. .

Wednesday, March 18, 2009

GIỜ THỨ HAI MƯƠI LĂM (cont.)- C. V. GHEORGHIU


GIỜ THỨ HAI MƯƠI LĂM
C. V. GHEORGHIU

(tiếp theo và hết)

(124)

Đơn Thỉnh nguyện số 1.- Vấn đề kinh tế (Chất mỡ).
Tôi sẽ gởi nhiều đơn thỉnh nguyện cho các người. Đơn khởi đầu này bàn về vấn đề kinh tế. Tôi biết nền văn minh kỹ thuật lập trên nền tảng vật chất. Kinh tế là thánh kinh của các người.
Tôi là văn sĩ, và mỗi văn sĩ là một người chứng. Đức tính của một nhân chứng là phải vô tư.
Vì thế, những đơn thỉnh nguyện của tôi đều là những chứng cứ của “Sự thật”.
Vấn đề tôi giải thích nơi đây, theo tôi, thật quan trọng: Chất mỡ.
Các người tất hiểu rõ tình trạng thiếu thốn chất mỡ trên Thế giới hiện nay. Khi tôi đến trại giam này, bọn tù đang ngủ dưới đất, nằm khít nhau. Tôi khó khăn lắm mới kiếm được chỗ nằm. Tôi vừa ra khỏi khám và mệt mỏi. Cánh đồng bao quanh trại giam rộng minh mông. Tôi không hiểu tại sao các người thâu hẹp trại giam đến dường này!
Mười lăm ngàn người trong trại, thường chật khít đeo. Lúc họ đứng, thì còn có chỗ, nhưng lúc nằm, thì chỗ quá hẹp, họ gần như chồng chất lẫn nhau. Phần tôi trọn đêm, tôi không ngay chân được. Mấy người nằm chung quanh tôi, gác cẳng lên đầu tôi. Chân họ nóng và họ gác lên mình tôi suốt đêm, nên tôi không thấy lạnh.
Bây giờ tôi mới hiểu được tại sao các người thâu hẹp trại giam: vì bọn tù đạp chết cỏ, mà các người muốn tiết kiệm cỏ mọc trên cánh đồng. Cỏ cũng đắt tiền, đứng giẫm lên cỏ như thế thật tổn hại, uổng phí vô ích. Tốt hơn nên để cho bò cái ăn, vì bò cái cho sữa, còn bọn tù thì có cho được gì đâu?
Mặt khác, nếu nới rộng trại giam, các người phải dùng nhiều dây kẽm gai. Dây kẽm gai thì đắt, mà tổn phí thêm, cốt để cho bọn tù có rộng chỗ để nằm ngay thẳng, nhắm không cần ích gì.
Thêm nữa, gặp cảnh đông thiên lạnh lẽo và mùa mưa sắp đến, phần đông bọn tù sẽ chết. Cũng có bọn chịu không nổi chết trước lần hồi, tụi còn sống tha hồ có chỗ rộng rãi mà nằm duỗi chân. Tôi tin rằng khi dựng trại giam này, các người đã dự liệu khoản ấy. Tôi không còn biết cách nào hơn là nghiêng mình bái phục trước sự dự tính xác đáng rất khoa học của các người.
Trước khi ngủ, tôi có nghe đọc một bài thuyết trình. Diễn giả, tự cho là giáo sư Đại học đường Berlin, nói về vấn đề: Chất mỡ. Và chính do đề tài của bài thuyết trình ấy mà tôi đem ra thảo luận với các người trong bản thỉnh nguyện này.
Mỗi ngày, giáo sư đếm mấy hột đậu trong cháo phát cho chúng tôi ăn tại trại giam. Ông đếm trọn ba mươi ngày liên tiếp, trưa và chiều, những hột đậu trong cháo của khẩu phần ông. Ông cộng lại và lấy số trung bình. Rồi ông quả quyết: một tù nhân được mỗi ngày mười hột đậu, trong hai buổi cháo. Mấy viên cộng sự của ông cũng đếm hột đậu trong ga-mên cháo của họ và nhìn nhận bài toán trúng.
Kế đó, giáo sư đếm vỏ khoai lang tây và ước phỏng số lượng chất bột đựng trong cháo. Bài tính này cố nhiên là tính phỏng chừng vì giáo sư không được phép vô nhà bếp.
Các người đều biết như tôi, rằng dân Đức rất sành về sự cân lường lắm. Nên ta được phép giả thiết rằng các hột đậu được đếm rất đúng. Dân Đức nhẫn nại và thận trọng. Sau ba ngày làm việc tỉ mỉ cẩn thận, giáo sư hoàn thành công trình khảo cứu, rồi mới đem ra thuyết trình và được tất cả cử tọa thẩm định về chân giá trị xác đáng của nó. Dân Đức thích nghe diễn thuyết về nhiều đề tài khác nhau. Thói quen cổ truyền ấy có từ đời Trung cổ. Thuật xong việc lượt cháo trong rây để đếm hột đậu mỗi ngày, giáo sư cho biết số nhiệt lượng chứa trong một hột đậu. Tôi không nhớ rõ con số. Rồi ông tính số nhiệt lượng trong mười hột đậu, cộng với số nhiệt lượng của khoai lang và bột mà bọn tù chẳng bao giờ thấy, nhưng giáo sư đã nhìn nhận là có. Rồi ông kết luận, mỗi ngày một tù nhân nhận được trung bình năm trăm nhiệt lượng. Một hai khi, họ được ít hơn. Có bữa, chính giáo sư không thấy một hột đậu nào trong cháo,- và mấy ngày ấy, ông không có gì để đếm. Nhưng cũng có mấy ngày khác, ông đếm được đến mười lăm hột, và có khi đến mười tám hột đậu. Như thế, số trung bình mười hột đậu là đúng!
Bọn tù không ngủ trọn ngày; tuy nhiên, giáo sư cũng làm toán kể như tù nhân, trong lúc thức, cũng cần dùng một số nhiệt lượng tương đương với số tiêu thụ nếu họ ngủ trọn ngày. Tối thiểu: một ngàn nhiệt lượng.
Bọn tù chỉ nhận được có năm trăm nhiệt lượng khi ăn hột đậu. Cái số năm trăm nhiệt lượng cần có thêm, họ phải trích trong mỡ dự trữ cho da thịt họ, nghĩa là trong số nhiệt lượng tích tụ trong thân thể họ. Và bởi mỗi ngày, họ phải trích ra năm trăm nhiệt lượng dự trữ khi họ mới đến trại giam, nên mỗi tháng, bọn tù ốm mất sáu cân mỗi người.
Cố nhiên, đây là tính lấy trung bình. Giáo sư cũng có cân mấy tù nhân với bàn cân và trái cân tạm đỡ. Song dường như mấy khí cụ cân lường tạm ấy cũng khá đúng. Mỗi tháng mỗi tù binh mất đi sáu cân, nghĩa là ba kí-lô mỡ để tạo thành nhiệt lượng. Như thế, chỉ nội một trại giam Ohrdruf, dưới thẩm quyền cai quản của các người, tổng cộng mỗi tháng có bốn mươi lăm ngàn kí-lô chất mỡ mất đi. Mỗi tháng, năm toa xe đầy chất mỡ đi ra khỏi trại giam. Chất mỡ tiêu tan trong không khí. Mười lăm ngàn tù binh bỏ mất trong không khí một số quan trọng chất mỡ như thế, thì các người thử tính xem kết quả số tổn thất là ngần nào. Riêng phần tôi, tôi không phải nhà kinh tế học. Tôi không biết giải pháp nào để chỉ giúp các người. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng, với phương tiện kỹ thuật sẵn có, các người có thể dùng tổng số mỡ sống ấy vào nhiều việc lợi ích.
Tại sao lại bỏ mất đi?
Đấy là mục đích của bản thỉnh nguyện của tôi.
Tôi tin chắc vào sự hiểu biết của các người. Các người thuộc về một dân tộc tiến bộ nhứt của nền văn minh kỹ thuật. Mong rằng các người sẽ gởi một tờ phúc trình về vấn đề này cho Viện Hàn lâm khoa học của xứ sở các người. Còn gì dã man hơn, là để tiêu mất bốn mươi lăm ngàn kí-lô chất mỡ mỗi tháng như thế? Vả lại, các người còn những trại giam khác nữa. Hình như ở Đức có vài trăm trại giam. Vậy các người có thể được cả núi chất mỡ “sống” mỗi ngày.
Từ khi nghe bài thuyết trình của giáo sư Đại học đượng Berlin, tôi hít mạnh không khí và ngửi thấy mùi mỡ người.
Trại giam của các người là một máy ép khổng lồ rút mỡ tù nhân. Tôi đánh hơi nó trong không khí. Các người có khi nào nghe mùi ấy chăng, lúc làm việc tại văn phòng, cửa sổ mở rộng. Dầu sao, áo quần các người ắt cũng có thấm mùi mỡ ấy. Hỏi thử vợ hoặc người yêu của các người coi, tối ngủ, nằm bên cạnh, họ có ngửi thấy da, tóc các người phưởng phất mùi mỡ đó hay không? Đàn bà thích hơi hơn chúng ta. Họ sẽ nói đúng hơn. Còn tôi, khi nghĩ đến điều đó, tôi thấy quả tim rộn lên, tôi muốn nôn mửa.
Hãy nhận nơi đây lời chào và niềm kính phục của tôi. Tôi rất hâm mộ nền Văn minh mà các người đại diện. Tôi tin chắc rằng, với tài lực và phương tiện kỹ thuật sẵn có, các người có thể sử dụng tất cả chất mỡ nói trên (xin đường quên tôi đây cũng góp mỗi tháng ba kí-lô mỡ của thân xác tôi).

(125)


Đơn Thỉnh nguyện thứ nhì.- Vấn đề thẩm mỹ (Quan niệm về vẻ đẹp con người trong xã hội kỹ thuật Tây phương).
Buổi chiều nọ, tôi có tranh luận về thẩm mỹ với một giáo sư Đức. Và chúng tôi đã cãi cọ gây gỗ nhau. Dân Đức, như tất cả người Âu châu khác, đều giữ theo phái cổ điển. Vì thế, nên xã hội họ sụp đổ. Một xã hội lành mạnh và tiến hóa như xã hội của các người, có một kỹ thuật kim thời hơn.

Giáo sư Đức chỉ cho tôi xem mấy tù nhân đi dạo trong sân trại giam. Họ chỉ còn da bọc xương, như các người đã biết. Giáo sư cho họ xấu xí quá, ông quan niệm theo lý tưởng mỹ thuật Hi-lạp.
Theo tôi, con người mà chỉ còn xương với da mới thật đẹp, đó mới thật là những công trình linh hoạt về mỹ thuật.
Tôi cố thuyết phục giáo sư Đức rằng xã hội Văn minh của các người đã thẩm định cái Đẹp tới một mức độ mà đến ngày nay chưa có xã hội nào đạt tới. Và các người đã thực hành việc “rút” mỡ con người chỉ vì mục đích thuần túy thẩm mỹ, để tô điểm vũ trụ. Nhưng giao sư không hiểu. Người Đức chậm hiểu lắm. Nên người ta nói họ có đầu vuông. Ngày mai tôi sẽ thuyết trình bài lý tưởng về vẻ đẹp con người trong xã hội Tây phương hiện nay.
Có một nhà điêu khắc Thụy-sĩ tên Alberto Giacometti đã thực hiện trong ngành điêu khắc đúng theo nguyên tắc và lý tưởng về vẻ đẹp con người, nam giới và nữ giới, mà các người đã thi hành, bằng cách làm tan mất chất mỡ trong xác thịt người ta! Khi nặn tượng, nhà điêu khắc cố gắng loại hết chất mỡ trong thân thể con người và trong không gian. Thành thử, thân thể người ta chỉ thu lại còn khuôn khổ một chiều, hình dáng dài nhẵng và khô khan, cỡ bằng sợi dây thép.
Các người cũng đã làm như thế trong trại giam này. Tôi biết từ lâu rồi, văn minh toàn diện của các người đều căn cứ trên nguyên tắc thẩm mỹ ấy.
Và một ngày kia, trên khắp địa cầu mà chỉ còn toàn những người có thân hình điều hòa theo thuyết thẩm mỹ của nhà điêu khắc Giacometti,- và của các người-, thì vũ trụ sẽ tưng bừng đẹp đẽ làm sao!

NGƯỜI CHỨNG


(126)

Traian nói:
- Anh Moritz ơi! Tôi viết đã ngót bốn chục đơn thỉnh nguyện, trong ấy tôi muốn trình bày cho họ rõ tất cả sự thật và thuyết phục họ đừng hành hạ con người nữa. Tôi tin chắc lý lẽ của tôi. Mỗi đơn, tôi trình bày khéo lắm. Nhưng vô hiệu. Tôi dùng đủ lối văn: văn tòa án, văn ngoại giao, văn điện tín, văn nhà bếp mua đồ, văn quảng cáo rao hàng; khi thì dùng tình cảm gợi lòng trắc ẩn, khi thì sỗ sàng thô tục, khi thì cầu khẩn van lơn, tôi nài xin xét xử bằng đủ mọi cách trong cảnh tuyệt vọng của tôi, nhưng tôi không được phúc đáp.
Tôi nói nhiều sự thật trắng trợn, nhưng họ không giận tôi. Tôi quỳ gối viết đơn gởi họ; nhưng họ không động lòng thương hại. Tôi chửi rủa họ thậm tệ, song họ không thấy bị thương tổn. Tôi muốn chọc họ cười, kích thích tính tọc mạch của họ, nhưng đều vô ích. Tôi không khêu gợi được tấm lòng cao cả của họ hoặc sự khao khát tầm thường của họ nữa. Tôi không thể chọc cho họ phản ứng được. Thà tôi nói với đá cục còn hơn. Họ không tình cảm, không biết oán hận, cũng không biết trả thù. Họ không biết thế nào là động lòng trắc ẩn. Họ làm việc máy móc và chẳng đếm xỉa đến những khoản gì không có ghi trong chương trình. Tôi có thể lột một miếng da tôi để viết đơn với máu còn nóng hổi của tôi, họ cũng không đọc đến. Họ sẽ liệng nó vào sọt giấy như mấy đơn khác. Họ cũng không thấy đó là miếng da thịt còn nóng hổi của con người. Họ đối với con người một cách dửng dưng. Đó là tính lãnh đạm của một “Công dân” đối với con người, tính lãnh đạm ấy còn hơn tính lãnh đạm của máy móc.
Moritz chạnh lòng thương cảm nói:
- Tội nghiệp ông Traian! Ông định làm gì khi viết mấy đơn ấy. Theo tôi tưởng đừng thèm viết nữa là hơn.
- Tôi vẫn tiếp tục viết. Chỉ khi nào chết mới thôi. Con người chế ngự được tất cả thú rừng. Tại sao ta lại không chế phục được “Công dân”.
- Hay là ta tìm cách khác để cảm hóa họ. Cứ viết hoài, sợ không đi đến đâu.
- “Bao nhiêu thành công của con người từ cổ chí kim, đều do trí óc. Thì ta sẽ nhờ trí óc mà chế ngự được các “Công dân” trong văn phòng chúng nó.
“Nếu ta không chế ngự được chúng nó, thì chúng nó sẽ xé xác ta từng mảnh, hết thảy tất cả chúng ta. Ta phải dạy chúng nó biết, hễ gặp con người, đừng làm khổ họ. Bằng không, ta không thể cùng sống trên mặt đất, chung một thành phố, chung một nhà với chúng nó được. Còn khó hơn dụ rắn, khó hơn thuần phục cọp dữ. Nhưng tôi lạc quan lắm. Chắc là sự lạc quan của con người sắp chết. Phút hấp hối của tôi là chương “Đơn Thỉnh nguyện” của giờ thứ hai mươi lăm. Nhưng tôi sẽ viết chương ấy!”.

(127)

Đơn Thỉnh nguyện số ba.- Đề tài: Tiết kiệm (Tù nhân chỉ còn phân nửa hoặc một phần ba thân mình).
Trong bốn ngày liên tiếp, tôi và một người bạn đã đếm nơi trại giam này những tù nhân chỉ còn phân nửa, một phần ba hoặc một phần năm thân mình. Bạn tôi chưa kiểm xong các bảng thống kê, anh giỏi toán lắm. Nhưng tôi lật đật viết đơn này vì, theo tôi, vấn đề có tính cách khẩn cấp về phương diện kinh tế. Các người có thể tiết kiệm mỗi ngày ít lắm vài triệu đồng “mark”.
Thì đây: trong số mười lăm ngàn tù nhân nhốt chung với tôi, lối ba ngàn không đủ thân mình trọn vẹn. Trong số ấy có hai trăm người không có chân, chỉ lết đi như loài rắn bò trong trại. Một ngàn hai trăm chỉ có một giò. Một vài trăm còn một tay. Một mớ khác cụt cả hai tay. Đó là nhận xét bên ngoài.
Một số lớn đã thiếu mất vài bộ phận bên trong: một lá phổi, một trái cật, vài lóng xương, v.v… Bốn mươi tù nhân không có mắt. Tất cả đều bị bắt bớ một cách tự động, cùng một lượt với tôi. Lúc đầu, tôi thương hại họ. Bạn Moritz tôi nhắm mắt lại mỗi khi thấy mấy người cụt tay cụt chân tàn phế tật nguyền trong trại. Nhưng anh Moritz là người chất phác cổ lỗ. Anh không hiểu lối bắt bớ tự động này, và cũng không biết hễ là phần tử của hạng nào bị giam cầm, thì không ai được thoát khỏi, dầu chỉ có một chân, không mắt, không mũi hoặc một lá phổi đi nữa. Sự bắt bớ tự động này không miễn cho người tàn tật nào cả. Đó là công bình. Muốn công bình phải thi hành gồm tất cả, không có ngoại lệ.
Trong trại này có một giáo sư cụt mất hai cánh tay, vì bị thương ở mặt trận; khi các người ra lịnh bắt mấy giáo sư, không lý nào lại miễn trừ bạn tôi, vì anh không có tay. Có gì liên quan giữa sự bắt bớ và hai tay đâu? Không, anh là giáo sư thì anh bị bắt cùng một lượt với hạng giáo sư mà anh thuộc vào hạng đó. Các người đã thi hành đúng như vậy. Và các người không bao giờ lầm! Vì thế, tôi phục các người làm sao! Tôi có thể hy sinh đời tôi, bất cứ giờ nào, cho nền Văn minh vĩ đại và tốt đẹp của các người. Các người là hiện thân của Công bình và Tinh xác.
Trở lại vấn đề chánh: các tù nhân tàn phế ấy chỉ còn là những mảnh thịt, mà cũng được một khẩu phần lương thực như người toàn vẹn, thì thật là một đại bất công.
Tôi đề nghị cho họ một khẩu phần tương đương với thân xác còn lại của họ. Chánh phủ các người đã hy sinh lớn lao để lo cung cấp khẩu phần lương thực cho tù nhân. Nói tù nhân, là kể một người toàn vẹn. Nếu gom ba ngàn tù nhân tàn tật ấy và đếm số tay, chân, mắt, phổi của họ mất đi, thì thật sự chỉ còn độ hai ngàn người là nhiều.
Như thế, các người có thể tiết kiệm ít lắm một ngàn khẩu phần mỗi ngày. Tại sao các người lại chi tiêu để nuôi những bộ phận mà tù nhân không còn nữa? Phải là nhân đạo sái đường không?
Tôi chắc thượng cấp sẽ hài lòng khi các người báo cáo trường hợp này. Có thể các người sẽ được ân tứ huy chương nữa là khác. Làm như thế, các người sẽ thực hiện cho quốc gia một số tiết kiệm to tát. Và ai cũng biết chỉ có tiền bạc là điều đáng kể mà thôi. Vì tin chắc về lẽ ấy, nên tôi mới có bài luận này.
NGƯỜI CHỨNG

(128)

Đơn thỉnh nguyện số bốn.- Quân sự (Biến cải đàn ông thành đàn bà).
Vì đói kém, thiếu ăn, bọn tù trong trại giam bị biến tính, những biến tính ấy là một quyền lợi quân sự lớn lao cho các người. Câu chuyện tóm lược như vầy:
Bọn tù bị bắt giam lâu năm mà chỉ nhận có 500 nhiệt lượng mỗi ngày để sống, nên họ không cần cạo râu nữa. Bình thường, mỗi ngày cạo một hoặc hai lần. Khi vô trại giam, thì bắt đầu cạo một lần mỗi hai ngày, rồi một lần mỗi tuần, kế đến hai lần trong một tháng. Sau rốt, không cạo nữa. Râu họ mọc thưa lần, và giống như lông măng, những lông măng rồi cũng tiêu mất nốt. Mặt họ trở nên hiền hậu và trơn tru như mặt đàn bà. Nhưng chưa hết đâu. Giọng nói của họ cũng thanh tao như giọng đàn bà. Có vài tù nhân, vú họ nở nang to đẫy như vú thiếu nữ mười ba. Da họ mịn màng, êm mượt như da phái đẹp. Tôi không biết rõ cơ quan sinh dục họ có bị biến thể không, nhưng tôi tin chắc, với cách ăn uống như thế này (và nhứt là các người còn định giảm bớt phần ăn xuống) thì các cơ quan ấy sẽ teo mất, và chừng đó, họ sẽ biến hẳn thành đàn bà.
Bác sĩ cho rằng vì đói kém và thiếu ăn, nên sự phần tiết chất kích thích tố sẽ giảm lần đến ngưng hẳn.
Vả lại, gan quá yếu không làm phận sự điều tiết như bình thường: nó còn đủ sức diệt trừ kích thích tố nam tính thặng dư, nhưng lại để kích thích tố nữ tính vượt qua được. Thành ra, sự quân bình điều tiết đã mất, cơ thể đàn ông, vì đó, biến thành hình trạng cơ thể đàn bà.
Sự nhận sét này có ảnh hưởng quan trọng về quân sự của nền Văn minh các người. Thử nghĩ đến cảnh yên tĩnh bao trùm vũ trụ, khi các người bắt giam kẻ thù địch dã man trong trại giam,- như các người đang làm đây-, mà chỉ cho họ có vài trăm nhiệt lượng mỗi ngày để sống, thì họ sẽ biến thành đàn bà hết. Các quốc gia thù địch các người sẽ không có đàn ông. Còn ai đâu để gây chiến tranh với các người. Tôi tin rằng Bộ Tham mưu tối cao của các người sẽ thực dụng phát kiến này. Vịn vào tinh thần thực tiễn và óc sách chế của nền Văn minh các người, tôi còn tin các người sẽ áp dụng ngược lại phát kiến ấy, là nuôi thúc những phụ nữ nào của các người tình nguyện muốn biến đổi thành đàn ông. Nhân công nhờ đó sẽ tăng gia gấp bội.
Tôi đề nghị bớt xuống tỷ số 500 nhiệt lượng cấp cho tù binh. Có lẽ họ sẽ càng trở thành đàn bà mau lẹ hơn.
NGƯỜI CHỨNG

(129)

Sửa soạn ra đi. Mười lăm ngàn tù nhân phải dời đến trại giam khác. Mới hai giờ khuya. Xe tăng, xe cam nhông đậu bao quanh trại. Đèn “pha” chiếu sáng như ban ngày. Súng ca-nông và các súng máy tự động chong xỉa vào đoàn tù đang tủa đi ra cửa, như nước sông chảy. Traian và Moritz đi gần nhau. Moritz lạnh run, răng đánh bò cạp.
Ngoài cửa, có hai toán quân lính cầm ba-ton, đếm tù nhân đi ra, rồi chia từng nhóm.
Traian nói:
- Xe cam nhông thường thường chỉ chở được mười hoặc mười hai người, mà họ muốn chất đến bảy chục. Làm sao bây giờ? Anh có nghe nói đến định luật “bất khả thấu nhập thân thể con người” chưa?
Moritz không trả lời. Anh đang run. Traian chăm chỉ xem bọn lính xếp tù nhân lên chiếc cam nhông đầu tiên. Trước hết, họ cho bốn chục người lên. Thấy thì không còn chỗ cho người nào nữa hết. Bọn lính bèn lấy cây đập mấy tù nhân trên xe, họ đứng khít lại nhau. Bọn lính cho leo lên mười người nữa. Và cây lại nện bổ vào bọn tù, tốp mới lên dồn ép vào mấy người trước: như thế, lại có chỗ. Bọn lính lại cho lên thêm mười người nữa. Bây giờ, người ta dám thề rằng chẳng còn chỗ nào hết, dầu cho một đứa con nít! Thì bọn lính liền trở bá súng đập tưới vào đám tù. Và thêm mười người nữa leo được lên xe.
Trọn nhóm bảy chục người, không còn ai ở dưới đất. Tất cả đều lên trọn đủ trên xe. Lính ngừng đánh. Xe chờ lịnh chạy. Traian nắm tay Moritz leo lên một xe cam nhông khác. Hai người không muốn bị lạc nhau.
Traian nói:
- Anh Moritz à! Không có luật nào tuyệt đối cả. Cho đến vật lý học cũng chẳng có định luật bất di bất dịch. Khoa học này quả quyết rằng “hai vật không thể cùng một lúc chiếm cùng một chỗ trống không gian”. Mà ở đây, bảy người chiếm có một chỗ của một người. Như vậy làm sao còn tin vật lý học nữa được? Anh có nghe nói đến họa sư Picasso chăng?
Moritz trả lời, tiếng hơi ngộp:
- Không!
Traian to lớn, thở được. Moritz nhỏ quá, đầu anh bị kẹp giữa các ngực. Buồng phổi bị ép sát đến không còn chứa đựng được một hớp hơi. Anh nói:
- Tôi ngộp quá!
Anh hoảng sợ, muốn khóc. Anh không cựa quậy gì được. Hai lỗ mũi anh tìm hơi thở,- một chút thôi,- và tìm cũng không ra. Anh cầu cứu:
- Ông Traian ôi! Tôi ngộp quá, chắc chết!
Traian hỏi:
- Sao anh không trả lời? Anh có nghe nói đến Picasso không?
- Tôi chưa nghe lần nào. Tôi không biết gì hết. Nhưng tôi ngộp quá! Chắc chết mất!
Traian muốn nâng đầu Moritz lên, nhưng tay mắc kẹt cứng. Ông không thể cử động, thân mình bị dồn ép tột bực, và đầu vượt cao hơn các đầu khác. Traian nói:
- Picasso là đại họa sư của xã hội Tây phương ngày nay!
Moritz rên rỉ:
- Tôi không nghe gì hết. Tôi muốn đưa cái mũi ra ngoài, chỉ một lỗ mũi cũng được. Ông Traian ơi, tôi van xin ông, cứu tôi với. Tôi chết!
Traian ráng kiếm một chút chỗ trống cho Moritz, nên áp đầu anh vào ngực ông.
- Picasso có vẽ chân dung anh, anh Moritz à, giống như hình anh bây giờ, đang kẹt trong xe cam nhông!
- Chân dung tôi? Tôi nghe không rõ. Lỗ tai tôi bị bít rồi!
- Phải! Chân dung anh. Giống hệt, và đúng y, như chụp bức ảnh. Có cả hình chiếc xe cam nhông của chúng ta nữa. Bảy người cùng chiếm một chỗ, trong một lúc. Người này có năm cẳng, kẻ kia ba đầu, nhưng không có phổi. Anh thì có tiếng nói mà không có miệng. Còn tôi chỉ có cái đầu, thiếu thân mình. Cái đầu vọt trong không trung, trên chiếc xe cam nhông… Khi tôi nhìn bức họa lần đầu tiên, hồi còn ở Ba-Lê, tôi thấy thích, nhưng không hiểu ý nghĩa gì. Và bây giờ, tôi mới hơi hiểu được rõ: ấy là bức tranh của chiếc xe cam nhông chúng ta đây. Vẽ rất giống, không bỏ sót một chi tiết nào. Họa sư cũng vẽ trại giam của chúng ta nữa. Ông vẽ như ông chụp ảnh. Toàn là chuyện có thật. Thật là một họa sĩ thiên tài.
Xe rồ máy chạy. Traian nhìn các người chung quanh. Họ hết phải là người. Không còn một sinh vật nào trên xe cam nhông đang chạy qua các đường nhỏ trong làng lúc đêm tối. Tuy nhiên, mấy người trên xe chưa chết, họ đang dở sống, dở chết. Một lúc họ còn sống, phút sau họ chết rồi. Có lúc, họ vừa sống vừa chết một lượt. Khu vực họ đang chiếm không còn khoảng trống. Khoảng trống bị thu hẹp cơ hồ như bị tiêu trừ. Khoảng trống đã mất.
Trong khu vực của họ, chỉ còn những người bị chứng phong giật, đang ngất ngư; mắt, thịt, không khí, thời gian, tư tưởng, tất cả đều bị chứng phong giật. Con người mất hết hình thức, trí óc. Họ bị động kinh toàn thể.
Traian hỏi Moritz:
- Anh còn thở được không?
- Tôi hết biết gì. Tôi có cảm giác thở được nhưng chỉ thỉnh thoảng, với một lỗ mũi thôi. Đây, chỗ này, nơi ngực ông, chỗ ba sườn ông…
- Thở một lỗ mũi là đủ rồi. Nghe nè, tôi nói với anh một chuyện quan trọng đây…
- Tôi không thể nghe được gì hết. Xin ông thứ lỗi cho.
- Ráng một chút, ráng nghe đây, quan trọng lắm!
Mọi khủng khiếp đều tự giải thích,
Mỗi thảm sầu rồi cũng đến nguôi ngoai!
Trong đời ta, không rãnh đâu lo mãi mối sầu dài
Song chuyện này, ngoài cuộc đời, ngoài thời khắc,
Là nỗi khổ ác triền miên, nỗi bất công vĩnh cửu
Chúng ta bị lấm bẩn vết nhơ khôn rửa được
Vết nhớp nhơ kết hợp với giống giòi mọt siêu nhiên
Chẳng riêng ta, chẳng riêng gì nhà cửa, Đô thị dính bẩn nhơ
Mà tất cả thế gian đều bị ô danh xủ uế
Moritz nói:
- Ông nói lớn lên, tôi chẳng nghe được gì hết.
Traian lại tiếp tục hết sức la to:
Hãy thanh khiết không khí! quang tạnh trời xanh! tẩy uế gió độc!
Hãy dọn lớp sỏi trên đá; lột da cánh tay; rứt thịt dính xương, và rửa sạch hết!
Hãy rửa đá, rửa xương, rửa não, rửa sạch linh hồn. Rửa sạch hết! rửa sạch hết!
Moritz lại nói:
- Tôi không hiểu gì cả. Ông có phước được thở. Ông không bị ngộp nghẹt!
Trong trại giam, người nhỏ thó ít khổ sở vì đói hơn người lớn vóc. Nhưng ở trên xe cam nhông chật ních bảy chục người này, xe chạy vùn vụt như bóng ma trên đường lang Ohrdruf này, bọn tù nhỏ thó lại gần chết ngộp vì thiếu không khí.
Moritz nói:
- Ông Traian ôi, ông đừng nói nữa, tôi cũng không nghe hiểu được nào.
- Nếu anh không nghe, anh sẽ chết…
- Nghe gì?
- Ông giáo sư Đức tính trật. Ông đã phạm lỗi nặng và sẽ đền tội.
- Người Đức nào đã phạm lỗi nặng?
- Giáo sư đã cân mỡ và thịt sống của thân thể chúng ta đó. Ông ta cân lúc còn đang sống, nóng hổi, để lường sự đau khổ. Nhưng sự đau khổ con người nào có thể cân lường bằng kí lô hay bằng “tấn” được đâu!... Cuộc sống không thể cân lường! Và kẻ nào thử làm công việc ấy sẽ phạm lỗi nặng, đáng chết.
Moritz nói:
- Tôi không nghe gì!
- Chuyện ấy không quan trọng. Người ta cũng ngã gục dẫu không nghe. Tài xế cam nhông, lính canh gác, quân sĩ cầm cây và súng máy chực sẵn để giết chúng ta, họ cũng không nghe gì hết. Không một ai đã nghe. Thế mà họ cũng bị ngã gục cùng một lượt với chúng ta, cũng y như chúng ta. Anh có thấy họ ngã quỵ chưa?
- Mắt tôi bị che khuất, tôi không thấy.
- Anh cũng không cảm thấy gì sao?
- Không! Tôi chỉ biết bị ngộp thở mà thôi!
Traian buồn rầu nói:
- Thì anh đã cảm thấy điều cần yếu rồi. Tại sao anh nói không? Ai cũng cảm thấy như anh, nhưng không muốn thú nhận mà thôi…

(130)

