. .

Tuesday, January 29, 2019

Chứng Tích bên phía CSBV

collected by Le Tung Chau
ngày khởi đăng Jun. 9, 2024



$pageIn Phân đoạn 1:
Ngày đăng: Jun. 9, 2024

Bạn đọc thân mến,

Đại đa số người mình đều bị tình tự mất nước - thảm kịch tháng Tư đen 1975 - chi phối quá nặng, do đó phần lớn thường chỉ bày tỏ sự tiếc nuối miền Nam Tự do đã mất khi bị Cộng sản Bắc Việt [CSBV] cướp vào Apr. 30, 1975, hoặc thậm chí bực tức đổ thừa vung vít tai họa đó cho các giới hữu trách VNCH, mà quên rằng mỗi người dân Nam đều ít nhiều có trách nhiệm trong thảm kịch mất nước.

Thêm nữa, ta phải cần bình tĩnh nhìn lại phía bên kia - tức Bắc Việt,
- a/ Thời Chiến: để khảo xét xem tương quan tình thế giữa 2 miền về mọi mặt, xét xem đất nước, xã hội, con người ngoài Bắc đã diễn ra những gì, như thế nào trong hai mươi năm chiến tranh (như Tự do hay Nô lệ, sung túc hay thiếu đói, văn minh hay lạc hậu v.v...) mà điều này, phần lớn, rất lớn nếu không nói là gần 100% người dân Nam đương thời đều không biết nội tình bên phía CSBV, hoặc biết nhầm - rất nhầm, vô cùng tai hại.
-b/ Hậu chiến: đây là lúc ta càng phải quan sát, ghi nhận để biết rõ khi cướp được miền Nam rồi, thì CSBV làm tiếp, làm được những gì??? Có phải cộng sản đem lại tự do, no ấm, vốn là điều mà chính phủ VNCH lấy làm kim chỉ nam hay không, hay cộng sản chỉ đem lại nghèo đói, lạc hậu, hận thù, tù tội, cướp đoạt, đàn áp, độc tài đảng trị, kinh tế mù lòa ... khiến đất nước tiến sát bờ vực phá sản tan hoang chỉ sau black April chưa tới 10 năm? khiến dân chúng ngao ngán bỏ xứ tìm đường vượt biên 9 phần chết 1 phần sống trên biển cả? khiến đất nước đi vào ngõ cụt từ vật chất đến tinh thần vô phương cứu vãn? Nghĩa là cuộc chiến tranh mà CSBV đứng ra xung phong làm đầu têu cho cộng sản quốc tế rốt cuộc đã hiện nguyên hình là cuộc chiến phi nhân, vô nghĩa, tương tàn mà VNCH đã từng cảnh giác quốc dân lẫn quốc tế biết bao nhiêu lần trước black April là đúng sự thật!
Không kể chi người miền Bắc đại đa số bị bạo quyền CSBV đàn áp và bưng bít hoàn toàn cho nên dẫu chính họ đang ở trong thảm cảnh đui điếc mù lòa về cuộc chiến mà tập đoàn máu Bắc Bộ phủ làm đầu têu, thế nhưng họ cũng chỉ biết rất là ít về thân phận của chính họ, và càng vô cùng mù lòa về những gì xảy ra ở miền Nam cũng như những gì xảy diễn bên ngoài lãnh địa CSBV nói chung!

Còn người miền Nam chúng ta, có diễm phúc hơn họ, được sinh ra và lớn lên trong đất nước Việt Nam Cộng Hòa với nền tảng Tự do - Dân chủ - Tam Quyền Phân Lập, thế thì chúng ta đâu có khó gì để hiểu rõ, biết rõ nội tình Bắc Việt nói chung, hay tâm tư tình cảm nói riêng của từng cán binh cộng sản trong các binh đoàn CSBV bị đưa vào Nam để chịu chết thay - Sinh Bắc Tử Nam - cho mộng nhuộm đỏ Đông Dương của Nga - Tàu đang làm trùm băng đảng Cộng sản quốc tế [ năm 1972 tại Hanoi, trong một cuộc họp, tên đồ tể Lê Duẩn nói: Chúng ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung quốc (trích Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày, Tiếng Quê Hương xb, USA 1987) ]... trừ phi chúng ta ươn lười và thiểu trí.

