written & collected by Le Tung Chau
ngày khởi đăng Apr. 12, 2025
(tiếp theo Chứng Tích bên phía CSBV part 2)
ngày khởi đăng Apr. 12, 2025
(tiếp theo Chứng Tích bên phía CSBV part 2)
$pageIn
Phân đoạn 1
#Tien Tuyen Feb. 01, 1971 trang hai
Người Tù Binh Cộng Sản Trong Chiến Cuộc Tại Miền Nam #Tien Tuyen Feb. 01, 1971 trang hai
Người Tù Binh Cộng Sản Trong Chiến Cuộc Tại Miền Nam
Khi người cán binh Cộng sản bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cầm tù, họ đã trở thành tù binh với đầy đủ ý nghĩa của danh từ đó.
Ngay từ giờ phút đầu, mạng sống của họ được bảo đảm khi không còn vũ khí đương đầu với ta. Chính phủ ta không coi họ là thù địch nữa. Chúng ta coi việc họ phải xâm nhập miền Nam để tác chiến, gây tan tác, đổ vỡ chỉ vì bị Nhà Nước và Đảng bắt buộc để phục vụ cho mưu đồ chiến tranh của Cộng sản mà thôi. Do đó, khi họ rời bỏ cái bộ máy gây chiến và không còn ở thế tác chiến nữa thì Chính phủ ta sẵn sàng dành cho họ nhiều sự giúp đỡ để làm cho cuộc sống của họ tạm thời trong vòng kiềm tỏa được dễ chịu.
Người tù binh Cộng sản có thể dễ dàng nhận thấy quan niệm nói trên ngay khi họ được tiếp xúc với các cơ quan của Chính phủ VNCH. Thái độ của các nhân viên thuộc các cơ quan này là một thái độ không căm thù, đay nghiến như bên phía cán bộ Cộng sản khi họ được dịp đối xử với người tù của đối phương, mà họ vẫn mãi mãi coi là kẻ địch.
Từ mặt trận hoặc chiến trường, người tù binh Cộng sản được di chuyển mau lẹ về hậu phương. Nếu họ bị thương hoặc bị bịnh, thì họ được lo thuốc thang điều trị, nuôi dưỡng cho đến khi hoàn toàn bình phục. Họ được ăn uống đầy đủ ngay từ giờ phút đầu. Trong bất cứ trường hợp nào, các đơn vị quân đội VNCH cũng tìm đủ mọi cách để nuôi tù binh ăn ngay khi mới vừa bắt được, một việc làm trước hết vì lòng nhân đạo.
Sau đó tù binh được di chuyển đến những trại giam. Nơi đây, hàng ngàn tù binh tạm sống trong những dãy nhà khá tiện nghi. Họ được cho phát quần áo mùng mền, được nuôi ăn theo một khẩu phần do chính phủ ấn định làm cho họ có đầy đủ sức khỏe. Đời sống hàng ngày của họ được tổ chức chi tiết và chu đáo cho mọi người thấy rõ nhân phẩm của họ hoàn toàn được tôn trọng.
Đối với người tù binh Cộng sản, Chính phủ VNCH rất thông cảm sự đau khổ của họ, do đó thời giờ của họ được sắp đặt và sử dụng khéo léo nhằm làm cho họ cảm thấy dễ chịu và đủ can đảm chờ ngày được phóng thích.
Ngoài những giờ ăn uống, ngủ nghỉ, họ còn được sinh hoạt, học văn hóa, đọc sách báo, xem phim ảnh và văn nghệ giải trí.
Chính phủ sẵn sàng tiếp nhận những ý kiến, nguyện vọng của họ và cứu xét rất thận trọng để giúp họ. Những nguyện vọng được thông tri với gia đình là một nguyện vọng chính đáng mà Chính phủ tìm mọi biện pháp thực hiện cho họ.
Một vài con số sau đây cho thấy rõ đường lối vừa trình bày:
Trong năm 1970, tù binh đã gởi cho thân nhân của họ 120.000 bức thư, và đã nhận được thư hồi âm 50.000 bức, 30.000 gói đồ, và 5.000 chi phiếu có trị giá tổng cộng 1.600.000 đồng.
Số tù binh được thăm nuôi lên đến 70% tổng số.
Ngoài Nguyệt san «Con Đường Mới», các tù binh còn được đọc 30.000 ấn phẩm các loại. Về giáo dục, có 32 lớp tiểu học được mở ra để dạy học cho các tù binh (tù binh xâm nhập có tỷ lệ mù chữ lên đến 90%).
Từ 1966 đến 1970, Chính phủ đã phóng thích ngót 800 tù binh. Trong số đó một số đã được trở về miền Bắc và một số xin ở lại miền Nam.
Sự đối đãi của Chính phủ VNCH dành cho tù binh Cộng sản rất tốt đẹp và nhân đạo, nên họ vui với cuộc sống hiện tại, một cuộc sống thoát khỏi sự ác liệt hủy diệt của một cuộc chiến phi lý mà nhà nước Bắc Việt (BV) bắt họ lao vào.
Để chứng minh, Chính phủ VNCH luôn luôn mở rộng cửa trại giam để mọi người đều có thể quan sát tận mắt điều kiện sinh sống của tù binh. Như mới đây, phi hành gia Borman sau khi đến thăm tất cả trại giam trên lãnh thổ VNCH đã tuyên bố là chính sách đối đãi với tù binh của VNCH rất tốt đẹp và ông, cũng như tất cả các quan sát viên khác, đều được dành cho mọi sự đãi và giúp đỡ tận tình trong những cuộc thăm viếng.
Tóm lại, từ lúc bị bắt trở đi, người tù binh Cộng sản không còn biết đến những nỗi gian khổ của chiến trường nữa. Họ được sống no đủ và an toàn cho đến ngày nào Đảng và Bác ngoài Bắc phải chấm dứt chiến tranh, nhìn nhận và đón tiếp họ trở về.
Cho đến bây giờ, BV vẫn không nhận đã đem quân vào xâm lăng miền Nam. Do đó, họ không chịu thượng thuyết và trao tin tức về tù binh và làm mọi việc có thể được để an ủi tù binh của họ và thân nhân của những người tù binh này.
Trước thái độ ngoan cố và tàn nhẫn của tập đoàn lãnh đạo miền Bắc, Chính phủ VNCH vẫn giữ một chính sách tốt trong việc đối xử với tù binh. Thái độ này chỉ có thể hình dung được bằng danh từ «nhân đạo», đó không những phù hợp với tinh thần đại đoàn kết dân tộc của quốc gia, mà nó còn chứng tỏ chế độ miền Nam này coi tù binh là những «người» chớ không phải như những «bộ máy» mà Đảng khai thác triệt để chỉ cốt có lợi cho Đảng! Đối với Cộng sản, người tù binh của họ không có nghĩa gì cả!!!
Hiểu rõ ở đường lối dân chủ, tự do và nhân đạo của Chính phủ VNCH, các tù binh Cộng sản rất phấn khởi và tin tưởng rằng, Chính nghĩa quốc gia sẽ thắng chế độ bạo tàn.
Một ngày sắp tới, họ sẽ được trở về sum họp với vợ con họ, lúc đó, họ sẽ ghi nhớ những ngày làm tù binh như những ngày may mắn nhất trong đời họ.
#Tien Tuyen Feb. 5, 1971 trang nhất
Hành Động Của Kẻ Bại Trận (VC chỉ còn biết lén lút khủng bố giết thường dân) #Tien Tuyen Feb. 5, 1971 trang nhất
Nhận Định
—Hành Động Của Kẻ Bại Trận—
– 34 thường dân bị hạ sát, 141 người khác bị thương và 10 người bị bắt cóc do 21 hoạt động khủng bố của Cộng quân gây ra trong 15 ngày vừa qua.
– Năm người lớn và bốn trẻ em đã bị sát hại và 40 người khác bị thương khi mìn của Cộng sản (CS) gài tại bến phà Rạch Miễu, quận Giồng Trôm, tỉnh Kiến Hòa, phát nổ vào ngày mồng 4 Tết Tân Hợi, tức ngày 30-1-70.
– Trước đó, vào ngày 29-1-71, CS ném lựu đạn vào một đám đông thuộc xã Vĩnh Long, quận Phù Cát, Tỉnh Bình Định làm ba thường dân bị thương.
– Tại Xã Đông Cát, Tỉnh Quảng Ngãi ngày 28-1-71, CS đã đặt mìn sát hại 12 thường dân và 36 người khác bị thương.
– Ngày 27-1-71, CS ném lựu đạn vào lối ra vào của một rạp hát tại Xã Phùng Danh, quận An Nhơn, Tỉnh Bình Định làm 3 người chết và 25 người bị thương.
– Trong ngày 26-1-71, CS mở một loạt khủng bố tại tỉnh Bình Thuận, Long An, Vĩnh Bình và Bình Dương, khiến một người chết, 16 bị thương và ba bị bắt dẫn đi mất.
– Vào ngày 25-1, bốn thường dân đã bị thương khi CS nổ súng cối vào một ngôi chợ thuộc Quận Bến Cát, Bình Dương.
– Hai người đi xe gắn máy, trước đó vào ngày 24-1, đã tử nạn vì trứng phải mìn của CS tại làng Ấp Thái Bình, Quận Phước Ninh, Tây Ninh.
Tất cả những vụ khủng bố giết chóc dân lành nói trên của CS đều diễn ra từ 28 tháng Chạp cho đến mồng 4 Tết, chứng tỏ Cộng sản, miệng nói ngày Tết thiêng liêng nhưng lại lợi dụng cơ hội dân chúng vui mừng đón xuân để giết chết họ.
Ngoài những vụ nói trên phải kể đến những hành động điển hình vô nhân đạo của CS như: ném 1 quả lựu đạn vào nhà dân ở Tây Nam Càng Long làm 2 người chết, 10 bị thương; ném 3 quả lựu đạn vào rạp hát tại Đập Đá làm 8 người dân chết, 19 bị thương; đặt chất nổ tại chợ Mộ Đức làm 9 người dân chết.
Nếu kể cả những vụ pháo kích làm thường dân phải thương vong, người ta sẽ thấy CS đã tự nhận sự suy yếu của mình nên không đánh lớn được mà chỉ còn cách giết dân chúng bằng những hành động lén lút: ném lựu đạn, pháo kích.
Trong thời gian hưu chiến Tết Canh Tuất, CS tuy đã vi phạm trên cả trăm vụ nhưng so với những ngày lễ có hưu chiến trước đây thì ít hơn. Điều này, thêm một lần nữa, chứng tỏ CS đã quá suy yếu. Mặt khác, trước sự tỉnh táo đề phòng và tinh thần kỷ luật cao độ của Quân Dân ta trong 3 ngày Tết, CS đành chịu thúc thủ không thực hiện được những âm mưu đánh lớn để gây tiếng vang.
Với đà này, và với tinh thần «thừa thắng xông lên» của Quân Dân ta, chắc chắn Cộng sản sẽ bị tận diệt, nếu chúng còn ngoan cố tại bàn hội đàm Ba Lê.
Tiền Tuyến
#Tien Tuyen Mar. 13, 1971 trang nhất
CÁN BINH CỘNG SẢN TỪ MẶT TRẬN HẠ LÀO VỀ TIẾT LỘ #Tien Tuyen Mar. 13, 1971 trang nhất
CÁN BINH CỘNG SẢN TỪ MẶT TRẬN HẠ LÀO VỀ TIẾT LỘ
Mặt Trận Hạ Lào: Giai Đoạn Cuối Cùng Chiến Cuộc Việt Nam
◈ Tướng Lê Quang Đạo Của Cộng Sản Chỉ Huy 8 Sư Đoàn 304, 308, 320 Tại Mặt Trận Lào
Tổng Cục CTCT sáng 12-3-71 đã mở cuộc họp báo tại Trung tâm Quốc gia Báo chí để giới thiệu với ký giả quốc nội và ngoại quốc hai cán binh Cộng sản (CS) đã hồi chánh.
Đặc biệt hai hồi chánh viên là anh Nguyễn Trọng Quyền, Thượng sĩ, đã từng tham dự cuộc hành quân Khe Sanh cuối năm 1967, đã ra hồi chánh tại Lào với đơn vị Dù ngày 18-1-71.
Anh Vũ Văn Quảng, sinh viên năm thứ hai Đại học Vật Lý Địa Cầu, bị động viên nhập ngũ năm 1968, đi vào Nam hoạt động, đã ra hồi chánh ngày 16-10-70 với Sư đoàn 18 Bộ Binh (BB) trong một trận đánh tại Kampuchea.
Trong cuộc họp báo này, cả hai hồi chánh viên đều cho biết, không thể sống dưới chế độ độc tài Cộng sản nên đã tìm về với ánh sáng của tự do.
Hồi chánh viên Nguyễn Trọng Quyền, đã từng dự những trận đánh tại Nam Lào gần đây đã tiết lộ cho biết, hiện tại mặt trận Lào, Bắc Việt có 3 Sư đoàn 304, 308, 320 do Tướng Lê Quang Đạo chỉ huy, đã từ Quảng Bình di chuyển về Nam Lào từ tháng 2-2-71 để đối đầu với cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).
Anh Quyền cũng cho hay cán binh CS đã được học tập trước về mặt trận này kể từ tháng 10-70 và cán binh CS cũng loan báo đây là mặt trận quyết định của chiến cuộc Việt Nam.
Anh Quyền cũng kể tiếp rằng, tại Tchépone là đầu não việc của CS và dù đã biết trước cuộc hành quân của QLVNCH nhưng vì các kho tiếp liệu quá lớn nên di chuyển không kịp, một số ống đạn dược từ đường hầm đưa ra ngoài hành lang nhưng những phi vụ B52 đã phá hủy khá nhiều.
Lúc nhắc đến các phi vụ B52, anh Quyền cho hay, là cán binh CS tham dự mặt trận Lào được biết trước 30 phút để di tản. Anh Quyền cũng không rõ được bí mật này và anh xác nhận cán binh CS đã di chuyển đến địa điểm khác thì B52 đến oanh tạc.
Anh Quyền cũng cho hay lực lượng Dù VNCH đã chiến đấu rất dũng cảm, đánh giặc rất giỏi, họ đã đánh bạt được các tiểu đoàn thiện chiến của CS để chiếm các cao điểm Langvei từ ngày 18-2-1971. Anh Quyền cũng xác nhận quân bộ BV tại mặt trận Nam Lào đông gấp đôi gấp ba QLVNCH.
Cũng trong cuộc họp báo trên, khi được hỏi nếu có Bắc tiến thì dân Bắc có chờ đợi bên này không, anh Quyền cho biết hiện tại nhân dân miền Bắc cũng mong có sự thay đổi chế độ.
Mặt khác, lúc tâm sự với báo chí, hai hồi chánh viên nói trên còn cho hay, đã 3 năm nay các anh không gặp được vợ con, và họ cho rằng, không có một quân đội nào trên thế giới mà bóp nghẹt tình cảm như quân Bắc Việt.
#Tien Tuyen Mar. 27, 1971 trang hai
(bài 01) CHÍNH SÁCH KINH TẾ MIỀN BẮC TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN TRƯƠNG HIỆN NAY #Tien Tuyen Mar. 27, 1971 trang hai
(bài 01) CHÍNH SÁCH KINH TẾ MIỀN BẮC TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN TRƯƠNG HIỆN NAY
Căn bản của chính sách kinh tế của CSBV là cải cách ruộng đất. Đó là một chính sách mà Đảng và nhà nước BV lớn tiếng ca ngợi và khoe khoang những thành quả như:
«Về mặt chính trị và quân sự, nó đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt nông thôn, củng cố chính quyền nhân dân…
«Lợi cho 72% nông dân và liên quan tới 63% ruộng đất trồng tỉa được. Số lượng sản xuất lúa gạo do đó gia tăng đến 68%, bởi tổng số 810.000 mẫu ruộng đã phân chia lại sản xuất đồng niên tới 1.053.000 tấn.
Nhưng toàn thể nhân dân đã biết rõ chính sách cải cách ruộng đất của Đảng và nhà nước BV thực ra đã làm đổ biết bao nước mắt và máu vô tội. Do đó, để xoa dịu phần nào niềm uất ức căm thù của quần chúng, Đảng đã phải cách chức Bí Thư Thứ nhất của Trường Chinh, người đã đẻ ra kế hoạch trên.
Tiến thêm 1 bước để kiểm soát và triệt để khai thác sức lao động của toàn dân, Đảng liền thành lập các hợp tác xã nông nghiệp. Các HTX được phân làm hai loại:
Hợp tác xã bậc thấp, trong đó nông dân đem tài sản vào nhưng vẫn là sở hữu chủ những tài sản đó. Lợi tức thâu hoạc sẽ được chia: một phần đóng góp cho nhà nước, một phần trả cho sở hữu chủ các phương tiện sản xuất, phần còn lại chia cho xã viên tùy theo số công của mỗi người.
Hợp tác xã bậc cao: Giống như Kolkhoze của Liên Xô, tập trung các phương tiện sản xuất làm của chung của tập thể. Một phần lớn lợi tức được chia cho các xã viên tùy theo số công họ làm cho hợp tác xã. Hiện nay các bậc thấp hầu như biến mất và 80% nông dân đã vào các HTX bậc cao.
Một vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự sản xuất là các HTX đều thiếu sức lao động. Chính sách nghĩa vụ quân sự đã thâu tóm hết thanh niên sung sức làm việc sản xuất. Để bù dắp sự thiếu hụt đó, các HTX phải dùng phụ nữ để lao động thay thế. Lực lượng phụ nữ trong các HTX lên đến 70 – 80%. Tuy nhiên, biện pháp này không cứu vãn được tình thế vì đa số phụ nữ không quen thích hợp làm việc đồng áng nặng nhọc bằng đàn ông.
Về mặt phương thức sản xuất nông nghiệp, trên bình diện tổng quát, việc canh tác còn nặng về kinh nghiệm truyền thống, không được cải tiến về mặt cơ giới cũng như kỹ thuật khoa học hiện đại.
Ngoài nạn úng thủy, hạn hán sâu bệnh làm giảm sút sản lượng lúa liền từ năm 1963, nạn thiếu phân bón và nông cụ. Phân bón hóa học quá ít, từ 19.241 tấn năm 1965 giảm xuống còn 13.121 tấn năm 1967, phân chuồng cũng kém vì việc chăn nuôi ở làng quê thất bại.
Về nông cụ, Bắc Việt không thể sản xuất đủ số máy cần dùng. Hơn nữa, các máy hiện có không phù hợp với tình hình đất đai của từng địa phương. Mỗi máy cày phải làm việc tới 4 mẫu 8, mỗi chiếc bừa phải dùng cho 5 mẫu, mỗi chiếc cào cỏ phải làm việc tới 7 mẫu 1 vụ.
Nông dân cứ tiếp tục gồng gánh nặng nề như xưa. Vẫn phải tát nước, đập lúa bằng tay đến rời rã đôi vai. Nhiều nơi phải gọi hàng trăm người dùng vồ đập đất làm màu.
Đó là về mặt lúa gạo, còn hoa màu phụ, rau đậu ngô khoai hoặc cây nông nghiệp không ngành nào đạt được mức sản xuất và thâu hoạch đề ra. Sự thất thu phần lớn đều được quy cho thời tiết xấu. Điều đó cũng là có phần đúng vì ngoài Bắc vẫn thường bị thiên tai bão lụt bất thường hàng năm nhưng phần lớn là sự thất bại về nông nghiệp do nơi cán bộ lãnh đạo nhất là cán bộ HTX quá kém về mặt tổ chức cũng như kém hiểu biết chuyên môn.
Việc phân chia quy định vùng canh tác không phù hợp với tình hình thực tế, khả năng và nhu cầu của địa phương. Việc ký kết hợp đồng thu mua, việc tạm dùng tiền vốn, vật tự, việc bán, phân phối lương thực dành cho vùng cây nông nghiệp còn rất nhiều thiếu sót, sai lầm. Gạo nhà nước dành cho vùng cây nông nghiệp không cung cấp đủ tiêu chuẩn quy định cho người sản xuất, có nơi lại dùng bậy lương thực vào việc khác chẳng hạn như nấu rượu lậu.
Về mặt phân phối sức lao động, HTX phải đạt được trung bình mỗi năm 245 ngày công cho mỗi xã viên, mỗi ngày công được 10 điểm, chia ra như sau:
— 70% dành cho việc trồng trọt và chăn nuôi trâu bò.
— 7% dành cho chăn nuôi gia súc khác.
— 13% dành cho các nghề phụ và tiểu công nghệ.
— 10% dành cho công tác thủy lợi.
Mỗi xã viên (đàn ông từ 16 đến 55 tuổi, đàn bà từ 16 đến 50 tuổi) đều phải làm việc nặng nhọc theo chỉ tiêu như sau:
— Lao động khỏe: 250 ngày công cho đàn ông, 230 ngày công cho đàn bà.
— Lao động trung bình: 230 ngày công cho đàn ông, 200 ngày công cho đàn bà.
— Phụ nữ đông con: 150 ngày công.
— Người bệnh và yếu: 100 ngày công.
Nghề nghiệp đã chậm tiến, chăn nuôi còn lạc hậu hơn. Việc chăn nuôi bị coi là nghề phụ và chỉ được dùng thời gian và phương tiện sản xuất còn dư ra mà ngành trồng trọt không cần đến. Hơn nữa, tại các vùng độc canh lúa, diện tích lúa chiếm 85- 90%, lúa gạo không đủ cho người ăn thì làm sao có thể cung cấp thức ăn cho gia súc?
( còn tiếp )
#Tien Tuyen Mar. 28_29, 1971 trang hai
(bài 02) CHÍNH SÁCH KINH TẾ MIỀN BẮC TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN TRƯƠNG HIỆN NAY
(Tiếp theo bài 01)
Đảng không cho mục đích chăn nuôi là để cung cấp thịt cho dân chúng ăn no đủ mà chỉ để cung cấp sức kéo và phân bón cho ruộng đất. Vì phần nhiều việc canh tác đều dùng sức người và trâu bò, nên vẫn như xưa kia, trâu bò được coi là vô cùng quan trọng trong việc cày bừa.
Năm 1963, khi nông nghiệp Bắc Việt đạt đến mức phồn thịnh nhất, toàn Bắc Việt chỉ có chừng 1.058.000 trâu và 796.000 bò, kể cả những con còn nhỏ hoặc già yếu không góp gì được cho việc sản xuất. So với tổng số diện tích ruộng đất canh tác là 2.137.000 ha thì trung bình mỗi con trâu hoặc bò phải kéo 1 ha.
Ở miền núi, đất gieo trồng ít, lại có nhiều trâu bò hơn gấp ba ở đồng bằng mà diện tích đất nhiều gấp đôi. Tính tổng số 100 ha canh tác ở miền núi lại có 142 trâu bò, trong khi miền xuôi chỉ có 38 con. Ngoài ra, cách thức chăn nuôi còn cổ lỗ, thuốc men lại không có nên nhiều súc vật chết vì bệnh như 50% nghé chết vì bệnh giun đũa, 20% chết vì chuồng trại, 10% chết vì đẻ non, 3% chết vì thiếu sữa.
Về chăn nuôi trong gia đình, các nhà kinh tế học Bắc Việt tính toán cho mỗi gia đình có thể nuôi dễ dàng mỗi năm 2 con heo mập, vì họ căn cứ vào sức lao động phụ và nhàn rỗi, đồ ăn thừa bỏ đi. Nhưng thực ra, họa hoằn lắm và nơi nào thật là tốt nhất thì hai gia đình mới nuôi nổi ba con heo nhỏ.
Dân chúng chán nản vì cũng như không thu được dư gạo lúa chút nào, hoặc nuôi cho heo lớn thì phải đem bán cho nhà nước với giá nghĩa vụ, tức chỉ bằng nửa tiền giá thị trường mà thôi.
Chăn nuôi tập thể nghĩa là hợp tác xã trực tiếp kinh doanh, giao heo cho xã viên nuôi giùm ở nhà.
Ngoài ra lại còn các nông trường và trại chăn nuôi quốc doanh do cán bộ và nhân viên nhà nước quản lý trực tiếp.
Tuy gọi là được tổ chức theo khoa học, các cơ sở này còn thô sơ, kỹ thuật chưa có gì đáng kể. Người ta lại còn nai lưng ra làm cả ngày đêm để hầu hạ trâu bò mà chẳng ăn cái gì cả.
Về ngư nghiệp, nhà nước cho là miền Bắc có 1.000 cây số bờ biển, có nhiều loại cá: Vịnh Bắc Bộ tuy hàng năm có thể khai thác 30-40 vạn tấn cá. Tuy nhiên sản lượng cá hàng năm được chừng 10 vạn tấn. Các cơ sở quốc doanh nuôi cá không tạo được nguồn sản phẩm. Nhiều hợp tác xã làm nghề cá mà coi nhẹ việc đánh cá, có khi thuyền lưới để đấy không có người làm. Hàng năm xã viên làm được ít ngày công cho hợp tác xã. Có nơi dùng phương tiện sản xuất tập thể để đi làm riêng lẻ. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nghề hiện nay còn quá yếu, việc khai thác và chế biến chủ yếu còn dựa vào lao động và công cụ thô sơ.
Một hoạt động kinh tế quan trọng của BV, sau việc cải cách ruộng đất, là xây dựng kỹ nghệ. Từ 1955 đến 1957, số vốn đầu tư vào ngành kỹ nghệ là 38% tổng số vốn đầu tư toàn quốc, và kỹ nghệ nặng chiếm 72% số vốn đầu tư dành cho công tác phát triển kỹ nghệ.
( còn tiếp )
#Tien Tuyen Mar. 30, 1971 trang hai
(bài 03 - tiếp theo bài 02 và hết) CHÍNH SÁCH KINH TẾ MIỀN BẮC TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN TRƯƠNG HIỆN NAY
Từ năm 1955 đến 1959, BV được khối Cộng Sản viện trợ 817 triệu Mỹ kim, mà 95% là của Trung cộng và Nga. (Trung cộng viện trợ 480 triệu Mỹ kim và Nga sô viện trợ 228 triệu.)
Một vài nhà máy được các nước cộng sản đàn anh viện trợ trang bị rất tối tân như nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy giấy Hoàng văn Thụ, nhà máy Xi măng Hải phòng, và nhà máy dệt Nam Định. Các nhà máy này hoạt động chưa đúng mức vì chính sách động viên liên tục đã làm cạn kiệt nguồn nhân lực, vật lực, và tài lực phải cung cấp ngày càng nhiều hơn cho nhu cầu chiến tranh, nên đã bị kiệt quệ.
Bước vào kế hoạch 1966-67, nền công nghiệp suy sụp trầm trọng. Các cuộc oanh tạc đã làm cho cơ sở bị tàn phá gần hết, một số bị phân tán. Tuy nhiên, từ khi ngưng oanh tạc, các ngành, các cơ sở cố gắng khôi phục sản xuất, sửa chữa và bổ sung máy móc, tăng thêm trang bị. Tuy nhiên nhiều công trường máy móc thì nhân công ít. Nhiều đoàn xe vận tải chỉ huy động được một tỷ lệ nhỏ số xe thường xuyên, trong khi phần lớn phải nằm ở xưởng sửa chữa.
Trong nhà máy cơ khí, số giờ chạy máy còn thấp, ở một số địa phương, số máy hiện vẫn nằm ở kho vì thiếu người xử dụng.
Việc huấn luyện thợ chuyên môn quá kém làm cho hỏng máy luôn vì thợ vừa làm vừa học. Có nơi 80% vụ hỏng máy là do công nhân không biết dùng và giữ gìn máy gây ra.
Ở nhiều nơi không có đủ việc làm do thiếu các điều kiện cần thiết để sản xuất điều hòa như thiếu nhiên liệu, nguyên liệu và dụng cụ. Dây chuyền sản xuất không đồng bộ, khâu nọ chờ khâu kia và thường phải ngừng hoạt động hẳn.
Trường hợp điển hình là ngành sản xuất than mỏ. Chính quyền dành nhiều ưu tiên cho ngành này, vậy mà sản lượng than từ nhiều năm nay không gia tăng. Ngoài lý do bị oanh tạc nặng nề, còn có sự quản lý bê bối và sự chỉ đạo quan liêu của đội ngũ công nhân khu mỏ. Công nhân hoạt động chưa làm đầy đủ giờ làm việc, ngày làm việc và không tuân thủ kỷ luật lao động.
Tình hình ngành tiểu thủ công nghiệp cũng tồi tệ không kém. Trong số 335 hợp tác xã (HTX), có 120 HTX kém và phần lớn trong 366 tổ sản xuất đa số là tổ kém. Đa số các HTX không tích cực thực hiện kế hoạch của nhà nước mà lại đi nhận công việc riêng tư.
Có HTX hóa chất khai gian, tăng công thức tiêu hao các-bô-nát để làm acide bán ra thị trường với giá cao hơn giá thu mua của nhà nước rất nhiều. Có HTX sản xuất tay nắm xe đạp khai gian để lấy thừa 500 ký nhựa làm 3.705 đôi tay nắm bán ra ngoài.
Công việc làm ăn bất hợp pháp, và sự thông đồng tham ô và lấy cắp của công ở nơi nào cũng có, mọi nơi và mọi cấp.
Trong hiện tình khi miền Bắc vẫn tiếp tục gây chiến, bắt lính và gửi quân đi chiến đấu ở những mặt trận xa xôi Lào, Miên thì tình trạng tham ô càng thêm to lớn chứ không có cách gì chặn đứng được, như Đảng từng muốn làm bằng mọi phương thức. Thật thế, Đảng đã đủ mọi việc có thể làm được, từ cải tổ chi bộ tiên tiến cơ sở, thay đổi căn bản nghị quyết này đến nghị quyết khác, luật này đến luật khác, ngay cả việc trừng phạt nặng các cán bộ cao cấp đã phạm tội lấy cắp của công.
Đối với nhân dân, cái ăn là vấn đề quan trọng nhất. Đảng nắm giữ hoàn toàn việc phân phối lương thực để ép buộc các gia đình phải cho con em đi làm nghĩa vụ quân sự. Hàng triệu thanh niên đã ra đi và hơn nửa triệu người đi không trở về với gia đình. Sự hao hụt đau thương và to lớn đó làm kiệt quệ lực lượng lao động gồm những người đàn ông khoẻ mạnh có năng lực sản xuất cao, đến nỗi bây giờ tại hậu phương buộc phụ nữ phải đảm trách công việc lao động nặng nhọc mà bản chất họ không quen làm. Hơn nữa, giới này gồm có một số lớn các gia đình tổ phụ, quả phụ cô nhi mà chồng, cha, con em đã đóng góp phần xương máu vào chiến tranh xâm lăng tàn hại ở Miền Nam cũng như 2 chiến trường cô quạnh ở Miên, Lào. Tất nhiên những người này không ham gì đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm để đóng góp ngày càng nhiều lương thực cho nhà nước, cho những cán bộ mà họ đã thấy rõ sự tham ô.
Do đó, tình trạng chỉ làm cầm chừng đối với nhà nước vẫn còn tồn tại. Nhân dân, dưới sự kềm kẹp của cán bộ Đảng và nhà nước, phải tìm ra mọi thủ đoạn sáng tạo, mọi mánh khóe để làm ăn riêng tư, buôn bán bất hợp pháp, nấu rượu trái phép, ăn cắp lương thực của nhà nước và của HTX.
Hơn nữa, họ không thể tin được lời hứa của nhà nước vì đã quá thừa kinh nghiệm — là khi đã hoàn thành nghĩa vụ lương thực của mình thì họ được toàn quyền xử dụng số lượng lương thực thừa của mình, có thể để dự trữ, để phát triển chăn nuôi, để bán.
Lý do giản dị nhất là các HTX quá bóc lột đã đặt ra những tiêu chuẩn sản xuất quá cao thì làm sao nông dân có số lương thực thừa mà dự trữ. Nếu có dư đi nữa, thì họ cũng chẳng dại gì mà dự trữ, mà đem hoặc phát triển chăn nuôi, hoặc bán cho các cơ quan của chính phủ.
Vào giữa tháng 9 năm 1970, Phó Thủ Tướng Đỗ Mười tổng kết hội nghị sản xuất Đông Xuân 1970-71, đã phải thú nhận những thất bại và tình hình lơ là trong việc sản xuất lúa gạo, rau màu, công nghiệp và chăn nuôi. Tiếp theo, Hoàng Anh, Bí thơ Trung ương Đảng nhận xét rằng: «công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải chuyển biến thật mạnh cả về tổ chức, phương pháp và tác phong thì mới đáp ứng được yêu cầu chung hiện nay. Tiềm lực khả năng của ta còn rất lớn, do đó, lãnh đạo phải chuyển thật mạnh thì mới phát huy được những khả năng to lớn.» Nhận xét của Hoàng Anh có nghĩa là một sự xác nhận rằng nông dân thì tốt, nhưng lãnh đạo các cấp còn ù lì, thiếu khả năng, tham ô như trước thì không hy vọng gì việc sản xuất đạt những kết quả mong muốn.
Hơn nữa, khi cấp lãnh đạo tối cao còn chia rẽ, các phe phái còn rình rập để triệt hạ lẫn nhau, các chưởng đòn quyết liệt còn chờ đợi thời gian để tung ra hết, thì chính quyền trung ương còn yếu và chưa thống nhất nền tảng, quần chúng chưa thể tin tưởng và yên tâm lo xây dựng một nền kinh tế lành mạnh cho đất nước được.
Vì sự ngoan cố của BV, những trận mưa bom thỉnh thoảng lại tiếp tục đổ xuống làm lung lay thêm cái lòng tin đã quá sứt mẻ của quần chúng.
Với chiến lược trường kỳ gây chiến, mở rộng chiến tranh Đông dương, bắt nhân dân chịu khổ kéo dài, BV không hy vọng gì ổn định được lòng dân, hay có thời giờ để cải tổ, sửa chữa, cứu vãn nền kinh tế đã suy sụp. Cuộc chiến tranh phi lý mà Đảng và nhà nước BV đã gây ra và vẫn nuôi dưỡng, không thể khuyến khích nhân dân tích cực lao động vì họ không còn hy vọng được hưởng chút công lao khó nhọc của mình.
#Tien Tuyen May. 12, 1971 trang nhất
Vét cạn nhân lực miền Bắc cũng không đủ để tiếp tục chiến tranh xâm lược
Bắc Việt tung cán bộ bí mật xâm nhập Thái Lan mộ lính Việt kiều #Tien Tuyen May. 12, 1971 trang nhất
Vét cạn nhân lực miền Bắc cũng không đủ để tiếp tục chiến tranh xâm lược
Bắc Việt tung cán bộ bí mật xâm nhập Thái Lan mộ lính Việt kiều
VỌNG CÁC 10-5 (AFP). — Một điệp viên BV bí mật xâm nhập Thái Lan để tuyển mộ lính trong đám Việt kiều ở Thái rồi gửi qua chiến đấu ở VN. Tin này do tờ “Bangkok World” loan báo.
Theo tin mà báo này nói là “thông thạo" thì đã có chừng 50 thanh niên Việt đã rời Thái mới đây và còn 50 người khác nữa sắp bị đưa ra khỏi Thái để gia nhập quân đội BV. Tên cán bộ BV này cũng đã quyên góp được 1 số tiền lên tới 100.000 My kim.
Hiện đang có một sự giàn xếp của Hồng Thập Tự Thái và Hồng Thập Tự BV để đưa hết người Việt ở Thái về BV, công cuộc hồi hương Việt Kiều này đã bị gián đoạn từ năm 1965 vì hồi do BV bị oanh tạc quá nặng.
Các quan sát viên cho rằng B.V phải đi tuyển mộ lính như vậy vì chúng đã quá thiếu hụt quân số.
—⚜—
SAIGON (TV). — 11-5 Các chiến lược Nga sô. Trung cộng, Cuba, Bắc Hàn và Pháp đang cố vấn cho lực lượng CS tại Nam Việt Nam.
Bác sĩ BV hồi chánh viên Đặng Tấn hôm Thứ Hai cho biết như trên.
Bác sĩ Đặng Tấn, cựu viên chức Bộ Quốc phòng BV, được gửi vào Nam VN như là Bộ trưởng Y Tế — trong cái gọi là chính phủ Việt cộng, tuyên bố rằng, chính ông đã trông thấy các cố vấn CS ngoại quốc tại các trạm nghỉ ngơi trên đường mòn Hồ chí Minh khi ông đi từ miền Nam qua Ai Lao vào năm 1967. Bs BV hồi chánh Đặng Tấn nói trên đã ở lại đó 2 năm, khi ông đang thiết lập một nhà thương cho du kích quân ở khu vực tỉnh Pleiku, ông đã trông thấy tận mắt 4 hoặc 5 nhóm chiến lược gia ngoại quốc, một nhóm có chừng 3 tới 5 người. Bác sĩ hồi chánh này nói rõ thêm, những chiến lược gia ngoại quốc này có mang vũ khí, thường mặc bà ba đen và được lực lượng an ninh BV theo hộ tống.
Bs BV hồi chánh Đặng Tấn nhấn mạnh thêm «tôi đã trông thấy các chiến lược gia Nga Trung cộng, Cuha, Bắc Hàn và Pháp ở sâu trong lãnh thổ Nam Việt Nam. Tôi đã nghe họ nói bằng ngôn ngữ tiếng của họ.» Bác sĩ hồi chánh Đặng Tấn nói tiếp, các chiến lược gia người Pháp là cựu binh trong chiến tranh Đông Dương chống Pháp, họ đã không chịu hồi hương theo thỏa ước Genere 1954. (TV)
—⚜—
#Tien Tuyen May. 8, 1971 trang nhất
Từ Căn Cứ 6 Về, Hồi Chánh Viên Chuẩn Úy Bùi Ngọc Chiêu Tiết Lộ
Tinh Thần Cán Binh Cộng Sản Sa Sút Trầm Trọng
★ Đói Ăn, Thiếu Mặc, Bịnh Tật Đã Giết Dần Mòn Cán Binh Cộng Sản Trên Bước Đường Xâm Nhập
⚫ Trung Bình, Cộng Sản Mất Khoảng 40% Tổng Số Cán Binh Từ Miền Bắc Xâm Nhập Vào Nam Việt Nam
By THÁI NGƯƠN HIỀN
KỲ 1. — Vừa gặp mặt tôi và qua sự giới thiệu của ký giả Tiến Dzũng. Hồi Chánh Viên chuẩn úy CSBV Bùi ngọc Chiêu niềm nở bắt tay tôi. Anh vui vẻ tâm sự:
— Tôi coi như được sống lại khi biết mình thực sự sống dưới chế độ Tự do tại miền Nam.
Anh nói tiếp:
— Không phải đợi đến bây giờ tôi mới có ý định ra hồi chánh. Ý định đó đã manh nha trong đầu óc tôi cách đây 5 năm.
Hồi chánh viên Bùi ngọc Chiêu là trung đội trưởng trung đội 2 thuộc ĐĐ C11 Tiểu đoàn CK Trung đoàn 28 của Mặt trận B3 CSBV, đã về trình diện ngày 10-4-71 tại Đại Đội ĐPQ Dak Mot.
Anh Bùi ngọc Chiêu năm nay 26 tuổi, quê quán tỉnh Ninh Bình, là con thứ tư trong một gia đình Trung nông có 4 anh em trai và 2 chị gái. Anh đã học hết lớp 5 tức hết bậc tiểu học.
Năm 1966 anh vào thụ huấn quân sự tại Đại đội Bộ binh tại Ninh Bình. Tại đây anh học kỹ thuật tác xạ các loại súng B30, B41, và AK47. Sau khi được thụ huấn 3 tháng, anh ra trường với cấp bậc binh nhì và phục vụ tại tỉnh nhà.
Trên bước đường xâm nhập vào Nam VN và Ý định ra hồi chánh chớm nở vào năm 1966
Sau đó anh đã được chỉ định theo Trung đoàn «Kiên Giang» để xâm nhập vào Nam VN. Vào năm 1966, Trung đoàn «Kiên Giang» đóng tại Khe Sanh được 14 tháng rồi giải tán và trở ra Bắc.
Lúc Chiến dịch Khe Sanh kéo dài 14 tháng, tại đây anh được thăng cấp Hạ sĩ và cũng tại đây, ý định ra hồi chánh của anh chớm nở trong đầu. Nhưng anh chưa có được một cơ hội nào để trốn thoát Cộng sản quỷ quyệt luôn kiểm soát quá chặt và luôn luôn đe dọa là: «Các hồi chánh viên ra hồi chánh thì bị chính quyền VNCH tra tấn tàn nhẫn để khai thác sau đó bị đem đi thủ tiêu hoặc giết chết.»
Và các cấp chỉ huy cấm hẳn các binh lính cộng sản nhặt và đọc các tờ truyền đơn kêu gọi cán binh CS ra hồi chánh.
Tuy nhiên anh em cán binh thỉnh thoảng cũng nhét vài tờ và đọc lén. Anh cũng tiết lộ là việc cấm lượm các truyền đơn kêu gọi hồi chánh thực ra cũng không quá nghiêm ngặt, vì thế đa số các cán binh CS đều có lượm và đọc qua.
#Tien Tuyen May. 12, 1971 trang nhất
Từ Căn Cứ 6 Về, Hồi Chánh Viên Chuẩn Úy Bùi Ngọc Chiêu Tiết Lộ
Tinh Thần Cán Binh Cộng Sản Sa Sút Trầm Trọng
★ Mỗi Cán binh cộng sản xâm nhập được phát hàng ngày 14 lạng gạo và 6 lạng muối trong suốt tháng
⚫ Cuộc tiến quân của QLVNCH vào Kampuchea và Hạ Lào đã cắt đứt hoàn toàn các trục tiếp liệu cộng sản
By THÁI NGƯƠN HIỀN
KỲ 2. - Sau đây là anh Chiêu phác họa lại quãng đường mà anh đã đi qua sau lần xâm nhập vào miền Nam lần thứ hai.
Ngày 20.12.68 Trung đoàn 28 đã đi bộ từ Quảng Bình cho tới ngày 10-2-68 tức là mất 50 ngày đường mới tới vùng ba biên giới Kontum, xuyên qua con đường mòn HCM trên đình Trường Sơn thuộc Quận Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị VNCH, sông Cù Bay, rồi đi dọc theo biên giới từ Trung Lào xuống Hạ Lào, xuyên qua cao nguyên Boloven cuối cùng đến ngã ba biên giới Kontum.
Anh đã tả lại cuộc «trường thành vạn lý» (longue marche) 50 ngày như là một giấc mộng khủng khiếp.
Hàng ngày cộng sản phát cho mỗi cán binh 14 lạng gạo và 6 lạng muối trong 1 tháng. Anh đã phải ăn ròng rã như thế trong suốt quãng đời chiến đấu của anh cho tới khi ra hồi chánh.
Thỉnh thoảng trung đoàn mới bắn được thú rừng xẻ ra chia nhau ăn. Ngoài ra còn phải hái cả rau rừng để ăn thêm. Tuyệt nhiên không được dân chúng tiếp tế bất kỳ một thứ gì khác.
Bệnh tật thì đe dọa thường xuyên các cán binh xâm nhập, nhất là bệnh sốt rét rừng. Trung bình cứ 100 cán binh xâm nhập được vào Nam VN thì bị chết hết 40 người.
Anh cùng thổ lộ là từ ngày xâm nhập vào Nam VN đến nay anh chưa biết mặt đồng bạc của MTGP vì tất cả tiền bạc đều do Trung đoàn trưởng thâu hết để mua gạo tiếp tế từ Trung cộng gởi sang.
Khi QLVNCH chưa lên đánh KPC và Hạ Lào thì đơn vị anh mua gạo của KPC hay Lào. Nay KPC và Ai Lao đều bị QLVNCH tiến đánh và cắt đứt mọi đường tiếp tế nên chỉ còn trông cậy vào Trung cộng mà thôi.
Điều đó đã chứng tỏ hai cuộc tiến quân của QLVNCH vô KPC và Ai Lao đã cắt đứt một cách hiệu quả các đường tiếp tế của CSBV. Như vậy, CSBV có muốn tái lập lại các trục tiếp tế của họ cũng sẽ phải mất đi vài năm.
( còn tiếp )
$pageOut$pageIn
Phân đoạn 2
#Tien Tuyen May. 13, 1971 trang nhất
Bác sĩ hồi chánh Đặng Tấn vạch trần thủ đoạn dã man của CSBV đối với tù binh Mỹ
BV SỬ DỤNG TÙ BINH VÀO MỤC TIÊU QUÂN SỰ, KINH TẾ LÂU DÀI, KHÔNG RIÊNG Ở MIỀN BẮC
★ Tù binh Mỹ đã bị tra tấn và bị tẩy não. ★ Mặt trận Dân tộc Dân chủ Hòa bình là công cụ của CSBV #Tien Tuyen May. 13, 1971 trang nhất
Bác sĩ hồi chánh Đặng Tấn vạch trần thủ đoạn dã man của CSBV đối với tù binh Mỹ.
BV SỬ DỤNG TÙ BINH VÀO MỤC TIÊU QUÂN SỰ, KINH TẾ LÂU DÀI, KHÔNG RIÊNG Ở MIỀN BẮC.
★ Tù binh Mỹ đã bị tra tấn và bị tẩy não. ★ Mặt trận Dân tộc Dân chủ Hòa bình là công cụ của CSBV.
SAIGON. — Trong cuộc họp báo sáng 11-5, một Bác sĩ VC hồi chánh cho biết nhân dân và Chính phủ Hoa Kỳ không nên nuôi ảo vọng BV sẽ phóng thích tất cả tù binh Mỹ hiện nay đang bị giam giữ.
Sử dụng tù binh vào mục tiêu Quân sự và Kinh tế
Theo lời Bác sĩ hồi chánh Đặng Tấn, sinh năm 1929 tại Quảng Ngãi thì qua kinh nghiệm với cuộc đấu tranh chống Pháp trước đây, BV đã coi tù binh Hoa Kỳ như là một thế chính trị của họ. Những sĩ quan Hoa Kỳ bị BV bắt giữ có khả năng còn có thể bị nhà cầm quyền Hà nội sử dụng vào các mục tiêu quân sự, kinh tế cho hiện tại hay lâu dài.
Khả năng của những tù binh Hoa Kỳ, theo lời Bác sĩ Đặng Tấn, không những chỉ được khai thác tại BV mà còn được tận dụng ở các quốc gia khác trong khối CS.
Bác sĩ Tấn tiết lộ rằng Bắc Việt đã vi phạm nghiêm trọng Quy ước Genève 1949 về tù binh chiến tranh bằng cách cho phép các quốc gia thuộc khối Cộng sản như Liên Sô, Trung cộng, Cuba khai thác các sĩ quan tù binh Mỹ về mặt tình báo chiến lược và tuyên truyền.
Do đó Bác sĩ Tấn tin chắc rằng BV sẽ không bao giờ phóng thích đầy đủ cả số tù binh Mỹ mà hiện họ đang giữ vào khoảng hàng ngàn người.