Đoàn tù nhân bị lùa vô toa xe chở súc vật.
Mỗi toa để chở hai mươi bốn con ngựa, được chứa một trăm bốn chục người.
Cửa toa xe đều đóng hết.
Các toa xe chót nhốt ba ngàn người đàn bà.
Xe lửa dài lắm. Traian ước muốn được thấy nó chạy đằng xa. Ông nói:
- Xe lửa này giống đoàn người hộ tống đi lên gò Golgotha. Song xe chúng ta là đoàn hộ tống khí giới hóa. Ta leo lên Golgotha bằng phương tiện kỹ thuật. Chúa Jésus thì đi bộ giữa hai kẻ cướp chính hiệu. Anh biết tại sao Chúa Jésus bị đóng đinh giữa hai tướng cướp không?
- Tôi không biết.
- “Để trừng phạt một người vô tội, thẩm phán quan có lệ kèm thêm hai tội nhân. Mưu mẹo cổ điển! Bọn Do thái chẳng dám xử thập tự giá Jésus một mình, nên mới cho kèm theo hai tướng cướp lẫy lừng, với tôn chỉ làm xao lãng quần chúng trong lúc hành hình.
“Anh, tôi, vợ tôi và nhiều người khác, chúng ta đều có mỗi bên một tội nhân kèm theo. Cũng một mưu mẹo như ở Golgotha, song tỷ lệ lại thay đổi. Hồi đó, một người vô tội kèm hai phạm nhân, bây giờ mười ngàn người vô tội mà chỉ kèm có hai phạm nhân. Song đây chỉ là một tiểu dị. Phương pháp vẫn là một. Vả lại, chúng ta bước lên thập tự giá một cách tự động, bằng phương tiện kỹ thuật. Nhưng mưu mẹo trẻ con quá. Khi hành hình xong, quần chúng không nói đến hai kẻ tội phạm chính hiệu cũng bị đóng định một lượt với Chúa Jésus, mà chỉ nhớ đến Chúa Jésus thôi, và nhớ có một mình Chúa Jésus. Lúc nào, chuyện cũng đã xảy ra như vậy. Và cho đến ngày nay, chuyện cũng sẽ xảy ra như thế, dầu hình phạt thập tự giá có thi hành một cách tự động, dầu chúng ta có đi lên Golgotha bằng xe lửa đi nữa”.
Traian bước lại gần cửa sổ bao lưới sắt của toa xe. Xe ngừng chạy. Moritz thấp, đứng không tới cửa sổ, hỏi:
- Ông có thấy gì không?
Traian đáp:
- Xe ngừng tại ga. Có xe khác đậu dọc theo xe mình.
Moritz tọc mạch hỏi:
- Cũng có chở tù nhân nữa hay sao?
- “Cựu tội nhân vừa được thả. Họ là người các nước ngoài, làm nô lệ cho Đức Quốc xã”. Traian ngó đoàn người đàn ông lẫn đàn bà đang đi đi lại lại xôn xao trên xe bên cạnh, rồi nói:
- Họ đều hút thuốc.
Moritz nuốt nước miếng!
Traian nói tiếp:
- Một người đàn bà xuống xe, đang ăn khúc dồi với bánh mì trắng.
Và Traian cũng nuốt nước miếng.
Moritz nói:
- Tôi muốn nhìn họ, biết đâu trong đám ấy tôi chẳng nhận được một người quen. Họ là người nước nào vậy?
Traian nhìn những cờ vẽ trên toa xe, và những cờ nhỏ đeo trên áo họ, rồi trả lời:
- Đủ các nước. Người đàn bà đang ăn bánh mì thoa “bơ” với khúc dồi mà cặp đùi cũng trắng nõn như bánh mì nàng ăn, là người xứ Danemark. Đứng sau nàng, là một người đàn bà Pháp. Cô này đẹp, có cặp mắt đen.
- Có người Pháp nào nữa không?
- Có cả một nhóm, họ đứng gần toa xe chúng ta. Cũng có dân Bỉ, dân Ý nữa.
Mối cảm tình thích mến người Pháp sống dậy trong lòng Moritz. Anh nóng nảy nói:
- Tôi muốn xem mấy người Pháp đó!
Traian bèn đỡ anh lên, cho anh coi rõ.
Moritz hân hoan nói:
- Đây là người Pháp. Cái anh đứng gần người Ý đó, giống Joseph làm sao! Ông thấy không?
- Joseph nào?
- Bạn của tôi. Tôi chưa nói ông nghe. Người mà tôi giúp vượt ngục đó. Nếu tôi không biết chắc hiện giờ anh đang ở bên Pháp, thì tôi nói chính anh đây rồi. Ông nói với y một câu nào đi!
- Anh muốn nói chuyện gì?
- Chuyện gì cũng được. Y giống Joseph quá. Tôi không biết nói tiếng Pháp, nhưng tôi muốn nói chuyện với y. Ông nói chào họ và chúc họ về Pháp bình yên giùm đi!
Moritz không thể gặp một người Pháp mà chẳng nói một lời nào, hoặc thân mật cười với họ.
- Kìa, y đến gần chúng ta. Ông làm ơn nói với y một câu đi!
Traian làm thinh. Moritz không dằn được, kêu to lên bằng tiếng Đức:
- Về Pháp bình yên!
Anh nói, giọng dịu ngọt, vẻ mặt hân hoan, như nói với một người bạn Pháp thân mến.
Cả bọn thình lình nín lặng, đứng yên và nhìn lên cửa sổ xe, chỗ Moritz đứng.
Traian nghe người giống Joseph hỏi bằng tiếng Pháp:
- Thằng con heo Đức Quốc xã đó muốn gì?
Tất cả đàn bà đàn ông đứng nơi bến xe đều ngó Moritz đang cười với họ, sau song sắt.
- Thằng con heo quốc xã đó chắc muốn xin thuốc hút!
Người Pháp, giống Joseph, đưa tay vô túi định lấy thuốc, nhưng ngừng lại tức khắc. Moritz người đứng gần anh ta, cúi xuống lượm một cục đá, tống ngay vào cửa sổ, chỗ Moritz vẫn còn đứng cười, và nói:
- Điếu thuốc cho mày đó! Ba năm nay, tao bị kẹt ở Đức cũng vì mày!
Viên đá lọt qua song sắt, rớt giữa toa xe, trúng một tù nhân.
Viên đá khác chọi tới trúng hông toa xe. Viên thứ ba bồi thêm. Rồi một đám mưa đá tới tấp chọi vào trong toa. Bọn tù phải nằm dài, tránh xa cửa sổ. Đá cứ liên tiếp chọi tới như mưa rào, lời chửi rủa, tiếng la hét vang dội, như toa xe sắp bị tấn công.
Tiếng la hét của đàn bà, đàn ông, con nít, kẻ phẫn nộ. Giọng gào thét bằng đủ thứ ngôn ngữ trên hoàn cầu, bằng tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Nga, Đan-mạch, Flamand, nàng-uy… tất cả lời chửi rủa đều tỏ lòng công phẫn cực độ, lời chửi rủa tuôn theo với đá gạch tống chọi Moritz bằng đủ thứ ngôn ngữ, đều đồng một ý nghĩa: “Đồ con heo Đức Quốc xã, tên sát nhân khát máu, tên độc tại giết người, quốc xã, quốc xã…”
Tất cả bọn “được thả” trên xe kia đều xuống nhập bọn để chọi đá vào xe tù.
Lính gác và hiến binh cố giữ trật tự nhưng cuộc tấn công quá dữ dội không trẫn tĩnh nổi; nó càng lúc càng tăng và trở nên nghiêm trọng. Lính phải bắn chỉ thiên. Tiếng la hét nổi lên, đồng thanh phản đối sao lính lại che chở cho bọn độc tài quốc xã, không để cho họ hành hình chúng.
Moritz vẫn còn đứng tại cửa sổ khi mấy viên đá đầu tiên bay tới bên tai anh. Anh không nhúc nhích và vẫn còn cười, lúc cuộc tấn công sôi nổi hơn hết. Anh không hiểu chuyện gì xảy ra. Và, nếu anh có hiểu, anh cũng không làm sao tin được người Pháp giống Joseph lại muốn liệng đá cho bể mặt anh.
Trong khi Moritz lấy làm lạ, mắt mở rộng, đứng nhìn đám quần chúng tới tấp liệng đá vào anh, bọn tù trong toa nắm cảng anh lôi khỏi cửa sổ, vật anh té nằm dài trên sàn toa xe. Ai cũng muốn đánh anh. Mọi người đều giơ tay đánh, đấm, vấu, nắm chặt anh, để xé thịt anh ra.
Moritz bị cả trăm bàn chân hằn học đạp anh. Họ giậm anh nhầu anh như thú dữ, trong lúc trên đầu họ gạch đá liên tiếp liệng tới không ngớt.
Bọn tù trong xe không dung tha anh đã chọc cho người ta căm thù và tấn công chửi mắng. Họ muốn phân thây anh muôn mảnh.
Moritz không phải bị bọn người bao vây hành hạ mà bị con quái vật Apocalypse có ngàn chân, chà đạp thân xác anh.
Bên ngoài, đám quần chúng, cũng như con quái vật Apocalypse ấy có ngàn tay, đang liệng đá tới tấp vào anh.
Máu anh chảy ra mũi, ra miệng. Anh thấy sắp chết. Nghĩ tới đó, anh không còn biết gót giày đạp đá anh, quả đấm loi thụi anh nữa. Anh hết còn biết đau đớn. Nỗi thống khổ của anh sắp chấm dứt. Anh nhớ đến mục sư Koruga, nhớ nhà thờ làng Fântâna, tượng Thánh mẫu Đồng Trinh. Sự yên tĩnh trở lại trong thể xác và linh hồn anh. Anh nghe rõ tiếng đập phá toa xe, và biết sự đập phá ấy chỉ để đánh anh, đánh một mình anh thôi.
Thiên hạ muốn chà đạp anh, muốn giết anh. Đến bây giờ anh mới biết. Anh mới cảm thấy hễ bao giờ anh còn sống thì thế giới sẽ không tồn tại và không còn có tiến bộ nữa. Anh chịu trách nhiệm tất cả tội lỗi trên mặt đất này. Chỉ có một mình anh là thủ phạm. Vì thế, cả bọn người ấy đều muốn giết anh. Vì thế, anh mới bị bọn tù trong xe giậm đạp. Vì thế, anh mới bị tù vừa được thả liệng đá. Vì thế, anh mới bị cảnh binh bắt.
Quần chúng không chịu yên khi nào anh còn sống. Cảnh binh không trấn tĩnh được bọn cựu tù nhân khi Moritz chưa bị giết. Bọn tù trong toa chỉ hết phẫn uất khi nào thấy anh nằm chết trước mắt. Xe tăng và lính võ trang súng máy không trở về hàng ngũ được, khi Moritz chưa bị phân thây từng mảnh.
Anh phải chết, vì anh là Người! Anh không được dung tha.
Moritz tự nghĩ: “Trời ơi! Tôi có tội tình gì. Tôi mến thương người Pháp. Tôi muốn nói với họ một lời thân ái. Chỉ vì thế, mà họ muốn giết tôi. Chúa Jésus khi xưa cũng bị giết, bởi Ngài đã thương nhân loại”.
Moritz nhớ lại câu nói của Traian: “Chúng ta trèo đồi Golgotha bằng xe lửa. Chúng ta trèo một đồi Golgotha cơ giới hóa”.
Moritz cảm thấy như bị đóng đinh trên thập tự giá, và trời tối hẳn, tối đen, đen ngòm…

(131)

Moritz thức dậy trễ, đầu và ngực đều băng bó. Đầu anh nằm trên vai Traian. Moritz nghe gò má anh chạm vào da vai trần của Traian, vì ông không còn áo sơ-mình.
Anh muốn hỏi sao Traian không có áo, nhưng anh kiệt sức. Anh chỉ nói:
- Tôi khát nước!
Traian làm như không nghe. Moritz lặp lại:
- Tôi khát nước!
Anh đã nằm hằng giờ như thế, ngất xỉu trên tay Traian. Trong lúc ấy, Traian xé áo sơ-mình băng bó cho anh, và kiếm một chỗ để anh nằm.
Moritz không nói một tiếng nào. Traian đặt tay lên ngực anh để nghe tim anh đập rất yếu. Lúc lúc, Traian rút tay ra và kề lỗ tai chỗ băng để nghe. Thỉnh thoảng, tim Moritz nhảy chậm đến đỗi tay ông không nhận được; kề sát tai, ông chỉ nghe được chút ít thôi.
Và bây giờ, Moritz nói được.
Traian vui mừng như là mình ở từ xa về.
Nhưng Moritz muốn uống nước. Như Jésus, trên thập tự giá, cũng khát nước. Mà trong toa xe không có nước.
Trọn hai mươi giờ, bọn tù bị nhốt trong toa xe, không uống ăn, và cũng không được phép ra ngoài để đi tiêu đi tiểu.
Trong xe đầy mùi phẩn. Không khí nặng nề, khó thở. Ván rầm xe đầy lền nước tiểu. Moritz đã nằm trên nước tiểu. Chính anh cũng tiểu trên đó, mà không hay. Anh chẳng biết gì hết. Mãi đến lúc ấy, anh cũng không mở mắt ra mà chỉ hé môi để nói:
- Tôi khát nước!
Traian đáp:
- Tôi rất tiếc, không có nước, không có gì để uống được!
Ông tự hỏi coi có cái gì có thể thấm môi Moritz được, nhưng chẳng có gì uống được cả.
Ông nhớ có đọc trong sách nói quân lính của Thành Cát Tư Hãn, lúc băng qua đồng cỏ hoang bao la, không tìm được thức gì để uống và ăn, bèn xuống yên, lấy dao rọc gân gần móng cẳng ngựa rồi nút vài giọt máu. Họ băng bó chỗ ấy lại, và cho ngựa tiếp tục đi. Suốt mấy tuần lễ, quân sĩ của Thành Cát Tư Hãn không ăn uống gì khác hơn là vài giọt máu nóng.
Traian bị ý tưởng ấy ám ảnh. Ông muốn lấy máu mình cho Moritz đỡ khát. Máu ấy có thể giúp Moritz đỡ khổ nhiều.
Anh van lơn:
- Tôi khát nước!
Traian an ủi:
- Bạn ơi! Không có gì uống được, giọt nước mà tôi kiếm được và vui lòng hiến cho anh đỡ khát là giọt máu của tôi. Nhưng anh đừng uống máu. Con người uống máu là con ma cà-rồng. Nó có mặt người, nhưng không phải là người. Nó là cái máy, con quỷ, quần chúng. Nó là con người, nhưng thiếu linh hồn.
Moritz thều thào:
- Tôi khát nước!
- Tôi hiểu! Nhưng dầu sao, anh đừng uống máu. Tôi không có gì khác để cho anh. Anh là con Người duy nhứt trong đám người vây quanh tôi, mà không uống máu người. Anh hiểu không? Các kẻ khác đã uống máu nên đã thành tinh hết rồi. Họ không còn phải là người nữa. Bọn tù kia, các lính canh gác, lũ tù vừa được thả đã ném đá vào anh, không ai còn là con người. Chỉ có một mình anh còn là người vì anh còn thương người.
- Tôi khát nước!
- Tôi hiểu! Tôi biết rằng anh khát và anh sẽ chết nếu không uống nước. Nhưng thà chết còn hơn sống như họ. Anh đừng uống máu người. Anh hiểu rõ lời tôi nói đó không?
Moritz thì thào một lần nữa:
- Tôi khát nước!

(132)

Đơn Thỉnh nguyện của Iohann Moritz.
Tôi ký tên dưới đây, Iohann Moritz, ở làng Fântâna, xứ Roumanie, gởi đơn này cho nhà cầm quyền nơi tôi bị giam, để xin hỏi tại sao các ông giam cầm tôi và hành hạ khổ sở tôi như chỉ có một mình Chúa Jésus bị khổ hình trên thập tự giá vậy.
Nếu tôi không hỏi câu này từ lâu,- như tôi có thể làm-, là vì tôi bẩm tính kiên nhẫn. Tôi là một nông dân. Các nông dân đều biết chờ đợi.
Tôi chờ cả một mùa xuân. Tôi chờ cả một mùa hạ. Và trọn cả một mùa đông dài dặc. Giờ đây, mùa xuân trở lại. Tôi chỉ còn xương với da. Linh hồn tôi đen tối, vì buồn rầu, vì đau khổ. Đen tối như than hầm, như mực đậm.
Hiện giờ, tôi không thể chờ đợi được nữa, nên xin hỏi: tại sao các ông giam cầm tôi?
Tôi không trộm cướp, tôi chẳng giết người, tôi không lường gạt ai, và tôi không phạm tội lỗi nào mà Pháp luật và Giáo hội ngăn cấm cả.
Nếu tôi không can án giết người, trộm cướp, bất lương, tại sao các ông cứ giam mãi tôi trong tù.
Các ông đã nhốt giam và tra tấn hành hạ tôi đến đỗi tôi chỉ còn là một cái bóng trên mặt đất.
Tôi đã bị lưu đày trong mười bốn trại giam. Tôi thiết tưởng đã đến lúc nên hỏi các ông đã khiển trách tôi về tội gì?
Phần tôi, tôi rất khó khăn để quyết định. Nhưng bây giờ, tôi đã nhứt định hỏi các ông.
Tôi gởi đơn này theo lối bưu chính cho nhà cầm quyền xứ này. Tôi cũng gởi cho lính gác cửa khám để chuyển đạt đến. Đơn tôi sẽ tới tay nhân viên chánh phủ, dầu có phải đi vòng quanh thế giới. Nhà cầm quyền phải nghe đơn khiếu nại của tôi, dầu có bịt lỗ tai đi nữa.
Tôi dán đơn tôi trên các cửa khám; tôi gói đá liệng nó ra đường. Tôi bắt mấy con chim bay ngang trại giam, cột đơn vô cẳng để được gởi đi cùng khắp thế giới.
Từ nay, tôi không ngừng kêu van, tôi gào thét mãi cho đến khi được minh oan. Có thể các ông sẽ nhốt tôi trong hầm tối để không ai nghe được tôi. Nhưng dầu ở đâu, tôi cũng không ngớt kêu van. Nếu tôi không có viết chì và giấy, tôi sẽ viết bằng móng tay tôi trên vách khám. Móng tay tôi có mòn đến da thịt, tôi sẽ chờ nó mọc ra, và viết nữa.
Nếu các ông bắn tôi, linh hồn tôi không xuống Địa Phủ, cũng không lên Thiên Đàng, hay vào Luyện Ngục. Oan hồn tôi sẽ vẩn vơ trên mặt đất và đeo đuổi mãi các ông.
Nó sẽ ám ảnh các ông như một bóng ma. Ban đêm tôi sẽ phá phách mãi giấc ngủ các ông và của mấy người yêu các ông, để kêu la rằng tôi có lý.
Và các ông không thể chợp mắt ngủ yên được. Mãi cho đến chết, các ông sẽ không nghe được điệu nhạc thâm trầm và lời nói yêu đương,- các ông không thể nghe được gì nữa hết-, lỗ tai các ông vẫn bị rền vang lời kêu oan của tôi, Iohann Moritz này.
Tôi là con người. Nếu tôi không có làm gì sái quấy, thì không ai được quyền đánh khảo, giam cầm tôi. Đời sống và hình bóng tôi là của tôi. Và các ông là ai đi nữa, dầu có xe tăng, súng máy, phi cơ, trại giam hay tài sản cự phú đến đâu, các ông cũng không có quyền chạm đến đời sống và hình bóng của tôi.
Suốt đời, tôi chỉ cầu mong một chuyện rất tầm thường: được yên thân làm việc, có chỗ đùm đậu với vợ con và kiếm đủ ăn cho gia đình.
Chính vì vậy mà tôi bị bắt sao?
Nhà cầm quyền Roumanie sai hiến binh bắt tôi sung công,- như sung công món đồ, con vật. Tôi để cho sung công. Tay trơn, tôi làm sao chống lại với nhà vua, với hiến binh có súng lục và súng trường. Họ nói tôi tên Iacob chớ không phải tên Ion như mẹ tôi đặt. Họ nhốt tôi chung với dân Do thái trong trại giam rào dây kẽm gai, như nhốt súc vật,- và bắt tôi làm những việc khổ sai. Nơi trại, chúng tôi ngủ cả bầy như thú vật, chúng tôi ăn, uống cả bầy, và chỉ chờ dẫn đem đi lò thịt như bầy thú. Các người khác chắc đã bị dẫn đi lò thịt, còn tôi, tôi trốn thoát được.
Có phải vì đó mà các ông bắt tôi không? Vì tôi vượt ngục, không chịu chờ dẫn đi lò sát sinh chăng?
Dân Hongrois nói tôi không phải tên Iacob, mà tên là Ion. Họ bắt tôi vì tôi là dân Roumanie. Họ tra khảo, đánh đập tôi, làm tôi đau đớn khổ sở, rồi bán tôi cho Đức Quốc xã.
Người Đức nói tôi không phải tên Ion, hoặc Iacob, mà tên là Ianos và đánh khảo tôi thêm, vì cho tôi là dân Hongrois. Kế đó, có một Đại tá Đức tới nói tôi không phải tên Iacob, hoặc Iankel,- mà tên là Iohann, và cho tôi được làm lính binh nhì. Đại tá đo đầu cổ tôi, đếm răng tôi, và đựng máu tôi trong ống chai nhỏ. Ông làm tất cả công việc ấy cốt để chứng minh rằng tôi có một danh tính khác hơn tên của mẹ tôi đặt. Có phải vì vậy mà các ông bắt tôi không?
Lúc làm lính, tôi giúp tù Pháp vượt ngục, có phải vì vậy mà các ông bắt tôi không?
Lúc chiến tranh dứt, tôi tưởng tôi cũng như ai, có quyền được hưởng hòa bình. Quân lính Mỹ đến và tặng biếu tôi sô-cô-la và đồ ăn thức uống ê hề, như tặng cho một ông hoàng. Rồi, không nói không rằng, họ bắt tôi bỏ tù. Họ đày tôi trong mười bốn trại giam, như những tướng cướp ghê gớm nhứt thế gian.
Và bây giờ, tôi cần muốn biết: tại sao?
Có phải tại các ông không ưa tên tôi là Ianos, hoặc Ion, Iohann, Iacob hay Iankel chăng? Các ông muốn thay đổi tên tôi nữa sao? Thì cứ tha hồ? Ngày nay tôi biết rằng con người không có quyền mang tên cha mẹ đặt cho nữa. Song tôi xin cho các ông hay rằng, từ giờ trở đi, tôi không thể chờ đợi. Tôi muốn biết lý do nào tôi bị bắt và bị tra khảo?
Tôi mong đợi các ông trả lời và kính cẩn chào các ông.
Ký tên: Moritz Ion, Iohann-Iacob-Iankel-
Ianos, nông dân và cha một gia đình
Traian đọc xong lá đơn, rồi hỏi Moritz:
- Tại sao anh khóc?
- Tôi không khóc!
- Tôi thấy mắt anh rướm lệ. Tại sao anh khóc?
- Tôi không biết.
- Anh có sợ gởi lá đơn này hay không? Chuyện tôi viết có đúng sự thật không?
- Tôi không sợ. Những gì ông viết đều đúng cả.
- Vậy tại sao anh khóc?
- Chính vì đó mà tôi khóc. Rõ là đúng ý như thật.

(133)

Ba ngày sau khi gởi đơn, Moritz được kêu lên thẩm vấn. Traian cho anh mượn áo sơ-mình với quần dài và nói:
- Ta đã thắng! Lá đơn có kết quả.
Mắt Moritz sáng lên. Anh tưởng như sắp được trả tự do. Anh nói:
- Ta đã thắng! Cũng nhờ ông tất cả. Những gì ông viết trong đơn đều đúng sự thật làm sao!
- Đừng sợ nghe anh. Có bọn chúng nó mới sợ, vì chính chúng nó là thủ phạm.
Moritz vui vẻ ra đi.
Trưa anh trở về. Traian chờ anh ngoài cửa, vồn vã hỏi:
- Chuyện ra sao? Họ có hứa thả anh chưa?
Moritz cúi xuống. Anh vẫn giữ vẻ bí mật mỗi khi ai hỏi anh chuyện gì. Anh đáp:
- Để sau rồi tôi sẽ nói. Bây giờ chưa được!
- Trời ơi! Bộ anh điên rồi hả? Tôi trông ngóng anh cả buổi, rồi bây giờ anh biểu tôi chờ một lát nữa?
Moritz lượm tàn thuốc ở phòng văn. Anh móc túi lấy ra, và thủng thẳng xé giấy bỏ, gom thuốm làm hai phần, một cho anh, một cho Traian, rồi lấy giấy nhựt trình vấn một điếu thuốc. Anh chậm rãi nói:
- Tốt hơn để sau rồi tôi sẽ nói, ông Traian à!
- Họ có hứa thả anh không?
- Không, họ không nói với tôi chuyện ấy.
- Họ có chửi mắng anh không?
Moritz vẫn tiếp tục vấn điếu thuốc và đáp:
- Họ không có chửi mắng tôi.
- Họ có đánh anh không?
- Không.
- Vậy, tại sao anh không nói? Họ có làm gì khổ anh đâu!
Moritz đốt thuốc và đáp:
- Không, chẳng có làm gì hết!
- Hay là chưa tới phiên anh? Không hại gì. Mai họ kêu anh nữa.
- Có, tới phiên tôi rồi.
- Họ có hỏi anh chuyện gì không?
- Có.
Lưỡi Moritz dường như líu lại. Phải gạn từng tiếng, Traian nóng nảy nói:
- Anh thuật lại hết cho tôi nghe coi. Khởi đầu làm sao?
- Tôi được kêu vô trước hết. Vô phòng, tôi được mời ngồi ghế, để trước bàn.
- Vô đầu như vậy là tốt lắm. Nếu chúng nó mời anh ngồi ghế là điều lành rồi. Chắc chúng nó có đọc hồ sơ anh và thấy anh vô tội. Không phải ai cũng được mời ngồi hết đâu. Nói tiếp đi.
- Một viên đội hỏi tôi.
- Nó có lễ phép không?
- Lễ phép lắm!
- Nó hỏi câu gì trước?
- Trước hết y xem giấy tờ. Rồi y hỏi tôi: “Anh phải Iohann Moritz không?”
Tôi đáp: “Phải”. Y nhìn tôi. Rồi y xem giấy tờ một lần nữa. Đoạn y hỏi tôi: “Chữ Moritz anh viết như thế nào, với “Traian” hay “tz” sau chót?”. Tôi đáp với y rằng tôi viết hai cách. Ở Roumanie, tôi viết “Traian”, còn ở Đức, thì “tz”.
Moritz ngừng nói, ngó Traian, vẻ thất vọng. Traian hỏi:
- Rồi sao nữa? Tại sao anh bị bắt?
Viên đội nói với tôi: “Cám ơn anh, được rồi, anh về chỗ”.
- Có vậy thôi sao?
- Có bấy nhiêu thôi.
- Anh không rán nói thử với nó chút gì khác nữa sao? Tại sao anh không thuật gì hết những điều tôi dạy anh đó?
- Tôi có nói, nhưng viên đội không muốn nghe. Y không ngó đến tôi, gọi: “Người kế”.
- Rồi anh nói gì?
- Không có nói gì hết.
Traian hai tay ôm đầu, than:
- Vô lý quá. Hoàn toàn vô lý! Rồi anh đi ra sao?
- Phải, tôi đi ra.
- Một cuộc thẩm vấn mà chúng ta mong đợi suốt năm trong tù là như thế sao? Không hỏi gì khác nữa à? Hoặc giả anh có quên cái gì chớ?
- Không, chẳng có hỏi thêm gì khác nữa. Tôi đi ra. Khi đóng cửa, tay tôi còn run. Họ kêu người kế, là Thomas Mann.
- Y hỏi người đó chuyện gì?
- Hỏi coi tên Mann viết một hay hai chữ “người” ở cuối.
- Có bấy nhiêu à? Không hỏi chuyện gì khác nữa sao?
Hai dòng nước mắt chảy dài theo má Moritz, giọt lệ lớn bằng hột trân châu.
Traian vỗ vai an ủi:
- Thôi, ta phải kiên nhẫn, anh Moritz à! Khi mấy con thỏ bạch chết hết dưới tàu ngầm, thì không còn giải pháp nào khác hơn là “ráng chịu”…

(134)

Đơn Thỉnh nguyện số năm.- Đề tài: Công lý (Cơ giới hóa các cuộc thẩm vấn)
Tôi biết các người được chỉ thị đặc biệt để hỏi cung tội nhân trại giam này từng người riêng rẽ. Cố nhiên, lịnh vô lý quá. Trong lúc các người này bị bắt từng đoàn, một cách tự động, thì thẩm vấn riêng từng người thật vô lý.
Tuy vậy, tôi hiểu tại sao lịnh đó được đưa ra. Nền Văn minh các người biết tỏ vài cử chỉ lễ độ đối với phong tục dân bổn xứ. Đó chỉ là chút nhân nhượng cho có lệ, theo phép lịch sự vậy thôi.
Một sĩ quan bắt buộc phải thẩm vấn năm trăm tù binh mỗi buổi sáng và năm trăm, buổi chiều. Tôi nhận thấy với ai, các người cũng chỉ hỏi một câu giống nhau, và không cần nghe trả lời. Thật vậy, có khờ dại lắm mới nghe mỗi tù nhân kể lể chuyện họ. Có gì hay ho đâu? Chẳng có gì hết.
Nhưng tôi nghĩ đến hơi sức của các người đã phung phí để nói mấy câu hỏi ấy. Cả ngàn lần mỗi ngày cũng chỉ những câu hỏi đó mà thôi. Tổn lực biết là ngần nào! Tôi nghĩ mấy sĩ quan được cử làm tại Phòng thẩm vấn, chắc phải đau quai hàm và mỏi miệng lắm, lúc mãn giờ chiều.
Vì thế, tôi đề nghị thâu vào dĩa mấy câu hỏi ấy. Cách sử dụng máy móc như thế này. Vị sĩ quan giữ phận sự thẩm vấn cứ ngồi tại phòng làm việc, vì thủ tục thẩm vấn từng người bắt buộc như thế. Rồi cho máy phóng thanh chạy. Khi tù nhân vào phòng, tiếng trong dĩa nói: “Ngồi xuống đây!”. Người tù ngồi. Dĩa tiếp tục quay. Nghe câu hỏi thứ nhứt, thứ nhì, thứ ba. Dĩa kết thúc: “Cám ơn! Đủ rồi!”. Tù nhân đứng dậy và ra cửa. Khi người tù đến trước cửa, thì dĩa cũng quay tới câu cuối cùng: “Người kế”.
Cuộc thẩm vấn như vậy là xong! Người tù khác bước vô phòng. Và đĩa bắt đầu quay và hỏi mấy câu ấy như lần trước. Với một dĩa thâu thanh, các người có thể thẩm vấn bốn năm trăm tội nhân.
Trong khi đó, viên sĩ quan thẩm vấn cứ ngồi tại bàn, và đọc tiểu thuyết trinh thám. Tới trưa, lúc đi ăn, y có thể ăn uống như thường, khỏi bị đau hàm. Nên nhớ là cách sắp đặt các cuộc thẩm vấn ấy chỉ đưa ra câu hỏi mà không nghe câu trả lời. Máy móc có thể làm công việc đó. Thuyết này thật hoàn toàn hợp lý. Đã tuân theo thủ tục, mà không làm mệt sức nhân viên thẩm vấn. Công lý được có lợi khi áp dụng phương pháp ấy. Công lý của một xã hội Văn minh phải cần được xử đoán tự động. Đâu phải dùng những lối xưa như hồi chưa tìm ra điện lực. Bao nhiêu phát minh kỹ thuật cơ khí mà làm gì, khi Công lý chưa dùng tới máy phóng thanh?
NGƯỜI CHỨNG

(135)

Darmstadt: trại giam thứ mười lăm. Cũng giống như các trại giam trước, nhưng có thêm một nhà thờ Chính thống giáo. Một nhà thờ nhỏ, lâm thời dựng lên.
Traian và Moritz lột mũ, bước vô. Nhà thờ ở dưới lều vải: tận cùng có bàn thờ Chúa. Tượng thánh làm bằng giấy cứng, vẽ bằng phấn màu và than.
Trong nhà thờ không có ván rầm; nền bằng đất.
Đêm qua trời mưa, nước chảy vô lều, đất trở thành bùn.
Giữa nhà thờ, có một thượng thánh giá cỡ người lớn. Traian quỳ dưới chân Chúa. Đức Jésus làm bằng giấy cứng, vòng gai trên đầu làm bằng thiếc đồ hộp cắt mỏng.
Traian ngó lên vết thương đóng đinh ở tay và ở lương long Chúa Ki-tô. Họa sĩ không có màu đỏ để tô màu máu, nên chỗ nào là vết thương thì lấy giấy đỏ ở bao thuốc “Lucky-Strike” dán lên. Chữ đen không thể bôi nên còn đọc được. Traian nói:
- Không bao giờ con thấy Chúa bị đóng đinh đau thương dường này! Con đến để cầu nguyện cho các vết thương của con, nhưng con thấy không còn can đảm nữa. Xin Chúa tha tội cho con! Con xin cầu nguyện các vết thương, bằng Lucky-Strike, đẫm máu ở đùi, ở chân và bàn tay Chúa. Các vết thương ấy còn đau đớn hơn các vết thương bằng máu thịt của con. Cho con xin cầu nguyện vòng gai bằng thiếc đồ hộp trên đầu Chúa nữa.
Traian nhìn lên mình Chúa, thấy ở ngực đấng Cứu thế một chữ “M” viết bằng mực in. Chữ “M” đó ở trong hộp “Menu Unit”; giấy hộp này dùng để cắt thành thân thể Chúa.
Traian đứng dậy, hôn bàn chân Chúa và nói:
- Bây giờ con mới cảm thấy đồng điệu với Thánh thể của Chúa. “Thực đơn” đời đời của chúng con là Hi-vọng. Chúa là “Menu Unit” của con; không lúc nào bằng lúc này, con mới hiểu rõ thân thể Chúa là món ăn bồi dưỡng của chúng con. Làm sao người tù họa sĩ lại có sáng kiến làm hình Chúa bằng giấy hộp “Menu Unit”? Hiện giờ, Chúa tượng trưng tất cả lòng khao khát thành kính các thánh, lòng khao khát bánh mì và tự do của con.
Traian đang trầm mặc thoát tục, chẳng còn thấy ai chung quanh.
Moritz ngắm nhìn mấy thiên thần bằng giấy láng bao thuốc điếu, tượng thánh Đồng Trinh đeo dây chuyền bằng nắp hộp mạ vàng của hộp thịt dồi.
Moritz làm dấu thánh giá trước tượng Thánh Nicolas, ông thánh giống mục sư Koruga.
Đoạn anh đến quỳ gần Traian và nhìn mấy vết thương đỏ của Chúa Ki-tô. Traian cầu nguyện:
- “Lạy Chúa, con không xin Chúa cất ly trên môi con. Con biết rằng việc ấy không được. Con khẩn cầu Chúa giúp con uống cạn ly ấy. Từ một năm nay, con ở cạnh lề cuộc sống và cõi chết. Từ một năm nay, con ở lằn ranh đời thực tế và cõi mộng, Con đã vượt khỏi thời gian, nhưng vẫn tiếp tục sống. Sinh lực thoát lìa thể xác con, nhưng con còn sống, vẫn thở, vẫn lê lết thân tàn, vẫn ăn uống, dẫu rằng con không muốn nữa. bao nhiêu đau khổ ấy đều do nơi con không còn hiểu biết là con bị tù hay được tự do?
Con thấy con bị giam cầm nhưng con chưa tin rằng con bị giam cầm.
Con thấy con được tự do nhưng Linh hồn con nhủ rằng, không lý nào con chẳng tự do. Cái khổ hình không hiểu biết này còn nặng nhọc gấp mấy lần cảnh làm thân nô lệ. Những kẻ giam nhốt con không thù ghét con, không muốn phạt vạ con và không muốn con chết.
Họ chỉ muốn cứu thế giới!
Nhưng họ hành hạ, giết lần giết mòn thân con… Họ hành hạ và giết lần mòn tất cả nhân loại. Con cũng biết, chẳng riêng gì con đau khổ.
Các nhà lãnh đạo thế giới cất những bịnh viện khổng lồ để băng bó vết thương nhân loại. Nhưng dưới cái bay thợ hồ của họ, chẳng phải bịnh viện, mà là những ngục thất được dựng lên.
Chuyện xảy ra như một định mạng!
Con không hiểu được nữa.
Vì vậy, con muốn chết. Lạy Chúa giúp con chết.
Sức con không đủ để chịu khổ não nữa. Giờ mà con đang sống đây không thuộc về cuộc sống nữa, con không đủ năng lực để trải qua giờ này, với thân xác máu thịt con. Đó là giờ thứ hai mươi lăm, cái giờ rất trễ để được cứu vãn, rất trễ để chết và để sống. Tất cả đều trễ rồi!
Lạy Chúa biến cho con thành đá, nhưng xin đừng bỏ con ở lại cõi đời này!
Nếu Chúa bỏ con, con sẽ không chết được. Xin Chúa nhìn thể xác và linh hồn con; chúng nó tha thiết muốn chết, nhưng con, con vẫn còn sống. Thế gian đã chết và con sống mãi. Con không phải một bóng ma, mà cũng không phải một con người. Con đang dở chết sở sống”.
Traian ôm đầu buồn thảm bi thương. Moritz rụt rè rờ nhẹ nhẹ vai chàng như vỗ về, nhưng Traian không hay biết.
Một mục sư vô nhà thờ. Ông mặc áo nhà binh Mỹ có chữ P.W. như các tù nhân.
Moritz đi lại ôm hôn tay ông.
Traian vẫn quỳ gối.
Moritz hỏi Moritz, hai người ở đâu lại và dân xứ nào. Khi nghe vợ Traian cũng bị bắt, ông khoanh tay trước người gực và cầu nguyện cho nàng. Ông ban phép lành cho Traian còn quỳ gối trước thánh giá, không hay có ông.
Mục sư nói:
- Mỗi ngày, lối sáu giờ sáng, Cha làm lễ mi-xa tại đây. Cha là Đại chủ giáo ở Varsovie. Tất cả đoàn mục sư của Cha đều bị bắt giam tại trại này. Nghi thức làm lễ trọng thể lắm. Các con nên tới dự. Có một mục sư xứ Roumanie nữa. Hiện giờ ông đang nằm nhà thương.
Moritz ngó sững vị Đại chủ giáo. Ông nói:
- Cha sẽ viết ít chữ vô nhà thương mời mục sư. Chắc ông sẽ đến khi biết có người dân xứ Roumanie trong trại này. Ông sẽ đến để ban phép lành cho các con…

(136)

Lối sáu giờ, đại hội giáo sĩ khởi sự làm lễ mi-xa. Các mục sư đều choàng khăn đại lễ trên bộ quân phục tù binh.
Traian và Moritz đứng kề nhau. Vị Đại chủ giáo mắc áo lễ tế trắng, đội mũ giám mục, cố nhiên, không có gắn kim cương.
Tiếng ông hiền lành và êm dịu như giọng đờn.
Traian bước tới bàn thờ, nhưng vừa đến trước thánh giá, thì ngã quỵ. Moritz tưởng Traian trợt té, chạy lại đỡ dậy. Nhưng thân mình Traian mềm nhũng dường như xương cốt đều tiêu tan. mặt mày vàng nhợt như sáp ong.
Trong lều nhà thờ, chẳng có ai, ngoài mấy mục sư. Moritz ngó lên để nhờ mấy vị đỡ phụ, nhưng anh chợt hiểu tại sao Traian té xỉu. Anh kêu: “Cha Koruga!”, chỉ được bấy nhiêu, rồi quỳ xuống trước mục sư, như muốn ôm đầu gối ông. Nhưng mục sư đâu còn hai chân, chỉ đi bằng cặp nạng, tiến lại gần hai người.
Traian và Moritz đứng im. Tóc mục sư Koruga bạc thêm nhiều. Ông mỉm cười, vẻ thật hiền lành và đầy hạnh phúc. Xuyên qua cái cười, cái ngó của mục sư, người ta tưởng thấy Thiên Đàng…
Mục sư nói:
- Traian con!
Vừa nghiêng mình, một cây nạng rớt. Ông không té. Ông còn đứng được, chống trên một cây nạng.
Rồi ông bỏ luôn cây nạng ấy. Ông đứng gần Traian, ngay như mũi tên, trên cái gì còn lại của hai chân ông. Ông bỏ cặp nạng để hai tay thong thả, ôm chằm lấy con ông.
Moritz lượm cặp nạng cầm tay, đứng gần hai cha con mục sư Koruga.