Trong ý niệm đó, tôi bỏ công sưu lục và kết tập về Post này tất cả những gì khả dĩ phơi bày thực trạng miền Bắc thời cả chiến lẫn hậu chiến, từ những tin tức, tường trình của báo chí và ký giả phương Tây, hay của các nhân vật ngoại quốc có tiếng tăm và uy tín và am hiểu chính đính về cuộc chiến Quốc Cộng tại Việt Nam như Sir Robert Thompson (chuyên viên người Anh quốc về Chống Chiến tranh Du Kích và Dấy Loạn, từng làm Phụ tá cho nhiều đời Tổng Thống Mỹ kể từ thời Kennedy) hay nữ ký giả kỳ cựu người Ý Đại Lợi Oriana Fallaci (từng ra thăm Hanoi năm 1969) ... viết về Bắc Việt trong thời chiến, cho đến các trần thuật sau chiến tranh của vài ba người Bắc Việt thời chiến, nơi các lá thư trong túi áo của cán binh CSBV chết trận khi xâm lăng miền Nam được đăng trên các số nhựt báo miền Nam như Tiền Tuyến, Chính Luận, Hòa Bình, hay cả những tường thuật của vài nhân vật Bắc Việt may mắn sống sót, đôi chục năm sau black April, họ chợt tỉnh và thuật lại trung thực ...

Với nguồn dữ kiện tai mắt đó, có giá trị như thêm mắt thêm tai, thêm một đầu mối khác nữa cho chúng ta có thể khách quan nhận chân đâu là chánh-tà, thật-láo, từ đó ta sẽ thấy được bản tánh tàn ác phi nhân của tà quyền Cộng sản Hanoi, chỉ vì chúng đưa thân làm kiếp tôi đòi cho thế lực cộng sản quốc tế Nga Tàu mà đang tâm chà đạp quê Mẹ và đồng bào, kéo dài thảm cảnh huynh đệ tương tàn cả một chuỗi dài dằng dặc tám chục năm chưa dứt, kéo lê bao tàn phá và oan khốc trên giải đất quê hương Việt Nam hình chữ S này.

Đây là cố gắng của một cá nhân nên không thể nào đầy đủ được cho một công trình như thế, tuy nhiên, mong sao đóng góp này khả dĩ giúp thêm một tay tô rõ sự thật lịch sử Quốc - Cộng của nước mình, đồng thời góp phần đập tan những luận điệu lấp liếm, dối láo, lường gạt, xảo trá, vu vạ, bẻ cong thành thẳng, bôi trắng thành đen của tập đoàn máu Cộng sản Ba Đình. Khi ánh sáng bừng lên thì bóng tối phải bị tiêu ma!

Le Tung Chau
Jun. 9, 2024


$pageOut $pageIn Phân đoạn 2:
Ngày đăng: Jun. 10, 2024

Miền Bắc Dưới Mắt Nữ Ký Giả Ý Oriana Fallaci

Bài gốc của Ký giả Oriana Fallaci đăng trên Tạp chí L'Europeo của Ý Đại Lợi từ số 13 đến số 16 (trải qua 2 tháng 3 và tháng 4) năm 1969. Bản dịch của Cô Long Thành, do nhựt báo Hòa Bình khởi đăng nhiều kỳ trên trang hai kể từ số ra ngày May 3, 1969, cho đến số Jun. 6, 1969 là kết thúc - retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024

Oriana Fallaci, Milan, 1958|© ​Giancolombo/Writer Pictures;

Le Tung Chau ghi chú:

- Oriana Fallaci [1929 – 2006, người Ý Đại Lợi] là 1 female author/writer nổi tiếng, đã xê dịch rất nhiều nơi từ Âu sang Á, chuyên phỏng vấn các nhân vật quan trọng, nguyên thủ quốc gia, và thực hiện các bài phóng sự [non-fiction]. Bà Fallaci là một cây bút năng động đa dạng hơn là 1 ký giả [Journalist] đơn thuần. Bà Fallaci có một sự nghiệp phải nói là đồ sộ chuyên về News –thời sự-, Chính trị Sử quan về cán cân quyền lực & ảnh hưởng quốc tế giữa các khối Tự do và Cộng sản, nhứt là thời Cold War và Vietnam War. Chúng ta sẽ nhận được giá trị của tên tuổi Oriana Fallaci qua thiên phóng sự này, ngoài kiến thức uyên bác cộng với tài diễn đạt, thì nổi trội nhứt vẫn là tâm trí của bà, sự trung thực, yêu nhân bản tính cùng với những suy tưởng thâm trầm, sâu rộng trước thực tế đời sống Lịch sử & Chính trị mà bà đã trải qua với tư cách chứng nhân. Bạn đọc cũng sẽ ghi nhận lối dịch thuật sang Việt ngữ tài tình của dịch giả Cô Long Thành trên nhựt báo Hòa Bình, đã cho ra một bản Việt dịch tuyệt hảo.