Dùng phương thức tẩy não tù binh Mỹ
Về phương cách đối xử đối với tù binh Mỹ của BV, ngoài các phương thức tra tấn thông thường, Bác sĩ Đặng Tấn nhận xét rằng phương thức độc ác nhất mà BV áp dụng đối với tù binh Mỹ là tẩy não. Theo phương thức này, người tù binh luôn luôn ở trong một tình trạng căng thẳng tinh thần và họ bị gieo vào đầu ý tưởng luôn luôn sợ sệt vì mang mặc cảm phạm tội trước những cái nhìn thù hằn của dân chúng BV.
Bác sĩ Tấn tiết lộ rằng, chính người bạn thân cận của ông là Thiếu Tướng Nguyễn Đôn, Cựu Tư Lệnh Quân khu 4 VC được giao phó nhiệm vụ tổ chức đường dây xâm nhập vào Nam qua ngả Lào và hiện nay BV đem cả sư đoàn CSBV sang Lào để bảo vệ đường mòn HCM. Ngoài ra, BS Tấn cũng cho biết cán bộ CS Lào cũng đã từng được Đảng Lao Động Hanoi đưa về BV huấn luyện để trở lại hoạt động trên quốc gia họ.
Như vậy, Bác sĩ Tấn kết luận chiến tranh VN sẽ không bao giờ chấm dứt nếu Lào Miên còn chưa bị cộng sản xích hóa.
Sau cùng nhận định về "Mặt trận Dân tộc Dân chủ và Hòa bình" [ * ], Bác sĩ Tấn cho rằng đây là một trong những âm mưu của Cộng sản và khi đề nghị chính phủ liên hiệp, CS hy vọng có thể cướp chính quyền một cách dễ dàng hơn.
Tại Trung tâm quốc gia Báo chí sáng nay, Bác sĩ Đặng Tấn cho biết ông đã trở về chính nghĩa quốc gia từ tháng 9-69 nhờ lợi dụng một cơ hội của cuộc hành quân Việt Mỹ tại Pleiku.
Sở dĩ đến hôm nay mới ra mắt báo chí là vì cũng như tất cả các hồi chánh viên khác, Bác sĩ Tấn đã phải trải qua những thủ tục hồi chánh. Hơn nữa, qua một năm ở miền Nam tự do, Bác sĩ Tấn mới có dịp nhận xét so sánh chế độ của 2 miền Nam Bắc.
Bác sĩ Đặng Tấn được kết nạp vào đảng cộng sản từ năm 1948, được chọn lựa học khóa y sĩ từ năm 1952 và tốt nghiệp năm 1962. Ông đã từng giữ các chức vụ Giám đốc Bệnh viện của Tổng Cục đường sắt, Trưởng phòng kế hoạch và Nghiệp vụ của Ty Y Tế v.v....
Từ năm 1965 Bác sĩ Đặng Tấn được đưa vào Nam và theo lời hứa hẹn của Tr. tướng Nguyễn văn Vịnh, ông sẽ giữ một chức vụ quan trọng trong cái gọi là Chính phủ CS miền Nam sau khi "giải phóng".
Nhân dịp này, Bác sĩ Tấn đã đưa ra một số nhận định về những điều mà CS đã làm từ trước đến nay. Theo đó Bác sĩ Tấn đã phải suy nghĩ về những gì mà CS gọi là đoàn kết hòa giải dân tộc.
Đoàn kết theo kiểu CS, Bác sĩ Tấn nhấn mạnh, là kết nạp các thành phần bất mãn chống Chính phủ VNCH để tạo lập Mặt trận Dân tộc Dân chủ Hòa bình đấu tranh đòi hỏi những quyền lợi phi lý.
Đề cập đến vấn đề Lào và Miên, bác sĩ quan niệm rằng không bao giờ CSBV thực hiện chủ nghĩa cộng sản thành công tại VN nếu Lào và Miên không làm cuộc cách mạng vô sản, do đó mặc dù cố tình bưng bít, theo lời Bác sĩ Tấn, ngày nay không ai còn thắc mắc về mức độ quân đội BV hoạt động tại Lào và Miên.
[ *: Một vài nét chánh về tổ chức Cộng sản đội lốt này:
#Tien Tuyen May 18, 1971 trang ba
Tù binh Cộng sản lên án chiến thuật biển người của CSBV #Tien Tuyen May 18, 1971 trang ba
Tù binh Cộng sản lên án chiến thuật biển người của CSBV
✦ Quân Lực VNCH là lực lượng duy nhất có thể đánh gục Cộng quân tại chiến trường trắc nghiệm Kampuchea
CHIẾN TRƯỜNG KPC 17-5. Tin từ ở chiến trường cho biết hiện nay chưa một ai có đủ thẩm quyền lên tiếng về chiến thắng quân sự tại chiến trường máu lửa KPC. Đó là việc đã hạ gục các lực lượng chính qui BV. Một lực lượng đang được thế giới ... mô tả là «quỷ quyệt» với dã tâm thực hiện cho mưu đồ xâm lược của họ dưới bất hình thức nào. Trong đó phải kể đến 1 tội ác tàn bạo nhất là việc tung quân vào «lò sát sinh» Kampuchea hàng chục ngàn quân trong chiến thuật thí quân biển người của họ bởi các cuộc giao tranh đẫm máu với Quân lực VNCH tại đây.
Nhưng dù muốn dù không thì vấn đề đối diện với binh đội quỷ quyệt CS/BV trực tiếp tại chiến trường đã được nêu ra với Quân lực VNCH, là đối thủ của 4 Sư đoàn chính qui BV đang tham chiến tại vùng này trước khi có 1 bản kết luận chính xác hợp thời để xác định vị trí địch và ta, lực lượng nào chiếm phần tiện nghi chung cuộc kết thúc trận chiến trong vinh, nhục v.v. Trên đây là những nét chấm phá chính của cuộc diện chiến tranh trận chiến trong vinh, nhục …
Trên đây là những nét chấm phá chính của cuộc chiến tranh Đông Dương. Trận chiến trắc nghiệm giữa binh đội BV - VNCH. Một trận chiến thử lửa giữa phe CS và Thế giới Tự do trong «địa ngục trần gian» Kampuchea.
Còn quá sớm để nhận định chiến thắng của Quân lực VNCH tại Kampuchea.
Phái viên TV [ * ] từ Kampuchea trở về sau khi tham dự nhiều cuộc giao tranh ác liệt trên chiến trường Đông bộ Snoul. Trong dịp theo chân các lực lượng Bộ binh VNCH, một trong những cánh quân của Tướng Nguyễn văn Minh đang được tung vào chiến trường này để truy lùng 2 sư đoàn Cộng quân BV.
Người viết bài đã có những nhận xét, một cái nhìn khách quan về chiến thắng cuối cùng trong trận giặc thử lửa giữa binh đội BV và Quân lực VNCH.
Một nhận định tuy hơi sớm và chủ quan nhưng những chi tiết xác thực nhất tại chiến trường đã cho phép người viết bài được trình bày một kết luận hồi chung cuộc: «Quân lực VNCH là lực lượng duy nhất đánh gục binh đội BV tại chiến trường trắc nghiệm KPC trong thời gian tới đây».
Nếu như thắng trận này chưa đến hồi kết thúc là bởi những lý do đặc biệt của nó. Một vài nhận định mới đây cho hay chiến trường KPC là «mấu chốt đưa đến những quyết định trên bàn hòa đàm từ phía các lực lượng tham chiến tại KPC» ... Đây cũng là một trong những lý do đặc biệt khiến chiến trận Kampuchea vẫn còn kéo dài. Đồng thời cùng là những phác giác mới trước khi viết bài đưa ra nhận định còn quá sớm đáng lẽ chưa nên được đề cập trong lúc này.
Lý do thất trận của binh đội BV.
Người ta được biết trong các trận đánh nổi danh từ Hạ Lào vừa qua và chiến trường Kampuchia hiện nay, quân BV luôn luôn sẵn sàng thi hành các kế hoạch tàn bạo nhất trong các chiến dịch đánh phá của họ nhằm đối phó với hỏa lực phi pháo và khoảng 40 ngàn tay súng thiện chiến thuộc các Quân, Binh chủng VNCH tham chiến tại đây.
Cũng nên biết rằng, các lực lượng được chọn tham chiến ở cả 2 trận địa Hạ Lào và Kampuchea đều là những tay súng từ các quân binh chủng thiện chiến trong Quân lực VNCH.
Ngoài ra, các cấp chỉ huy quân sự cũng đã được trang bị hóa về kinh nghiệm chiến trường, quan niệm hành quân, tiếp vận, lãnh đạo chỉ huy trước khi họ nhận trọng trách.
Mục đích kể trên là không ngoài việc giúp cho cấp cấp chỉ huy có cái nhìn mới tổng quát về chiến lược, chiến thuật của CS đang áp dụng tại chiến trường ngoại biên hầu đối phó với địch. Trong đó còn phải kể đến việc gìn giữ mạng sống của binh sĩ là điều đáng quí.
Có lẽ không ai ngờ rằng yếu tố «nhân đạo» đã giữ vai trò quan trọng trong cuộc chiến máu lửa với quân chính qui BV tại đây. Lý do chính đã khiến Quân lực VNCH giữ được thế đứng lâu dài đối đầu với các chiến thuật tàn bạo mà binh đội CS đè xuống đầu các «đồng chí» của họ trong các trận chiến vang danh vừa qua.
Phải chăng đây là động cơ thúc đẩy khiến binh đội BV sa lầy tại chiến trường, trong các mưu đồ quân sự của họ mới thoạt ló dạng đã bị bẻ gẫy từ trong trứng nước.
Tại sao lại diễn ra tình trạng này?
Những tay đao phủ thủ trong cuộc chiến Đông Dương.
Trong khi đó, cấp chỉ huy quân sự BV lại là những kẻ giết người không gớm tay, là «Đao phủ thủ» xếp hàng thứ nhất trong lịch sử chiến tranh nhân loại. Chưa bao giờ người ta nhận thấy cán binh Bắc Việt lại chịu bị hy sinh nặng nề về nhân mạng kinh khủng như trong trận chiến Đông dương hiện nay. Hơn cả sự hy sinh của cán binh BV trong các trận đánh hồi Tết Mậu Thân tại VNCH mà dân chúng đã có dịp chứng kiến.
Nếu từ hậu phương những ai có dịp qua đây ghé thăm chiến trường Hạ Lào giai đoạn vừa qua và Kampuchea hiện nay, chính mắt nhìn thấy những phi vụ không tập khổng lồ của hàng chục phản lực cơ B52, hàng trăm phản lực cơ chiến đấu, bên cạnh đó là sự tham chiến hữu hiệu của trực thăng và hỏa lực pháo binh, thì mới thấy hình ảnh tàn bạo của chiến trường. Hình ảnh này đập vào mắt chắc chắn sẽ khiến những người dù không yếu tim cũng phải «mất hồn vía».
Chúng ta có thể nghe lời kể lại của những binh sĩ trực tiếp tham dự các trận đánh «mặt đối mặt» với Cộng quân thì sẽ hình dung thấy nguyên một bãi chiến trường trong đó sự thiệt hại của Cộng quân về quân số là không thể tưởng tượng được...
Cán binh BV bị chết bởi sự chống trả của binh sĩ ta thì ít, nhưng bị giết hại bởi hỏa lực phi pháo thì không biết đâu mà kể.
Tội cho binh đội BV là trong những cuộc giao tranh với ta, các cán bộ CS thường hay hối thúc họ nhảy vào những họng súng đã chờ sẵn. Cho nên, giải pháp duy nhất của họ - xem là phản ứng thông thường tại mặt trận - binh đội CS hoặc chọn lựa 1 trong 2 diễn kiện: Chấp nhận giao tranh để tìm cái chết; Hoặc chấp nhận đầu hàng mà hậu quả không biết sẽ đi về đâu. Đằng nào cũng nguy hiểm thì thà cứ chiến đấu trước rồi hậu xét. Một tù binh BV đã tiết lộ như vậy.
Hậu quả của chiến thuật thí quân biển người.
Đó là không kể những cuộc tấn công qui mô của họ vào các căn cứ hỏa lực của VNCH. Hậu quả ra sao thì dường như ai cũng biết. Xác địch phơi đầy trên hàng rào kẽm gai. Vắt vẻo trên ngọn cây. Sình thúi bên giao thông hào v.v...
Một tù binh BV bị bắt tại mặt trận mới đây đã lên án nặng nề về chiến thuật thí quân của cấp lãnh đạo BV. Nhưng chỉ là những lời lên án như muối bỏ biển trước một sách lược xâm lăng của nhà cầm quyền miền Bắc. Lúc thì núp dưới chiêu bài «Giải Phóng miền Nam»; lúc dưới chiêu bài «giải phóng Khờ Me»; Hay «Nhân dân giải phóng Lào» như chúng ta đã thấy. Tiếc rằng tù binh BV đã chết trước khi lời lên án của đương sự kịp đến tai tập đoàn lãnh đạo Bắc Việt — những tên đao phủ thủ giết người không gớm tay. Và dĩ nhiên, có thể đây là 1 trong những lý do chính dẫn đến sự thất trận của binh đội CS/BV tại chiến trường Kampuchea.
Một hậu quả của việc chủ chiến vô nhân đạo, một địa ngục trần gian mà dường như ai cũng đoán được phần thắng bại ngã về phe nào trong cuộc chiến Đông dương (TV).
[ * TV = Hãng Tin Việt do ông Đỗ Nguyên Chi làm Giám Đốc. Trong làng báo chí miền Nam, khá nhiều tờ báo lớn, có uy tín, thường hay dẫn lại tin từ Hãng Tin Việt và hay viết tắt TV ở đầu hoặc cuối bản tin.
#Tien Tuyen Mar. 28, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Hồi chánh viên Trần Ngọc Minh - lính Đặc Công CSBV
Phương Bắc ghi
[ đăng làm 4 kỳ từ #Tien Tuyen Mar. 28, 1972 đến #Tien Tuyen Mar. 31, 1972 ]
#Tien Tuyen Mar. 28, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Hồi chánh viên Trần Ngọc Minh - lính Đặc Công CSBV
Phương Bắc ghi
Kỳ 1
Theo đúng kế hoạch, 12 giờ đêm nay đơn vị tôi phải nổ súng tấn công vào Minh Long. Tiền đồn này nằm về phía Tây Tỉnh Quảng Ngãi. Trận này tôi nhận nhiệm vụ chỉ huy 3 chiến sĩ đặc công khác, bí mật bò vào trong đồn, dùng B40 và plastic đánh sập 2 lô cốt để mở đường cho Tiểu Đoàn BB xung phong tràn ngập.
Sau 3 tháng huấn luyện tại Trường đặc công, đây là lần đầu tiên, tôi nhận nhiệm vụ khó khăn và khá nguy hiểm như vậy. Mặc dù là đảng viên chính thức hơn một năm nay, thế nhưng tôi cũng thấy phập phồng, lo sợ.
Trên đường hành quân từ Gò Chè xuống đồn Minh Long, tôi cảm thấy trong lòng như đang dâng lên một nỗi niềm gì khó tả. Tim tôi đập mạnh và chân tay lẩy bẩy run. Có lẽ vì quá hồi hộp nên tôi đánh bạo hỏi Thượng sĩ Học, một trong 3 người dưới quyền chỉ huy của tôi trong trận đánh này:
— Cậu liệu đêm nay mình làm ăn có trót lọt không?
Học thở dài trả lời:
— Báo cáo chuẩn úy! Tôi ngán quá! Nhất là những bãi mìn dưới hàng rào!
Nghe giọng trả lời của Thượng sĩ Học không được tự nhiên, tôi giật mình và thấy mấy trái B.40 lạnh ngắt đeo bên hông mà bụng bảo dạ, nghĩ đến những chuyện may rủi trong trận đánh đêm nay.
Vòm trời đồn Minh Long sáng lờ mờ, nhô lên khỏi màn đêm đen đặc trước mắt chúng tôi. Đoàn quân vẫn lặng lẽ đếm những bước đi thận trọng. Khi đến tuyến tản quân quy định, các mũi bắt tay vào việc đào công sự.
Đất núi pha lẫn sỏi đá, công việc lại làm rất khẩn trương nhưng tuyệt đối không ai được làm phát ra một tiếng động nhỏ. Đồn cách chỗ chúng tôi có hơn 200 thước, chỉ cần một tiếng xẻng va mạnh vào đá là 500 mạng người sẽ chầu Diêm Vương ngay.
Phía sau chúng tôi là rừng hoang tĩnh mịch, phía trước là ánh sáng huyền ảo của hỏa châu rồi vụt tắt đi ngay. Một không khí rợn người đang bao trùm trên trận địa.
Toán đặc công 4 đứa chúng tôi được gọi lên Ban chỉ huy Tiểu đoàn để kiểm tra trang bị vũ khí. Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng Nguyễn văn Vinh hỏi từng người một:
— Chuẩn úy Minh đem mấy quả B40?
— Báo cáo thủ trưởng 14 trái.
— Thượng sĩ Học mang mấy bánh plastic?
— Báo cáo Thiếu Tá! 20 bánh! Mỗi bánh nặng 250gr.
Cứ thế, lệnh hỏi và báo cáo được đối đáp nhau cho đến người thứ 4. Tất cả các câu trả lời của chúng tôi với Tiểu đoàn Trưởng đều ngắn gọn và chính xác.
Đúng 11 giờ 49 phút, Thiếu tá Vinh ra lệnh cho chúng tôi bắt đầu tiếp nhận trận địa theo kế hoạch đã lập trên sa bàn ở Mật khu.
Tôi và Thượng sĩ Học đi sau. Trung sĩ Phú và Long đi trước để cắt rào kẽm gai và gỡ mìn. Thỉnh thoảng, đèn pha trong đồn lại lè lưỡi liếm qua đầu chúng tôi. Lúc như vậy chúng tôi đều nằm sát đất như một khúc gỗ, tim đập thình thịch như trống Sư tử múa Tết Trung Thu.
Bỗng hàng rào thứ nhất hiện ra ngay trước mặt chúng tôi qua ánh hỏa châu. Tôi và Học hồi hộp chờ Trung sĩ Phú và Long cắt rào nơi phía trước. Khẩu B40 đang nằm cạnh tay tôi run lên bần bật. Phía trước, tiếng kềm bấm kẽm gai và máy dò mìn không phát ra một tiếng động nào. Bỗng Thượng sĩ Học khẽ đập vào vai tôi 1 cái. Mật hiệu trên qua hàng rào thứ nhất đã được quy định trong kế hoạch. Tôi thở dài nhẹ nhõm, vì biết hàng rào thứ nhất đã giải quyết xong. Đoạn tôi đang dùng 2 đầu ngón chân cái làm điểm tựa để nhích người lên phía trước từng phân 1.
Bỗng có tiếng vỏ đồ hộp khua vang ở hàng rào thứ hai. Biết nguy hiểm, tôi và Thượng sĩ Học nằm ép người xuống sát đất. Một vật sáng trong đồn chiếu ra ngay chỗ tôi. Chúng tôi nín thở, như cá nằm trên thớt, chờ ăn đạn. Quả nhiên, chỉ 5-10 giây sau, từng loạt đạn trong đồn vãi ra nghe chiu chiu trên đầu tôi. Tôi có cảm tưởng như bàn tay mình lúc đó nổi da gà, toàn thân lạnh như xác chết, tóc dựng ngược như lông dím. Đèn pha chuyển hướng, màn đêm lại phủ xuống chỗ chúng tôi.
Chưa bao giờ tôi cảm thấy yêu thương đêm đen như lúc này. Nó là ân nhân, là cứu tinh cho chúng tôi thoát chết.
Sau vài loạt súng thăm dò, không gian lại trở về tĩnh mịch. 10 phút sau, bỗng có tiếng huýt gió ở hàng rào thứ 2. Mật hiệu ra lệnh cho tôi và Học bò lên phía trước. Trước khi hành động, tôi khẽ dặn Thượng sĩ Học:
— Vừa bò, vừa rà mìn. Coi chừng bọn nó gỡ sót thì chết!
(Còn nữa)
#Tien Tuyen Mar. 29, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Đặc Công CSBV Trần Ngọc Minh – Phương Bắc ghi
Kỳ 2
Tôi nói xong, Học ấn vào tay tôi. Mật hiệu chỉ đồng ý.
Mặc dù trời không lạnh lắm thế mà đầu gối tôi cứ run bần bật. Chúng tôi đã bò qua hàng rào thứ 2 được vài thước, bỗng thượng sĩ Học nằm lại, tôi tưởng hắn ta mệt nên dừng lại lấy hơi. Do đó, tôi cứ tiếp tục nhích lên. Tôi vừa vượt qua Học chừng 2m, bỗng có tiếng kêu:
— Coi chừng! Khéo vướng mìn giây!
Tôi giật mình chùn lại. Nhưng lúc ấy, chân tôi đã vướng sợi giây nhùng nhằng. Sự việc xảy ra quá đột ngột, tôi vội thét lên:
— Mìn nổ! Học ơi!
Dứt câu, tôi lăn người sang mé trái. Tiếp theo là một tiếng nổ chát chúa vang lên. Tôi còn kịp nhận ra một khối lửa khổng lồ trùm kín cả người mình.
Súng trong đồn bắn ra dữ dội. Tôi nằm im và cố mở mắt để tìm hướng rút lui. Nhưng một con mắt đã tối mù và tôi thấy nước ròng ròng chảy xuống má. Nhờ ánh hỏa châu, tôi nhận ra máu đỏ và vội lấy khăn tay bịt chặt lấy con mắt ấy. Mặc cho đạn trong đồn đang bay ra, tôi nghiến răng bò về phía thượng sĩ Học đang nằm.
— Học ơi! Cậu có sao không?
Vừa gọi, tôi vừa đưa tay sờ soạng tìm hắn. Hắn đây rồi! Tôi lắc hắn thật mạnh, miệng hỏi:
— Mày có sao không? Mày bị thương ở chỗ nào hả Học?
Hắn vẫn không đáp, tôi sờ lần lên mình, lên tay, lên cổ và bỗng rợn người với cái đầu của Học! Đã bay đi đâu mất rồi. Máu nhơm nhớp dính đầy bàn tay tôi. Tôi thở dài nằm lặng người bên xác Học.
Trên trời, hỏa châu treo lơ lửng từng chùm soi sáng cả trận địa. Máy bay trực thăng quần sát hàng rào để tác xạ. Phía ngoài đơn vị tôi nổ súng để kháng cự mỗi lúc mỗi rát hơn.
Trên bắn giống trong bắn ra ngoài bắn vào, chúng tôi nằm giữa giơ lưng ra chịu tất cả. Tôi khẽ cựa mình thấy toàn thân nhức nhối, buốt tê. Tôi đoán có lẽ còn nhiều vết thương trên người tôi nữa.
Lợi dụng những lúc hỏa lực địch chuyển về hướng khác, tôi nhích dần về phía chân đồi. Cứ mỗi lần tiếng súng ngớt, tôi lại nghe thấy tiếng ai đang rên hừ hừ. Chẳng lẽ Trung sĩ Phú và Long bị thương và mắc kẹt trên đó chăng?
Tôi chưa bò được bao xa, thì một số chiến sĩ bộ binh xung phong định vượt hàng vào thứ nhất. Hỏa lực bên ngòai bắn yểm trợ thật là ghê. Trực thăng thì gần như đứng lơ lửng trên không bắn chặn quân xung phong. Hỏa châu được bắn lên tới tấp. Trận địa sáng như ban ngày.
Hai bên đang lúc xử dụng hỏa lực tối đa thì có tiếng gọi tôi:
— Minh ơi! Minh ơi!
Giọng nghe ồ ồ nên tôi chẳng nhận ra ai. Tôi dương con mắt trái còn lại quan sát thì nhận thấy một người mặc quần đùi ở trần đầu quấn chiếc áo từ hàng rào thứ ba đang bò nhanh đến nơi tôi. Vừa kinh ngạc vừa lo sợ, tôi rủa thầm: «Tiên sư cái thằng nào ngu đến thế! Hỏa châu sáng rực, đạn bắn như mưa, thế mà bắn không chịu bò áp cái bụng xuống đất. Bò lồm ngồm như mả thằng ăn mày thế kia thì “tịch” sớm con ạ!»
Trông hắn bò mà tôi phải nín thở mấy lần. Cuối cùng, chịu không được tôi gầm lên: Đồ ngu! Nằm xuống bò!
Nhưng hắn vẫn thản nhiên dùng tay và đầu gối tiến về hướng tôi. Lúc hắn đến gần, tôi chồm lên giật tay hắn xuống thật mạnh và quát:
— Sao con ngu thế!
Vừa dứt câu, một chòm hỏa châu khác lại phóng lên. Qua ánh sáng, tôi rùng mình nhận ra một tia máu ở cổ hắn đang phun ra xối xả. Tôi vội xé quần đùi đang mặc băng cho hắn. Khi băng xong, mắt hắn đã trợn trùng. Hắn chính là Trung sĩ Long. Có nằm trong lửa đạn mới chứng kiến được nhiều cái chết thật quái dị, kinh hồn khiếp vía.
Thế là 2 trong 4 đặc công của mũi tôi đã qua đời không kịp trăn trối.
Quân xung phong đơn vị tôi có lẽ vì trực thăng bắn rát quá nên không còn ồ ạt như trước nữa. Hỏa châu mờ dần, tiếng súng thưa thớt hẳn. Lợi dụng thời cơ này, tôi bò nhanh xuống phía chân đồi. Vừa bò qua khỏi hàng rào thứ nhất bỗng mắt tôi đau nhói, máu chảy ướt đẫm cả chiếc khăn đang buộc. Vừa lúc đó, tôi nghe có tiếng chân người chạy thình thịch phía sau. Tôi đoán biết Trung sĩ Phú tranh thủ tháo chạy.
Tôi đoán biết Trung sĩ Phú tranh thủ thảo chạy. Khi hắn chạy gần tới, tôi với gọi.
— Phú! Nằm xuống tao nhờ một chút!
Nó nhát gừng trả lời tôi:
— Nhớ cái gì?
Tôi nổi điên quát lại:
— Băng hộ tao con mắt bị thương chứ cái gì!
Tôi vừa dứt câu, Phú cũng vừa xé xong miếng vải áo. Đoạn hắn đè đầu tôi ra băng vội vào mắt trái. Tôi hét lớn:
— Tao bị mất phải cơ mà!
Mặc cho tôi la, Phú vụt đứng dậy và trước khi chạy, hắn còn nói nhanh như cháo chảy:
— Báo cáo chuẩn úy ! Tôi bị mảnh M 79 ở lưng! Chuẩn úy «tha» cho tôi. Chịu khó chờ dân công cáng vậy nhé!
Tôi vừa tức, vừa buồn cười. Tôi rủa thầm “Tổ sư thằng khôn nạn! Đặc công gì mà nhát như thỏ”
Mặc dù bị thương nặng như vậy, nhưng tôi vẫn phải bò dần về tuyến tập kết. Hỏa lực trong đồ đã thôi nhả đạn. Đơn vị tôi đã rút lui.
Khi bò ra đến ngoài, tôi nhìn đồng đội tôi nằm chết đủ các kiểu. Người thì nằm ngửa như đang ngủ. Kẻ hãy còn ôm AK chĩa nòng và hướng đồn. Có anh như lại ngồi đang suy tư... Còn súng đạn, quân trang... vất rải rác khắp trận địa.
Bỗng tai tôi lại nghe như đâu đây có tiếng ai rên khóc. Mặc dù vậy, tôi đã hoàn toàn kiệt sức không tài nào nhúc nhích nổi. Nếu cứ thế này, chắc sáng ra tội sẽ bị địch bắt mất.
Tôi đang phân vân thì bỗng có bóng người lù lù đi tới. Tôi lên tiếng tự giới thiệu:
— Minh đây! Minh đây!
Nghe tôi nói xong, người kia lên tiếng:
— Trời ơi! Thượng sĩ Quyết đây này! Để tớ cứu!
Thượng sĩ Quyết nguyên là chiến sĩ cũ của tôi. Tôi được cử đi học đặc công, còn anh vẫn ở bộ binh với chức trung đội phó.
Khi Quyết cõng tôi trên lưng, tiếng rên khóc lại càng lớn hơn. Quyết nhạc nhiên hỏi tôi:
— Kìa! Tôi tưởng tiếng rên lúc nãy là của anh. Nói xong, Quyết cõng luôn tôi về chỗ phát ra tiếng khóc.
Chúng tôi tìm ra một người nằm sau một bờ đất. Tôi đưa tay lần lên người anh ta để tìm vết thương.
Bỗng Quyết rú lên:
— Trời ơi! Đồng chí này bị mất cả 2 chân rồi!
Anh thương binh giọng run run, nói ngắt quãng từng chữ:
— các đồng … chí … cứu … tôi … với!
Tôi cảm động chảy nước mắt và thầm nghĩ: «chẳng lẽ mình lại may mắn hơn anh này?»
Sau khi Quyết đưa tôi và anh cụt 2 chân về tuyến tập kết, tôi gặp ngay Thiếu tá chính trị viên trưởng Tiểu đoàn Huỳnh Ba. Huỳnh Ba nói câu đầu tiên khi gặp tôi:
— Nếu đồng chí chưa hy sinh thì về đơn vị ráng mà chịu kỷ luật. Thất bại trận này là do Tổ đặc công gây ra, mà đồng chí là người chỉ huy!
( còn nữa )
#Tien Tuyen Mar. 30, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Đặc Công CSBV Trần Ngọc Minh – Phương Bắc ghi
Kỳ 3
Mặc dù đang đau và mệt, nhưng nghe hắn nói, tôi chịu không nổi nên quát lại:
— Kỷ luật gì? Thân xác tôi chẳng còn gì để mà đáng kỷ luật!
Nói xong máu nơi mắt tôi lại rỉ ra, đầu tê buốt. Quả thật, tôi muốn chết ngay lúc này. Tôi không phải vì sợ lời hăm dọa của tay chính trị viên trưởng, nhưng cái chết lúc này có thể mang đến cho tôi một cái gì thanh thản hơn, êm dịu hơn.
Sự uất hận và đau nhức vết thương làm tôi ngất lịm đi. Không hiểu là bao nhiêu tiếng đồng hồ, chỉ biết khi tỉnh lại, đã thấy mình nằm bên mặt bờ đất. Phía trên có lùm cây bao phủ.
Trời bắt đầu rạng đông... Tôi thấy Thượng sĩ Quyết nằm bên cạnh nên hỏi:
— Đơn vị ta đâu rồi?
Quyết trả lời gọn lỏn:
— Bọn chúng rút hết rồi!
Nghe Quyết nói, tôi cảm thấy lạnh lạnh nơi xương sống. Đoạn hỏi lại anh ta:
— Có những ai bị bỏ lại?
Thượng sĩ Quyết thở dài rồi trả lời tôi:
— Gần 100 người.
Tôi nắm chặt tay Quyết, một hồi hỏi tiếp anh:
— Thế sao cậu không về?
Quyết nở một nụ cười chế giễu rồi buông một câu:
— Báo cáo là vờ bị sai khớp xương để được ở lại với anh đấy!
Vừa dứt câu, Quyết lớn tiếng gọi to:
— Đồng chí y tá ơi! Lại đây băng cho đồng chí này với.
Tôi sờ mắt bị thương rồi hỏi lại Quyết:
— Chứ hồi đêm đến giờ nó chưa băng bó gì cho tôi sao?
Quyết lắc đầu chửi thề:
— Tiên sư cái thằng y tá! Nó cứ tìm mấy thằng cùng quê để săn sóc trước.
Trên trời, chiếc L-19 đang nghiêng ngả ngó nhòm. Nghe tiếng nó kêu thật đáng ghét. Thỉnh thoảng, tiếng đại bác bắn chặn đường rút lui của đơn vị lại cuộn lên từng cơn dữ dội.
Quyết dụi võng tôi sát vào bụi cây rồi lẩm bẩm:
— Đ. Mẹ không khép lại chết cả đám bây giờ!
Chiếc L19 vụt qua, tay y tá lù lù đến. Hắn nhìn qua các vết thương của tôi. Đoạn lắc đầu chán ngán: — Vết thương khắp mình thế này thì lấy thuốc đỏ đâu mà bôi cho đủ!
Quyết trợn mắt:
— Chú cậu mang thuốc gì mà không đủ? Bộ muốn để dành cho mấy thằng cùng quê hả.
Không nói lại một câu, tay y tá dùng bông lẫn giẻ rách để lau vết thương rồi băng bó cho tôi. Thuốc đỏ có ít nên khi thấy hắn đổ thêm nước trắng vào, Quyết gặng hỏi:
— Bộ đổ nước lã vào thuốc đỏ hả?
Tay y tá gân cổ cãi:
— Đâu có! Nước đã đun sôi rồi!
Xoa xong một lượt thuốc đỏ pha nước lã, tay y tá dùng cồn 90o lau các miệng vết thương của tôi. Tôi như tê dại toàn thân. Song cũng cố hỏi hắn:
— Này đồng chí! Đồng chí xem hộ con mắt phải của tôi có sao không?
Với giọng trọ trẹ Hà Tĩnh, tay y tá đáp:
— Bây giờ thì bị thương rồi chứ còn làm sao nữa.
Quyết ngồi cạnh chịu không nổi lên hét vào tai hắn:
— Đồng chí Minh hỏi con mắt có sao không nghĩa là sau này có trông thấy được nữa không?
Tay y tá thản nhiên đáp:
— Thấy chứ! Mắt đồng chí Minh chỉ bị mảnh mìn «lạng» qua thôi!
Y tá vừa dứt câu, Thượng sĩ Quyết xì một hơi dài:
— Đ. mẹ! Toàn ăn nói theo kiểu chữa bệnh bằng “chính trị” thôi. Đui thì nói đui cha nó cho rồi.
Tay y tá điểm một nụ cười mếu máo. Đoạn hắn nói:
— Báo cáo chuẩn úy và thượng sĩ! Nói thật thì lại sợ động đến “chính sách” của đảng. Tôi mong chuẩn úy và thượng sĩ “thông cảm” cho.
Tôi hồi hộp hỏi lại tay y tá:
— Ừ thì thông cảm! Thế đồng chí nói thật đi. Mắt tôi có làm sao không?
Hắn nhíu lông mày rồi lắc đầu trả lời:
— Báo cáo chuẩn úy không?
Mặc dù đã biết trước như vậy, nhưng khi nghe chuối những ý tôi nói ra, tôi vẫn choáng váng và tim như ngừng đập.
———
Khi mặt trời lách qua khe lá, chiếu thẳng tia yêu ớt xuống chiếc võng đẫm máu của tôi, thì tiếng máy bay nghe đã rền trời. May là khu vực này nhiều cây và bụi rậm nên L19 khó quan sát. Tuy nhiên, một vài trực thăng vẫn nhả tràng đại liên vu vơ xuống đất.
———
Lúc này, quân dân Đồn Minh Long kéo ra lục soát chắc thì cũng tóm gọn được bọn thượng binh này. Đột nhiên, cơn khát nước bỗng dâng lên. Tôi xin Quyết một túi nước nhưng hắn nhất định không cho mặc dù nước đâu có thiếu.
Cổ tôi như cháy, tôi khát đến độ cứ nhắm mắt và là toàn thấy trời mưa, sông suối, thấy bơi lội. Cuối cùng, vì tôi năn nỉ và cả chửi rủa nữa, Quyết mới chịu rót cho tôi một hớp vào nắp bi đông. Hắn đang rót vào miệng tôi thì có tiếng ồn ào. Tôi ra hiệu cho Quyết biết và hắn liền chạy đi trinh sát. Đoạn quay về báo cho tôi biết là có Đội tới tải thương binh. Tôi mừng quá liền quên cả cơn khát đang hành hạ.
Khi có bốn năm người vác đòn đến gần chỗ tôi, mắt họ láo liên, liếc ngang dọc. Quyết liền gọi:
— Đồng chí này bị thương nặng, đề nghị các đồng chí ưu tiên cáng trước đi.
Trong đám có một tiếng đáp lại:
— Biết rồi! Ở đây không có ai có quyền ra lệnh cho chúng tôi đâu!
Dứt câu, tôi còn nghe cả mấy tiếng bàn tán thì thầm:
— Coi bộ thằng đó nặng lắm chúng mày ạ!
Có tiếng đáp lại:
— Thằng nào nặng bỏ lại, khiêng sau. Tìm thằng nhẹ khiêng trước đã.
Thế là tôi bị Đội tải thương bỏ qua vì cái hình hơi to con. Thượng sĩ Quyết tức quá chửi đổng:
— Sự bố mấy cái thằng chó má này. Chúng mày cạn lương tâm con người rồi phải không? Máy bay không «chiếu cố» đến chúng mày cũng uổng.
Vừa dứt câu, Quyết cõng tôi tới đội tải thương. Cho đến bây giờ, tôi mới thấy tủi hổ cho cái thân phận cầm súng chiến đấu cho Đảng để «giải phóng miền Nam.»
Tôi hy sinh cả thể xác tôi để dâng hiến cho cách mạng. Rút cuộc, bị đồng chí dọa bỏ rơi.
Khi đến Đội tải thương, mặc dù Quyết đã xuống nước năn nỉ, trình bày đủ mọi lý do. Nhưng họ vẫn cương quyết từ chối và bỏ tôi ở lại.
***
Khi 30 cáng thương lên đường, tôi bảo Quyết nằm lại chờ nhưng hắn không chịu. Quyết cố cõng tôi theo đoàn tải thương. Lúc này, tôi thấy thương Quyết hơn bao giờ hết.
Tôi nhớ lại một trận đánh trước đây ở Nghĩa Hành, khi Quyết còn là chiến sĩ của tôi. Hắn bị thương nơi chân đi không được. Đơn vị tháo chạy hết, tôi phải cõng Quyết về hậu cứ mất 6 ngày đường rừng.
Cho đến bây giờ, Quyết lại một mình cõng tôi.
Trên đường theo đoàn tải thương về bệnh viện, có những đoạn băng qua trảng trống, Quyết phải mím môi cõng tôi chạy hết lực để theo kịp đoàn tải thương.
Đi được gần 3 tiếng phải vượt qua một đồi cỏ gianh khá rộng. Toán tải thương vượt qua nửa chừng thì bị L19 phát hiện. Một trái khói màu đỏ được ném xuống. Trong giây lát, 2 chiếc HU1A lao tới, ngay khu đồi tranh thi nhau vãi đạn.
Những cáng thương bị quăng vội xuống đất để chạy thoát thân. Trong khoảnh khắc, toàn khu đồi tranh biến thành biển lửa. Tôi nghe tiếng kêu khóc, cầu cứu của 30 đồng chí vang ra từ trong biển lửa đó.
May mà Quyết mới cõng tôi tới bìa rừng. Hai chúng tôi thoát chết nhờ một gốc cây cổ thụ. Thượng sĩ Quyết nằm cạnh tôi than:
— Có lẽ các đồng chí thương binh nằm bó tay chờ chết Minh ạ!
— Đồng chí bị cụt 2 chân, đội tải thương có cáng đi chuyến này không?
Quyết thở dài đáp:
— Anh ta chết ngay từ đêm qua rồi! Trước lúc chết, anh ta khóc và cứ gọi lảm nhảm “Mẹ ơi! Mẹ.” Rồi nấc lên một tiếng thật to nằm im trên vũng máu.
( còn nữa )
#Tien Tuyen Mar. 31, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Đặc Công CSBV Trần Ngọc Minh – Phương Bắc ghi
Kỳ 4
(Tiếp theo và hết)
Sau cuộc tác xạ của 2 trực thăng đó, chúng tôi không liên lạc được với ai để về hậu cứ của bệnh viện. Quyết bàn với tôi nên tìm đường về. Nhưng tôi không đồng ý. Mặc dù ở lại sẽ gặp nhiều khó khăn như: Thú rừng, thiếu lương thực, thuốc men...
Sở dĩ lỗi không chịu theo Quyết vì nếu đã lạc trong rừng thì trăm phần trăm là chết. Bằng cách nằm đợi tại đây tuy gặp khó khăn như Quyết nêu ra nhưng vẫn còn hy vọng.
Chiều hôm nay, Quyết đặt tôi nằm trên vòng rồi hắn đi kiếm những loại rau gì có thể ăn được ở rừng. Nhân tiện, tìm xem có gặp ai ở đội tải thương hoặc thương binh còn sống sót không?
Khoảng 5 giờ chiều. Quyết ôm một bó rau má và rau tầu bay cùng một củ chuối rừng to bằng bắp đùi trở về. Trông thấy vẻ lầm lì của hắn, tôi biết rằng, không tìm thấy một ai cả.
Hắn luộc rau má với muối xong, thì tôi cũng vừa lên cơn sốt. Các vết thương nhức nhối và mùi hôi xông lên. Riêng về thương ở mắt, tôi thấy buồn buồn như có con gì đang cựa quậy. Tôi bảo Quyết mở tấm băng bằng vải quần rách ra thử xem sao. Tháo đến vòng cuối cùng, hắn kêu tiếng lên làm tôi giật mình.
– Trời! Toàn bọ lúc nhúc trong mắt anh!
Khoảng nửa đêm, tôi tỉnh giấc đã thấy Quyết dựa gốc cây ngủ gật. Tôi chưa kịp gọi Quyết để xin hợp nước thì dã nghe thấy tiếng động mạnh ở đồi gianh vang lại. Tôi hoảng hốt đánh thức Quyết dậy và nói nhỏ với hắn:
– Có tiếng động gần lắm, khéo biệt kích hay cọp thì khốn.
Quyết úp tai xuống đất lắng nghe. Tôi luống cuống tụt xuống đất rơi bịch một cái. Tuy đau điếng, nhưng không dám kêu to.
Đoạn tôi nghe từ xa vọng lại tiếng rên rỉ. Quyết quát lớn:
– Ai? Đứng lại! Tiến lên sẽ nổ súng.
Sau tiếng hô của Quyết, tiếng rên lại càng lớn hơn. Đoạn có tiếng nói lào phào ngất quãng vang lại : – Tôi bị thương nặng ... cứu..tôi… với!
Quyết đáp lại:
– Ở đơn vị nào mà bị thương?
Có tiếng lắp lại run và lớn hơn:
– Họ cáng tôi chạy qua đây! Có máy bay! Họ vứt tôi... rồi bỏ... chạy!
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thế là đoàn chúng tôi có thêm một người. Thật là nan giải, có 2 người mà giải quyết ăn uống thuốc men còn bí huống chi bây giờ lại thêm một mạng nữa.
Tất cả nhờ vào Quyết.
Đồng chí mới đến bị cụt tay trái. Ngoài ra, còn có 1 viên đạn lọt vô phổi. Máu me be bét đầy người. Để cứu chữa cấp thời, Quyết đem nước sôi rửa vết thương và xé quần băng bó tạm.
Sau ba ngày chịu đựng đủ thứ khốn nạn ở trên đời giữa rừng hoang, sang sáng ngày thứ tư mới có người ở đơn vị quay lại tìm. Khi họ gặp chúng tôi, anh thương binh cụt tay mới bò đến tôi hôm nọ đã qua đời.
Riêng tôi đang ngấp ngoải vì các vết thương, dòi bọ đang đục khoét bò lúc nhúc...
Tôi cũng không nhớ họ khiêng tôi đi bao nhiêu ngày mới đến bệnh viện. Chỉ biết khi mở mắt ra, đã thấy tay áo trắng đang sờ mó nơi mắt tôi.
Trước khi giải phẫu, Trung úy Bác sĩ Bùi Lâm ghé sát tai tôi hỏi nhỏ:
– Đồng chí có đồng ý cho chúng tôi múc con mắt thối ra không?
Tôi lo sợ mặc dù đã biết là phải như vậy, song vẫn cứ phân vân vì bị mất một con mắt. Chuẩn úy Ngọc Minh đẹp trai như thế này mà lại bị chột ư? Tôi thở dài trả lời:
— Chẳng lẽ tôi hy sinh một mắt à?
Ông Bác sĩ mặt lạnh như tiền buông một câu:
— Điều đó là cái chắc!
Tôi bực dọc trả lời:
– Nếu như vậy, đồng chí còn cần múc mắt tôi ra làm gì?
Bác sĩ lại điềm nhiên trả lời:
— Không múc ra để cho nó thối à?
Vừa dứt câu, ông ta ra lệnh cho y tá khiêng tôi quăng vào phòng mổ. Tôi được đặt trên chiếc giường tre ọp ẹp. Hoảng sợ, muốn chống cự, nhưng phần vì kiệt sức, phần vì 4 y tá đã dùng dây trói chặt tôi vào các chân giường.
Bởi vậy, tôi hét lớn:
– Các đồng chí không được múc mắt tôi.
Tất cả mọi người có mặt như không nghe thấy tiếng la hét của tôi. Một người dùng miếng vải bố trùm lên mắt tôi, Miếng Miếng vải có lỗ hổng vừa vặn bằng chỗ mắt tôi bị múc.
Thường thường, tôi nghe nói khi mổ, người ta dùng thuốc tê hoặc thuốc mê để giảm sự đau đớn. Hôm ấy, tôi cũng hy vọng như vậy.
Nhưng thật bất ngờ, khi tôi đang chờ đợi thuốc mê thì bỗng đầu tôi bị đè cứng, một vật gì nhòn nhọn ấn vào mắt tôi nghe sụt một cái. Tôi đau điếng và đầu như muốn nổ tung ra. Tôi hự lên một cái rồi quằn quại và nằm bất tỉnh trên giường tre...
..... Khi tôi tỉnh dậy, thấy chỗ nào cũng có băng dầy cộm Tôi nghe loáng thoảng mấy thương binh nằm cạnh bên bàn tán:
— Ông này là chuẩn úy đặc công đấy. Có lẽ biết đặc công là gan lỳ, nên bác sĩ nhân dịp không có thuốc mê đã mổ tất cả các vết thương của ông ta bằng phương pháp “tiết kiệm” đấy!
Khoảng 20 phút sau, tôi thấy tiếng con gái Nam nhỏ nhẹ bên tai:
– Đồng chí Minh ơi! Tỉnh dậy ăn cháo đi! Tôi cố gắng lắm mới cọ được vành mi con mắt trái còn lại. Tôi thấy mình nằm trên gường tre, nhưng 2 bên có thêm nhiều thương binh khác nữa.
Bên cạnh giường có một chén cháo trắng và ít muối. Tôi vẫn còn đau dữ dội và thấy khát nước. Tôi nghiêng mình hớp chén cháo lỏng một hơi hết sạch. Bỗng lại có tiếng thương binh bên cạnh nói xì xào.
– Đồng chí này nặng, nên được ưu tiên cháo «nguyên chất» chứ bọn mình thì sức mấy. Phải ăn cháo nấu với củ chuối dài dài!
ᄆ
Đêm về khuya, tiếng gió reo hòa cùng tiếng thú dữ gầm thét trong rừng hoang nghe thật não nề, man rợ, Lúc này, tôi mới thấy nhớ nhà, nhớ quê hương. Những con đường xinh xinh dẫn về thôn xóm. Mái trường thân yêu tôi đã gặp và thương vụng nhớ thầm nàng Cẩm Anh. Những đêm trăng thanh, gió mát, tôi ngập ngừng nắm gọn tay Cẩm Anh trong lòng bàn tay nóng bằng yêu đương của tôi. Buổi tôi lên đường vào Nam “chống Mỹ”, nàng khóc và dặn dò tôi:
– Anh đi cố lập thành tích. Em hy vọng chờ anh trở về trên ngực toàn màu đỏ của huân chương “chiến thắng".