(137)

Cả ba: mục sư Koruga, Traian và Moritz đều ở chung lều trong trại giam Darmstadt.
Sau một năm chờ đợi, tù nhân được phép tiếp thơ từ.
Moritz đầu tiên được thơ của mẹ Hilda.
“Han con.
“Ngày 9 tháng 5 năm 1945, nhà con bị cháy. Chắc con chưa hay. Lửa cháy buổi chiều, lúc quân đội Nga vào thành phố, Hilda và thằng Franz đều ở trong nhà. Mấy tuần đầu, má chưa biết mẹ con nó bị chết thiêu. Nhưng bữa kia, má bới đống tro tàn, tìm coi có vật gì còn sót lại không, thì thấy thây chúng nó thành than. Hilda chết còn ẵm thằng Franz trên tay. Má không hiểu tại sao Hilda không chạy ra, lúc nhà cháy. Chắc nó còn ngủ. Nhưng má không tin Hilda có thể ngủ được vào giờ đó, nhứt là ngày ấy quân đội Nga kéo vô thành. Tất cả đều chạy trốn hết, nhứt là đàn bà. Con biết, Hilda có bao giờ ngủ buổi chiều đâu? Hồi còn đi làm ở bịnh viện, trưa về thì nó làm công việc nhà liền.
“Má gom góp hài cốt cháy thiêu của mẹ con Hilda, để trong một cái quách, chôn ở nghĩa địa gia đình. Má không thể làm được hai cái quách vì đắt quá, không ai muốn đóng. Thiên hạ ở đây chôn người chết không hòm. Ván kiếm không ra mà đinh cũng đắt giá. Má phải nhổ đinh ở vách tường và ở mấy khuôn hình, đưa cho thợ mộc đóng hòm Hilda. Nhưng thợ mộc không muốn làm, viện cớ đinh nhỏ và ngắn không thể đóng hòm được. Má phải cho một cái nón của con, thợ mới bằng lòng. Con đừng giận sao má không xin con trước. Nhưng nếu không cho cái nón ấy, thì thợ không chịu đóng hòm và đống xương lấy gì mà chôn. Má để nó trong nhà một tuần nay rồi! Má có đặt làm cây thánh giá bằng cây. Chừng con về, con sẽ đặt làm bằng đá. Gia đình ta, tại nghĩa địa, mả nào cũng có cây thập tự giá bằng đá.
“Má còn thấy trong đống tro, một thây sĩ quan cháy thiêu nữa. Chắc ông này đến xin nghỉ nhờ, hoặc thay bộ quân phục để mặc thường phục. Sĩ quan nào cũng làm như thế, lúc quân đội Nga tới. Nhưng cặp da ông không cháy trọn. Má đọc giấy tờ, thấy tên ông là Iorgu Iordan, ở xứ Roumanie, như con. Má viết những chuyện này cho con hay, vì má nghĩ rằng chắc đây là một người bạn hoặc thân quyến đến thăm con”.

(138)

Mục sư Koruga nói:
- Có lẽ như vậy là tốt hơn!
Ông để tay lên vai Moritz và an ủi anh:
- Con thử tưởng tượng Hilda còn sống, và một ngày kia con được thả ra, con sẽ về với vợ nào? Làm sao lựa chọn?
Moritz hỏi:
- Vậy thì Suzanna không có xin ly dị với con sao? Và nàng vẫn chờ con ở nhà sao?
Nhờ thế anh mới biết Suzanna vẫn chung thủy với anh.
Mục sư đáp:
- Suzanna chờ con và sẽ chờ con đến ngày cuối cùng. Lúc nào nàng cũng là vợ con. Nàng ký giấy xin ly dị chỉ là để giữ cái nhà và khỏi bị đuổi ra đường với mấy đứa con thôi. Nàng hành động như vậy vì nghĩ không còn cách nào khác nữa, chớ nàng chẳng hề nghĩ đến việc xa lìa con.
- Vậy cuộc ly dị láo, mà con ngu dại, cứ tưởng nàng lấy chồng khác rồi. Nên con mới cưới Hilda. Con tưởng Suzanna bỏ con. Làm sao chẳng tin được khi chính mắt con đọc tờ ly dị? Tội lỗi con nặng lắm! Chúa không tha con!
- Chúa sẽ tha tội con. Chuyện đã xảy ra thật là nghiêm trọng con à! Nhưng không phải con hoặc Suzanna có lỗi. Chỉ một mình Quốc gia với các luật lệ chịu trách nhiệm. Quốc gia không thể tha thứ được! Quốc gia sẽ bị trừng trị như thành Sodome và Gomorrhe. Lưỡi sét Thần nộ sẽ đánh chẳng những trên Quốc gia, mà trên tất cả Xã hội hiện tại đã phạm những trọng tội cho đến Chúa thấy cũng đau lòng!

(139)

Traian bị kêu đi thẩm vấn lần đầu. Viên sĩ quan hỏi:
- Anh cho rằng không biết tại sao anh bị bắt và bị giam từ hơn một năm nay? Trong hai mươi lăm ngàn tù binh, không một ai thú nhận đã biết tại sao mình bị bắt. Tất cả đều nói chúng tôi xâm chiếm Âu châu và bắt người một cách may rủi, vô cớ. Anh lầm rồi. Mỗi lần bắt ai đều đã theo đúng Sắc lệnh ban hành.
Traian mỉm cười. Viên sĩ quan nhìn thấy, nói tiếp:
- “Anh muốn nói luật lệ chúng tôi không phù hợp với nguyên lý pháp luật. Không ngày nào tôi khỏi nghe câu trách móc này. Tất cả các anh ai cũng viện cớ chỗ thiếu giá trị căn bản pháp lý về sự bắt bớ các anh, các anh thật đáng buồn cười. Thứ nhứt, mỗi nước đều có quyền lập luật lệ riêng, thích ứng cho nước đó tuân theo. Những luật lệ của chúng tôi, có hiệu lực trong xứ chúng tôi. Thứ nhì, pháp luật không có nguyên tác vĩnh cửu bất di dịch. Công lý do người bày ra, và không có gì của người mà vĩnh viễn được hết. Đại để, đạo luật nào cũng có giá trị tương đương với một đạo luật khác. Và tất cả đạo luật đều có thể vừa tạm thời vừa vĩnh cửu. Kẻ nào chủ trương nghịch lại chỉ làm cho tự mình lầm lạc mà thôi!
Theo luật lệ hiện hành tại vùng Mỹ chiếm đóng, thì anh bị bắt vì anh là công chức của một nước nghịch. Luật ấn định như vậy.
Vợ anh bị bắt cũng chiếu theo luật ấy, do điều khoản định rằng vợ công chức cao cấp của nước nghịch đương nhiên bị bắt. Cha anh cũng vậy, ông đương nhiên bị bắt vì là công chức nước nghịch.
Tôi nhìn nhận như thế là gắt gao với anh. Nhưng đó là luật định. Suốt thời gian lịch sử, luật pháp nào cũng nghiêm khắc cả. Không lẽ anh lại biểu tôi phải hỏi anh mỗi khi thiết lập luật lệ nước tôi sao!”.
Traian đứng dậy, muốn đi ra. Lúc khởi sự viết quyển tiểu thuyết, chàng đã chắc chắn, giai đoạn mà con người bị luật lệ cấm không được sống theo đời sống của mình đã gần đến. Khi bị bắt, chàng biết các luật ấy đã được thi hành, nhưng còn nuôi ảo vọng đoán sai.
Bây giờ được chính thức cho biết các luật lệ ấy phải được kính trọng và triệt để thi hành, chàng không còn nghi ngờ gì nữa.
“Theo luật, có những người không phạm tội cũng có thể, bị bắt, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị tước đoạt, và bị thủ tiêu”.
Viên sĩ quan nói tiếp:
- Tôi cũng chắc chắn rằng anh không phạm tội. Lần thứ tư rồi, tôi có xin thả anh, vợ anh và cha anh, mặc dầu tôi bị cấm nhặt không được phép xin tha riêng từng người, những tội nhân đương nhiên bị bắt. Tôi chưa nhận được lời phúc đáp. Lịnh trả tự do cho riêng từng người không được chấp thuận, mà chỉ được thực hiện cho từng toàn thể hạng người thôi.
- Vậy chuyện từng cá nhân phạm tội hay vô tội không cần xét đến trong vấn đề này sao? Ông có chú ý đến, chắc chỉ vì tọc mạch mà thôi.
- Chuyện ấy không làm tôi quan tâm. Dẫu nó chạm lòng tự ái của anh là người đã sống theo quan niệm cá nhân, với tất cả tư tưởng thần học, thẩm mỹ học hoặc nhân đạo đi nữa, cũng không phải tự tôi có thể thay đổi được. Vả lại, cần gì thay đổi. Hệ thống tổ chức xứ tôi có vẻ khô khan, máy móc, tính xác như toán học, nhưng nó đúng lắm! Vũ trụ vận hành dường như đã theo “con đường lý số” và không ai nghĩ đến việc đổi dòng hoặc xoay hướng nó.
- Cuộc thẩm vấn này không ích gì cho ông, sao ông không bỏ phứt nó đi vì có thể không có nó cũng được? Những gì thuộc về cá nhân đều không có gì giúp ích cho ông sao?
- “Không. Những gì chúng tôi muốn biết về một cá nhân là những thực-sự của mỗi người: tên, họ, chỗ ở, ngày sinh, nghề nghiệp, các bằng chứng ấy để ghi vô phiếu dùng trong bảng thống kê.
Vả lại những cuộc thẩm vấn này dùng để kiểm chứng lại vài thực-sự, hoặc để phân chia tù nhân ra từng loại hạng. Bắt hoặc thả đều chỉ dự định cho từng loại hạng. Phận sự chúng tôi là sắp xếp mỗi người vào loại hạng của họ. Một công việc nghiêm xác, rất phân minh rành mạch!”.
- Vậy ông không thấy vô nhân đạo khi xóa bỏ con người và đối xử con người như một thành phần của một loại hạng hay sao?
- “Không, tôi không thấy gì là vô nhân đạo cả. Phương pháp này thực tế, mau lẹ và công bình hơn hết. Sự công bình chỉ có thể thực hiện được với phương pháp này. Sự công bình thực hành theo phương pháp tóan học và vật lý học, nghĩa là theo phương pháp tinh xác hơn hết.
Chỉ có thi sĩ và nhà thần bí mới phản đối các phương pháp ấy.
Nhưng xã hội ngày nay đã loại bỏ thần bí và thi văn rồi. Chúng ta đang ở thời kỳ toán học và khoa học chính xác, chúng ta không thể thoái lùi vì lý do tình cảm. Vả lại, tình cảm chỉ là sáng tác của thi nhân và nhà huyền học”.
Viên sĩ quan ra dấu rằng cuộc thẩm vấn chấm dứt, và nói:
- Thôi anh đừng buồn!
Traian mở cửa đi ra, và nghe tiếng viên sĩ quan lạnh lùng gọi: “Người kế”.

(140)

Moritz có ý định trốn đi. Từ lúc biết Suzanna không xin ly dị và đang nuôi con, trung thành chờ anh, anh đứng ngồi không yên.
Traian nói:
- Anh đừng trốn vô ích. Anh đi chưa tới rào kẽm là bị lính ba-lan bắn anh rồi.
Moritz ngó mấy tên lính canh Ba-lan mặc quân phục Mỹ nhuộm màu xanh. Chúng im lặng ngó anh như đoán được ý nghĩ của anh, và cầm súng ghìm nơi tay, sẵn sàng bắn. Traian nói:
- “Và nếu lính canh ba-lan có bắn trật anh, thì anh cũng sẽ bị lính tuần thành Mỹ hoặc Đức bắn. Trước khi về đến Roumanie, anh còn gặp bao nhiêu là lính đi tuần, lính tuần thành đủ các nước: Áo, Tiệp-khắc, Pháp, Hung-gia-lợi… và rốt lại, chẳng bao giờ anh về đến nhà được… Họ sẽ bắn anh chết dọc đường về. Nếu anh tránh được viên đạn dân nước này thì viên đạn dân nước khác chắc chắn sẽ bắn ngã anh. Giữa anh và nhà anh, giữa anh và gia đình anh, anh Moritz à, còn có tất cả các nước trên thế giới, các nước võ trang hoàn bị muốn giết anh…
Giữa mỗi người và đời sống cá nhân chí thiết của họ, còn có một đạo binh quốc tế ấy. Con người không được phép sống đời sống của họ; nếu toan làm thử thì bị bắn ngay. Xe tăng, súng máy, đèn rọi, rào kẽm gai để làm gì?”
Moritz nói:
- Dầu sao tôi cũng trốn!
Tên lính gác Ba-lan càng ngó anh lườm lườm.
Cùng lúc ấy có hai sĩ quan Mỹ đi vô sân, lại phía nhà thương. Moritz ngó theo.
Thình lình, anh không nói gì, bỏ Traian, chạy theo và đứng trước mặt hai sĩ quan. Họ đứng lại, ngó Moritz, và Moritz cũng ngó họ. Một phút qua. Viên sĩ quan mập và có tuổi, đưa hai tay ôm chằm lấym, như người anh ôm em. Bọn tù bao vây quanh, lấy làm lạ. Chưa bao giờ họ thấy sĩ quan Mỹ ôm người tù lần nào.
Moritz đi với vị sĩ quan thẳng đến nhà thương. Ông này vẫn còn choàng vai Moritz. Hai người vô nhà thương.
Traian đến gần, và đứng ngoài cửa chờ. Chàng tò mò muốn biết chuyện gì. Thế nào Moritz cũng thuật lại. Nhưng Moritz lâu ra quá!
Một lát, Traian nghe tiếng Moritz. Anh thò đầu ra cửa sổ, mắt sáng ngời, nói với Traian:
- Sĩ quan Mỹ đó là ông bạn bác sĩ Abramovici của tôi. Tôi nhìn biết ông liền. Hồi trước tôi vượt ngục xứ Roumanie với ông! Bây giờ thì tôi chắc được thả rồi!
Moritz đóng cửa sổ lại. Bạn anh kêu anh để nói chuyện.

(141)

Hồi ở trại giam Roumanie và Hongrie, Moritz chỉ nói bằng tiếng Do thái với bác sĩ Abramovici. Nên bây giờ hai người cũng dùng thứ tiếng ấy. Trung úy bác sĩ vui mừng được gặp Moritz và lắng nghe từng lời nói của anh.
Moritz thuật lại những gì đã xảy ra từ ngày chia tay cho tới nay. Bác sĩ lắc đầu tỏ vẻ thương hại, nhứt là khi nghe Moritz kể những nỗi thống khổ anh trải qua trong mười lăm trại giam mà anh bị nhốt mấy năm chót này.
Bác sĩ coi đồng hồ tay và nói:
- Tôi phải đi. Anh cần được giúp đỡ, tôi biết lắm anh Iankel à. Ấy là lẽ thường. Anh cho tôi biết anh cần dùng món gì, tôi sẽ giúp cho. Tôi không quên chúng ta đã trải qua nhiều lúc khó khăn.
Ông vỗ vai Moritz nói tiếp:
- Bây giờ tôi thế lực lắm, còn anh lại cơ cực như vầy. Anh cần gì: thuốc hút, đồ ăn hay quần áo? Anh muốn món gì?
- Tôi muốn ra khỏi chốn này. Tôi muốn được thả về nhà, gặp lại vợ con tôi.
Bác sĩ phật ý nói:
- Đừng nên đòi chuyện gì không thể được. Thứ nào thuộc quyền của tôi, tôi mới giúp được. Thả ra là khi nào có lịnh chung. Đừng nghĩ đến chuyện này nữa, phải kiên nhẫn chờ đợi, anh Moritz à!
- Tôi vô tội, tại sao giam cầm tôi?
Bác sĩ hơi giận, nói:
- Việc phạm tội và sự thả ra không cần xét đến. Ai dám quả quyết rằng anh có tội, anh Iankel? Chuyện được thả ra, anh phải ráng chờ.
- Tôi chờ đã lâu rồi!
- “Đó là theo ý anh thôi. Anh còn quê mùa, mộc mạc quá. Anh tưởng sĩ quan nào cũng có thể thả tù nhân vì người đó không có tội sao? Nếu thế, thì trại giam sẽ trống lốc trong nay mai. Mỗi tù nhân quốc xã đều có thể trưng bằng chứng vô tội. Được thả là khi nào có lịnh của Bộ Tư lịnh Francfort. Tại đó, giấy tờ gởi đi Washington, và lịnh quyết định sẽ chuyển tới Wiesbaden. Một ủy ban chuyên môn ở Esslingen cứu xét quyết định ấy, và gởi tới Berlin. Lịnh thả được ban ra từ Berlin và gởi đến Heidelberg. Nơi đây phiếu cá nhân của anh được rút ra khỏi tủ phiếu của cả trăm văn phòng. Và chừng đó, anh mới được thả về. Nhưng mấy chuyện này lằng nhằng lắm, vì do một máy điện làm việc tự động. Mỗi tội nhân có một phiếu cá nhân. Bên Mỹ có lập những cơ sở chứa tủ phiếu, to lớn bằng thành lính trước mặt ta đây. Khi lịnh thả ra gởi đến Heidelberg, thì người ta cho rút phiếu của đương sự trong những tủ phiếu tại mấy nơi này: Washington, Stuttgart, Ludwigsburg, Munich, Kornwesttheim, Paris, Berlin, Francfort.
“Tên anh có ghi trong cùng khắp thế giới, ở Phòng Liên bang Thông tin Mỹ, ở Bộ Tư lệnh tối cao Đồng minh Ba-lê, ở Ủy ban kiểm soát Berlin, trong các trại giam, các khám đường, các Văn phòng C.I.C, C.I.D, M.P., S.P., S.Q.S… Ở khắp nơi.
“Những cử động nào của anh, dầu nhỏ nhặt, tỷ như một chuyện anh bị dời từ trại giam này đến trại giam khác, đều bắt buộc phải thay đổi phiếu của anh trong tất cả mấy tủ phiếu những nơi nói trên. Chuyện ấy anh biết chăng?”.
Moritz tưởng tượng thấy tên anh viết trong các tỉnh thành lớn trên thế giới, tên anh được lặp đi lặp lại trong các máy điện to, lúc cháy sáng, lúc tắt, như mấy cây đèn rọi trên dây kẽm gai ở mấy trại giam. Từ đây, anh đã biết mỗi cử động của anh đều bị chụp hình, bị ghi sổ và bị soi sáng. Anh đáp:
- Tôi không biết chuyện ấy.
- Phải, nếu anh biết thì anh đâu có nhờ tôi xin cho anh. Tôi không phiền anh đâu. Anh tưởng một mình tôi mà kéo được anh ra khỏi guồng máy khổng lồ ấy à?
Bác sĩ Abramovici cười vang lên, và nói:
- Đến Tổng thống Huê-kỳ cũng không làm được nữa! Anh phải bình tĩnh chờ tới phiên anh.
- Nhưng trong khi tôi vô tội, tại sao phải ở mãi trong tù? Tại sao cái máy ấy thù oán tôi trong khi tôi chẳng có làm gì hại nó. Cái máy mà ông nói đó chắc là lập ra để dùng với kẻ trộm cướp, giết người, và kẻ bất lương thôi chớ?
- Anh ráng tập đừng xét đoán như một thôn dân lạc hậu nữa, anh Iankel à! Các vấn đề, anh đều xét theo quyền lợi cá nhân. Xã hội văn minh chẳng chuyên chú đến trường hợp cá nhân. Chuyện anh phạm tội hoặc vô tội là chuyện riêng của anh, chỉ quan hệ tới vợ anh, láng giềng anh, hoặc các nông dân khác trong làng anh. Chỉ mấy người ấy mới chú trọng đến việc cá nhân. Mấy xứ văn minh nhận xét các việc với tầm bao quát trọng đại hơn, mà không lo chuyện từng người.
- Nhưng tại sao lại bắt tôi?
- “Chúng tôi đã theo thủ tục bắt bớ dự phòng và từng loại hạng. Nếu chúng tôi cần dùng một phạm nhân, một tội phạm chiến tranh chẳng hạn, thì sẽ có liền, không cần phải chạy kiếm, đuổi bắt khắp làng mạc, rừng bụi, mất biết bao thì giờ. Với lối bắt bớ dự phòng này, chỉ ấn nút điện nơi chữ tương ứng với chữ khởi đầu của tên người tội nhân, thì chưa đếm đến số ba, đã có trước mặt chúng tôi tấm phiếu của tội nhân có dán hình với lời chỉ dẫn về bề cao, cân nặng, màu tóc, ngày và nơi sinh đẻ, mấy cái răng, và những gì cần ích cho chúng tôi. Kế đó, chúng tôi chỉ cầm máy nói gọi bằng vô tuyến truyền thanh nơi trại giam hoặc khám đường có tội nhân bị nhốt, thì vài giờ sau, tên ấy sẽ có mặt, bằng xương bằng thịt, trước Tòa án quốc tế Nuremberg. Anh coi có phi thường không? Kết quả của kỹ thuật đó. Thảy thảy đều tự động, đều chạy bằng điện cả. Như vậy, làm sao anh muốn nó thả anh được, có họa chăng là anh điên. Anh cũng như một sợi chỉ luồn trong máy dệt. Hễ mắc vô khung cửi rồi thì không tháo gỡ ra được nữa. Phải chờ tới khi nó ra khuôn,- dệt chung với mấy sợi khác,- phải chờ đến giờ của nó. Không thể nào làm khác được. Máy móc tinh vi lắm; với nó, phải nhẫn nại.
“Và anh, hiện anh đang ở giữa guồng máy. Anh có vùng vẫy, hoa tay múa chân cũng vô ích, anh không thể nào vượt tung khỏi dàn máy được. Cơ khí điếc mù, không nghe, không thấy, chỉ làm việc. Nó làm việc toàn hảo và đạt tới chỗ hoàn thiện mà con người không thể nào đạt được. Phải chờ, vì chắc chắn phiên mình phải đến. Máy móc không quên như con người đâu. Nó đúng giờ đúng khắc lắm, anh biết chưa?”.
Moritz rùn vai, hỏi:
- Vậy ông không thể làm cách nào cho nó thả tôi sao?
- Tôi đã cắt nghĩa rành. Anh đang ở trong guồng máy, và không có cách gì khác hơn là phải chờ đợi.
- Nhưng nếu ông muốn can thiệp giùm tôi, thì chắc có hy vọng, vì chuyện ấy có thể điều đình được. Cấp chỉ huy ắt phải là người như ông và tôi, và họ sẽ hiểu. Nếu ông giải thích cho họ nghe, tôi có vợ có con, và đã chịu đau khổ hàng mấy năm trường trong các trại giam, mà không có làm gì quấy, chắc mấy ông đó sẽ tha tôi ra.
Bác sĩ nổi giận nói:
- Thật như nói chuyện với con lừa không khác! Anh cứ đem chuyện cá nhân và riêng tư nói mãi. Anh không thể quên được anh. Đặc tính của người cổ lỗ thật! Tôi phải đi. Anh cần món gì nói đi: thuốc hút, đồ ăn hay quần áo?
- Tôi ước muốn được xử công bằng. Nhưng tôi thấy công lý nhân loại đã chết mất trên quả địa cầu rồi. Tôi không muốn gì hết.
- Anh cũng nên hút một điếu thuốc.
Ba Abramovici đưa gói “Lucky-Strike” cho Moritz, cười và nói:
- Chúng ta là bạn đau khổ với nhau mà!
Moritz thò tay lấy điếu thuốc, nhưng chỉ còn gói không. Bác sĩ lục kiếm các túi lấy gói khác, nhưng không có, ông nói:
- Tôi sẽ biếu anh điếu thuốc, lần tới, khi tôi trở lại đây!
Bác sĩ ra đi.

(142)

Mục sư Koruga ngồi ghế, cặp nạng để trên đầu gối. Viên sĩ quan hỏi ông:
- Nếu ông không phải thuộc phái độc tài quốc xã, hoặc cộng tác viên, thì ông đến nước Đức làm gì? Chuyện ông thuật lại rằng lúc tỉnh dậy thấy nằm trong quân y viện Đức mà không hiểu tại sao, chỉ dùng để nói với trẻ con. Những chuyện như thế chỉ có xảy ra trong những truyện quái dị miền Balkan của các ông, chớ chẳng khi nào có trong đời sống thực tế. Với một sĩ quan Mỹ, đó là chuyện thêu dệt vụng về, giấu đầu lòi đuôi, nó giống chuyện hoang đường, chuyện thần thoại. Quân Đức giữ ông làm chi trong nhà thương, nếu ông không phải là bạn, hoặc cộng sự viên với họ? Tại sao họ lại săn sóc ông trong sáu tháng trường và cưa hai chân ông? Bởi vì ông là kẻ nghịch à? Hay là vì lòng nhân đạo của họ? Họ nhân đạo hồi nào vậy? Quân Đức bắt giam và giết kẻ nghịch bằng hơi độc tất cả. Ông cộng tác với họ, nên được họ săn sóc. Chắc ông đã buồn lắm khi thấy Hitler không thắng trận à!
Mục sư Koruga giữ mực làm thinh. Mặt ông tái xanh, mồ hôi đượm trên cặp chân mày. Ông ngồi ghế không vững. Từ ngày bị cưa chân, ông chỉ nằm. Ông bị cảm sốt. Ông trông cho cuộc thẩm vấn được sớm chấm dứt, để ông được phép rời khỏi cái ghế ấy.
Viên sĩ quan nói tiếp:
- Chắc ông sẽ rất sung sướng khi Hitler thắng trận phải không? Chừng đó Hitler sẽ cử ông làm Đại chủ giáo xứ Roumanie, và ông sẽ toại nguyện?
- Không, tôi không vui mừng.
- Vậy ông vui mừng thấy đồng minh thắng sao?
- Càng không nữa!
Viên sĩ quan cau mày. Mục sư Koruga mỉm cười và nói:
- Không cuộc thắng trận nào bằng võ khí làm tôi sung sướng được cả.
Mục sư vừa nói vừa nhìn những hình ảnh các trại giam của Đức Quốc xã treo trên tường. Và ông nhớ đến xác của ông biện lý Goerge Damian, của chàng thanh niên Vasile Apostol và của mấy thôn dân khác trong làng Fântâna, bị Marcou giết hạ cùng một lượt với ông, và quăng bỏ trong hầm phân, sau chuồng ngựa của tòa thị sảnh. Ông nghĩ tới thây các trẻ nít thành Dresde, Francfort, Berlin. Ông nghĩ tới xác chết ngổn ngang ở Dunkerque, ở Stalingrad. Và ông không tài nào vui sướng khi nghĩ đến các thây ấy đã giúp vào cuộc đắc thắng được:
Nhất tướng công thành vạn cốt khô!
Muốn đạt đến chiến thắng, mặt đất phải lấp đầy thây của bao kẻ vô tội… Ông đọc một đoạn văn:
“Dầu Chiến Thắng, đâu có Tốt Đẹp,
“Mà cho là Tốt Đẹp
“Là kẻ vui thích giết người.
“Phàm kẻ vui thích giết người
“Ắt không thể thỏa ý muốn thống trị ở việc phục lòng thiên hạ.
“Giết người nhiều, lấy thảm thương khóc đấy,
“Chiến thắng được, lấy tang lễ mà xử đấy (1)”.
Viên sĩ quan nói:
- Bài thơ hay quá. Phải ông sáng tác không?
- Bài này do một hiền triết Trung Hoa sáng tác hơn hai ngàn năm nay.
- Ông chép lại cho tôi đi! Tôi muốn gởi về gia đình tôi, ở Mỹ.
Viên sĩ quan tươi cười, hình như đang nghĩ tới gia đình. Nhưng rồi ông lại cau mày ngó mục sư, nghi ngờ hỏi:
- Ông chắc mấy câu thơ vừa đọc đó là của một người Trung Hoa đặt ra không?
- Chắc chắn vậy! Nhưng mấy câu thơ làm cho ông thích, thì cần gì người đó hay người khác. Cốt nhứt là thơ hay, chuyện khác không quan trọng.
- Sao lại không quan trọng. Tôi vui lòng biết rằng tác giả là một dân Trung Hoa, Trung Quốc là nước Đồng minh của Mỹ quốc. Gia đình tôi sẽ hoan hỉ tiếp được bài thơ này. Nếu tác giả là một thi sĩ nước nghịch, thì tôi không thể gởi về nhà được. Ngày mai, ông viết lại cho tôi nghe! Tôi đưa viết chì và giấy cho ông. Ngoài thần học, ông có biết gì khác nữa không?
- Tôi học tất cả những gì tôi thích, vào những lúc tôi có thì giờ rãnh.
- Ông biết viết chữ Trung Hoa không?
- Không.
- Uổng quá. Tôi định nhờ ông viết bài thơ ấy bằng chữ Trung Hoa, để gia đình tôi ngạc nhiên chơi, không dè lại nhận được chữ Trung Hoa do tôi gởi về. Nhưng không sao. Nếu không biết chữ Trung Hoa, ông cứ viết bằng chữ Anh. Tác giả bài ấy có giọng trào phúng quá, và là dân nước Đồng minh của Liên hiệp quốc.
Khi trở về trại giam, mục sư mệt đừ.
Moritz đỡ ông lên giường, đắp khăn ướt lên trán ông, và hỏi:
- Họ có nói chuyện thả Cha ra không?
- Không.
- Vậy, họ hỏi Cha chuyện giám thị ì?
- Họ bảo Cha viết giùm một bài thơ của Lão Tử. Họ muốn viết bằng chữ Trung Hoa, và tiếc hùi hụi sao Cha không biết đọc và viết chữ Trung Hoa.
- Cuộc thẩm vấn có bấy nhiêu đó thôi sao?
Mục sư gật đầu.

(143)

Traian được thơ của Nora. Chàng cầm bao thơ có đề trên góc hai chữ “Tù binh”, và nói:
- Tôi biết Nora cũng bị bắt, nhưng tôi hy vọng vài ngày sau nàng được thả ra. Bây giờ không còn nghi ngờ gì nữa. Nàng cũng bị nhốt trong trại giam như chúng ta, cũng khổ sở, và bị đày đọa dối xử như chúng ta. Nàng cũng bị lưu đày từ trại giam này qua trại giam khác, có lính Ba-lan mang súng liên thinh gác ngoài rào kẽm gai, như chúng ta, không khác chút nào. Tôi không thể chịu đựng được nữa!
Nora không biết địa chỉ của Traian, nên đề trên phong bì tên chàng và các số hiệu của tất cả trại giam trong vùng Mỹ chiếm đóng. Bức thơ đã đi cùng khắp các trại giam trước khi đến tay chàng.
Chàng nói:
- Chúng nó không cho nàng biết tôi ở đâu và cũng từ chối không cho tôi biết nàng ở trại giam nào.
Mục sư cố an ủi chàng. Ông nằm trên giường, đầu đắp khăn ướt. Moritz đứng kề bên ông. Traian không nghe đến những lời khuyên can. Chàng đứng dậy nói:
- Mọi đau khổ đều có giới hạn. Tôi thấy đến chỗ tột cùng rồi. Không ai đi quá mức đó mà còn sống được!
Traian bước ra khỏi lều. Moritz kinh hoảng nói:
- Ông Traian đi tự tử!
Mục sư nằm nhắm mắt. Ông không nghe lời nói của Moritz. Ông cầu nguyện. Chẳng những cầu nguyện cho Traian và Nora, ông cầu nguyện cho Moritz và cho tất cả những người bị xã hội kỹ thuật Tây phương dồn hãm vào bước đường cùng, không một ai vượt qua mà còn sống được.
Moritz nói:
- Ông Traian sẽ tự sát nếu tôi để ông một mình.
Mục sư mở mắt, rờ tay Moritz và để cho anh ra đi.

(144)

Mục sư nói với Traian:
- Con đưa tay cho ba!
Ông nằm dài, mắt mở hí. Trán ông tái ngắt. Máu mặt không còn. Ông già nắm tay Traian, không nói lời nào. Hơi nóng trong hai bàn tay như san sớt lấy nhau. Máu cũng như chuyển sang qua lại. Chỉ có tình ruột thịt mới cho hai cha con gần gũi nhau như lúc này. Hai quả tim cũng cùng một nhịp. Nhưng tim của mục sư nhảy càng phút càng yếu.
Moritz muốn thay khăn đắp, nhưng mục sư ra dấu không cần. Anh bèn ngồi bên mép giường. Mục sư nói:
- Hiện giờ, Cha thấy tay cha ấm, không do hơi nóng của người, mà do nơi lửa sống của đời người. Tay con nóng đúng theo nhiệt độ đời sống cần phải có.
Traian siết chặt hai tay cha.
Bàn tay đã lạnh, nhưng mục sư vẫn tươi cười. Ông nói:
- “Cha mơ ước hai chuyện ở thế gian: làm mục sư tại Mỹ quốc và, lúc chết, được chôn trong đất thánh làng Fântâna. Con nhớ không, Traian con, cái đất thánh không có tường, không bờ rào, đầy hoa dại cỏ hoang đó.
“Đất thánh ấy giống một cánh đồng rộng. Cha tha thiết muốn yên giấc ngàn thu nơi đấy, để chiêm thưởng cuộc du ngoạn trong cảnh vĩnh cửu của Cha. Nhưng hai chuyện mơ ước lại thành tựu một cách buồn cười. Cha chưa từng đi Mỹ thì Mỹ quốc lại tìm đến Cha. Cha sẽ chết trong trại giam trên đó phấp phới ngọn cờ ngôi sao Mỹ quốc. Cha cũng sẽ không được chôn trong đất thánh Fântâna. Nhưng đất thánh này lại trở nên to rộng hơn làng Fântâna và xâm chiếm cả mặt đất Âu châu.
“làng Fântâna, và xứ Roumanie, và tất cả Âu châu hiện giờ chỉ là một vết đen lớn trên bản đồ thế giới, giống như một vết mực. Toàn cả đại lục Âu châu đều im lặng, và hết vui tươi. Nét vui tươi đã rời khỏi châu Âu như đã rời khỏi đất thánh Fântâna. Rồi chẳng bao lâu, hoa dại cỏ hoang sẽ lan tràn bao phủ khắp địa cầu như đã bao phủ nghĩa địa làng chúng ta. Chỗ nào chôn Cha cũng được. Ở nơi nào, Cha cũng sẽ tưởng tượng như ở trong đất thánh không bờ rào của làng ta”.
Traian nói:
- Tại sao Ba nói chi chuyện ấy? Ba nên nằm nghỉ cho khỏe là hơn.
- “Con nói có lý, nhưng Cha cần tỏ ít lời với con. Traian con à, con nên biết rằng: “Cuộc đời chẳng bao giờ có tôn chỉ khách quan, trừ phi sự chết mới có mục đích khách quan. Tôn chỉ thiết thực và chân chính nào cũng vẫn chủ quan”.
“Xã hội kỹ thuật Tây phương lại muốn hiến cho đời người một tôn chỉ khách quan. Nhưng đó chỉ là phương tiện hay nhứt để dễ tiêu diệt đời người. Họ đã thâu hẹp đời người thành một bảng thống kê. Nhưng “mỗi thống kê đều bỏ sót lại một trường hợp đặc biệt duy nhứt. Và nhân loại càng tiến hóa thì chính cái đặc tính duy nhứt của mỗi cá nhân và mỗi trường hợp đặc biệt lại càng đáng kể hơn.
“Cái xã hội kỹ thuật tiến triển theo một hướng ngược chiều: nó bao gồm và nhứt-luật tất cả, nó nhứt-ban-hóa tất cả. “Và càng muốn nhứt-ban-hóa, và càng tìm kiếm, càng sắp xếp tất cả giá trị vào trong cái chỗ toàn-nhứt-thể mà nhân tính Tây phươong đã mất hết ý thức về những giá trị của bản vị, nghĩa là, của đời sống cá nhân. Do đó, cái họa tập-sản nảy sanh, dầu hiểu theo lối Nga, hoặc hiểu theo lối Mỹ, cũng thế”(2).
“Và cũng chính tại vì đó mà chúng ta có thể tin chắc rằng cái Xã hội kỹ thuật ấy sẽ sụp đổ. Vả lại, chính con, con cũng nói đến nó, trong một buổi tối, tại làng Fântâna. Cái Xã hội kỹ thuật Tây phương không còn hạp với đời sống mỗi cá nhân. Nó bóp nghẹt con người đến chết, như đã chết ngộp, mấy con thỏ bạch trong quyển tiểu thuyết của con. Chúng ta sẽ chết ngộp trong bầu không khí đầy chất độc của Xã hội ấy, một xã hội chỉ có những tên Nô lệ kỹ thuật, những máy móc và những “Công dân” sống được mà thôi, đúng như con muốn viết trong sách con. Loài người, như thế, sẽ phạm tội nặng và sẽ đắc tội với Chúa Trời.
“Chúng ta đem hết sức lực để hành động chống lại quyền lợi chúng ta và chống lại Chúa Trời. Thật là mức trụy lạc cùng tột chưa từng đạt tới bao giờ của một Xã hội loài người. Và cái Xã hội ấy rồi cũng sẽ bị diệt vong như bao nhiêu xã hội khác đã bị diệt vong suốt thời gian lịch sử, và trước thời kỳ có lịch sử nhân loại nữa.
“Người ta muốn dùng một trật tự luận lý hình thức để cứu vớt cái Xã hội ấy, nhưng chính cái trật tự ấy lại giết chết xã hội đó.
“Tội trạng của Xã hội kỹ thuật Tây phương là cở chỗ đó. Cái Xã hội ấy giết người đang sống, hy sinh họ cho lý thuyết, cho trừu tượng, cho kế hoạch. Đó là một hình thức tân thời của lễ hy sinh cúng người. Giàn lửa và hỏa hình thuở xưa, ngày nay được thay thế bằng văn phòng và bảng thống kê, hai thần tượng của xã hội hiện tại, đang đốt tiêu mòn con người làm vật hy sinh.
“Thí dụ như nền dân chủ ;à một thể thức tổ chức xã hội lương hảo hơn chế độ độc tài, nhưng nó hcỉ tiêu biểu cho khuôn khổ xã hội của đời người mà thôi. Lầm lẫn dân chủ với lẽ sống, là giết chết đời sống con người và thâu giảm đời sống xuống còn một mặt, một khuôn khổ. Đó là lầm lỗi to tát, một lỗi chung cho phe độc tài quốc xã và phe cộng sản.