- L’Europeo Magazine là tờ Tuần báo của Ý Đại Lợi, thành lập vào Nov. 1945. Đến năm 1995 thì đình bản. Tục bản dưới dạng Tam Cá Nguyệt San trong 2 năm 2001, 2002. Đến năm 2003 thì thành Bán Nguyệt San cho đến năm 2007. Qua năm 2008 thì thành Nguyệt San và kéo đến năm 2013 thì đóng cửa.

Đây là những dòng nhật ký mười hai ngày sống trên Bắc Việt. Tôi đã tới đó lúc còn là tháng Hai, đi qua xứ Cao Miên cùng với phái đoàn phụ nữ Ý, thực không dễ gì mà tới Hà nội được. Chưa từng có một ký giả Ý nào thuộc nhóm độc lập đã có thể đặt chân lên Hà nội và người Bắc Việt cũng thừa biết rằng tôi đã vào ở Saigon ba lần, đã từng theo người Mỹ trong lúc chiến đấu, bận đồng phục của Mỹ, mang theo những giấy tờ của Mỹ. - Oriana Fallaci, May 1969
Oriana Fallaci
Cô là ký giả người Ý đầu tiên đặt chân tới Bắc Việt. - (trang bìa trước Tạp chí L'Europeo số 13, ra ngày Mar. 27, 1969) - collected & translated into Vietnamese by Le Tung Chau, Jun. 2024
Oriana Fallaci ở Bắc Việt.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một thiên phóng sự chưa từng có. Lần đầu tiên, một bài tường thuật trực tiếp của ký giả Ý Đại Lợi trên phần đất Việt Nam phía bên kia. - (trang trong Tạp chí L'Europeo số 13, ra ngày Mar. 27, 1969) - collected & translated into Vietnamese by Le Tung Chau, Jun. 2024
#Hòa Bình May 3, 1969 | Source: Cornell University, Ithaca, New York, US. | digitalized by Vo Phi Hung 2022 | collected and reformatted by Le Tung Chau Jun. 2024

Fallaci in North VietnamL’Europeo Magazine from No. 13, Mar. 27, 1969 to No. 16 Apr. 16, 1969
Miền Bắc Dưới Mắt Nữ Ký Giả Ý Fallaci
Translated into Vietnamese by Cô Long Thành, first post in #HoaBinh May 3, 1969; last post in #HoaBinh Jun 6, 1969
retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024



#HoaBinh May 3, 1969

Thiên Phóng sự này bắt đầu với một đoạn (trích) ký giả Fallaci phỏng vấn Võ Nguyên Giáp. Toàn văn bài phỏng vấn này nằm ở tập sách Interview With History của ký giả Oriana Fallaci, bản dịch (từ Ý ngữ) sang Anh ngữ của John Shepley, gồm 376 trang, do HOUGHTON MIFFLIN COMPANY BOSTON xuất bản năm 1976, từ trang 74 đến trang 87