Hết những hình ảnh về quê hương miền Bắc xa xôi ấy, lại đến lượt những lần mịt mù lửa đạn nơi chiến trận, Bao đồng đội tôi đã vĩnh viên nằm xuống không mồ không mả, bao thương binh đã oan uổng qua đời vì thiếu thuốc men, chữa chạy.
Những chiến sĩ mất đầu, cụt chân. Người cán bộ của đảng lỗ mãng và hung hăng … 1 Đoàn tải thương 60 người và 30 thương binh ngã gục trên đồi cỏ gianh. Đoàn trực thăng đang rà sát xuống ngọn cây nhả đạn. Tiếng trực thăng trinh sát L19 kinh khiếp …
Ôi! Thật khủng khiếp! Tất cả sự hy sinh ấy của chúng tôi mang lại gì cho Tổ quốc VN đau thương này? Chợt tôi bằng nghĩ tới giờ này Cẩm Anh cùng những thân nhân khác của đồng đội tôi ở ngoài Bắc chắc đang nuôi hy vọng ngày chiến thắng. Tôi chua xót và nước mắt bỗng tuôn trào. Tôi chẳng còn gì để tin vào những lời Đảng nói.
Bởi vì, tôi đã quyết định sau khi ra viện, tôi sẽ đi tìm một con đường chiến thắng khác, con đường chiến thắng của toàn thể nhân dân miền Nam.
3-1972
$pageOut$pageIn
Phân đoạn 3
#Tien Tuyen Jul. 12, 1972 trang nhất
Josep Alsop: lính CSBV quăng súng bỏ chạy như lũ thỏ chết nhát
#Tien Tuyen Jul. 12, 1972 trang nhất
Ký giả Josep Alsop nhận định:
Các nhà lãnh đạo Hanoi hoang mang và thất vọng
★ Lính CSBV quăng súng và bỏ chạy như lũ thỏ chết nhát
Bình luận gia Josep Alsop tiên đoán là «TT Nixon còn có 1 cơ hội là ông sẽ chấm dứt được chiến cuộc với những điều kiện hợp lý trước ngày tuyển cử».
Bình luận gia này viết tiếp:
«Lẽ tất nhiên, người ta phải bắt đầu bằng câu hỏi là cuộc đánh cá này ra sao. Chẳng hạn như, nó sẽ trở thành ngớ ngẩn nếu đánh cá là bí thư Lê Duẩn và những người lãnh đạo cứng răn khác tại Hanoi sẽ chịu thay đổi ý nghĩ của họ. Trong lúc này, những người đó phải một mực chứng tỏ mạnh là họ quyết tâm bám víu lấy niềm hy vọng Thượng nghị sĩ Mc Govern sẽ thắng cử và sẽ tới «mặc cả» tại Hanoi như lời ông ta đã công khai hứa hẹn.
«Thay vì thế, hiện nay còn có cuộc đánh cá là sự thất vọng về cuộc tấn công lớn này sẽ tạo nên một sự thay đổi quan trọng về thế quân bình giữa 2 phe lãnh đạo ở Hanoi. Nếu điều đó xảy ra thì những kẻ thua cuộc chính là Lê Duẩn và những người khác thuộc phe cứng răn. Và kết quả nếu những người này mất địa vị nắm giữ chính sách thì TT Nixon có thể dễ dàng đạt được mục tiêu ông mưu tìm từ lâu …, vì ba lý do hoàn toàn khác nhau.
«Trước hết là thành công sáng chói của TT trong việc chia cách Hanoi với Bắc Kinh và Mạc tư Khoa bằng mọi đường lối. Mạc tư Khoa và Bắc Kinh không cần «làm áp lực» với Hanoi như Johnson trước đây thường hy vọng. Cuộc phong tỏa [ Vịnh Bắc Việt ] và oanh tạc của Hoa Kỳ đang làm áp lực mạnh hơn bất cứ người "anh em vĩ đại" nào của Bắc Việt. Nhưng Bắc Kinh lẫn Mạc tư Khoa đều cảnh giác Hanoi rằng TT Nixon có thể tái đắc cử và sự thương lượng với ông sẽ còn khó khăn hơn nữa khi cuộc tuyển cử kết thúc.
«Hay là thương lượng bây giờ đi trong khi xác đồng chí còn có thể thương lượng, đó là lời khuyên mà họ đã đưa ra. Lời khuyên này tự nó cũng đủ làm cho Hanoi hoang mang rồi. Hanoi lại càng thêm hoang mang khi đã chứng kiến các đơn vị Bắc Việt trước đây hăng say nhưng nay đang quăng súng bỏ chạy như bầy thỏ chết nhát khi gặp sức tấn công của binh sĩ VNCH, điều đó đã xảy ra luôn luôn trên những nẻo đường hành quân tiến ra Quảng Trị. Một trong những đơn vị đang lâm vào tình trạng đó cũng là đại đơn vị trừ bị cuối cùng của Hanoi tức SĐ325».
Bình luận gia Alsop đã duyệt lại những cuộc tranh luận giữa các lãnh tụ ở Hanoi:
1) năm 1965 về việc xâm nhập thêm quân vào Nam;
2) năm 1968 những hy sinh to lớn phải chịu trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân;
và
3) năm 1971 về việc tăng cường quân sự mới.
Alsop kết luận: «trong những lần đó, lần nào Lê Duẩn và bọn theo đường lối cứng rắn cũng thắng khi tranh luận. Nhưng lần nào thì diễn tiến và kinh nghiệm sau đó đều chứng tỏ Lê Duẩn và bọn cứng rắn cũng sai lầm một cách thảm bại.
Tuy nhiên, nay thì cuộc tổng tấn công này đã khiến cho Bắc Việt bị oanh tạc trở lại, các hải cảng bị phong tỏa và đã đem lại một tai họa còn lớn hơn hồi Tết Mậu Thân.
Người ta đã có thể thấy tại sao bọn cứng rắn ngoài Bắc sẽ khó mà biện bạch gì được»
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul. 13, 1972 trang nhất
Xâm Lăng Trên 3 Tháng Mà Bộ Binh Và Chiến Xa Bắc Việt Vẫn Chưa Phối Hợp Nhịp Nhàng
«Vua diệt chiến xa địch» của Thiết Đoàn 18:
Xâm Lăng Trên 3 Tháng Mà
BỘ BINH VÀ CHIẾN XA BẮC VIỆT VẪN CHƯA PHỐI HỢP NHỊP NHÀNG
★ Đụng trận là Bộ binh CSBV bỏ chạy trốn để mặc cho Thiết Giáp chạy khơi khơi. ⚫ 6 ngày phép đặc biệt cho thành tích hạ 4 chiến xa T-54
⚀ Anh Nhân
QUẢNG TRỊ.– Theo nhiều sĩ quan và hạ sĩ quan am tường của Thiết đoàn 18 Kỵ binh và nhất là Trung sĩ Thạch Suon, người chiến sĩ xuất sắc của Thiết đoàn, đã tiết lộ «Cho đến nay sau hơn 3 tháng xâm nhập miền Nam, Thiết giáp và Bộ binh Bắc Việt vẫn chưa phối hợp nhịp nhàng như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong các cuộc hành quân bộ chiến. Nhờ vậy ma lực lượng bộ binh VNCH rất có kinh nghiệm đè bẹp đối phương trong nhiều trận giáp chiến với thiết giáp của địch.
Hạ 4 chiến xa đợi lấy sáu ngày phép
Trung sĩ Thạch Suon là xạ thủ của chiến xa M41 thuộc chi đoàn 1/15 biệt phái cho Thiết đoàn 18 hành quân phối hợp với TQLC hoạt động trong vùng duyên hải phía Đông Quảng Trị - Thừa Thiên.
Trung sĩ Thạch Suon, người xạ thủ duy nhất đã bắn hạ 4 chiến xa T-54 trong trận Xa chiến chiều ngày 3-7 tại vùng đồi cát quanh quận lỵ Triệu Phong.
Nhờ sự gan dạ và bình tĩnh phi thường, anh đã lật ngược được thế cờ với vòn vẹn có 2 chiến xa M41 mà phải đương đầu với 7 chiến xa và xe lội nước của giặc. Anh đã được tưởng thưởng 6 ngày phép đặc biệt giữa lúc chiến trường còn sôi sục.
Anh nói tiếp: «Nhờ địch thiếu khả năng và thiếu phối hợp yểm trợ lẫn nhau cho nên đã giúp cho các đơn vị VNCH thành công mau lẹ. Bằng chứng cho thấy rõ là có nhiều sự lúng túng của các đơn vị bộ binh tháp tùng chiến xa bên phía giặc. Mỗi khi chúng bị quân ta áp đảo bằng đại liên thì chúng co giò phóng chạy tìm chỗ ẩn núp bỏ mặc cho chiến xa chạy khơi khơi mà không có Bộ Binh đi dọc hai bên. Nhờ vậy, đã giúp cho các đơn vị VNCH thanh toán địch quân và bắt sống lai rai chiến xa giặc.»
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul. 14, 1972 trang nhất
1 Thượng Úy CSBV Bị Hạ Sát Sau Thảm Bại Mỹ Chánh
#Tien Tuyen Jul. 14, 1972 trang nhất
Nhật ký của 1 lính BV bắt được tại Quảng Trị cho biết:
1 THƯỢNG ÚY CSBV BỊ CẤP TRÊN BẮN HẠ SAU THẢM BẠI MỸ CHÁNH
vì chưa đầy 24 tiếng đồng hồ đã để mất 26 chiến xa
SAIGON (HT) 13-7. – Thông tín viên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) tối qua đã đề cập đến những thật bại của Cộng quân tại Quảng Trị, dựa vào một cuốn Nhật Ký của một cán binh Bắc Việt và một Báo Cáo mới nhất của quân CSBV về tình hình chiến trận tại chỗ.
Bộ Chỉ Huy Dù VNCH tại Quảng Trị vừa cho biết, cách đây 2 ngày, sau khi lục soát làng La Vang Thượng, quân Dù đã tìm thấy một cuốn Sổ Tay của 1 cán binh Cộng sản mà sau đây là 1 đoạn nói về sự thất bại của Cộng quân khi chúng gặp Tiểu đoàn 11 Dù, đoạn này đã gởi về Hanoi ngày 25-6-1972:
«Mến gởi tất cả các đồng chí thuộc Sư đoàn 243 và Thiết đoàn 31 quân kháng chiến chống Mỹ Ngụy.
«Từ ngày 1-4 tới nay, quân ta đã chiếm xong thành phố Quảng Trị, và hiện giờ quân ta đang chiếm cố đô Huế để hoàn thành sứ mạng của quân và dân kháng chiến ta. Đêm hôm 21 rạng 22, Thiết đoàn 31 đã vượt sông Mỹ Chánh để đánh phá Pháo đội 155 của Sư đoàn 3 và Pháo đội 105 của TQLC ngụy. Không ngờ khi qua tới sông Mỹ Chánh, ta đã đụng một đơn vị Nhảy Dù. Với sức kháng cự khá mạnh của quân Dù, cho nên ta đã để lại 1 chiến xa loại T.38 và hư hại 25 chiếc khác đủ loại do phi cơ và pháo binh cũng như là quân Dù ngụy phá hoại. Còn sót lại Thượng úy Nguyễn viết Thương chạy về được. Thượng úy cho biết không ngờ quân Dù ngụy đã tiến ra sâu như vậy. Nếu biết Dù ngụy đã có mặt ở đó, ta nên tránh thì hơn. Vì lệnh cấp trên cho hay là nếu đánh Dù ngụy thì phải biết rõ mục tiêu chắc chắn, đánh nhanh đánh lẹ. Còn nếu ta đi tìm Dù ngụy mà nó phác giác ta trước thì coi như là tiêu.
«Khi Thượng úy về trình diện Trung tá thì bị Trung tá bắn chết tại chỗ. Lý do: để mất 26 chiến xa hùng mạnh dẫn đầu mà không giết được tên Dù ngụy nào, đã vậy còn bị tụi nó tiêu diệt hết trong vòng không đầy 24 tiếng đồng hồ»
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul. 13, 1972 trang năm
Nạn Trai Thiếu Gái Thừa Tại Bắc Việt
Vương Duy Diễn kể
#Tien Tuyen Jul. 13, 1972 trang năm
Nạn Trai Thiếu Gái Thừa Tại Bắc Việt
Vương Duy Diễn kể
Đàn ông ở ngoài Bắc hiện còn rất ít. Thanh niên miền Bắc bị đưa vào Nam cũng giống như suối chảy một chiều. Đi thì có về thì không. Có người đi cả mấy chục năm mà gia đình vẫn không hay biết một chút tin tức nào cả.
Do đó, đồng bào miền Bắc mới có câu hát rằng:
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đàn ông chết hết đàn bà nằm không
Bao giờ giải phóng thành công
Đảng cho phép cưới một ông mười bà.
Một anh cán bộ có ba bốn cô tình nhân hoặc những ông già năm sáu chục tuổi mà vẫn còn đèo bồng thêm đôi ba vợ bé thì đó không phải là chuyện hiếm hoi gì.
Anh Nguyễn Việt Phương 28 tuổi, sinh quán tại Phố Mới, Lao Kay, Chuẩn Úy bộ đội Bắc Việt và là Đội phó đội Kinh Tài Việt Cộng ra hồi chánh với Trung Đoàn 30 Nghĩa quân VNCH ở Buôn Ea Knir, Quận Ban Mê Thuột hồi cuối tháng rồi, cho biết thêm rằng, tình trạng “cưới nhau xong là đi” hầu như trên đất Bắc nơi nào cũng có.
Các chị em thanh nữ cũng biết rằng “lấy chồng thời chiến chinh mấy người đi trở lại” nên ít có người giữ được lòng chung thủy.
Có chăng thì cũng một số ít, và chỉ được 5, 7 năm mà thôi. Nhưng lại gặp phải nạn trai thiếu gái thừa nên tình trạng chửa hoang đã trở thành một phong trào lan tràn khắp nơi.
Đời sống miền Bắc
Được hỏi về đời sống nhân dân miền Bắc ra sao, hồi chánh viên Nguyễn việt Phương cho biết: về vật chất, sự đói thiếu khổ cực không sao tả xiết được.
Anh đưa ra ví dụ, một nông dân, phải làm việc đầu tắt mặt tối mỗi ngày 14 tiếng đồng hồ mà cơm ăn không đủ no áo không đủ mặc, vẫn phải làm việc bằng hai bằng ba, vẫn phải “thắt lưng buộc bụng nín thở chống Mỹ cứu nước", hoặc là “ngày làm không đủ tranh thủ làm đêm”.
Dân chúng thì vừa phải lao động sản xuất vừa phải thi hành đủ thứ nghĩa vụ dân công cho nhà nước. Và lao động sản xuất thì lợi tức được tính theo công điểm. Ví dụ, một gia đình có hai vợ chồng là lao động chính và năm đứa con là năm lao động phụ, nên nếu con cái không làm việc được thì cho mẹ phải làm thế vào.
Nhưng lợi tức hằng năm nhiều lắm mỗi vụ mùa cũng chỉ được bốn tạ lúa mà thôi. Với bốn tạ lúa thì dù ăn tiêu dè xẻn cần kiệm, trộn thêm ngô khoai, cũng vẫn bị thiếu chứ đừng nói đến việc may sắm quần áo hay sửa chữa nhà cửa.
Vì vậy dân phải vay của hợp tác xã (nếu được nhân dân bình nghị) và phải trả hết số nợ đó vào vụ mùa năm sau. Do đó mỗi năm số tháng thiếu ăn lại càng tăng thêm, lại phải vay nợ thêm, lại phải nỗ lực sản xuất thêm để trả nợ. Những gia đình có nhiều lao động chính thì tương đối được no hơn. Nhưng bù lại họ phải lao động nhiều hơn.
Hầu hết thanh niên trai tráng từ 17 tuổi trở lên đều đã bị đưa vào Nam chiến đấu nên việc sản xuất và các nghĩa vụ khác đều đổ lên đầu ông già và đàn bà phụ nữ. Ai cũng nản lòng bất mãn.
Nhân dân thì như vậy còn cán bộ lại chẳng biết lao động là gì mà vẫn ăn sang mặc sướng tự do phè phởn. Vì vậy mới có những câu ca truyền miệng trong dân chúng như là:
Một người làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe
Một người làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà xây sân
Một người làm việc bằng năm
Để cho cán bộ ăn nằm đi chơi.
Đời sống vật chất đã vậy, đời tinh thần lại còn khổ hơn. Suốt năm làm việc không bao giờ được nghỉ ngơi, giải trí. Hết giờ lao động thì lại phải đi họp, hội nghị, học tập, kiểm thảo. Người ta làm mọi cách để kiểm soát tư tưởng của nhân dân. Đảng ngự trị trong đầu óc và len lỏi vào cả những ý nghĩ thầm kín nhất của mỗi người dân.
Các buổi thuyết pháp truyền đạo đều bị theo dõi. Các Linh mục bị coi là phản động, phải bị đưa đi tẩy não nếu trong các bài giảng không lồng vào việc truyền bá tư tưởng của bác của đảng. Giáo hữu thì bị cản trở gián tiếp bằng nhiều cách để không thể đến nhà thờ được.
Tình cảm cá nhân cuả vợ chồng, cha con, bè bạn cũng đều bị bóp chết. Tổ chức tình báo nhân dân của đảng đã gieo rắc nghi ngờ đố kỵ trong mọi gia đình, không ai còn biết tin tưởng vào ai nữa.
Trên đường vào Nam
Thuật lại cuộc viễn chinh vào Nam, hồi chánh viên Nguyễn việt Phương cho biết sau khi tốt nghiệp khóa bồi dưỡng bổ túc Hạ Sĩ quan ở Kỳ Sơn Hòa Bình, là một thanh niên thuộc thành phần cốt cán, thành tích học tập tốt, anh được thăng cấp Chuẩn úy và đưa vào Nam kể từ ngày 15-2-1970.
Với vẻ mặt rất thành khẩn anh cho biết tiếp rằng trước khi vào Nam thì cứ tưởng vào đó để giải phóng đồng bào ruột thịt đang bị «Mỹ ngụy kèm kẹp và khổ sở mọi bề», Anh lại còn được cán bộ cho biết rằng trong Nam, ta đã giải phóng 3/4 đất đai và 2/3 dân số.
Vậy rồi đoàn trai mang hào khí nhiệt huyết, chẳng quản gian lao 4 tháng hành quân khổ cực, dù chỉ được cấp 5 lạng gạo mỗi ngày, họ hăng hái trèo đèo vượt suối băng rừng.
Nhiều người không đủ sức chịu đựng, bị đau ốm chết dọc đường, có kẻ rơi từ trên đèo cao xuống vực thẳm, không mất tích thì cũng gãy tay gãy chân. Nhuệ khí lúc ban đầu bay giờ đã tan biến.
Khi vào đến miền Nam (mặt trận B 3 Kontum) cũng vẫn thấy núi rừng trùng điệp, không có lấy bóng dáng một người dân nào. Vậy mà mấy đồng chí làm văn nghệ kháng chiến trong Nam dám viết nào là nhân dân tấp nập đón mừng, nào là những cô gái mong sao đem quà nước mời anh.
Đến mặt trận B3 chưa kịp nghỉ ngơi, tiểu đoàn anh lại được lệnh chuẩn bị tăng cường cho mặt trận B2, anh em ai cũng bất mãn phản đối. Thủ trưởng Trung đoàn phải đến giải thích, trấn an và đe dọa. Nhưng rồi ngay trong đêm tạm dừng chân đó, Tiểu đoàn anh bị B 52 cho ăn bom tơi bời. Trên 100 người chết, số bị thương cũng xấp xỉ chừng đó, trong đó có cả anh.
Mặc dù đã được đưa đến điều trị tại bệnh viện 84 (giữa biên giới Miên Lào) hơn ba tháng trời nhưng anh vẫn bị hư mất một cái tai. Điều trị xong, tưởng rằng là thương binh thì anh sẽ được trở về quê, không ngờ anh lại bị đưa vào bổ xung cho cơ sở tiếp liệu T73 ở mặt trận B3. Anh được giao nhiệm vụ tiếp nhận thực phẩm từ miền Bắc vào và thu mua lương thực tại địa phương để phân phối cho các đơn vị.
Vì ăn uống quá khổ cực, thiếu bổ dưỡng, nhất là anh vừa bị thương chưa bình phục hẳn nên không thể thỏa mãn nhu cầu công tác cho bộ đội như đã được giao phó. Đến tháng 7-1971 anh được đưa đến làm Đội phó Kinh tài H.6 thuộc tỉnh ủy Darlac.
Cảm động vì được đón tiếp niềm nở
Bất mãn vì bị khai thác một cách dã man như vậy cho nên anh nảy sinh ý định ra hồi chánh. Thêm vào đó là các cuộc tiếp xúc với dân chúng địa phương, và qua các truyền đơn hồi chánh, anh có dịp so sánh đời sống con người dưới hai chế độ Tự do và Cộng sản như thế nào rồi.
Nước da đen chì và sạm nắng, đầu tóc hớt cao, Nguyễn việt Phương có cái vẻ đặc biệt Cộng sản còn hơn bất cứ cán bộ Cộng sản nào. Vậy mà anh đã rơm rớm nước mắt khi nhắc lại cảnh anh được vồn vã đón tiếp mà anh em Nghĩa Quân Quốc Gia đã dành cho anh khi anh ra hồi chánh.
Trong câu chuyện tâm tình, hồi chánh viên Nguyễn việt Phương nói rằng mặc dù anh đã có dịp đọc qua một số truyền đơn Chiêu Hồi có lời kêu gọi của các Thượng tá Tám Hà, Huỳnh Cự, Lê Xuân Chuyên v.v… nhưng anh vẫn chưa hết nghi ngờ và phập phồng lo sợ, nghi ngờ vì sợ bị lừa phỉnh, sợ bị tra tấn tù đày, phập phồng vì không biết đi có thoát được không.
Chính vì mang tâm trạng đó cho nên anh đã vô cùng sung sướng và cảm động khi gặp được một đơn vị Nghĩa Quân và được đón tiếp một cách rất niềm nở.
Trần việt Phương kể lại rằng, tối hôm 18-6 lợi dụng người bên cạnh sơ hở, anh giả vờ bảo là mang súng đi săn, cứ thế anh đi suốt đêm theo đường đã định trước.
Sáng hôm sau anh mới tìm được đến đường lộ. Mặc dù vô cùng mệt mỏi nhưng anh vẫn cố lê gót. Trong thâm tâm anh chỉ mong gặp được xe hơi hay một đơn vị nào của Quân lực VNCH.
Nhưng đi mãi đến chiều mệt lả, vì đói anh phải tìm vào làng để dọ hỏi tin tức và kiếm ăn. Đến lúc gặp một chiến sĩ Nghĩa Quân, anh mới biết đây là vùng Quốc Gia an toàn và anh nói rõ anh là Việt Cộng xin ra hồi chánh.
Lập tức anh lính Nghĩa Quân này ôm chặt lấy anh và la lớn: Việt Cộng. Việt Cộng, có Việt Cộng ra hồi chánh. Anh ấy làm như bắt được bửu bối và sợ người ta lấy mất. Vậy là đồng bào mình ùn ùn kéo tới, trong số đó có cả toán Nghĩa Quân phòng thủ Ấp.
Kẻ hỏi thăm chuyện này, người hỏi thăm chuyện nọ. Trong khi đó, người này mang cơm, người kia mang quần áo đến cho anh tắm rửa và ăn uống trong khi chờ đợi phái đoàn Quận đem xe đến đón anh về.
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul 14, 1972 trang hai
VÕ NGUYÊN GIÁP ĐÃ GIẢI BÀI TOÁN SAI ĐÁP SỐ
#Tien Tuyen Jul 14, 1972 trang hai
Ký giả Rickurt của tờ «Washington Post»
VÕ NGUYÊN GIÁP ĐÃ GIẢI BÀI TOÁN SAI ĐÁP SỐ
Sau đây là bài đầu tiên trong loạt 3 bài viết về cuộc tấn công của Bắc Việt vào miền Nam VN đã được báo Washington Post đăng tải hôm 8-7. Ông Rickurt là một trong những Ký giả có tiếng trong ban biên tập của tờ Washington Post về vấn đề VN. Trong bài này ông Rickurt bắt đầu phân tích chi tiết về chính cuộc tấn công. Trong những bài sau ông sẽ thảo luận về những sự thăng trầm của chiến cuộc và tác phong của Sĩ quan và binh sĩ VNCH.
"Sự lầm lẫn của BV trong cuộc tấn công cũng gần giống như những lầm lẫn của họ hồi Tết Mậu Thân”. Ông John Paul Vann nói với các Ký giả tại Pleiku ngày trước khi ông bị thiệt mạng hồi tháng trước.
Những bạn đồng nghiệp của ông bất đồng ý với ông. Thực vậy, sau khi những sự việc đã xảy ra với các Cố Vấn Hoa Kỳ ngoài mặt trận thì các bình luận gia tại Saigon đã đồng ý rằng, về tình hình quân sự, Hànội đã trở thành địch thủ đáng sợ nhất của chính mình khi họ mở cuộc tấn công quy mô vào ngày 30-3-72. Các lãnh đạo cao cấp và cộng tác tham mưu của họ đã tỏ ra không thích nghi với võ khí mới do Nga Sô cung cấp và (không đánh giá thích đáng) khả năng chiến đấu mạnh của binh lính chính quy trong quân đội của họ.
Do đó dù sao hơn nữa trong lúc này các nhà lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ như Bộ trưởng Quốc phòng M. Laird đã có thể tuyên bố “Chúng tôi đã nói với quý vị như vậy rồi".
Ngay sau cuộc tấn công vào Lễ Phục sinh, cả ông Laird lẫn Tướng Abrams đều tiên đoán rằng sẽ có những thành tích gây tiếng vang của Hànội như việc chiếm thị xã Quảng Trị chẳng hạn, nhưng cuộc tấn công chung sẽ thất bại, cùng với những tổn thất nặng nề hiện nay cuộc tấn công của Hà nội dường như đã suy giảm vì cao điểm của họ không đạt được. Các giới chức Hoa Kỳ và Việt Nam có thể đi vào việc thẩm định phản ứng của đồng minh trước cuộc tấn công đẫm máu của chiến cuộc Đông Dương kể từ khi Hoa Kỳ tham chiến một cách mạnh mẽ vào năm 1965.
Bắc Việt đã đổ máu vô ích.
Theo sự ước lượng của Hoa Kỳ thì khoảng 50 ngàn binh lính Bắc Việt trong số 150 ngàn binh lính tham chiến đã bị hạ hay bị thương quá nặng không thể trở lại chiến trường. Đây là cuộc đổ máu vô ích. Tướng Abram đã tiên đoán thế khi cuộc tấn công mở màn. Tuy rằng Hà Nội bị thiệt hại nặng, đây không phải là cuộc đổ máu một chiều. Các lực lượng VNCH cũng bị thiệt hại đáng kể.
Có thể Bắc Việt phải mất 1 năm mới phục hồi hoàn toàn được số tổn thất của họ. Một Bình luận gia cao cấp của Hoa Kỳ đã nói thế khi khẳng định cuộc tấn công của Hanoi. Một Bình luận gia khác viết rằng, ít nhất trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, Hànội đã đánh đổi được việc ngưng oanh tạc trên lãnh thổ của họ. Còn lần này, tướng Võ Nguyên Giáp đã tung vào chiến trận 11 trong cả thảy 15 Sư đoàn Bắc Việt, và đã thu hoạch được ít hơn, ít nhất là cho tới nay.
Một số trọng pháo địch xử dụng là của VNCH
Nhưng điều gì đã làm cho lệch lạc như vậy? Điểm đầu tiên để trả lời câu hỏi này là danh sách những tiêu sản và tích sản lớn lao của Hànội trước khi họ mở cuộc tấn công qua vùng phi quân sự vào ngày 30-3. Trước khi có cuộc tấn công ngày 30-3, Bắc Việt đã dành lại được vài vùng căn cứ tại biên giới Kampuchea bị Đồng minh chiếm giữ năm 1970. Do đó, họ có được địa điểm xuất phát để tấn công. Nhưng họ không tái chiếm được thành phố Sihanoukville, hải cảng của Kampuchea, mà phần lớn các chiến cụ của họ đã được tích trữ sẵn tại đây vào các năm 1966 đến 1969.
Do đó, cho dù các lực lượng Bắc Việt tại đây hay tại gần phần đất phía Nam của VNCH thì đều phải trông cậy vào việc tiếp tế bằng xe vận tải qua đường mòn Hồ chí minh dài 600 dặm Anh chạy từ Bắc Việt qua Lào. Điều này khiến cho tiếp vận của Hànội trở nên phức tạp chẳng hạn như việc tiếp tế đạn được cho pháo binh của họ. Tại khu vực phía Nam Huế, quân đội Bắc Việt hoàn toàn không có xử dụng đại bác 130 ly mới được Nga Sô cung cấp. Các hỏa tiễn, bích kích pháo và các đại bác 105 và 155 bắt được của VNCH đã cung cấp hỏa lực này cho Bắc Việt tại An Lộc ở phía Bắc Saigon.
Võ nguyên Giáp đã giải bài toán sai đáp số
Hơn thế nữa, trái với năm 1968, hiện nay Bắc Việt đang tấn công uể oải từ một số lực lượng đồn trú tại các mật khu trước kia của VC tại miền Trung và vùng Châu Thổ. Không ai biết là tướng Giáp tin tưởng tới mức nào vào một cơ cấu quân sự thuần phát của VC hiện còn tồn tại tại miền Nam mà có thể khích động một cuộc nổi dậy của dân chúng? Nhưng nếu tướng Giáp mà tin vào điều này thì ông ta đã lầm to. Hiển nhiên, cuộc tấn công Tết Mậu Thân và chương trình Bình Định đã làm hao mòn VC rất nhiều với những tổn thất lớn lao về quân sự cũng như dân sự.
Khi cuộc tấn công ngày 30-3 xảy ra đã có những cuộc quấy rối. Các thành phố bị pháo kích bằng bích kích pháo, một vài cây cầu bị phá sập, nhiều đồn bị thất thủ. Nhưng không có đốt, phá hoại hay phục kích nào kéo dài xảy ra ảnh hưởng tới các cánh quân Đồng minh. Các đoàn quân xa của VNCH có thể di chuyển một cách tự do tới các trục lộ chính tại nhiều nơi. Tại Huế, Kontum hay chung quanh Saigon, các cuộc tấn công du kích như hồi 1968 lại tái phát, được kèm theo bởi các cuộc tấn công cuả quân chính quy Bắc Việt từ phía ngoài có thể có tính cách quyết định. Nhưng cuộc tái phát các cuộc tấn công du kích thì chưa xảy ra. Trong bất cứ trường hợp nào, Bắc Việt đã tỏ ra có nhiều tham vọng hơn sự thẩm định của họ.
Có thể họ đã đánh giá quá thấp khả năng phản ứng của Nam Việt Nam vì họ đã dựa vào sự thẩm định này qua sự lúng túng của Bộ Tư lệnh VNCH tại Ai Lao và Kampuchea hồi năm 1971.
Hoa Kỳ đã rút khỏi cuộc chiến trên bộ. 2 Sư đoàn Đại Hàn đã không có mặt tại các vùng biên giới, đã giữ 1 vai trò bất động tại bờ biển miền Trung. 11 Sư đoàn bộ binh VNCH khác như thường lệ được bố trí trên khắp nước trong các vai trò bảo vệ lãnh thổ. Chỉ có 2 Sư đoàn Tổng Trừ bị TQLC và Nhảy Dù đã được xử dụng linh hoạt, và vào ngày 30-3, hai phần ba các lực lượng ưu tú này đã được tung ra khỏi Saigon để bảo vệ vùng giới tuyến.
Thực lực của địch trên chiến trường miền Nam
Kế hoạch của Bắc Việt dường như chỉ nhằm mở các cuộc tấn công mạnh mẽ tại các điểm cách nhau khá xa mà quân đội VNCH không thể bảo vệ khắp mọi nơi. Hànội đang xử dụng một lực lượng mạnh. Một lực tương đương với 4 sư đoàn 304, 308, 324B cộng thêm các Trung đoàn biệt lập từ vùng phi quân sự tiến về Nam vào Quảng Trị và tiến về Đông vào thị xã Huế từ các thung lũng An Hữu ở Lào. Các đơn vị lúc đầu đã được yểm trợ bởi 10.000 đạn trọng pháo và hỏa tiễn, một hàng rào hỏa lực mạnh nhất của Hanôi trong cuộc chiến tranh và các chiến xa chạy trước mở đường một lực lựng tương đương với 3 Sư đoàn tiến đánh các Căn cứ Hỏa lực của VNCH ở gần Dakto, Tân Cảnh và sau đó là Kontum. Chiến xa, hỏa tiễn và bích kích pháo đã được đem ra xử dụng.
3 sư đoàn 5,7 và 9 cũng như chiến xa, hỏa tiễn và bích kích pháo dồn tập trung vào Lộc Ninh và vào thị xã nhỏ bé An Lộc 100 cây số về phía Bắc Saigon.
Trong các cuộc tấn công dương Đông kích Tây khác ít quan trọng hơn tại các nơi khác, Sư đoàn 711 gồm có 3 Trung đoàn chiếm quận Đệ Đức [ * ], đe dọa bờ biển và cầm chân một phần của SĐ 2 VNCH tại tỉnh Quảng Tín.
Sư đoàn 3 địa phương chiếm phía Bắc tỉnh Bình Định. Sư đoàn 1 thiếu quân số của họ tiến vào vùng Châu Thổ Cửu Long từ phía Đông Nam Kampuchea làm hậu thuẫn cho VC tấn công Hà Tiên. Các lực lượng ít quan trọng hơn đã tấn công tỉnh Hậu Nghĩa phía Đông Nam Saigon.
[ * ] tham khảo báo #Tien Tuyen Jul. 25, 1972 trang ba, bài Sau chiến thắng Hoài Nhơn, trên đường tiến chiếm Tam Quan, Hoài Ân, Quân Ta Đã Tái Chiếm Căn Cứ Đệ Đức, tiếp nhận 116 lính Cộng sản hồi chánh tập thể: Đệ Đức không phải là Quận. Đệ Đức là một Căn Cứ của QLVNCH có vai trò chiến lược quan trọng bảo vệ 2 Quận Hoài Nhơn và Tam Quan thuộc tỉnh Bình Định, miền duyên hải Trung phần Việt Nam. Đệ Đức cũng là bản doanh của Bộ Chỉ huy một Trung đoàn Bộ Binh VNCH nằm sát Quốc lộ 1 về phía Bồng Sơn.
Địch thua về vận chuyển, ông Thiệu táo bạo!
Nhưng cũng có những khuyết điểm. Trước hết, sau khi xử dụng các lực lượng của họ tại những vùng riêng biệt, Hànội đã không thể chuyển các lực lượng này tới các vùng khác một cách mau lẹ để củng cố chiến thắng. Hànội có chiến xa, máy phát thanh, trọng pháo xe vận tải, hỏa tiễn tầm nhiệt, súng phòng không. Nhưng họ không có phương tiện chuyển đi bằng hàng không.
TT. Nguyễn Văn Thiệu nhờ Không quân Hoa Kỳ có thể di chuyển binh sĩ và vũ khí bằng phi cơ vận tải C130 của Hoa Kỳ và bằng các phi cơ C123 nhỏ hơn của Không quân VNCH.
Hơn thế nữa, TT Thiệu lần đầu tiên trong chiến cuộc đã phản ứng một cách mạnh bạo. Ông đã chuyển một Sư đoàn gồm các tân binh động viên từ vùng Châu Thổ tới phía Nam An Lộc. Các đơn vị tân binh động viên khác cũng được chuyển tới các nơi khác. Công cuộc phòng thủ địa phương lưu động, ngay cả trong việc chống lại các đơn vị chính quy Bắc Việt được trao lại cho Đại đội hay Tiểu đoàn ĐPQ đảm trách. Thành tích đã đạt được trong công tác này hoàn toàn có thể biện minh cho hành động mạo hiểm của TT Thiệu. Thực vậy, nhiều Tiểu đoàn ĐPQ được trang bị vũ khí nhẹ tại Quảng Trị đã đảm trách một phần phòng tuyến chính chống lại các chiến xa Bắc Việt cho tới khi áp lực trở nên quá nặng nề (HT).
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul. 15, 1972 trang nhất
Cộng sản thú nhận gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp tế
NHIỀU CÁN BINH CSBV Xin Về Bắc vì không dám chiến đấu #Tien Tuyen Jul. 15, 1972 trang nhất
Cộng sản thú nhận gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp tế
NHIỀU CÁN BINH CSBV Xin Về Bắc vì không dám chiến đấu
★ Thương bệnh binh Cộng sản không có thuốc men, một số lại mang bệnh về … tư tưởng
✦ TIẾN CHÂU
SAIGON (TT) 14-7. – Trong một tài liệu của Cộng sản do QLVNCH tịch thu được, có một báo cáo của Phòng Hậu cần Phân khu 5 Cộng sản (thuộc khu vực Bình Dương và Biên Hòa), Chủ nhiệm hậu cần Cộng sản báo cáo lên cấp chỉ huy trực tiếp của chúng như sau:
Tài liệu nêu trên của Cộng sản cho thấy chúng gặp khó khăn trong việc tiếp tế cho đoàn quân viễn chinh của chúng xâm lăng miền Nam và cả bọn bộ đội tại chỗ (địa phương) của chúng nữa.
Hiện nay, sau báo cáo thất bại về quân sự trên chiến trường miền Nam nhất là khi hậu phương miền Bắc đang bị nguy khốn vì các cuộc oanh tạc nhằm cắt đứt các đường giao thông vận chuyển tiếp tế lương thực từ Bắc vào Nam, thì những khó khăn càng thêm chồng chất khiến cán binh CSBV mất hết tinh thần chiến đầu và đòi về Bắc như báo cáo trên đây của Phòng Hậu cần Phân khu 5 Cộng sản đã tiết lộ.
~~~~~~~~~~~~~~
$pageOut$pageIn
Phân đoạn 4
#Tien Tuyen Jul. 15, 1972 trang ba
Nỗi đau thương của đoàn quân CSBV #Tien Tuyen Jul. 15, 1972 trang ba
Sổ tay của một cán binh CSBV tiết lộ
Nỗi đau thương của các đoàn quân CSBV xâm nhập miền Nam
★ Biên tập viên Hoài Sơn của tuần báo «Văn nghệ» ở Hanoi ra hàng cho biết về nạn buôn lậu vặt và cao bồi du đãng ở Hanoi
SAIGON (TT) – Khai thác cuốn Sổ Tay của một cán binh CSBV thuộc đoàn 2002 (tức TĐ 34/BTL Đặc công CSBV), nội dung có nhiều đoạn nói lên tình trạng bịnh tật, bị thương và gian khổ của cán binh CSBV trên đường xâm nhập miền Nam, như sau:
Cán binh này tiết lộ:
Tài liệu viết tiếp:
Chú ý bạn đọc: Xin xem bài có nội dung liên hệ tới tình trạng thiếu đói của lính Bắc Việt như thế này, nơi phân đoạn 6 của Post Hào Khí Quân và Dân miền Nam, trong loạt bài:
TRÍCH NHẬT KÝ CỦA 1 CÁN BINH/SĨ QUAN CSBV TỬ TRẬN TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VÙNG TAM BIÊN
Hànội đặt tên Sư đoàn «Thép»
Nhưng cán binh Cộng sản cũng chỉ là người
◙ Bài của MAI HOÀNG
Hànội buôn lậu vặt và cao bồi du đãng
Cán binh Cộng sản ra hàng với quân đội Quốc Gia tại Cam Lộ, Quảng Trị vào ngày 4-4-1972, là Lê Khánh, bút hiệu Hoài Sơn tuần báo Văn Nghệ của Hànội. Theo cung từ của Lê Khánh tiết lộ:
Sau khi Hoa Kỳ ngưng oanh tạc miền Bắc (từ đầu năm 1969), dân chúng Hànội đã dần dần hồi cư, mặc dầu chưa có lệnh của nhà nước CSBV. Trong thời gian này, dân đi “sơ tán” trở về chưa tìm được việc làm vì các hợp tác xã thủ công chưa hoạt động đều đặn trở lại (như đan len, dệt chiếu, thảm cót …). Do đó, đã xảy ra tình trạng buôn lậu vặt các thứ hàng Trung cộng từ biên giới với Bắc Việt đưa về như dao cạo, dao con, đồ cắt móng tay v.v… đầy các hè phố Hànội. Dân chúng thường để hàng trên các cái mẹt ngồi lề đường hoặc bỏ trong người đi dạo dọc phố xem có ai cần thì đưa ra mời mua. Nếu gặp phải công an thì bỏ chạy.
Trường hợp bị bắt nhiều lần thì hàng mới bị tịch thu. Người bán tập trung nhiều nhất ở khu chợ Đồng Xuân ra đến bờ Hồ, ga Hàng Cỏ và các đường phố đông đúc. Những người buôn lậu vặt này đều là phụ nữ tuổi từ 30 đến 50 tuổi.
Ngoài ra, do tình trang “sơ tán” dân chúng khi Bắc Việt bị oanh tạc, nên một số thanh thiếu niên không bị gia đình kiểm soát, và khi hồi cư về Hànội đã sinh ra chơi bời lêu lổng. Tình trạng này sẽ sinh ra nạn cao bồi lưu manh trộm cắp móc túi ở các bến xe bến tàu, gây rắc rối cho việc trị an trong thành phố Hànội.
Mặc khác, vấn đề lương thực và thực phẩm tại Hànội bị khan hiếm nên dân chúng kêu ca, đời sống căng thẳng và thêm khó khăn.
Trước tình hình trên, CSBV tuy không kêu gọi dân chúng Hànội trở về nhưng khi thấy vấn đề hồi cư của dân là chính đáng nên đã cho phép các gia đình hồi cư được sát nhập sổ gạo và thực phẩm lại làm một, là bởi vì khi đi “sơ tán”, các loại sổ này bị phân chia theo nơi đến “sơ tán”./.
[ LTC: một ghi chú không thể không nêu lên ngay tại đây để giúp nhiều thế hệ hậu sanh hiểu được tình trạng «sổ gạo / lương thực» của miền Bắc Cộng sản là cái gì, và có ý nghĩa gì, bằng một giải thích vắn tắt như sau:
Tất cả mọi người sống dưới chế độ Cộng sản miền Bắc không kể dân hay cán bộ, đều được cấp cho một quyển sổ gọi là «sổ lương thực» mà dân Bắc hay gọi là «sổ gạo», là một thứ sổ có tính sống còn đối với họ. Loại Sổ này dùng để mua gạo, cùng với các thứ gọi là Tem phiếu khác dùng để mua các loại nhu yếu phẩm (như thịt cá mắm muối v.v…) tại các “cửa hàng quốc doanh” của nhà nước Cộng sản kiểm soát – dân chúng ngoài Bắc còn gọi là “cửa hàng thương nghiệp” – là những thức thiết yếu cho đời sống thường ngày theo “tiêu chuẩn” chết đói mà chính quyền Cộng sản áp đặt cho từng người, từng nhà tùy theo phân hạng loại do chúng tự tiện đặt ra. Ví dụ, thường dân thì “tiêu chuẩn” thiếu đói hơn, cán bộ thấp thì “tiêu chuẩn” khá hơn, cán bộ cao thì “tiêu chuẩn” no đủ hơn.
Vì bất cứ lý do gì, một gia đình mà bị đánh mất các loại sổ, phiếu này thì kể như gặp đại họa, sẽ bị đói chết chắc, trừ phi nhà đó có thừa tiền của quanh năm đi ra mua gạo mắm lậu ở bên ngoài hệ thống “thương nghiệp quốc doanh” của nhà nước Cộng sản.
Đây là một hình thức cai trị man dã tàn ác phi nhân mà những tên đầu lãnh Bắc bộ phủ đã copy nguyên xi từ Cộng sản Nga Tàu đem về xài lại với mục đích kiểm soát bao tử, siết chặt kẻ bị trị vào miếng ăn, mà người miền Nam Quốc Gia trước và sau black April thường gọi đó là chính sách «treo nồi cơm» của thiên đường Cộng sản Bắc Việt.
Hình thức độc tài tàn ác này của chế độ Cộng sản miền Bắc là một mặt khác, một chi tiết Sử liệu khác vô cùng dễ nhìn ra vì nó rõ mồn một tựa như một bằng chứng rành rành không thể chối cãi, chứng minh rằng, những tên đầu lãnh Bắc bộ phủ đã chặn mọi sự chống đối của dân bị trị ngay từ trong trứng nước bằng miếng ăn tối thiểu và tầm thường của đời người.
Nói cách khác, bọn tà quyền Hànội tự biết rất rõ chúng nó là kẻ gian tà, và biết rõ lòng dân phẫn uất chỉ chực tuôn trào nổi dậy làm loạn để tự giải thoát, do đó bọn đầu lãnh Bắc bộ phủ phải xài tới trò đểu cáng bóp họng gian ác của phường kẻ cướp hòng kềm kẹp và đàn áp dân để dễ bề ngồi yên trên cái ghế cai trị.
Trong khi đó, dân miền Nam Quốc Gia thừa mứa ê hề không riêng gì gạo muối vải vóc mà còn đủ thứ nhu yếu khác của đời sống khi toàn dân được hưởng một nền Kinh Tế Tự Do trù phú dưới một chế độ Tự Do Dân Chủ mặc dù miền Nam trong suốt hai mươi năm bị CSBV xâm lăng và ra sức phá hoại không ngừng nghỉ dưới mọi hình thức, bằng mọi thủ đoạn đê hèn của phường giết người không gớm tay.
Vậy nhưng CSBV không ngớt trẹo lưỡi nói ngược, ra rả tuyên truyền bịp bợm với dân miền Bắc rằng dân miền Nam bị “thiếu đói và kềm kẹp” cho nên 'ta phải đi vào giải phóng'.
Và điều còn mỉa mai ô nhục hơn cho một số trí thức, nhà báo, sinh viên học sinh trong Nam ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản no cơm rửng mỡ tin theo cái luận điệu giẻ rách hôi hám thế kia của bọn Cộng sản, đã u mê tiếp tay rước giặc vào đốt nhà phá bàn thờ!
Nếu chi tiết Sổ Gạo này không được phân giải cho rành rẽ (dù chỉ mới là vài dòng vắn tắt sơ lược như trên) thì tôi e rằng nhiều bạn đọc sanh sau black April – kể cả người ngoài Bắc – sẽ không hiểu câu viết trong bài báo bên trên: cho phép các gia đình hồi cư được sát nhập sổ gạo và thực phẩm lại làm một, là bởi vì khi đi “sơ tán”, các loại sổ này bị phân chia theo nơi đến “sơ tán” là cái gì?!
