủ, ở chợ Mơ là kết quả của sự giúp đỡ mà chủ tịch Quốc Hội Trường Chinh dành cho ông.


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 13-22 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 23-35 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY 36-41 -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên


ĐÊM GIỮA BAN NGÀY Thay Lời Cuối -Hồi Ký- Vũ Thư Hiên



.

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...