“Đời sống con người thật có ý nghĩa là khi nào nhận xét và đã sống trong toàn thể, vật chất lẫn tâm hồn. Và muốn thấu đáo ý nghãi sâu xa của lẽ sống, phải dùng một thứ dụng cụ mà ta dùng để hiểu mỹ thuật và tôn giáo: đó là những dụng cụ sáng tạo mỹ thuật, những dụng cụ của mọi sáng tạo. Trong cuộc tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của lẽ sống, lý trí chỉ giữ vai phụ thuộc. Toán số, thống kê, luận lý cũng vậy, cũng có giá trị phụ thuộc trong sự thấu hiểu và tổ chức đời sống con người, hoặc trong sự thấu hiểu cuộc hòa nhạc của Beethoven hay của Mozart. Cần phải có tình cảm và tâm hồn cao cả.
“Nhưng Xã hội kỹ thuật Tây phương cứ ngoan cố tìm hiểu nhạc sư Beethoven và họa sư Raphaël bằng những con số toán học. Cái Xã hội ấy cứ ngoan cố tìm hiểu và nâng cao đời sống con người bằng những bảng thống kê.
“Thử đem áp dụng những phương pháp ấy thật là phi lý và bi đát.
“Với phương pháp đó, trong vài trường hợp tốt nhứt, con người có thể đạt đến chỗ tuyệt mỹ về phương diện xã hội. Nhưng chuyện ấy lại không cứu vớt được con người chút nào. Chính đời sống con người sẽ hết tồn tại, khi bị tiết giảm theo khuôn khổ xã hội, theo động tác cơ giới tự động, theo luật lệ của máy móc. Các luật này chẳng bao giờ tạo được một ý nghĩa cho đời người. Và một khi đã truất bỏ ý nghĩa của lẽ sống- cái ý nghĩa duy nhứt, hoàn toàn vô-cố và vượt hẳn luận lý mà đời sống có được- thì lúc ấy, chính đời sống con người rồi cũng mất tiêu luôn. Cái lẽ sống của mỗi người phải hoàn toàn thuộc về cá nhân, thuộc về nội tâm của mỗi người.
“Xã hội kỹ thuật ngày nay đã dứt bỏ từ lâu các chân lý ấy và đã đi sâu vào các con đường khác, với một tốc lực cao độ và tuyệt vọng. Bởi thế nên các dòng sống Rhin, sông Danube, và sông Volga mới cuồn cuộn đầy nước mắt của đám quần chúng nô lệ. Dòng nước mắt ấy cũng sẽ chảy đầy khắp các sông trên châu Âu và trên thế giới, cho đến khi biển cả trùng dương đều tràn ngập nỗi đắng cay thảm khổ của con người, con người trở thành nô lệ cho Kỹ thuật, cho Quốc gia, cho chế độ Văn phòng, chế độ Quan liêu, chế độ Tư bản.
“Sau rốt, Chúa lại đến phải xót thương con người, như Chúa đã từng thương hại nhiều lần. Và, giống chiếc thuyền của ông Noé trên lượn sóng trận đại hồng thủy, vài người thật là người, còn giữ được chân tính, sẽ nổi trôi trên trận vận xoáy nhiễu loạn của đại nạn tai ương tập thể này. Và chính nhờ mấy người ấy mà loài người sẽ được bảo tồn cứu vãn, như đã trải qua bao lần trong lịch sử.
“Tai nạn chỉ qua khỏi cho những người thật là người chân chính, nghĩa là cho cá nhân. Và lần này, chẳng phải cả loại hạng được cứu thoát.
“Không một giáo hội, một quốc gia, một đất nước nào có thể cứu tế được chúng dân của mình, cả đoàn lũ, hoặc từng loại hạng. Chỉ là những người, riêng từng cá nhân, không kể đến tôn giáo, chủng tộc, loại hạng chính trị, hoặc giai cấp xã hội của họ, chỉ mấy người ấy sẽ được cứu tế mà thôi. Và vì thế, chẳng nên xét đoán con người theo loại hạng của họ.
“Loại hạng là một sai lầm dã man quái đản hơn hết, do trí não con người tạo ra. Đừng quên rằng kẻ nghịch ta cũng là người, chớ không phải một loại hạng”.
Thừa lúc mục sư tạm ngừng nói, Traian hỏi giọng lo âu:
- Bây giờ Ba đem cắt nghĩa với con mấy chuyện ấy làm chi? Tốt hơn Ba nên nằm nghỉ cho khỏe.
- Cha sắp làm đây. Cha sẽ nghỉ yên giấc. Nhưng trước khi yên nghỉ, Cha muốn tỏ hết mấy chuyện ấy, mà con đã biết và đã cảm thông như Cha. Và ai cũng đều cảm thông như thế, cho đến cả Moritz nữa. Song Cha thấy khoan khoái nhẹ nhàng được lặp lại, bằng không nói ra trước khi nghỉ, Cha sẽ nằm không yên giấc.
- Tay Ba lạnh!
- Cha đã biết rồi con à! Chắc tại vì một sự lo sợ lạ lùng mà Cha không kềm chế nổi. Một nỗi lo âu mãnh liệt hơn thân xác.
- Con không hiểu Ba muốn nói gì? Ba thấy trong mình không yên sao?
- Không!
Mục sư đau đớn mím môi lại, dường như thân mình ông có luồng điện chạy ngang. Traian cúi nhìn cha. Mặt mục sư vùng sáng lên, với nụ cười nồng nàn, đầy yêu đương. Sau vừng trán ông, dường như có ngọn “đèn rọi” phựt lên.
Traian đã biết là phút cuối cùng, chàng quỳ gối xuống, thổn thức.
Moritz đứng dậy hỏi:
- Tôi nên đi kêu bác sĩ không?
Traian không đáp, cứ siết chặt tay cha, và khóc thảm thiết, một cách tuyệt vọng chưa từng có.
Moritz đã hiểu, nên quỳ xuống bên Traian và làm dấu Thánh giá.
Vài phút sau, Moritz đứng dậy. Tù nhân các lều khác đều đến bao chung quanh mục sư. Moritz lách mình qua đám người, đầu trần, đang đứng lặng yên. Một lát anh trở về, tay cầm cây đèn cầy làm bằng sáp, mót máy trên các hộp sô-cô-la. Anh đốt đèn, cắm trong một hộp thiếc không, và để gần đầu mục sư Koruga.

(145)

Bác sĩ trại giam vô lều mục sư Koruga với hai y tá khiêng chiếc cáng.
Traian hỏi:
- Các người muốn gì?
Bác sĩ trả lời:
- Khiêng xác đi. Chúng tôi không được phép để xác trong lều.
- Đem đi đâu?
- Đem ra khỏi trại, nhưng không biết chỗ nào. Chúng tôi phải cho thượng cấp hay để xe Mỹ đến chở đi.
- Dầu sao tôi cũng có quyền biết coi các người chôn cha tôi ở đâu?
Bác sĩ gắt giọng:
- Còn nhiều chuyện mà chúng tôi cũng muốn biết lắm, nhưng vô phương.
Hai y tá đến gần giường, định khiêng xác mục sư để lên cáng. Bác sĩ đưa tay lên cản và nói:
- Để tôi khám nghiệm đã. Biết đâu chừng ông còn sống.
Bác sĩ nắm tay mục sư hồi lâu, rồi áp lỗ tai vào ngực xác chết, đoạn bảo y tá:
- Hai người có thể khiêng đi.
Traian la lớn:
- Không được!
Bác sĩ nói:
- Anh chống lại làm gì? Chúng tôi cũng chỉ là tù nhân như anh, và không thể làm gì hơn là vâng lịnh.
- Tôi muốn biết trước hết, các ông đem xác cha tôi đi đâu? Ít nhứt tôi cũng được quyền hỏi, vì tôi không được phép dự lễ táng cha tôi kia mà! Tôi muốn biết chắc coi người có được chôn theo đạo không? Dầu là tù nhân, tôi cũng có quyền biết đến. Khi thác rồi, cha tôi đâu còn là tù nhân nữa; người phải được kính nể, như mọi người chết mới được!
- Ai nói với anh rằng người chết không được kính nể?
- Không phải tôi nói như thế. Nhưng cha tôi là mục sư Chính thống giáo, nên tôi muốn người được chôn cất theo nghi lễ của Nhà thờ thuộc về đạo của người.
- Anh viết đơn xin phép Bộ Chỉ huy Mỹ đi.
- Ông có bảo đảm rằng ngày mai không quá trễ hay không?
- Tôi không bảo đảm gì hết, vì tôi cũng là tù như anh.
- Vậy thì xác cha tôi phải ở đây. Tôi muốn trước khi lìa người, được biết chắc chắn người sẽ được mai táng theo thể thức đạo Chính thống giáo.
Bác sĩ nói:
- Anh chống lại vô ích.
- Có thể ông có lý, nhưng tôi vẫn chống.
- Chúng tôi phải đem xác đi, vì lịnh cấm để trong trại giam.
- Ông có thể giựt lấy xác, nhưng ông sẽ hối hận.
Hai y tá chụp tay Traian lôi mạnh ra khỏi giường. Xác mục sư được để lên cáng. Traian vùng vẫy trong tay những người nắm cứng anh. Khi cáng khiêng gần anh, anh chỉ thấy được cái trán của cha, vừng trán cao, tinh khiết và sáng như vừng trăng.
Moritz theo sau mấy y tá, đầu trần, tay cầm hộp thiếc đựng đèn cầy còn cháy. Traian nói:
- Đây là một trọng tội mà các người sẽ trả đắt giá. Có nhiều hành động không thể tha thứ được. Bác sĩ, ông đừng quên rằng chính ông cấm tôi đưa xác cha tôi ra tới cửa trại giam nhé!
- Chẳng phải tôi cấm, tôi chỉ tuân kỷ luật.
Viên trưởng trại đứng gần Traian, khuyên:
- Anh nên bình tĩnh. Nếu chúng nghe được, chúng sẽ nhốt anh trong hầm tối.
- “Từ rày về sau, không có gì làm tôi bình tĩnh được nữa. Không có xà-lim, khám đường nào trấn áp được tiếng kêu la của tôi. Kể từ bữa nay, tôi sẽ nhịn đói cho đến chết. Tôi sẽ tuyệt thực giữa hai mươi ngàn người trong trại giam này. Tôi sẽ chết lần mòn, từ phút, từ giờ, để phản đối. Cái chết của tôi sẽ là một tiếng hét căm hờn phản kháng. Nó sẽ đi sâu vào tai, vào mắt, vào da thịt của những người chung quanh tôi, của những người bị nhốt một lượt với tôi, của những kẻ đã giam cầm tôi. Tiếng phản kháng ấy sẽ vang dội khắp bốn phương trời, không ai tránh khỏi nghe nó. Không một ai! Không ai tránh khỏi! Dầu sau khi chết…”

(146)

Moritz hỏi Traian:
- Ông thật tình muốn chết sao? Ông không ăn, không uống gì hết?
Bốn ngày qua, từ bữa Traian nhứt định tuyệt thực. Trời nóng, Traian nằm ngửa dưới bóng lều. Đi cũng mệt, đứng nghe nói chuyện cũng mệt, ngó trời cũng mệt, và chính sự hiện diện của thân xác chàng cũng làm chàng mệt nốt.
Còi báo hiệu buổi ăn trưa. Moritz cầm ga-mên của Traian, ráng thuyết phục chàng một lần nữa, nói:
- Ông muốn tôi đem phần ăn của ông về không? Ông có chết thì cũng chính bọn chúng vui mừng. Nhưng muốn chết là tội lỗi lắm.
Traian đáp:
- Nếu anh muốn thì anh cứ lấy phần của tôi chớ tôi không cần gì nữa.
Moritz đi lấy đầy một ga-mên súp đem về. Anh đặt xuống đất, gần Traian, và móc túi lấy muỗng ra lau trên tay. Đoạn anh để ga-mên trên đầu gối. Súp còn nóng. Anh phồng mũi hít hơi súp bay lên. Traian hỏi:
- Sao anh không lấy luôn phần của tôi? Phần của anh, ăn không đủ no. Vả lại, khẩu phần nào cũng không đủ cho ai hết.
- Tôi không ăn phần của ông được. Chúa sẽ phạt tôi. Lúc ông đang đau, tôi ăn phần của ông thì tội tình lắm. Tôi không thể làm được.
Kèm ga-mên giữa hai đầu gối, Moritz ngước mặt lên trời, đang đượm màu u ám, nặng nề, nhìn mây một lát lâu, môi mấp máy, rồi làm dấu thánh giá.
Traian theo dõi từng cử chỉ của anh. Moritz chẫm rãi để cái muỗng trong súp, trịnh trọng như một người đang hành lễ.
Anh múc nửa muỗng súp và nghiêm trang đưa lên môi, như rước lễ thánh. Nuốt xong, anh nghỉ một chặp. Anh cầm muỗng ngay thẳng trên tay, không cục cựa, như muỗng còn đầy.
Mắt anh to và đen ngó chăm chú trong cõi xa xăm, một vật mà chỉ riêng anh thấy, ở một nơi ngoài biên giới chân trời mặt đất.
Moritz múc một muỗng nữa. Không bao giờ anh múc đầy muỗng. Mỗi lần, không bao giờ anh ăn hơn nửa muỗng. Không bao giờ anh ăn dưới nửa muỗng súp. Anh đưa muỗng lên môi cũng một cách chẫm rãi và trịnh trọng như trước.
Moritz ăn cũng như người ta cử hành lễ mi-xa, đều đặn và tiết độ. Ăn, đối với anh, là một cử chỉ thiêng liêng, - lễ thụ dưỡng-, phải giữ đúng theo nguyên thủy tôn nghiêm. Và cũng như mọi cử chỉ căn bản thiêngliêng, ăn không được hấp tấp, phải thận trọng nghiêm trang. Một giọt súp không được dính môi, đổ, hoặc bỏ sót.
Các cử chỉ gần như thiêng liêng của Moritz đang ăn làm tê liệt mọi thuyết hoài nghi và bắt buộc phải im lặng.
Không có vẻ gì đóng kịch, không có gì vô cố, không có gì vô ích. Tới giờ ăn, Moritz đặt mình vào tiết điệu thiên nhiên. Anh tư dưỡng cũng như loài thảo mộc sinh dưỡng, rút nhựa sống trong lòng đất. Toàn thân anh hòa điệu với cử chỉ ấy, không thấy biết gì chung quanh, anh hoàn toàn thuộc về bản ngã anh, hòa mình mật thiết với tạo vật thiên nhiên.
Khi ăn xong, lúc không còn giọt súp nào dính ga-mên, anh ngồi lặng yên một hồi, nhìn quang cảnh trước mắt, quang cảnh chỉ một mình anh thấy. Rồi, với ba ngón tay nhập lại, anh làm dấu thánh giá một lần nữa.
Day qua Traian, anh nói, như vừa tỉnh dậy sau giấc mơ dài:
- Ăn phần của người khác là một tội lớn!
Rồi anh đứng dậy, đi rửa ga-mên.
Traian nằm yên, mắt nhìn xa xăm, nhưng không thấy chân trời. Chàng còn lởn vởn trước mắt hình ảnh Moritz ngồi ăn, cử hành nghi lễ dưỡng sinh, một hành vi tư dưỡng trang nghiêm mà chàng vừa từ bỏ.

(147)

Traian nói:
- Tôi từ khước tất cả sự săn sóc thuốc men.
Chiều ngày tuyệt thực thứ tư của Traian. Trung úy Jacobson, chỉ huy trưởng trại giam, được cho hay phái đoàn phóng viên báo chí Mỹ đến viếng các tù binh và trại giam ở Đức, vừa mới tới Stuttgart. Ông ra lịnh cho xã trưởng Schmitdt điều đình với bác sĩ giám đốc đem Traian ra khỏi trại giam một thời gian, đừng cho báo giới hay biết trường hợp của chàng, trường hợp thật là đáng chú ý. Thực vậy, Traian không phải đảng viên Đức Quốc xã. Cha chàng vừa mới chết, lại là mục sư cụt hai chân. Vợ chàng là Do Thái. Bao nhiêu là yếu tố để cho phóng viên báo chí làm rùm lên! Trung úy không muốn bị tai tiếng, vì hễ có loạt bài công kích của báo chí về vụ này, chắc ông sẽ bị kêu về Mỹ lập tức, lúc mà ông đang sưu tầm gần đủ trọn bộ đồ bằng sứ của Đức rất quý giá. Ông mua tất cả bao nhiêu đó với vài bịch thuốc hút và đã vô thùng gởi cất trong hầm vùng chiếm đóng của quân đội Anh. Chỉ còn chở về Mỹ là xong. Nếu ông tìm mua được đủ trọn bộ, bị tản mác nhiều nơi: ở tỉnh, làng và hầm chứa bên Đức, thì ông sẽ đủ sống sung sướng trọn đời, không cần làm gì hết.
Nhưng muốn được như vậy, ông phải ở tại đây, tới chừng nào mua được đủ cả.
Nếu mấy ký giả không đến Stuttgart, thì ắt trung úy không lo sợ vỡ lở. Chuyện của Traian rồi sẽ ém nhẹm đi, ông không nhắc đến trong bản phúc trình. Trong trại giam, bọn tù chết đói hằng bữa, và cái việc phần đông tù nhân chết vì thiếu ăn, và một tên tù chết vì không chịu ăn, có gì là trọng hệ đâu. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, chuyện xảy ra sẽ làm xáo trộn chương trình trù tính của ông. Ông muốn làm sao tránh cho kỳ được; vì cả triệu bạc bị thiệt trong đó!
Xã trưởng Schmidt, cựu đại tá S.S., và chỉ huy trưởng Sở Cảnh sát thành Weimar, hứa với trung úy Jacobson lo xong vụ này gấp gấp và rất kín nhẹm.
Đã mười giờ đêm. Ông Schmidt đến nói với Traian:
- Bác sĩ thì phải săn sóc bịnh nhân, dầu người bịnh không bằng lòng. Anh bị sốt rét, phải chở đi nhà thương của trại.
Moritz ở gần giường Traian. Anh giựt mình mỗi khi nghe giọng nói của xã trưởng Schmidt. Anh tưởng như nghe tiếng của Iorgu Iordan, cũng y một giọng nói đó.
Traian đáp:
- Tôi không rời khỏi chỗ này. Có phải vì tôi đau đâu, mà vì các người sợ tôi ở đây thì sẽ gây mối ác bình của báo chí, nên mới dời tôi ra khỏi trại đó thôi. Nhưng các người không ém nhẹm được. Mấy người cho rằng tôi chết mau quá hay sao? Cả hai chục ngàn thây ở trại giam này không làm bận lòng các người. Mấy tù nhân khác chết êm thấm hơn. Và khi chết êm thấm như vậy, thì không gây chuyện lôi thôi. Họ không gây rắc rối, vì chết lần mòn và chắc chắn. Tại sao mấy người không chở họ vô nhà thương như tôi vậy?
Hai y tá khiêng bổng Traian để lên cáng, như một món đồ. Moritz nắm chặt hai tay, nghiến răng. Anh muốn binh vực Traian, nhưng thấy thua trước, nên đành chịu. Traian nói:
- Nhơn danh cho thuyết bất chính để làm một việc phải là một trọng tội!
Bác sĩ làm như không nghe, bảo y tá:
- Thôi ta đi!
Hai y tá khiêng cáng ra khỏi lều. Bọn tù đứng dang ra để tránh đường. Không ai ngủ hết, và cả thảy đều im lặng. Giống cảnh im lặng báo hiệu cái chết! Tất cả đều hiểu rằng có việc nghiêm trọng xảy ra. Nhưng không ai biết gọi đúng là việc gì.
Trời sáng trăng. Moritz đi theo sau cáng, đầu cúi xuống, như đưa đám tang. Anh ôm quần áo, giày, mắt kiếng và ống điếu của Traian. nước mắt anh tuôn trào. Nhưng anh trực nhớ người nằm trên cáng, bạn anh, vẫn còn sống.
Tới cửa nhà thương. Moritz bị cấm không được vô. Xã trưởng Schmidt nói:
- Anh không được phép theo chúng tôi vào trong. Lịnh nghiêm nhặt lắm! Không ai được phép nói chuyện với Traian. Và y cũng không được phép gặp người nào. Anh đưa quần áo, đồ vậy của y tôi đem vô cho.
Đêm đó, Moritz một mình đi dọc theo rào kẽm gai, chung quanh nhà thương. Anh không đành lòng rời bỏ Traian.

(148)

Traian bị nhốt trong một phòng có sáu giường, nhưng không ai nằm. Họ đã dời mấy bịnh nhân đi, để chàng một mình.
Hai y tá được cắt phiên canh gác.
Traian nằm dài, mặt day vô vách. Môi chàng khô khan như tro bếp. Nhiều cảnh mơ mộng huy hoàng thoáng qua đầu óc chàng, như một phim hình màu.
Mắt tuy nhắm, nhưng vẫn bị chói lòa bởi một ánh sáng chóa gắt như sức sáng của đèn nê-ông. Ánh sáng ấy từ tâm não chiếu ra, một ánh sáng chói làm nóng cháy cả đôi mí mắt. Tư tưởng chàng cũng rực rỡ, đầy màu sắc. Và toàn thân chàng cũng sáng rạng, nhẹ nhàng và nồng cháy như giấc mê sảng của chàng.
Chàng thấy như lơ lửng trên không trung.
“Bây giờ ta mới hiểu tại sao các nhà khổ hạnh, các đạo sĩ nhịn đói. Khi ta đói, ta tách lìa mặt đất dễ dàng hơn. Ta thấy Thượng đế gần ta hơn, và hình như trán ta đụng trời”.
Traian ở trong trạng thái thoát trần này một lúc lâu, thình lình nhận thức có người đem đồ ăn đến.
Một y tá để trên ghế, gần giường Traian, một mâm đầy. Traian nằm xây lưng ra, không thấy, nhưng đã biết chắc mâm có những món gì.
Trước hết chàng đoán mùi khoai lang tây chiên bơ. Kế đó mùi cà-phê. Chàng nhận ra các món trên mâm, như đã thấy và nếm rồi. Mũi chàng trở nên thính hơi hơn lúc nào hết. Chàng phân biệt được chắc chắn mùi này của món ăn nào, mùi kia của món ăn khác.
Trên mâm còn có một chén sữa nóng lên hơi, mùi sữa cũng nặc nồng như mùi cà-phê. Lại mùi thịt cũng rất dai dẳng lâu tan. Traian nghe nó nồng gắt như trong bức tranh nhiều màu, một màu đậm nổi rõ bật. Mùi thịt ram bơ còn bắt thèm hơn các món khác. Nó thấm vào mền, vào áo sơ-mi, vào tóc chàng, vào vách tường.
Traian nghe mùi thịt ram già lửa, mùi bơ, sữa, mùi cà-phê, dính sát vào mình như chất thuốc dán. Nó theo hơi thở vào tận buồng phổi và dạ dày. Chàng có cảm giác như đang ăn, hết còn quyết định tuyệt thực nữa. Chàng cố gắng loại mùi đồ ăn ra khỏi không khí chàng thở, nhưng không thể được. Và mùi thơm các thức ăn càng phút càng thấm sâu hơn.
Traian liền phân tích mùi vị ấy một cách sáng suốt, như người ta phân tích bảy màu của ánh sáng với tam lăng kính. Chàng nói thầm:
“Đây là một lối kiểm soát lại năng khiếu khứu giác của mình”.
Rồi trí óc chàng bị lôi cuốn theo công việc ấy, tưởng như mình đã tự kềm chế được, và đang sùng các vật thực làm đối tượng khảo cứu.
Khám phá trước nhứt của chàng là thịt này không phải thịt heo hoặc thịt bò, dẫu là thịt đồ hộp, nghĩa là, đã có trộn nhiều gia vị rồi: chàng nhận ta là loại thịt gia cầm, có lẽ là thịt gà tây. Chàng có ý muốn dòm xem thử coi có trứng không, nhưng liền kềm lại, cứ nằm day mặt vô vách. Chàng đoán tiếp, và nhận ra mùi sữa, hơi khê, chắc do sữa bột khuấy đặc và nấu sôi mau. Trên mâm lại có dĩa mứt. Mùi mứt nhẹ phớt như một màu thật lợt. Nhận ra được mùi mứt, Traian thấy tự hào, sảng khoái tinh thần như mình đã phá giải kỷ lục tối cao, hoặc như đã phát minh một cái gì trọng đại trong phòng thí nghiệm. Một chuyện mà chàng không biết rõ là có bánh mì hay không. Nếu có, chắc là bánh mì trắng làm bằng bột mì ở Mỹ, rây nhuyễn còn chất bột lọc, và bánh đã nguội, hết xốp.
Viên y tá đến gần giường, nói:
- Anh nên ăn liềin đi. Để nguội thì còn mùi-lai gì?
Traian không đáp. Chàng muốn tiếp tục đoán trong mâm có thêm những gì, nhưng không thể được nữa. Chàng đã mất trớn, không còn tập trung trí não, và không thể tìm lại bình tĩnh cần thiết nữa.
Bây giờ thì các mùi pha trộn và nhập lại làm một, như bảy màu của ánh sáng hợp thành một màu trắng. Lời nói của y tá xáo trộn các mùi như hòn đá ném vô hồ nước, đánh tan gợn sóng lăn tăn đều đặn của mặt nước.
Traian buồn bã thấy không được phân tích các mùi đồ ăn nữa để hưởng trọn vẹn nó. Chàng liền ngủ thiếp.
Ngày sau, mâm đồ ăn vẫn còn y nguyên tại chỗ. Traian không màng ngó đến. Mùi vị đã lạt mất. Các món ăn đều giá lạnh như chết rồi.
Traian mệt, không xoay trở trên giường, cũng không mở mắt. Chàng liếm môi nhiều lần và buồn rầu thấy môi đắng chằng và khô khan.
Viên y tá đem một mâm khác lại để gần giường và bưng mâm trước đi. Lần này, có trứng. Mùi nó nặc nồng như màu sặc sỡ trong giấy quảng cáo. Còn có mứt cam, sữa, cà-phê, và bơ nữa. Tất cả các mùi ấy làm thương tổn Traian như những mũi tên ghim vô da thịt chàng.
Traian nhắm híp mắt lại, chứng tỏ chàng đau đớn là dường nào. Chàng lầm thầm cầu nguyện: “Lạy Chúa giúp con được chết gấp. Thật rất khổ sở cho linh hồn khi còn ở trong thân xác mà phải mãi chống lại mối cám dỗ của lòng ham muốn”.
Chàng tự an ủi, cho rằng trong vài ba ngày nữa, xác thịt chàng sẽ chịu thua.
“Trong hai ba ngày nữa ta sẽ chết!”, nghĩ đến đó, chàng nằm ngủ nữa.

(149)

Traian ngồi dậy ngó ra cửa sổ. Trời đúng ngọ. Ngoài sân, toàn thể tù nhân đều sắp hàng ba, mình trần truồng. Trọn sân của trại giam chật ních những người trần truồng như nhộng.
Dưới cửa sổ nhà thương, một se “Jeep” có quân lính cầm “ma-trắc” đứng bao quanh. Bọn lính nhai sơ-vinh-gum. Tù nhân lần lượt đến trước mặt bọn chúng. Họ đi khúm núm, vì người trần truồng đi có vẻ sợ sệt lắm. Traian đã biết cảm giác này; chàng cũng đã làm rồi trong cảnh ngộ như thế. Chàng người ghĩ thầm: “Lại có cuộc khám xét nữa? Chúng định kiếm cái gì nữa đây?”.
Mỗi tháng đều có khám xét nhiều lần.
Một ông già đến trước mặt bọn lính. Traian nhìn ra đức Đại chủ giáo thành Varsovie. Ông cao lớn, lưng hơi khòm, và ốm tong teo. Từ xa, có thể đếm được xương sườn ông, một bộ hài cốt bọc da. Râu ông bạc phếu. Trọn sân trại chỉ có một vật trắng phau này. Mắt dòm đến thấy có ánh ngời, một ánh sáng chói rạng dịu dàng. Bọn lính cười rộ khi thấy ông bước đến.
Nhưng Đại chủ giáo làm như không thấy chúng. Ông dòm trời, ngó lướt trên nón kê-pi của chúng. Và hôm ấy vòm trời xanh biếc như nóc tròn nhà thờ Chính thống giáo xứ Byzance.
Quân lính khám xét tay của Đại chủ giáo. Viên thông ngôn bảo:
- Xòe mấy ngón tay ra!
Ông già vảnh bàn tay. Bọn lính xem kỹ từng ngón. Nhưng tù nhân không có cà rá.
- Đưa tay lên!
Ông già đưa tay ra, lúc đầu ngang ngực như ban lễ thánh, rồi sau đưa thang khỏi đầu. Ông không ngó viên thông ngôn, cũng không ngó bọn lính, nhưng bọn chúng lại nhìn ông kỹ lưỡng, để xem có giấu đồ trang sức vàng bạc dưới nách hay không.
Bọn chúng lại xét đến mái tóc xõa sau ót ông. Tóc dài và bạc trắng có thể giấu đồ được. Chúng vạch từng lọn, ban đầu dùng cây ba-ton, sau lấy cây vạch tìm. Chúng xem xét từ trên đỉnh đầu xuống tới ót. Rồi chúng rờ mó đến hàm râu ông để xem coi có giấu cà rá chăng.
Viên thông ngôn bảo:
- Xây lại coi!
Ông già xây lại, đưa lưng cho lính. Viên thông ngôn nói:
- Cúi xuống!
Ông cúi xuống và khom lưng như quỳ trước tượng thánh. Nhưng dường như chưa đủ, viên thông ngôn bảo:
- Dang hai chân ra!
Đại chủ giáo dang hai chân trắng nõn và ốm khẳng kheo. Viên thông ngôn và tên lính cúi xuống dòm tận giữa hai cẳng coi ông già có giấu nhét hoặc cà rá hoặc đồ vàng gì chăng. Một tên lính nói nhỏ chuyện gì với bạn nó.
Ông già vẫn còn đứng khom, dang hai chân và xây lưng.
Viên thông ngôn bảo: “Thôi được rồi, ông đi đi”.
Và bọn lính khám xét người kế.
Đại chủ giáo đi dang ra, bước ngập ngừng. Gió thổi tung tóe râu tóc bạc của ông như ngọn cờ trắng mượt bay phất phới. Traian có cảm tưởng ông Đại chủ giáo không trần truồng như mấy người khác. Chàng ngó theo, cho đến khi ông trở về chỗ trong hàng người trần truồng. Bây giờ, ông như mấy tù khác, song cũng không lẫn lộn với đám đông. Hình như có vật gì phấp phới chung quanh đầu ông, vật gì bắt ta phải dòm ngó. Có thể là màu râu tóc bác phơ của ông. Có thể là phong độ cốt cách của cái đầu ông, một vật gì bắt buộc ta phải nhìn như cung chiêm tượng thánh.
Thình lình Traian giựt mình nói: “Thôi tôi biết rồi!”.
Hai y tá quay lại ngó chàng, nhưng Traian không biết đến họ, mải dòm ra cửa sổ. Chàng nói thầm: “Đầu của Đại chủ giáo có bao một vòng hào quang sáng rỡ. Sau vừng trán ấy, một ánh hào quang mãnh liệt hơn ánh đèn nê-ông hoặc ánh điện quang. Một hào quang vàng chói!”.
Khi đứng vào hàng, Đại chủ giáo ngước mắt dòm phía cửa sổ nhà thương. Hào quang trên đầu ông lại càng chói rạng hơn nữa. Traian nghĩ: “Vòng hào quang không phải chuyện tưởng tượng của mấy họa sĩ vẽ hình các thánh”. Chàng xem xét đến mấy tù nhân khác. Cũng có những đầu khác chiếu hào quang mà chàng không biết hết. Như viện trưởng Viện Đại học thành Vienne, một ký giả ở Berlin, một tổng trưởng Hi-lạp, vị đại sứ Roumanie tại Berlin, mỗi vị đều có vòng hào quang trên đầu. Và nhiều người nữa. Trán mấy vị ấy phát quang nhiều tia sáng rạng ngời như lửa đỏ, hoặc như luồng điện phản chiếu. Nhưng mấy tia hào quang lại đẹp đẽ hơn tất cả các thứ ánh sáng do lửa hoặc điện phát ra. Hào quang tỏa từ vừng trán mấy vị này soi sáng khắp vũ trụ. Chẳng còn màu đen tối nào đè nặng trên quả địa cầu…

(150)

Trung úy Jacobson vô phòng Traian bảo bác sĩ và xã trưởng ra ngoài, để ông ở một mình với Traian. Ông hỏi:
- Tại sao anh không muốn ăn? Anh ước muốn gì? Đừng nên lấy trại giam này làm một hội chợ nhé!
Traian đáp:
- Tôi không ăn vì tôi hết biết đói, hết muốn thèm ăn. Tôi buồn mửa, nôn mửa dữ tợn muốn lộn ruột lên, mửa tới mật xanh. Còn Trung úy có nôn mửa không?
Jacobson làm thinh. Ông hối tiếc đã ở một mình với Traian. Chắc tên này điên. Mắt nó đổ hào quang. Ông tự nghĩ thầm: “Nó có thể bóp cổ mình chết?”. Ông liếc nhìn ra cửa, rồi mỉm cười, nói:
- Anh nên bình tĩnh lại, anh bị kích thích quá nhiều. Phải mà, từ sáu ngày rày, anh không có ăn uống chút gì hết!
Traian nói:
- Ông khoan đi, tôi không điên đâu, ông đừng sợ. Câu hỏi của tôi hơi ngu xuẩn thật. Làm sao ông buồn nôn được? Đúng ra, ông không thể nào bị nôn mửa. Nếu ban đầu, cứ việc nhắm mắt và bịt mũi, thì không có sao. Con người tập quen lần với mọi thứ, luôn với sự nôn mửa. Đây chỉ là vấn đề ý chí thôi. Tôi không có nghị lực, nên mới bị nôn đây. Có nhiều người thợ, mỗi ngày ngồi ăn sớm, ăn trưa và ăn chiều, gần miệng cống hoặc cầu xí. Họ đã quen rồi, không thấy gì khó chịu. Chính mắt tôi thấy họ ăn khúc dồi với bánh mì thoa bơ, gần lỗ cầu tiêu mà còn liếm môi. Họ rất vui vẻ, vừa ăn vừa nói đùa với nhau. Mũi có thính hơi đi mấy, rồi cũng quen lần. Quân sĩ Đức thiêu xác tù nhân mấy trại giam, và khi đóng cửa lò thiêu, họ thơ thới đi ăn, không chút nôn dạ. Có nhiều người dồn nệm bằng tóc đàn bà bị giết trong trại giam, rồi chính họ nằm trên nệm đó với tình nhân họ. Chính trên nệm ấy, nệm dồn tóc đàn bà bị giết và bị đốt thiêu ấy, mà vợ họ mang thai, mà họ không chút gì gớm ghiếc, không nôn mửa. Họ coi như thường và còn vui vẻ nữa. Tôi có ở chung khám với một người đàn bà, phòng ngủ của nàng có cái chụp đèn bằng da người. Ánh sáng xuyên qua thành một màu vàng lẳng lơ. Dưới ánh sáng của chụp đèn da người ấy, nàng ăn, uống, khiêu vũ, tình tự, ngã mình trên tay gã đàn ông nghiêng qua ôm nàng, và nàng sung sướng cười như thường. Con người quen lần với sự nôn mửa. Chỉ là vấn đề thói quen và nghị lực. Quân lính Nga sô cưỡng hiếp vô số đàn bà, bà già tám mươi, luân phiên nhau, cả chục tên mỗi người, thế mà chúng nó không ghê tởm; chúng không nôn mửa, vẫn uống rượu “vodka”. Ông thì chẳng khi nào làm chuyện ấy, tôi biết. Các ông không hãm hiếp đàn bà, mà còn cho sô-cô-la, và lo phòng ngừa, mỗi khi ăn nằm với họ. Các ông cũng không làm như dân Đức. Mỗi xứ có phong tục riêng. Nhưng ông cũng vậy, ông không sợ nôn mửa, dầu ông có làm chuyện gì, ông cũng chẳng bị hại, tôi tin chắc như vậy. Ông nên tin tôi, mửa là một sự đau đớn vô ngần. Ông xem tôi đây, khổ sở dường nào. Ruột tôi lộn phèo như cái bao tay, tôi thấy nó lên tới miệng. Mật tôi chạy ngược đường, bao tử tôi đảo lộn, vì nôn mửa. Và tôi thương hại cho con người quá! Hết sức thương hại. Với mấy điều kiện như vậy, làm sao ông muốn cho tôi ăn được? Làm sao tôi ăn biết ngon miệng được trong hoàn cảnh này? Từ rày về sau, tôi hết biết thèm ăn nữa, ông đã rõ tại sao rồi chớ?
Trung úy Jacobson xích lại gần cửa. Ông rất hối hận đã đến đây. Viên xã trưởng và bác sĩ không cho ông hay trước rằng Traian điên. Họ nói bịnh nhân vẫn sáng suốt. Nhưng những lời ông vừa nghe, chứng tỏ ngược lại, hai người đều nói láo. Người bịnh điên thật.
Ông nói với Traian:
- Anh có lý. Trong cảnh này, làm sao anh bắt thèm ăn được!
Traian tiếp lời:
- Ông khoan đi. Tôi ngồi dậy khó nhọc lắm. Ông dòm qua cửa sổ xem giùm coi sự tra xét đã xong chưa?
- Chưa!
Traian lạ lùng thêm, nghĩ thầm: “Làm sao một người, vừa ngó xem cuộc tra xét đang diễn ngoài sân, lại có thể về ngồi bàn ăn liền được, như Trung úy Jacobson vậy?”.
Trời đã trưa.
Traian nói:
- Cuộc khám xét chưa xong. Nó chưa dứt sớm liền. Nó chỉ mới khởi sự. Trước hết, các ông tìm xét vàng trong va-li, trong nhà lều, trong quần áo, trong túi, giày, trong vải lót, trong quần đùi. Bây giờ, các ông tìm vàng trong mồm miệng, dưới nách, háng, nơi khu trôn người ta, tìm kiếm cùng khắp cả. Ai ai cũng phải trần truồng để bị xét. Rồi ngày mai, đến lượt các ông sẽ lột da người để tìm vàng coi có giấu ở dưới hay không? Kế đó, các ông rứt xé từng thớ thịt để tìm vàng, các ông sẽ đập nát từng lóng xương, coi có giấu tiền vàng hay không. Các ông sẽ nặn óc con người, sẽ moi móc trong ruột già ruột non người ta, sẽ cắt xé con người ra, cốt chỉ để tìm vàng. Tiền vàng, cà rá vàng, nhẫn vàng! Các ông còn sẽ đập nát quả tim ra từng mảnh để tìm vàng. Vàng! Vàng! Vàng! Chưa hết đâu! Bây giờ mới là khởi đầu: các ông mới lục xét ở ngoài da. Rồi lớn da sẽ bị lột. Cuộc tra xét lại sẽ tiếp tục.
Trung úy Jacobson không còn ở trong phòng. Traian day mặt vô vách.