#Tien Tuyen Jul. 25, 1972 trang ba
MỘT KÝ GIẢ MỸ SAU KHI THĂM HÀ NỘI VỀ CHO BIẾT
DÂN HÀ NỘI CÂM, ĐIẾC VÀ ĐUI trước những diễn tiến trên thế giới
★ Họ không được biết bao nhiêu về cuộc oanh tạc và phong tỏa Bắc Việt – Không biết tí gì về những thảm hại của lực lượng Bắc Việt tại miền Nam ⚀ Bắc Việt là Cộng sản độc tài nhứt thế giới.
#Tien Tuyen Jul. 25, 1972 trang ba
MỘT KÝ GIẢ MỸ SAU KHI THĂM HÀ NỘI VỀ CHO BIẾT
DÂN HÀ NỘI CÂM, ĐIẾC VÀ ĐUI trước những diễn tiến trên thế giới
★ Họ không được biết bao nhiêu về cuộc oanh tạc và phong tỏa Bắc Việt – Không biết tí gì về những thảm hại của lực lượng Bắc Việt tại miền Nam ⚀ Bắc Việt là Cộng sản độc tài nhứt thế giới.
Hà Nội (VT) 24-7. – Ký giả Mỹ Joseph Kraft sau một cuộc viếng thăm Hanoi quay về đây cho hay, hiện nay tại BV vẫn có người hút thuốc phiện mà theo ông rất có thể là cán bộ cao cấp.
Mặc khác, khi đề cập tới đời sống chánh trị tại BV, ký giả Joseph Kraft cho hay là dân BV gần như câm và điếc trước những diễn biến mới đây trên thế giới. Những chuyến công du của TT Nixon qua Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa, sự thăm dò của Viện Gallup đối với việc tranh cử sắp tới của TT Nixon và ngay cả việc Hoa Kỳ tái oanh tạc BV dường như dân Hanoi chẳng được biết gì mấy. Và dĩ nhiên, họ hoàn toàn mù tịt về sự thảm bại của lực lượng BV tại miền Nam. Vẫn theo lời ký giả Joseph Kraft, thì trong chuyến viếng thăm BV mới đây, ông đã tiếp xúc với 2 nhân vật quan trọng của Trung ương đảng BV là Lê đức Thọ và Nguyễn duy trinh. Nếu việc ông tiếp xúc với những nhân vật này không có gì khó khăn thì sự gặp gỡ những cán bộ trung và hạ cấp và ngay cả thường dân ở BV hầu như bị ngăn trở.
Ông cho hay, khẩu hiệu 3 Không gồm không nghe, không thấy và không biết đã được các giới cán bộ BV thi hành nghiêm chỉnh.
Còn dân chúng thì bị kiểm soát chặt chẽ mỗi khi gặp người lạ muốn hỏi thăm chuyện gì.
Ông cho biết, ông đã dùng tiếng Pháp để gợi chuyện với một phụ nữ tại Hanoi. Người này vừa định trả lời thì cũng ngay lúc đó, viên thông ngôn – là người được chính quyền Hanoi cử đi theo ông – đã tiến đến. Sau một hồi lời qua tiếng lại với người phụ nữ kia, viên thông ngôn nói với ông rằng, người phụ nữ kia vì bận việc phải đi nên không thể tiếp chuyện ông được.
Cuối cùng, ký giả Joseph Kraft kết luận, BV là một trong những chế độ Cộng sản có tính Cộng sản hơn bất cứ một chế độ Cộng sản nào khác trên thế giới nghĩa là một chế độ độc tài nhất!
#Tien Tuyen Sept. 9, 1972 trang nhất
Một Người Lính Bắc Việt Tiết Lộ: Biết Vượt Trường Sơn Là Nguy Hiểm Nhưng Cán Binh Cộng Sản Bắc Việt Vẫn Đi Vì … #Tien Tuyen Sept. 9, 1972 trang nhất
Một Người Lính Bắc Việt Tiết Lộ: Biết Vượt Trường Sơn Là Nguy Hiểm Nhưng Cán Binh Cộng Sản Bắc Việt Vẫn Đi Vì …
MỤC ĐÍCH TỐI THƯỢNG VÀO NAM VÀ «QUYẾT TÂM MẠNH MẼ NHẤT» LÀ MUA RADIO VÀ ĐỒNG HỒ ĐEM RA BẮC
⚃ Ở miền Bắc, muốn nghe lén các đài Tự Do, Saigon, VOA v.v… phải mang radio ra những quãng đường vắng ở đến khuya mới về nhà …
★ Tiến Châu
SAIGON (TT). – Theo cung từ của hàng binh Nguyễn chánh Trực tiết lộ cho biết, những các bộ từ miền Bắc xâm nhập vào Nam đều có một «mục đích tối thượng khi vào Nam là để mua radio và đồng hồ đem ra Bắc», các cán bộ cho đó là «quyết tâm mạnh mẽ nhất» là «nguồn động viên lớn nhất» đối với họ trên chặng đường vượt Trường Sơn đầy gian khổ và nguy hiểm.
Theo cung từ thì dân chúng miền Bắc rất thích nghe các Đài Phát thanh, nhất là các đài VOA, BBC, Saigon, Tiếng Nói Tự Do, v.v. còn các đài Cộng sản thì vì chương trình khô khan, nhồi sọ nên không được dân chúng miền Bắc ưa thích. Bởi lẽ đó, Radio là 1 nhu cầu tối cần thiết đối với dân chúng miền Bắc.
Theo cung từ tiết lộ, số gia đình có máy thu thanh riêng ở thành phố Hanoi chiếm khoảng 50% đến 60%; còn ở nông thôn thì chắc chắn dưới 10%. Thành phần được coi là có nhiều máy thu thanh là những cán bộ trung, cao cấp của nhà nước và giới trí thức, Trong số ấy những máy thu thanh trong gia đình của tầng lớp "trí thức cũ” đều mang nhãn hiệu sản xuất từ 1954 và đều là của Pháp, Mỹ, Hòa Lan, Có lúc người ta thấy nhiều gia đình bán đồ đạc, đồng hồ, xe đạp để cố mua lấy một chiếc máy thu thanh chạy pin với giá chợ đen rất đắt, để được nghe tin tức của con cháu họ trên đài VOA và đài Tiếng Nói Tự Do.
Việc nghe các "đài địch" rất khó khăn vì nhà cầm quyền miền Bắc nghiêm nhặt cấm đoán. Tuy vậy, dân chúng nhất là một số ít gia đình có nhà riêng thường tìm mọi cách để nghe lén những đài bị cấm như Tiếng Nói Tự Do, đài Saigon, đài BBC, đài VOA.., để tìm hiểu tin tức của “phía bên kia", để theo dõi tình hình chiến sự Miền Nam, nơi mà chồng con em của họ đang ở đó để biết số phận của những người ấy ra sao, nếu may mắn ra hồi chánh hoặc bị bắt qua mục Nhắn Tin Cho Thân Nhân (đài Tiếng Nói Tự Do), ngoài ra cũng là để tìm một phút nghỉ ngơi thoải mái trong chương trình ca nhạc êm dịu trữ tình (như của đài Tiếng Nói Tự Do).
Còn đối với các gia đình sống tập thể, không có nhà riêng kín đáo thì thật phiền phức, phải khó khăn mới nghe lén được đài trong Nam từ Hanoi. Những người này phải đem máy thu thanh nào những quảng đường vắng để nghe lén đài tới khuya mới về: Đó là biểu hiện của những kẻ chẳng ưa gì cái chế độ mà họ đang sống, lòng luôn mơ tưởng một cuộc sống tự do dù chỉ tưởng tượng trên âm thanh.
Cùng từ tiết lộ thêm rằng “biết được sự việc như vậy, nhà cầm quyền miền Bắc đã cho bắc loa cỡ đại ở những nơi công cộng như khu Phố Chợ, Xí nghiệp, Cơ quan, công trường, nơi tập trung nhiều người mua bán qua lại như khu Cửa Nam xung quanh bờ Hồ Hoàn Kiếm v.v… để phổ biến tin tức, xã luận tuyên truyền, nhưng cũng không được dân chúng hưởng ứng trừ phi vô tình đi ngang qua và «phải bị» nghe. (TC)
~~~~~~~~~~~~~~
$pageOut$pageIn
Phân đoạn 5
#Tien Tuyen Jul. 27, 1972 trang năm - Tri Vũ phụ trách
Những Lý Do Yếu Kém Của Các Sư Đoàn CSBV
#Tien Tuyen Jul. 27, 1972 trang năm - Tri Vũ phụ trách
NHỮNG LÝ DO YẾU KÉM CỦA CÁC SƯ ĐOÀN BẮC VIỆT
Một bản phân tích khả năng hiện nay của quân lực Cộng sản đang hoại động tại VNCH cho thấy tất cả 10 sư đoàn chính quy tham gia cuộc xâm lăng quy mô hồi tháng 4 đã bị suy yếu và hiệu năng tác chiến của ít nhiều sư đoàn ấy đang lâm vào tình trạng kiệt quệ.
Khó khăn đó của Cộng quân dường như bắt nguồn phần nào từ sự kiện Bắc Việt chuyển qua chiến tranh quy ước. Cộng sản áp dụng trận địa chiến có thể là để tiết kiệm nhân lực sau 7 năm chịu nhiều tổn thất nặng nề, nhưng sự thay đổi chiến thuật ấy lại khiến cho các đơn vị lâm chiến phải tùy thuộc vào tiếp vận nặng nhiều hơn bao giờ hết. Mà tiếp vận nặng thì nay đang trở thành 1 vấn đề nan giải bởi lẽ Hoa kỳ đã gia tăng oanh tạc và thả thủy lôi tại các Hải cảng Bắc Việt.
Còn phải thêm vào nguyên tố đó những sự kiện này nữa: Không lực Hoa kỳ và VNCH đã gây thêm nhiều tử vong cho địch, chiến sĩ VNCH tiếp tục chiến đấu thắng lợi và việc Cộng quân không được nhân dân Nam VN hậu thuẫn.
Nhiều sư đoàn và trung đoàn Cộng quân đã bị đánh tơi bời. Họ lâm vào cảnh thiếu thực phẩm và tiếp liệu. Trên 400 chiến xa đã bị tiêu diệt. Hàng ngàn binh lính của họ đã ngã gục trên chiến trường. Và nay những kẻ sống sót đang phải bắt đầu rút lui và cả đầu hàng nữa.
Sa Lầy
Cuộc tấn công bắt đầu với những thành quả ban đầu tại Quảng Trị đã sa lầy. Và sau 4 tháng chiến đấu với cái giá quá đắt, bộ chỉ huy Cộng sản hiện đã phải đối đầu với bộ binh Nam Việt Nam phản công tại bất cứ địa điểm then chốt nào mà họ đã hy vọng rằng, từ đó họ có thể áp đảo quân đội Nam Việt Nam.
Sau đây là nhận xét của những nhà quan sát tinh tường về tình hình hiện nay của những đơn vị Cộng sản tại Nam Việt Nam (Tiền Tuyến lược dịch)
Sư đoàn 304 với những đơn vị trọng pháo và xe tăng yểm trợ đã bị tổn thất nặng nề tại mặt trận Quảng Trị. Được coi là 1 trong số những đơn vị xuất sắc nhất của cái được gọi là “Quân đội Nhân dân” mặc dầu sự bại trận của họ vào năm 1968 tại Khe Sanh, đội quân này «chưa bao giờ đương đầu với mọi thứ hỏa lực trong cuộc tiến công hiện nay.»
Trung đoàn 9 của họ đã bị những trận oanh kích của phi cơ B.52 tiêu diệt. Trung đoàn 66 trong cuộc giao tranh kéo dài đã bị tổn thất nặng nề vì số thương vong, và Trung đoàn 24-B dù không tổn thất bằng 2 Trung đoàn kia nhưng được báo cáo là đã mất tinh thần khi dân chúng Quảng Trị đã quyết định chạy trốn khỏi Tỉnh chứ không ở lại hoan nghênh “giải phóng”. Trung đoàn Trọng pháo yểm trợ 38 đã không thể chống cự được những cuộc tấn công của quân đội VNCH và phi cơ đồng minh.
Sư đoàn 308 được thành lập năm 1949 và nổi danh là “bách chiến, bách thắng” nhờ tài chiến đấu giỏi lúc chống lại quân Pháp, rõ ràng là đã đánh giá quá thấp khả năng chống trả của binh sĩ VNCH. Nhưng Sư đoàn này đã phải kinh ngạc khi Trung đoàn 36 của họ đã bị đánh bật ra khỏi Đông Hà hồi tháng Tư.
Thế rồi khi Trung đoàn 102 thuộc Sư đoàn 308 lâm trận thì cũng bị chiến sĩ VNCH đánh tơi bời. Tới lượt Trung đoàn 88 cũng lại bị phi cơ và đại bác băm nát.
Trong 2 tháng Năm và Sáu nhiều đơn vị của Sư đoàn này đã bị phi cơ, trọng pháo và bộ binh tấn công tới tấp. Nói riêng thì Trung đoàn 88 có Trung đoàn Thiết giáp 202 trợ chiến đã bị tổn thất rất nặng hồi cuối tháng Năm trong khi mưu toan chọc thủng phòng tuyến Sông Mỹ Chánh. Nay, sau khi đã bị tổn thất hàng ngàn người, người ta không tin là Cộng quân có thể giữ được những thắng lợi lúc đầu trong tỉnh Quảng Trị trước sự phản công của Quân Lực VNCH.
Một quan sát viên đã nói: « Ngày nay Sư đoàn 308 nên cải danh là Sư đoàn "bách chiến bách bại” »
Hoang mang
Được tổ chức lại năm ngoái và tái xâm nhập miền Nam tháng Giêng và tháng 2 năm nay, Sư đoàn kỳ cựu 324-B có nhiệm vụ mở các cuộc hành quân quấy rối và tấn công Sư đoàn I BB VNCH trong tháng 3, tức đơn vị đã ngăn cản không để cho Trung đoàn 29 của Sư đoàn Cộng sản này hoàn tất tổ chức cuộc xâm lăng tỉnh Thừa Thiên và tấn công Huế.
Trung đoàn này đã bị Trung đoàn 803 cũng thuộc Sư đoàn 324-B thay thế hồi tháng Năm, nhưng tinh thần của Trung đoàn này cũng đã xuống thấp vì 30% sĩ quan và hạ sĩ quan đã bị chết tại Quảng Trị. Bị tan rã bởi các cuộc tấn công đáp trả liên tiếp của Quân đội VNCH đã tái chiếm lại được những vị trí bị mất lúc đầu, Sư đoàn này đang lâm vào tình trạng hoang mang.
Một Trung đoàn của đại đơn vị này – Trung đoàn 29 – chỉ còn lại không đầy 130 người. Hơn nữa, 2 trung đoàn 803 và 612 thường xuyên bị ăn đạn trọng pháo của QLVNCH nên đã không thể xâm nhập các vị trí phòng thủ đọc đường 547 ở phía Tây Huế.
Sư đoàn 320, 1 đơn vị bị tan rã khác mà cũng đã nổi tiếng 1 thời nhờ trận Điện Biên Phủ, đã nuôi hy vọng biến Kontum thành 1 Điện Biên Phủ nữa cho chiến sĩ VNCH. Nhưng các đợt xung phong của các Trung đoàn 48, 52 và 64 đã bị đẩy lui sau khi đã bị tổn thất nặng nề ngay tại mặt trận ấy.
Trong tháng Tư và Năm, 2 Trung đoàn 64 và 48 đã bị thiếu hụt lương thực trầm trọng nên khả năng chiến đấu bị ảnh hưởng theo. Vào trung tuần tháng Năm, chính Trung đoàn 48 cũng đã bị tổn thất 50% vì nhiều nguyên do. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn này chỉ còn lại không đầy 200 người. Còn Trung đoàn 52 cũng bị hao hụt quân số tương tự. Vì thế Sư đoàn 302 buộc lòng phải rút lui để bổ sung, giao trách nhiệm tấn công Kon Tum lại cho Sư đoàn 2.
Tuy nhiên SĐ 2 cũng lại bị sa sút tinh thần và có nhiều người bị bệnh sốt rét nên cũng chẳng hơn gì. Sư đoàn này tấn công Kon Tum từ ngày 25 đến 28-5 nhưng lính tráng ô hợp mà còn thiếu chuẩn bị về trọng pháo. Vì thế sau khi vào được thị trấn Kon Tum lần đầu, cả 2 Trung đoàn 1 và SĐ 2 bị đánh bại hoàn toàn và cuối tháng Sáu có Sư đoàn đã phải rút lui để củng cố lại.
Chiến cuộc kéo dài tiếp tục bị giới hạn và tổn thất lên cao đã làm giảm khả năng tác chiến của Sư đoàn 3 trong tỉnh Bình Định, hoạt động trong tỉnh này từ năm 1966. Các đơn vị của Sư đoàn này bị đẩy lui với những tổn thất nặng nề trong cuộc tấn công quận lỵ Phù Mỹ hồi trung tuần tháng Sáu.
Các Trung đoàn 2, 12 và 21 nay đang phải lẩn trốn ở mạn Bắc tỉnh Bình Định và các nơi xa xôi hẻo lánh khác thuộc tỉnh này. Vì thiếu sự phối hợp hữu hiệu của các đơn vị Cộng sản địa phương nên Sư đoàn này đã không thể xâm nhập khu vực Nam Bình Định.
Sư đoàn 5, mang tên là đơn vị VC hay MTGP, đã hoạt động trong tỉnh Bình Long từ hồi đầu cuộc tổng tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa này. Đơn vị này được giao phó nhiệm vụ chiếm An Lộc sau khi Sư đoàn 9 đã bị đánh bại. Nhưng rồi đơn vị này cũng lại thất bại khi đã bị tổn thất nặng và phải rút sang Kampuchia qua ngả Kiến Tường. Ít nhất thì Trung đoàn 174 của Sư đoàn này cũng đã bị tổn thất đậm trong cuộc tấn công Quận Tuyên Bình và dọc hương lộ 29 trong tháng ấy. Sư đoàn này được chỉ định quấy phá vùng Tiền Giang, nhưng đã không thu được kết quả đáng kể nào một tháng hoạt động. Sư đoàn này đã chịu nhiều tổn thất trong mấy năm qua cho nên phần lớn quân số hiện nay đều gồm các tân binh chưa có kinh nghiệm và không được huấn luyện đầy đủ từ ngoài Bắc đưa vào.
Sư đoàn 7 của Cộng sản, chiến đấu dọc quốc 13 giữa Lai Khê và An Lộc trong gần 3 tháng, đã gặp nhiều khó khăn trầm trọng. Mỗi ngày chỉ được tiếp tế có 1 lần, thuốc men không đủ, và sự phối hợp giữa Thiết giáp với bộ binh thì thảm hại. Các Trung đoàn 141, và 209 đã bị tổn thất 50 phần trăm số quân so với lúc mới kéo vào Nam, vì luôn luôn bị phi pháo và trọng pháo. Riêng Trung đoàn 209 thì số tổn thất còn nặng nề hơn, ít nhiều đại đội lúc đầu quân số còn đầy đủ nhưng nay mỗi đơn vị chỉ còn lại không đầy 20 người. Số bổ sung đưa đến vừa chậm vừa không đủ để trám vào chỗ trống. Trong cả một tháng Năm mà chỉ có 300 lính bổ sung, và trong hai tuần lễ đầu tháng Sáu thì lại không nhận được một tên lính điền khuyết nào cả.
Các quan sát viên cho hay Sư đoàn 7 này chỉ còn là cái bóng mờ.
Con mồi ngon
Sư đoàn 9, cũng như Sư đoàn 5, mang tên là đơn vị của Việt cộng hay Mặt trận Giải phóng, nhưng vì trong mấy năm qua đã bị tổn thất nặng nên quân số của họ hiện nay phần lớn là lính Bắc Việt.
Sư đoàn 9 đã mở nhiều cuộc tấn công vào An Lộc trong tháng 4, nhưng các Trung đoàn 95-C, 271 và 272 của Sư đoàn này bị đánh bại và đã bị tổn thất rất nhiều. Sư đoàn này có 300 lính bị hạ và 20 chiến xa bị bắn gục. Tin rằng An Lộc đã được “giải phóng”, các đoàn thiết giáp này cứ lù lù tiến vào thị xã, pháo tháp để ngỏ cho nên đã trở thành những con mồi ngon cho chiến sĩ VNCH. Bị thảm bại nhục nhã, bị Trung Ương cục miền Nam chỉ trích nặng nề về tội không đạt được mục tiêu giao phó, Sư đoàn này bị coi như không còn khả năng tác chiến nữa.
Sư đoàn 1 của cái gọi là "Quân đội Nhân dân" đã từng hoạt động ở Kampuchea với chút ít thắng lợi. Nhưng khi vượt biên giới tiến vào VNCH thì đó lại là vấn đề khác. Khi các đơn vị của Sư đoàn này tấn công Quận lỵ Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang, các chiến sĩ VNCH đã chống trả mãnh liệt và đã đẩy lui Cộng quân qua trở lại Kampuchea.
Cùng với 10 Sư đoàn chính quy kể trên, bộ Tư Lệnh Cộng quân còn tung ra trên lãnh thổ miền Nam một số đơn vị đặc biệt và Trung đoàn độc lập. Trong số này có Trung đoàn 27B, 31 và 270, tất cả là quân chính quy Cộng sản Bắc Việt xâm nhập miền Nam và hiện đang hoạt động tại mặt trận Trị Thiên. Nhưng vì dân chúng không chịu hỗ trợ cho Cộng quân nên Bắc Việt đã phải bổ xung cho 2 đơn vị này bằng những thiếu niên Bắc Việt. Cả 2 đều bị thất bại nặng trong 3 tháng chiến đấu tại 2 Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
Tại 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, Cộng quân đã cố gắng tổ chức Sư đoàn mới lấy tên là 711 gồm có các Trung đoàn 31, 38 và 270. Sư đoàn này đã đạt được chút ít thắng lợi trong tỉnh Quảng Tín hồi tháng 4 nhưng do gặp khó khăn đáng kể trong tháng 5 và tháng 6, bị phi cơ và các đơn vị VNCH trừng phạt nặng nề dọc tỉnh lộ 535 từ Quế Sơn tới QL1.
Trên mặt trận Kon Tum, các Trung đoàn bộ binh 28, 66 và 95 và Trung đoàn pháo binh 40 đã rút lui sau khi đã bị nhưng tổn thất nặng nề do B52 tấn công. Trung đoàn 271 bị tan nát ở Tây Ninh và Hậu Nghĩa, đã phái rút ra khỏi các khu vực đông dân cư và chạy qua Kampuchea.
Trong tỉnh Bình Long, đa số các khẩu trọng pháo của bộ chỉ huy Pháo binh 69 đã bị phi cơ tiêu diệt và mấy khẩu còn lại đều được kéo qua Kampuchea.
Trung đoàn 101 hoạt động trong tỉnh Bình Dương nay thực tình không còn hoạt động nữa sau khi bị đại bại lúc tấn công quận lỵ Tri Tôn.
2 Trung đoàn 33 và 274 hoạt động trong tỉnh Phước Tuy đã cố gắng mà chỉ sát hại được có một số thường dân vô tội, thiêu hủy nhà cửa của dân tại Bình Giã, Đức Thạnh, Đất Đỏ, Long Lễ và Xuyên Mộc. Trong tháng 5 và 6, 2 đơn vị đó đã bị tổn thất rất nhiều và không thể chiếm giữ được 1 thị xã nào.
Còn một ít Trung đoàn độc lập trong miền Châu thổ Cửu long như Trung đoàn 83, 18B và 95A và một số trung đoàn khác thường xuyên thay đổi tên gọi để tránh bị phát giác. Các đơn vị này cũng đã bị tổn thất nặng. Trung đoàn 88 chẳng hạn đã bị hạ sát trên 500 tên khi giao chiến tại Kiến Tường và phía Tây Định Tường. Trung đoàn 18B tại Chương Thiện đã bị nhiều tổn thất do phi cơ oanh tạc. Những đơn vị này đã gia tăng hoạt động tại các khu vực hẻo lánh, chứ không chiếm giữ được 1 khu vực đông dân cư nào.
Cộng quân đã phải trả 1 cái giá rất đắt bằng mạng người, chiến cụ và võ khí, phần thu về thực sự lại chẳng có là bao.
#Chinh Luan Sept 12, 1972 trang ba
Tinh thần Cán binh Cộng sản suy sụp #Chinh Luan Sept 12, 1972 trang ba
Tài liệu Cộng sản phát lộ tình hình tư tưởng cán binh Cộng sản suy sụp
SAIGON. 10-9. – Quân lực VNCH vừa tịch thu 1 tài liệu quan trọng của Cộng Sản ở tỉnh Kiến Hòa cho thấy rằng có hiện tượng cán bộ Cộng sản bất phục tùng kỷ luật, không theo lãnh đạo của Đảng mà còn giao động trước tình trạng chiến tranh ác liệt nên có nhiều cán binh Cộng sản đã đầu hàng Quân lực VNCH.
Tài liệu nói trên nhan đề là «một số nét về tình hình nội bộ» có đoạn cho biết rắng trước tình hình chiến tranh ác liệt cũng là lúc VNCH «đẩy mạnh mưu lược tâm lý chiến» cho nên cần phải phát động, củng cố tư tưởng, chi bộ, chỉ đạo cụ thể kế hoạch chống lại mưu lược này.
Sau đó, tài liệu nói trên vạch rõ rằng «một số cán bộ chiến sĩ bị ảnh hưởng nên đi tới chỗ cầu an, thỏa mãn, ngả sang tư tưởng tự do bất chấp bất phục tùng kỷ luật và sự lãnh đạo của tổ chức, bất đồng nội bộ, diễn biến tư tưởng».
Tài liệu nhấn mạnh «cấp ủy chi bộ xã cũng như cơ quan chưa giải quyết gì được, do đó thường xuyên có những cán bộ có những diễn biến không tốt đi đến việc đầu hàng địch, gây khó khăn cho Đảng».
#Chinh Luan Jun. 8, 1972 trang ba
Hànội để lộ cho thấy Thực trạng Bi đát tại Bắc Việt
Bị oanh tạc, Hết xe cộ, đường sá, nhà máy điện
Đài Phát thanh Hanoi kêu gọi dân chúng «có thể phải đi bộ, có thể phải dùng đèn bấm, có thể phải chỉ ăn cháo mà vẫn không từ bỏ chiến tranh … »
Hànội để lộ cho thấy Thực trạng Bi đát tại Bắc Việt
Bị oanh tạc, Hết xe cộ, đường sá, nhà máy điện
Đài Phát thanh Hanoi kêu gọi dân chúng «có thể phải đi bộ, có thể phải dùng đèn bấm, có thể phải chỉ ăn cháo mà vẫn không từ bỏ chiến tranh … »
LUÂN ĐÔN, 6.6 – Các nhật báo xuất bản ở Luân Đôn hôm nay đã lưu ý tới những lời Hoa Kỳ báo cáo về những kết quả của những vu oanh tạc của Hoa Kỳ ở miền Bắc và đến những lời bàn bạc về hậu quả của những vụ oanh tạc BV.
Báo Telegraph đăng bài của biện tập viên báo ấy chuyên về các vấn đề Cộng sản, đã căn cứ vào bài bình luận của báo Nhân Dân do dài Hà Nội loan đi mà suy luận ra nhiều điều.
Trong bài báo do đài Hà Nội loan đi có nhận rằng BV đương tập phải các vấn đề kinh tế khó khăn vì Hoa Kỳ gia tăng oanh tạc. Và biên tập viên báo Telegraph bình luận: Bài báo Nhân Dân này hầu như xác nhận nhiều tin nói rằng các khó khăn của BV ngày một thêm nhiều.
Trong bài phát thanh, đài Hànội nói «Chúng ta đã tiên liệu và tính trước được tình hình rất khó khăn và những mưu mô vô cùng độc ác và nguy hiểm của địch khi chúng leo thang cuộc chiến dữ dội. Nhân dân ta có thể phải đi bộ, có thể chỉ dùng đến đèn bấm, có thể chỉ ăn cháo mà vẫn đánh bại được quân xâm lăng Mỹ. Và mặc dầu oanh tạc, địch không thể nào làm tê liệt nền kinh tế của ta tới độ không cho ta sống còn và tiếp tế cho miền Nam được.»
Những lời nói đến đi bộ, dùng đèn bấm và ăn cháo có vẻ như là một chỉ dẫn rõ rệt cho thấy là việc Hoa Kỳ oanh tạc đã làm thiệt hại các đường giao thông, các các nhà máy điện và nông nghiệp đến mức nào.
Ngoài nỗi khó khăn trong việc duy trì tiếp liệu cho bộ đội ở miền Nam, nền kinh tế sinh hoạt cho miền Bắc có vẻ cũng gặp nhiều điều khó khăn. Từ trước đến nay BV đã phải chật vật mới sản xuất được thực phẩm cho đủ dùng.
#Chinh Luan Jun. 27, 1972 trang nhất
Hà Nội hạ lệnh dẹp hết quà bánh để đánh đến cùng
#Chinh Luan Jun. 27, 1972 trang nhất
Hà Nội hạ lệnh dẹp hết quà bánh để đánh đến cùng
SAIGON. 26.6.– Nhật báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của đảng CSVN trong số ra ngày 28-5-1972 đề cập việc tiết kiệm lương thực đã nói rằng, hiện miền Bắc còn phí phạm lương thực và báo đó kể rằng: «chỉ cần nhìn vào những hàng quà hàng bánh, đã thấy có nhiều thứ quà bánh chế biến từ lương thực. Nào bánh chưng, bánh tẻ, bánh nếp. Nào bún, miến, cháo…» và báo Nhân Dân kêu gọi «những thứ nào cần để và có thể để được thì để. Thí dụ như những thứ không phạm nhiều đến lương thực chính. Còn thì nên dẹp bớt nó đi hoặc đổi cách chế biến bằng những lương thực phụ.»
Ở một đoạn khác, báo Nhân Dân viết: «ở một số tỉnh, bà con thị xã đi sơ tán lại không chịu vào trong các thôn xóm, cứ ở rệch ven mấy đường cái chính. Rồi hàng quà, hàng bánh mọc lên vô tội vạ. Việc quản lý thị trường thêm phức tạp. Và lương thực thì lại bị hao phi nhiều hơn.»
Lên án những người bán quà bánh vô kỷ luật, báo Nhân Dân viết tiếp: «Họ hoạt động đàng hoàng. Họ chạy theo lời lãi không chút ý thức tiết kiệm lương thực. Có việc sơ tán, họ cũng không sơ tán …»
Và báo đó kết luận, riêng ở Hànội nếu dẹp bớt hàng quà hàng bánh không cần thiết thì chắc Hà Nội có thể tiết kiệm được cả tấn gạo và mì.
Trước dây trong một bài xã luận, báo Nhân Dân đã kêu gọi dân chúng “đốt đuốc, đi bộ, ăn cháo đánh Mỹ tới cùng".
#Chinh Luan Jul. 16_17, 1972 trang ba
Mặc dù mỹ đã sẵn sàng loại bom gây mất dưỡng khí, Quân VNCH muốn tự tay lấy lại Quảng Trị, Không muốn dội bom vì sợ làm chết dân
#Chinh Luan Jul. 16_17, 1972 trang ba
Mặc dù mỹ đã sẵn sàng loại bom gây mất dưỡng khí
Quân VNCH muốn tự tay lấy lại Quảng Trị
Không muốn dội bom vì sợ làm chết dân
🟐 Quân CSBV sống dưới hầm sâu, chạy quạt bằng ắc quy
🟐 Hiện còn có 1 trung đoàn CSBV cố thủ trong Cổ Thành
🟐 1 ký giả Pháp được CSBV thả nhân ngày 14-7
HUẾ, 14-7 (AFP). – Trung Uý Terry Griswold, một cố vấn Mỹ trẻ tuổi, lần đầu tiên đã lọt được vào Quảng Trị và ở lại thị xã luôn mấy ngày, trong một công tác thám sát, hôm thứ Năm tuyên bố tại Huế rằng: «Bằng vào cách thức quân CSBV trang bị các công sự hầm hố của chúng, người ta thấy rõ là chúng có ý định ở lại thành phố này.»
Một điều hết sức ngạc nhiên là binh sĩ VNCH đã phát giác tại một vài công sự CSBV bỏ lại, những máy quạt và máy lạnh không cần đến Trung Tâm phát điện (vừa bị hư hại nặng trong trận chiến mới đây). Những máy của địch toàn chạy bằng bình Accu xe hơi.
Từ ngày 1-5 binh sĩ CSBV sống dưới hầm sâu tại Quảng Trị để tránh bom và đạn trọng pháo của Mỹ. Nhưng cuộc sống theo loài chuột đất này không ngăn cản một vài tên binh sĩ có tài xoay xở biến chế ra có những tiện nghi, lẽ ra chỉ dành cho những vùng thái bình an lạc hơn.
Cuộc hành quân của VNCH nhằm tái chiếm Quảng Trị và các vùng chung quanh càng ngày càng dữ dội. Bộ Tư Lệnh Việt Nam Cộng Hòa ước lượng có khoảng 1 Trung đoàn CSBV ẩn phục trong khu Cổ Thành ở trung tâm thành phố. Người ta cũng ước lượng phải 4, 5 ngày nữa binh sĩ VNCH mới hoàn toàn làm chủ chiến trường vì chỉ khi nào chiếm được khu Cổ Thành thì mới thật là kiểm soát được Quảng Trị.
Cho đến nay Mỹ vẫn chưa oanh tạc Quảng Trị bằng B52 vì lẽ hãy còn dân trong Thị xã. Gia dĩ VNCH muốn tự đánh chiếm lấy Quảng Trị dù phải trả giá nào chăng nữa, hơn là tìm chiến thắng nhờ vào không lực Mỹ. [ Gia dĩ: Sở dĩ; Vả lại, Hơn nữa ]
Người Mỹ đã chỉnh bị loại bom mới mà khi nổ sẽ làm tan mất hết chất dưỡng khí trong không khí. Loại bom này sẽ rất hiệu lực đối với những binh sĩ trốn dưới hầm sâu vì sẽ bị chết ngạt.
Hoạt động gia tăng của quân đội Quốc Gia tại Quảng Trị dường như đã làm giảm bớt áp lực của quân CSBV vào Huế. Theo Bộ Tư Lệnh quân sự VNCH, quân CSBV đã bị tổn thất hết sức nặng nề trong tuần qua khi toan cản đường tiến quân của VNCH.
Một nguồn tin ở Saigon hôm thứ Sáu cho hay một ký giả Mỹ của tạp chí Newsweek ông Alexander Shimkia đã mất tích tại tỉnh Quảng Trị từ hai hôm nay.
Shimkia, 27 tuổi, hôm thứ Tư vừa qua đã cùng một ký giả khác dùng xe Jeep đi trên Quốc lộ 1 và bị lọt phục kích của CSBV.
Ký giả thứ hai là ông Chad Huntley hãng UPI đã thất lạc với bạn đồng hành và bị thương nhẹ vì mảnh lựu đạn. Tuy nhiên, anh ta đã trở về được phòng tuyến VNCH sau hai ngày đi bộ.
Tại Saigon, Ký giả Pháp Michel Dumont mất tích hơn 3 tháng nay ở quận Lộc Ninh và vừa trở về được, tuyên bố ông ta bị CSBV bắt làm tù binh và chúng đã phóng thích ông ta nhân ngày lễ của Pháp 14-7. Ông thuật lại là CSBV đối với ông ta rằng “Chúng tôi trả tự do cho ông để ông có thể ăn mừng kỷ niệm ngày giải phóng nước Pháp và chứng tỏ sự liên lạc tốt đẹp giữa chúng tôi và nước Pháp.” Sau đó ông được phóng thích và chúng chỉ đường cho ông đi vài cây số đến một tiền đồn VNCH.
Michel Dumont thuật rằng ông bị bắt cùng với 2 cố vấn Mỹ. Hai người cũng bị thương vì mảnh đạn trái phá và đạn trực thăng như ông. Hai người Mỹ đã bị thương trong một cuộc tấn công của phi cơ Hoa Kỳ, toan bỏ trốn. Họ bị bắt lại và cả ba bị đưa sang KPC vùng Snoul, bằng chiếc xe Jeep của một cố vấn Mỹ. Tên lính CSBV lái xe có lẽ lần đầu tiên cầm lái bánh xe Jeep, và lái một cách quá tệ. Cuộc hành trình thật nguy hiểm, và một trong hai người Mỹ đã luôn mồm đòi trả tay lái lại cho ông ta.
Michel Dumont nói ông ta được đối đã tử tế. Trong những ngày đầu, ông ta bị giam riêng, không được gần 2 Cố vấn Mỹ. Ông ta bị thẩm vấn nhiều lần và phải điền vào nhiều tờ khai nói rõ ông ta không làm việc cho người Mỹ.
Michel Dumont mong được nghỉ ngơi và viết lại về những ngày bị giam cầm. Ông cũng tỏ ý tiếc đã bị mất hết cả phim ảnh và cuốn nhật ký trong những ngày tù, vì bị các tên lính gác BV đã lấy mất.
————— ୨୧ —————
1 chú lính B.V. sống sót nhờ nhớ kỹ lời cha dặn
HOA THỊNH ĐỐN, 14.7 (VOA): Nhiều tin tức đáng chú ý từ các mặt trận phát ra, đặc biệt là từ các vùng giới tuyến. Sau dây, thông tin viên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ tường thuật một vài nguồn tin liên hệ tới các cán binh CSBV.
Tiểu đoàn Thiết giáp 297 CSBV hoạt động tại mặt trận B3 đương phải đối phó với vấn đề tinh thần của cán binh Cộng sản. Cấp chỉ huy và binh sĩ của tiểu đoàn đã thảo luận vấn đề là làm thế nào để sống sót trong một trận đánh. Các binh sĩ thì muốn mang theo quân trang cá nhân như là võng và quần áo đề để tháo chạy khi chiến xa bị phá hủy, còn cán bộ thì ra lệnh là nếu binh sĩ nào bỏ xe tháo chạy giữa trận chiến thì sẽ bị bắn bỏ.
Tin từ mặt trận An Lộc cho biết có một chú lính Cộng sản BV đã ra đầu hàng với cây súng còn nguyên đủ đạn không thiếu một viên nào, chốt an toàn ở súng cũng chưa mở, nghĩa là chú không kịp bắn phát nào thì đã vội ra hàng. Báo chí khi tiếp xúc với chú đã gọi chú ta là chú, bởi vì người hàng binh Bắc Việt này tuổi hãy còn quá nhỏ, cỡ chừng 14, 15 nhưng chú khai là 16 tuổi.
Khi một sĩ quan VNCH hỏi chú sao chưa bắn một phát nào mà đã hàng thì chú linh Bắc Việt thành thật kể lại là trước khi lên đường theo chân đoàn quân viễn chinh vào Nam, ông thân sinh của chú gọi chú vào phòng kín dặn nhỏ là vào đó thì đừng có dại dột bắn giết gì hết, cứ ôm súng mà chui vào một cái hố nào đó và hễ thấy thuận tiện có cơ hội là chạy ra hàng ngay thì chắc chắn sẽ được sống.
Suốt thời gian xâm nhập, chú lính này luôn luôn tâm niệm lời căn dặn của cha, vì vậy chú không giám bắn một phát đạn nào mà chỉ rình cơ hội để ra đầu hàng, hầu bảo vệ mạng sống, và quả nhiên là chú đã sống sót, còn được nuôi nấng tử tế, trong khi các bạn đồng đội của chú lần lượt chết gần hết.
Các chiến sĩ Dù ở Hải Lăng đã cho biết lính Cộng Sản Bắc Việt phần đông còn nhỏ tuổi quá nên vừa không biết đánh trận vừa nhát. Những lính Cộng sản này chưa đánh đã chạy, có nhiều chú bỏ xe tăng mà chạy trong khi xe không bị tấn công và máy vẫn còn nổ.
Và cũng có chú lính Bắc Việt ra hàng với khẩu súng còn nguyên cả băng đạn không kịp bắn phát nào, tuy nhiên chú lính Bắc Việt thì lại khai là: «Em có bắn nhưng súng không nổ», mà thật ra là vì chú chưa mở chốt an toàn.
#Tien Tuyen Jun. 13, 1972 trang hai
GẠO ... GIÃ
by Nguyễn Kim Phượng
#Tien Tuyen Jun. 13, 1972 trang hai
GẠO ... GIÃ
by Nguyễn Kim Phượng
Trong rất nhiều nhật ký của cán binh Cộng sản (CS) ta bắt được, thường có bài thơ sau đây của «Bác Hồ»: “Gạo bỏ vào giã bao đau đớn / Gạo giã xong rồi trắng tợ bông / Sống ở trên đời người cũng vậy / Gian nan rèn luyện mới thành công”.
Nếu lấy khẩu khí mà nói, bài thơ sặc mùi «bần cố nông lao động», và đượm một tinh thần chịu đựng tối đa, đồng thời gây một ảo tưởng «thằng Bờm», nghĩa là đưa miếng cơm tới miệng vô sản…
⚫ Nhưng như đã biết, «Bác Hồ» không bao giờ đã là bần cố nông cả, nên đây không thể là bài thơ khẩu khí! À, nếu vậy chỉ là thơ «Bác» làm để đốt đít mấy anh cán bộ vào Nam…
“Thế là, hết từ nay CON đi mãi / Còn mong chỉ ngày trở lại BÁC ơi”.
Hai câu thơ của Tố Hữu, sửa vài chữ, rất ăn hợp với thơ «Bác Hồ». Vậy là thành phần thượng lưu lao động toa rập nhau thống trị và giã gạo giai cấp vô sản đi Nam…
⚫ Thay vì ông chủ không sợ chết để được làm ông chủ, thì ở đây nô lệ lại không sợ chết để làm nô lệ. Trong tiến trình chủ tớ, thay vì nô lệ sẽ dần dần phản tỉnh để làm cách mạng tới chỗ đạt thân, ra khỏi vong thân, thì lại cứ cắm đầu cắm cổ chúi mũi đi tới chỗ đến chết để … ô hay … vẫn cứ làm nô lệ cho Bác, Đảng!. Đó là cái ngụy sự trong biện chứng nền tảng của Marx, hay nói đúng của thầy của Marx.
⚫ Đều nói vậy mà chơi chứ tụi cán binh cộng sản biết chó gì nền tảng, lý luận duy vật này nọ. Giỏi lắm đảng nhét cho dăm câu lý luận «bần cố», rồi cứ thế mà suy ra trong cõi mù tịt, mịt mờ lao đi, tìm thắng lợi cho Duy Vật…
Hồ Chí Minh đã chơi khăm, biết cái dân Việt Nam nông nô ưa ca hát, ngâm ngợi (mà học giả thường gọi là gia tài thi ca bình dân, đầy thi sĩ tính), nên ông và các cán bộ cao cấp chuyên môn làm thơ tặng cho nông nô đi công trường, nông trường ca hát…
⚫ Gạo trắng trăng thanh của thuở bình yên cũ nay trở thành «gạo trắng bao đau đớn» … Cứ thế, chừng nào «gạo trắng tợ bông» thì đã có Đảng thu hoạch tòm tem … Chán cái mớ đời cán binh cộng sản….
⚫ Trong nhà Phật có một cái kiến gọi là Tà Kiến. Sau Tà Kiến có một cái kiến gọi là Kiến Thủ Kiến. Mấy anh cán binh, suy theo đạo Phật, đã thâm nhập tà kiến, tức là cứ thấy «là ta» một bên, nhứt định chỉ thấy một bên, không thấy có hai bên… Còn Bác, Đảng ôm lấy kiến thủ kiến, tuy có thấy rõ hai bên, bốn bề, nhưng tại đã phóng theo triết của Marx, thân danh, tư tưởng, ngôn luận, kiến thức gì gì đều thủ vào Marx… Nên họ nhứt định, là Marx sẽ thay Phật, Chúa dẫn nhân loại vào thiên đường tương lai … có gạo trắng tợ bông do các cán binh lấy xương trắng mà giã trong «gian nan rèn luyện»...
⚫ Ô hô! Ai tai! ai chẳng biết “sống ở trên đời người cũng vậy, gian nan rèn luyện mới thành công”, nhưng thành công cốc thì rèn luyện làm cái mẹ gì cho nó đau đớn thêm cuộc nhân sinh vẫn đã nhiều đau khổ!.
Thênh thang một cuộc đời, lại cứ chui nhủi đi tìm thiên đàng tối mịt. Hà vi? «ấu vi cán binh lão hà vi?» Ta giận quá, xổ nho bậy chơi vậy…
Nguyễn Kim Phượng
đang updating...
$pageOut$pageIn $pageOut $pageIn$pageOut $pageIn$pageOut $pageIn$pageOut $pageIn$pageOut $pageIn$pageOut các Phần tiếp theo ==>
.
Phân đoạn 1
#Tien Tuyen Feb. 01, 1971 trang hai
Người Tù Binh Cộng Sản Trong Chiến Cuộc Tại Miền Nam #Tien Tuyen Feb. 01, 1971 trang hai
Người Tù Binh Cộng Sản Trong Chiến Cuộc Tại Miền Nam
Khi người cán binh Cộng sản bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cầm tù, họ đã trở thành tù binh với đầy đủ ý nghĩa của danh từ đó.
Ngay từ giờ phút đầu, mạng sống của họ được bảo đảm khi không còn vũ khí đương đầu với ta. Chính phủ ta không coi họ là thù địch nữa. Chúng ta coi việc họ phải xâm nhập miền Nam để tác chiến, gây tan tác, đổ vỡ chỉ vì bị Nhà Nước và Đảng bắt buộc để phục vụ cho mưu đồ chiến tranh của Cộng sản mà thôi. Do đó, khi họ rời bỏ cái bộ máy gây chiến và không còn ở thế tác chiến nữa thì Chính phủ ta sẵn sàng dành cho họ nhiều sự giúp đỡ để làm cho cuộc sống của họ tạm thời trong vòng kiềm tỏa được dễ chịu.
Người tù binh Cộng sản có thể dễ dàng nhận thấy quan niệm nói trên ngay khi họ được tiếp xúc với các cơ quan của Chính phủ VNCH. Thái độ của các nhân viên thuộc các cơ quan này là một thái độ không căm thù, đay nghiến như bên phía cán bộ Cộng sản khi họ được dịp đối xử với người tù của đối phương, mà họ vẫn mãi mãi coi là kẻ địch.
Từ mặt trận hoặc chiến trường, người tù binh Cộng sản được di chuyển mau lẹ về hậu phương. Nếu họ bị thương hoặc bị bịnh, thì họ được lo thuốc thang điều trị, nuôi dưỡng cho đến khi hoàn toàn bình phục. Họ được ăn uống đầy đủ ngay từ giờ phút đầu. Trong bất cứ trường hợp nào, các đơn vị quân đội VNCH cũng tìm đủ mọi cách để nuôi tù binh ăn ngay khi mới vừa bắt được, một việc làm trước hết vì lòng nhân đạo.
Sau đó tù binh được di chuyển đến những trại giam. Nơi đây, hàng ngàn tù binh tạm sống trong những dãy nhà khá tiện nghi. Họ được cho phát quần áo mùng mền, được nuôi ăn theo một khẩu phần do chính phủ ấn định làm cho họ có đầy đủ sức khỏe. Đời sống hàng ngày của họ được tổ chức chi tiết và chu đáo cho mọi người thấy rõ nhân phẩm của họ hoàn toàn được tôn trọng.