- Thưa Đại tướng, xin phép hỏi Đại tướng về cuộc hội đàm Paris. Theo Đại tướng, Hòa bình có thể vãn hồi bằng hội đàm Paris hay bằng chiến thắng quân sự như chiến thắng Đại tướng đã đạt được tại Điện Biên Phủ?
- Điện Biên Phủ … Điện Biên Phủ. Sự kiện chúng tôi có mặt tại Paris chứng tỏ thiện chí của chúng tôi, và không thể nói rằng hội đàm Paris vô ích, bởi vì không riêng chúng tôi, mà còn cả MTGP cũng có mặt tại Paris. Thực ra, tại Paris cần phải chuyển đạt trên pham vi ngoại giao những điều xảy ra tại Việt Nam. Như bà biết, Paris là chuyện của các nhà ngoại giao. (Ông ta nói đúng như thế này: « Paris vous savez, madame. Paris c'est une chose pour les diplonates ». Và ông ta đã nói với giọng khinh khỉnh, dằn vặt, nhăn trán, và rồi lắc đầu. Có lẽ tôi đã làm cho ông chán ngấy cả đến danh từ Hội đàm Paris. Trái lại, tiếng Điện Biên Phủ ông nói với giọng đắc chí. Hình như ông ta khoái lặp lại tiếng đó.)
- thưa Đại tướng, có phải Đại tướng đang nói rằng, chiến tranh sẽ không được giải quyết tại Paris? Chiến tranh chỉ có thể giải quyết bằng quân sự thôi, chứ không bao giờ bằng ngoại giao sao? Điện Biên Phủ còn phải tới cho người Mỹ và sẽ tới chăng?
- Điện Biên Phủ, thưa bà, Điện Biên Phủ … Phải, lịch sử không bao giờ tái diễn. Nhưng một đôi lần, cũng tái diễn. Và cũng như chúng tôi đã đánh bại người Pháp bằng quân sự, chúng tôi cũng sẽ đánh bại người Mỹ bằng quân sự. Thưa bà, phải, Điện Biên Phủ của họ còn phải tới, và sẽ tới. Người Mỹ sẽ thua trận hoàn toàn, vào lúc chiên tranh của họ mạnh tới tột độ, và máy móc tối tân của họ xếp thành đống mà không cựa quậy nổi. Chúng tôi sẽ đánh bại họ, nghĩa là vào lúc họ có thêm người. Thêm khí giới, thêm hy vọng thắng lợi. Bởi vì tất cả lực lượng và sự giàu có ấy sẽ thành hòn đá đeo cổ họ. Không thể tránh được.
- Nhưng thưa Đại tướng, nếu tôi không lầm, thì các ông đã thí nghiệm Điện Biên Phủ tại Khe Sanh?
- À không. Khe Sanh chúng tôi đã không muốn và không thể trở thành một Điện Biên Phủ. Khe Sanh đối với chúng tôi không quan trọng gì. Hoặc chỉ quan trọng lúc người Mỹ cho là quan trọng. Bởi vì Khe Sanh là trò ảo thuật của họ. Bà thấy người Mỹ luôn áp dụng cái trò cổ điển đó. Bao lâu còn ở Khe Sanh để bảo vệ uy tín của họ, thì họ nói Khe Sanh quan trọng. Khi bỏ Khe Sanh, họ đã nói Khe Sanh không quan trọng. và rồi, bà không tin chúng tôi đã thắng tại Khe Sanh sao? Tôi bảo thắng, và hư bà biết, các ký giả tò mò lắm? Quá tò mò. Và bởi vì tôi cũng là ký giả, tôi muốn đạo lộn vai trò, xin hỏi một vài câu. «Câu hỏi thứ nhứt: Bà có đồng ý về sự kiện người Mỹ đã thua trận chiến tại miền Bắc không?»
- thưa Đại tướng, tôi có thể nói là thua. Nếu chiến tranh tại miền Bắc chỉ hiểu chuyện oanh tạc thôi, tôi nghĩ người Mỹ đã thua. Vì họ đã không đạt được gì cụ thể, nên họ đã phải nhưng oanh tạc. «Câu hỏi thứ hai: Bà có đồng ý về sự kiện người Mỹ đã thua trận chiến tại miền Nam không?» - thưa Đại tướng, không! Họ đã không thua, hoặc chưa thua. Vì thực ra các ông chưa đuổi được họ đi. Họ đang ở đó. Và họ còn ở đó.