(151)

Đơn Thỉnh nguyện số 6.- Đề tài: Kinh tế (Đồ vật có giá trị tìm được trong mình tù binh)
Trong cuộc khám xét tù nhân, người ta tịch thâu cà rá, nhẫn cưới, vòng vàng, đồng hồ, viết máy, tiền bạc và tất cả những đồ vật có giá trị khác.
Dầu các cuộc khám xét xó lỹ lưỡng tỉ mỉ tận da non, cũng vẫn chưa hoàn toàn trọn đủ.
Tôi nhận thấy hiện giờ vài tù nhân có chung quanh đầu một vòng sáng, giống hào quang vẽ trên đầu các tượng thánh. Tôi biết các thánh có vìng miện bằng vàng. Vòng trên đầu của tù nhân thì không phải bằng vàng, hoặc bằng một loại kim thuộc quý giá khác. Và nếu phải như thế, thì các vòng ấy, hoặc,- nếu các người muốn- các vòng hào quang ấy, đã bị tịch thu rồi. Nhưng dẫu không có chất kim thuộc quý, giá trị của nó cũng không phải là đồ bỏ.
Tôi không phải là nhà khoa học, nhưng theo tôi nghĩ thì các hào quang ấy phải đáng được một giá trị to tát lắm. Vì nó chỉ kết thành được bởi những phát quang từ Tinh thần Tâm linh của vài tù nhân.
Việc đáng quan tâm là trong Xã hội kỹ thuật Tây phương ngày nay, những hiện tượng đó không có phát sinh. Dường như các hiện tượng ấy chỉ là vật đặc hữu thiên nhiên của Xã hội không văn minh mà thôi. Nhưng chuyện ấy không quan trọng. Một khi các vòng hào quang ấy có giá trị thì không nên để cho tù nhân chiếm giữ. Luật nghiêm cấm các tù nhân có được những đồ vật quý giá!
Tôi nhớ lại, trong dòng lịch sử, loại vòng miện hào quang này có lần bị tịch thu. Bọn xâm lược hung tàn cỡ loại hạng Thành Cát Tư Hãn khi xưa đã biết được giá trị của hào quang tìm thấy trên đầu một số tù nhân, nên đã giựt lấy. Hồi thời đó không có đủ phương tiện giao thông như bây giờ. Thành Cát Tư Hãn muốn có được các hào quang ấy để trong triều đình của hắn mà đừng hư mất hình dạng và ánh sáng, bèn ra lịnh lấy luôn thủ cấp của tù nhân đem về một lượt với hào quang. Những đầu có hào quang của tù nhân Trung Hoa và Ả Rập đều được xỏ xâu buộc vào yên ngựa, và mang về Mông Cổ. Nhưng dọc đường, chắc vì thời tiết và khí hậu đổi thay, nên các vòng hào quang đã mất dạng, và mấy thủ cấp không còn vật trang sức cũng bị vứt bỏ đi. Vả lại, nó khởi sự có mùi sình rồi.
Muốn tránh mất vật quý báu như thế, tốt hơn các người đừng dùng lối chặt đầu tù nhân như Thành Cát Tư Hãn đã làm. Nên để những tù nhân có hào quang vào trong một lò hấp, có không khí điều hòa và một nhiệt độ cố định, rồi gởi về quê hương các người.
Xã hội chúng ta được cái diễm phúc vô song, là nhờ khoa học, có những phương tiện kỹ thuật cần ích gìn giữ được bảo vật, giúp ta tránh khỏi mất đi những bảo vật mà kẻ xâm lược hung bạo khi xưa không giữ được. Nghe đâu có đến nửa triệu hào quang bị mất đi, hồi thời kỳ đó.
Xin nhận nơi đây lòng khâm phục của tôi, như thường lệ- Hoan hỉ!
NGƯỜI CHỨNG

(152)

Xã trưởng Schmidt chắp tay sau lưng đi rảo trong phòng Traian. Ông nói:
- Trong năm phút nữa, anh được chở đi bịnh viện. Tại đó, anh sẽ bị bắt buộc ăn uống. Tôi rất tiếc phải làm việc ấy, tôi đã tìm đủ cách để anh ăn. Trung úy Jacobson cũng vậy. Nhưng anh không muốn hiểu chúng tôi, chúng tôi làm việc lợi cho anh, mà anh cứ xây lưng với chúng tôi.
Traian vẫn nằm dài trên giường, xây mặt vô vách.
Xã trưởng giận, nói:
- Anh làm như thế là tỏ ra không muốn thân thiện. Bác sĩ và Trung úy Jacobson mất thì giờ vì chuyện riêng của anh. Chúng tôi còn phải lo cho hai chục ngàn người chớ có phải mất thì giờ cho một mình anh đâu. Chuyện cá nhân phải để ra một bên. Mỗi người chúng ta đều có gia đình, vợ con, chuyện lo buồn. Nếu ai cũng bắt chước anh hết thì rồi sẽ ra sao? Anh ích kỷ quá, anh chẳng bao giờ nghĩ tới đoàn thể. Tôi vì tuân lời khuyên bảo của Trung úy Jacobson là người có đầu óc lãng mạn và dân chủ như các người Mỹ, nên trong mấy ngày này, tôi phải mất ít lắm năm giờ đồng hồ để lo cho một mình anh, làm thiệt hại chung cho hai chục ngàn người trong trại. Thật là điên rồ.
Traian đáp:
- “Ông chẳng có lo cho một tù nhân nào trong trại này hết. Ông chỉ lo cho guồng máy hành chánh, nghĩa là một vật vô tro. Tất cả những người trong trại giam không thể bị lẫn lộn với cái guồng máy ấy, nghĩa là sổ sách, máy đánh chữ, con số tính toán. Ông chỉ lo mấy chuyện sau, chớ có bao giờ ông lo đến hai chục ngàn tù nhân trong trại giam này đâu. Hai chục ngàn người bằng da thịt, máu tim, trí óc. Họ biết đau khổ, tin tưởng, tín ngưỡng, ham muốn, đói khát, thất vọng và mơ ước.
“Ông chẳng có lo cho máu, thịt, là yếu tố cá nhân của họ; ông cũng chẳng lo đến lòng mong mỏi hoặc nỗi thất vọng, là những chuyện thật riêng tư của họ hơn nữa. Ông mải lo cho con số và giấy tờ. Ông chẳng biết đến một người tù. Làm sao ông lại có thể quả quyết rằng ông lo cho hai chục ngàn người, trong lúc ông chẳng lo được cho một người. Thật là buồn cười. Ông với Trung úy Jacobson, các ông chỉ quan tâm đến những điều cương yếu, trừu tượng, chớ không lo nghĩ đến con người. Cho đến tôi, hiện giờ đây, ông quan tâm đến chẳng phải vì tôi là con người. Đối với ông, tôi chỉ là một phân số của con số hai chục ngàn người đó thôi. Và vì vậy mà ông mới nổi giận khi nghĩ đã mất thì giờ vì tôi. Ông cũng chẳng xem tôi là một cá nhân nữa. Cho đến vợ ông cũng vậy, ông không nhận định là một con người, xét riêng ra một mình. Ông chỉ coi vợ ông như một người đàn bà, như một người mẹ của mấy đứa con ông và như một người nội trợ, mà ông không xét theo toàn thể cá nhân. Trong lúc ấy, vợ ông chỉ hữu hiện trong toàn thể mà thôi.
“Và cho đến ông, ông càng không biết ông nữa.
“Ông không biết một người nào hết trên quả địa cầu này, vì nếu ông chỉ biết một người thôi, ông không thấy phí mất thì giờ để lo cho người đó. Ông chỉ biết con người thâu hẹp còn có một mặt, một khuôn khổ. Những hạng ấy không còn phải là con người nữa, cũng giống như những hình khối ba chiều, nếu thâu rút còn một chiều, một mặt, thì hết còn là hình khối nữa”.
Viên y tá cho hay xe chở bịnh nhân đã đến trong sân. Traian nói:
- Tôi muốn từ giã anh bạn Moritz của tôi.
- Anh bị cấm nói chuyện với một người tù nào khác.
Traian xây lưng không thèm nói. Mấy y tá liền quấn anh trong mền và mang anh như gói đồ, ra xe.
Cửa xe có che tấm màn. Traian biết chắc Moritz đứng chực tại cửa nhà thương để xem xe chạy.
Traian mỉm cười và nói với Moritz trong tưởng tượng: “Vĩnh biệt”.

(153)

Viên y tá vào báo tin:
- Có hai người Mỹ đưa một tù nhân điên tới.
Bác sĩ giám đốc bịnh viện khám đường thành Karlsrube bước xuống giường, bật đèn điện, và xem đồng hồ. Đã một giờ khuya. Viên y tá đến báo tin, phụ với ông mặc đồ. Bác sĩ ra phòng, mặt quạu quọ.
Tù nhân bị bịnh được chở từng đoàn đến bịnh viện. Ở trại giam, bịnh nhân chờ cho đủ số một trăm mới được chở đi bịnh biện. Dầu những người bịnh nặng cũng phải chờ, có khi ba bốn tuần lễ, tới chừng nào đủ số mới được đem đi. Trong năm nay có hai lần ngoại lệ. Kỳ này là lần thứ ba.
Bác sĩ bước vô phòng, hỏi:
- Điên bịnh gì mà chở tới một mình vào giờ khuya khoắc này vậy?
Viên y tá đáp:
- Chắc bịnh nặng lắm, nhưng tôi chưa thấy. Bịnh nhân còn ngủ trong xe. Nếu hai người Mỹ chịu khó đích thân chở đến vào giờ này thì chắc là bịnh nguy kịch.
Bên ngoài trời lạnh. Bác sĩ vừa ra khỏi giường ngủ ấm áp, gặp lạnh nên tay ông run khi cầm viết ký giấy cho bịnh nhân vô nằm bịnh viện.
Hai người Mỹ lên xe đi. Bác sĩ ra lịnh chở bịnh nhân vào trại nằm, rồi đi ngủ liền, không chịu xem bịnh nhân ngay lập tức, vì trời lạnh quá.
Traian không biết mình ở đâu, cũng không biết xe bị “banh” dọc đường, phải trễ đến nửa đêm. Chàng không hay biết là mấy giờ. Chừng người ta khiêng chàng nằm dài trên cáng băng ngang sân bịnh viện, chàng mới giựt mình mở mắt ra. Lúc ấy thấy trời trong xanh và đầy sao, chàng nói: “Kìa dải Ngân hà”.
Chàng mỉm cười với con đường sáng rạng trên vòm trời. Đoạn nhớ tới lời xã trưởng nói: “Chúng tôi sẽ đưa anh đến bịnh viện; tại đó, anh bị bắt buộc phải ăn uống”, chàng quyết định không chịu uống thuốc men. Chàng nói thầm: “Hễ ta còn tỉnh trí thì ta từ chối không ăn uống!”.
Hai y tá nghe Traian nói “Dải Ngân hà!” bèn cười. Họ để cáng xuống đất, một người lại gần chàng nói mỉa mai: “Chúng ta đã đến dải Ngân hà rồi đây!”.
Traian không thích lời giễu cợt. Rồi chàng cảm thấy người ta bồng chàng để nằm dài trên giường.

(154)

Traian dòm chung quanh phòng mình nằm. Nơi trần nhà, một bóng đèn có bao lưới sắt. Cửa sổ cũng bọc song chắc chắn. Phòng có bốn giường. Hai bịnh nhân nằm gần nhau đang nói chuyện. Họ mặc quân phục Đức.
Khi Traian vô phòng, họ cũng không quay đầu lại dòm, cứ tiếp tục nói chuyện. Hai người có vẻ còn trẻ. Người bịnh thứ ba nằm trùm mền. Traian thấy đôi giày to tướng ló ra ngoài. Chàng tự hỏi, sao người bịnh có đôi giày to lại có thể ngủ được vào giờ này.
Gần cửa, một y tá mặc áo choàng trắng ngồi gác. Đầu hắn giống đầu xã trưởng Schmidt. Đầu vuông và to lớn. Đầu bằng cây. Thớ thịt trên mặt không cử động, như chết đơ. Cặp mắt hắn lờ đờ không tinh thần. Đầu của viên y tá chẳng phải cái đầu của người chết, mà là cái đầu của kẻ chẳng bao giờ linh hoạt, kẻ mất tinh thần.
Viên y tá đến gần Traian, véo cằm chàng như đánh một đứa trẻ, và nói:
- Mày muốn nói câu chuyện của mày không?
Traian hất tay hắn ra, không trả lời.
Viên y tá nói:
- Mày không muốn thuật chuyện gì hết à! Vậy mày thuộc về hạng làm thinh!
Hắn tát nhẹ gò má Traian rồi nói tiếp:
- Thôi, cứ nằm chơi một mình, dòm con nhện nơi trần nhà đi, nếu chuyện ấy làm mày thích!
Đoạn, hắn đi lại ngồi trên ghế, gần cửa phòng.

(155)

Traian cắn môi hối hận, quên cả mệt nhọc. Lòng phẫn uất quyết chiến đấu xâm chiếm chàng. Chàng lầm thầm: “Chúng nó nhốt tôi trong một nhà thương điên, vì tôi tuyệt thực! Trời ơi! Tôi đã ở trong nhà thương điên! Kế của chúng chẳng phải dở, tôi không ngờ trước được, và không gặp từ trước đến giờ. Cả đến trong những quyển tiểu thuyết diễn tả cách tra khảo trong các khám đườc Nga sô! Cả thảy tù nhân, từ bác sĩ đến giáo sư đại học, tù binh trong trại giam này đều ký giấy chứng nhận tôi điên. Họ muốn chứng nhận rằng sự tuyệt thực của tôi là một hành động điên cuồng. Nhưng ở đời cũng có vài chuyện không kết thúc mau lẹ như thế, và nhất là dễ dàng như vậy đâu. Tôi sẽ tiếp tục tranh đấu…”
Traian người ắm chặt hai bàn tay…
Chàng nói: “Bây giờ ta phải cho chúng nó biết rằng ta còn tỉnh trí”.
Traian đi lại gần viên y tá, lảo đảo, tay vịn vào vách tường.
Hắn cười, nói:
- Mày đến thuật chuyện của mày với tao hả? Tao biết rồi thế nào mày cũng đi lại đặng nói chuyện của mày cho tao nghe. Ai vô đây cũng có một chuyện riêng để thuật lại hết. Nhưng bây giờ tao không có thì giờ để nghe mày. Để mai, mốt, bữa kia hoặc một tháng hay một năm nữa không chừng, mày còn thiếu gì thì giờ để thuật chuyện mà!
Viên y tá cầm tờ báo, muốn đọc tiếp. Hắn bảo Traian:
- Giường mày ở cuối phòng, lại đó nằm yên. Đừng nằm giường của người khác, nghe! Mày hiểu không?
Traian nói:
- Tôi muốn hỏi một chuyện.
Viên y tá cau mặt, đáp:
- Tao biết mày muốn hỏi chuyện tao rồi. Nhưng bây giờ tao không rảnh. Về giường nằm đi. Mày phải nghe lời, như đứa trẻ ngoan, nếu không tao cho một trận đòn, với cái roi da này đây!
Hắn kéo hộc tủ lấy roi da đánh ngựa đưa ra cho Traian thấy. Rồi hắn cất lại.
Traian biết có nói cũng vô ích. Không ai nghe mà còn cho là lời của kẻ điên. Chàng trở lại giường, nằm dài.

(156)

Traian nằm nhắm mắt, suy nghĩ: “Ở tù, chưa đủ, bây giờ còn phải vô nhà thương điên!”.
Chàng còn muốn dự định một chương trình hành động cho ngày mai, nhưng tự thấy không tính nổi, đành nắm chặt hai tay, ngủ vùi.
- Đứng dậy coi!
Traian giựt mình. Chàng vừa thiu thiu ngủ. Chàng thấy viên y tá đã khiêng chàng hôm qua và nó câu: “Đã đến dải Ngân hà rồi” đang đứng trước mặt. Chàng nhận ra tiếng nó của hắn. Hắn bảo:
- Đưa cho tao tất cả những gì mày có trong túi coi!
Traian đứng dậy, tay run run, thọc vô túi lấy ra cái khăn tay đưa cho viên gác phòng. Rồi móc cái ống điếu trong túi khác, đưa luôn. Trong túi trên có cái tượng nhỏ hình thánh Antoine, chàng lấy ra cầm xem rồi cũng đưa nốt…
Viên y tá nói:
- Không còn món gì trong túi nữa hả?
- Tôi có bấy nhiêu đó thôi.
- Đưa tay lên!
Traian đưa tay lên ngang ngực. Mắt chàng bị mờ, chàng không thể đưa tay lên cao hơn được nữa.
Viên gác phòng bảo:
- Cao thêm chút nữa!
- Tôi không làm được. Tôi nghe đau quá. Tôi choáng váng!
Viên y tá bèn nắm hai tay Traian đưa cao khỏi đầu. Chàng thấy hai bàn tay chàng nặng như viên đá để trên đỉnh sọ mình. Chàng không ngợ tay chàng nặng đến thế, giở không nổi nữa.
Viên y tá lục soát trong túi chàng. Traian có cảm tưởng hai bàn tay lạ ấy không phải mò túi, mà rờ rẫm tận trong da thịt mình.
- “Thôi để tay xuống!” Viên y tá vừa nói vừa nắm hai tay của Traian bỏ thòng xuống. Hắn bảo:
- Tháo dây giày ra!
Viên gác phòng nói:
- Thôi để nó yên. Xem nó vàng như nghệ rồi đấy!
Traian bị đặt nằm dài trên giường. Hai y tá tháo dây giày, rồi mở quần, rút sợi dây lưng quần đùi. Sau rốt, chúng lột cặp mắt kiếng của chàng cất luôn.
Traian van lơn:
- Đừng lấy mắt kiếng tôi tội nghiệp!
Chàng cận thị rất nặng.
- Bộ mày muốn dùng kiếng cắt gân máu mày sao?
- Tôi không thấy đường, nếu không có cặp kiếng.
- Ở trong này mày không cần xem gì hết!
Viên y tá gói mắt kiếng, khăn tay, ống điếu và tượng thánh của Traian, rồi cầm đi. Đó là tất cả gia tài của chàng trên thế gian này.

(157)

Buổi sáng đầu tiên ở nhà thương điên.
- Ngồi dậy ăn đi!
Traian ngó chén cháo đầy do viên gác phòng bưng tới, và nói:
- Vô ích, tôi không ăn!
- Đừng cứng đầu mất thì giờ. Bộ mày tưởng có thể làm theo ý mày được à!
Viên gác phòng để chén cháo dưới đất, gần giường Traian, rồi đi lại giường kế. Traian nói:
- Tôi bãi thực sáu ngày rồi!
- Ở đây, đứa nào cũng nói bãi thực hết, có phải một mình mày đâu!
Viên y tá lại giường người bịnh nằm ngủ trùm mền ló đôi giày đóng đinh to tướng ra ngoài. Hắn tốc mền. Đó là một ông già râu bạc phơ. Ông sợ sệt ngó viên gác phòng, rồi úp mặt vô gối, hỏi:
- “Anh muốn gì?”. Nói rồi, ông lại giấu đầu dưới gối.
Viên y tá bảo:
- Ngồi dậy tía nhỏ! Chúng tôi phải cho ăn mới được.
Hai thanh niên điên cũng đến gần ông già. Họ đứng khít nhau như sợ bị chia rẽ. Viên y tá gọi chúng là hai “bouledogues” (loại chó đầu to, mõm ngắn, rất dữ). Hắn bảo, như ra lịnh với chó:
- Hai “bouledogues” nhảy chụp ổng đi!
Một gã nhảy ôm lưng, xóc nách ông già, gã kia đỡ đầu ông ngước lên và dựng ông ngồi dậy.
Viên y tá mỉm cười, nói:
- Nhè nhẹ vậy, đừng làm gãy xương ổng đa!
Ông già khóc, gục cằm xuống ngực và ngó ghì dưới đất. Viên y tá nói:
- Hả miệng ra, tía nhỏ! Chị vú đem bình bú lại đây nè!
Ông già càng áp sát cằm vào ngực và cắn cứng hàm răng lại.
Viên y tá ra lịnh cho hai gã điên:
- Cạy miệng ổng ra, nhưng nhè nhẹ vậy!
Hai gã quỳ gối trên giường, thọc hai ngón tay vô miệng ông già và vạch hàm ông hả ra.
Viên y tá, một tay nắm bịt hai lỗ mũi, một tay đổ cháo vô miệng ông già.
Bịnh nhân khạc cháo trên ngực hai gã thanh niên, làm chúng cười ầm lên. Viên y tá đổ muỗng cháo thứ nhì vào miệng; lần này, ông già không nhổ ra được. Cháo đến cổ họng, bắt buộc ông phải nuốt, kẻo bị ngộp. Ông không thở bằng mũi được, vì bị viên y tá bóp nghẹt. Ông phều phào:
- Ngộp tôi!
Cách cho ăn tiếp diễn. Ông già thỉnh thoảng la ngộp và vùng vẫy trong tay hai gã điên kềm cứng ông.
Viên y tá nói:
- Rồi cũng xong, tía nhỏ có thấy chưa?
Ông già vàng như nghệ. Traian bịt mắt lại để đừng thấy cảnh tượng ấy.
Viên y tá hỏi:
- Mày sợ phải không? Trong vài phút nữa thì tới phiên mày!
Hai gã “bouledogues” đều hỏi một lượt:
- Chúng tôi cũng cho hắn ăn nữa sao?
- Nếu nó không ngoan ngoãn thì sẽ làm.
Hai “bouledogues” không ngó ông già nữa. Chúng ngó lườm lườm quai hàm và cần cổ Traian.
Traian liền cúi xuống bưng chén cháo húp lia lịa, không cần nhai. Ăn xong, chàng nói:
- Anh có lý. Kẻ nào bị nhốt trong bịnh viện này mà từ chối không ăn là điên. Nếu điên thiệt, thì không thể bãi thực, vì đâu có hiểu biết gì. Còn tôi, tôi không phải điên, nên tôi ăn. Nhưng chưa phải là tôi bỏ cuộc tranh đấu đâu.

(158)

Traian nghĩ thầm: “Mình phải làm sao để chứng tỏ mình còn tỉnh trí mới được!”.
Traian bị nhức đầu. Đồ ăn vừa nuốt vô còn nặng như chì trong bao tử chàng. Nhưng chàng cũng ráng đứng dậy mỉm cười, đến gần viên y tá, nói:
- Tôi muốn nói chuyện với bác sĩ cai quản sở này.
- Hãy chờ ông đi thăm bịnh. Chừng đó, gặp bác sĩ sẽ nói chuyện.
- Gặp ông ngoài giờ thăm bịnh không được sao?
- Bịnh nhân sở này không được phép gọi bác sĩ, ngoài giờ thăm bịnh!
- Tôi hiểu. Bác sĩ đâu có chịu mất thì giờ với một bịnh nhân điên. Nhưng tôi thề với anh rằng tôi không điên.
- Vậy sao người ta gởi mày tới đây?
- Để tôi không bãi thực nữa! Tôi có nói với anh rồi. Bây giờ tôi đã ăn, thì không còn lý do nào coi tôi như điên nữa. Nếu tôi cự tuyệt không ăn, anh có thể cho cử chỉ tôi là hành vi điên cuồng cuớ không phải vì phản đối. Nhưng bây giờ, chuyện đã rõ ràng!
Traian thấy viên y tá lo đọc báo, không nghe chàng nói và cũng không để ý đdến chàng. Chàng hỏi, giọng run run:
- Dầu đã thấy tôi ăn rồi, anh vẫn còn coi tôi như điên sao?
- Đi ngủ đi, để tao đọc báo.
- Nhưng tôi nói với anh rằng tôi không điên!
- Biết rồi! Thôi đi ngủ đi và nằm êm. Ở đây, phải ngoan mới được. Đứa nào biểu không nghe lời thì bị ăn roi da cho coi!

(159)

Suốt buổi sáng, bác sĩ không đến thăm bịnh. Gần trưa, viên y tá dẫn một trong hai gã thanh niên “bouledogue” đi. Độ nửa giờ sau, đem hắn trở về, nằm dài trên cáng, để giữa phòng. Lỗ mũi hắn bị nhét bông gòn, còn run run. Trán hắn tái dợt. Bọt mép màu xanh xanh chảy trào ngoài miệng hắn, giống bọt mép chó điên. Môi hắn run lập cập. Traian hỏi:
- Họ làm gì hắn vậy?
Gã “bouledogue” kia cười nhạo khi thấy thân mình cứng đơ của bạn bị giựt từng chặp. Ngực nhô lên xẹp xuống như ống bễ lò rèn. Các cân nhục ở tay và ở chân run lên như tách khỏi thân mình. Nước da cũng đổi màu, hết còn là màu da người sống. Xương sống cứng đờ, ngay đơ như vật chết. Cho đến cơn giựt từng chặp cũng giống như cơn giựt tự động của búp bê bằng máy cử động. Chỉ có bọt mép xanh dợt trào ra miệng, tuôn xuống ngực và vải bố của cáng khiêng là vật cho biết hắn còn sống thôi.
Traian hỏi lần nữa:
- Họ làm gì hắn vậy?
Viên y tá đáp:
- Có gì đâu. Họ chích thuốc!
- Thuốc gì vậy? Tại sao hắn giãy tê tê như vậy?
- Đừng tọc mạch. Người ta cũng chích cho mày nữa. Tới phiên mày, trễ lắm là ngày mai!
- Ngày mai?
Traian ngó thân hình bịnh nhân đang giãy giụa trên cáng. Viên y tá nói:
- Mày lấy làm lạ hả? Mày không tin sao? Ở đây ai cũng phải chích thuốc hết.
Viên y tá thay bông gòn trong lỗ mũi tên “bouledogue”, rồi véo gò má hắn. Hắn không phản ứng. Viên y tá nói:
- Mày có lấy dao chặt nó ra từng khúc, nó cũng không biết. Đương cơn hành như vậy mà biết gì được. Tụi bây cũng cần phải chích thuốc để cử động gân cốt. Ngó coi gân cốt hắn tập thể thao đẹp quá kìa!
Traian leo lên giường nằm. Cửa mở, chàng giựt mình. Không phải bác sĩ, mà một y tá đến nắm tay gã bouledogue thứ nhì dẫn ra khỏi phòng.
Một lát sau, gã bouledogue ấy được khiêng về, cũng nằm trên cáng, để giữa phòng gần bên bạn hắn. Gã cũng có miếng bông gòn nơi lỗ mũi, có bọt mép trắng và xanh dợt ở miệng, như bọt mép chó điên. Thân mình gã cũng giãy giụa từng cơn.
Rồi ông già cũng bị dẫn đi chích thuốc và khiêng trở về trên cáng, một lát sau.
Traian dòm ba thân người bị thuốc hành giãy giụa một điệu như nhau, mặc dầu họ rất xa lạ nhau.
Chàng hỏi:
- Thuốc gì vậy?
- Thuốc “cardiazol”, chích cho giựt gân, cho kích thích óc não, và cho tan lớp màn tối che mờ trí óc.
Viên y tá nói rồi cười xòa.
Traian ngó một lần nữa ba người nằm dài gần chàng. Thân hình họ bị giựt như tự động, như hình máy cử động. Lỗ mũi họ phồng lên và run chuyển cùng một lúc, một điệu và một cường độ như nhau. Ba bộ ngực cũng nhô lên, xẹp xuống đều đều như ống thụt trong dàn máy.
Sinh lực của họ chỉ còn thâu gồm trong mấy chuyển giựt tự động của gân cốt. Ý chí, bản năng, trí óc đều chết. Có sống chăng là những phản ứng đã khuếch sung chuyển thành chứng động kinh.
Traian có một ảo tượng về đời sống con người trong xã hội kỹ thuật ngày nay. Căn phòng chàng đang ở, mở rộng vô biên đến bao trùm cả Âu châu, cả Tây phương, cả mặt đất. Trong phòng, không những có ba người bị thâu giảm vào sự phản ứng cử động giống như người máy, mà tất cả loài người trên quả địa cầu.
Ảo tượng kinh ngạc, quá đáng, nhưng nó vẫn ám ảnh Traian. Hình như chàng thấy xã trưởng Schmidt đang nhảy múa một điệu quái đản ấy, cùng với Trung úy Jacobson, thống đốc Brown, bác sĩ Abramovici, và tất cả đều đang nhảy theo điệu Jazz, điệu máy móc và điệu phong giựt do mấy mũi thuốc cardiazol kích thích tạo nên. Trọn một xã hội đều giãy giụa vùng vẫy, trong những cơn động kinh phong giựt như nhau.
Traian bịt mắt lại, la lớn lên:
- Tôi không muốn, tôi không muốn!

(160)

Bác sĩ nghi ngờ ngó Traian nói:
- Trong phiếu cá nhân anh, không thấy khoản nào nói bãi thực hết. Nếu anh có bãi thực, thì chuyện ấy có ghi vào phiếu. Thay vì tuyệt thực, tôi đọc: “loạn óc, ý muốn tự tử, nổi cơn hung bạo, có ý tưởng bị ngược đãi”. Hết rồi. Chẳng thấy nói gì đến bãi thực cả. Tuyệt thực để phản kháng, là hành vi sáng suốt và có ý thức. Nhưng lại không thấy ghi trong phiếu này. Hai giáo sư đại học chẩn bịnh anh đều lý tên chứng nhận như trên. Hai danh sư Đức! Vậy tôi phải tin ai? Anh hay hai vị giáo sư ấy?
Bác sĩ quả quyết là Traian bịa đặt ra chuyện của anh, từ đầu chí cuối, ông hỏi:
- Anh chắc vợ anh cũng bị bắt không? Riêng tôi, tôi còn không tin anh có vợ nữa! Nhẫn cưới của anh đâu?
- Bị tịch thâu trong một cuộc khám xét tại trại giam rồi!
- Có thể lắm, nhưng tôi không có một chứng cớ nào về chuyện này. Tôi phải căn cứ vào phiếu bịnh trạng của anh mà xét đoán. Anh chẳng nên giận; chừng nào có chứng cớ rõ rệt sẽ hay, hiện giờ tôi bắt buộc phải lập luận khởi đầu như vầy: vợ anh không có bị bắt, có thể anh chưa có vợ, cha anh không chết trong trại giam và anh không bị bắt vô cớ. Còn những chuyện gì của anh thuật, tôi buộc lòng phải loại ra không kể đến.
Traian nghĩ thầm: “Làm sao chứng tỏ mình còn tỉnh trí? Mỗi cử động, mỗi lời nói mà ta đã cho là hợp với lẽ thông thường, nếu đem phân tách, lại trở thành những cử chỉ có vẻ điên rồ. Cũng những lời nói ấy, những câu ấy, những ý kiến ấy theo cuộc sống hằng ngày, thì dường như hợp lý và còn sáng suốt thông minh nữa là khác, mà ở trong nhà thương điên, lại trở thành triệu chứng điên cuồng. Giới hạn của trạng thái tỉnh trí với điên cuồng không thể định rõ. Nhưng phải rán chứng minh là không điên mới được!”. Chàng nói:
- Tôi van lơn bác sĩ, xin bác sĩ cứu giúp tôi với!
- Bằng cách nào?
- Tin lời của tôi!
- Chuyện ấy không tiến ích cho anh bao nhiêu.
- Tôi không yêu cầu ông nói với tôi là ông tin tôi, nhưng tôi yêu cầu ông tin tôi thật tình mà thôi. Và tôi xin ông khám lại sức khỏa và trí óc tôi một cách xác đáng.
- Lời yêu cầu thứ nhì của anh vô ích. Khám bịnh là sự bắt buộc dĩ nhiên rồi. Còn tin anh thì không thể được. Tôi là nhà khoa học. Tôi chỉ tin những gì tôi nhận thấy. Không bằng cớ, tôi không thể tin được!
- Xin ông tin tôi, theo tư cách tôi là con người!
Bác sĩ gằng từng tiếng:
- Tôi là nhà khoa học. Lương tâm nhà nghề cấm tôi không được tin lời nói suống của ai, mà không có chứng cớ làm bằng.