Đối với người tù binh Cộng sản, Chính phủ VNCH rất thông cảm sự đau khổ của họ, do đó thời giờ của họ được sắp đặt và sử dụng khéo léo nhằm làm cho họ cảm thấy dễ chịu và đủ can đảm chờ ngày được phóng thích.
Ngoài những giờ ăn uống, ngủ nghỉ, họ còn được sinh hoạt, học văn hóa, đọc sách báo, xem phim ảnh và văn nghệ giải trí.
Chính phủ sẵn sàng tiếp nhận những ý kiến, nguyện vọng của họ và cứu xét rất thận trọng để giúp họ. Những nguyện vọng được thông tri với gia đình là một nguyện vọng chính đáng mà Chính phủ tìm mọi biện pháp thực hiện cho họ.
Một vài con số sau đây cho thấy rõ đường lối vừa trình bày:
Trong năm 1970, tù binh đã gởi cho thân nhân của họ 120.000 bức thư, và đã nhận được thư hồi âm 50.000 bức, 30.000 gói đồ, và 5.000 chi phiếu có trị giá tổng cộng 1.600.000 đồng.
Số tù binh được thăm nuôi lên đến 70% tổng số.
Ngoài Nguyệt san «Con Đường Mới», các tù binh còn được đọc 30.000 ấn phẩm các loại. Về giáo dục, có 32 lớp tiểu học được mở ra để dạy học cho các tù binh (tù binh xâm nhập có tỷ lệ mù chữ lên đến 90%).
Từ 1966 đến 1970, Chính phủ đã phóng thích ngót 800 tù binh. Trong số đó một số đã được trở về miền Bắc và một số xin ở lại miền Nam.
Sự đối đãi của Chính phủ VNCH dành cho tù binh Cộng sản rất tốt đẹp và nhân đạo, nên họ vui với cuộc sống hiện tại, một cuộc sống thoát khỏi sự ác liệt hủy diệt của một cuộc chiến phi lý mà nhà nước Bắc Việt (BV) bắt họ lao vào.
Để chứng minh, Chính phủ VNCH luôn luôn mở rộng cửa trại giam để mọi người đều có thể quan sát tận mắt điều kiện sinh sống của tù binh. Như mới đây, phi hành gia Borman sau khi đến thăm tất cả trại giam trên lãnh thổ VNCH đã tuyên bố là chính sách đối đãi với tù binh của VNCH rất tốt đẹp và ông, cũng như tất cả các quan sát viên khác, đều được dành cho mọi sự đãi và giúp đỡ tận tình trong những cuộc thăm viếng.
Tóm lại, từ lúc bị bắt trở đi, người tù binh Cộng sản không còn biết đến những nỗi gian khổ của chiến trường nữa. Họ được sống no đủ và an toàn cho đến ngày nào Đảng và Bác ngoài Bắc phải chấm dứt chiến tranh, nhìn nhận và đón tiếp họ trở về.
Cho đến bây giờ, BV vẫn không nhận đã đem quân vào xâm lăng miền Nam. Do đó, họ không chịu thượng thuyết và trao tin tức về tù binh và làm mọi việc có thể được để an ủi tù binh của họ và thân nhân của những người tù binh này.
Trước thái độ ngoan cố và tàn nhẫn của tập đoàn lãnh đạo miền Bắc, Chính phủ VNCH vẫn giữ một chính sách tốt trong việc đối xử với tù binh. Thái độ này chỉ có thể hình dung được bằng danh từ «nhân đạo», đó không những phù hợp với tinh thần đại đoàn kết dân tộc của quốc gia, mà nó còn chứng tỏ chế độ miền Nam này coi tù binh là những «người» chớ không phải như những «bộ máy» mà Đảng khai thác triệt để chỉ cốt có lợi cho Đảng! Đối với Cộng sản, người tù binh của họ không có nghĩa gì cả!!!
Hiểu rõ ở đường lối dân chủ, tự do và nhân đạo của Chính phủ VNCH, các tù binh Cộng sản rất phấn khởi và tin tưởng rằng, Chính nghĩa quốc gia sẽ thắng chế độ bạo tàn.
Một ngày sắp tới, họ sẽ được trở về sum họp với vợ con họ, lúc đó, họ sẽ ghi nhớ những ngày làm tù binh như những ngày may mắn nhất trong đời họ.
#Tien Tuyen Feb. 5, 1971 trang nhất
Hành Động Của Kẻ Bại Trận (VC chỉ còn biết lén lút khủng bố giết thường dân) #Tien Tuyen Feb. 5, 1971 trang nhất
Nhận Định
—Hành Động Của Kẻ Bại Trận—
– 34 thường dân bị hạ sát, 141 người khác bị thương và 10 người bị bắt cóc do 21 hoạt động khủng bố của Cộng quân gây ra trong 15 ngày vừa qua.
– Năm người lớn và bốn trẻ em đã bị sát hại và 40 người khác bị thương khi mìn của Cộng sản (CS) gài tại bến phà Rạch Miễu, quận Giồng Trôm, tỉnh Kiến Hòa, phát nổ vào ngày mồng 4 Tết Tân Hợi, tức ngày 30-1-70.
– Trước đó, vào ngày 29-1-71, CS ném lựu đạn vào một đám đông thuộc xã Vĩnh Long, quận Phù Cát, Tỉnh Bình Định làm ba thường dân bị thương.
– Tại Xã Đông Cát, Tỉnh Quảng Ngãi ngày 28-1-71, CS đã đặt mìn sát hại 12 thường dân và 36 người khác bị thương.
– Ngày 27-1-71, CS ném lựu đạn vào lối ra vào của một rạp hát tại Xã Phùng Danh, quận An Nhơn, Tỉnh Bình Định làm 3 người chết và 25 người bị thương.
– Trong ngày 26-1-71, CS mở một loạt khủng bố tại tỉnh Bình Thuận, Long An, Vĩnh Bình và Bình Dương, khiến một người chết, 16 bị thương và ba bị bắt dẫn đi mất.
– Vào ngày 25-1, bốn thường dân đã bị thương khi CS nổ súng cối vào một ngôi chợ thuộc Quận Bến Cát, Bình Dương.
– Hai người đi xe gắn máy, trước đó vào ngày 24-1, đã tử nạn vì trứng phải mìn của CS tại làng Ấp Thái Bình, Quận Phước Ninh, Tây Ninh.
Tất cả những vụ khủng bố giết chóc dân lành nói trên của CS đều diễn ra từ 28 tháng Chạp cho đến mồng 4 Tết, chứng tỏ Cộng sản, miệng nói ngày Tết thiêng liêng nhưng lại lợi dụng cơ hội dân chúng vui mừng đón xuân để giết chết họ.
Ngoài những vụ nói trên phải kể đến những hành động điển hình vô nhân đạo của CS như: ném 1 quả lựu đạn vào nhà dân ở Tây Nam Càng Long làm 2 người chết, 10 bị thương; ném 3 quả lựu đạn vào rạp hát tại Đập Đá làm 8 người dân chết, 19 bị thương; đặt chất nổ tại chợ Mộ Đức làm 9 người dân chết.
Nếu kể cả những vụ pháo kích làm thường dân phải thương vong, người ta sẽ thấy CS đã tự nhận sự suy yếu của mình nên không đánh lớn được mà chỉ còn cách giết dân chúng bằng những hành động lén lút: ném lựu đạn, pháo kích.
Trong thời gian hưu chiến Tết Canh Tuất, CS tuy đã vi phạm trên cả trăm vụ nhưng so với những ngày lễ có hưu chiến trước đây thì ít hơn. Điều này, thêm một lần nữa, chứng tỏ CS đã quá suy yếu. Mặt khác, trước sự tỉnh táo đề phòng và tinh thần kỷ luật cao độ của Quân Dân ta trong 3 ngày Tết, CS đành chịu thúc thủ không thực hiện được những âm mưu đánh lớn để gây tiếng vang.
Với đà này, và với tinh thần «thừa thắng xông lên» của Quân Dân ta, chắc chắn Cộng sản sẽ bị tận diệt, nếu chúng còn ngoan cố tại bàn hội đàm Ba Lê.
Tiền Tuyến
#Tien Tuyen Mar. 13, 1971 trang nhất
CÁN BINH CỘNG SẢN TỪ MẶT TRẬN HẠ LÀO VỀ TIẾT LỘ #Tien Tuyen Mar. 13, 1971 trang nhất
CÁN BINH CỘNG SẢN TỪ MẶT TRẬN HẠ LÀO VỀ TIẾT LỘ
Mặt Trận Hạ Lào: Giai Đoạn Cuối Cùng Chiến Cuộc Việt Nam
◈ Tướng Lê Quang Đạo Của Cộng Sản Chỉ Huy 8 Sư Đoàn 304, 308, 320 Tại Mặt Trận Lào
Tổng Cục CTCT sáng 12-3-71 đã mở cuộc họp báo tại Trung tâm Quốc gia Báo chí để giới thiệu với ký giả quốc nội và ngoại quốc hai cán binh Cộng sản (CS) đã hồi chánh.
Đặc biệt hai hồi chánh viên là anh Nguyễn Trọng Quyền, Thượng sĩ, đã từng tham dự cuộc hành quân Khe Sanh cuối năm 1967, đã ra hồi chánh tại Lào với đơn vị Dù ngày 18-1-71.
Anh Vũ Văn Quảng, sinh viên năm thứ hai Đại học Vật Lý Địa Cầu, bị động viên nhập ngũ năm 1968, đi vào Nam hoạt động, đã ra hồi chánh ngày 16-10-70 với Sư đoàn 18 Bộ Binh (BB) trong một trận đánh tại Kampuchea.
Trong cuộc họp báo này, cả hai hồi chánh viên đều cho biết, không thể sống dưới chế độ độc tài Cộng sản nên đã tìm về với ánh sáng của tự do.
Hồi chánh viên Nguyễn Trọng Quyền, đã từng dự những trận đánh tại Nam Lào gần đây đã tiết lộ cho biết, hiện tại mặt trận Lào, Bắc Việt có 3 Sư đoàn 304, 308, 320 do Tướng Lê Quang Đạo chỉ huy, đã từ Quảng Bình di chuyển về Nam Lào từ tháng 2-2-71 để đối đầu với cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).
Anh Quyền cũng cho hay cán binh CS đã được học tập trước về mặt trận này kể từ tháng 10-70 và cán binh CS cũng loan báo đây là mặt trận quyết định của chiến cuộc Việt Nam.
Anh Quyền cũng kể tiếp rằng, tại Tchépone là đầu não việc của CS và dù đã biết trước cuộc hành quân của QLVNCH nhưng vì các kho tiếp liệu quá lớn nên di chuyển không kịp, một số ống đạn dược từ đường hầm đưa ra ngoài hành lang nhưng những phi vụ B52 đã phá hủy khá nhiều.
Lúc nhắc đến các phi vụ B52, anh Quyền cho hay, là cán binh CS tham dự mặt trận Lào được biết trước 30 phút để di tản. Anh Quyền cũng không rõ được bí mật này và anh xác nhận cán binh CS đã di chuyển đến địa điểm khác thì B52 đến oanh tạc.
Anh Quyền cũng cho hay lực lượng Dù VNCH đã chiến đấu rất dũng cảm, đánh giặc rất giỏi, họ đã đánh bạt được các tiểu đoàn thiện chiến của CS để chiếm các cao điểm Langvei từ ngày 18-2-1971. Anh Quyền cũng xác nhận quân bộ BV tại mặt trận Nam Lào đông gấp đôi gấp ba QLVNCH.
Cũng trong cuộc họp báo trên, khi được hỏi nếu có Bắc tiến thì dân Bắc có chờ đợi bên này không, anh Quyền cho biết hiện tại nhân dân miền Bắc cũng mong có sự thay đổi chế độ.
Mặt khác, lúc tâm sự với báo chí, hai hồi chánh viên nói trên còn cho hay, đã 3 năm nay các anh không gặp được vợ con, và họ cho rằng, không có một quân đội nào trên thế giới mà bóp nghẹt tình cảm như quân Bắc Việt.
#Tien Tuyen Mar. 27, 1971 trang hai
(bài 01) CHÍNH SÁCH KINH TẾ MIỀN BẮC TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN TRƯƠNG HIỆN NAY #Tien Tuyen Mar. 27, 1971 trang hai
(bài 01) CHÍNH SÁCH KINH TẾ MIỀN BẮC TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN TRƯƠNG HIỆN NAY
Căn bản của chính sách kinh tế của CSBV là cải cách ruộng đất. Đó là một chính sách mà Đảng và nhà nước BV lớn tiếng ca ngợi và khoe khoang những thành quả như:
«Về mặt chính trị và quân sự, nó đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt nông thôn, củng cố chính quyền nhân dân…
«Lợi cho 72% nông dân và liên quan tới 63% ruộng đất trồng tỉa được. Số lượng sản xuất lúa gạo do đó gia tăng đến 68%, bởi tổng số 810.000 mẫu ruộng đã phân chia lại sản xuất đồng niên tới 1.053.000 tấn.
Nhưng toàn thể nhân dân đã biết rõ chính sách cải cách ruộng đất của Đảng và nhà nước BV thực ra đã làm đổ biết bao nước mắt và máu vô tội. Do đó, để xoa dịu phần nào niềm uất ức căm thù của quần chúng, Đảng đã phải cách chức Bí Thư Thứ nhất của Trường Chinh, người đã đẻ ra kế hoạch trên.
Tiến thêm 1 bước để kiểm soát và triệt để khai thác sức lao động của toàn dân, Đảng liền thành lập các hợp tác xã nông nghiệp. Các HTX được phân làm hai loại:
Hợp tác xã bậc thấp, trong đó nông dân đem tài sản vào nhưng vẫn là sở hữu chủ những tài sản đó. Lợi tức thâu hoạc sẽ được chia: một phần đóng góp cho nhà nước, một phần trả cho sở hữu chủ các phương tiện sản xuất, phần còn lại chia cho xã viên tùy theo số công của mỗi người.
Hợp tác xã bậc cao: Giống như Kolkhoze của Liên Xô, tập trung các phương tiện sản xuất làm của chung của tập thể. Một phần lớn lợi tức được chia cho các xã viên tùy theo số công họ làm cho hợp tác xã. Hiện nay các bậc thấp hầu như biến mất và 80% nông dân đã vào các HTX bậc cao.
Một vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự sản xuất là các HTX đều thiếu sức lao động. Chính sách nghĩa vụ quân sự đã thâu tóm hết thanh niên sung sức làm việc sản xuất. Để bù dắp sự thiếu hụt đó, các HTX phải dùng phụ nữ để lao động thay thế. Lực lượng phụ nữ trong các HTX lên đến 70 – 80%. Tuy nhiên, biện pháp này không cứu vãn được tình thế vì đa số phụ nữ không quen thích hợp làm việc đồng áng nặng nhọc bằng đàn ông.
Về mặt phương thức sản xuất nông nghiệp, trên bình diện tổng quát, việc canh tác còn nặng về kinh nghiệm truyền thống, không được cải tiến về mặt cơ giới cũng như kỹ thuật khoa học hiện đại.
Ngoài nạn úng thủy, hạn hán sâu bệnh làm giảm sút sản lượng lúa liền từ năm 1963, nạn thiếu phân bón và nông cụ. Phân bón hóa học quá ít, từ 19.241 tấn năm 1965 giảm xuống còn 13.121 tấn năm 1967, phân chuồng cũng kém vì việc chăn nuôi ở làng quê thất bại.
Về nông cụ, Bắc Việt không thể sản xuất đủ số máy cần dùng. Hơn nữa, các máy hiện có không phù hợp với tình hình đất đai của từng địa phương. Mỗi máy cày phải làm việc tới 4 mẫu 8, mỗi chiếc bừa phải dùng cho 5 mẫu, mỗi chiếc cào cỏ phải làm việc tới 7 mẫu 1 vụ.
Nông dân cứ tiếp tục gồng gánh nặng nề như xưa. Vẫn phải tát nước, đập lúa bằng tay đến rời rã đôi vai. Nhiều nơi phải gọi hàng trăm người dùng vồ đập đất làm màu.
Đó là về mặt lúa gạo, còn hoa màu phụ, rau đậu ngô khoai hoặc cây nông nghiệp không ngành nào đạt được mức sản xuất và thâu hoạch đề ra. Sự thất thu phần lớn đều được quy cho thời tiết xấu. Điều đó cũng là có phần đúng vì ngoài Bắc vẫn thường bị thiên tai bão lụt bất thường hàng năm nhưng phần lớn là sự thất bại về nông nghiệp do nơi cán bộ lãnh đạo nhất là cán bộ HTX quá kém về mặt tổ chức cũng như kém hiểu biết chuyên môn.
Việc phân chia quy định vùng canh tác không phù hợp với tình hình thực tế, khả năng và nhu cầu của địa phương. Việc ký kết hợp đồng thu mua, việc tạm dùng tiền vốn, vật tự, việc bán, phân phối lương thực dành cho vùng cây nông nghiệp còn rất nhiều thiếu sót, sai lầm. Gạo nhà nước dành cho vùng cây nông nghiệp không cung cấp đủ tiêu chuẩn quy định cho người sản xuất, có nơi lại dùng bậy lương thực vào việc khác chẳng hạn như nấu rượu lậu.
Về mặt phân phối sức lao động, HTX phải đạt được trung bình mỗi năm 245 ngày công cho mỗi xã viên, mỗi ngày công được 10 điểm, chia ra như sau:
— 70% dành cho việc trồng trọt và chăn nuôi trâu bò.
— 7% dành cho chăn nuôi gia súc khác.
— 13% dành cho các nghề phụ và tiểu công nghệ.
— 10% dành cho công tác thủy lợi.
Mỗi xã viên (đàn ông từ 16 đến 55 tuổi, đàn bà từ 16 đến 50 tuổi) đều phải làm việc nặng nhọc theo chỉ tiêu như sau:
— Lao động khỏe: 250 ngày công cho đàn ông, 230 ngày công cho đàn bà.
— Lao động trung bình: 230 ngày công cho đàn ông, 200 ngày công cho đàn bà.
— Phụ nữ đông con: 150 ngày công.
— Người bệnh và yếu: 100 ngày công.
Nghề nghiệp đã chậm tiến, chăn nuôi còn lạc hậu hơn. Việc chăn nuôi bị coi là nghề phụ và chỉ được dùng thời gian và phương tiện sản xuất còn dư ra mà ngành trồng trọt không cần đến. Hơn nữa, tại các vùng độc canh lúa, diện tích lúa chiếm 85- 90%, lúa gạo không đủ cho người ăn thì làm sao có thể cung cấp thức ăn cho gia súc?
( còn tiếp )
#Tien Tuyen Mar. 28_29, 1971 trang hai
(bài 02) CHÍNH SÁCH KINH TẾ MIỀN BẮC TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN TRƯƠNG HIỆN NAY
(Tiếp theo bài 01)
Đảng không cho mục đích chăn nuôi là để cung cấp thịt cho dân chúng ăn no đủ mà chỉ để cung cấp sức kéo và phân bón cho ruộng đất. Vì phần nhiều việc canh tác đều dùng sức người và trâu bò, nên vẫn như xưa kia, trâu bò được coi là vô cùng quan trọng trong việc cày bừa.
Năm 1963, khi nông nghiệp Bắc Việt đạt đến mức phồn thịnh nhất, toàn Bắc Việt chỉ có chừng 1.058.000 trâu và 796.000 bò, kể cả những con còn nhỏ hoặc già yếu không góp gì được cho việc sản xuất. So với tổng số diện tích ruộng đất canh tác là 2.137.000 ha thì trung bình mỗi con trâu hoặc bò phải kéo 1 ha.
Ở miền núi, đất gieo trồng ít, lại có nhiều trâu bò hơn gấp ba ở đồng bằng mà diện tích đất nhiều gấp đôi. Tính tổng số 100 ha canh tác ở miền núi lại có 142 trâu bò, trong khi miền xuôi chỉ có 38 con. Ngoài ra, cách thức chăn nuôi còn cổ lỗ, thuốc men lại không có nên nhiều súc vật chết vì bệnh như 50% nghé chết vì bệnh giun đũa, 20% chết vì chuồng trại, 10% chết vì đẻ non, 3% chết vì thiếu sữa.
Về chăn nuôi trong gia đình, các nhà kinh tế học Bắc Việt tính toán cho mỗi gia đình có thể nuôi dễ dàng mỗi năm 2 con heo mập, vì họ căn cứ vào sức lao động phụ và nhàn rỗi, đồ ăn thừa bỏ đi. Nhưng thực ra, họa hoằn lắm và nơi nào thật là tốt nhất thì hai gia đình mới nuôi nổi ba con heo nhỏ.
Dân chúng chán nản vì cũng như không thu được dư gạo lúa chút nào, hoặc nuôi cho heo lớn thì phải đem bán cho nhà nước với giá nghĩa vụ, tức chỉ bằng nửa tiền giá thị trường mà thôi.
Chăn nuôi tập thể nghĩa là hợp tác xã trực tiếp kinh doanh, giao heo cho xã viên nuôi giùm ở nhà.
Ngoài ra lại còn các nông trường và trại chăn nuôi quốc doanh do cán bộ và nhân viên nhà nước quản lý trực tiếp.
Tuy gọi là được tổ chức theo khoa học, các cơ sở này còn thô sơ, kỹ thuật chưa có gì đáng kể. Người ta lại còn nai lưng ra làm cả ngày đêm để hầu hạ trâu bò mà chẳng ăn cái gì cả.
Về ngư nghiệp, nhà nước cho là miền Bắc có 1.000 cây số bờ biển, có nhiều loại cá: Vịnh Bắc Bộ tuy hàng năm có thể khai thác 30-40 vạn tấn cá. Tuy nhiên sản lượng cá hàng năm được chừng 10 vạn tấn. Các cơ sở quốc doanh nuôi cá không tạo được nguồn sản phẩm. Nhiều hợp tác xã làm nghề cá mà coi nhẹ việc đánh cá, có khi thuyền lưới để đấy không có người làm. Hàng năm xã viên làm được ít ngày công cho hợp tác xã. Có nơi dùng phương tiện sản xuất tập thể để đi làm riêng lẻ. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nghề hiện nay còn quá yếu, việc khai thác và chế biến chủ yếu còn dựa vào lao động và công cụ thô sơ.
Một hoạt động kinh tế quan trọng của BV, sau việc cải cách ruộng đất, là xây dựng kỹ nghệ. Từ 1955 đến 1957, số vốn đầu tư vào ngành kỹ nghệ là 38% tổng số vốn đầu tư toàn quốc, và kỹ nghệ nặng chiếm 72% số vốn đầu tư dành cho công tác phát triển kỹ nghệ.
( còn tiếp )
#Tien Tuyen Mar. 30, 1971 trang hai
(bài 03 - tiếp theo bài 02 và hết) CHÍNH SÁCH KINH TẾ MIỀN BẮC TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN TRƯƠNG HIỆN NAY
Từ năm 1955 đến 1959, BV được khối Cộng Sản viện trợ 817 triệu Mỹ kim, mà 95% là của Trung cộng và Nga. (Trung cộng viện trợ 480 triệu Mỹ kim và Nga sô viện trợ 228 triệu.)
Một vài nhà máy được các nước cộng sản đàn anh viện trợ trang bị rất tối tân như nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy giấy Hoàng văn Thụ, nhà máy Xi măng Hải phòng, và nhà máy dệt Nam Định. Các nhà máy này hoạt động chưa đúng mức vì chính sách động viên liên tục đã làm cạn kiệt nguồn nhân lực, vật lực, và tài lực phải cung cấp ngày càng nhiều hơn cho nhu cầu chiến tranh, nên đã bị kiệt quệ.
Bước vào kế hoạch 1966-67, nền công nghiệp suy sụp trầm trọng. Các cuộc oanh tạc đã làm cho cơ sở bị tàn phá gần hết, một số bị phân tán. Tuy nhiên, từ khi ngưng oanh tạc, các ngành, các cơ sở cố gắng khôi phục sản xuất, sửa chữa và bổ sung máy móc, tăng thêm trang bị. Tuy nhiên nhiều công trường máy móc thì nhân công ít. Nhiều đoàn xe vận tải chỉ huy động được một tỷ lệ nhỏ số xe thường xuyên, trong khi phần lớn phải nằm ở xưởng sửa chữa.
Trong nhà máy cơ khí, số giờ chạy máy còn thấp, ở một số địa phương, số máy hiện vẫn nằm ở kho vì thiếu người xử dụng.
Việc huấn luyện thợ chuyên môn quá kém làm cho hỏng máy luôn vì thợ vừa làm vừa học. Có nơi 80% vụ hỏng máy là do công nhân không biết dùng và giữ gìn máy gây ra.
Ở nhiều nơi không có đủ việc làm do thiếu các điều kiện cần thiết để sản xuất điều hòa như thiếu nhiên liệu, nguyên liệu và dụng cụ. Dây chuyền sản xuất không đồng bộ, khâu nọ chờ khâu kia và thường phải ngừng hoạt động hẳn.
Trường hợp điển hình là ngành sản xuất than mỏ. Chính quyền dành nhiều ưu tiên cho ngành này, vậy mà sản lượng than từ nhiều năm nay không gia tăng. Ngoài lý do bị oanh tạc nặng nề, còn có sự quản lý bê bối và sự chỉ đạo quan liêu của đội ngũ công nhân khu mỏ. Công nhân hoạt động chưa làm đầy đủ giờ làm việc, ngày làm việc và không tuân thủ kỷ luật lao động.
Tình hình ngành tiểu thủ công nghiệp cũng tồi tệ không kém. Trong số 335 hợp tác xã (HTX), có 120 HTX kém và phần lớn trong 366 tổ sản xuất đa số là tổ kém. Đa số các HTX không tích cực thực hiện kế hoạch của nhà nước mà lại đi nhận công việc riêng tư.
Có HTX hóa chất khai gian, tăng công thức tiêu hao các-bô-nát để làm acide bán ra thị trường với giá cao hơn giá thu mua của nhà nước rất nhiều. Có HTX sản xuất tay nắm xe đạp khai gian để lấy thừa 500 ký nhựa làm 3.705 đôi tay nắm bán ra ngoài.
Công việc làm ăn bất hợp pháp, và sự thông đồng tham ô và lấy cắp của công ở nơi nào cũng có, mọi nơi và mọi cấp.
Trong hiện tình khi miền Bắc vẫn tiếp tục gây chiến, bắt lính và gửi quân đi chiến đấu ở những mặt trận xa xôi Lào, Miên thì tình trạng tham ô càng thêm to lớn chứ không có cách gì chặn đứng được, như Đảng từng muốn làm bằng mọi phương thức. Thật thế, Đảng đã đủ mọi việc có thể làm được, từ cải tổ chi bộ tiên tiến cơ sở, thay đổi căn bản nghị quyết này đến nghị quyết khác, luật này đến luật khác, ngay cả việc trừng phạt nặng các cán bộ cao cấp đã phạm tội lấy cắp của công.
Đối với nhân dân, cái ăn là vấn đề quan trọng nhất. Đảng nắm giữ hoàn toàn việc phân phối lương thực để ép buộc các gia đình phải cho con em đi làm nghĩa vụ quân sự. Hàng triệu thanh niên đã ra đi và hơn nửa triệu người đi không trở về với gia đình. Sự hao hụt đau thương và to lớn đó làm kiệt quệ lực lượng lao động gồm những người đàn ông khoẻ mạnh có năng lực sản xuất cao, đến nỗi bây giờ tại hậu phương buộc phụ nữ phải đảm trách công việc lao động nặng nhọc mà bản chất họ không quen làm. Hơn nữa, giới này gồm có một số lớn các gia đình tổ phụ, quả phụ cô nhi mà chồng, cha, con em đã đóng góp phần xương máu vào chiến tranh xâm lăng tàn hại ở Miền Nam cũng như 2 chiến trường cô quạnh ở Miên, Lào. Tất nhiên những người này không ham gì đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm để đóng góp ngày càng nhiều lương thực cho nhà nước, cho những cán bộ mà họ đã thấy rõ sự tham ô.
Do đó, tình trạng chỉ làm cầm chừng đối với nhà nước vẫn còn tồn tại. Nhân dân, dưới sự kềm kẹp của cán bộ Đảng và nhà nước, phải tìm ra mọi thủ đoạn sáng tạo, mọi mánh khóe để làm ăn riêng tư, buôn bán bất hợp pháp, nấu rượu trái phép, ăn cắp lương thực của nhà nước và của HTX.
Hơn nữa, họ không thể tin được lời hứa của nhà nước vì đã quá thừa kinh nghiệm — là khi đã hoàn thành nghĩa vụ lương thực của mình thì họ được toàn quyền xử dụng số lượng lương thực thừa của mình, có thể để dự trữ, để phát triển chăn nuôi, để bán.
Lý do giản dị nhất là các HTX quá bóc lột đã đặt ra những tiêu chuẩn sản xuất quá cao thì làm sao nông dân có số lương thực thừa mà dự trữ. Nếu có dư đi nữa, thì họ cũng chẳng dại gì mà dự trữ, mà đem hoặc phát triển chăn nuôi, hoặc bán cho các cơ quan của chính phủ.
Vào giữa tháng 9 năm 1970, Phó Thủ Tướng Đỗ Mười tổng kết hội nghị sản xuất Đông Xuân 1970-71, đã phải thú nhận những thất bại và tình hình lơ là trong việc sản xuất lúa gạo, rau màu, công nghiệp và chăn nuôi. Tiếp theo, Hoàng Anh, Bí thơ Trung ương Đảng nhận xét rằng: «công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải chuyển biến thật mạnh cả về tổ chức, phương pháp và tác phong thì mới đáp ứng được yêu cầu chung hiện nay. Tiềm lực khả năng của ta còn rất lớn, do đó, lãnh đạo phải chuyển thật mạnh thì mới phát huy được những khả năng to lớn.» Nhận xét của Hoàng Anh có nghĩa là một sự xác nhận rằng nông dân thì tốt, nhưng lãnh đạo các cấp còn ù lì, thiếu khả năng, tham ô như trước thì không hy vọng gì việc sản xuất đạt những kết quả mong muốn.
Hơn nữa, khi cấp lãnh đạo tối cao còn chia rẽ, các phe phái còn rình rập để triệt hạ lẫn nhau, các chưởng đòn quyết liệt còn chờ đợi thời gian để tung ra hết, thì chính quyền trung ương còn yếu và chưa thống nhất nền tảng, quần chúng chưa thể tin tưởng và yên tâm lo xây dựng một nền kinh tế lành mạnh cho đất nước được.
Vì sự ngoan cố của BV, những trận mưa bom thỉnh thoảng lại tiếp tục đổ xuống làm lung lay thêm cái lòng tin đã quá sứt mẻ của quần chúng.
Với chiến lược trường kỳ gây chiến, mở rộng chiến tranh Đông dương, bắt nhân dân chịu khổ kéo dài, BV không hy vọng gì ổn định được lòng dân, hay có thời giờ để cải tổ, sửa chữa, cứu vãn nền kinh tế đã suy sụp. Cuộc chiến tranh phi lý mà Đảng và nhà nước BV đã gây ra và vẫn nuôi dưỡng, không thể khuyến khích nhân dân tích cực lao động vì họ không còn hy vọng được hưởng chút công lao khó nhọc của mình.
#Tien Tuyen May. 12, 1971 trang nhất
Vét cạn nhân lực miền Bắc cũng không đủ để tiếp tục chiến tranh xâm lược
Bắc Việt tung cán bộ bí mật xâm nhập Thái Lan mộ lính Việt kiều #Tien Tuyen May. 12, 1971 trang nhất
Vét cạn nhân lực miền Bắc cũng không đủ để tiếp tục chiến tranh xâm lược
Bắc Việt tung cán bộ bí mật xâm nhập Thái Lan mộ lính Việt kiều
VỌNG CÁC 10-5 (AFP). — Một điệp viên BV bí mật xâm nhập Thái Lan để tuyển mộ lính trong đám Việt kiều ở Thái rồi gửi qua chiến đấu ở VN. Tin này do tờ “Bangkok World” loan báo.
Theo tin mà báo này nói là “thông thạo" thì đã có chừng 50 thanh niên Việt đã rời Thái mới đây và còn 50 người khác nữa sắp bị đưa ra khỏi Thái để gia nhập quân đội BV. Tên cán bộ BV này cũng đã quyên góp được 1 số tiền lên tới 100.000 My kim.
Hiện đang có một sự giàn xếp của Hồng Thập Tự Thái và Hồng Thập Tự BV để đưa hết người Việt ở Thái về BV, công cuộc hồi hương Việt Kiều này đã bị gián đoạn từ năm 1965 vì hồi do BV bị oanh tạc quá nặng.
Các quan sát viên cho rằng B.V phải đi tuyển mộ lính như vậy vì chúng đã quá thiếu hụt quân số.
SAIGON (TV). — 11-5 Các chiến lược Nga sô. Trung cộng, Cuba, Bắc Hàn và Pháp đang cố vấn cho lực lượng CS tại Nam Việt Nam.
Bác sĩ BV hồi chánh viên Đặng Tấn hôm Thứ Hai cho biết như trên.
Bác sĩ Đặng Tấn, cựu viên chức Bộ Quốc phòng BV, được gửi vào Nam VN như là Bộ trưởng Y Tế — trong cái gọi là chính phủ Việt cộng, tuyên bố rằng, chính ông đã trông thấy các cố vấn CS ngoại quốc tại các trạm nghỉ ngơi trên đường mòn Hồ chí Minh khi ông đi từ miền Nam qua Ai Lao vào năm 1967. Bs BV hồi chánh Đặng Tấn nói trên đã ở lại đó 2 năm, khi ông đang thiết lập một nhà thương cho du kích quân ở khu vực tỉnh Pleiku, ông đã trông thấy tận mắt 4 hoặc 5 nhóm chiến lược gia ngoại quốc, một nhóm có chừng 3 tới 5 người. Bác sĩ hồi chánh này nói rõ thêm, những chiến lược gia ngoại quốc này có mang vũ khí, thường mặc bà ba đen và được lực lượng an ninh BV theo hộ tống.
Bs BV hồi chánh Đặng Tấn nhấn mạnh thêm «tôi đã trông thấy các chiến lược gia Nga Trung cộng, Cuha, Bắc Hàn và Pháp ở sâu trong lãnh thổ Nam Việt Nam. Tôi đã nghe họ nói bằng ngôn ngữ tiếng của họ.» Bác sĩ hồi chánh Đặng Tấn nói tiếp, các chiến lược gia người Pháp là cựu binh trong chiến tranh Đông Dương chống Pháp, họ đã không chịu hồi hương theo thỏa ước Genere 1954. (TV)
#Tien Tuyen May. 8, 1971 trang nhất
Từ Căn Cứ 6 Về, Hồi Chánh Viên Chuẩn Úy Bùi Ngọc Chiêu Tiết Lộ
Tinh Thần Cán Binh Cộng Sản Sa Sút Trầm Trọng
★ Đói Ăn, Thiếu Mặc, Bịnh Tật Đã Giết Dần Mòn Cán Binh Cộng Sản Trên Bước Đường Xâm Nhập
⚫ Trung Bình, Cộng Sản Mất Khoảng 40% Tổng Số Cán Binh Từ Miền Bắc Xâm Nhập Vào Nam Việt Nam
By THÁI NGƯƠN HIỀN
KỲ 1. — Vừa gặp mặt tôi và qua sự giới thiệu của ký giả Tiến Dzũng. Hồi Chánh Viên chuẩn úy CSBV Bùi ngọc Chiêu niềm nở bắt tay tôi. Anh vui vẻ tâm sự:
— Tôi coi như được sống lại khi biết mình thực sự sống dưới chế độ Tự do tại miền Nam.
Anh nói tiếp:
— Không phải đợi đến bây giờ tôi mới có ý định ra hồi chánh. Ý định đó đã manh nha trong đầu óc tôi cách đây 5 năm.
Hồi chánh viên Bùi ngọc Chiêu là trung đội trưởng trung đội 2 thuộc ĐĐ C11 Tiểu đoàn CK Trung đoàn 28 của Mặt trận B3 CSBV, đã về trình diện ngày 10-4-71 tại Đại Đội ĐPQ Dak Mot.
Anh Bùi ngọc Chiêu năm nay 26 tuổi, quê quán tỉnh Ninh Bình, là con thứ tư trong một gia đình Trung nông có 4 anh em trai và 2 chị gái. Anh đã học hết lớp 5 tức hết bậc tiểu học.
Năm 1966 anh vào thụ huấn quân sự tại Đại đội Bộ binh tại Ninh Bình. Tại đây anh học kỹ thuật tác xạ các loại súng B30, B41, và AK47. Sau khi được thụ huấn 3 tháng, anh ra trường với cấp bậc binh nhì và phục vụ tại tỉnh nhà.
Trên bước đường xâm nhập vào Nam VN và Ý định ra hồi chánh chớm nở vào năm 1966
Sau đó anh đã được chỉ định theo Trung đoàn «Kiên Giang» để xâm nhập vào Nam VN. Vào năm 1966, Trung đoàn «Kiên Giang» đóng tại Khe Sanh được 14 tháng rồi giải tán và trở ra Bắc.
Lúc Chiến dịch Khe Sanh kéo dài 14 tháng, tại đây anh được thăng cấp Hạ sĩ và cũng tại đây, ý định ra hồi chánh của anh chớm nở trong đầu. Nhưng anh chưa có được một cơ hội nào để trốn thoát Cộng sản quỷ quyệt luôn kiểm soát quá chặt và luôn luôn đe dọa là: «Các hồi chánh viên ra hồi chánh thì bị chính quyền VNCH tra tấn tàn nhẫn để khai thác sau đó bị đem đi thủ tiêu hoặc giết chết.»
Và các cấp chỉ huy cấm hẳn các binh lính cộng sản nhặt và đọc các tờ truyền đơn kêu gọi cán binh CS ra hồi chánh.
Tuy nhiên anh em cán binh thỉnh thoảng cũng nhét vài tờ và đọc lén. Anh cũng tiết lộ là việc cấm lượm các truyền đơn kêu gọi hồi chánh thực ra cũng không quá nghiêm ngặt, vì thế đa số các cán binh CS đều có lượm và đọc qua.
#Tien Tuyen May. 12, 1971 trang nhất
Từ Căn Cứ 6 Về, Hồi Chánh Viên Chuẩn Úy Bùi Ngọc Chiêu Tiết Lộ
Tinh Thần Cán Binh Cộng Sản Sa Sút Trầm Trọng
★ Mỗi Cán binh cộng sản xâm nhập được phát hàng ngày 14 lạng gạo và 6 lạng muối trong suốt tháng
⚫ Cuộc tiến quân của QLVNCH vào Kampuchea và Hạ Lào đã cắt đứt hoàn toàn các trục tiếp liệu cộng sản
By THÁI NGƯƠN HIỀN
KỲ 2. - Sau đây là anh Chiêu phác họa lại quãng đường mà anh đã đi qua sau lần xâm nhập vào miền Nam lần thứ hai.
Ngày 20.12.68 Trung đoàn 28 đã đi bộ từ Quảng Bình cho tới ngày 10-2-68 tức là mất 50 ngày đường mới tới vùng ba biên giới Kontum, xuyên qua con đường mòn HCM trên đình Trường Sơn thuộc Quận Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị VNCH, sông Cù Bay, rồi đi dọc theo biên giới từ Trung Lào xuống Hạ Lào, xuyên qua cao nguyên Boloven cuối cùng đến ngã ba biên giới Kontum.
Anh đã tả lại cuộc «trường thành vạn lý» (longue marche) 50 ngày như là một giấc mộng khủng khiếp.
Hàng ngày cộng sản phát cho mỗi cán binh 14 lạng gạo và 6 lạng muối trong 1 tháng. Anh đã phải ăn ròng rã như thế trong suốt quãng đời chiến đấu của anh cho tới khi ra hồi chánh.
Thỉnh thoảng trung đoàn mới bắn được thú rừng xẻ ra chia nhau ăn. Ngoài ra còn phải hái cả rau rừng để ăn thêm. Tuyệt nhiên không được dân chúng tiếp tế bất kỳ một thứ gì khác.
Bệnh tật thì đe dọa thường xuyên các cán binh xâm nhập, nhất là bệnh sốt rét rừng. Trung bình cứ 100 cán binh xâm nhập được vào Nam VN thì bị chết hết 40 người.
Anh cùng thổ lộ là từ ngày xâm nhập vào Nam VN đến nay anh chưa biết mặt đồng bạc của MTGP vì tất cả tiền bạc đều do Trung đoàn trưởng thâu hết để mua gạo tiếp tế từ Trung cộng gởi sang.
Khi QLVNCH chưa lên đánh KPC và Hạ Lào thì đơn vị anh mua gạo của KPC hay Lào. Nay KPC và Ai Lao đều bị QLVNCH tiến đánh và cắt đứt mọi đường tiếp tế nên chỉ còn trông cậy vào Trung cộng mà thôi.
Điều đó đã chứng tỏ hai cuộc tiến quân của QLVNCH vô KPC và Ai Lao đã cắt đứt một cách hiệu quả các đường tiếp tế của CSBV. Như vậy, CSBV có muốn tái lập lại các trục tiếp tế của họ cũng sẽ phải mất đi vài năm.
( còn tiếp )
$pageOut$pageIn
Phân đoạn 2
#Tien Tuyen May. 13, 1971 trang nhất
Bác sĩ hồi chánh Đặng Tấn vạch trần thủ đoạn dã man của CSBV đối với tù binh Mỹ
BV SỬ DỤNG TÙ BINH VÀO MỤC TIÊU QUÂN SỰ, KINH TẾ LÂU DÀI, KHÔNG RIÊNG Ở MIỀN BẮC
★ Tù binh Mỹ đã bị tra tấn và bị tẩy não. ★ Mặt trận Dân tộc Dân chủ Hòa bình là công cụ của CSBV #Tien Tuyen May. 13, 1971 trang nhất
Bác sĩ hồi chánh Đặng Tấn vạch trần thủ đoạn dã man của CSBV đối với tù binh Mỹ.
BV SỬ DỤNG TÙ BINH VÀO MỤC TIÊU QUÂN SỰ, KINH TẾ LÂU DÀI, KHÔNG RIÊNG Ở MIỀN BẮC.
★ Tù binh Mỹ đã bị tra tấn và bị tẩy não. ★ Mặt trận Dân tộc Dân chủ Hòa bình là công cụ của CSBV.
SAIGON. — Trong cuộc họp báo sáng 11-5, một Bác sĩ VC hồi chánh cho biết nhân dân và Chính phủ Hoa Kỳ không nên nuôi ảo vọng BV sẽ phóng thích tất cả tù binh Mỹ hiện nay đang bị giam giữ.
Sử dụng tù binh vào mục tiêu Quân sự và Kinh tế
Theo lời Bác sĩ hồi chánh Đặng Tấn, sinh năm 1929 tại Quảng Ngãi thì qua kinh nghiệm với cuộc đấu tranh chống Pháp trước đây, BV đã coi tù binh Hoa Kỳ như là một thế chính trị của họ. Những sĩ quan Hoa Kỳ bị BV bắt giữ có khả năng còn có thể bị nhà cầm quyền Hà nội sử dụng vào các mục tiêu quân sự, kinh tế cho hiện tại hay lâu dài.
Khả năng của những tù binh Hoa Kỳ, theo lời Bác sĩ Đặng Tấn, không những chỉ được khai thác tại BV mà còn được tận dụng ở các quốc gia khác trong khối CS.
Bác sĩ Tấn tiết lộ rằng Bắc Việt đã vi phạm nghiêm trọng Quy ước Genève 1949 về tù binh chiến tranh bằng cách cho phép các quốc gia thuộc khối Cộng sản như Liên Sô, Trung cộng, Cuba khai thác các sĩ quan tù binh Mỹ về mặt tình báo chiến lược và tuyên truyền.
Do đó Bác sĩ Tấn tin chắc rằng BV sẽ không bao giờ phóng thích đầy đủ cả số tù binh Mỹ mà hiện họ đang giữ vào khoảng hàng ngàn người.
Dùng phương thức tẩy não tù binh Mỹ
Về phương cách đối xử đối với tù binh Mỹ của BV, ngoài các phương thức tra tấn thông thường, Bác sĩ Đặng Tấn nhận xét rằng phương thức độc ác nhất mà BV áp dụng đối với tù binh Mỹ là tẩy não. Theo phương thức này, người tù binh luôn luôn ở trong một tình trạng căng thẳng tinh thần và họ bị gieo vào đầu ý tưởng luôn luôn sợ sệt vì mang mặc cảm phạm tội trước những cái nhìn thù hằn của dân chúng BV.
Bác sĩ Tấn tiết lộ rằng, chính người bạn thân cận của ông là Thiếu Tướng Nguyễn Đôn, Cựu Tư Lệnh Quân khu 4 VC được giao phó nhiệm vụ tổ chức đường dây xâm nhập vào Nam qua ngả Lào và hiện nay BV đem cả sư đoàn CSBV sang Lào để bảo vệ đường mòn HCM. Ngoài ra, BS Tấn cũng cho biết cán bộ CS Lào cũng đã từng được Đảng Lao Động Hanoi đưa về BV huấn luyện để trở lại hoạt động trên quốc gia họ.
Như vậy, Bác sĩ Tấn kết luận chiến tranh VN sẽ không bao giờ chấm dứt nếu Lào Miên còn chưa bị cộng sản xích hóa.
Sau cùng nhận định về "Mặt trận Dân tộc Dân chủ và Hòa bình" [ * ], Bác sĩ Tấn cho rằng đây là một trong những âm mưu của Cộng sản và khi đề nghị chính phủ liên hiệp, CS hy vọng có thể cướp chính quyền một cách dễ dàng hơn.
Tại Trung tâm quốc gia Báo chí sáng nay, Bác sĩ Đặng Tấn cho biết ông đã trở về chính nghĩa quốc gia từ tháng 9-69 nhờ lợi dụng một cơ hội của cuộc hành quân Việt Mỹ tại Pleiku.
Sở dĩ đến hôm nay mới ra mắt báo chí là vì cũng như tất cả các hồi chánh viên khác, Bác sĩ Tấn đã phải trải qua những thủ tục hồi chánh. Hơn nữa, qua một năm ở miền Nam tự do, Bác sĩ Tấn mới có dịp nhận xét so sánh chế độ của 2 miền Nam Bắc.
Bác sĩ Đặng Tấn được kết nạp vào đảng cộng sản từ năm 1948, được chọn lựa học khóa y sĩ từ năm 1952 và tốt nghiệp năm 1962. Ông đã từng giữ các chức vụ Giám đốc Bệnh viện của Tổng Cục đường sắt, Trưởng phòng kế hoạch và Nghiệp vụ của Ty Y Tế v.v....
Từ năm 1965 Bác sĩ Đặng Tấn được đưa vào Nam và theo lời hứa hẹn của Tr. tướng Nguyễn văn Vịnh, ông sẽ giữ một chức vụ quan trọng trong cái gọi là Chính phủ CS miền Nam sau khi "giải phóng".