#HoaBinh May 4, 1969

– Bà lầm. Họ còn ở đó nhưng trong những điều kiện nào? Chờ đợi những thất bại mới mà họ đang cố gắng tránh mà không biết làm sao. Những thất bại đang và sẽ còn mang lại cho họ, những hậu quả tai hại, về phương diện kinh tế, chính trị, lịch sử. Họ ở đó khoanh tay bị khóa kín trong chính lực luợng của họ, chỉ hy vọng vào cuộc hội đàm Paris. Và ngay tại đó, họ cũng quá ngoan cố; không chịu từ bỏ lập trường của họ.
- Thưa Đại tướng. Đại tướng bảo tại Paris, người Mỹ ngoan cố. Nhưng người Mỹ cũng bảo các ông như thế. Vậy, Hội đàm này có lợi ich gi?
(Ông làm thinh, bất động. Dường như ông ta muốn nói: không ích gì cả bà ạ). Tôi tiếp lời:
- Thưa Đại tướng, đây chỉ nói hòa bình, nhưng xem ra không ai muốn Hòa bình thực sự. Vậy cuộc hội đàm Paris sẽ kéo dài cho tới khi nào?
«Lâu lắm. Nhất là khi Mỹ không bỏ lập trường của họ. Lâu lắm. Càng lâu vì chúng tôi không bỏ lập trường của chúng tôi, chúng tôi không vội, chúng tôi có kiên nhẫn. Vì trong khi các phái đoàn bàn cãi, thì chúng tôi tiếp tục chiến tranh. Chúng tôi yêu chuộng Hòa bình nhưng không phải Hòa bình với bất cứ điều kiện nào, thứ hòa bình mạo ước. Hòa bình đối với chúng tôi còn có nghĩa là chi khi nào chúng tôi chiến thắng hoàn toàn và Mỹ rút hẳn. Mọi mạo ước sẽ là một hiểm họa nô lệ. Và chúng tôi thà chết không thà nô lệ.»
– Như vậy, thưa Đại tướng, chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu nữa? Dân tội tình này còn phải hy sinh, đau khổ và chết chóc bao lâu nữa?
– Bao lâu cần thiết: 10 năm, 15, 20, 30 năm. Bao lâu chúng tôi chưa đạt được chiến thắng hoàn toàn như lời Hồ chủ tịch đã nói. Phải, dầu 20, dầu 50 năm. Chúng tôi không vội. Chúng tôi không sợ".
(Để trả lời câu hỏi này, ông đứng dậy một lần nữa, và trong khi trả lời, ông không còn là một giáo sự vui vẻ giảng bài, không còn là một chiến lược gia biện bạch nói tiếng Pháp ngon như một khoa trưởng tại Sorbonne, không còn là một chàng trai chưng diện, khoái đàn bà, áo quần ngon nếp, nhà cửa đầy đủ tiện nghi. Mà ông chỉ là một gã cuồng tín múa may lia lịa, mắt đầy căm hờn, mặt đỏ như gấc. Ông làm tôi sợ hơn cả ngàn đạn súng cối, ngàn bom Napalm. Ông đã trở thành như một người khác.
Nhưng khi chúng tôi rời đi, ông trở lại bình thường. Ông đã tiễn chúng tôi tận vườn, và dừng lại, giơ tay vẫy cho tới khi chiếc xe hơi chuyển bánh. Mim cười, yêu đời. Có sĩ quan vây quanh, gồm cả anh chàng có đôi giầy lỏng giây.

Tối thứ bảy:

Trước mắt tôi, có ba tờ giấy nhỏ đánh máy, bản mực than, tôi nhìn đi nhìn lại và không thể tin rằng có thể xảy ra như thế được. Thế mà đã xảy ra thực. Một giờ trước đây, Thể tới và trao cho tôi “bài nào được xuất bản". Bà ta vừa giơ ngón tay trỏ chỉ vào tôi như đế thêm «nếu không, khốn khổ cho bà». «khốn cho bà đó!» Tôi đã cầm lấy, im lặng đọc lại. Dường như không còn những gì mà tôi đã nghe, đã ghi và so đọ với những điều ghi chép của Hổ và Huân. Không có câu nói rằng đây là bản tường thuật cuộc gặp gỡ của tôi với Đại tướng. Các sĩ quan Bộ tư lệnh của Đại tướng đã làm hộ bà bài này. Đại tướng đã chấp thuận. Đại tướng còn bảo bà biết rằng Đại tướng sẽ không công nhận một bài tường thuật nào khác chỉ có bài này.