(161)

Traian được khám bịnh kỹ lưỡng, chàng bị chích lấy máu ở gân hai tay; lần thứ nhì, ở đầu các ngón tay, và lần chót, nơi một cánh tay, mà nhiều hơn. Chàng nhẫn nại cho máu. Con người phải hiến máu luôn. Luôn luôn và cùng khắp! Vậy mà còn chưa đủ. Họ còn chích sau đầu chàng, chỗ xương ót, lấy vài giọt nước óc nữa. Chàng kiên nhẫn chịu đau đớn. Chích như vậy đau lắm. Và phải chích lấy nhiều lần. Traian cam chịu. Chàng biết rằng con Người chẳng những hiến máu, mà còn phải cho tủy não. Bằng không, thì quyền sống của chàng không được thừa nhận.
Họ kích thích mấy bộ hạch trong mình chàng. Họ trích lấy tinh dịch để trên miếng kiếng và phân chất dưới ánh đèn. Nước tiểu, nước miếng, nước dịch trong các hạch ruột phèo, đều được xem xét dưới kiếng hiển vi, được vô ống chai, cân, lọc, trong phòng thí nghiệm của khám đường.
Mấy bác sĩ rọi phổi, rọi đầu; trọn bộ xương của Traian đều được quang tuyến Xô-viết soi từng lóng, từng khớp. Họ tìm kiếm vết thương đã gây ra lời kêu tuyệt vọng của con Người đi tìm công lý. Vết thương ở chỗ khác, nhưng mấy bác sĩ cứ tìm tòi mãi tronog khắp châu thân Traian, trong phổi, trong xương, trong óc, trong máu, trong tủy của chàng, Traian cứ để cho họ tìm kiếm. Họ lại xem xét từng cân nhục, từng gân thần kinh để coi cách phản ứng. Đầu gối, bàn tay, dạ dày đều được gõ, nắm bóp, xem qua. Trái tim cũng được nghe tiếng đập. Họ thử bắt chợp từng cử động nhỏ nhặt bất thường của hai lá phổi. Bác sĩ lắng nghe từng bộ mạch nhảy phù trầm trong châu thân.
Traian được cân, đo bề cao, đo vòng ngực, xương cốt, cánh tay, ống cẳng. Họ bảo chàng hả miệng để xem răng, đếm từng cái, gõ coi có hư hỏng hay không. Lưỡi cũng bị khám kỹ lưỡng. Toàn thân Traian bị coi như có vật gì đáng nghi ngờ. Chàng có thể hữu dụng được hay không?
Kế đến lượt bác sĩ chuyên bịnh thần kinh hạch hỏi tra gạn chàng ngày đêm. Mỗi câu trả lời đều được ghi chú kỹ lưỡng. Mấy bác sĩ tìm dấu vết đặc tính của bịnh điên cuồng, cũng như nhà trinh thám theo dấu thủ phạm một án mạng nào trong nhà nạn nhân. Họ gợi Traian kể chuyện hồi nhỏ, nói về cha mẹ, anh em, và những người đàn bà mà chàng quen biết. Traian đã biết tõ nỗi thầm kín tận thâm tâm mình, cái tâm trạng u ẩn của tiềm thức mà bác sĩ muốn tìm hiểu, nên chàng giúp họ hết lòng.
Tâm hồn chàng bị mổ xẻ phân tách khắp chỗ, bị lột trần, mở ra như một cái tủ đầy quần áo dơ cũ. Mấy bác sĩ cứ gí mũi vào, không sợ nôn mửa, để dò xét đánh hơi từng lằn xếp của cuộc đời thầm kín ấy.
Cuộc khám xét đã xong, bác sĩ kết luận:
- Anh rất lành mạnh, chỉ có bịnh thiếu sinh tố, ăn không đủ, và cân dưới mực bình thường mà thôi. Ngoài các bịnh ấy, cả thảy đều tốt, điều hòa, lành mạnh. Vì thiếu ăn mà bị bịnh thiếu máu, các khớp xương sưng và răng nhức. Mạch nhảy không đều do cơ thể suy nhược; vài đốm đen vô hại trên phổi; bịnh phong thấp nhẹ. Nhưng tất cả đều không quan hệ, chỉ là các bịnh thường.
Traian đã mệt đừ như Chúa Jésus trên núi Oliviers. Chàng hỏi:
- Ông có tin là tôi không điên chưa? Bây giờ, ông làm ơn cho tôi ra khỏi nhà thương liền giùm đi.
- Anh phải lưu lại tại phòng y dược, vì anh đang yếu lắm!
- Tôi muốn trở về trại giam liền.
- Chuyện anh đòi không hợp lẽ chút nào!
- Tôi muốn được trở về trại giam, gấp chừng nào hay chừng nấy.
Tuần sau, Traian được trở về trại giam, có đủ giấy tờ chứng nhận chàng không điên và chẳng bao giờ bị điên. Mắt chàng sáng ngời vì hân hoan thắng cuộc, nhưng thân xác chàng lảo đảo như một bóng ma chán nản, khổ đau.

(162)

Khi Traian về trại giam, trung úy Jocobson cho gọi lên phòng văn. Traian nói:
- Bắt bớ tự động là một phương pháp, nhưng không làm nên một duyên cớ để bắt bớ được. Muốn bỏ tù một người, muốn coi họ như một tội phạm và muốn giết họ lần mòn bằng mọi cách, cũng phải có một duyên cớ nào chớ. Họ phải được xét nhận là phạm tội mới được. Và tôi có phạm tội gì? Vợ tôi có tội gì? Cha tôi đã can án nào? Moritz đã làm gì? Lúc mà tôi hỏi ông câu ấy một cách tuyệt vọng rất thông thường, sau mười lăm tháng bị tù đày, thì ông coi lời kêu ca của tôi như một cơn điên. Từ khi mà sự khao khát Công lý và Tự do của con người bị cho là điên cuồng, thì con người không còn tồn tại nữa. Dầu con người ấy có thể có một nền văn minh tân tiến nhứt trong lịch sử, nền văn minh đó cũng không giúp đỡ họ được phần nào.
Trung úy Jacobson châm điếu thuốc hút. Bây giờ ông hối hận, ông nói:
- Người Âu châu các anh, đều coi chuyện gì cũng bi đát hết. Tưởng chừng như các anh chỉ biết có bao nhiêu đó thôi!
- Có thể ông nói có lý. Không chừng đó là một tật xấu. Nhưng chứng kiến cảnh bi kịch, nhìn cảnh đau thương quằn quại của con người mà mỉm cười được là một chuyện càng hết sức nghiêm trọng hơn một chuyện nghiêm trọng khôn bì được… Còn hơn một thói xấu xoàng, hoặc một tội nhỏ nữa.
- Tôi có thể giúp ích anh, nhưng không được. Tôi có xin cho anh được thả ra…
- Tôi nhìn nhận rằng ông đã làm hết sức ông. Nhưng chuyện ấy không dùng vào được việc gì. Ông không thể và cũng chẳng bao giờ thành công được. Từ rày về sau, không người nào có thể thành công trong việc giải thoát người khác, hoặc tự giải thoát. Từ nay trở đi, con Người thuộc thiểu số, và tay bị trói buộc, không thể nào giải cứu cho mình hoặc cho người đồng loại. Con người mang xiềng xích của máy móc. Ông cũng có nữa. Xiềng xích của văn phòng kỹ thuật trói buộc tay chân ông. Những gì nền văn minh Tây phương hiện tại có thể hiến cho loài người chúng ta là đôi còng!
- Thôi anh về trại đi. Nằm nghỉ cho khỏe. Tùy thích! Và nhứt là đừng chuyện bậy bạ nữa.
- Tôi chỉ còn làm cái gì mà Xã hội kỹ thuật cho phép con Người làm mà thôi.
- Đấy! Anh trở lại nỗi buồn của anh rồi! Tôi không muốn thấy anh có giọng điệu ấy. Anh hút thuốc chớ?
- Xin vui lòng?
Traian cầm điếu thuốc. Rồi chàng hỏi:
- Ông Trung úy có khi nào cảm tưởng rằng chúng ta là khán giả ương ngạnh còn ở lì trong rạp sau khi vãn hát rồi hay không? Nhưng sự ương ngạnh ấy không ích gì. Rồi khán gỉ cũng bị đuổi ra hết. Tất cả, cho đến người chót. Rạp hát cần phải thông thoáng khí; ghể đẳng xếp lại, để chốc lát khai diễn lớp tuồng mới. Mặt địa cầu cần có thoáng khí. Lịch sử tiếp tục diễn trò. Hôm qua yết bảng tuồng “Đơn Thỉnh nguyện”. “Đơn Thỉnh nguyện” là những tiếng van lơn của con người cầu xin mấy “Công dân Văn phòng” để yên cho họ sống. Nhưng đơn của Người bị xử tử hình xin ân xá lại bị bác bỏ. Vả lại, đơn ấy cũng không được đọc tới. Lớp tuồng này không có kết quả tốt đẹp, vì nó không có đoạn Chung cuộc hạnh phúc. Ngày mai sẽ diễn một tổng kết, nhan là “Vũ khúc cơ khí”, một tuồng không có người đóng kịch. Toàn là người máy, cơ khí và công nhân không có mặt mày. Tôi không còn sống để xem tuồng mới, vì diễn quá trễ. Nhưng ông sẽ có ghế dành riêng cho ông. Song chỉ dành riêng cho những buổi diễn đầu. Ông đi xem đi, và chúc ông được vui thích! Ông nên nhớ, ghế chỉ dành riêng cho ông xem diễn mấy buổi đầu mùa hát thôi nhé!
Traian để điếu thuốc cháy trong dĩa tàn thuốc trên bàn của Trung úy Jacobson và ra khỏi phòng.

(163)

Traian gặp Moritz gần cửa trại giam. Anh rất buồn, và khi thấy Traian, anh khóc òa, hỏi:
- Phải ông Traian đó không? Tôi tưởng không thấy được ông nữa.
- Rồi anh có tiếc thương tôi chăng?
Moritz siết tay Traian nói:
- Tôi sẽ hối tiếc tới chết. Tôi không nói được một lời từ giã lúc ông bị chở đi bịnh viện. Không ai cho tôi vô nhà thương thăm ông. Tôi cứ lảng vảng chung quanh hoài. Họ đem ông đi đâu?
- Ở chung với mấy người điên.
Moritz tay che miệng, ngó Traian, nói:
- Trời ơi! Nhà thương điên! Không lý nào?
- Vậy mà thiệt đó! Tôi có đem thuốc về hút đây.
Traian mở khăn tay lấy thuốc vụn ra. Hai bạn ngồi gần nhau, trên nền đất nóng, cạnh cửa trại, vấn thuốc hút. Moritz hỏi:
- Người ta nhốt ông với người điên à? Thương hại ông quá!
Anh chưa hết lạ lùng về chuyện này.
Traian hỏi:
- Anh thích cái ống điếu tôi lắm phải không?
- Có ống điếu thì chắc chắn luôn luôn sẽ có gì để hút. Có thể nhét thuốc nát, thuốc vụn, thuốc tàn không vấn được. Bởi thế, tôi rất tiếc không có ống điếu. Nhứt là ở trong trại giam, không có ống điếu thì bực lắm.
- Tôi cho anh cái ống điếu này đây! Traian đưa ống điếu cho Moritz, cái ống điếu chàng ngậm luôn nơi miệng hơn một năm nay, mặc dầu nhiều khi chẳng có thuốc. Moritz từ chối:
- Không thể được. Ở đây cái ống điếu là một gia tài. Rồi ông lấy gì để hút?
- Tôi sẽ không hút nữa. Điếu này là điếu chót của tôi.
- Bác sĩ cấm ông hút thuốc sao?
- Không phải. Chính tôi không còn muốn hút nữa.
Moritz cầm ống điếu, nhồi thuốc vô, rồi nói:
- Cám ơn ông. Nếu ông hút trở lại thì tôi sẽ trả cho. Ông tin tôi. Tôi chỉ nhận là khi ông bỏ hút.
- Chắc chắn là không hút nữa.
Moritz cười:
- Tôi cũng thường tự hứa bỏ hút, nhưng không giữ được. Không dễ gì bỏ hút đâu!
- Tôi biết lắm. Nhưng lần này, thiệt chớ không phải chơi đâu.
Traian đốt điếu thuốc. Moritz châm ống điếu. Cả hai yên lặng ngồi hút.
Traian lấy cặp mắt kiếng xuống, săm soi, trìu mến lắm. Kiếng gọng đồi mồi. Chàng chú ý nhìn như sắp từ giã nó. Tất cả vật dụng có luôn trong mình, chàng chỉ còn lại đôi kiếng này. Bóp đựng thuốc hút, chiếc nhẫn cưới, ví tiền, viết máy và viết chì đều lần lượt bị tịch thâu hết. Chàng chỉ còn có cặp mắt kiếng mà thôi.
Cây thánh giá nhỏ chàng đeo nơi cổ, chàng đã đặt lên ngực cha, lúc ông chết, để chôn luôn với xác mục sư. Theo đạo Chính thống, mục sư phải được chôn với áo lễ và một tượng thánh trên ngực. Hồi chết, ông còn mặc áo tù binh của Mỹ có hai chữ P.W. ở lưng và tay.
Ông cũng không có áo sơ-mình, vì áo mới giặt, chưa khô. Moritz vừa đem giặt hồi sáng, và lúc ông chết thì bị khiêng đi liền, Traian không kịp lấy mặc cho ông. Nhưng chàng để được dưới áo, nơi ngực ông, cây thánh giá nhỏ chàng đeo nơi cổ. Và cha chàng được chôn với cây thánh giá. Chắc mục sư được thiêu với cây thánh giá đó trong lò thiêu.
Hiện giờ Traian chỉ còn cặp kiếng. Vật sở hữu duy nhứt, ngoài thân xác chàng: chàng chỉ có thân mình với cặp mắt kiếng mà thôi. Đó là vật hữu hình lưu dấu dĩ vãng mà chàng còn giữ được. Chàng ngắm xem nó với chút mến tiếc, buồn rầu. Rồi chàng đưa cho Moritz và hỏi:
- Anh muốn giữ cặp kiếng này không?
- Bộ bây giờ ông thấy rõ, không cần mang kiếng sao?
Moritz cứ cho rằng ai đeo kiếng suốt đời là như bị một tội hành phạt nặng nề, nên anh thành thật vui mừng thấy Traian không cần mắt kiếng nữa.
Traian đáp:
- Không phải, tôi bỏ kiếng thì không thấy đương, song khỏe khoắn hơn. Tôi sẽ không bao giờ đeo kiếng nữa.
- Tôi luôn luôn lấy làm lạ thấy ông mang kiếngtrọn ngày. Ông chỉ lấy xuống lúc ban đêm. Chẳng lúc nào tôi thấy ông không có mang kiếng.
- Nếu may ra anh được thả trước tôi, nhờ anh đem cặp kiếng này cho vợ tôi. Chắc anh không gặp nàng liền, nhưng anh cứ cất trong mình. Không biết chừng nào và chỗ nào anh gặp nàng, có thể về đến Roumanie mới gặp được. Vậy anh ráng gìn giữ cẩn thận, đừng để gãy.
Moritz cầm cặp kiếng săm soi. Anh chắc Traian giấu anh chuyện gì. Việc chàng cho anh ống điếu và gởi cặp kiếng này có ý nghĩa lắm.
Traian nói:
- “Anh đừng sợ. Tôi chỉ muốn anh cất giùm cặp kiếng, vì tôi không mang nữa và tôi cũng không muốn nó lạc vào tay kẻ lạ khác. Nhờ nó mà tôi thấy bao nhiêu chuyện trong đời tôi. Anh hiểu vì sao tôi yêu quý nó không?
“Với đôi kiếng ấy, tôi thấy vợ tôi lần đầu tiên, tôi trông nhìn muôn ngàn gái đẹp, tôi ngắm xem bao nhiêu là tranh ảnh, hội họa, pho tượng điêu khắc, các viện bảo tàng, thành phố, đô thị… Với đôi kiếng ấy, tôi ngó khắp trời, biển, núi non. Với nó, đã bao nhiêu đêm ròng tôi thức đọc hàng trăm quyển sách. Với nó, tôi thấy cha tôi chết, tôi thấy anh và các bạn tôi. Với nó, tôi thấy cơ đồ Âu châu nghiêng đổ, con người chết đói, bị tù rạc giam cầm, bị tra khảo đánh đập và tàn bại chết rũ trong các trại giam.
“Với cặp kiếng này, tôi thấy được các thánh, người hiền, kẻ điên. Với nó, tôi thấy một lục địa tắc thở dưới sức nặng của loài người, của luật lệ, của tín ngưỡng và hy vọng, - tắt thở mà không biết nó đang chết, - vì lục địa ấy bị giam hãm trong các trại giam và các luật lệ kỹ thuật của một xã hội đã trở lại nghiêm khắc dã man.
“Anh Moritz ôi! Đôi kiếng này là đôi mắt của tôi đó! Nhiều lúc tôi lầm lẫn cả hai: cặp mắt với cặp kiếng bất khả phân ly. Với cặp kiếng này tôi đã thấy được tất cả những gì phải thấy cho đến giờo này.
“Kể từ nay, tôi không muốn thấy nữa. Tôi đã chán nản rồi. Màn biểu diễn đã kéo dài quá mức.
“Nếu tôi giữ cặp kiếng này thêm, tôi sẽ chỉ thấy toàn cảnh tàn phá đổ nát, thành phố, loài người, xứ sở, nhà thờ, hy vọng đều sụp đổ cả.
“Chính với cặp kiếng này mà tôi thấy sự đổ vỡ của đời tôi, cảnh đổ vỡ trong các cuộc đổ vỡ. Tôi không phải kẻ thích làm người khác đau khổ, nên tôi không thể trông thấy những cảnh đau khổ điêu tàn. Chỉ thấy toàn cảnh sụp đổ cùng khắp, tôi không thể chịu nổi nữa.
“Trên cảnh hoang tàn ấy, có nhiều người tiêng phuông tiến bước. Đó là các “Công dân” của xã hội đột khởi trên lịch sử này. Họ xây dựng theo một nhịp điệu điên cuồng. Để xây đắp nền văn minh, họ khởi sự từ nhà tù. Dầu thế nào, cũng mặc họ! Riêng tôi, tôi cảm thấy không thể xây dựng xã hội cùng chung với họ. Tôi phải giữa vai trò khán giả trọn đời. Nhưng sống như một khán giả, nghĩa là như một Người Chứng, thì không phải sống. Cái Xã hội kỹ thuật Tây phương chỉ để dành chỗ khán giả cho con người mà thôi.
“Sự mỉa mai chua cay làm sao! Vật dụng độc nhứt mà tôi không bị tịch thâu trong mấy kỳ khám xét là đôi mắt kiếng này. Như vậy chứng tỏ tôi còn được phép giữ lấy cử chỉ khán giả duy nhứt. Lắm lúc, tôi thấy bọn quân lính cũng có lòng nhân, còn để cho tôi cặp mắt kiếng. Nhưng không phải là lòng rộng lượng. Đó là tánh thích làm người khác đau khổ. Vì không những chúng hạn định tôi trong vai trò khán giả mà còn chỉ cho tôi những gì phải nhìn thấy: các trại giam. Tôi không được phép nhìn thấy cảnh gì khác hơn cảnh trại giam, nhà thương điên, khám đường, quân lính, và cả cây số ngàn dây kẽm gai. Vì thế, nên tôi bỏ cặp kiếng.
“Tôi từ bỏ vật duy nhứt mà tôi còn được quyền giữ ở thế gian này. Cặp kiếng như cặp mắt, là một trong những bảo vật kỳ diệu, khôn bì, trên mặt đất. Nhưng với điều kiện phải sống thật sự mới được. Khi con người không còn sự sống nữa, hay chỉ còn vài giọt sinh lực, hoặc tham dự tạm thời một kiếp sống hạn định, thì đôi mắt kiếng trở thành một lối giễu cợt hiểm ác. Anh có khi nào thấy người chết đeo kiếng không?”
- Mà ông đâu có chết, ông Traian?
- Đấy là một hy vọng duy nhứt chúng ta còn giữ được, hy vọng chưa chết. Nhưng hy vọng không thể thay thế cuộc sống. Hy vọng chỉ là ngọn cỏ mọc giữa các nấm mồ!
- Nhưng chúng ta vẫn còn sống đây, ông Traian!
- Chúng ta vẫn tin tưởng và hy vọng còn sống thôi!
Moritz ngó Traian một hồi lâu. Anh nhớ lại Traian mới vừa ra khỏi nhà thương điên. Chính Traian đã nói chuyện lại với anh.
Traian nói:
- Bạn Moritz đừng sợ! Tôi không điên đâu. Nếu anh mà cũng cho tôi điên nữa thì hết kể rồi! Anh cho rằng tôi còn sống, là vì anh không thấy tôi nằm lăn tắt thở, mắt nhắm, tim ngừng đập, thân thể lạnh ngắt, thây xác cứng đờ. Nhưng anh nên biết, có nhiều cái chết mà không có xác. Lục địa chết đâu có để lại thây xác. Nhiều nền văn minh, tôn giáo, quốc gia đã chết mà đâu có thây xác. Con người cũng vậy. Thỉnh thoảng có người chết trước khi thân họ thành thây ma. Anh hiểu tôi không?
Moritz vùng khóc òa.
Traian hỏi:
- Tại sao anh khóc?
- Ông đau rồi, ông Traian à!
- Anh muốn nói tôi nói nhảm nhí và điên cuồng hay sao?
- Không, tôi không muốn nói như vậy, ông Traian à! Làm sao tôi có thể nói như vậy được?
- Anh tưởng tôi điên, nên anh mới khóc. Nhưng anh khóc vô ích anh Moritz à! Tôi không điên đâu. Tôi tỉnh táo hơn lúc nào hết!
- Thật vậy sao, ông Traian?
- Đúng vậy, tôi sáng suốt lắm!
- Tôi không tin ông điên, nhưng tôi nghĩ chắc ông bị nhức đầu, vì không ăn uống nhiều ngày… Và biết đâu lúc ông ở đằng ấy, họ đã đánh khảo ông… Ông xanh quá. Tôi không bao giờ tưởng ông…
Moritz muốn tránh nói tiếng “điên”.
Traian vấn điếu thuốc khác rồi nói một mình: “Những người đau khổ vì nền Văn minh Tây phương sụp đổ sẽ bị sụp đổ và tiêu diệt một lượt với nó. Những người chứng kiến cuộc sụp đổ ấy sẽ đứng ngoài vòng thảm kịch. Họ thuộc về, hoặc nhóm Văn minh Kỹ thuật như Trung úy Jacobson chẳng hạn, đã cho mình là một người điên, hoặc nhóm người cổ lỗ như Moritz, còn tin dị đoan và sống theo bản năng, và cũng cho mình là điên nữa. Họ không cần lo nghĩ đến Âu châu. Moritz, như Jacobson, đã cho là điên, một kẻ đã đến cùng tột mức đau khổ về tinh thần.
Con người duy nhứt biết chàng không phải điên, mà đã đau khổ ê chề đến tột độ, có lẽ là Nora, vợ chàng. Chỉ một mình nàng sẽ vượt khỏi thảm trạng này, vì nàng đã quen với sự đào luyện truyền thống mấy ngàn năm nô lệ và khuất phục. Chủng tộc của nàng đã quen chịu đựng cảnh nô lệ và đau khổ ở Ai Cập, lúc xây dựng Kim tự tháp, cũng đã từng chịu hành hạ về tôn giáo ở Bồ Đào Nha, bị cuộc tàn sát Do thái ở Nga, và trải qua các trại giam diệt chủng bên Đức. Nòi giống của Nora cũng sẽ chịu đựng được nền văn minh kỹ thuật mới này. Và Traian thấy vui mừng cho Nora. Chàng mỉm cười, nói với Moritz:
- Anh đốt ống điếu hút thuốc đi, rồi đem cặp kiếng này vô lều cất. Nên nhớ, lúc đưa cho vợ tôi, anh đừng để kiếng gãy nhé!
- Tôi đi liền đây, ông Traian!
Moritz chập chạp bước đi, hai vai còm, miệng ngậm ống điếu hút từng hơi dài.
Traian có cảm tưởng thấy Moritz chẳng phải đi qua sân trại, mà đi suốt mấy thế kỷ trong lịch sử, cũng với mấy bước lơ đãng ấy, xa lạ với mọi sự vật chung quanh, bàn chân ấn sâu xuống đất, mắt đăm đăm nhìn cảnh vật luôn luôn biến chuyển trên nền trời xanh biếc, nhưng không hề bao giờ tự hỏi tại sao trời xanh dường ấy.
Traian nói lầm thầm: “Moritz và Nora sẽ sống sót sau khi Âu châu bị mất, và cũng sẽ sống được trong cái xã hội kỹ thuật Tây phương này, nhưng không thể sống lâu trong cái xã hội ấy. Không có người nào có thể sống lâu được trong cái xã hội ấy. Có thể hai người sẽ dự kiến được mấy trò biểu diễn đầu tiên. Rồi sau khi các đàn ông khỏe mạnh chót chết hết, thì con người-máy của Phương Đông, Phương Tây, Phương Bắc và Phương Nam sẽ tràn lan ở khắp mặt đất…”

(164)

Moritz vừa khuất dạng trong dãy lều thì Traian đứng dậy, quăng điếu thuốc, đi thẳng ra cửa chánh của trại giam. Tù nhân không được phép đi vô sân chỗ lối đi ra cửa chánh. Traian đã biết, nhưng vẫn đi tới xa, bước mạnh dạn, không hấp tấp, không chậm chạp. Giống như bước đi của người đi về nhà, buổi chiều, sau một ngày làm lụng, chắc ý, không nên vội vàng, và cũng không muốn dần dà.
Bọn tù ở trong sân, lối ba bốn ngàn, thấy có người đi vô đường cấm. Họ liền lại gần hàng rào kẽm gai để xem cho rõ. Họ tưởng một viên thơ ký hay một vị bác sĩ, vì chỉ có mấy người này mới được phép vượt qua lối cản ấy.
Bọn tù muốn xem chuyện sắp xảy đến. Trong trại giam không có chút gì xảy ra mà không được hàng ngàn cặp mắt chăm chú, ngó theo, dò xét.
Mỗi ngày, bị bắt buộc nhìn thấy có bấy nhiêu cảnh vật, nên họ thích tìm chuyện mới lạ, dầu nhỏ nhặt, miễn là khác với chuyện thường ngày. Nhu cầu thiết yếu của tâm trí con người là muốn thoát ra khỏi lề lối máy móc thông thường để tìm cái mới lạ, cái đặc biệt khác thường của cuộc đời.
Một tù nhân đi vào con đường cấm là một biến cố đáng chú ý. Tên tù với tư cách là nhân viên trại hoặc bác sĩ, dẫu có được quyền, cũng bị bọn tù khác theo dõi như xem một vai kép trong tuồng, vì anh ta dám làm một chuyện bị nghiêm cấm.
Traian biết bị cả ngàn cặp mắt theo dõi. Chàng cũng biết mấy tên lính canh Ba Lan đứng trong chòi cao vượt trên rào dây kẽm gai, phải ngó theo chàng, và lấy làm lạ, tự hỏi chàng định đi đâu.
Chàng đã biết, nhưng cứ tiến thẳng tới trước, không ngó bọn tù đang chú mục vào chàng, cũng không dòm mấy lính canh trước mặt, trên chòi cao. Bước đi của chàng, chẳng những như bước mạnh dạn xăng xái của người giận dữ quyết đạp đổ tất cả trở ngại, mà còn như bước lanh lẹ dẻo dai của người thích thú ra đi.
Traian không thấy thích thú bước đi, nhưng biết rõ chuyện làm của chàng có một ý nghĩa và thỏa mãn tâm hồn chàng. Vì thế, bước đi của chàng không nặng nhọc, cũng không buồn chán như một điệu cử động đdều đều của máy móc hoặc của người say đắm chạy theo sở thích. Bước đi của Traian không phải bước đi của kẻ cuồng tín.
Chàng bước đi, hai mắt mở to. Chàng không trông rõ vì không có cặp kiếng. Nhưng mắt của tâm trí, của tinh thần chàng đã mở rộng và chàng thấy rõ đường đi của chàng, thấy rõ ý nghĩa, nỗi vui sướng và thảm kịch của con đường này.
Ai hiểu được, sẽ nhận thấy trong bước đi của Traian, trong bước đi trên cát và thẳng đến rào kẽm gai và lính canh, nỗi buồn sâu thẳm, cố nén và thầm kín. Nỗi buồn của kẻ đi xa nhà, xa xứ sở. Nỗi buồn của thủy thủ khi tàu tách bến.
Ai biết xem sẽ đọc được những chuyện ấy trong bước đi của Traian. Những chuyện ấy có ghi trong dấu chân của chàng in trên cát. Nhưng người hiểu được không có ở đây.
Mắt của lính canh và của tù nhân chỉ đơn giản thấy Traian càng lúc càng đi gần tới hàng rào kẹm gai. Đó là điều cấm nhặt. Không một ai được phép đến gần cách dây kẽm gai một thước rưỡi. Nhưng Traian lại đang làm.
Bọn tù che tay lên mắt để xem cho rõ từng cử chỉ của chàng. Có người đưa nắm tay lên miệng hồi hộp chờ xem kết cuộc, như cử chỉ lúc xem một trận banh quyết liệt, một phim chớp bóng cảm kích, hoặc đọc một quyển tiểu thuyết trinh thám.
Lính Ba Lan trên chòi canh không ngờ, tưởng anh nhìn lầm, có lẽ cũng định giơ bàn tay lên miệng. Nhưng tay đã cầm súng. Lúc anh giơ tay lên, thì bá súng cũng lên theo. Lính canh nhớ ra bổn phận mình là phải bắn một tù binh nào đến gần hàng rào cấm. Và anh liền bấm cò.
Tiếng súng nổ. Tên lính Ba Lan sực nhớ lại mình đã phạm lỗi: bắn không nhắm. Khi bắn súng, phải nhắm trước. Luật lệ quy định như vậy, anh đã biết. Tiềm thức của anh cũng biết. Nên, một cách tự động, anh mau lẹ chữa lỗi, và trước khi bắn phát thứ nhì, anh đưa súng lên má và nhắm người ấy, bóp cò.
Traian nghe tiếng nổ thứ nhứt, và tiếp liền, tiếng thứ hai. Chàng thấy một lằn sáng xẹt ngang trước mắt, rồi nghe toàn thân mệt mỏi nóng ran cả người, một thứ mệt mỏi cảm thấy khi mùa đông nằm trong phòng sưởi ấm, uống cốc nước sôi pha rượu với chanh.
Chàng nghe trên tay có nước gì nóng đang chảy, rồi thân chàng lảo đảo, té ập xuống nền đất nóng, cạnh hàng rào kẽm gai. Chàng té không có tiếng động, như cái áo choàng móc trên giá áo, rơi một đống xuống đất.
Traian thấy động lòng thương hại cho thân thể chàng nằm mềm lịm như vậy. Thân này là bạn chí thiết với chàng. Bây giờ mới nhận ra chàng yêu mến nó là dường nào! Chàng nghĩ tới Nora và cha chàng mà chàng cũng thân yêu như cái xác này. Hình ảnh của Nora, của mẹ chàng, của Moritz, ông biện lý Damian và vài người bạn nữa thoáng qua trong trí chàng một lúc, rồi rơi như mấy bức tranh treo trên tường bị nhổ đinh rơi xuống đất.
Mấy tấm tranh có hình ảnh những người thân yêu nhứt của Traian đều rơi xuống đất cùng một lúc với thân xác chàng và chồng chất lẫn nhau.
Tâm trí chàng không thể kềm giữ nó trước mắt. Chàng đã kiệt lực. Vật chót còn đứng vững, thêm một lúc nữa, thẳng ngay, không chịu ngã, là đầu chàng.
Trán chàng còn đưa lên khỏi mặt đất.
Nhưng giây lát sau, rồi trán của Traian cũng nặng lần.
Chàng đặt gò má xuống nền đất nóng như muốn bấu víu một vật gì.
Trí nhớ chàng, như một lá cờ, bao phủ các tranh ảnh thuở xưa và một thân xác, giờ đây mềm nhũn, mà dòng máu vừa chảy hết.
Traian biết phải nói một lời, nhưng không thốt ra. Đó là lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện mà chàng ưa thích. Song lời cầu nguyện ấy, cũng như bao sự vật trong đời, đều không được thổ lộ, tuy nó không dài lắm. Nếu chàng còn sống thêm chút nữa, chỉ vài giây thôi, chàng có thể đọc được lời cầu nguyện ấy:
“Hỡi Đất, Đất thân yêu!
“Tôi nguyện hiến mình mãi mãi
“Tôi, một kẻ lạ vô danh, từ phương xa đã đến đây!”
Má và môi chàng dính chặt nền đất nóng trong một cử chỉ âu yếm, thân tình, một cử chỉ hoàn toàn quên mình, nồng nàn yêu đương.
Việc xảy ra rất giản dị trang nghiêm, hoàn vẹn với cách chẫm rãi oai nghi của ngọn đèn đang tắt.
Trong sân trại giam, Moritz muốn la lớn lên, nhưng bụm miệng lại kịp. Anh cúi đầu ngó xuống và làm dấu thánh giá.