Nhân dịp này, Bác sĩ Tấn đã đưa ra một số nhận định về những điều mà CS đã làm từ trước đến nay. Theo đó Bác sĩ Tấn đã phải suy nghĩ về những gì mà CS gọi là đoàn kết hòa giải dân tộc.
Đoàn kết theo kiểu CS, Bác sĩ Tấn nhấn mạnh, là kết nạp các thành phần bất mãn chống Chính phủ VNCH để tạo lập Mặt trận Dân tộc Dân chủ Hòa bình đấu tranh đòi hỏi những quyền lợi phi lý.
Đề cập đến vấn đề Lào và Miên, bác sĩ quan niệm rằng không bao giờ CSBV thực hiện chủ nghĩa cộng sản thành công tại VN nếu Lào và Miên không làm cuộc cách mạng vô sản, do đó mặc dù cố tình bưng bít, theo lời Bác sĩ Tấn, ngày nay không ai còn thắc mắc về mức độ quân đội BV hoạt động tại Lào và Miên.
[ *: Một vài nét chánh về tổ chức Cộng sản đội lốt này:
#Tien Tuyen May 18, 1971 trang ba
Tù binh Cộng sản lên án chiến thuật biển người của CSBV #Tien Tuyen May 18, 1971 trang ba
Tù binh Cộng sản lên án chiến thuật biển người của CSBV
✦ Quân Lực VNCH là lực lượng duy nhất có thể đánh gục Cộng quân tại chiến trường trắc nghiệm Kampuchea
CHIẾN TRƯỜNG KPC 17-5. Tin từ ở chiến trường cho biết hiện nay chưa một ai có đủ thẩm quyền lên tiếng về chiến thắng quân sự tại chiến trường máu lửa KPC. Đó là việc đã hạ gục các lực lượng chính qui BV. Một lực lượng đang được thế giới ... mô tả là «quỷ quyệt» với dã tâm thực hiện cho mưu đồ xâm lược của họ dưới bất hình thức nào. Trong đó phải kể đến 1 tội ác tàn bạo nhất là việc tung quân vào «lò sát sinh» Kampuchea hàng chục ngàn quân trong chiến thuật thí quân biển người của họ bởi các cuộc giao tranh đẫm máu với Quân lực VNCH tại đây.
Nhưng dù muốn dù không thì vấn đề đối diện với binh đội quỷ quyệt CS/BV trực tiếp tại chiến trường đã được nêu ra với Quân lực VNCH, là đối thủ của 4 Sư đoàn chính qui BV đang tham chiến tại vùng này trước khi có 1 bản kết luận chính xác hợp thời để xác định vị trí địch và ta, lực lượng nào chiếm phần tiện nghi chung cuộc kết thúc trận chiến trong vinh, nhục v.v. Trên đây là những nét chấm phá chính của cuộc diện chiến tranh trận chiến trong vinh, nhục …
Trên đây là những nét chấm phá chính của cuộc chiến tranh Đông Dương. Trận chiến trắc nghiệm giữa binh đội BV - VNCH. Một trận chiến thử lửa giữa phe CS và Thế giới Tự do trong «địa ngục trần gian» Kampuchea.
Còn quá sớm để nhận định chiến thắng của Quân lực VNCH tại Kampuchea.
Phái viên TV [ * ] từ Kampuchea trở về sau khi tham dự nhiều cuộc giao tranh ác liệt trên chiến trường Đông bộ Snoul. Trong dịp theo chân các lực lượng Bộ binh VNCH, một trong những cánh quân của Tướng Nguyễn văn Minh đang được tung vào chiến trường này để truy lùng 2 sư đoàn Cộng quân BV.
Người viết bài đã có những nhận xét, một cái nhìn khách quan về chiến thắng cuối cùng trong trận giặc thử lửa giữa binh đội BV và Quân lực VNCH.
Một nhận định tuy hơi sớm và chủ quan nhưng những chi tiết xác thực nhất tại chiến trường đã cho phép người viết bài được trình bày một kết luận hồi chung cuộc: «Quân lực VNCH là lực lượng duy nhất đánh gục binh đội BV tại chiến trường trắc nghiệm KPC trong thời gian tới đây».
Nếu như thắng trận này chưa đến hồi kết thúc là bởi những lý do đặc biệt của nó. Một vài nhận định mới đây cho hay chiến trường KPC là «mấu chốt đưa đến những quyết định trên bàn hòa đàm từ phía các lực lượng tham chiến tại KPC» ... Đây cũng là một trong những lý do đặc biệt khiến chiến trận Kampuchea vẫn còn kéo dài. Đồng thời cùng là những phác giác mới trước khi viết bài đưa ra nhận định còn quá sớm đáng lẽ chưa nên được đề cập trong lúc này.
Lý do thất trận của binh đội BV.
Người ta được biết trong các trận đánh nổi danh từ Hạ Lào vừa qua và chiến trường Kampuchia hiện nay, quân BV luôn luôn sẵn sàng thi hành các kế hoạch tàn bạo nhất trong các chiến dịch đánh phá của họ nhằm đối phó với hỏa lực phi pháo và khoảng 40 ngàn tay súng thiện chiến thuộc các Quân, Binh chủng VNCH tham chiến tại đây.
Cũng nên biết rằng, các lực lượng được chọn tham chiến ở cả 2 trận địa Hạ Lào và Kampuchea đều là những tay súng từ các quân binh chủng thiện chiến trong Quân lực VNCH.
Ngoài ra, các cấp chỉ huy quân sự cũng đã được trang bị hóa về kinh nghiệm chiến trường, quan niệm hành quân, tiếp vận, lãnh đạo chỉ huy trước khi họ nhận trọng trách.
Mục đích kể trên là không ngoài việc giúp cho cấp cấp chỉ huy có cái nhìn mới tổng quát về chiến lược, chiến thuật của CS đang áp dụng tại chiến trường ngoại biên hầu đối phó với địch. Trong đó còn phải kể đến việc gìn giữ mạng sống của binh sĩ là điều đáng quí.
Có lẽ không ai ngờ rằng yếu tố «nhân đạo» đã giữ vai trò quan trọng trong cuộc chiến máu lửa với quân chính qui BV tại đây. Lý do chính đã khiến Quân lực VNCH giữ được thế đứng lâu dài đối đầu với các chiến thuật tàn bạo mà binh đội CS đè xuống đầu các «đồng chí» của họ trong các trận chiến vang danh vừa qua.
Phải chăng đây là động cơ thúc đẩy khiến binh đội BV sa lầy tại chiến trường, trong các mưu đồ quân sự của họ mới thoạt ló dạng đã bị bẻ gẫy từ trong trứng nước.
Tại sao lại diễn ra tình trạng này?
Những tay đao phủ thủ trong cuộc chiến Đông Dương.
Trong khi đó, cấp chỉ huy quân sự BV lại là những kẻ giết người không gớm tay, là «Đao phủ thủ» xếp hàng thứ nhất trong lịch sử chiến tranh nhân loại. Chưa bao giờ người ta nhận thấy cán binh Bắc Việt lại chịu bị hy sinh nặng nề về nhân mạng kinh khủng như trong trận chiến Đông dương hiện nay. Hơn cả sự hy sinh của cán binh BV trong các trận đánh hồi Tết Mậu Thân tại VNCH mà dân chúng đã có dịp chứng kiến.
Nếu từ hậu phương những ai có dịp qua đây ghé thăm chiến trường Hạ Lào giai đoạn vừa qua và Kampuchea hiện nay, chính mắt nhìn thấy những phi vụ không tập khổng lồ của hàng chục phản lực cơ B52, hàng trăm phản lực cơ chiến đấu, bên cạnh đó là sự tham chiến hữu hiệu của trực thăng và hỏa lực pháo binh, thì mới thấy hình ảnh tàn bạo của chiến trường. Hình ảnh này đập vào mắt chắc chắn sẽ khiến những người dù không yếu tim cũng phải «mất hồn vía».
Chúng ta có thể nghe lời kể lại của những binh sĩ trực tiếp tham dự các trận đánh «mặt đối mặt» với Cộng quân thì sẽ hình dung thấy nguyên một bãi chiến trường trong đó sự thiệt hại của Cộng quân về quân số là không thể tưởng tượng được...
Cán binh BV bị chết bởi sự chống trả của binh sĩ ta thì ít, nhưng bị giết hại bởi hỏa lực phi pháo thì không biết đâu mà kể.
Tội cho binh đội BV là trong những cuộc giao tranh với ta, các cán bộ CS thường hay hối thúc họ nhảy vào những họng súng đã chờ sẵn. Cho nên, giải pháp duy nhất của họ - xem là phản ứng thông thường tại mặt trận - binh đội CS hoặc chọn lựa 1 trong 2 diễn kiện: Chấp nhận giao tranh để tìm cái chết; Hoặc chấp nhận đầu hàng mà hậu quả không biết sẽ đi về đâu. Đằng nào cũng nguy hiểm thì thà cứ chiến đấu trước rồi hậu xét. Một tù binh BV đã tiết lộ như vậy.
Hậu quả của chiến thuật thí quân biển người.
Đó là không kể những cuộc tấn công qui mô của họ vào các căn cứ hỏa lực của VNCH. Hậu quả ra sao thì dường như ai cũng biết. Xác địch phơi đầy trên hàng rào kẽm gai. Vắt vẻo trên ngọn cây. Sình thúi bên giao thông hào v.v...
Một tù binh BV bị bắt tại mặt trận mới đây đã lên án nặng nề về chiến thuật thí quân của cấp lãnh đạo BV. Nhưng chỉ là những lời lên án như muối bỏ biển trước một sách lược xâm lăng của nhà cầm quyền miền Bắc. Lúc thì núp dưới chiêu bài «Giải Phóng miền Nam»; lúc dưới chiêu bài «giải phóng Khờ Me»; Hay «Nhân dân giải phóng Lào» như chúng ta đã thấy. Tiếc rằng tù binh BV đã chết trước khi lời lên án của đương sự kịp đến tai tập đoàn lãnh đạo Bắc Việt — những tên đao phủ thủ giết người không gớm tay. Và dĩ nhiên, có thể đây là 1 trong những lý do chính dẫn đến sự thất trận của binh đội CS/BV tại chiến trường Kampuchea.
Một hậu quả của việc chủ chiến vô nhân đạo, một địa ngục trần gian mà dường như ai cũng đoán được phần thắng bại ngã về phe nào trong cuộc chiến Đông dương (TV).
[ * TV = Hãng Tin Việt do ông Đỗ Nguyên Chi làm Giám Đốc. Trong làng báo chí miền Nam, khá nhiều tờ báo lớn, có uy tín, thường hay dẫn lại tin từ Hãng Tin Việt và hay viết tắt TV ở đầu hoặc cuối bản tin.
#Tien Tuyen Mar. 28, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Hồi chánh viên Trần Ngọc Minh - lính Đặc Công CSBV
Phương Bắc ghi
[ đăng làm 4 kỳ từ #Tien Tuyen Mar. 28, 1972 đến #Tien Tuyen Mar. 31, 1972 ]
#Tien Tuyen Mar. 28, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Hồi chánh viên Trần Ngọc Minh - lính Đặc Công CSBV
Phương Bắc ghi
Kỳ 1
Theo đúng kế hoạch, 12 giờ đêm nay đơn vị tôi phải nổ súng tấn công vào Minh Long. Tiền đồn này nằm về phía Tây Tỉnh Quảng Ngãi. Trận này tôi nhận nhiệm vụ chỉ huy 3 chiến sĩ đặc công khác, bí mật bò vào trong đồn, dùng B40 và plastic đánh sập 2 lô cốt để mở đường cho Tiểu Đoàn BB xung phong tràn ngập.
Sau 3 tháng huấn luyện tại Trường đặc công, đây là lần đầu tiên, tôi nhận nhiệm vụ khó khăn và khá nguy hiểm như vậy. Mặc dù là đảng viên chính thức hơn một năm nay, thế nhưng tôi cũng thấy phập phồng, lo sợ.
Trên đường hành quân từ Gò Chè xuống đồn Minh Long, tôi cảm thấy trong lòng như đang dâng lên một nỗi niềm gì khó tả. Tim tôi đập mạnh và chân tay lẩy bẩy run. Có lẽ vì quá hồi hộp nên tôi đánh bạo hỏi Thượng sĩ Học, một trong 3 người dưới quyền chỉ huy của tôi trong trận đánh này:
— Cậu liệu đêm nay mình làm ăn có trót lọt không?
Học thở dài trả lời:
— Báo cáo chuẩn úy! Tôi ngán quá! Nhất là những bãi mìn dưới hàng rào!
Nghe giọng trả lời của Thượng sĩ Học không được tự nhiên, tôi giật mình và thấy mấy trái B.40 lạnh ngắt đeo bên hông mà bụng bảo dạ, nghĩ đến những chuyện may rủi trong trận đánh đêm nay.
Vòm trời đồn Minh Long sáng lờ mờ, nhô lên khỏi màn đêm đen đặc trước mắt chúng tôi. Đoàn quân vẫn lặng lẽ đếm những bước đi thận trọng. Khi đến tuyến tản quân quy định, các mũi bắt tay vào việc đào công sự.
Đất núi pha lẫn sỏi đá, công việc lại làm rất khẩn trương nhưng tuyệt đối không ai được làm phát ra một tiếng động nhỏ. Đồn cách chỗ chúng tôi có hơn 200 thước, chỉ cần một tiếng xẻng va mạnh vào đá là 500 mạng người sẽ chầu Diêm Vương ngay.
Phía sau chúng tôi là rừng hoang tĩnh mịch, phía trước là ánh sáng huyền ảo của hỏa châu rồi vụt tắt đi ngay. Một không khí rợn người đang bao trùm trên trận địa.
Toán đặc công 4 đứa chúng tôi được gọi lên Ban chỉ huy Tiểu đoàn để kiểm tra trang bị vũ khí. Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng Nguyễn văn Vinh hỏi từng người một:
— Chuẩn úy Minh đem mấy quả B40?
— Báo cáo thủ trưởng 14 trái.
— Thượng sĩ Học mang mấy bánh plastic?
— Báo cáo Thiếu Tá! 20 bánh! Mỗi bánh nặng 250gr.
Cứ thế, lệnh hỏi và báo cáo được đối đáp nhau cho đến người thứ 4. Tất cả các câu trả lời của chúng tôi với Tiểu đoàn Trưởng đều ngắn gọn và chính xác.
Đúng 11 giờ 49 phút, Thiếu tá Vinh ra lệnh cho chúng tôi bắt đầu tiếp nhận trận địa theo kế hoạch đã lập trên sa bàn ở Mật khu.
Tôi và Thượng sĩ Học đi sau. Trung sĩ Phú và Long đi trước để cắt rào kẽm gai và gỡ mìn. Thỉnh thoảng, đèn pha trong đồn lại lè lưỡi liếm qua đầu chúng tôi. Lúc như vậy chúng tôi đều nằm sát đất như một khúc gỗ, tim đập thình thịch như trống Sư tử múa Tết Trung Thu.
Bỗng hàng rào thứ nhất hiện ra ngay trước mặt chúng tôi qua ánh hỏa châu. Tôi và Học hồi hộp chờ Trung sĩ Phú và Long cắt rào nơi phía trước. Khẩu B40 đang nằm cạnh tay tôi run lên bần bật. Phía trước, tiếng kềm bấm kẽm gai và máy dò mìn không phát ra một tiếng động nào. Bỗng Thượng sĩ Học khẽ đập vào vai tôi 1 cái. Mật hiệu trên qua hàng rào thứ nhất đã được quy định trong kế hoạch. Tôi thở dài nhẹ nhõm, vì biết hàng rào thứ nhất đã giải quyết xong. Đoạn tôi đang dùng 2 đầu ngón chân cái làm điểm tựa để nhích người lên phía trước từng phân 1.
Bỗng có tiếng vỏ đồ hộp khua vang ở hàng rào thứ hai. Biết nguy hiểm, tôi và Thượng sĩ Học nằm ép người xuống sát đất. Một vật sáng trong đồn chiếu ra ngay chỗ tôi. Chúng tôi nín thở, như cá nằm trên thớt, chờ ăn đạn. Quả nhiên, chỉ 5-10 giây sau, từng loạt đạn trong đồn vãi ra nghe chiu chiu trên đầu tôi. Tôi có cảm tưởng như bàn tay mình lúc đó nổi da gà, toàn thân lạnh như xác chết, tóc dựng ngược như lông dím. Đèn pha chuyển hướng, màn đêm lại phủ xuống chỗ chúng tôi.
Chưa bao giờ tôi cảm thấy yêu thương đêm đen như lúc này. Nó là ân nhân, là cứu tinh cho chúng tôi thoát chết.
Sau vài loạt súng thăm dò, không gian lại trở về tĩnh mịch. 10 phút sau, bỗng có tiếng huýt gió ở hàng rào thứ 2. Mật hiệu ra lệnh cho tôi và Học bò lên phía trước. Trước khi hành động, tôi khẽ dặn Thượng sĩ Học:
— Vừa bò, vừa rà mìn. Coi chừng bọn nó gỡ sót thì chết!
(Còn nữa)
#Tien Tuyen Mar. 29, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Đặc Công CSBV Trần Ngọc Minh – Phương Bắc ghi
Kỳ 2
Tôi nói xong, Học ấn vào tay tôi. Mật hiệu chỉ đồng ý.
Mặc dù trời không lạnh lắm thế mà đầu gối tôi cứ run bần bật. Chúng tôi đã bò qua hàng rào thứ 2 được vài thước, bỗng thượng sĩ Học nằm lại, tôi tưởng hắn ta mệt nên dừng lại lấy hơi. Do đó, tôi cứ tiếp tục nhích lên. Tôi vừa vượt qua Học chừng 2m, bỗng có tiếng kêu:
— Coi chừng! Khéo vướng mìn giây!
Tôi giật mình chùn lại. Nhưng lúc ấy, chân tôi đã vướng sợi giây nhùng nhằng. Sự việc xảy ra quá đột ngột, tôi vội thét lên:
— Mìn nổ! Học ơi!
Dứt câu, tôi lăn người sang mé trái. Tiếp theo là một tiếng nổ chát chúa vang lên. Tôi còn kịp nhận ra một khối lửa khổng lồ trùm kín cả người mình.
Súng trong đồn bắn ra dữ dội. Tôi nằm im và cố mở mắt để tìm hướng rút lui. Nhưng một con mắt đã tối mù và tôi thấy nước ròng ròng chảy xuống má. Nhờ ánh hỏa châu, tôi nhận ra máu đỏ và vội lấy khăn tay bịt chặt lấy con mắt ấy. Mặc cho đạn trong đồn đang bay ra, tôi nghiến răng bò về phía thượng sĩ Học đang nằm.
— Học ơi! Cậu có sao không?
Vừa gọi, tôi vừa đưa tay sờ soạng tìm hắn. Hắn đây rồi! Tôi lắc hắn thật mạnh, miệng hỏi:
— Mày có sao không? Mày bị thương ở chỗ nào hả Học?
Hắn vẫn không đáp, tôi sờ lần lên mình, lên tay, lên cổ và bỗng rợn người với cái đầu của Học! Đã bay đi đâu mất rồi. Máu nhơm nhớp dính đầy bàn tay tôi. Tôi thở dài nằm lặng người bên xác Học.
Trên trời, hỏa châu treo lơ lửng từng chùm soi sáng cả trận địa. Máy bay trực thăng quần sát hàng rào để tác xạ. Phía ngoài đơn vị tôi nổ súng để kháng cự mỗi lúc mỗi rát hơn.
Trên bắn giống trong bắn ra ngoài bắn vào, chúng tôi nằm giữa giơ lưng ra chịu tất cả. Tôi khẽ cựa mình thấy toàn thân nhức nhối, buốt tê. Tôi đoán có lẽ còn nhiều vết thương trên người tôi nữa.
Lợi dụng những lúc hỏa lực địch chuyển về hướng khác, tôi nhích dần về phía chân đồi. Cứ mỗi lần tiếng súng ngớt, tôi lại nghe thấy tiếng ai đang rên hừ hừ. Chẳng lẽ Trung sĩ Phú và Long bị thương và mắc kẹt trên đó chăng?
Tôi chưa bò được bao xa, thì một số chiến sĩ bộ binh xung phong định vượt hàng vào thứ nhất. Hỏa lực bên ngòai bắn yểm trợ thật là ghê. Trực thăng thì gần như đứng lơ lửng trên không bắn chặn quân xung phong. Hỏa châu được bắn lên tới tấp. Trận địa sáng như ban ngày.
Hai bên đang lúc xử dụng hỏa lực tối đa thì có tiếng gọi tôi:
— Minh ơi! Minh ơi!
Giọng nghe ồ ồ nên tôi chẳng nhận ra ai. Tôi dương con mắt trái còn lại quan sát thì nhận thấy một người mặc quần đùi ở trần đầu quấn chiếc áo từ hàng rào thứ ba đang bò nhanh đến nơi tôi. Vừa kinh ngạc vừa lo sợ, tôi rủa thầm: «Tiên sư cái thằng nào ngu đến thế! Hỏa châu sáng rực, đạn bắn như mưa, thế mà bắn không chịu bò áp cái bụng xuống đất. Bò lồm ngồm như mả thằng ăn mày thế kia thì “tịch” sớm con ạ!»
Trông hắn bò mà tôi phải nín thở mấy lần. Cuối cùng, chịu không được tôi gầm lên: Đồ ngu! Nằm xuống bò!
Nhưng hắn vẫn thản nhiên dùng tay và đầu gối tiến về hướng tôi. Lúc hắn đến gần, tôi chồm lên giật tay hắn xuống thật mạnh và quát:
— Sao con ngu thế!
Vừa dứt câu, một chòm hỏa châu khác lại phóng lên. Qua ánh sáng, tôi rùng mình nhận ra một tia máu ở cổ hắn đang phun ra xối xả. Tôi vội xé quần đùi đang mặc băng cho hắn. Khi băng xong, mắt hắn đã trợn trùng. Hắn chính là Trung sĩ Long. Có nằm trong lửa đạn mới chứng kiến được nhiều cái chết thật quái dị, kinh hồn khiếp vía.
Thế là 2 trong 4 đặc công của mũi tôi đã qua đời không kịp trăn trối.
Quân xung phong đơn vị tôi có lẽ vì trực thăng bắn rát quá nên không còn ồ ạt như trước nữa. Hỏa châu mờ dần, tiếng súng thưa thớt hẳn. Lợi dụng thời cơ này, tôi bò nhanh xuống phía chân đồi. Vừa bò qua khỏi hàng rào thứ nhất bỗng mắt tôi đau nhói, máu chảy ướt đẫm cả chiếc khăn đang buộc. Vừa lúc đó, tôi nghe có tiếng chân người chạy thình thịch phía sau. Tôi đoán biết Trung sĩ Phú tranh thủ tháo chạy.
Tôi đoán biết Trung sĩ Phú tranh thủ thảo chạy. Khi hắn chạy gần tới, tôi với gọi.
— Phú! Nằm xuống tao nhờ một chút!
Nó nhát gừng trả lời tôi:
— Nhớ cái gì?
Tôi nổi điên quát lại:
— Băng hộ tao con mắt bị thương chứ cái gì!
Tôi vừa dứt câu, Phú cũng vừa xé xong miếng vải áo. Đoạn hắn đè đầu tôi ra băng vội vào mắt trái. Tôi hét lớn:
— Tao bị mất phải cơ mà!
Mặc cho tôi la, Phú vụt đứng dậy và trước khi chạy, hắn còn nói nhanh như cháo chảy:
— Báo cáo chuẩn úy ! Tôi bị mảnh M 79 ở lưng! Chuẩn úy «tha» cho tôi. Chịu khó chờ dân công cáng vậy nhé!
Tôi vừa tức, vừa buồn cười. Tôi rủa thầm “Tổ sư thằng khôn nạn! Đặc công gì mà nhát như thỏ”
Mặc dù bị thương nặng như vậy, nhưng tôi vẫn phải bò dần về tuyến tập kết. Hỏa lực trong đồ đã thôi nhả đạn. Đơn vị tôi đã rút lui.
Khi bò ra đến ngoài, tôi nhìn đồng đội tôi nằm chết đủ các kiểu. Người thì nằm ngửa như đang ngủ. Kẻ hãy còn ôm AK chĩa nòng và hướng đồn. Có anh như lại ngồi đang suy tư... Còn súng đạn, quân trang... vất rải rác khắp trận địa.
Bỗng tai tôi lại nghe như đâu đây có tiếng ai rên khóc. Mặc dù vậy, tôi đã hoàn toàn kiệt sức không tài nào nhúc nhích nổi. Nếu cứ thế này, chắc sáng ra tội sẽ bị địch bắt mất.
Tôi đang phân vân thì bỗng có bóng người lù lù đi tới. Tôi lên tiếng tự giới thiệu:
— Minh đây! Minh đây!
Nghe tôi nói xong, người kia lên tiếng:
— Trời ơi! Thượng sĩ Quyết đây này! Để tớ cứu!
Thượng sĩ Quyết nguyên là chiến sĩ cũ của tôi. Tôi được cử đi học đặc công, còn anh vẫn ở bộ binh với chức trung đội phó.
Khi Quyết cõng tôi trên lưng, tiếng rên khóc lại càng lớn hơn. Quyết nhạc nhiên hỏi tôi:
— Kìa! Tôi tưởng tiếng rên lúc nãy là của anh. Nói xong, Quyết cõng luôn tôi về chỗ phát ra tiếng khóc.
Chúng tôi tìm ra một người nằm sau một bờ đất. Tôi đưa tay lần lên người anh ta để tìm vết thương.
Bỗng Quyết rú lên:
— Trời ơi! Đồng chí này bị mất cả 2 chân rồi!
Anh thương binh giọng run run, nói ngắt quãng từng chữ:
— các đồng … chí … cứu … tôi … với!
Tôi cảm động chảy nước mắt và thầm nghĩ: «chẳng lẽ mình lại may mắn hơn anh này?»
Sau khi Quyết đưa tôi và anh cụt 2 chân về tuyến tập kết, tôi gặp ngay Thiếu tá chính trị viên trưởng Tiểu đoàn Huỳnh Ba. Huỳnh Ba nói câu đầu tiên khi gặp tôi:
— Nếu đồng chí chưa hy sinh thì về đơn vị ráng mà chịu kỷ luật. Thất bại trận này là do Tổ đặc công gây ra, mà đồng chí là người chỉ huy!
( còn nữa )
#Tien Tuyen Mar. 30, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Đặc Công CSBV Trần Ngọc Minh – Phương Bắc ghi
Kỳ 3
Mặc dù đang đau và mệt, nhưng nghe hắn nói, tôi chịu không nổi nên quát lại:
— Kỷ luật gì? Thân xác tôi chẳng còn gì để mà đáng kỷ luật!
Nói xong máu nơi mắt tôi lại rỉ ra, đầu tê buốt. Quả thật, tôi muốn chết ngay lúc này. Tôi không phải vì sợ lời hăm dọa của tay chính trị viên trưởng, nhưng cái chết lúc này có thể mang đến cho tôi một cái gì thanh thản hơn, êm dịu hơn.
Sự uất hận và đau nhức vết thương làm tôi ngất lịm đi. Không hiểu là bao nhiêu tiếng đồng hồ, chỉ biết khi tỉnh lại, đã thấy mình nằm bên mặt bờ đất. Phía trên có lùm cây bao phủ.
Trời bắt đầu rạng đông... Tôi thấy Thượng sĩ Quyết nằm bên cạnh nên hỏi:
— Đơn vị ta đâu rồi?
Quyết trả lời gọn lỏn:
— Bọn chúng rút hết rồi!
Nghe Quyết nói, tôi cảm thấy lạnh lạnh nơi xương sống. Đoạn hỏi lại anh ta:
— Có những ai bị bỏ lại?
Thượng sĩ Quyết thở dài rồi trả lời tôi:
— Gần 100 người.
Tôi nắm chặt tay Quyết, một hồi hỏi tiếp anh:
— Thế sao cậu không về?
Quyết nở một nụ cười chế giễu rồi buông một câu:
— Báo cáo là vờ bị sai khớp xương để được ở lại với anh đấy!
Vừa dứt câu, Quyết lớn tiếng gọi to:
— Đồng chí y tá ơi! Lại đây băng cho đồng chí này với.
Tôi sờ mắt bị thương rồi hỏi lại Quyết:
— Chứ hồi đêm đến giờ nó chưa băng bó gì cho tôi sao?
Quyết lắc đầu chửi thề:
— Tiên sư cái thằng y tá! Nó cứ tìm mấy thằng cùng quê để săn sóc trước.
Trên trời, chiếc L-19 đang nghiêng ngả ngó nhòm. Nghe tiếng nó kêu thật đáng ghét. Thỉnh thoảng, tiếng đại bác bắn chặn đường rút lui của đơn vị lại cuộn lên từng cơn dữ dội.
Quyết dụi võng tôi sát vào bụi cây rồi lẩm bẩm:
— Đ. Mẹ không khép lại chết cả đám bây giờ!
Chiếc L19 vụt qua, tay y tá lù lù đến. Hắn nhìn qua các vết thương của tôi. Đoạn lắc đầu chán ngán: — Vết thương khắp mình thế này thì lấy thuốc đỏ đâu mà bôi cho đủ!
Quyết trợn mắt:
— Chú cậu mang thuốc gì mà không đủ? Bộ muốn để dành cho mấy thằng cùng quê hả.
Không nói lại một câu, tay y tá dùng bông lẫn giẻ rách để lau vết thương rồi băng bó cho tôi. Thuốc đỏ có ít nên khi thấy hắn đổ thêm nước trắng vào, Quyết gặng hỏi:
— Bộ đổ nước lã vào thuốc đỏ hả?
Tay y tá gân cổ cãi:
— Đâu có! Nước đã đun sôi rồi!
Xoa xong một lượt thuốc đỏ pha nước lã, tay y tá dùng cồn 90o lau các miệng vết thương của tôi. Tôi như tê dại toàn thân. Song cũng cố hỏi hắn:
— Này đồng chí! Đồng chí xem hộ con mắt phải của tôi có sao không?
Với giọng trọ trẹ Hà Tĩnh, tay y tá đáp:
— Bây giờ thì bị thương rồi chứ còn làm sao nữa.
Quyết ngồi cạnh chịu không nổi lên hét vào tai hắn:
— Đồng chí Minh hỏi con mắt có sao không nghĩa là sau này có trông thấy được nữa không?
Tay y tá thản nhiên đáp:
— Thấy chứ! Mắt đồng chí Minh chỉ bị mảnh mìn «lạng» qua thôi!
Y tá vừa dứt câu, Thượng sĩ Quyết xì một hơi dài:
— Đ. mẹ! Toàn ăn nói theo kiểu chữa bệnh bằng “chính trị” thôi. Đui thì nói đui cha nó cho rồi.
Tay y tá điểm một nụ cười mếu máo. Đoạn hắn nói:
— Báo cáo chuẩn úy và thượng sĩ! Nói thật thì lại sợ động đến “chính sách” của đảng. Tôi mong chuẩn úy và thượng sĩ “thông cảm” cho.
Tôi hồi hộp hỏi lại tay y tá:
— Ừ thì thông cảm! Thế đồng chí nói thật đi. Mắt tôi có làm sao không?
Hắn nhíu lông mày rồi lắc đầu trả lời:
— Báo cáo chuẩn úy không?
Mặc dù đã biết trước như vậy, nhưng khi nghe chuối những ý tôi nói ra, tôi vẫn choáng váng và tim như ngừng đập.
———
Khi mặt trời lách qua khe lá, chiếu thẳng tia yêu ớt xuống chiếc võng đẫm máu của tôi, thì tiếng máy bay nghe đã rền trời. May là khu vực này nhiều cây và bụi rậm nên L19 khó quan sát. Tuy nhiên, một vài trực thăng vẫn nhả tràng đại liên vu vơ xuống đất.
———
Lúc này, quân dân Đồn Minh Long kéo ra lục soát chắc thì cũng tóm gọn được bọn thượng binh này. Đột nhiên, cơn khát nước bỗng dâng lên. Tôi xin Quyết một túi nước nhưng hắn nhất định không cho mặc dù nước đâu có thiếu.
Cổ tôi như cháy, tôi khát đến độ cứ nhắm mắt và là toàn thấy trời mưa, sông suối, thấy bơi lội. Cuối cùng, vì tôi năn nỉ và cả chửi rủa nữa, Quyết mới chịu rót cho tôi một hớp vào nắp bi đông. Hắn đang rót vào miệng tôi thì có tiếng ồn ào. Tôi ra hiệu cho Quyết biết và hắn liền chạy đi trinh sát. Đoạn quay về báo cho tôi biết là có Đội tới tải thương binh. Tôi mừng quá liền quên cả cơn khát đang hành hạ.
Khi có bốn năm người vác đòn đến gần chỗ tôi, mắt họ láo liên, liếc ngang dọc. Quyết liền gọi:
— Đồng chí này bị thương nặng, đề nghị các đồng chí ưu tiên cáng trước đi.
Trong đám có một tiếng đáp lại:
— Biết rồi! Ở đây không có ai có quyền ra lệnh cho chúng tôi đâu!
Dứt câu, tôi còn nghe cả mấy tiếng bàn tán thì thầm:
— Coi bộ thằng đó nặng lắm chúng mày ạ!
Có tiếng đáp lại:
— Thằng nào nặng bỏ lại, khiêng sau. Tìm thằng nhẹ khiêng trước đã.
Thế là tôi bị Đội tải thương bỏ qua vì cái hình hơi to con. Thượng sĩ Quyết tức quá chửi đổng:
— Sự bố mấy cái thằng chó má này. Chúng mày cạn lương tâm con người rồi phải không? Máy bay không «chiếu cố» đến chúng mày cũng uổng.
Vừa dứt câu, Quyết cõng tôi tới đội tải thương. Cho đến bây giờ, tôi mới thấy tủi hổ cho cái thân phận cầm súng chiến đấu cho Đảng để «giải phóng miền Nam.»
Tôi hy sinh cả thể xác tôi để dâng hiến cho cách mạng. Rút cuộc, bị đồng chí dọa bỏ rơi.
Khi đến Đội tải thương, mặc dù Quyết đã xuống nước năn nỉ, trình bày đủ mọi lý do. Nhưng họ vẫn cương quyết từ chối và bỏ tôi ở lại.
***
Khi 30 cáng thương lên đường, tôi bảo Quyết nằm lại chờ nhưng hắn không chịu. Quyết cố cõng tôi theo đoàn tải thương. Lúc này, tôi thấy thương Quyết hơn bao giờ hết.
Tôi nhớ lại một trận đánh trước đây ở Nghĩa Hành, khi Quyết còn là chiến sĩ của tôi. Hắn bị thương nơi chân đi không được. Đơn vị tháo chạy hết, tôi phải cõng Quyết về hậu cứ mất 6 ngày đường rừng.
Cho đến bây giờ, Quyết lại một mình cõng tôi.
Trên đường theo đoàn tải thương về bệnh viện, có những đoạn băng qua trảng trống, Quyết phải mím môi cõng tôi chạy hết lực để theo kịp đoàn tải thương.
Đi được gần 3 tiếng phải vượt qua một đồi cỏ gianh khá rộng. Toán tải thương vượt qua nửa chừng thì bị L19 phát hiện. Một trái khói màu đỏ được ném xuống. Trong giây lát, 2 chiếc HU1A lao tới, ngay khu đồi tranh thi nhau vãi đạn.
Những cáng thương bị quăng vội xuống đất để chạy thoát thân. Trong khoảnh khắc, toàn khu đồi tranh biến thành biển lửa. Tôi nghe tiếng kêu khóc, cầu cứu của 30 đồng chí vang ra từ trong biển lửa đó.
May mà Quyết mới cõng tôi tới bìa rừng. Hai chúng tôi thoát chết nhờ một gốc cây cổ thụ. Thượng sĩ Quyết nằm cạnh tôi than:
— Có lẽ các đồng chí thương binh nằm bó tay chờ chết Minh ạ!
— Đồng chí bị cụt 2 chân, đội tải thương có cáng đi chuyến này không?
Quyết thở dài đáp:
— Anh ta chết ngay từ đêm qua rồi! Trước lúc chết, anh ta khóc và cứ gọi lảm nhảm “Mẹ ơi! Mẹ.” Rồi nấc lên một tiếng thật to nằm im trên vũng máu.
( còn nữa )
#Tien Tuyen Mar. 31, 1972 trang hai
CÒN GÌ CHO ĐẢNG - Hồi Ký Của Đặc Công CSBV Trần Ngọc Minh – Phương Bắc ghi
Kỳ 4
(Tiếp theo và hết)
Sau cuộc tác xạ của 2 trực thăng đó, chúng tôi không liên lạc được với ai để về hậu cứ của bệnh viện. Quyết bàn với tôi nên tìm đường về. Nhưng tôi không đồng ý. Mặc dù ở lại sẽ gặp nhiều khó khăn như: Thú rừng, thiếu lương thực, thuốc men...
Sở dĩ lỗi không chịu theo Quyết vì nếu đã lạc trong rừng thì trăm phần trăm là chết. Bằng cách nằm đợi tại đây tuy gặp khó khăn như Quyết nêu ra nhưng vẫn còn hy vọng.
Chiều hôm nay, Quyết đặt tôi nằm trên vòng rồi hắn đi kiếm những loại rau gì có thể ăn được ở rừng. Nhân tiện, tìm xem có gặp ai ở đội tải thương hoặc thương binh còn sống sót không?
Khoảng 5 giờ chiều. Quyết ôm một bó rau má và rau tầu bay cùng một củ chuối rừng to bằng bắp đùi trở về. Trông thấy vẻ lầm lì của hắn, tôi biết rằng, không tìm thấy một ai cả.
Hắn luộc rau má với muối xong, thì tôi cũng vừa lên cơn sốt. Các vết thương nhức nhối và mùi hôi xông lên. Riêng về thương ở mắt, tôi thấy buồn buồn như có con gì đang cựa quậy. Tôi bảo Quyết mở tấm băng bằng vải quần rách ra thử xem sao. Tháo đến vòng cuối cùng, hắn kêu tiếng lên làm tôi giật mình.
– Trời! Toàn bọ lúc nhúc trong mắt anh!
Khoảng nửa đêm, tôi tỉnh giấc đã thấy Quyết dựa gốc cây ngủ gật. Tôi chưa kịp gọi Quyết để xin hợp nước thì dã nghe thấy tiếng động mạnh ở đồi gianh vang lại. Tôi hoảng hốt đánh thức Quyết dậy và nói nhỏ với hắn:
– Có tiếng động gần lắm, khéo biệt kích hay cọp thì khốn.
Quyết úp tai xuống đất lắng nghe. Tôi luống cuống tụt xuống đất rơi bịch một cái. Tuy đau điếng, nhưng không dám kêu to.
Đoạn tôi nghe từ xa vọng lại tiếng rên rỉ. Quyết quát lớn:
– Ai? Đứng lại! Tiến lên sẽ nổ súng.
Sau tiếng hô của Quyết, tiếng rên lại càng lớn hơn. Đoạn có tiếng nói lào phào ngất quãng vang lại : – Tôi bị thương nặng ... cứu..tôi… với!
Quyết đáp lại:
– Ở đơn vị nào mà bị thương?
Có tiếng lắp lại run và lớn hơn:
– Họ cáng tôi chạy qua đây! Có máy bay! Họ vứt tôi... rồi bỏ... chạy!
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thế là đoàn chúng tôi có thêm một người. Thật là nan giải, có 2 người mà giải quyết ăn uống thuốc men còn bí huống chi bây giờ lại thêm một mạng nữa.
Tất cả nhờ vào Quyết.
Đồng chí mới đến bị cụt tay trái. Ngoài ra, còn có 1 viên đạn lọt vô phổi. Máu me be bét đầy người. Để cứu chữa cấp thời, Quyết đem nước sôi rửa vết thương và xé quần băng bó tạm.
Sau ba ngày chịu đựng đủ thứ khốn nạn ở trên đời giữa rừng hoang, sang sáng ngày thứ tư mới có người ở đơn vị quay lại tìm. Khi họ gặp chúng tôi, anh thương binh cụt tay mới bò đến tôi hôm nọ đã qua đời.
Riêng tôi đang ngấp ngoải vì các vết thương, dòi bọ đang đục khoét bò lúc nhúc...
Tôi cũng không nhớ họ khiêng tôi đi bao nhiêu ngày mới đến bệnh viện. Chỉ biết khi mở mắt ra, đã thấy tay áo trắng đang sờ mó nơi mắt tôi.
Trước khi giải phẫu, Trung úy Bác sĩ Bùi Lâm ghé sát tai tôi hỏi nhỏ:
– Đồng chí có đồng ý cho chúng tôi múc con mắt thối ra không?
Tôi lo sợ mặc dù đã biết là phải như vậy, song vẫn cứ phân vân vì bị mất một con mắt. Chuẩn úy Ngọc Minh đẹp trai như thế này mà lại bị chột ư? Tôi thở dài trả lời:
— Chẳng lẽ tôi hy sinh một mắt à?
Ông Bác sĩ mặt lạnh như tiền buông một câu:
— Điều đó là cái chắc!
Tôi bực dọc trả lời:
– Nếu như vậy, đồng chí còn cần múc mắt tôi ra làm gì?
Bác sĩ lại điềm nhiên trả lời:
— Không múc ra để cho nó thối à?
Vừa dứt câu, ông ta ra lệnh cho y tá khiêng tôi quăng vào phòng mổ. Tôi được đặt trên chiếc giường tre ọp ẹp. Hoảng sợ, muốn chống cự, nhưng phần vì kiệt sức, phần vì 4 y tá đã dùng dây trói chặt tôi vào các chân giường.
Bởi vậy, tôi hét lớn:
– Các đồng chí không được múc mắt tôi.
Tất cả mọi người có mặt như không nghe thấy tiếng la hét của tôi. Một người dùng miếng vải bố trùm lên mắt tôi, Miếng Miếng vải có lỗ hổng vừa vặn bằng chỗ mắt tôi bị múc.
Thường thường, tôi nghe nói khi mổ, người ta dùng thuốc tê hoặc thuốc mê để giảm sự đau đớn. Hôm ấy, tôi cũng hy vọng như vậy.
Nhưng thật bất ngờ, khi tôi đang chờ đợi thuốc mê thì bỗng đầu tôi bị đè cứng, một vật gì nhòn nhọn ấn vào mắt tôi nghe sụt một cái. Tôi đau điếng và đầu như muốn nổ tung ra. Tôi hự lên một cái rồi quằn quại và nằm bất tỉnh trên giường tre...
..... Khi tôi tỉnh dậy, thấy chỗ nào cũng có băng dầy cộm Tôi nghe loáng thoảng mấy thương binh nằm cạnh bên bàn tán:
— Ông này là chuẩn úy đặc công đấy. Có lẽ biết đặc công là gan lỳ, nên bác sĩ nhân dịp không có thuốc mê đã mổ tất cả các vết thương của ông ta bằng phương pháp “tiết kiệm” đấy!
Khoảng 20 phút sau, tôi thấy tiếng con gái Nam nhỏ nhẹ bên tai:
– Đồng chí Minh ơi! Tỉnh dậy ăn cháo đi! Tôi cố gắng lắm mới cọ được vành mi con mắt trái còn lại. Tôi thấy mình nằm trên gường tre, nhưng 2 bên có thêm nhiều thương binh khác nữa.
Bên cạnh giường có một chén cháo trắng và ít muối. Tôi vẫn còn đau dữ dội và thấy khát nước. Tôi nghiêng mình hớp chén cháo lỏng một hơi hết sạch. Bỗng lại có tiếng thương binh bên cạnh nói xì xào.
– Đồng chí này nặng, nên được ưu tiên cháo «nguyên chất» chứ bọn mình thì sức mấy. Phải ăn cháo nấu với củ chuối dài dài!
ᄆ
Đêm về khuya, tiếng gió reo hòa cùng tiếng thú dữ gầm thét trong rừng hoang nghe thật não nề, man rợ, Lúc này, tôi mới thấy nhớ nhà, nhớ quê hương. Những con đường xinh xinh dẫn về thôn xóm. Mái trường thân yêu tôi đã gặp và thương vụng nhớ thầm nàng Cẩm Anh. Những đêm trăng thanh, gió mát, tôi ngập ngừng nắm gọn tay Cẩm Anh trong lòng bàn tay nóng bằng yêu đương của tôi. Buổi tôi lên đường vào Nam “chống Mỹ”, nàng khóc và dặn dò tôi:
– Anh đi cố lập thành tích. Em hy vọng chờ anh trở về trên ngực toàn màu đỏ của huân chương “chiến thắng".
Hết những hình ảnh về quê hương miền Bắc xa xôi ấy, lại đến lượt những lần mịt mù lửa đạn nơi chiến trận, Bao đồng đội tôi đã vĩnh viên nằm xuống không mồ không mả, bao thương binh đã oan uổng qua đời vì thiếu thuốc men, chữa chạy.
Những chiến sĩ mất đầu, cụt chân. Người cán bộ của đảng lỗ mãng và hung hăng … 1 Đoàn tải thương 60 người và 30 thương binh ngã gục trên đồi cỏ gianh. Đoàn trực thăng đang rà sát xuống ngọn cây nhả đạn. Tiếng trực thăng trinh sát L19 kinh khiếp …
Ôi! Thật khủng khiếp! Tất cả sự hy sinh ấy của chúng tôi mang lại gì cho Tổ quốc VN đau thương này? Chợt tôi bằng nghĩ tới giờ này Cẩm Anh cùng những thân nhân khác của đồng đội tôi ở ngoài Bắc chắc đang nuôi hy vọng ngày chiến thắng. Tôi chua xót và nước mắt bỗng tuôn trào. Tôi chẳng còn gì để tin vào những lời Đảng nói.
Bởi vì, tôi đã quyết định sau khi ra viện, tôi sẽ đi tìm một con đường chiến thắng khác, con đường chiến thắng của toàn thể nhân dân miền Nam.
3-1972
$pageOut$pageIn
Phân đoạn 3
#Tien Tuyen Jul. 12, 1972 trang nhất
Josep Alsop: lính CSBV quăng súng bỏ chạy như lũ thỏ chết nhát
#Tien Tuyen Jul. 12, 1972 trang nhất
Ký giả Josep Alsop nhận định:
Các nhà lãnh đạo Hanoi hoang mang và thất vọng
★ Lính CSBV quăng súng và bỏ chạy như lũ thỏ chết nhát
Bình luận gia Josep Alsop tiên đoán là «TT Nixon còn có 1 cơ hội là ông sẽ chấm dứt được chiến cuộc với những điều kiện hợp lý trước ngày tuyển cử».
Bình luận gia này viết tiếp:
«Lẽ tất nhiên, người ta phải bắt đầu bằng câu hỏi là cuộc đánh cá này ra sao. Chẳng hạn như, nó sẽ trở thành ngớ ngẩn nếu đánh cá là bí thư Lê Duẩn và những người lãnh đạo cứng răn khác tại Hanoi sẽ chịu thay đổi ý nghĩ của họ. Trong lúc này, những người đó phải một mực chứng tỏ mạnh là họ quyết tâm bám víu lấy niềm hy vọng Thượng nghị sĩ Mc Govern sẽ thắng cử và sẽ tới «mặc cả» tại Hanoi như lời ông ta đã công khai hứa hẹn.