#HoaBinh May 5, 1969

Ngoài ra không có trả lời về biến cố Tết Mậu Thân! «Điều này xin bà hỏi lại MTGP», không có câu trả lời về cuộc Hội đàm Paris! «là chuyện của các nhà ngoại giao», không có câu trả lời về giải pháp quân sự cho chiến tranh «Điện Biên Phủ còn phải đến với họ», không có... Chỉ có rặt những câu uốn nắn, trống rỗng, và văn sáo, kêu như tuyên truyền. Còn thiếu cả những câu tôi hỏi; kết quả theo mấy tờ này, thì cuộc phỏng vấn diễn ra từ 3 giờ đến 3 giờ 45 chiều đã không hề có, và chỉ là chuyện tôi bày đặt. ĐM, Đại tướng cho chúng tôi là đồ ngu ngốc cả sao ? Τổ Cha Đại tướng! Có lẽ ông đã quên rằng không phải chỉ một mình tôi, lăng nghe ông, mà cùng với tôi còn có ba phụ nữ khác với tai, óc đầy đủ và không điếc đâu! Bởi vì với sĩ quan của ông. với Hổ, với Thể, với Huân, Đại tướng có thể kềm được họ phủ nhận bất cứ lúc nào. Vì họ sống trong lo sợ. Nhưng với Carmen, Giulia, Marisa thì không. Họ không sống trong sợ hãi đâu. Họ đã đọc cả ba tờ giấy đó với cảm giác ngây người và họ đã lắc đầu chua chát: «Mày đừng lấy. Mày phải viết chuyện của mày, câu chuyện thật kia.»
Tôi đáp: Hẳn rồi, chắc rồi. Nhưng tôi cảm thấy buồn man mác. Với nỗi buồn đó, tôi đi dạo, và vô phúc, nếu Thể hoặc Huân, Hồ cản tôi, tôi sẽ bợp ngay nếu ai cố cản tôi lại. Tết đang dâng ngập trời, dân chúng lúc nhúc ngoài đường, bận đồ ngày lễ. Trong công trường nối với khách sạn Métropole, người ta đã dựng một cái bục để diễn trò múa vui: trò bắt được một phi công Mỹ. Phi công có mũi rất dài, quay cuồng như con sâu để xin ăn xá. Các vũ công chĩa lưỡi lê vào lưng. Họ nhãy với lưỡi lê và nón: họ làm thế nào có trời biết. Rồi nhạc hùng hơn, các vũ công đi lui, và trên bục, từ từ hiện ra một lá cờ có khuôn mặt Hồ chí Minh. Gió lay động lá cờ, khuôn má Hồ chi Minn cũng rung theo, Quần chúng vỗ tay hoan hô: dễ dạy thật! Người ta bắt đầu nổ pháo. Và lúc đó tôi liên tưởng tới Tết năm ngoái tai Saigon lúc đám đông cũng như đây; tụ trên dường phố, cũng như đây. Nổ pháo, và bỗng dưng tiếng Canon, liên thanh, súng cối xen lẫn tiếng pháo. Bắt đầu cuộc tấn công mà nay Giáp không nhận là cha đẻ Tôi tự nhủ, biết đâu, cả đây nữa, đêm nay? Sau, tôi lại tự nghĩ: đây không đâu, không xảy ra gì đâu và mọi người đều nghĩ như thế. Tôi dạo dọc theo bờ hồ, dưới những ổ phóng thanh đang sủa những vần thơ của Hồ chí Minh. Và tôi tới Chùa, thấy người Nga và người Tàu đang đợi vào. Dĩ nhiên là họ không nhìn nhau Trong chùa, đang cử hành một nghi lễ tôn giáo. Ông sư bận đồ đen, các bà già Phật tử quỳ lạy sát đất, trán chạm nền. Họ cúng trước tượng Phật bằng đồng nào đồ ăn, thịt chín, rau cỏ, họ tụng kinh dịu dàng và dâng hương VN một trăm năm trước đây. Lúc đó, một tốp con trai tay cầm khăn đỏ bắt đầu chế nhạo mấy Ông Sư, người Tàu cười. Còn người Nga lại cau mày giận dữ.

Giờ đây tôi đang ở trong phòng tôi. Hai chàng Boris của tờ Novosti muốn tôi ở lại cùng uống champagne với họ nhưng tôi muốn nghĩ một mình. Dưới kia vang lên tiếng đùng đùng dữ dội, một làn khói đặc: ho chỉ nổ pháo chơi. Sắp nửa đêm. Và đây là tới nửa đêm. Năm Khỉ qua, năm Gà đã bắt đầu. Tiếng pháo nổ gấp đôi, gấp ba, trở thành 1 tiếng động duy nhất, mênh mông rung cả thành phố. Bạn tưởng đó là tiếng bom Hoa Kỳ oanh tạc. Nhưng sao người VN lại thích những tiếng động đó, sao họ có thể vui chơi khi có tiếng nổ xen vào.

$pageOut
$pageIn #HoaBinh May 6, 1969

Hai tuần viếng thăm Bắc Việt của ký giả Oriana Fallici



Fallaci đã làm cách nào để được đi Hanoi?