(165)

Bốn ngày sau khi Traian chết, Moritz được thơ của Suzanna. Thơ như vầy:
“Anh Iani yêu dấu,
“Chắc anh tưởng em đã chết. Chín năm rồi, chúng ta không có tin tức chi với nhau. Nhiều lúc em tự hỏi, hay anh đã chết, và em muốn xin nhà thờ làm lễ cầu nguyện cho anh, như lễ cầu nguyện cho những người chết. Nhưng luôn luôn, đến giờ chót, em đều tránh không làm. Vì lòng em nói cho em biết rằng anh chưa chết. Bây giờ em thấy vui mừng không có làm lễ cầu hồn cho anh, vì làm lễ cầu hồn cho những người chưa chết thì xui lắm.
“Ông Pérusset, trong ban Hồng thập tự Thụy Sĩ cho anh địa chỉ của anh và nói anh bị giam vài năm nay.
“Em liền cám ơn Đấng thiêng liêng che chở cho anh còn sống và cầu nguyện xin Ngài ban phước mở mắt giùm những kẻ giam cầm anh vô cớ. Em biết anh không có làm gì bậy, không trộm cắp, cũng không giết người.
“Em có nhiều chuyện nói với anh. Trong chín năm qua, biết bao chuyện đã xảy ra, nhưng trong bức thơ này, không đủ chỗ để thuật lại hết được.
“Anh sẽ giận em, khi biết hiện giờ em đang ở nước Đức, bỏ nhà cửa đất đai và những gì chúng ta có ở quê nhà, để đem con sống với người xa lạ. Thế nên em thuật chuyện xảy ra như thế nào cho anh rõ.
“Anh ra đi vào ngày thứ nhì sau lễ Pentecôte. Người trong làng cho em hay anh bị lính bồng súng dẫn đi. Em không tin, vì anh đâu có can tội chi nên không có lý gì họ bắt giam và dẫn anh đi, như một tội phạm, lưỡi lê kề bên hông.
“Bốn tuần lễ sau, em nướng một ổ bánh mì và chờ anh. Em biết anh sẽ trở về, đói khát. Khi ổ bánh mốc meo, em cho con ăn rồi làm một ổ khác để anh về có bánh sốt. Em không hiểu tại sao, nhưng lòng em tin chắc anh sẽ trở về, nên em chờ ngày một. Em lo anh về lúc tối, nên không khó cửa, để anh khỏi kêu và khỏi chờ đợi em ra mở cửa. Em biết anh trở về mệt mỏi, đau chân, vì thế em không muốn để anh đứng chờ ngoài cửa. Nhưng anh Iani yêu dấu của em không có trở về. Và em cũng không làm bánh mì cho anh nữa, vì em hết bột, song em vẫn chờ anh hằng bữa.
“Một ngày kia, vào khoảng lễ Pentecôte, viên quản đồn đến nhà cho em hay, anh là Do thái, và y có phận sự tịch thâu nhà cửa mình. Vậy để em có thể còn nhà ở nuôi con, y đưa cho em ký tên một tờ giấy. Tờ li dị. Em ký, mà không li dị với anh và vẫn chờ anh như trước.
“Khi quân Nga đến chiếm đóng, chúng bắn mục sư Koruga với mấy người lương hảo trong làng. Em với mẹ trong đêm đó, đã cứu mục sư bị bắn mà chưa chết, ra khỏi hầm phân sau tòa thị sảnh, định đem giấu trong rừng. Dọc đường, gặp một đoàn xe binh lính Đức, liền đưa cho họ đem mục sư vô nhà thương. Em không biết làm vậy có phải lẽ hay không, nhưng mẹ và em không đành để ông chết được. Ngày sau, mẹ bị Marcou xử bắn vì đã cứu mục sư. Hắn cũng muốn giết em nữa. Nhưng em đã dẫn con trốn khỏi làng. Em đã cực khổ làm lụng nhiều nơi. Em sợ quân Nga bắt được và bắn em, như chúng đã bắn mẹ, nên em chạy được xa chừng nào hay chừng nấy. Nhưng rồi quân Nga cũng bắt được em ở nước Đức sau khi hết giặc. Chúng không bắn em, mà lại xử tốt với em. Chúng cho con bánh mì, kẹo và quần áo. Vì mấy đứa nhỏ không phải dân Đức. Chúng cũng cho em vật thực và quần áo. Bây giờ em hối hận, tại sao bỏ làng Fântâna, trốn quân Nga làm chi?
“Như thế được bốn ngày, em đang bịnh, nên chờ mạnh để trở về nhà.
“Một tối có ai gõ cửa sổ. Đó là quân lính Nga. Chúng tông cửa, vô nhà, lục xét coi có đàn bà nào khác không, rồi bắt em với đứa con gái của chủ nhà, mới mười bốn tuổi, kéo đi. Bọn chúng cho chúng em uống rượu. Chúng móc súng ra, hăm dọa bắn chúng em, nếu không chịu uống. Rồi chúng ra lịnh bảo chúng em lột trần. Các con cũng ở trong phòng. Em nói thà chết chớ không chịu trần truồng trước mặt trẻ nít. Bọn quân lính bèn giựt xé nát áo ngoài và áo sơ-mình của em, rồi cưỡng hiếp chúng em đến sáng. Tất cả bọn lính đều lần lượt thay phiên thi hành thủ đoạn dã man. Đoạn chúng đổ rượu mạnh vô miệng và lỗ tai em vì em đã không chịu uống. Rồi hãm hiếp em nữa.
“Anh Iani, anh thứ lỗi cho em, sao thuật cho anh nghe những chuyện ấy, vì em không muốn giấu giếm anh chuyện gì. Khi em tỉnh dậy, quân Nga mất dạng; các con thì xúm quanh em khóc, như em đã chết rồi.
“Đêm sau, cũng bọn lính cũ trở lại. Chúng bắt đứa con gái của chủ nhà và cưỡng hiếp chúng em nữa.
“Em mới dẫn con trốn dưới hầm để quân lính Nga không thể còn gặp được em. Nhưng đêm thứ ba, chúng bắt gặp em ngạy tại dưới hầm và tái diễn chuyện tồi tệ mấy đêm trước, song em không biết gì cả, vì em đã ngất xỉu lúc chúng nắm lấy em.
“Thảm cảnh kéo dài hai tuần lễ, không sót đêm nào. Em trốn trong vườn, trong nhà người lân cận, trong vựa lúa, nhưng bọn chúng đều tìm em được. Không bữa nào em thoát khỏi. Em nhứt định tự tử, song nhìn lại con thơ, em không đành lòng bỏ chúng không mẹ. Cha chúng nó không có, đã là nhiều rồi. Chúng nó sẽ ra sao, khi bơ vơ, không ai quen thuộc ở đất lạ này? Vì con, em không tự tử, nhưng em đã chết từ lúc ấy. Để lánh xa quân Nga, em chạy trốn về phía tây, tới vùng chiếm đóng của quân Anh, rồi của quân Mỹ mà em ở hiện giờ. Nhưng dọc đường, quân Nga bắt gặp em nhiều lần, và mỗi lần, chúng cưỡng hiếp em trước mặt trẻ con, như chúng đã hành động với tất cả đàn bà chúng bắt được. Trước khi qua được vùng quân Anh, em còn bị quân Nga giữ lại ba ngày ở biên giới; chúng hãm hiếp em ngày và đêm. Lần chót này em có thai. Đã năm tháng nay, em mang con chúng trong bụng.
“Em hỏi anh vậy em phải làm sao? Anh trả lời cho em rõ. Việc đã xảy ra như thế, anh còn nhìn nhận em là vợ anh không, và chừng nào anh mới về với em?
“Em khóc, viết thơ này cho anh, nóng lòng chờ tin tức anh, để biết coi em sẽ làm cách nào”.
SUZANNA

(166)

Đọc xong thơ, Moritz nắm chặt mấy tờ giấy, im lặng hồi lâu. Anh nghe văng vẳng tiếng báo hiệu tới giờ ăn, nhưng anh nằm ngửa, không nhúc nhích. Cái nhìn của anh, thân thể anh, cho đến cách anh nằm dài đều thay đổi. Chẳng phải anh Moritz hồi nãy, anh Moritz thường ngày. Một người khác hẳn. Tâm hồn và thể xác anh như bị một luồng điện mạnh chạy qua, anh không chịu đựng nổi, chỉ là đống tro nóng. Anh không còn là Moritz nữa, có ai lấy kim chích, anh cũng không hay biết. Anh tuy sống mà không đói, không khát, cũng không vui, không buồn.
Anh có thể khóc và cười một lượt, vì anh không biết gì và cũng không thấy mình còn sống nữa.
Anh ngồi dậy, ra khỏi lều, bước đi, nhưng không biết là đi đâu.
Anh đến gần hàng rào kẽm gai như thường lệ mà cũng không hay. Nếu anh có đi qua lằn mức cấm và bị bắn như Traian, anh cũng dửng dưng. Song anh không muốn đi lố mức. Và anh cũng không muốn vượt qua. Anh không muốn và anh cũng không mong muốn gì cả.
Một lát sau, có hai lính Mỹ cầm máy ảnh tới gần để muốn chụp ảnh anh.
Moritz không cử động, và không ngó họ. Nhưng chừng thấy người thứ ba, anh giựt mình, kêu nho nhỏ:
- Strul! Sao anh lại đến đây?
Người lính Mỹ dừng lại, cầm máy ảnh ngó anh. Chính là Strul, tên Do thái coi việc lương phạn ở trại giam Roumanie, đã trốn qua Budapest với bác sĩ Abramovici và Moritz. Hai người ngó nhau và nhìn biết nhau.
Khi Moritz kêu Strul lần thứ hai thì gã vội lấy máy ảnh che lên mắt, như để chụp hình Moritz. Rồi đi liền, không trả lời.
Moritz đứng sau hàng rào kẽm gai ngó theo hai tên lính Mỹ với Strul bước lên xe Jeep chạy đi.
Lúc xe khởi chạy, Strul có ngó lại phía Moritz, nhưng ngượng nghịu, liền đưa mắt dòm nơi khác.
Moritz không giận. Nếu ngày khác, chắc anh tức sôi lên vì một người bạn trong gian khổ lại làm mặt lạ với anh.
Nhưng bây giờ, anh đều trối kệ tất cả.
Moritz đứng gần hàng rào, một hồi lâu.
Có người vỗ vai anh, anh không quay lại.
- Anh Moritz vô sửa soạn đi!
Moritz xây lại, tưởng được thả ra, mắt sáng lên, mừng rỡ hỏi viên trưởng trại đã vỗ vai anh:
- Họ thả tôi ra phải không?
- Không đâu, anh bạn à!
- Vậy đi tới một trại giam khác sao?
- Đi Nuremberg!
Moritz lắc đầu, tỏ vẻ không cần. Đã từ lâu, anh biết anh đương nhiên bị coi như một chiến phạm, như tất cả quân sĩ S.S., thì đến Nuremberg để ở chung với các chiến phạm khác, như Thống soái Goering, Rudolf Hess, Rosenberg, Von Papen… là sự thường tình. Có thể anh bị kết án tử hình, bị xử giảo, cũng mặc!
Và anh vẫn đứng ngó ra ngoài kia hàng rào, tận chân trời xa xăm.
Viên trưởng trại đập mạnh vào vai anh và nói:
- Anh sẽ đi trong nửa giờ nữa!
Moritz không nhúc nhích.
Viên trưởngt rại bảo:
- Đi gói đồ của anh đi, chỉ còn đủ thì giờ thôi. Đến mười ba giờ, phải sẵn sàng để tập hợp.
- Tôi không có đồ đạc.
- Anh không lấy gì theo hết sao?
- Không!
- Cũng không lấy mền anh nữa à!
- Không cần!
Viên trưởng trại có ý nghĩ, nếu Moritz không lấy mền thì hắn sẽ được hai cái, ngủ ấm hơn, song hắn vội gạt bỏ ý tưởng ấy, nói:
- Anh nên lấy theo cái mền, ở khám đường Tòa án Quốc tế Nuremberg lạnh và ẩm ướt lắm. Anh cần phải có mền mới được.
- Tôi không cần gì hết!
- Thôi, anh đừng trễ nãi. Giờ khởi hành nhứt định đúng một giờ trưa!
Moritz đứng yên một chỗ, mũi giày để ngay trên lằn trắng, chỗ mà tù nhân được phép đi tới đó thôi. Mũi giày cẳng mặt của anh bước tới giữa lằn trắng. Moritz ngó tên lính Ba Lan đứng gác trên tháp canh. Tên lính đã đưa súng lên má, và sắp sửa bắn. Nhưng Moritz không vượt qua lằn mức, cứ đứng đó, lấy mũi giày gí qua gí lại một hồi.
Nửa giờ sau, anh ra đi Nuremberg với mấy chiến phạm khác.
Bức thơ của Suzanna còn để lại trong lều, với tất cả vật dụng của Moritz. Mấy bạn anh muốn đọc, nhưng đành chịu, vì thơ viết bằng chữ roumain, họ không hiểu gì.
Giấy của bức thơ thật mỏng, họ bèn xé ra, chia nhau làm giấy hút thuốc.
Rồi họ ráp lại hút thuốc.

(167)

Đơn Thỉnh nguyện số bảy.- Đề tài: Sự công bình. Hình phạt chiến phạm Iohann Moritz (Đơn văn phòng nhận được sau khi NGƯỜI CHỨNG đã chết).
Tòa án Quốc tế Nuremberg đã quyết định, nhân danh năm mươi hai ngàn quốc gia, cho bạn tôi, Iohann Moritz, là tên chiến phạm.
Thật là một việc hay! Từ khi ấn hành bản phán quyết, tôi không đi chơi với anh trong sân nữa. Thật không đẹp mà lại còn bị khinh rẻ nếu làm bạn, đi chơi chung với kẻ chiến phạm.
Song Moritz coi thường bản án của Tòa án Quốc tế Nuremberg, và không hiểu tầm quan trọng của tội ác anh.
Vì thế nên tôi có đơn trạng này.
Moritz quả quyết trong đời anh không giết ai, dầu là một con ruồi, thì không phạm tội được. Vậy là anh lầm to, trong lúc năm mươi hai nước đã chứng nhận ở Tòa án Quốc tế rằng anh là chiến phạm kia mà! Moritz lại còn cho rằng anh không biết năm mươi hai nước này thì làm sao anh can án được đối với các nước ấy. Luận điệu của anh ngớ ngẩn thật. Tôi có đọc tên năm mươi hai quốc gia kết án anh. Có nhiều nước anh mới nghe tên lần thứ nhứt trong đời anh, và cũng không biết các nước ấy có trên mặt đất này. Nhưng chuyện ấy đâu phải là một cớ để chữa lỗi.
Moritz nổi giận lên, khi thấy trong số năm mươi hai quốc gia kết án anh, có nước Pháp và nước Hi Lạp. Anh giận tái xanh và không tin những tội người ta gán cho anh. Anh nói lúc trước anh có biết sau người Pháp và đã cứu họ vượt ngục. Anh có biết một người Hy Lạp bị giam chung một trại giam với anh và anh đã chia sẻ bánh mì với hắn. Ngoài chuyện ấy ra, anh không có giao thiệp gì khác với nước Hy Lạp. Nhưng đây là mấy chuyện riêng tư, cá nhân của anh.
Hai nước ấy đã kết án anh là chiến phạm.
Lời phán quyết đã rõ rệt và xác thực.
Muốn cho Moritz nhìn nhận tội lỗi mình, tôi đề nghị cho anh ở tù một năm trong mỗi nước. Như thế anh sẽ biết tội phạm chiến tranh của anh và không còn thờ ơ nữa.
Nhưng chưa chắc anh sống được thêm năm mươi hai năm nữa, vì anh đã yếu lắm rồi, anh cũng như các chiến phạm khác. Nếu anh chết trước thời hạn, thì những nước chưa giam tù anh sẽ bị thiệt thòi. Tôi đề nghị giảm xuống còn sáu tháng thời gian khổ sai của anh trong mỗi nước. Như vậy, anh phải ở hai mươi sáu năm tù cả thảy.
Nếu sau hai mươi sáu năm ấy mà anh còn sống (và rất đáng tiếc nếu anh chết không trả nợ tù được cho năm mươi hai nước đồng minh), tôi lại đề nghị còng anh dẫn đi châu lưu các khám đường của các nước ấy, mỗi nơi một tháng. Đến hết vòng, anh đi trở lại.
Như thế, nước đồng minh nào cũng có phần mình, không ai bị thiệt thòi.
Và sự công bình được giải quyết. Sự công bình là nền tảng trên đó thiết lập xã hội kỹ thuật Tây phương.
Tuy nhiên, có vài nước như xứ Nga, Ba Lan và Yougoslavie, không săn sóc tù nhân cho chu đáo, có khi còn bỏ quên họ trong khám nữa, tôi đề nghị, trước khi dẫn đi, nên cân Moritz kỹ lưỡng và kê khai rành mạch các bộ phận trong châu thân anh còn nguyên vẹn.
Mỗi xứ lãnh Moritz nơi Tòa án Quốc tế Nuremberg và khi trả anh, cũng phải giao cho Tòa án này, y như trong bản nhận lãnh,- cân đúng số và còn đủ các bộ phận ghi trong bảng kê khai.
Như thế, Moritz sẽ được giữ nguyên vẹn để cho mỗi nước trong năm mươi hai quốc gia đồng minh dùng.
Xã hội kỹ thuật Tây phương có nguyên tác không để một vật gì hư hỏng.
Bổn phận chúng ta phải đòi hỏi các quốc gia kém văn minh hơn, đừng sử dụng vật gì của ta giao phó, như những kẻ dã man.
Sứ mạng của chúng ta là văn minh hóa toàn khắp thế giới! Đó là trách nhiệm của chúng ta. Và chúng ta rất hãnh diện như thế!
NGƯỜI CHỨNG


PHẦN PHỤ


Rốt cuộc, rồi Moritz cũng được ra khỏi trại giam.
Anh đã vắng mặt mười ba năm trường. Trong khoảng thời gian ấy, anh bị giam cầm trong hàng trăm trại giam của nhiều quốc gia.
Hiện giờ anh đã tìm được vợ con.
Lúc ấy đã mười giờ tối. Đêm sum họp đầu tiên. Moritz ăn xong, ngồi chống tay trên bàn, ngó con cái.
Petre, thằng đầu lòng, được mười lăm tuổi rồi. Moritz ngó nó một hồi lâu. Anh giụi mắt để chắc ý rằng anh không chiêm bao. Và anh không thể làm sao tưởng được nó là con trai anh.
Thằng Petre mặc bộ đồ Mỹ, vải xanh; nó hút thuốc và cũng có cặp mắt giống cha.
Thằng Petre cũng vậy, nó không làm sao tin được người đàn ông ốm yếu, tóc hoa râm, ngồi trước mặt nó, mà từ trước đến giờ nó không hề thấy, lại là cha đẻ nó.
Nhưng đã ở chung một nhà, nó kiếm cách làm thân, nói:
- Tôi sẽ nói chuyện với chủ tôi, và không chừng ông sẽ kiếm chỗ cho ba làm trong hãng.
Moritz mỉm cười. Petre nói tiếp:
- Nếu ông giới thiệu thì chắc chắn ông chủ bằng lòng. Ông chẳng khi nào thâu nhận người không thạo việc, mà ba thì không rành nghề nào. Song nếu tôi nói là ba tôi, thì ông sẽ dành cho một đặc ân.
Moritz ngó qua thằng Nicolae, đứa con thứ của anh. Nó giống Suzanna, cũng trắng hồng và có cặp mắt dịu dàng như nhung.
Anh ngó tới đứa thứ ba, lên bốn tuổi. Nó không thuộc con anh. Suzanna có thai nó với quân lính Nga. Song Moritz đã tha thứ cho nàng, vì không phải lỗi nơi nàng.
Moritz châm điếu thuốc khác, thuốc của Petre mới tặng anh nguyên gói, để mừng anh mới về.
Anh đã mệt, nhưng chưa buồn ngủ. Trong phòng có hai cái giường. Suzanna với thằng bé ngủ trong cái giường nhỏ. Moritz ngủ một mình trong cái giường kia. Hai đứa lớn trải mền ngủ dưới đất.
Thằng Petre nói:
- Hiện giờ, tạm được! Chúng ta sẽ kiếm thêm buồng hoặc mua thêm một cái giường nữa.
Mấy đứa nhỏ đã trải mền và sửa soạn thay đồ ngủ.
Moritz còn ngồi tại bàn ăn, hai tay ôm đầu, ngó Petre và Nicolae đang thay đồ đi ngủ. Chúng nó chúc anh ngủ ngon bằng tiếng Đức. Anh muốn chúng nó nói tiếng roumain hơn, nhưng chúng nó không rành.
Suzanna đặt đứa nhỏ trong giường. Moritz nghĩ thầm: “Đó là con của quân Nga”. Thằng nhỏ ngộ nghĩnh đáo để, tóc có lọn, hung hung vàng.
Moritz không muốn ngó nó, tuy hồi ở trại giam, anh đã viết thơ nói sẽ coi nó như con.
Suzanna cũng không muốn anh ngó thằng bé. Nàng thay đồ cho nó, rồi đẩy nó vô giường, như muốn giấu giếm.
Nàng đứng giữa phòng một hồi, không biết làm gì.
Đoạn nàng lại ngồi tại bàn ăn, đối diện với chồng. Nàng biết Moritz mệt mỏi, nhưng không dám bảo anh đi ngủ. Nàng tự thấy lỗi nhiều về các sự đã xảy ra. Chồng nàng bị bắt, bị đày trong trại giam bao nhiêu năm, cũng tại nàng. Tuy nghĩ vô lý, nhưng ý nghĩ quá mạnh, nàng không thể bỏ qua được…
Và còn chuyện quân Nga cưỡng hiếp nàng, lỗi cũng tại nơi nàng. Vì thế, nàng không dám nhìn cặp mắt Moritz và cũng không dám mời anh đi ngủ.
Nàng đã biết Moritz về, nên lo bữa ăn, giường ngủ. Anh về đến nhà, đói quá, ăn hết sạch đồ ăn trên bàn, hút hơn nửa gói thuốc của Petre vừa biếu.
Bây giờ các con đã ngủ rồi, Suzanna ngước mắt ngó chồng, gặp lúc Moritz đang ngó nàng. Bốn mắt gặp nhau, quyện lấy nhau hồi lâu, như không thể rời được.
- Phải cái áo em mặc đêm đó hay không?
Moritz ngó chiếc áo dài xanh, cổ hở, mà Suzanna đã mặc đêm cha nàng đánh chết mẹ nàng, chiếc áo nàng mặc lúc anh dẫn nàng về nhà cha mẹ, nhưng mẹ anh không chịu chứa, anh phải dẫn tới nhà mục sư Koruga xin ở đậu căn phòng gần nhà bếp. Lúc đầu, Suzanna chỉ có cáo áo độc nhứt này. Chẳng có cái nào khác. Cũng chẳng có áo sơ-mình. Suốt mấy tuần lễ, nàng chỉ mặc cái áo dài xanh ấy, ban đêm phải cởi ra để dành, và ngủ trần. Về sau, nàng may được thêm mấy cái khác. Nhưng chỉ có cáo áo này, nàng cho là đẹp hơn hết, và chồng nàng cũng thích nó nhứt. Chính lúc nọ nàng mặc nó, hai vợ chồng đã trải qua mấy tuần lễ yêu đương vui sướng, đẹp đẽ trong đời. Suzanna nói:
- Em không hề khi nào mặc nó, từ khi anh rời khỏi làng Fântâna. Lúc anh bị chúng bắt, em thề khi nào anh về tới cửa, em mới mặc nó. Từ mười ba năm nay, đi đâu, em cũng đem nó theo luôn luôn bên mình, và trong mười ba năm, em chờ anh mãi mãi, nhưng chưa bao giờ em mặc nó, trước bữa nay.
Suzanna hổ thẹn cúi xuống. Chặp lâu, nàng ngước mặt lên, gặp Moritz ngó nàng. Anh định muốn đặt nàng ngồi trên bắp vế và thủ thỉ bên tai nàng: “Anh mòn mỏi vì em!”.
Nhưng anh không nói gì với nàng hết.
Anh đốt thêm điếu thuốc, nhìn mấy đứa nhỏ ngủ, rồi ngó Suzanna lần nữa.
Nàng không thay đổi nhiều. Mặt hơi nhăn, da mất vẻ tươi thắm, tóc đã phai, giống màu chỉ gai, vú xệ. Nhưng nàng vẫn như xưa. Moritz không bao giờ nghĩ sẽ gặp được Suzanna như ngày trước, nàng Suzanna ở làng Fântâna của anh. Mười ba năm, ví như một thời gian tạm cho thuê!
Moritz nói:
- Tôi muốn đi chơi một chút.
Nhưng anh không đứng dậy, muốn đợi Suzanna đứng lên trước. Nàng hỏi:
- Em đi với anh được không?
Moritz không trả lời, song chờ Suzanna thay đồ. Rồi hai người nhón gót ra ngoài, sợ các trẻ nghe thấy.
Họ thẹn thầm.
Xuống thang lầu, vai họ chạm nhau vài lần. Không ai nói một lời nào.
Trời xẩm tối. Moritz muốn đi xem đường cái, thị tứ hơn. Nàng dẫn anh đi.
Trước một cửa hiệu, Suzanna nắm tay Moritz chỉ cho anh coi đôi giày nàng muốn mua cho anh. Rồi họ đi xa hơn, hai tay còn nắm nhau. Họ nhìn nhiều tủ kiếng chưng hàng khác, không nói đến chuyện trại giam, nhà cửa ở Fântâna, hoặc các chuyện đã qua. Họ muốn hưởng một đêm đầy đủ cho riêng họ, không nhắc đến kỷ niệm đau buồn.
Moritz nói:
- Anh sẽ nghỉ khỏe trong hai ngày, rồi đi kiếm việc làm. Thằng Petre chắc xin giúp cho anh vô hãng được.
- Anh cứ nghỉ vài tuần lễ rồi sẽ hay. Anh còn yếu lắm. Em và thằng Petre kiếm đủ sống rồi. Em giặt đồ, và có mối nhiều.
Nàng vừa nói vừa siết mạnh tay Moritz. Anh thích lối nàng khéo lựa lời nói để anh yên lòng nghỉ ngơi.
Hai người đi đến cửa ra khỏi thành phố. Hai bên đường là đồng cỏ rộng rãi. Trời tối đen. Moritz nói:
- Giống như ở làng Fântâna quá!
- Thật vậy!
Họ tiếp tục đi dạo, và đều nghĩ đến cảnh làng Fântâna, đến tiếng chim mèo… Moritz nói:
- Đau chân quá. Ta ngồi xuống nghỉ một lát!
Hai người vô trong một vuông vườn, và ngồi xuống cỏ. Moritz nằm dài, hai tay gối đầu, khoan khoái nói:
- “Thật giống như ở làng Fântâna!”. Rồi anh lăn qua, úp mặt xuống cỏ, và nói:
- Em hửi mùi cỏ coi, Suzanna! Giống mùi cỏ ở trong vườn, sau nhà ba em. Em còn nhớ chứ? Miếng vườn mà chúng ta gặp nhau trong đêm…
Suzanna cúi xuống hít hơi cỏ. Tim nàng đập mạnh. Nàng không trả lời được. Tiếng nàng quá run.
Moritz đặt tay lên vai nàng. Suzanna vẫn cúi xuống.
Họ yên lặng một lúc lâu, không cử động, hình như còn cách xa nhau. Họ không dám xích lại gần.
Chỉ có bàn tay Moritz còn để trên vai Suzanna. Moritz nói:
- Em biết không? Ở trại giam, anh đã tưởng nhớ tới em nhiều…
Vài ngôi sao lấp lánh trên trời. Suzanna dòm lên, rồi cúi xuống thêm gần Moritz mà anh không hay. Nàng em thẹn. Moritz tiếp:
- Em thứ lỗi cho anh, ở trại anh mơ màng đến em luôn. Anh thú thất với em, vì ai có bị giam cầm mới thấy sự đó là thường. Anh mơ thấy em, y như hồi hai ta ở trong vườn, sau nhà ba em… Mùa hè ấy là đoạn đời tươi đẹp nhứt của chúng ta.
Suzanna cúi gần thêm nữa và đặt đầu lên vai Moritz. Anh vuốt ve nàng, rồi nói:
- Em không sợ nhàu nát cái áo đẹp mà em đã khéo giữ mười ba năm nay sao?
Nàng định đáp rằng cái áo không nhàu, nhưng Moritz nói tiếp:
- Tốt hơn em cởi nó ra, để trên cỏ như em đã làm ở làng Fântâna.
Suzanna cởi áo ra, mau lẹ như muốn trốn tránh không để Moritz thấy rõ nàng. Nàng nằm trần trên cỏ xanh, vóc mình nổi bật như pho tượng đá cẩm thạch. Nàng nằm cách xa Moritz. Anh ôm ngang lưng nàng, và lấy làm lạ, nói:
- Em cũng như lúc nào! Không thay đổi gì hêế, vẫn còn là Suzanna của anh, như hồi trong vườn làng Fântâna. Làm cách nào em giữ được nguyên vẹn như vậy?
- Anh nói không đúng! Em già rồi. Chỉ có anh không thay đổi mà thôi.
Suzanna dang ra. Moritz ôm sát nàng lại:
- Em cũng dang ra như lúc xưa. Dường như không có mười ba năm xa cách chút nào!
Nàng cũng có cảm tưởng như thế về Moritz.
Như thuở nọ, anh cũng vòng tay ôm ngang lưng nàng, anh cũng ôm siết nàng vào lòng, và hôn hít lấp miệng nàng đến ngộp thở. Nàng cũng cảm thấy ngực anh đè nặng nàng như cái áo giáp. Tất cả đều giống như thuở nọ.
Suzanna nói:
- “Anh thơm mùi cỏ làng Fântâna quá! Anh còn giữ mùi cỏ mùi rơm ấy luôn.
“Em cũng vậy, em chỉ nhớ đến anh mà thôi. Em xin thề. Ngày đêm em nhớ đến anh luôn, với tất cả tâm hồn em. Em xin thề với anh. Anh là vừng đông, là mặt trời, là chồng yêu quý của em. Chỉ một mình anh mà thôi”.
Moritz biết rằng nàng không nói dối, nàng chỉ là riêng cho anh, cho một mình anh thôi. Anh đoán hiểu điều này trong nguồn hơi nóng khắp châu thân nàng, trong nhịp tim đập mạnh của nàng, trong lời nói đầy yêu đương nồng cháy của nàng bên tai anh.
Moritz cảm biết anh là mặt trời, là vừng đông của nàng và nàng chỉ tưởng nhớ đến anh và trông chờ anh. Moritz có cảm giác những gì xảy ra trong mười ba năm ấy, vụt tiêu tan mất. Và vợ chồng anh sum họp, giống như trước. Hai vợ chồng với nhau. Và một tương lai rực rỡ hiện ra trước Moritz ặt họ là cuộc đời.
Moritz không còn lo sợ cho kiếp sống mình nữa.
Trời chưa hừng sáng, hai người đã dậy. Họ thấy bẽn lẽn. Suzanna nói:
- Ta không còn trẻ như hồi mười ba năm về trước. Ta nên trở về nhà sớm sớm.
Moritz cười.
Hai người đồng ý đêm sau sẽ trở lại chỗ này. Moritz nói:
- Và các đêm kế tiếp nữa. Chúng ta sẽ đến nơi đây. Chỉ nơi đây mà thôi. Nơi đây thật giống như ở làng Fântâna. Anh có cảm tưởng như chúng ta ở tại quê nhà, và trong khoảng thời gian đã qua, như không có chuyện gì xảy ra cả.
Vợ chồng tươi cười trở về nhà. Họ đã hết xa lạ với nhau. Và họ cũng hết hổ thẹn. Nhiều lúc anh vòng tay ôm ngang lưng nàng và Suzanna vẫn để yên. Moritz nói:
- Em biết không, anh không thấy mệt mỏi chút nào. Sáng mai, anh theo thằng Petre kiếm việc làm. Chờ đợi làm chi? Ta sẽ có thể mướn được hai căn phòng. Anh đi làm có tiền, chúng ta sẽ được sung sướng.
Suzanna muốn anh nghỉ ngơi cho khỏe đã. Nhưng Moritz đã nhứt định. Anh nói:
- Ngày mai, anh đi với thằng Petre. Từ mười ba năm nay, anh làm việc suốt ngày và có nghỉ ngơi gì đâu. Và toàn là công việc thật nặng nhọc. Anh đã quen rồi!
Trước một cửa hàng, hai người ngừng lại. Tủ kiếng còn thắp đèn sáng trưng.
Moritz nói:
- Tiền anh làm ra được kỳ đầu, anh sẽ mua cho em xâu chuỗi hột chai này, xâu đỏ đó, em thích không?
Nàng ngó xuống giá tiền, rồi nhìn Moritz, không biết trả lời làm sao. Giấc mộng Moritz được trở về, mua cho nàng một xâu chuỗi hột chai đã thành sự thật. Nàng nói:
- Nếu mai anh làm liền được, thì thứ bảy này anh mua xâu chuỗi cho anh.
Khi hai người về đến con đường vô nhà thì trời sáng. Moritz ôm Suzanna vào lòng và nói:
- Anh không hôn em ở nhà được vì có mấy đứa nhỏ, chúng nó sẽ cười mình. Chúng nó tưởng mình già rồi. Nhưng chúng ta chưa già. Có phải mình chưa già không em?
Trước nhà có cái xe cam-nhông, đèn “pha” chói sáng.
Tim Moritz đập mạnh. Anh rờ giấy tờ để trong túi. Tuy anh có giấy tờ hợp lệ, nhưng anh hơi lo. Chiếc xe cam-nhông giống xe trại giam và đèn “pha” cũng chói lòa như vậy.
Moritz biết chắc chắn rằng tất cả giấy tờ của anh đều đúng phép, anh cất đủ trong mình, và tất cả đèn pha đều chói sáng y nhau, nhưng anh sợ.
Suzanna hỏi:
- Tại sao anh run vầy nè?
Moritz không đáp, kéo nàng bươn bả vào nhà. Khi lên nấc thang, gặp hai viên hiến binh vừa trong phòng anh đi xuống. Họ đã đánh thức mấy đứa nhỏ và dặn thằng Petre phải lo sẵn đồ đạc, chừng 50 kí mỗi người, đúng bảy giờ sáng, đứng chờ trước cửa nhà.
Nhưng lúc gặp Moritz ở thang lầu, thừa dịp ấy, họ cũng lặp lại lời dặn:
- Đúng bảy giờ sáng chờ ngoài cửa nghe!
Suzanna hỏi:
- Các ông định đem chúng tôi đi đâu?
- Vì viện pháp chính trị, các ngoại kiều miền Đông Âu châu đều bị giam giữ, bởi mấy xứ này đang gây chiến tranh với các nước Đồng minh Tây phương. Nhưng không sao đâu, các người sẽ sống sung sướng trong trại, ăn uống như dân Mỹ. Chỉ là một sự đề phòng thôi. Đừng sợ gì hết, không ai bắt bớ các người đâu.
Trong đêm đó, Moritz muốn trốn.
Anh đã được mời một lần để thuật cho Thiếu tá Đô trưởng nghe vụ anh cứu mấy tù binh Pháp. Lúc đó anh tin thiệt. Và vì thế anh bị giam trong nhiều năm dài đăng đẵng vừa rồi. Bây giờ, anh không tin ai nữa hết. Anh đeo túi dết mà anh vừa mang về từ trại giam Dachau mười tám giờ trước đây, và đánh thức mấy đứa con dậy, để từ giã.
Thằng Petre cười khi thấy cha nó muốn đi trốn. Nó nói tiếng Anh thông thạo và là một kẻ thân Mỹ nhiệt liệt. Nó hỏi Moritz:
- Ba muốn đi đâu? Ba thiệt thà quá! Tôi biết rõ người Mỹ, tôi có một số đông bạn Mỹ; mỗi buổi chiều chúng tôi đều đi chơi với nhau. Khi người Mỹ nói không phải là bắt bớ, ta nên tin họ. Và nếu chỉ là một biện pháp chính trị, thì chúng ta sẽ có lương thực Mỹ để ăn, có cà-phê ngon, thuốc điếu và kẹo sô-cô-la. Và ta cũng không bị bắt buộc làm việc gì. Ai dại gì đi trốn. Ba chưa hiểu người Mỹ mà!
Moritz nghĩ tới những điều anh đã biết, đã đau đớn khổ sở, và đã thấy chán chường, anh ngó thằng Petre. Anh không muốn phá tan ảo mộng của nó, và không muốn nói thiệt với nó những gì anh đã biết.
Anh cởi túi dết, để trên bàn. Anh tự nghĩ không biết phải trốn đi đâu? Trốn quân Mỹ thì gặp quân Nga. Mà ở với quân Nga, còn khổ sở hơn. Không phải anh tin lời nói của thằng Petre. Anh hiểu rõ thế nào rồi. Nhưng anh đã mòn sức, không còn đủ nghị lực đi trốn. Anh không có cách gì khác hơn là ở lại, ở lại để bị bắt một lần nữa. Anh nói:
- Mày có lý! Ai dại gì đi trốn!
Petre vỗ vai anh, thân mật nói:
- Cha con ta sẽ tình nguyện xin nhập ngũ trong quân đội Mỹ. Chừng đánh quân Nga xong, ta trở về xứ Roumanie. Trận giặc “Văn minh” chống “Dã man” mà! Ba phải tình nguyện mới được!
Moritz không nghe thêm, trí anh đang nghĩ đến những hàng rào dây kẽm gai, ở Dachau, Heibronn, Kornwestheim, Darmstdt, Ohrdruf, Ziegelheim, những hàng rào kẽm gai của ba mươi tám trại giam mà anh bị giam cầm trong mấy năm chót này, những nơi đó mục sư Koruga và Traian đã chết, và anh cũng suýt bị chết đói.
Anh cảm thấy như mấy dây kẽm gai đâm thấu tim anh. Anh nghĩ thầm “Mới tự do chỉ được có mười tám giờ, bây giờ phải vô trại giam trở lại. Lần này không phải bị bắt vì là dân Do thái, Roumain, Đức, Hongrois hoặc lính S.S., mà vì là kiều dân của một xứ Đông bán cầu”. Nước mắt Moritz tuôn trào.
Thằng Petre hỏi:
- Sao ba không sửa soạn hành lý đi?
Nó vui thích được ra đi lắm. Moritz đáp:
- Ba sẵn sàng. Từ mười ba năm nay, ba dời chỗ từ trại giam này đến trại giam khác biết bao nhiêu lần rồi, nên lúc nào ba cũng sẵn sàng. Rồi con cũng sẽ tập quen với mấy trại giam. Ba thương hại cho con, song làm đàn ông, ai ai cũng phải chịu vậy, vì từ rày về sau, họ chỉ thấy toàn là trại giam, hàng rào dây kẽm gai, và đoàn xe nhà binh có hộ tống! Ba đã trải qua một trăm năm trại giam, trại sắp tới đây sẽ là trại thứ một trăm lẻ sáu. Khổ thân ba làm sao! Vừa được thả mới có mười tám giờ! Biết đâu ba lại không có lấy một giờ tự do trước khi chết.
Moritz ngó Suzanna và nói:
- Nếu như thế thật là tốt đẹp. Bây giờ anh có thể chết được, không mến tiếc. Anh không ngờ anh có thể được sống những giờ tươi đẹp, hạnh phúc như thế. Thật như hồi ở làng Fântâna, phải không Suzanna?