«Thay vì thế, hiện nay còn có cuộc đánh cá là sự thất vọng về cuộc tấn công lớn này sẽ tạo nên một sự thay đổi quan trọng về thế quân bình giữa 2 phe lãnh đạo ở Hanoi. Nếu điều đó xảy ra thì những kẻ thua cuộc chính là Lê Duẩn và những người khác thuộc phe cứng răn. Và kết quả nếu những người này mất địa vị nắm giữ chính sách thì TT Nixon có thể dễ dàng đạt được mục tiêu ông mưu tìm từ lâu …, vì ba lý do hoàn toàn khác nhau.
«Trước hết là thành công sáng chói của TT trong việc chia cách Hanoi với Bắc Kinh và Mạc tư Khoa bằng mọi đường lối. Mạc tư Khoa và Bắc Kinh không cần «làm áp lực» với Hanoi như Johnson trước đây thường hy vọng. Cuộc phong tỏa [ Vịnh Bắc Việt ] và oanh tạc của Hoa Kỳ đang làm áp lực mạnh hơn bất cứ người "anh em vĩ đại" nào của Bắc Việt. Nhưng Bắc Kinh lẫn Mạc tư Khoa đều cảnh giác Hanoi rằng TT Nixon có thể tái đắc cử và sự thương lượng với ông sẽ còn khó khăn hơn nữa khi cuộc tuyển cử kết thúc.
«Hay là thương lượng bây giờ đi trong khi xác đồng chí còn có thể thương lượng, đó là lời khuyên mà họ đã đưa ra. Lời khuyên này tự nó cũng đủ làm cho Hanoi hoang mang rồi. Hanoi lại càng thêm hoang mang khi đã chứng kiến các đơn vị Bắc Việt trước đây hăng say nhưng nay đang quăng súng bỏ chạy như bầy thỏ chết nhát khi gặp sức tấn công của binh sĩ VNCH, điều đó đã xảy ra luôn luôn trên những nẻo đường hành quân tiến ra Quảng Trị. Một trong những đơn vị đang lâm vào tình trạng đó cũng là đại đơn vị trừ bị cuối cùng của Hanoi tức SĐ325».
Bình luận gia Alsop đã duyệt lại những cuộc tranh luận giữa các lãnh tụ ở Hanoi:
1) năm 1965 về việc xâm nhập thêm quân vào Nam;
2) năm 1968 những hy sinh to lớn phải chịu trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân;
và
3) năm 1971 về việc tăng cường quân sự mới.
Alsop kết luận: «trong những lần đó, lần nào Lê Duẩn và bọn theo đường lối cứng rắn cũng thắng khi tranh luận. Nhưng lần nào thì diễn tiến và kinh nghiệm sau đó đều chứng tỏ Lê Duẩn và bọn cứng rắn cũng sai lầm một cách thảm bại.
Tuy nhiên, nay thì cuộc tổng tấn công này đã khiến cho Bắc Việt bị oanh tạc trở lại, các hải cảng bị phong tỏa và đã đem lại một tai họa còn lớn hơn hồi Tết Mậu Thân.
Người ta đã có thể thấy tại sao bọn cứng rắn ngoài Bắc sẽ khó mà biện bạch gì được»
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul. 13, 1972 trang nhất
Xâm Lăng Trên 3 Tháng Mà Bộ Binh Và Chiến Xa Bắc Việt Vẫn Chưa Phối Hợp Nhịp Nhàng
«Vua diệt chiến xa địch» của Thiết Đoàn 18:
Xâm Lăng Trên 3 Tháng Mà
BỘ BINH VÀ CHIẾN XA BẮC VIỆT VẪN CHƯA PHỐI HỢP NHỊP NHÀNG
★ Đụng trận là Bộ binh CSBV bỏ chạy trốn để mặc cho Thiết Giáp chạy khơi khơi. ⚫ 6 ngày phép đặc biệt cho thành tích hạ 4 chiến xa T-54
⚀ Anh Nhân
QUẢNG TRỊ.– Theo nhiều sĩ quan và hạ sĩ quan am tường của Thiết đoàn 18 Kỵ binh và nhất là Trung sĩ Thạch Suon, người chiến sĩ xuất sắc của Thiết đoàn, đã tiết lộ «Cho đến nay sau hơn 3 tháng xâm nhập miền Nam, Thiết giáp và Bộ binh Bắc Việt vẫn chưa phối hợp nhịp nhàng như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong các cuộc hành quân bộ chiến. Nhờ vậy ma lực lượng bộ binh VNCH rất có kinh nghiệm đè bẹp đối phương trong nhiều trận giáp chiến với thiết giáp của địch.
Hạ 4 chiến xa đợi lấy sáu ngày phép
Trung sĩ Thạch Suon là xạ thủ của chiến xa M41 thuộc chi đoàn 1/15 biệt phái cho Thiết đoàn 18 hành quân phối hợp với TQLC hoạt động trong vùng duyên hải phía Đông Quảng Trị - Thừa Thiên.
Trung sĩ Thạch Suon, người xạ thủ duy nhất đã bắn hạ 4 chiến xa T-54 trong trận Xa chiến chiều ngày 3-7 tại vùng đồi cát quanh quận lỵ Triệu Phong.
Nhờ sự gan dạ và bình tĩnh phi thường, anh đã lật ngược được thế cờ với vòn vẹn có 2 chiến xa M41 mà phải đương đầu với 7 chiến xa và xe lội nước của giặc. Anh đã được tưởng thưởng 6 ngày phép đặc biệt giữa lúc chiến trường còn sôi sục.
Anh nói tiếp: «Nhờ địch thiếu khả năng và thiếu phối hợp yểm trợ lẫn nhau cho nên đã giúp cho các đơn vị VNCH thành công mau lẹ. Bằng chứng cho thấy rõ là có nhiều sự lúng túng của các đơn vị bộ binh tháp tùng chiến xa bên phía giặc. Mỗi khi chúng bị quân ta áp đảo bằng đại liên thì chúng co giò phóng chạy tìm chỗ ẩn núp bỏ mặc cho chiến xa chạy khơi khơi mà không có Bộ Binh đi dọc hai bên. Nhờ vậy, đã giúp cho các đơn vị VNCH thanh toán địch quân và bắt sống lai rai chiến xa giặc.»
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul. 14, 1972 trang nhất
1 Thượng Úy CSBV Bị Hạ Sát Sau Thảm Bại Mỹ Chánh
#Tien Tuyen Jul. 14, 1972 trang nhất
Nhật ký của 1 lính BV bắt được tại Quảng Trị cho biết:
1 THƯỢNG ÚY CSBV BỊ CẤP TRÊN BẮN HẠ SAU THẢM BẠI MỸ CHÁNH
vì chưa đầy 24 tiếng đồng hồ đã để mất 26 chiến xa
SAIGON (HT) 13-7. – Thông tín viên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) tối qua đã đề cập đến những thật bại của Cộng quân tại Quảng Trị, dựa vào một cuốn Nhật Ký của một cán binh Bắc Việt và một Báo Cáo mới nhất của quân CSBV về tình hình chiến trận tại chỗ.
Bộ Chỉ Huy Dù VNCH tại Quảng Trị vừa cho biết, cách đây 2 ngày, sau khi lục soát làng La Vang Thượng, quân Dù đã tìm thấy một cuốn Sổ Tay của 1 cán binh Cộng sản mà sau đây là 1 đoạn nói về sự thất bại của Cộng quân khi chúng gặp Tiểu đoàn 11 Dù, đoạn này đã gởi về Hanoi ngày 25-6-1972:
«Mến gởi tất cả các đồng chí thuộc Sư đoàn 243 và Thiết đoàn 31 quân kháng chiến chống Mỹ Ngụy.
«Từ ngày 1-4 tới nay, quân ta đã chiếm xong thành phố Quảng Trị, và hiện giờ quân ta đang chiếm cố đô Huế để hoàn thành sứ mạng của quân và dân kháng chiến ta. Đêm hôm 21 rạng 22, Thiết đoàn 31 đã vượt sông Mỹ Chánh để đánh phá Pháo đội 155 của Sư đoàn 3 và Pháo đội 105 của TQLC ngụy. Không ngờ khi qua tới sông Mỹ Chánh, ta đã đụng một đơn vị Nhảy Dù. Với sức kháng cự khá mạnh của quân Dù, cho nên ta đã để lại 1 chiến xa loại T.38 và hư hại 25 chiếc khác đủ loại do phi cơ và pháo binh cũng như là quân Dù ngụy phá hoại. Còn sót lại Thượng úy Nguyễn viết Thương chạy về được. Thượng úy cho biết không ngờ quân Dù ngụy đã tiến ra sâu như vậy. Nếu biết Dù ngụy đã có mặt ở đó, ta nên tránh thì hơn. Vì lệnh cấp trên cho hay là nếu đánh Dù ngụy thì phải biết rõ mục tiêu chắc chắn, đánh nhanh đánh lẹ. Còn nếu ta đi tìm Dù ngụy mà nó phác giác ta trước thì coi như là tiêu.
«Khi Thượng úy về trình diện Trung tá thì bị Trung tá bắn chết tại chỗ. Lý do: để mất 26 chiến xa hùng mạnh dẫn đầu mà không giết được tên Dù ngụy nào, đã vậy còn bị tụi nó tiêu diệt hết trong vòng không đầy 24 tiếng đồng hồ»
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul. 13, 1972 trang năm
Nạn Trai Thiếu Gái Thừa Tại Bắc Việt
Vương Duy Diễn kể
#Tien Tuyen Jul. 13, 1972 trang năm
Nạn Trai Thiếu Gái Thừa Tại Bắc Việt
Vương Duy Diễn kể
Đàn ông ở ngoài Bắc hiện còn rất ít. Thanh niên miền Bắc bị đưa vào Nam cũng giống như suối chảy một chiều. Đi thì có về thì không. Có người đi cả mấy chục năm mà gia đình vẫn không hay biết một chút tin tức nào cả.
Do đó, đồng bào miền Bắc mới có câu hát rằng:
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đàn ông chết hết đàn bà nằm không
Bao giờ giải phóng thành công
Đảng cho phép cưới một ông mười bà.
Một anh cán bộ có ba bốn cô tình nhân hoặc những ông già năm sáu chục tuổi mà vẫn còn đèo bồng thêm đôi ba vợ bé thì đó không phải là chuyện hiếm hoi gì.
Anh Nguyễn Việt Phương 28 tuổi, sinh quán tại Phố Mới, Lao Kay, Chuẩn Úy bộ đội Bắc Việt và là Đội phó đội Kinh Tài Việt Cộng ra hồi chánh với Trung Đoàn 30 Nghĩa quân VNCH ở Buôn Ea Knir, Quận Ban Mê Thuột hồi cuối tháng rồi, cho biết thêm rằng, tình trạng “cưới nhau xong là đi” hầu như trên đất Bắc nơi nào cũng có.
Các chị em thanh nữ cũng biết rằng “lấy chồng thời chiến chinh mấy người đi trở lại” nên ít có người giữ được lòng chung thủy.
Có chăng thì cũng một số ít, và chỉ được 5, 7 năm mà thôi. Nhưng lại gặp phải nạn trai thiếu gái thừa nên tình trạng chửa hoang đã trở thành một phong trào lan tràn khắp nơi.
Đời sống miền Bắc
Được hỏi về đời sống nhân dân miền Bắc ra sao, hồi chánh viên Nguyễn việt Phương cho biết: về vật chất, sự đói thiếu khổ cực không sao tả xiết được.
Anh đưa ra ví dụ, một nông dân, phải làm việc đầu tắt mặt tối mỗi ngày 14 tiếng đồng hồ mà cơm ăn không đủ no áo không đủ mặc, vẫn phải làm việc bằng hai bằng ba, vẫn phải “thắt lưng buộc bụng nín thở chống Mỹ cứu nước", hoặc là “ngày làm không đủ tranh thủ làm đêm”.
Dân chúng thì vừa phải lao động sản xuất vừa phải thi hành đủ thứ nghĩa vụ dân công cho nhà nước. Và lao động sản xuất thì lợi tức được tính theo công điểm. Ví dụ, một gia đình có hai vợ chồng là lao động chính và năm đứa con là năm lao động phụ, nên nếu con cái không làm việc được thì cho mẹ phải làm thế vào.
Nhưng lợi tức hằng năm nhiều lắm mỗi vụ mùa cũng chỉ được bốn tạ lúa mà thôi. Với bốn tạ lúa thì dù ăn tiêu dè xẻn cần kiệm, trộn thêm ngô khoai, cũng vẫn bị thiếu chứ đừng nói đến việc may sắm quần áo hay sửa chữa nhà cửa.
Vì vậy dân phải vay của hợp tác xã (nếu được nhân dân bình nghị) và phải trả hết số nợ đó vào vụ mùa năm sau. Do đó mỗi năm số tháng thiếu ăn lại càng tăng thêm, lại phải vay nợ thêm, lại phải nỗ lực sản xuất thêm để trả nợ. Những gia đình có nhiều lao động chính thì tương đối được no hơn. Nhưng bù lại họ phải lao động nhiều hơn.
Hầu hết thanh niên trai tráng từ 17 tuổi trở lên đều đã bị đưa vào Nam chiến đấu nên việc sản xuất và các nghĩa vụ khác đều đổ lên đầu ông già và đàn bà phụ nữ. Ai cũng nản lòng bất mãn.
Nhân dân thì như vậy còn cán bộ lại chẳng biết lao động là gì mà vẫn ăn sang mặc sướng tự do phè phởn. Vì vậy mới có những câu ca truyền miệng trong dân chúng như là:
Một người làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe
Một người làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà xây sân
Một người làm việc bằng năm
Để cho cán bộ ăn nằm đi chơi.
Đời sống vật chất đã vậy, đời tinh thần lại còn khổ hơn. Suốt năm làm việc không bao giờ được nghỉ ngơi, giải trí. Hết giờ lao động thì lại phải đi họp, hội nghị, học tập, kiểm thảo. Người ta làm mọi cách để kiểm soát tư tưởng của nhân dân. Đảng ngự trị trong đầu óc và len lỏi vào cả những ý nghĩ thầm kín nhất của mỗi người dân.
Các buổi thuyết pháp truyền đạo đều bị theo dõi. Các Linh mục bị coi là phản động, phải bị đưa đi tẩy não nếu trong các bài giảng không lồng vào việc truyền bá tư tưởng của bác của đảng. Giáo hữu thì bị cản trở gián tiếp bằng nhiều cách để không thể đến nhà thờ được.
Tình cảm cá nhân cuả vợ chồng, cha con, bè bạn cũng đều bị bóp chết. Tổ chức tình báo nhân dân của đảng đã gieo rắc nghi ngờ đố kỵ trong mọi gia đình, không ai còn biết tin tưởng vào ai nữa.
Trên đường vào Nam
Thuật lại cuộc viễn chinh vào Nam, hồi chánh viên Nguyễn việt Phương cho biết sau khi tốt nghiệp khóa bồi dưỡng bổ túc Hạ Sĩ quan ở Kỳ Sơn Hòa Bình, là một thanh niên thuộc thành phần cốt cán, thành tích học tập tốt, anh được thăng cấp Chuẩn úy và đưa vào Nam kể từ ngày 15-2-1970.
Với vẻ mặt rất thành khẩn anh cho biết tiếp rằng trước khi vào Nam thì cứ tưởng vào đó để giải phóng đồng bào ruột thịt đang bị «Mỹ ngụy kèm kẹp và khổ sở mọi bề», Anh lại còn được cán bộ cho biết rằng trong Nam, ta đã giải phóng 3/4 đất đai và 2/3 dân số.
Vậy rồi đoàn trai mang hào khí nhiệt huyết, chẳng quản gian lao 4 tháng hành quân khổ cực, dù chỉ được cấp 5 lạng gạo mỗi ngày, họ hăng hái trèo đèo vượt suối băng rừng.
Nhiều người không đủ sức chịu đựng, bị đau ốm chết dọc đường, có kẻ rơi từ trên đèo cao xuống vực thẳm, không mất tích thì cũng gãy tay gãy chân. Nhuệ khí lúc ban đầu bay giờ đã tan biến.
Khi vào đến miền Nam (mặt trận B 3 Kontum) cũng vẫn thấy núi rừng trùng điệp, không có lấy bóng dáng một người dân nào. Vậy mà mấy đồng chí làm văn nghệ kháng chiến trong Nam dám viết nào là nhân dân tấp nập đón mừng, nào là những cô gái mong sao đem quà nước mời anh.
Đến mặt trận B3 chưa kịp nghỉ ngơi, tiểu đoàn anh lại được lệnh chuẩn bị tăng cường cho mặt trận B2, anh em ai cũng bất mãn phản đối. Thủ trưởng Trung đoàn phải đến giải thích, trấn an và đe dọa. Nhưng rồi ngay trong đêm tạm dừng chân đó, Tiểu đoàn anh bị B 52 cho ăn bom tơi bời. Trên 100 người chết, số bị thương cũng xấp xỉ chừng đó, trong đó có cả anh.
Mặc dù đã được đưa đến điều trị tại bệnh viện 84 (giữa biên giới Miên Lào) hơn ba tháng trời nhưng anh vẫn bị hư mất một cái tai. Điều trị xong, tưởng rằng là thương binh thì anh sẽ được trở về quê, không ngờ anh lại bị đưa vào bổ xung cho cơ sở tiếp liệu T73 ở mặt trận B3. Anh được giao nhiệm vụ tiếp nhận thực phẩm từ miền Bắc vào và thu mua lương thực tại địa phương để phân phối cho các đơn vị.
Vì ăn uống quá khổ cực, thiếu bổ dưỡng, nhất là anh vừa bị thương chưa bình phục hẳn nên không thể thỏa mãn nhu cầu công tác cho bộ đội như đã được giao phó. Đến tháng 7-1971 anh được đưa đến làm Đội phó Kinh tài H.6 thuộc tỉnh ủy Darlac.
Cảm động vì được đón tiếp niềm nở
Bất mãn vì bị khai thác một cách dã man như vậy cho nên anh nảy sinh ý định ra hồi chánh. Thêm vào đó là các cuộc tiếp xúc với dân chúng địa phương, và qua các truyền đơn hồi chánh, anh có dịp so sánh đời sống con người dưới hai chế độ Tự do và Cộng sản như thế nào rồi.
Nước da đen chì và sạm nắng, đầu tóc hớt cao, Nguyễn việt Phương có cái vẻ đặc biệt Cộng sản còn hơn bất cứ cán bộ Cộng sản nào. Vậy mà anh đã rơm rớm nước mắt khi nhắc lại cảnh anh được vồn vã đón tiếp mà anh em Nghĩa Quân Quốc Gia đã dành cho anh khi anh ra hồi chánh.
Trong câu chuyện tâm tình, hồi chánh viên Nguyễn việt Phương nói rằng mặc dù anh đã có dịp đọc qua một số truyền đơn Chiêu Hồi có lời kêu gọi của các Thượng tá Tám Hà, Huỳnh Cự, Lê Xuân Chuyên v.v… nhưng anh vẫn chưa hết nghi ngờ và phập phồng lo sợ, nghi ngờ vì sợ bị lừa phỉnh, sợ bị tra tấn tù đày, phập phồng vì không biết đi có thoát được không.
Chính vì mang tâm trạng đó cho nên anh đã vô cùng sung sướng và cảm động khi gặp được một đơn vị Nghĩa Quân và được đón tiếp một cách rất niềm nở.
Trần việt Phương kể lại rằng, tối hôm 18-6 lợi dụng người bên cạnh sơ hở, anh giả vờ bảo là mang súng đi săn, cứ thế anh đi suốt đêm theo đường đã định trước.
Sáng hôm sau anh mới tìm được đến đường lộ. Mặc dù vô cùng mệt mỏi nhưng anh vẫn cố lê gót. Trong thâm tâm anh chỉ mong gặp được xe hơi hay một đơn vị nào của Quân lực VNCH.
Nhưng đi mãi đến chiều mệt lả, vì đói anh phải tìm vào làng để dọ hỏi tin tức và kiếm ăn. Đến lúc gặp một chiến sĩ Nghĩa Quân, anh mới biết đây là vùng Quốc Gia an toàn và anh nói rõ anh là Việt Cộng xin ra hồi chánh.
Lập tức anh lính Nghĩa Quân này ôm chặt lấy anh và la lớn: Việt Cộng. Việt Cộng, có Việt Cộng ra hồi chánh. Anh ấy làm như bắt được bửu bối và sợ người ta lấy mất. Vậy là đồng bào mình ùn ùn kéo tới, trong số đó có cả toán Nghĩa Quân phòng thủ Ấp.
Kẻ hỏi thăm chuyện này, người hỏi thăm chuyện nọ. Trong khi đó, người này mang cơm, người kia mang quần áo đến cho anh tắm rửa và ăn uống trong khi chờ đợi phái đoàn Quận đem xe đến đón anh về.
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul 14, 1972 trang hai
VÕ NGUYÊN GIÁP ĐÃ GIẢI BÀI TOÁN SAI ĐÁP SỐ
#Tien Tuyen Jul 14, 1972 trang hai
Ký giả Rickurt của tờ «Washington Post»
VÕ NGUYÊN GIÁP ĐÃ GIẢI BÀI TOÁN SAI ĐÁP SỐ
Sau đây là bài đầu tiên trong loạt 3 bài viết về cuộc tấn công của Bắc Việt vào miền Nam VN đã được báo Washington Post đăng tải hôm 8-7. Ông Rickurt là một trong những Ký giả có tiếng trong ban biên tập của tờ Washington Post về vấn đề VN. Trong bài này ông Rickurt bắt đầu phân tích chi tiết về chính cuộc tấn công. Trong những bài sau ông sẽ thảo luận về những sự thăng trầm của chiến cuộc và tác phong của Sĩ quan và binh sĩ VNCH.
"Sự lầm lẫn của BV trong cuộc tấn công cũng gần giống như những lầm lẫn của họ hồi Tết Mậu Thân”. Ông John Paul Vann nói với các Ký giả tại Pleiku ngày trước khi ông bị thiệt mạng hồi tháng trước.
Những bạn đồng nghiệp của ông bất đồng ý với ông. Thực vậy, sau khi những sự việc đã xảy ra với các Cố Vấn Hoa Kỳ ngoài mặt trận thì các bình luận gia tại Saigon đã đồng ý rằng, về tình hình quân sự, Hànội đã trở thành địch thủ đáng sợ nhất của chính mình khi họ mở cuộc tấn công quy mô vào ngày 30-3-72. Các lãnh đạo cao cấp và cộng tác tham mưu của họ đã tỏ ra không thích nghi với võ khí mới do Nga Sô cung cấp và (không đánh giá thích đáng) khả năng chiến đấu mạnh của binh lính chính quy trong quân đội của họ.
Do đó dù sao hơn nữa trong lúc này các nhà lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ như Bộ trưởng Quốc phòng M. Laird đã có thể tuyên bố “Chúng tôi đã nói với quý vị như vậy rồi".
Ngay sau cuộc tấn công vào Lễ Phục sinh, cả ông Laird lẫn Tướng Abrams đều tiên đoán rằng sẽ có những thành tích gây tiếng vang của Hànội như việc chiếm thị xã Quảng Trị chẳng hạn, nhưng cuộc tấn công chung sẽ thất bại, cùng với những tổn thất nặng nề hiện nay cuộc tấn công của Hà nội dường như đã suy giảm vì cao điểm của họ không đạt được. Các giới chức Hoa Kỳ và Việt Nam có thể đi vào việc thẩm định phản ứng của đồng minh trước cuộc tấn công đẫm máu của chiến cuộc Đông Dương kể từ khi Hoa Kỳ tham chiến một cách mạnh mẽ vào năm 1965.
Bắc Việt đã đổ máu vô ích.
Theo sự ước lượng của Hoa Kỳ thì khoảng 50 ngàn binh lính Bắc Việt trong số 150 ngàn binh lính tham chiến đã bị hạ hay bị thương quá nặng không thể trở lại chiến trường. Đây là cuộc đổ máu vô ích. Tướng Abram đã tiên đoán thế khi cuộc tấn công mở màn. Tuy rằng Hà Nội bị thiệt hại nặng, đây không phải là cuộc đổ máu một chiều. Các lực lượng VNCH cũng bị thiệt hại đáng kể.
Có thể Bắc Việt phải mất 1 năm mới phục hồi hoàn toàn được số tổn thất của họ. Một Bình luận gia cao cấp của Hoa Kỳ đã nói thế khi khẳng định cuộc tấn công của Hanoi. Một Bình luận gia khác viết rằng, ít nhất trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, Hànội đã đánh đổi được việc ngưng oanh tạc trên lãnh thổ của họ. Còn lần này, tướng Võ Nguyên Giáp đã tung vào chiến trận 11 trong cả thảy 15 Sư đoàn Bắc Việt, và đã thu hoạch được ít hơn, ít nhất là cho tới nay.
Một số trọng pháo địch xử dụng là của VNCH
Nhưng điều gì đã làm cho lệch lạc như vậy? Điểm đầu tiên để trả lời câu hỏi này là danh sách những tiêu sản và tích sản lớn lao của Hànội trước khi họ mở cuộc tấn công qua vùng phi quân sự vào ngày 30-3. Trước khi có cuộc tấn công ngày 30-3, Bắc Việt đã dành lại được vài vùng căn cứ tại biên giới Kampuchea bị Đồng minh chiếm giữ năm 1970. Do đó, họ có được địa điểm xuất phát để tấn công. Nhưng họ không tái chiếm được thành phố Sihanoukville, hải cảng của Kampuchea, mà phần lớn các chiến cụ của họ đã được tích trữ sẵn tại đây vào các năm 1966 đến 1969.
Do đó, cho dù các lực lượng Bắc Việt tại đây hay tại gần phần đất phía Nam của VNCH thì đều phải trông cậy vào việc tiếp tế bằng xe vận tải qua đường mòn Hồ chí minh dài 600 dặm Anh chạy từ Bắc Việt qua Lào. Điều này khiến cho tiếp vận của Hànội trở nên phức tạp chẳng hạn như việc tiếp tế đạn được cho pháo binh của họ. Tại khu vực phía Nam Huế, quân đội Bắc Việt hoàn toàn không có xử dụng đại bác 130 ly mới được Nga Sô cung cấp. Các hỏa tiễn, bích kích pháo và các đại bác 105 và 155 bắt được của VNCH đã cung cấp hỏa lực này cho Bắc Việt tại An Lộc ở phía Bắc Saigon.
Võ nguyên Giáp đã giải bài toán sai đáp số
Hơn thế nữa, trái với năm 1968, hiện nay Bắc Việt đang tấn công uể oải từ một số lực lượng đồn trú tại các mật khu trước kia của VC tại miền Trung và vùng Châu Thổ. Không ai biết là tướng Giáp tin tưởng tới mức nào vào một cơ cấu quân sự thuần phát của VC hiện còn tồn tại tại miền Nam mà có thể khích động một cuộc nổi dậy của dân chúng? Nhưng nếu tướng Giáp mà tin vào điều này thì ông ta đã lầm to. Hiển nhiên, cuộc tấn công Tết Mậu Thân và chương trình Bình Định đã làm hao mòn VC rất nhiều với những tổn thất lớn lao về quân sự cũng như dân sự.
Khi cuộc tấn công ngày 30-3 xảy ra đã có những cuộc quấy rối. Các thành phố bị pháo kích bằng bích kích pháo, một vài cây cầu bị phá sập, nhiều đồn bị thất thủ. Nhưng không có đốt, phá hoại hay phục kích nào kéo dài xảy ra ảnh hưởng tới các cánh quân Đồng minh. Các đoàn quân xa của VNCH có thể di chuyển một cách tự do tới các trục lộ chính tại nhiều nơi. Tại Huế, Kontum hay chung quanh Saigon, các cuộc tấn công du kích như hồi 1968 lại tái phát, được kèm theo bởi các cuộc tấn công cuả quân chính quy Bắc Việt từ phía ngoài có thể có tính cách quyết định. Nhưng cuộc tái phát các cuộc tấn công du kích thì chưa xảy ra. Trong bất cứ trường hợp nào, Bắc Việt đã tỏ ra có nhiều tham vọng hơn sự thẩm định của họ.
Có thể họ đã đánh giá quá thấp khả năng phản ứng của Nam Việt Nam vì họ đã dựa vào sự thẩm định này qua sự lúng túng của Bộ Tư lệnh VNCH tại Ai Lao và Kampuchea hồi năm 1971.
Hoa Kỳ đã rút khỏi cuộc chiến trên bộ. 2 Sư đoàn Đại Hàn đã không có mặt tại các vùng biên giới, đã giữ 1 vai trò bất động tại bờ biển miền Trung. 11 Sư đoàn bộ binh VNCH khác như thường lệ được bố trí trên khắp nước trong các vai trò bảo vệ lãnh thổ. Chỉ có 2 Sư đoàn Tổng Trừ bị TQLC và Nhảy Dù đã được xử dụng linh hoạt, và vào ngày 30-3, hai phần ba các lực lượng ưu tú này đã được tung ra khỏi Saigon để bảo vệ vùng giới tuyến.
Thực lực của địch trên chiến trường miền Nam
Kế hoạch của Bắc Việt dường như chỉ nhằm mở các cuộc tấn công mạnh mẽ tại các điểm cách nhau khá xa mà quân đội VNCH không thể bảo vệ khắp mọi nơi. Hànội đang xử dụng một lực lượng mạnh. Một lực tương đương với 4 sư đoàn 304, 308, 324B cộng thêm các Trung đoàn biệt lập từ vùng phi quân sự tiến về Nam vào Quảng Trị và tiến về Đông vào thị xã Huế từ các thung lũng An Hữu ở Lào. Các đơn vị lúc đầu đã được yểm trợ bởi 10.000 đạn trọng pháo và hỏa tiễn, một hàng rào hỏa lực mạnh nhất của Hanôi trong cuộc chiến tranh và các chiến xa chạy trước mở đường một lực lựng tương đương với 3 Sư đoàn tiến đánh các Căn cứ Hỏa lực của VNCH ở gần Dakto, Tân Cảnh và sau đó là Kontum. Chiến xa, hỏa tiễn và bích kích pháo đã được đem ra xử dụng.
3 sư đoàn 5,7 và 9 cũng như chiến xa, hỏa tiễn và bích kích pháo dồn tập trung vào Lộc Ninh và vào thị xã nhỏ bé An Lộc 100 cây số về phía Bắc Saigon.
Trong các cuộc tấn công dương Đông kích Tây khác ít quan trọng hơn tại các nơi khác, Sư đoàn 711 gồm có 3 Trung đoàn chiếm quận Đệ Đức [ * ], đe dọa bờ biển và cầm chân một phần của SĐ 2 VNCH tại tỉnh Quảng Tín.
Sư đoàn 3 địa phương chiếm phía Bắc tỉnh Bình Định. Sư đoàn 1 thiếu quân số của họ tiến vào vùng Châu Thổ Cửu Long từ phía Đông Nam Kampuchea làm hậu thuẫn cho VC tấn công Hà Tiên. Các lực lượng ít quan trọng hơn đã tấn công tỉnh Hậu Nghĩa phía Đông Nam Saigon.
[ * ] tham khảo báo #Tien Tuyen Jul. 25, 1972 trang ba, bài Sau chiến thắng Hoài Nhơn, trên đường tiến chiếm Tam Quan, Hoài Ân, Quân Ta Đã Tái Chiếm Căn Cứ Đệ Đức, tiếp nhận 116 lính Cộng sản hồi chánh tập thể: Đệ Đức không phải là Quận. Đệ Đức là một Căn Cứ của QLVNCH có vai trò chiến lược quan trọng bảo vệ 2 Quận Hoài Nhơn và Tam Quan thuộc tỉnh Bình Định, miền duyên hải Trung phần Việt Nam. Đệ Đức cũng là bản doanh của Bộ Chỉ huy một Trung đoàn Bộ Binh VNCH nằm sát Quốc lộ 1 về phía Bồng Sơn.
Địch thua về vận chuyển, ông Thiệu táo bạo!
Nhưng cũng có những khuyết điểm. Trước hết, sau khi xử dụng các lực lượng của họ tại những vùng riêng biệt, Hànội đã không thể chuyển các lực lượng này tới các vùng khác một cách mau lẹ để củng cố chiến thắng. Hànội có chiến xa, máy phát thanh, trọng pháo xe vận tải, hỏa tiễn tầm nhiệt, súng phòng không. Nhưng họ không có phương tiện chuyển đi bằng hàng không.
TT. Nguyễn Văn Thiệu nhờ Không quân Hoa Kỳ có thể di chuyển binh sĩ và vũ khí bằng phi cơ vận tải C130 của Hoa Kỳ và bằng các phi cơ C123 nhỏ hơn của Không quân VNCH.
Hơn thế nữa, TT Thiệu lần đầu tiên trong chiến cuộc đã phản ứng một cách mạnh bạo. Ông đã chuyển một Sư đoàn gồm các tân binh động viên từ vùng Châu Thổ tới phía Nam An Lộc. Các đơn vị tân binh động viên khác cũng được chuyển tới các nơi khác. Công cuộc phòng thủ địa phương lưu động, ngay cả trong việc chống lại các đơn vị chính quy Bắc Việt được trao lại cho Đại đội hay Tiểu đoàn ĐPQ đảm trách. Thành tích đã đạt được trong công tác này hoàn toàn có thể biện minh cho hành động mạo hiểm của TT Thiệu. Thực vậy, nhiều Tiểu đoàn ĐPQ được trang bị vũ khí nhẹ tại Quảng Trị đã đảm trách một phần phòng tuyến chính chống lại các chiến xa Bắc Việt cho tới khi áp lực trở nên quá nặng nề (HT).
~~~~~~~~~~~~~~
#Tien Tuyen Jul. 15, 1972 trang nhất
Cộng sản thú nhận gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp tế
NHIỀU CÁN BINH CSBV Xin Về Bắc vì không dám chiến đấu #Tien Tuyen Jul. 15, 1972 trang nhất
Cộng sản thú nhận gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp tế
NHIỀU CÁN BINH CSBV Xin Về Bắc vì không dám chiến đấu
★ Thương bệnh binh Cộng sản không có thuốc men, một số lại mang bệnh về … tư tưởng
✦ TIẾN CHÂU
SAIGON (TT) 14-7. – Trong một tài liệu của Cộng sản do QLVNCH tịch thu được, có một báo cáo của Phòng Hậu cần Phân khu 5 Cộng sản (thuộc khu vực Bình Dương và Biên Hòa), Chủ nhiệm hậu cần Cộng sản báo cáo lên cấp chỉ huy trực tiếp của chúng như sau:
«— Chúng tôi hiện nay gặp một khó khăn mà giải quyết chưa được tốt, có ảnh hưởng đến chính sách chung về vấn đề thương bệnh binh. Hiện nay Trung đoàn Đồng Nai có một số lớn bệnh binh mất sức và có một số bệnh về tư tưởng.Báo cáo viết tiếp:
— Khó khăn thứ hai là qua hai đợt tấn công nổi dậy, địa bàn cửa khẩu bị địch ngăn chận, do đó việc mua lương thực từ bên ngoài bị thất thường, có lúc coi như không có lương thực.
— Về tài chánh, không thu đặng mà do chi tiêu nhiều nên có lúc có gạo thì không có tiền, lúc có tiền thì hông có gạo, nhưng về tiền thì luôn luôn bị thiếu, không có tiền để cấp tiền ăn»
«Ba khó khăn trên xin báo cáo đến các anh giúp đỡ một phần nào để chúng tôi giải quyết cho anh em đặng tốt.
Hiện nay toàn Phân khu có từ 280 đến 300 đồng chí đau yếu không chiến đấu đặng mà cũng không đi tải đặng, cộng với một số không dám không dám chiến đấu, xin về miền Bắc gồm 50 đến 80 đồng chí, tổng số như vậy trên dưới 400.»
Tài liệu nêu trên của Cộng sản cho thấy chúng gặp khó khăn trong việc tiếp tế cho đoàn quân viễn chinh của chúng xâm lăng miền Nam và cả bọn bộ đội tại chỗ (địa phương) của chúng nữa.
Hiện nay, sau báo cáo thất bại về quân sự trên chiến trường miền Nam nhất là khi hậu phương miền Bắc đang bị nguy khốn vì các cuộc oanh tạc nhằm cắt đứt các đường giao thông vận chuyển tiếp tế lương thực từ Bắc vào Nam, thì những khó khăn càng thêm chồng chất khiến cán binh CSBV mất hết tinh thần chiến đầu và đòi về Bắc như báo cáo trên đây của Phòng Hậu cần Phân khu 5 Cộng sản đã tiết lộ.
~~~~~~~~~~~~~~
$pageOut$pageIn
Phân đoạn 4
#Tien Tuyen Jul. 15, 1972 trang ba
Nỗi đau thương của đoàn quân CSBV #Tien Tuyen Jul. 15, 1972 trang ba
Sổ tay của một cán binh CSBV tiết lộ
Nỗi đau thương của các đoàn quân CSBV xâm nhập miền Nam
★ Biên tập viên Hoài Sơn của tuần báo «Văn nghệ» ở Hanoi ra hàng cho biết về nạn buôn lậu vặt và cao bồi du đãng ở Hanoi
SAIGON (TT) – Khai thác cuốn Sổ Tay của một cán binh CSBV thuộc đoàn 2002 (tức TĐ 34/BTL Đặc công CSBV), nội dung có nhiều đoạn nói lên tình trạng bịnh tật, bị thương và gian khổ của cán binh CSBV trên đường xâm nhập miền Nam, như sau:
Sau 1 tháng hành quân xâm nhập miền Nam, đoàn 2002 (tức TĐ 34 Đặc công CSBV) đến được Trạm 43 vào ngày 9-12-1971.
Cán binh này tiết lộ:
«trên đường vô Nam, gặp rất nhiều Đoàn xâm nhập khác, hết đoàn này đến đoàn khác tiếp theo nhau nhộn nhịp như trẩy hội.
«Nhưng mỗi ngày cũng gặp cảnh tải thương chuyển về Bắc trung bình từ 1 đến 3 chuyến mỗi ngày. Gồm người cụt chân, kẻ cụt tay, đôi khi mất cả 2 tay hay 2 chân phải khiêng đi. Đám người này da dẻ xanh xao, mặt trắng, răng vàng môi thâm, bước đi ủ rũ. Họ đã chiến thắng trở về, đã cống hiến cho tổ quốc xương máu của họ và hôm nay mình cũng đang lao vào con đường đó. Con đường tương lai nhất của thế hệ hiện nay. Nói như thế đúng chưa nhỉ? Đúng hoặc không đúng cũng không cần.
«— Từ ngày 29-12-1971, khi đến Trạm 71, cả Đoàn bị hết gạo phải ăn cháo. Cán binh than thở: Ăn đói quá, và đã gần 2 tháng không ăn được miếng thịt mỡ nào.
«Tại Trạm 86, toàn Trung đội 1 “lâm vào tình trạng căng thẳng, 1 người ốm nặng phải khiêng 4 tên khác, bị mệt có khả năng sẽ phải khiêng nữa. Hiện nay đa số cán binh đều bị mệt, toàn Tiểu đoàn lại bị đói, phải đi ăn cắp sắn khoai của Trạm. Đã đến lúc nguy hiểm!”
— Trong những ngày cận Tết Nhâm Tý (1972), tình trạng đơn vị lại bi đát hơn: nhiều cán binh “bị sốt rét phải khiên nhau hoặc dìu nhau đi”. 1 giờ đêm 29 Chạp, đơn vị mới đến được Tram 13 mà chỉ còn phân nửa quân số, phân nửa thì một số nằm lại tại rừng, một số ngày 30 Chạp vẫn còn đi rải rác uể oải dọc đường. Đó là những ngày chuẩn bị đón Xuân.
— Chính ngày mồng 1 Tết Nhâm Tý, Ban chỉ huy Đoàn 2002 bắt bọn còn khỏe mạnh phải đi cùng những tên còn lại ở Trạm sau cách khoảng 14 cây số.»
Tài liệu viết tiếp:
«Mỗi ngày Đoàn phải gởi lại tới 20 tên, rồi đây sẽ ra sao?!»
TRÍCH NHẬT KÝ CỦA 1 CÁN BINH/SĨ QUAN CSBV TỬ TRẬN TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VÙNG TAM BIÊN
Hànội đặt tên Sư đoàn «Thép»
Nhưng cán binh Cộng sản cũng chỉ là người
◙ Bài của MAI HOÀNG
Cán binh Cộng sản ra hàng với quân đội Quốc Gia tại Cam Lộ, Quảng Trị vào ngày 4-4-1972, là Lê Khánh, bút hiệu Hoài Sơn tuần báo Văn Nghệ của Hànội. Theo cung từ của Lê Khánh tiết lộ:
Sau khi Hoa Kỳ ngưng oanh tạc miền Bắc (từ đầu năm 1969), dân chúng Hànội đã dần dần hồi cư, mặc dầu chưa có lệnh của nhà nước CSBV. Trong thời gian này, dân đi “sơ tán” trở về chưa tìm được việc làm vì các hợp tác xã thủ công chưa hoạt động đều đặn trở lại (như đan len, dệt chiếu, thảm cót …). Do đó, đã xảy ra tình trạng buôn lậu vặt các thứ hàng Trung cộng từ biên giới với Bắc Việt đưa về như dao cạo, dao con, đồ cắt móng tay v.v… đầy các hè phố Hànội. Dân chúng thường để hàng trên các cái mẹt ngồi lề đường hoặc bỏ trong người đi dạo dọc phố xem có ai cần thì đưa ra mời mua. Nếu gặp phải công an thì bỏ chạy.
Trường hợp bị bắt nhiều lần thì hàng mới bị tịch thu. Người bán tập trung nhiều nhất ở khu chợ Đồng Xuân ra đến bờ Hồ, ga Hàng Cỏ và các đường phố đông đúc. Những người buôn lậu vặt này đều là phụ nữ tuổi từ 30 đến 50 tuổi.
Ngoài ra, do tình trang “sơ tán” dân chúng khi Bắc Việt bị oanh tạc, nên một số thanh thiếu niên không bị gia đình kiểm soát, và khi hồi cư về Hànội đã sinh ra chơi bời lêu lổng. Tình trạng này sẽ sinh ra nạn cao bồi lưu manh trộm cắp móc túi ở các bến xe bến tàu, gây rắc rối cho việc trị an trong thành phố Hànội.
Mặc khác, vấn đề lương thực và thực phẩm tại Hànội bị khan hiếm nên dân chúng kêu ca, đời sống căng thẳng và thêm khó khăn.
Trước tình hình trên, CSBV tuy không kêu gọi dân chúng Hànội trở về nhưng khi thấy vấn đề hồi cư của dân là chính đáng nên đã cho phép các gia đình hồi cư được sát nhập sổ gạo và thực phẩm lại làm một, là bởi vì khi đi “sơ tán”, các loại sổ này bị phân chia theo nơi đến “sơ tán”./.
[ LTC: một ghi chú không thể không nêu lên ngay tại đây để giúp nhiều thế hệ hậu sanh hiểu được tình trạng «sổ gạo / lương thực» của miền Bắc Cộng sản là cái gì, và có ý nghĩa gì, bằng một giải thích vắn tắt như sau:
Tất cả mọi người sống dưới chế độ Cộng sản miền Bắc không kể dân hay cán bộ, đều được cấp cho một quyển sổ gọi là «sổ lương thực» mà dân Bắc hay gọi là «sổ gạo», là một thứ sổ có tính sống còn đối với họ. Loại Sổ này dùng để mua gạo, cùng với các thứ gọi là Tem phiếu khác dùng để mua các loại nhu yếu phẩm (như thịt cá mắm muối v.v…) tại các “cửa hàng quốc doanh” của nhà nước Cộng sản kiểm soát – dân chúng ngoài Bắc còn gọi là “cửa hàng thương nghiệp” – là những thức thiết yếu cho đời sống thường ngày theo “tiêu chuẩn” chết đói mà chính quyền Cộng sản áp đặt cho từng người, từng nhà tùy theo phân hạng loại do chúng tự tiện đặt ra. Ví dụ, thường dân thì “tiêu chuẩn” thiếu đói hơn, cán bộ thấp thì “tiêu chuẩn” khá hơn, cán bộ cao thì “tiêu chuẩn” no đủ hơn.
Vì bất cứ lý do gì, một gia đình mà bị đánh mất các loại sổ, phiếu này thì kể như gặp đại họa, sẽ bị đói chết chắc, trừ phi nhà đó có thừa tiền của quanh năm đi ra mua gạo mắm lậu ở bên ngoài hệ thống “thương nghiệp quốc doanh” của nhà nước Cộng sản.
Đây là một hình thức cai trị man dã tàn ác phi nhân mà những tên đầu lãnh Bắc bộ phủ đã copy nguyên xi từ Cộng sản Nga Tàu đem về xài lại với mục đích kiểm soát bao tử, siết chặt kẻ bị trị vào miếng ăn, mà người miền Nam Quốc Gia trước và sau black April thường gọi đó là chính sách «treo nồi cơm» của thiên đường Cộng sản Bắc Việt.
Hình thức độc tài tàn ác này của chế độ Cộng sản miền Bắc là một mặt khác, một chi tiết Sử liệu khác vô cùng dễ nhìn ra vì nó rõ mồn một tựa như một bằng chứng rành rành không thể chối cãi, chứng minh rằng, những tên đầu lãnh Bắc bộ phủ đã chặn mọi sự chống đối của dân bị trị ngay từ trong trứng nước bằng miếng ăn tối thiểu và tầm thường của đời người.
Nói cách khác, bọn tà quyền Hànội tự biết rất rõ chúng nó là kẻ gian tà, và biết rõ lòng dân phẫn uất chỉ chực tuôn trào nổi dậy làm loạn để tự giải thoát, do đó bọn đầu lãnh Bắc bộ phủ phải xài tới trò đểu cáng bóp họng gian ác của phường kẻ cướp hòng kềm kẹp và đàn áp dân để dễ bề ngồi yên trên cái ghế cai trị.
Trong khi đó, dân miền Nam Quốc Gia thừa mứa ê hề không riêng gì gạo muối vải vóc mà còn đủ thứ nhu yếu khác của đời sống khi toàn dân được hưởng một nền Kinh Tế Tự Do trù phú dưới một chế độ Tự Do Dân Chủ mặc dù miền Nam trong suốt hai mươi năm bị CSBV xâm lăng và ra sức phá hoại không ngừng nghỉ dưới mọi hình thức, bằng mọi thủ đoạn đê hèn của phường giết người không gớm tay.
Vậy nhưng CSBV không ngớt trẹo lưỡi nói ngược, ra rả tuyên truyền bịp bợm với dân miền Bắc rằng dân miền Nam bị “thiếu đói và kềm kẹp” cho nên 'ta phải đi vào giải phóng'.