L.T.S.: (Bạn đọc đã có dịp thưởng thức tài phỏng vấn của Oriana Fallaci qua những câu đối thoại giữa nữ ký giả và Tướng Võ Nguyên Giáp. Giờ đây, chắc bạn đọc muốn biết rõ thêm, Fallaci đã làm cách nào để được đi Hanoi.
Chúng tôi mời bạn đọc ngược giòng thời gian, trở lại hồi tháng Ba khi trời Bắc Việt đang giá buốt. Và nghe nữ ký giả Fallaci kể lại những cảm tưởng của nàng.
)

Trước hết tôi, lo sợ... lo sợ vì ngay khi máy bay vừa hạ cánh xuống phi trường tối om om, hai viên cảnh sát vội bước lên, thâu ngay giấy thông hành và sẽ trả lại lúc tôi ra đi. Đây là những người Bắc Việt đầu tiên mà tôi thấy họ khi họ đang sống. Tại Miền Nam VN tôi có thấy họ, nhưng toàn khi họ đã chết rồi. Tôi còn nhớ họ nằm chồng chất lên nhau trong hầm hố Dakto, thây nát tơi bời nơi thành nội Huế, và thối rữa dưới ánh mặt trời Saigon. Nhìn những thây xác đó tôi có cảm tưởng chỉ có thể thấy được người miền Bắc khi họ đã chết rồi thôi. Chính vì thế mà tôi cảm thấy thương họ, muốn đến tận nơi đây để nhìn họ đang sống, tôi muốn biết xem họ sống thực không. Thì đây, qua luồng sáng của chiếc đèn nho nhỏ, tôi tìm trông khuôn mặt họ, tôi mỉm cười với họ và chào họ Buona Sera (Good evening). Nhưng không ai trong hai viên cảnh sát trả lời, không ai mỉm cười lại với tôi, nét mặt họ trơ trơ như đá, cặp mắt họ còn lạnh hơn cả cái lạnh buốt uà từ cửa vào khi họ giật mở để cho phép chúng tôi bước xuống. Tôi đi tới Ha Noi.

Mùa đông thực giá buốt, nhưng không phải vì mùa đông mà giờ đây tôi phải rét run ; tôi thấy giá buốt là vì hai tròng mắt đanh thép và hận thù của con người trao cho tôi mẫu giấy phải kê khai tất cả những gì tôi mang theo trong mình và trong va-li, cả đến chiếc đồng hồ, bút máy, nhẫn đeo tay và kiềng đeo cổ. Cùng với máy ảnh, tôi còn phải khai mang theo bao nhiêu cuộn phim đen trắng và màu, vì phim đen trắng sau khi chụp phải đem rửa và kiểm duyệt, còn phim màu cấm không được dùng. _ « Tôi chỉ có ba cuộn », tôi khai dối mà lòng sợ như cáy. Tôi cũng lường được cái tai họa sẽ xảy đến nếu họ biết tôi khai dối. Họ biết tôi không phải là Cộng sản, và có thể nhân cái lỗi lầm đầu tiên này, họ thải tôi về với chiếc phi cơ mà tôi vừa xuống.

– « Hãy đem ra đây cả ba cuộn » Tôi đã giao cả ba. Tôi bước lên chiếc xe hơi dẫn và thành phố, qua chiếc cầu đã bị phá hủy vì trúng bom Mỹ, băng ngang nhiều đường phố vắng teo, chỉ gặp thấy vài chiếc xe camion quân sự, cuối cùng tới khách sạn. Chỉ tới đó, tôi mới bớt sợ. Nhưng tôi lại cảm thấy chua chát dày vò lương tâm tôi. Từ phương xa và từ bên kia bờ đại dương, tôi đã yêu họ lắm. Và có lẽ tôi đã yêu họ quá, khóc họ nhiều và lý tưởng hóa họ quá nhiều, Nhưng nay tới gần họ chỉ làm tôi đau lòng.

Đây là những dòng nhật ký mười hai ngày sống trên Bắc Việt. Tôi đã tới đó lúc còn là tháng Hai, đi qua xứ Cao Miên cùng với phái đoàn phụ nữ Ý, thực không dễ gì mà tới Hà nội được. Chưa từng có một ký giả Ý nào thuộc nhóm độc lập đã có thể đặt chân lên Hà nội và người Bắc Việt cũng thừa biết rằng tôi đã vào ở Saigon ba lần, đã từng theo người Mỹ trong lúc chiến đấu, bận đồng phục của Mỹ, mang theo những giấy tờ của Mỹ.