ĐOẠN KẾT

- Bà West, tôi muốn nói chuyện riêng với bà!
Eleonora để tập hồ sơ trên bàn, ngó Trung úy Lewis. Ông đang ngồi tại bàn giấy, chân tréo mảy, ưỡn ngực dựa lưng ghế và hút thuốc.
Trung úy Lewis là trưởng phòng Phòng tuyển mộ ngoại kiều đến tình nguyện xin vô quân đội Mỹ. Eleonora là nhân viên và thông dịch viên tại Phòng này. Nàng làm việc từ sáu tháng nay, dưới quyền Trung úy Lewis.
Nora ngó đôi vớ cuốn kèn quanh ống quyển Trung úy, rồi nghĩ thầm: “Tại sao hắn không mang dây kẹp vớ? Và tại sao hắn ngồi ghế như ngồi ngựa vậy? Giống như bọn thủy thủ ở bến tàu! Vậy mà hắn cũng là con nhà có giáo dục, cũng xuất thân trường đại học. Dầu hắn có tự do quá mức đi nữa, hắn cũng không được phép ở trong phòng văn, đưa cặp giò trước mặt một người đàn bà như thế này!”.
Nàng thấy như bị tát tai mỗi khi Trung úy Lewis bắt tay nàng mà miệng còn ngậm điếu thuốc, hoặc mỗi lần quăng một hồ sơ trên bàn cho nàng, như ném miếng xương cho chó.
Trung úy Lewis không ngờ Nora đã nghĩ gì đến mình, trái lại, còn tưởng nàng phục mình lắm. Nhưng đôi mắt nhìn của ông vẫn còn ngượng nghịu.
Nora đáp:
- Tôi xin nghe ông.
- Bà West có bằng lòng ưng làm vợ tôi không?
Trung úy ngồi bật ngửa, xích đòng đưa chiếc ghế, chiếc ghế chỉ còn đứng có hai chân. Nora trả lời:
- Tôi không ưng làm vợ ông!
- Vậy bà có những dự tính nào khác sao?
- Không có! Nhưng câu trả lời của tôi là: không bằng lòng.
Nora giở tập hồ sơ ra, song không làm việc được. Mắt ngó giấy tờ mà trí ở đâu đâu.
Nàng ở tù hai năm trong trại giam, rồi đương nhiên được thả ra, cũng vô căn cứ, như lúc bị bắt.
Khi ra tù, nàng hết tiền bạc, chẳng còn áo dài, nữ trang nào. Đến chiếc nhẫn cưới cũng không. Tất cả đều bị khám xét lấy hết. Tiền gởi ngân hàng ở các nước ngoài cũng bị tịch thâu. Nàng nghèo xơ xác. Nàng được cho hay: Traian chết. Tự tử. Chỉ có thế. Nàng tuyệt nhiên không biết gì khác hơn. Nàng không thể trở qua Nga, mà cũng không đi đâu xa hơn được, vẫn còn ở Đức. Nàng làm việc cho một tờ báo, giữ phần phiên dịch bài vở. Rồi có lịnh bắt giam tất cả kiều dân ở Đông bán cầu. Chiến tranh tuyên cáo, nàng đương nhiên bị bắt giam lại, nhưng không phải như lần trước. Hiện giờ, nàng làm thơ ký tại Văn phòng tuyển mộ dân ngoại quốc tình nguyện nhập ngũ. Nàng ở trong trại giam, có tiền lương và được nuôi ăn. Ngoài ra, lúc rảnh, nàng tiếp tục viết quyển tiểu thuyết “Giờ thứ hai mươi lăm” của Traian chưa hoàn thành. Nàng có tìm giữ được, trong một va-li, bốn chương đầu mà nàng cho là phần chính của quyển sách. Nàng không nghĩ gì đến tương lai, chỉ cốt viết cho xong quyển truyện. Đúng ra, đây không phải là một kế hoạch tương lai. Nàng để hết tâm trí vào việc này mà nàng ưa thích. Nàng ráng viết theo giọng văn của chồng, và cố gắng hoàn thành quyển tiểu thuỵât như chính tự tay Traian làm công việc này.
Như thế, tại mỗi trang nàng viết, nàng có cảm giác như lúc nào cũng gần Traian, cũng ở kế bên chàng, và nàng có cảm tưởng như hai người cùng viết chung. Lúc trước Traian có phác họa kỹ càng đại ý nội dung quyển tiểu thuyết, nên nàng cố gắng theo đúng y hệt ý tưởng của chàng.
Trung úy Lewis suy nghĩ một chặp rồi nói:
- Được, nhưng tôi có thể biết được tại sao bà không bằng lòng chăng?
- Nếu ông tha thiết lắm thì tôi xin trả lời: Tại chênh lệch tuổi tác.
Trung úy thật tình cười lớn và nói:
- Thật vô ý nghĩa. Tôi lớn hơn bà có một năm. Tôi đã xem giấy tờ của bà. Có chênh lệch gì đâu nào? Trái lại là khác. Bà khéo vẽ chuyện!
- Ông lầm rồi!
- Bà nói chơi sao? Bà mấy tuổi?
- Nói chuyện khác đi ông.
- Không. Bà phải nói tuổi thật của bà trước đi.
- Không ai lại hỏi tuổi một người đàn bà bao giờ, nhứt là gặng đi gặng lại mãi như vầy! Song tôi có thể nói cho ông nghe. Tôi được chín trăm sáu mươi chín tuổi. Và ông nên nhớ, về phương diện tuổi tác, đàn bà thường hay nói ít hơn số tuổi của họ có thệt sự. Đúng ra, tôi còn già hơn nữa.
Trung úy Lewis cười ngất rồi nói:
- Phải đấy. Thưa bà Bành Tổ!
Nhưng Nora West không cười. Trung úy tưởng nàng sắp ưng thuận, song nàng quả quyết lặp lại tiếng “không”. Nàng nói:
- Ông Lewis đừng giận, tôi không thể nào ở chung một nhà với ông được hai mươi bốn giờ.
- Tại sao?
- Tôi đã nói vì chênh lệch tuổi tác. Ông là một thanh niên hiền hậu, dễ thương và ích kỷ, nói tóm lại, như tất cả thanh niên Mỹ. Còn tôi, tôi lại là người đàn bà ở một thế giới khác.
- Tôi không hiểu.
- Tôi biết ông không hiểu, nên mới không giải thích. Tôi có, với tôi, cả ngàn năm kinh nghiệm của giống nòi, đã hy sinh, đau khổ, một ngàn năm đào luyện cho tôi trở thành như ngày nay. Còn ông, ông chỉ có cái hiện tại và tương lai. Và có lẽ tương lai. Tôi thêm tiếng: “Có lẽ” không phải vì tôi nghi ngờ, nhưng vì chưa ai chắc chắn nơi tương lai được cả.
- Thật là ngụy biện!
- Thì ông nghe tôi đây, ông Lewis. Sau khi nghe được lời tỏ tình văn hoa của Pétrarque, Goethe, Lord Byron, Pouchkine, sau khi nghe lời nói yêu đương của Traian, sau khi nghe tiếng hát ca tụng tình ái của những chàng thi sĩ thời xưa nước Pháp, và khi thấy họ quỳ gối cầu khẩn dưới chân tôi, như với một bà hoàng, sau khi thấy vua chúa, mấy chàng hiệp sĩ chết vì tôi, sau khi nói chuyện tình ái với Valéry, Rilke, D’ Annunzio, Eliot, làm sao tôi có thể coi nghiêm trang được lời xin cưới tôi, mà ông thốt ra như tạt vào mặt tôi, cùng một lúc với làn khói thuốc nơi miệng ông?
- Vậy muốn hỏi cưới một người đàn bà thì phải là Goethe, Lord Byron hoặc Pétrarque sao?
- Không phải vậy, cũng không đợi phải là Rilke hoặc Pouchkine mới hỏi cưới một người đàn bà. Song muốn kết hôn với một người nào, điều cần nhứt là phải yêu họ.
- Mà chúng ta đã hoàn toàn đồng ý về điểm này rồi. Ai nói với bà là tôi không yêu bà?
Nora mỉm cười:
- Yêu đương là một tình yêu say mê. Ông có nghe nói đến, hoặc ít nữa, cũng đã đọc thấy ở đâu rồi chăng?
- Phải. Tôi cũng hoàn toàn đồng ý. Yêu đương là một tình say mê.
- “Nhưng ông tuyệt nhiên chẳng thể nào cảm thấy say mê. Và không phải một mình ông. Không một người đàn ông nào của Xã hội Văn minh ông có thể có được mối tình say mê cả.
“Ái tình là mối tình cao quý nhứt, chỉ có được trong một Xã hội, mà mỗi người được kính trọng, mỗi cá nhân được xem là độc nhứt, không thể thay thế. Xã hội của ông lại cho con người đều có thể thay thế được dễ dàng. Ông không cho mỗi cá nhân, mỗi người đàn bà nào mà ông yêu là một con người duy nhứt do tạo hóa tạo nên đâu? Ở xã hội các ông, mỗi người được tạo ra từng loại hạng. Dưới mắt ông, người đàn bà này như người đàn bà kia, đều như nhau cả.
“Với quan niệm đó, ông không thật tình yêu đương được. Những tình nhân của Xã hội chúng tôi biết rằng nếu họ không chiếm được quả tim của người đàn bà họ yêu quý, thì họ không thể nào yêu người khác được. Vì thế, lắm khi họ tự tử vì người yêu. Tình yêu của họ bị từ chối thì không thể thay thế bằng mối tình của người khác. Người đàn ông nào yêu tôi thật tình phải cho tôi có cảm tưởng rằng tôi là người đàn bà duy nhứt đem hạnh phúc cho họ. Chỉ một mình tôi thôi. Họ phải chứng tỏ rằng tôi là người độc nhứt, không còn người thứ hai nào trên mặt đất này. Và tôi phải được xác nhận chuyện ấy. Một người đàn ông nào không làm cho tôi có cảm tưởng tôi là duy nhứt, không thể thay thế được, là không thật yêu tôi. Và một người đàn bà nào không được sự xác nhận của người mình yêu, chưa phải được yêu thật sự. Và nếu tôi không được một người đàn ông thật tình yêu tôi, thì tôi không kết hôn với người đó. Ông có chứng tỏ như thế được không, ông Lewis? Ông có thật tình tin chắc, đối với ông, tôi là một người đàn bà duy nhứt mà người đàn bà nào khác không thay thế được chăng? Ông có thật tình tin chắc, sau khi đã tìm kiếm kỹ lưỡng, ông không thể tìm ra người nào có thể thay thế tôi được chăng? Không! Ông tin chắc, nếu tôi từ chối, ông sẽ kiếm được người khác làm vợ ông, và nếu người ấy từ chối nữa, thì ông sẽ tìm được người thứ ba, có phải vậy không ông?”
- Phải. Bà nói đúng. Nhưng tôi tiếc bà đã từ chối tôi. Bà nên tin là lời nói danh dự của tôi. Tôi vẫn tiếc mãi.
- Thôi! Tốt hơn ta lo tiếp tục làm việc đi ông!
Nàng mở hồ sơ ra và nói:
- Trong trại giam ai cũng xin đăng tên, luôn cả con nít, đàn bà và ông già nữa. Họ đều xin tình nguyện. Họ đều muốn chiến đấu bên cạnh ta.
Nàng mỉm cười. Nàng nhớ đến hàng ngàn công dân ngoại quốc đang ở miền Tây Âu. Tất cả đều xa lánh sự tàn bạo của quân Nga, chạy trốn bên phía Mỹ, Anh hoặc Pháp. Họ cũng không nghĩ chạy đi hướng nào. Họ chỉ biết trốn quân Nga, trốn sự tàn bạo dã man, tránh khủng bố, cảnh giết chóc, tra tấn. Họ nhắm hướng nào không có quân Nga nữa và họ nhắm mắy chạy về hướng ấy. Họ chỉ viết chẳng nên quay gót trở lại. Sau lưng họ toàn là đêm tối, đẫm máu. Sau lưng họ, là khủng bố, chém giết. Họ ôm chằm lấy vùng đất này, nơi không còn bóng quân Nga nữa. Họ quỳ gối ôm chằm lấy vùng đất đã bao dung họ và gọi là lãnh thổ của hứa hẹn, của hy vọng. Họ ôm chằm lấy nó, không cần xem là ở nơi nào, cũng không cần biết nó sẽ ra sao.
Hễ là đất không có quân Nga là được, không kể dân nước nào ở hoặc chiếm đóng.
Họ không muốn thấy người Nga nữa.
Người Mỹ bắt giam họ, nhưng họ không oán giậin, vẫn yên lòng ở nơi vùng đầy hứa hẹn. Họ chẳng đòi hỏi gì hơn là thoát được khỏi móng vuốt của quân Nga. Và khi họ đã thoát được, kiếp sống của họ có ra sao đi nữa, họ cũng không cần. Vì thế, họ không giận khi quân Mỹ bắt họ. Dầu người Mỹ có giết họ, họ cũng không phản kháng. Và bây giờ trận giặc thứ ba vừa mới khai hấn. Dân tị nạn đã mệt mỏi, đói khát, và bị giam cầm.
Họ muốn có lương thực, được nghỉ ngơi, có công việc làm và sống tự do. Họ không phản đối chẳng được mấy nhu cầu kể trê, vì họ được xa lánh quân Nga là điều cần thiết nhứt cho họ rồi.
Người Mỹ hứa trả tự do cho ai tình nguyện nhập ngũ vào đạo binh Tây phương, nên tất cả đàn ông đều xin tình nguyện. Chẳng phải để đi đánh giặc, mà để khỏi bị nhốt, bị chết đói.
Trung úy Lewis nói:
- Họ hoan nghinh nhiệt liệt! Chính nghĩa của trận giặc Tây Ấu chống dã man Đông Âu được toàn thể giới này chấp nhận. Ai ai cũng đều nhận định giờ quyết liệt đã đến cho họ, hoặc chết hoặc thắng trận. Trận giặc duy nhứt của Lịch sử! Tây Âu văn minh chống với Đông Âu dã man. Thật là trận thế giới chiến tranh. Trận thế giới chiến tranh đầu tiên trong Lịch sử nhân loại!
Trung úy xoa tay nói:
- Thật là hạnh phúc và danh dự được tham gia trận giặc này. Phần thắng chắc về ta rồi. Tất cả thế giới được văn minh hóa. Chẳng còn chiến tranh nữa; từ rày về sau, chỉ còn là tiến bộ, thạnh vượng và tiện nghi an lạc thôi!
Nora mỉm cười. Trung úy hỏi:
- Hình như bà không hoan nghinh? Tôi thấy bà không hăng hái tán thành chính nghĩa của Tây phương. Bộ bà có cảm tình với cộng sản sao? Bà là người duy nhứt còn dè dặt. Người duy nhứt không hoan nghinh!
- Không ai hoan nghinh cả. Chỉ có ông thấy họ hoan nghinh thôi!
- Mấy người tình nguyện kia không phải hoàn toàn chống cộng sao?
- Phải, chống cộng, nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi, nghĩa là họ muốn sống tự do, muốn không còn cảm thấy không khí khủng bố, muốn không còn bị tàn sát, đói rét, tù đày, đánh khảo nữa. Nhưng họ không phải vì chính trị, họ chỉ lẩn trốn trước cảnh giết chóc, khủng bố và nô lệ mà thôi.
- Bà còn muốn gì nữa? Như thế nghĩa là họ hoàn toàn hoan nghinh chính nghĩa của Tây phương rồi, nên họ mới tình nguyện đăng tên, vì chúng ta chiến đấu để đem lại cho họ tự do, yên ổn, sự che chở và nền dân chủ!
- Ông đừng để bị say sưa về những danh từ, ông Lewis à! Chiến tranh mà ông cho là trận giặc thế giới thứ ba này không phải là trận giặc Tây Âu chống với Đông Âu. Và thật ra không phải là trận giặc, dẫu rằng trận tuyến chạy dài khắp thế giới, từ Tây sang Đông. Trận giặc này chỉ là một cuộc cách mạng nội bộ trong khuôn khổ của Xã hội kỹ thuật Tây phương mà thôi; một cách mạng nội bộ riêng cho Tây phương!
- Nhưng ta chống Đông Âu, chống cả vùng Âu châu miền Đông!
- Ông nói sai rồi! Tây phương các ông xung đột với một ngành vủa nên Văn minh các ông thôi!
- Chúng tôi chiến tranh với nước Nga.
- Nước Nga, sau cuộc cách mạng cộng sản, đã trở thành một ngành tân tiến nhứt của nền Văn minh kỹ thuật Tây phương. Nước Nga mượn tất cả lý thuyết của Tây phương và chỉ đem thực hành mà thôi. Nước Nga đã tiết giảm con người xuống con số không, như đã học của Tây phương. Nó đã biến cải Xã hội thành một bộ máy khổng lồ, như đã học của Tây phương. Chỉ có nước Nga mới bắt chước Tây phương được, như một giống dân dã man mọi rợ mới có thể làm. Trong Xã hội Cộng sản, những chuyện hoàn toàn do quân Nga đem đến là sự cuồng tín và dã man. Chỉ có thế thôi. Ở Nga-sô trừ đặc tính khát máu và cuồng tín ra, tất cả đều do nơi Tây phương hết. Và các ông chỉ chống phương diện ấy của nền Văn minh Tây phương, chống ngành Cộng sản của Xã hội kỹ thuật Tây phương mà thôi. Và vì thế, trận thế giới chiến tranh thứ ba này chỉ có thể là một cuộc cách mạng nội bộ, nó đã bùng nổ và tiếp tục diễn tiến chính ngay trong Xã hội kỹ thuật Tây phương. Nhóm Đại Tây dương và Âu châu của Xã hội Tây phương chống với nhóm Cộng sản Tây phương. Đây là một cuộc tranh chấp nội bộ giữa hai phái, hai giai cấp trong một xã hội, hoặc nếu ông muốn, một cuộc cách mạng giai cấp, y như cuộc cách mạng giai cấp trung sản năm 1848. Đông phương không dự vào cuộc cách mạng nội bộ Tây phương. Trừ Xã hội Tây phương, không ai dự vào cuộc cách mạng này cả. Và ông Lewis à, một khi cuộc cách mạng ấy hoàn toàn đặc biệt Tây phương thì nó không phải để phục vụ cho con người. Vì Xã hội Tây phương không có con người.
- Tôi không hiểu!
- “Dễ hiểu lắm! Quyền lợi của Xã hội Tây phương không phải là của con người, mà ngược lại. Trong Xã hội kỹ thuật Tây phương, con người sống như mấy giáo đồ đầu tiên thuở xưa ở trong hầm mộ, trong khám đường, ngục tối, ngoài lề xã hội. Họ trốn tránh lẩn lút, không được phép ra giữa công chúng. Họ không được phép giữ chức vụ hành chánh, bất kỳ ở đâu, và nhứt là trong văn phòng, vì Xã hội văn minh các ông đã thay thế bàn thờ bằng văn phòng.
“Người mà còn thật con người phải trốn lánh, bằng không thì sẽ bị bắt buộc phải hành động theo luật lệ kỹ thuật, theo luật lệ của máy móc.
“Con người bị giảm còn một khuôn khổ xã hội và bị biến thành “Công dân”, nghĩa là không phải là con người nữa.
“Xã hội kỹ thuật không biết đến con người, chỉ biết họ dưới hình thức công dân mà thôi.
“Mà một khi không biết đến họ thì làm sao có cuộc cách mạng vì họ được?
“Vì tính cách đặc biệt Tây phương, nên cuộc cách mạng hiện tại xa hẳn với quyền lợi của con người về phương tiện cá nhân.
“Con người từ lâu đã trở thành một thiểu số vô sản trong Xã hội Tây phương các ông, nên dầu có phe nào thắng trận đi nữa, thì con người vẫn là phần tử vô sản trong khung cảnh của Xã hội.
“Trận giặc hiện tại là một cuộc xung đột giữa hai hạng “Người máy”, kéo theo sau chúng, những nô lệ sinh hoạt, những người nô lệ sống bằng xương bằng thịt.
“Con người ngày nay không thể kể như có tham gia vào chiến tranh đang xảy ra, cũng giống như các người nô lệ chèo chiến thuyền La Mã thời xưa, ta không thể kể họ đã dự vào chiến tranh Đế quốc La Mã được. Họ chỉ làm công việc mang xiềng xích của trận giặc, mà mắc bị xiềng thì làm sao đánh giặc được?”.
- Tù nhân ở trại giam đến xin đăng tên tình nguyện không phải tự ý họ hay sao? Bà quả quyết liều lĩnh quá! Tôi không phải hăm dọa bà, nhưng tôi cực lực phản đối bà. Mỗi người tình nguyện đến đây đều do họ muốn cả. Bà có dám chắc rằng chúng tôi ép buộc một người nào trong đám này làm chuyện ấy không? Bà đã chứng kiến nhiều lần cảnh thất vọng của những kẻ mà chúng tôi bắt buộc phải từ chối. Họ hăm dọa sẽ tự tử nếu không được đăng tên. Vậy không phải là tự ý họ sao? Vậy không phải là họ hoan nghinh à? Họ còn cuồng tín hơn chúng tôi nữa. Họ coi như bị hình phạt nặng nề, khi chúng tôi từ chối không thâu đơn họ. Có phải vậy không bà West?
- Con người không còn lối thoát nạn nào nữa. Họ như bị nhốt trong xà-lim khám đường, tư bề lửa cháy, và chỉ còn có một cửa ra được. Cửa ấy, là xin tình nguyện nhập ngũ. Cửa ấy, là những đơn trạng ta tiếp được mỗi ngày tại văn phòng này. Mỗi lá đơn là một tiếng kêu van tuyệt vọng để được tới ngõ ra còn lại cho họ. Tất cả đều gởi đơn, không phải chỉ để riêng dân Đông Âu tị nạn, mà tất cả Âu châu toàn diện.
- Không đúng! Đơn ấy đâu phải là lối duy nhứt thoát ra khỏi biển lửa. Họ còn có thể qua bên Nga, tại sao họ không chịu đi và tại sao họ đến với chúng tôi?
- Không! Chỉ đường cho họ sang Nga, tức là bảo họ nhào vô vách tường cháy đỏ. Và nhảy qua khỏi vách tường đó thì lại sa vào căn phòng lửa phát cháy. Ở trên bức tường đó, họ chỉ có thể nhảy vào ngọn lửa và vào cõi chết mà thôi. Và không một người nào muốn nhảy vào đống lửa, khi còn thấy một cửa ra. Cửa đó, là chúng ta. Họ xin chạy thoát, nhưng không tìm xem cửa ấy sẽ đi đến đâu. Họ không quan tâm đến. Họ phải chạy vì ngộp thở. Thà chạy ra cửa hơn ở trên vách lửa cháy. Mà dầu biết qua khỏi ngưỡng cửa cũng còn gặp lửa nữa, họ vẫn chạy ra cửa, vì ít nhứt họ cũng tránh được khỏi bị cháy một lúc. Họ cố giữ một hy vọng, một ảo vọng, như thế còn hơn là không. Một ảo vọng, tuy có vô lý, cũng quan trọng lắm chớ!
- Bà xem tất cả với một khía cạnh bi đát. Các người tình nguyện có nghĩ như bà đâu? Đơn họ được chấp nhận là họ mừng rỡ. Họ liều thân chiến đấu cho chính nghĩa của chúng ta mà cũng là của họ nữa. Họ sẽ là những quân nhân ưu tú nhứt của chúng ta đó! Bà mở cửa ra và nhìn xem họ tranh nhau chờ trước phòng văn thì biết.
Có cả trăm, cả ngàn người xin tình nguyện. Tất cả đều hăm hở chiến đấu vì đại nghĩa của nền Văn minh. Tất cả đều muốn xả thân cho cuộc Đại thắng ngày mai.
- Không. Họ không tin tưởng nơi trận giặc này. Có thể họ không nghĩ giống như tôi. Họ đau khổ quá nhiều. Họ không muốn nghĩ ngợi thêm, song họ cũng cảm thông, cũng đau đớn, cũng thất vọng như tôi. Giống y như tôi. Tất cả Âu châu cũng cảm nghĩ như tôi.
- Thôi để cho việc thực tế trả lời, bà West ạ! Tôi sẽ chứng minh cho bà thấy cách họ hân hoan xin đăng tên tình nguyện. Tôi sẽ lấy một ví dụ, lựa đại trong đám đông này.
Trung úy Lewis đứng dậy, mở rộng cửa, chỉ đám đông người chờ chực ở trước, nói với Nora:
- Bà xe, hôm nay cũng có hơn năm trăm người chờ đợi. Thử kêu người đứng đầu xem.
Trung úy cho người đứng đầu vô phòng văn. Người đàn ông không đi một mình, mà có cả vợ và ba con. Y đứng tuổi, tóc đen, hơi hoa râm hai bên màng tang, má thỏn, cặp mắt to và đen, nhưng buồn và đẹp.
Nora ngó đôi mắt người này, rồi nói thầm: “Nỗi buồn tự nơi tâm hồn cao cả của y”.
Người đàn ông đứng trước mặt nàng là một người thợ, nhưng đôi mắt lộ vẻ thông minh, có tinh thần.
Thứ tinh thần của một tâm hồn cao cả. Nỗi buồn không phải riêng về thân xác, mà nhứt là về tinh thần.
Thiếu phụ đứng bên, mặc cái áo xanh, hơi rộng. Tóc hung hung vàng đã điểm sương. Nàng còn đẹp lắm. Đẹp chẳng những về hình vóc dáng điệu mà vẻ anh hoa rực rỡ phát tiết lên khắp làn da.
Nora muốn cười với nàng, như một người chị em, song nàng cúi mặt xuống. Xem nàng buồn và sợ sệt.
Đứa con trai lớn có đôi mắt đen, giống mắt cha nó, nhưng không buồn, mà láo liên, táo bạo, tò mò nhìn Nora.
Đứa kia ngó xuống, lơ đãng, như suy nghĩ chuyện gì. Nó trắng hồng.
Đứa nhỏ hết, độ bốn tuổi, tóc quăn, mắt xanh. Nora không biết nó là gái hay trai. Nhưng nó đẹp như một thiên thần.
Trung úy nói với Nora:
- Đây là một gia đình muốn tình nguyện. Bà hỏi họ coi có nghĩ như bà hay không? Bà sẽ thấy không phải vì tuyệt vọng mà họ đến đây đâu. Họ đến vì khao khát tự do và công bình. Họ xin nhập ngũ vì họ muốn chiến đấu cho Hòa bình và Văn minh. Họ có ý thức lắm. Cứ hỏi họ những gì bà muốn biết, rồi bà xem!
- Không cần thiết. Tôi không tìm thấy họ cảm nghĩ gì trong tâm khảm. Nỗi khổ tâm của tôi cũng đủ rồi. Xin đừng bắt buộc tôi gợi chuyện đau lòng của kẻ khác. Ông cứ hỏi han họ như thường lệ. Tôi không chú tâm đến.
- Tôi yêu cầu bà hỏi những gì mà muốn hỏi. Chắc chắn bà sẽ đổi ý kiến.
- Cũng được!
Câu chót của Trung úy như một lịnh truyền. Nora ngó người đàn ông đang cầm nón, đứng trước cửa. Cặp mắt anh ngó lên, nàng hỏi:
- Anh tên gì?
- Iohann Moritz. Tôi xin tình nguyện với tất cả gia đình tôi. Xin bà chấp nhận cho. Tôi cầu xin chuẩn miễn vì tuổi tôi quá hạn như đã định trên bảnh yết thị. Nhưng tôi thấy tôi còn khỏe mạnh. Mấy đứa con tôi lại trẻ quá chưa đủ tuổi nhập ngũ, song chúng nó ngay thật và siêng năng. Chúng tôi chống cộng, như đã yết trên bảng. Chúng tôi tin tưởng nơi sự thắng trận của nền Văn minh, như yết thị đã rao. Song chúng tôi không đủ điều kiện tuổi như đã định trên bảng yết thị. Vì vậy chúng tôi xin bà cho chúng tôi được chuẩn miễn. Nếu bà không chịu nhận chúng tôi, chúng tôi sẽ chết mất. Chúng tôi không thể chịu đựng được nữa.
Thằng con trai lớn, có cặp mắt đen, nắm cùi chỏ ba nó, ra hiệu. Nó muốn nhắc ba nó đã nói nhiều quá.
Moritz làm thinh, đỏ mặt. Anh tự hối, phải chi đừng nói câu sau cùng.
Anh đã vụng về. Và có thể vì đó mà người ta không thâu nhận anh. Anh liền tiếp:
- Tôi thiết tha cầu khẩn bà cho chúng tôi được ghi tên. Chúng tôi làm lụng siêng năng và tính tình ngay thẳng lắm.
Thằng Petre có dặn anh nói nhiều chuyện khác nữa, nhưng anh không muốn. Anh không có lòng nào nói được là anh tin tưởng nơi Văn minh, nơi Tây phương, và chi chi nữa. Anh không thể nói mấy chuyện ấy. Miệng anh không thốt nên lời. Lúc ra về, thế nào anh cũng bị thằng Petre giận hờn, nặng nhẹ với anh. Anh đưa cặp mắt van lờn ngó thiếu phụ, tóc hung hung đỏ, ngồi ở bàn viết, và thấy nàng cũng ngó anh.
Cả phòng im lặng.
Thiếu phụ có đôi mắt long lanh, cái nhìn ấm áp, hiền hậu.
Vợ và con Moritz cũng đưa mắt ngó nàng, chờ đợi. Nhưng nàng vẫn ngồi im, nhìn họ.
Trung úy Lewis ra khỏi phòng. Thiếu phụ lặng im một hồi, ngó người đàn ông đứng trước mặt, rồi hỏi:
- Anh biết Traian Koruga không?
Moritz giựt mình, đáp:
- Chúng tôi ở chung với nhau.
Anh không muốn nói ở chung một trại giam. Thằng Petre có dặn kỹ ở nhà rồi.
- Chúng tôi ở chung nhau cho tới ngày chót. Với ông Traian và mục sư Koruga. Tôi ở kề bên ông ấy đến lúc tai nạn…
Ngừng một lát, Moritz nói thêm:
- Thật là một người hoàn toàn tốt mà tôi được biết. Như một ông thánh sống vậy. Bà cũng biết ông Traian nữa sao?
- Tôi là vợ Traian.
Moritz tái mặt, đứng dựa vào cửa. Anh muốn lấy khăn tay trong túi, nhưng không có khăn, lại đụng một vật cứng bằng thủy tinh, cặp mắt kiếng của Traian.
Hồi sớm mai này, anh lấy nó ra để làm cái bao da, sợ để trong rương cấn bể.
Anh cầm cặp kiếng trong tay giây lát, rồi suy nghĩ, thấy không cần làm bao da làm chi, vì anh không cất trong va-li nữa.
Anh để cặp kiếng trên bàn, trước mặt Nora, nói:
- Đây là cặp kiếng của ông Traian.
Moritz nghẹn ngào, giọng khàn khàn. Anh tằng hắng lấy giọng, nói tiếp:
- Ông đưa cho tôi, trước khi chết, dặn tôi kiếm bà trao lại. Ông đưa cho tôi vừa đúng trước khi ông…
Tiếng Moritz run run, không nói thêm được lời nào. Anh vội móc khăn tay, nhưng chỉ được có miếng da để làm bao kiếng. Anh cầm lên, không biết để làm gì. Nhưng cũng phải làm một cử động gì, anh bèn để miếng da trên bàn, gần cặp kiếng, rồi nói:
- Tôi muốn làm cái bao kiếng, cho khỏi bể gãy. Trong trại, tôi sẽ có thì giờ làm. Bà sẽ cất kiếng trong bao da, kỹ lưỡng hơn; nó sẽ không thể nào bể gãy được.
Trung úy Lewis trở vô phòng văn, hỏi:
- Thế nào? Bây giờ bà có nhìn nhận họ thật lòng tình nguyện và sốt sắng nhập ngũ hay chưa?
Cổ họng Nora nghẹn ngào. Nàng tằng hắng, rồi trả lời quả quyết:
- Đúng vậy. Bây giờ tôi hoàn toàn công nhận ông có lý. Mấy người này đều khẩn khoản xin cho họ được chuẩn miễn về tuổi tác. Họ đều muốn xin đăng tên nhập ngũ cả gia đình.
Trung úy Lewis thích chí, cười đáp:
- Bà cứ cho họ được miễn tuổi, và làm giấy tờ cho họ đi. Tôi lo chụp tấm ảnh tất cả gia đình này để đăng báo.
Trung úy bước lại gần đứa nhỏ hơn hết, vuốt tóc nó, rồi hỏi Suzanna:
- Đứa nhỏ này chũng chống Nga nữa phải không?
Suzanna cúi đầu, nhưng nghĩ phải trả lời một câu, nên đáp nho nhỏ:
- Thưa phải, nó cũng chống quân Nga!
Nàng sợ Moritz nghe. Nhưng anh đã nghe. Nàng hối hận.
Nora điền vào mẫu đơn nhập ngũ, rồi nói với Moritz:
- Chiều nay anh lại chỗ tôi ở. Tôi cũng ở trong trại. Chúng ta uống trà và nói chuyện thong thả yên tịnh hơn. Anh sẽ thuật cho tôi nghe những gì anh biết về Traian.
Mắt Nora mờ lệ.
- Bây giờ anh trả lời câu hỏi của tôi để tôi ghi cho đủ trong sổ. Từ năm 1938 đến nay, anh ở đâu? Anh cứ nói thật hết đi, đừng sợ. Đơn anh sẽ được chấp thuận.
Thằng lớn hơn hết mỉm cười, sung sướng, thấy việc đã thành.
Đứa bé cũng vui vẻ ăn kẹo của Trung úy cho, cười đưa hai hàm răng trắng nõn.
Suzanna thì cúi gằm mặt xuống.
Trung úy Lewis sửa soạn máy ảnh để chụp hình gia đình Moritz, trong lúc anh đứng biên thể thức nhập ngũ. Ông muốn tất cả đều phải có bằng chứng xác thật.
Moritz nói:
- Từ năm 1938, tôi ở trại giam Do thái xứ Roumanie. Năm 1940, ở trại giam dân Roumain xứ Hongrois. Năm 1945, trong trại giam của Mỹ. Tôi vừa được thả khỏi trại giam Dachau hôm kia. Mười ba năm trong trại giam. Tôi mới được tự do có mười tám giờ. Kế bị dẫn tới đây…
Trung úy Lewis xây máy ảnh về phía Moritz và gia đình anh, kêu to lên:
- Cười đi!
Moritz ngó Nora, và nghĩ đến cả trăm ngàn thước dây kẽm gai mà anh đã thấy.
Anh tưởng như bao nhiêu cuồng kẽm đó quấn chung quanh mình anh.
Anh không ngó lên, khi Trung úy Lewis nói với anh. Anh không hiểu tiếng Anh.
Anh nói tiếp:
- Đó là tất cả những gì xảy ra cho tôi, từ năm 1938 đến ngày nay. Toàn là trại giam, trại giam. Trong mười ba năm ròng rã, tôi chỉ ở trong trại giam.
Trung úy Lewis kêu lên:
- Cười đi!
Moritz biết rằng những lời ấy nói với anh, nên hỏi Nora:
- Người Mỹ đó nói gì?
- Nó ra lịnh bảo anh cười!
Moritz ngó cặp mắt kiếng Traian trên bàn. Anh có cảm giác thấy Traian té chết gần hàng rào kẽm gai. Anh nhớ đến mấy cây số ngàn dây kẽm gai rào quanh các trại giam. Anh nhớ đến đôi chân bị cưa của mục sư Koruga. Anh nhớ đến những gì đã xảy ra từ mười ba năm trong các trại.
Anh ngó Suzanna, ngó thằng con nhỏ, rồi mặt anh xạm lại. Hai hàng nước mắt tuôn trào. Bây giờ, người ta ra lịnh cho anh cười, làm sao anh cười được. Anh thấy sắp khóc to lên như đàn bà. Khóc vì tuyệt vọng. Thế là hết. Anh không thể đi xa hơn nữa. Không người nào có thể đi xa hơn nữa!
Viên sĩ quan ngó chăm chỉ Moritz ra lịnh:
- Cười đi! Cười, cười, cười đi!


- HẾT –

Bản đánh máy thực hiện tại Biên Hòa bởi Lê thị Thanh Nguyệt, tháng 8/2008

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...