Và điều còn mỉa mai ô nhục hơn cho một số trí thức, nhà báo, sinh viên học sinh trong Nam ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản no cơm rửng mỡ tin theo cái luận điệu giẻ rách hôi hám thế kia của bọn Cộng sản, đã u mê tiếp tay rước giặc vào đốt nhà phá bàn thờ!
Nếu chi tiết Sổ Gạo này không được phân giải cho rành rẽ (dù chỉ mới là vài dòng vắn tắt sơ lược như trên) thì tôi e rằng nhiều bạn đọc sanh sau black April – kể cả người ngoài Bắc – sẽ không hiểu câu viết trong bài báo bên trên: cho phép các gia đình hồi cư được sát nhập sổ gạo và thực phẩm lại làm một, là bởi vì khi đi “sơ tán”, các loại sổ này bị phân chia theo nơi đến “sơ tán” là cái gì?!
#Tien Tuyen Jul. 25, 1972 trang ba
MỘT KÝ GIẢ MỸ SAU KHI THĂM HÀ NỘI VỀ CHO BIẾT
DÂN HÀ NỘI CÂM, ĐIẾC VÀ ĐUI trước những diễn tiến trên thế giới
★ Họ không được biết bao nhiêu về cuộc oanh tạc và phong tỏa Bắc Việt – Không biết tí gì về những thảm hại của lực lượng Bắc Việt tại miền Nam ⚀ Bắc Việt là Cộng sản độc tài nhứt thế giới.
#Tien Tuyen Jul. 25, 1972 trang ba
MỘT KÝ GIẢ MỸ SAU KHI THĂM HÀ NỘI VỀ CHO BIẾT
DÂN HÀ NỘI CÂM, ĐIẾC VÀ ĐUI trước những diễn tiến trên thế giới
★ Họ không được biết bao nhiêu về cuộc oanh tạc và phong tỏa Bắc Việt – Không biết tí gì về những thảm hại của lực lượng Bắc Việt tại miền Nam ⚀ Bắc Việt là Cộng sản độc tài nhứt thế giới.
Hà Nội (VT) 24-7. – Ký giả Mỹ Joseph Kraft sau một cuộc viếng thăm Hanoi quay về đây cho hay, hiện nay tại BV vẫn có người hút thuốc phiện mà theo ông rất có thể là cán bộ cao cấp.
Mặc khác, khi đề cập tới đời sống chánh trị tại BV, ký giả Joseph Kraft cho hay là dân BV gần như câm và điếc trước những diễn biến mới đây trên thế giới. Những chuyến công du của TT Nixon qua Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa, sự thăm dò của Viện Gallup đối với việc tranh cử sắp tới của TT Nixon và ngay cả việc Hoa Kỳ tái oanh tạc BV dường như dân Hanoi chẳng được biết gì mấy. Và dĩ nhiên, họ hoàn toàn mù tịt về sự thảm bại của lực lượng BV tại miền Nam. Vẫn theo lời ký giả Joseph Kraft, thì trong chuyến viếng thăm BV mới đây, ông đã tiếp xúc với 2 nhân vật quan trọng của Trung ương đảng BV là Lê đức Thọ và Nguyễn duy trinh. Nếu việc ông tiếp xúc với những nhân vật này không có gì khó khăn thì sự gặp gỡ những cán bộ trung và hạ cấp và ngay cả thường dân ở BV hầu như bị ngăn trở.
Ông cho hay, khẩu hiệu 3 Không gồm không nghe, không thấy và không biết đã được các giới cán bộ BV thi hành nghiêm chỉnh.
Còn dân chúng thì bị kiểm soát chặt chẽ mỗi khi gặp người lạ muốn hỏi thăm chuyện gì.
Ông cho biết, ông đã dùng tiếng Pháp để gợi chuyện với một phụ nữ tại Hanoi. Người này vừa định trả lời thì cũng ngay lúc đó, viên thông ngôn – là người được chính quyền Hanoi cử đi theo ông – đã tiến đến. Sau một hồi lời qua tiếng lại với người phụ nữ kia, viên thông ngôn nói với ông rằng, người phụ nữ kia vì bận việc phải đi nên không thể tiếp chuyện ông được.
Cuối cùng, ký giả Joseph Kraft kết luận, BV là một trong những chế độ Cộng sản có tính Cộng sản hơn bất cứ một chế độ Cộng sản nào khác trên thế giới nghĩa là một chế độ độc tài nhất!
#Tien Tuyen Sept. 9, 1972 trang nhất
Một Người Lính Bắc Việt Tiết Lộ: Biết Vượt Trường Sơn Là Nguy Hiểm Nhưng Cán Binh Cộng Sản Bắc Việt Vẫn Đi Vì … #Tien Tuyen Sept. 9, 1972 trang nhất
Một Người Lính Bắc Việt Tiết Lộ: Biết Vượt Trường Sơn Là Nguy Hiểm Nhưng Cán Binh Cộng Sản Bắc Việt Vẫn Đi Vì …
MỤC ĐÍCH TỐI THƯỢNG VÀO NAM VÀ «QUYẾT TÂM MẠNH MẼ NHẤT» LÀ MUA RADIO VÀ ĐỒNG HỒ ĐEM RA BẮC
⚃ Ở miền Bắc, muốn nghe lén các đài Tự Do, Saigon, VOA v.v… phải mang radio ra những quãng đường vắng ở đến khuya mới về nhà …
★ Tiến Châu
SAIGON (TT). – Theo cung từ của hàng binh Nguyễn chánh Trực tiết lộ cho biết, những các bộ từ miền Bắc xâm nhập vào Nam đều có một «mục đích tối thượng khi vào Nam là để mua radio và đồng hồ đem ra Bắc», các cán bộ cho đó là «quyết tâm mạnh mẽ nhất» là «nguồn động viên lớn nhất» đối với họ trên chặng đường vượt Trường Sơn đầy gian khổ và nguy hiểm.
Theo cung từ thì dân chúng miền Bắc rất thích nghe các Đài Phát thanh, nhất là các đài VOA, BBC, Saigon, Tiếng Nói Tự Do, v.v. còn các đài Cộng sản thì vì chương trình khô khan, nhồi sọ nên không được dân chúng miền Bắc ưa thích. Bởi lẽ đó, Radio là 1 nhu cầu tối cần thiết đối với dân chúng miền Bắc.
Theo cung từ tiết lộ, số gia đình có máy thu thanh riêng ở thành phố Hanoi chiếm khoảng 50% đến 60%; còn ở nông thôn thì chắc chắn dưới 10%. Thành phần được coi là có nhiều máy thu thanh là những cán bộ trung, cao cấp của nhà nước và giới trí thức, Trong số ấy những máy thu thanh trong gia đình của tầng lớp "trí thức cũ” đều mang nhãn hiệu sản xuất từ 1954 và đều là của Pháp, Mỹ, Hòa Lan, Có lúc người ta thấy nhiều gia đình bán đồ đạc, đồng hồ, xe đạp để cố mua lấy một chiếc máy thu thanh chạy pin với giá chợ đen rất đắt, để được nghe tin tức của con cháu họ trên đài VOA và đài Tiếng Nói Tự Do.
Việc nghe các "đài địch" rất khó khăn vì nhà cầm quyền miền Bắc nghiêm nhặt cấm đoán. Tuy vậy, dân chúng nhất là một số ít gia đình có nhà riêng thường tìm mọi cách để nghe lén những đài bị cấm như Tiếng Nói Tự Do, đài Saigon, đài BBC, đài VOA.., để tìm hiểu tin tức của “phía bên kia", để theo dõi tình hình chiến sự Miền Nam, nơi mà chồng con em của họ đang ở đó để biết số phận của những người ấy ra sao, nếu may mắn ra hồi chánh hoặc bị bắt qua mục Nhắn Tin Cho Thân Nhân (đài Tiếng Nói Tự Do), ngoài ra cũng là để tìm một phút nghỉ ngơi thoải mái trong chương trình ca nhạc êm dịu trữ tình (như của đài Tiếng Nói Tự Do).
Còn đối với các gia đình sống tập thể, không có nhà riêng kín đáo thì thật phiền phức, phải khó khăn mới nghe lén được đài trong Nam từ Hanoi. Những người này phải đem máy thu thanh nào những quảng đường vắng để nghe lén đài tới khuya mới về: Đó là biểu hiện của những kẻ chẳng ưa gì cái chế độ mà họ đang sống, lòng luôn mơ tưởng một cuộc sống tự do dù chỉ tưởng tượng trên âm thanh.
Cùng từ tiết lộ thêm rằng “biết được sự việc như vậy, nhà cầm quyền miền Bắc đã cho bắc loa cỡ đại ở những nơi công cộng như khu Phố Chợ, Xí nghiệp, Cơ quan, công trường, nơi tập trung nhiều người mua bán qua lại như khu Cửa Nam xung quanh bờ Hồ Hoàn Kiếm v.v… để phổ biến tin tức, xã luận tuyên truyền, nhưng cũng không được dân chúng hưởng ứng trừ phi vô tình đi ngang qua và «phải bị» nghe. (TC)
~~~~~~~~~~~~~~
$pageOut$pageIn
Phân đoạn 5
#Tien Tuyen Jul. 27, 1972 trang năm - Tri Vũ phụ trách
Những Lý Do Yếu Kém Của Các Sư Đoàn CSBV
#Tien Tuyen Jul. 27, 1972 trang năm - Tri Vũ phụ trách
NHỮNG LÝ DO YẾU KÉM CỦA CÁC SƯ ĐOÀN BẮC VIỆT
Một bản phân tích khả năng hiện nay của quân lực Cộng sản đang hoại động tại VNCH cho thấy tất cả 10 sư đoàn chính quy tham gia cuộc xâm lăng quy mô hồi tháng 4 đã bị suy yếu và hiệu năng tác chiến của ít nhiều sư đoàn ấy đang lâm vào tình trạng kiệt quệ.
Khó khăn đó của Cộng quân dường như bắt nguồn phần nào từ sự kiện Bắc Việt chuyển qua chiến tranh quy ước. Cộng sản áp dụng trận địa chiến có thể là để tiết kiệm nhân lực sau 7 năm chịu nhiều tổn thất nặng nề, nhưng sự thay đổi chiến thuật ấy lại khiến cho các đơn vị lâm chiến phải tùy thuộc vào tiếp vận nặng nhiều hơn bao giờ hết. Mà tiếp vận nặng thì nay đang trở thành 1 vấn đề nan giải bởi lẽ Hoa kỳ đã gia tăng oanh tạc và thả thủy lôi tại các Hải cảng Bắc Việt.
Còn phải thêm vào nguyên tố đó những sự kiện này nữa: Không lực Hoa kỳ và VNCH đã gây thêm nhiều tử vong cho địch, chiến sĩ VNCH tiếp tục chiến đấu thắng lợi và việc Cộng quân không được nhân dân Nam VN hậu thuẫn.
Nhiều sư đoàn và trung đoàn Cộng quân đã bị đánh tơi bời. Họ lâm vào cảnh thiếu thực phẩm và tiếp liệu. Trên 400 chiến xa đã bị tiêu diệt. Hàng ngàn binh lính của họ đã ngã gục trên chiến trường. Và nay những kẻ sống sót đang phải bắt đầu rút lui và cả đầu hàng nữa.
Sa Lầy
Cuộc tấn công bắt đầu với những thành quả ban đầu tại Quảng Trị đã sa lầy. Và sau 4 tháng chiến đấu với cái giá quá đắt, bộ chỉ huy Cộng sản hiện đã phải đối đầu với bộ binh Nam Việt Nam phản công tại bất cứ địa điểm then chốt nào mà họ đã hy vọng rằng, từ đó họ có thể áp đảo quân đội Nam Việt Nam.
Sau đây là nhận xét của những nhà quan sát tinh tường về tình hình hiện nay của những đơn vị Cộng sản tại Nam Việt Nam (Tiền Tuyến lược dịch)
Sư đoàn 304 với những đơn vị trọng pháo và xe tăng yểm trợ đã bị tổn thất nặng nề tại mặt trận Quảng Trị. Được coi là 1 trong số những đơn vị xuất sắc nhất của cái được gọi là “Quân đội Nhân dân” mặc dầu sự bại trận của họ vào năm 1968 tại Khe Sanh, đội quân này «chưa bao giờ đương đầu với mọi thứ hỏa lực trong cuộc tiến công hiện nay.»
Trung đoàn 9 của họ đã bị những trận oanh kích của phi cơ B.52 tiêu diệt. Trung đoàn 66 trong cuộc giao tranh kéo dài đã bị tổn thất nặng nề vì số thương vong, và Trung đoàn 24-B dù không tổn thất bằng 2 Trung đoàn kia nhưng được báo cáo là đã mất tinh thần khi dân chúng Quảng Trị đã quyết định chạy trốn khỏi Tỉnh chứ không ở lại hoan nghênh “giải phóng”. Trung đoàn Trọng pháo yểm trợ 38 đã không thể chống cự được những cuộc tấn công của quân đội VNCH và phi cơ đồng minh.
Sư đoàn 308 được thành lập năm 1949 và nổi danh là “bách chiến, bách thắng” nhờ tài chiến đấu giỏi lúc chống lại quân Pháp, rõ ràng là đã đánh giá quá thấp khả năng chống trả của binh sĩ VNCH. Nhưng Sư đoàn này đã phải kinh ngạc khi Trung đoàn 36 của họ đã bị đánh bật ra khỏi Đông Hà hồi tháng Tư.
Thế rồi khi Trung đoàn 102 thuộc Sư đoàn 308 lâm trận thì cũng bị chiến sĩ VNCH đánh tơi bời. Tới lượt Trung đoàn 88 cũng lại bị phi cơ và đại bác băm nát.
Trong 2 tháng Năm và Sáu nhiều đơn vị của Sư đoàn này đã bị phi cơ, trọng pháo và bộ binh tấn công tới tấp. Nói riêng thì Trung đoàn 88 có Trung đoàn Thiết giáp 202 trợ chiến đã bị tổn thất rất nặng hồi cuối tháng Năm trong khi mưu toan chọc thủng phòng tuyến Sông Mỹ Chánh. Nay, sau khi đã bị tổn thất hàng ngàn người, người ta không tin là Cộng quân có thể giữ được những thắng lợi lúc đầu trong tỉnh Quảng Trị trước sự phản công của Quân Lực VNCH.
Một quan sát viên đã nói: « Ngày nay Sư đoàn 308 nên cải danh là Sư đoàn "bách chiến bách bại” »
Hoang mang
Được tổ chức lại năm ngoái và tái xâm nhập miền Nam tháng Giêng và tháng 2 năm nay, Sư đoàn kỳ cựu 324-B có nhiệm vụ mở các cuộc hành quân quấy rối và tấn công Sư đoàn I BB VNCH trong tháng 3, tức đơn vị đã ngăn cản không để cho Trung đoàn 29 của Sư đoàn Cộng sản này hoàn tất tổ chức cuộc xâm lăng tỉnh Thừa Thiên và tấn công Huế.
Trung đoàn này đã bị Trung đoàn 803 cũng thuộc Sư đoàn 324-B thay thế hồi tháng Năm, nhưng tinh thần của Trung đoàn này cũng đã xuống thấp vì 30% sĩ quan và hạ sĩ quan đã bị chết tại Quảng Trị. Bị tan rã bởi các cuộc tấn công đáp trả liên tiếp của Quân đội VNCH đã tái chiếm lại được những vị trí bị mất lúc đầu, Sư đoàn này đang lâm vào tình trạng hoang mang.
Một Trung đoàn của đại đơn vị này – Trung đoàn 29 – chỉ còn lại không đầy 130 người. Hơn nữa, 2 trung đoàn 803 và 612 thường xuyên bị ăn đạn trọng pháo của QLVNCH nên đã không thể xâm nhập các vị trí phòng thủ đọc đường 547 ở phía Tây Huế.
Sư đoàn 320, 1 đơn vị bị tan rã khác mà cũng đã nổi tiếng 1 thời nhờ trận Điện Biên Phủ, đã nuôi hy vọng biến Kontum thành 1 Điện Biên Phủ nữa cho chiến sĩ VNCH. Nhưng các đợt xung phong của các Trung đoàn 48, 52 và 64 đã bị đẩy lui sau khi đã bị tổn thất nặng nề ngay tại mặt trận ấy.
Trong tháng Tư và Năm, 2 Trung đoàn 64 và 48 đã bị thiếu hụt lương thực trầm trọng nên khả năng chiến đấu bị ảnh hưởng theo. Vào trung tuần tháng Năm, chính Trung đoàn 48 cũng đã bị tổn thất 50% vì nhiều nguyên do. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn này chỉ còn lại không đầy 200 người. Còn Trung đoàn 52 cũng bị hao hụt quân số tương tự. Vì thế Sư đoàn 302 buộc lòng phải rút lui để bổ sung, giao trách nhiệm tấn công Kon Tum lại cho Sư đoàn 2.
Tuy nhiên SĐ 2 cũng lại bị sa sút tinh thần và có nhiều người bị bệnh sốt rét nên cũng chẳng hơn gì. Sư đoàn này tấn công Kon Tum từ ngày 25 đến 28-5 nhưng lính tráng ô hợp mà còn thiếu chuẩn bị về trọng pháo. Vì thế sau khi vào được thị trấn Kon Tum lần đầu, cả 2 Trung đoàn 1 và SĐ 2 bị đánh bại hoàn toàn và cuối tháng Sáu có Sư đoàn đã phải rút lui để củng cố lại.
Chiến cuộc kéo dài tiếp tục bị giới hạn và tổn thất lên cao đã làm giảm khả năng tác chiến của Sư đoàn 3 trong tỉnh Bình Định, hoạt động trong tỉnh này từ năm 1966. Các đơn vị của Sư đoàn này bị đẩy lui với những tổn thất nặng nề trong cuộc tấn công quận lỵ Phù Mỹ hồi trung tuần tháng Sáu.
Các Trung đoàn 2, 12 và 21 nay đang phải lẩn trốn ở mạn Bắc tỉnh Bình Định và các nơi xa xôi hẻo lánh khác thuộc tỉnh này. Vì thiếu sự phối hợp hữu hiệu của các đơn vị Cộng sản địa phương nên Sư đoàn này đã không thể xâm nhập khu vực Nam Bình Định.
Sư đoàn 5, mang tên là đơn vị VC hay MTGP, đã hoạt động trong tỉnh Bình Long từ hồi đầu cuộc tổng tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa này. Đơn vị này được giao phó nhiệm vụ chiếm An Lộc sau khi Sư đoàn 9 đã bị đánh bại. Nhưng rồi đơn vị này cũng lại thất bại khi đã bị tổn thất nặng và phải rút sang Kampuchia qua ngả Kiến Tường. Ít nhất thì Trung đoàn 174 của Sư đoàn này cũng đã bị tổn thất đậm trong cuộc tấn công Quận Tuyên Bình và dọc hương lộ 29 trong tháng ấy. Sư đoàn này được chỉ định quấy phá vùng Tiền Giang, nhưng đã không thu được kết quả đáng kể nào một tháng hoạt động. Sư đoàn này đã chịu nhiều tổn thất trong mấy năm qua cho nên phần lớn quân số hiện nay đều gồm các tân binh chưa có kinh nghiệm và không được huấn luyện đầy đủ từ ngoài Bắc đưa vào.
Sư đoàn 7 của Cộng sản, chiến đấu dọc quốc 13 giữa Lai Khê và An Lộc trong gần 3 tháng, đã gặp nhiều khó khăn trầm trọng. Mỗi ngày chỉ được tiếp tế có 1 lần, thuốc men không đủ, và sự phối hợp giữa Thiết giáp với bộ binh thì thảm hại. Các Trung đoàn 141, và 209 đã bị tổn thất 50 phần trăm số quân so với lúc mới kéo vào Nam, vì luôn luôn bị phi pháo và trọng pháo. Riêng Trung đoàn 209 thì số tổn thất còn nặng nề hơn, ít nhiều đại đội lúc đầu quân số còn đầy đủ nhưng nay mỗi đơn vị chỉ còn lại không đầy 20 người. Số bổ sung đưa đến vừa chậm vừa không đủ để trám vào chỗ trống. Trong cả một tháng Năm mà chỉ có 300 lính bổ sung, và trong hai tuần lễ đầu tháng Sáu thì lại không nhận được một tên lính điền khuyết nào cả.
Các quan sát viên cho hay Sư đoàn 7 này chỉ còn là cái bóng mờ.
Con mồi ngon
Sư đoàn 9, cũng như Sư đoàn 5, mang tên là đơn vị của Việt cộng hay Mặt trận Giải phóng, nhưng vì trong mấy năm qua đã bị tổn thất nặng nên quân số của họ hiện nay phần lớn là lính Bắc Việt.
Sư đoàn 9 đã mở nhiều cuộc tấn công vào An Lộc trong tháng 4, nhưng các Trung đoàn 95-C, 271 và 272 của Sư đoàn này bị đánh bại và đã bị tổn thất rất nhiều. Sư đoàn này có 300 lính bị hạ và 20 chiến xa bị bắn gục. Tin rằng An Lộc đã được “giải phóng”, các đoàn thiết giáp này cứ lù lù tiến vào thị xã, pháo tháp để ngỏ cho nên đã trở thành những con mồi ngon cho chiến sĩ VNCH. Bị thảm bại nhục nhã, bị Trung Ương cục miền Nam chỉ trích nặng nề về tội không đạt được mục tiêu giao phó, Sư đoàn này bị coi như không còn khả năng tác chiến nữa.
Sư đoàn 1 của cái gọi là "Quân đội Nhân dân" đã từng hoạt động ở Kampuchea với chút ít thắng lợi. Nhưng khi vượt biên giới tiến vào VNCH thì đó lại là vấn đề khác. Khi các đơn vị của Sư đoàn này tấn công Quận lỵ Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang, các chiến sĩ VNCH đã chống trả mãnh liệt và đã đẩy lui Cộng quân qua trở lại Kampuchea.
Cùng với 10 Sư đoàn chính quy kể trên, bộ Tư Lệnh Cộng quân còn tung ra trên lãnh thổ miền Nam một số đơn vị đặc biệt và Trung đoàn độc lập. Trong số này có Trung đoàn 27B, 31 và 270, tất cả là quân chính quy Cộng sản Bắc Việt xâm nhập miền Nam và hiện đang hoạt động tại mặt trận Trị Thiên. Nhưng vì dân chúng không chịu hỗ trợ cho Cộng quân nên Bắc Việt đã phải bổ xung cho 2 đơn vị này bằng những thiếu niên Bắc Việt. Cả 2 đều bị thất bại nặng trong 3 tháng chiến đấu tại 2 Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
Tại 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, Cộng quân đã cố gắng tổ chức Sư đoàn mới lấy tên là 711 gồm có các Trung đoàn 31, 38 và 270. Sư đoàn này đã đạt được chút ít thắng lợi trong tỉnh Quảng Tín hồi tháng 4 nhưng do gặp khó khăn đáng kể trong tháng 5 và tháng 6, bị phi cơ và các đơn vị VNCH trừng phạt nặng nề dọc tỉnh lộ 535 từ Quế Sơn tới QL1.
Trên mặt trận Kon Tum, các Trung đoàn bộ binh 28, 66 và 95 và Trung đoàn pháo binh 40 đã rút lui sau khi đã bị nhưng tổn thất nặng nề do B52 tấn công. Trung đoàn 271 bị tan nát ở Tây Ninh và Hậu Nghĩa, đã phái rút ra khỏi các khu vực đông dân cư và chạy qua Kampuchea.
Trong tỉnh Bình Long, đa số các khẩu trọng pháo của bộ chỉ huy Pháo binh 69 đã bị phi cơ tiêu diệt và mấy khẩu còn lại đều được kéo qua Kampuchea.
Trung đoàn 101 hoạt động trong tỉnh Bình Dương nay thực tình không còn hoạt động nữa sau khi bị đại bại lúc tấn công quận lỵ Tri Tôn.
2 Trung đoàn 33 và 274 hoạt động trong tỉnh Phước Tuy đã cố gắng mà chỉ sát hại được có một số thường dân vô tội, thiêu hủy nhà cửa của dân tại Bình Giã, Đức Thạnh, Đất Đỏ, Long Lễ và Xuyên Mộc. Trong tháng 5 và 6, 2 đơn vị đó đã bị tổn thất rất nhiều và không thể chiếm giữ được 1 thị xã nào.
Còn một ít Trung đoàn độc lập trong miền Châu thổ Cửu long như Trung đoàn 83, 18B và 95A và một số trung đoàn khác thường xuyên thay đổi tên gọi để tránh bị phát giác. Các đơn vị này cũng đã bị tổn thất nặng. Trung đoàn 88 chẳng hạn đã bị hạ sát trên 500 tên khi giao chiến tại Kiến Tường và phía Tây Định Tường. Trung đoàn 18B tại Chương Thiện đã bị nhiều tổn thất do phi cơ oanh tạc. Những đơn vị này đã gia tăng hoạt động tại các khu vực hẻo lánh, chứ không chiếm giữ được 1 khu vực đông dân cư nào.
Cộng quân đã phải trả 1 cái giá rất đắt bằng mạng người, chiến cụ và võ khí, phần thu về thực sự lại chẳng có là bao.
#Chinh Luan Sept 12, 1972 trang ba
Tinh thần Cán binh Cộng sản suy sụp #Chinh Luan Sept 12, 1972 trang ba
Tài liệu Cộng sản phát lộ tình hình tư tưởng cán binh Cộng sản suy sụp
SAIGON. 10-9. – Quân lực VNCH vừa tịch thu 1 tài liệu quan trọng của Cộng Sản ở tỉnh Kiến Hòa cho thấy rằng có hiện tượng cán bộ Cộng sản bất phục tùng kỷ luật, không theo lãnh đạo của Đảng mà còn giao động trước tình trạng chiến tranh ác liệt nên có nhiều cán binh Cộng sản đã đầu hàng Quân lực VNCH.
Tài liệu nói trên nhan đề là «một số nét về tình hình nội bộ» có đoạn cho biết rắng trước tình hình chiến tranh ác liệt cũng là lúc VNCH «đẩy mạnh mưu lược tâm lý chiến» cho nên cần phải phát động, củng cố tư tưởng, chi bộ, chỉ đạo cụ thể kế hoạch chống lại mưu lược này.
Sau đó, tài liệu nói trên vạch rõ rằng «một số cán bộ chiến sĩ bị ảnh hưởng nên đi tới chỗ cầu an, thỏa mãn, ngả sang tư tưởng tự do bất chấp bất phục tùng kỷ luật và sự lãnh đạo của tổ chức, bất đồng nội bộ, diễn biến tư tưởng».
Tài liệu nhấn mạnh «cấp ủy chi bộ xã cũng như cơ quan chưa giải quyết gì được, do đó thường xuyên có những cán bộ có những diễn biến không tốt đi đến việc đầu hàng địch, gây khó khăn cho Đảng».
#Chinh Luan Jun. 8, 1972 trang ba
Hànội để lộ cho thấy Thực trạng Bi đát tại Bắc Việt
Bị oanh tạc, Hết xe cộ, đường sá, nhà máy điện
Đài Phát thanh Hanoi kêu gọi dân chúng «có thể phải đi bộ, có thể phải dùng đèn bấm, có thể phải chỉ ăn cháo mà vẫn không từ bỏ chiến tranh … »
Hànội để lộ cho thấy Thực trạng Bi đát tại Bắc Việt
Bị oanh tạc, Hết xe cộ, đường sá, nhà máy điện
Đài Phát thanh Hanoi kêu gọi dân chúng «có thể phải đi bộ, có thể phải dùng đèn bấm, có thể phải chỉ ăn cháo mà vẫn không từ bỏ chiến tranh … »
LUÂN ĐÔN, 6.6 – Các nhật báo xuất bản ở Luân Đôn hôm nay đã lưu ý tới những lời Hoa Kỳ báo cáo về những kết quả của những vu oanh tạc của Hoa Kỳ ở miền Bắc và đến những lời bàn bạc về hậu quả của những vụ oanh tạc BV.
Báo Telegraph đăng bài của biện tập viên báo ấy chuyên về các vấn đề Cộng sản, đã căn cứ vào bài bình luận của báo Nhân Dân do dài Hà Nội loan đi mà suy luận ra nhiều điều.
Trong bài báo do đài Hà Nội loan đi có nhận rằng BV đương tập phải các vấn đề kinh tế khó khăn vì Hoa Kỳ gia tăng oanh tạc. Và biên tập viên báo Telegraph bình luận: Bài báo Nhân Dân này hầu như xác nhận nhiều tin nói rằng các khó khăn của BV ngày một thêm nhiều.
Trong bài phát thanh, đài Hànội nói «Chúng ta đã tiên liệu và tính trước được tình hình rất khó khăn và những mưu mô vô cùng độc ác và nguy hiểm của địch khi chúng leo thang cuộc chiến dữ dội. Nhân dân ta có thể phải đi bộ, có thể chỉ dùng đến đèn bấm, có thể chỉ ăn cháo mà vẫn đánh bại được quân xâm lăng Mỹ. Và mặc dầu oanh tạc, địch không thể nào làm tê liệt nền kinh tế của ta tới độ không cho ta sống còn và tiếp tế cho miền Nam được.»
Những lời nói đến đi bộ, dùng đèn bấm và ăn cháo có vẻ như là một chỉ dẫn rõ rệt cho thấy là việc Hoa Kỳ oanh tạc đã làm thiệt hại các đường giao thông, các các nhà máy điện và nông nghiệp đến mức nào.
Ngoài nỗi khó khăn trong việc duy trì tiếp liệu cho bộ đội ở miền Nam, nền kinh tế sinh hoạt cho miền Bắc có vẻ cũng gặp nhiều điều khó khăn. Từ trước đến nay BV đã phải chật vật mới sản xuất được thực phẩm cho đủ dùng.
#Chinh Luan Jun. 27, 1972 trang nhất
Hà Nội hạ lệnh dẹp hết quà bánh để đánh đến cùng
#Chinh Luan Jun. 27, 1972 trang nhất
Hà Nội hạ lệnh dẹp hết quà bánh để đánh đến cùng
SAIGON. 26.6.– Nhật báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của đảng CSVN trong số ra ngày 28-5-1972 đề cập việc tiết kiệm lương thực đã nói rằng, hiện miền Bắc còn phí phạm lương thực và báo đó kể rằng: «chỉ cần nhìn vào những hàng quà hàng bánh, đã thấy có nhiều thứ quà bánh chế biến từ lương thực. Nào bánh chưng, bánh tẻ, bánh nếp. Nào bún, miến, cháo…» và báo Nhân Dân kêu gọi «những thứ nào cần để và có thể để được thì để. Thí dụ như những thứ không phạm nhiều đến lương thực chính. Còn thì nên dẹp bớt nó đi hoặc đổi cách chế biến bằng những lương thực phụ.»
Ở một đoạn khác, báo Nhân Dân viết: «ở một số tỉnh, bà con thị xã đi sơ tán lại không chịu vào trong các thôn xóm, cứ ở rệch ven mấy đường cái chính. Rồi hàng quà, hàng bánh mọc lên vô tội vạ. Việc quản lý thị trường thêm phức tạp. Và lương thực thì lại bị hao phi nhiều hơn.»
Lên án những người bán quà bánh vô kỷ luật, báo Nhân Dân viết tiếp: «Họ hoạt động đàng hoàng. Họ chạy theo lời lãi không chút ý thức tiết kiệm lương thực. Có việc sơ tán, họ cũng không sơ tán …»
Và báo đó kết luận, riêng ở Hànội nếu dẹp bớt hàng quà hàng bánh không cần thiết thì chắc Hà Nội có thể tiết kiệm được cả tấn gạo và mì.
Trước dây trong một bài xã luận, báo Nhân Dân đã kêu gọi dân chúng “đốt đuốc, đi bộ, ăn cháo đánh Mỹ tới cùng".
#Chinh Luan Jul. 16_17, 1972 trang ba
Mặc dù mỹ đã sẵn sàng loại bom gây mất dưỡng khí, Quân VNCH muốn tự tay lấy lại Quảng Trị, Không muốn dội bom vì sợ làm chết dân
#Chinh Luan Jul. 16_17, 1972 trang ba
Mặc dù mỹ đã sẵn sàng loại bom gây mất dưỡng khí
Quân VNCH muốn tự tay lấy lại Quảng Trị
Không muốn dội bom vì sợ làm chết dân
🟐 Quân CSBV sống dưới hầm sâu, chạy quạt bằng ắc quy
🟐 Hiện còn có 1 trung đoàn CSBV cố thủ trong Cổ Thành
🟐 1 ký giả Pháp được CSBV thả nhân ngày 14-7
HUẾ, 14-7 (AFP). – Trung Uý Terry Griswold, một cố vấn Mỹ trẻ tuổi, lần đầu tiên đã lọt được vào Quảng Trị và ở lại thị xã luôn mấy ngày, trong một công tác thám sát, hôm thứ Năm tuyên bố tại Huế rằng: «Bằng vào cách thức quân CSBV trang bị các công sự hầm hố của chúng, người ta thấy rõ là chúng có ý định ở lại thành phố này.»
Một điều hết sức ngạc nhiên là binh sĩ VNCH đã phát giác tại một vài công sự CSBV bỏ lại, những máy quạt và máy lạnh không cần đến Trung Tâm phát điện (vừa bị hư hại nặng trong trận chiến mới đây). Những máy của địch toàn chạy bằng bình Accu xe hơi.
Từ ngày 1-5 binh sĩ CSBV sống dưới hầm sâu tại Quảng Trị để tránh bom và đạn trọng pháo của Mỹ. Nhưng cuộc sống theo loài chuột đất này không ngăn cản một vài tên binh sĩ có tài xoay xở biến chế ra có những tiện nghi, lẽ ra chỉ dành cho những vùng thái bình an lạc hơn.
Cuộc hành quân của VNCH nhằm tái chiếm Quảng Trị và các vùng chung quanh càng ngày càng dữ dội. Bộ Tư Lệnh Việt Nam Cộng Hòa ước lượng có khoảng 1 Trung đoàn CSBV ẩn phục trong khu Cổ Thành ở trung tâm thành phố. Người ta cũng ước lượng phải 4, 5 ngày nữa binh sĩ VNCH mới hoàn toàn làm chủ chiến trường vì chỉ khi nào chiếm được khu Cổ Thành thì mới thật là kiểm soát được Quảng Trị.
Cho đến nay Mỹ vẫn chưa oanh tạc Quảng Trị bằng B52 vì lẽ hãy còn dân trong Thị xã. Gia dĩ VNCH muốn tự đánh chiếm lấy Quảng Trị dù phải trả giá nào chăng nữa, hơn là tìm chiến thắng nhờ vào không lực Mỹ. [ Gia dĩ: Sở dĩ; Vả lại, Hơn nữa ]
Người Mỹ đã chỉnh bị loại bom mới mà khi nổ sẽ làm tan mất hết chất dưỡng khí trong không khí. Loại bom này sẽ rất hiệu lực đối với những binh sĩ trốn dưới hầm sâu vì sẽ bị chết ngạt.
Hoạt động gia tăng của quân đội Quốc Gia tại Quảng Trị dường như đã làm giảm bớt áp lực của quân CSBV vào Huế. Theo Bộ Tư Lệnh quân sự VNCH, quân CSBV đã bị tổn thất hết sức nặng nề trong tuần qua khi toan cản đường tiến quân của VNCH.
Một nguồn tin ở Saigon hôm thứ Sáu cho hay một ký giả Mỹ của tạp chí Newsweek ông Alexander Shimkia đã mất tích tại tỉnh Quảng Trị từ hai hôm nay.
Shimkia, 27 tuổi, hôm thứ Tư vừa qua đã cùng một ký giả khác dùng xe Jeep đi trên Quốc lộ 1 và bị lọt phục kích của CSBV.
Ký giả thứ hai là ông Chad Huntley hãng UPI đã thất lạc với bạn đồng hành và bị thương nhẹ vì mảnh lựu đạn. Tuy nhiên, anh ta đã trở về được phòng tuyến VNCH sau hai ngày đi bộ.
Tại Saigon, Ký giả Pháp Michel Dumont mất tích hơn 3 tháng nay ở quận Lộc Ninh và vừa trở về được, tuyên bố ông ta bị CSBV bắt làm tù binh và chúng đã phóng thích ông ta nhân ngày lễ của Pháp 14-7. Ông thuật lại là CSBV đối với ông ta rằng “Chúng tôi trả tự do cho ông để ông có thể ăn mừng kỷ niệm ngày giải phóng nước Pháp và chứng tỏ sự liên lạc tốt đẹp giữa chúng tôi và nước Pháp.” Sau đó ông được phóng thích và chúng chỉ đường cho ông đi vài cây số đến một tiền đồn VNCH.
Michel Dumont thuật rằng ông bị bắt cùng với 2 cố vấn Mỹ. Hai người cũng bị thương vì mảnh đạn trái phá và đạn trực thăng như ông. Hai người Mỹ đã bị thương trong một cuộc tấn công của phi cơ Hoa Kỳ, toan bỏ trốn. Họ bị bắt lại và cả ba bị đưa sang KPC vùng Snoul, bằng chiếc xe Jeep của một cố vấn Mỹ. Tên lính CSBV lái xe có lẽ lần đầu tiên cầm lái bánh xe Jeep, và lái một cách quá tệ. Cuộc hành trình thật nguy hiểm, và một trong hai người Mỹ đã luôn mồm đòi trả tay lái lại cho ông ta.
Michel Dumont nói ông ta được đối đã tử tế. Trong những ngày đầu, ông ta bị giam riêng, không được gần 2 Cố vấn Mỹ. Ông ta bị thẩm vấn nhiều lần và phải điền vào nhiều tờ khai nói rõ ông ta không làm việc cho người Mỹ.
Michel Dumont mong được nghỉ ngơi và viết lại về những ngày bị giam cầm. Ông cũng tỏ ý tiếc đã bị mất hết cả phim ảnh và cuốn nhật ký trong những ngày tù, vì bị các tên lính gác BV đã lấy mất.
1 chú lính B.V. sống sót nhờ nhớ kỹ lời cha dặn
HOA THỊNH ĐỐN, 14.7 (VOA): Nhiều tin tức đáng chú ý từ các mặt trận phát ra, đặc biệt là từ các vùng giới tuyến. Sau dây, thông tin viên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ tường thuật một vài nguồn tin liên hệ tới các cán binh CSBV.
Tiểu đoàn Thiết giáp 297 CSBV hoạt động tại mặt trận B3 đương phải đối phó với vấn đề tinh thần của cán binh Cộng sản. Cấp chỉ huy và binh sĩ của tiểu đoàn đã thảo luận vấn đề là làm thế nào để sống sót trong một trận đánh. Các binh sĩ thì muốn mang theo quân trang cá nhân như là võng và quần áo đề để tháo chạy khi chiến xa bị phá hủy, còn cán bộ thì ra lệnh là nếu binh sĩ nào bỏ xe tháo chạy giữa trận chiến thì sẽ bị bắn bỏ.
Tin từ mặt trận An Lộc cho biết có một chú lính Cộng sản BV đã ra đầu hàng với cây súng còn nguyên đủ đạn không thiếu một viên nào, chốt an toàn ở súng cũng chưa mở, nghĩa là chú không kịp bắn phát nào thì đã vội ra hàng. Báo chí khi tiếp xúc với chú đã gọi chú ta là chú, bởi vì người hàng binh Bắc Việt này tuổi hãy còn quá nhỏ, cỡ chừng 14, 15 nhưng chú khai là 16 tuổi.
Khi một sĩ quan VNCH hỏi chú sao chưa bắn một phát nào mà đã hàng thì chú linh Bắc Việt thành thật kể lại là trước khi lên đường theo chân đoàn quân viễn chinh vào Nam, ông thân sinh của chú gọi chú vào phòng kín dặn nhỏ là vào đó thì đừng có dại dột bắn giết gì hết, cứ ôm súng mà chui vào một cái hố nào đó và hễ thấy thuận tiện có cơ hội là chạy ra hàng ngay thì chắc chắn sẽ được sống.
Suốt thời gian xâm nhập, chú lính này luôn luôn tâm niệm lời căn dặn của cha, vì vậy chú không giám bắn một phát đạn nào mà chỉ rình cơ hội để ra đầu hàng, hầu bảo vệ mạng sống, và quả nhiên là chú đã sống sót, còn được nuôi nấng tử tế, trong khi các bạn đồng đội của chú lần lượt chết gần hết.
Các chiến sĩ Dù ở Hải Lăng đã cho biết lính Cộng Sản Bắc Việt phần đông còn nhỏ tuổi quá nên vừa không biết đánh trận vừa nhát. Những lính Cộng sản này chưa đánh đã chạy, có nhiều chú bỏ xe tăng mà chạy trong khi xe không bị tấn công và máy vẫn còn nổ.
Và cũng có chú lính Bắc Việt ra hàng với khẩu súng còn nguyên cả băng đạn không kịp bắn phát nào, tuy nhiên chú lính Bắc Việt thì lại khai là: «Em có bắn nhưng súng không nổ», mà thật ra là vì chú chưa mở chốt an toàn.
#Tien Tuyen Jun. 13, 1972 trang hai
GẠO ... GIÃ
by Nguyễn Kim Phượng
#Tien Tuyen Jun. 13, 1972 trang hai
GẠO ... GIÃ
by Nguyễn Kim Phượng
Trong rất nhiều nhật ký của cán binh Cộng sản (CS) ta bắt được, thường có bài thơ sau đây của «Bác Hồ»: “Gạo bỏ vào giã bao đau đớn / Gạo giã xong rồi trắng tợ bông / Sống ở trên đời người cũng vậy / Gian nan rèn luyện mới thành công”.
Nếu lấy khẩu khí mà nói, bài thơ sặc mùi «bần cố nông lao động», và đượm một tinh thần chịu đựng tối đa, đồng thời gây một ảo tưởng «thằng Bờm», nghĩa là đưa miếng cơm tới miệng vô sản…
⚫ Nhưng như đã biết, «Bác Hồ» không bao giờ đã là bần cố nông cả, nên đây không thể là bài thơ khẩu khí! À, nếu vậy chỉ là thơ «Bác» làm để đốt đít mấy anh cán bộ vào Nam…
“Thế là, hết từ nay CON đi mãi / Còn mong chỉ ngày trở lại BÁC ơi”.
Hai câu thơ của Tố Hữu, sửa vài chữ, rất ăn hợp với thơ «Bác Hồ». Vậy là thành phần thượng lưu lao động toa rập nhau thống trị và giã gạo giai cấp vô sản đi Nam…
⚫ Thay vì ông chủ không sợ chết để được làm ông chủ, thì ở đây nô lệ lại không sợ chết để làm nô lệ. Trong tiến trình chủ tớ, thay vì nô lệ sẽ dần dần phản tỉnh để làm cách mạng tới chỗ đạt thân, ra khỏi vong thân, thì lại cứ cắm đầu cắm cổ chúi mũi đi tới chỗ đến chết để … ô hay … vẫn cứ làm nô lệ cho Bác, Đảng!. Đó là cái ngụy sự trong biện chứng nền tảng của Marx, hay nói đúng của thầy của Marx.
⚫ Đều nói vậy mà chơi chứ tụi cán binh cộng sản biết chó gì nền tảng, lý luận duy vật này nọ. Giỏi lắm đảng nhét cho dăm câu lý luận «bần cố», rồi cứ thế mà suy ra trong cõi mù tịt, mịt mờ lao đi, tìm thắng lợi cho Duy Vật…
Hồ Chí Minh đã chơi khăm, biết cái dân Việt Nam nông nô ưa ca hát, ngâm ngợi (mà học giả thường gọi là gia tài thi ca bình dân, đầy thi sĩ tính), nên ông và các cán bộ cao cấp chuyên môn làm thơ tặng cho nông nô đi công trường, nông trường ca hát…
⚫ Gạo trắng trăng thanh của thuở bình yên cũ nay trở thành «gạo trắng bao đau đớn» … Cứ thế, chừng nào «gạo trắng tợ bông» thì đã có Đảng thu hoạch tòm tem … Chán cái mớ đời cán binh cộng sản….
⚫ Trong nhà Phật có một cái kiến gọi là Tà Kiến. Sau Tà Kiến có một cái kiến gọi là Kiến Thủ Kiến. Mấy anh cán binh, suy theo đạo Phật, đã thâm nhập tà kiến, tức là cứ thấy «là ta» một bên, nhứt định chỉ thấy một bên, không thấy có hai bên… Còn Bác, Đảng ôm lấy kiến thủ kiến, tuy có thấy rõ hai bên, bốn bề, nhưng tại đã phóng theo triết của Marx, thân danh, tư tưởng, ngôn luận, kiến thức gì gì đều thủ vào Marx… Nên họ nhứt định, là Marx sẽ thay Phật, Chúa dẫn nhân loại vào thiên đường tương lai … có gạo trắng tợ bông do các cán binh lấy xương trắng mà giã trong «gian nan rèn luyện»...
⚫ Ô hô! Ai tai! ai chẳng biết “sống ở trên đời người cũng vậy, gian nan rèn luyện mới thành công”, nhưng thành công cốc thì rèn luyện làm cái mẹ gì cho nó đau đớn thêm cuộc nhân sinh vẫn đã nhiều đau khổ!.
Thênh thang một cuộc đời, lại cứ chui nhủi đi tìm thiên đàng tối mịt. Hà vi? «ấu vi cán binh lão hà vi?» Ta giận quá, xổ nho bậy chơi vậy…
Nguyễn Kim Phượng
đang updating...
$pageOut$pageIn $pageOut $pageIn$pageOut $pageIn$pageOut $pageIn$pageOut $pageIn$pageOut $pageIn$pageOut các Phần tiếp theo ==>
.
Related Articles:
➯ Chứng Tích bên phía CSBV part 2 - written & collected by Le Tung Chau - ngày khởi đăng Mar. 15, 2025
➯ Hào Khí Quân và Dân miền Nam - written & collected by Le Tung Chau - ngày khởi đăng Jan. 4, 2025
➯ Vụ Tướng Lavelle năm 1972: Vết Nhơ Mở Màn Tấn Tuồng 'Đồng Minh Tháo Chạy' của Mỹ - by Le Tung Chau, Oct. 10, 2024
➯ Chứng Tích bên phía CSBV - written & collected by Le Tung Chau - ngày khởi đăng Jun. 9, 2024
➯ Sách, Tài liệu VNCH by Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng - ngày khởi đăng May. 11, 2019
➯ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu - LTC tổng hợp - ngày khởi đăng Jun. 10, 2022
➯ Chứng Tích bên phía CSBV part 2 - written & collected by Le Tung Chau - ngày khởi đăng Mar. 15, 2025
➯ Hào Khí Quân và Dân miền Nam - written & collected by Le Tung Chau - ngày khởi đăng Jan. 4, 2025
➯ Vụ Tướng Lavelle năm 1972: Vết Nhơ Mở Màn Tấn Tuồng 'Đồng Minh Tháo Chạy' của Mỹ - by Le Tung Chau, Oct. 10, 2024
➯ Chứng Tích bên phía CSBV - written & collected by Le Tung Chau - ngày khởi đăng Jun. 9, 2024
➯ Sách, Tài liệu VNCH by Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng - ngày khởi đăng May. 11, 2019
➯ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu - LTC tổng hợp - ngày khởi đăng Jun. 10, 2022
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...