#HoaBinh May 7, 1969

Có lẽ họ còn biết cả chuyện một hôm, tôi cùng đi với một phi công người Mỹ, vô nhân đạo nhất, trong chuyến bay A.37 bỏ bom miền lưu vực, dội xuống những trái bom cháy.
Tưởng không bao giờ được xem thấy Hà Nội, thế nhưng, chiều hôm đó, một chiều thứ Sáu, tôi đã tới phi cảng Hà nội. Và kể từ chiều ngày đó, tôi đã ghi vào cuốn tập tất cả những gì tôi đã nghe, đã thấy, và đã cảm. Cuốn tập dó, đáng lẽ là tài liệu tôi phải khai thác để viết nhiều bài báo. Nhưng khi đọc lại, tôi nghĩ tốt hơn, và trung thành hơn là để nó như đã ghi, cùng lắm là bổ túc với những kỷ niệm và ghi chú khác. Và đây, tôi xin hiến bạn đọc cuốn tập đó, dẫu vẫn biết rằng có kẻ sẽ tức giận, sẽ thích khi không được thích. Nhưng đó cũng là phận kẻ cầm bút phải luôn luôn theo lương tâm hơn là thị hiếu của đa số. Một nghề không sung sướng gì.

Hà Nội tháng Ba

Đêm thứ Sáu: Tôi muốn khai trương ngay cuốn tập. Nó sẽ giúp tôi không quên một chi tiết nào, và tôi thắng được cái cảm giác rờn rợn trong tôi. Thực vậy, tôi đã hiểu ngay rằng tại đây tôi không thể làm việc như hồi ở Saigon, được người Mỹ cho tôi tự do đi lại ngay cả khi nói xấu về họ.
Ở đây, tôi chỉ được thấy những gì họ cho tôi thấy, nghe những gì họ cho tôi nghe, đi những nơi họ cho đi. Chưa kịp liếc thấy Hà nội thì tôi đã bị giao cho hai nữ cán bộ (hộ tống) và họ không lìa tôi bao giờ; dường như tôi là (trò) đùa giữa Mèo và Cáo. Mèo này tên Thể, một bà già quãng hơn 50 tuổi, khuôn trăng tròn trịa, thân hình nở nang, hai con người lúc nào cũng dò xét tôi tận tâm can. Cáo kia tên Huân, lùn khoảng một mét bốn mươi, mảnh mai gầy còm. Trông bà chỉ thấy rõ hàm răng bàn cuốc, dô ra ngoài đến nỗi miệng bà không khép lại được.
Tôi đã khổ nhiều vì hàm răng đó và vì đôi tay bà như gông cùm rắn chắc tựa hàng rào sắt. Đặc biệt là khi bà kéo tôi đay đảy không cho tôi lìa xa bà. Hồi chiều, tôi mới ra trên bè phố. Bà đã đến ngay và bảo:
«Không, không, vào trong đi.» Nhưng bà Huân ơi, tại sao? Tôi muốn dạo phố mấy phút. «Không, không để ngày mai». Nhưng tại sao để ngày mai, bây giờ không được sao? Mới có chín giờ? «Ngày mai» Bà vồ lấy tay tôi lôi vào khách sạn.
Họ cho chúng tôi trọ tại nhà Métropole. Từ năm 1954, họ gọi là khách sạn Thống nhất, nhưng ngoại kiều vẫn gọi là Métropole. Đây là một khách sạn dành cho ngoại kiều, sang nhất thủ đô, còn những khách sạn khác, sức mấy mà biết được.

#HoaBinh May 9, 1969 [ hiện bộ tài liệu Nhựt báo Hòa Bình của tôi bị khuyết, không có số #HoaBinh May 8, 1969, nhưng đọc tiếp (loạt) bài này trên số #HoaBinh May 9, 1969 thì thấy vẫn liên tục với bài trên số #HoaBinh May 7, 1969 ]

ORIANA FALLACI: Phụ nữ Saigon đẹp nhứt Thế Giới. Còn phụ nữ Hà Nội?

Từ lúc người Pháp xây lên tới giờ, người Việt Nam không hề ngó đến, ngay cả việc sơn trắng lại, có lẽ chẳng bao lâu nữa, nó sẽ tan ra thành từng mảnh. Cửa sổ không đóng nổi, ống dẫn nước không thông, nước nóng không chảy, và đâu đâu cũng bẩn thỉu không tưởng tượng được nhưng không ai khiếu nại gì được. Vì ngoài lý do là một nước chiến tranh họ còn nhắc tôi nhớ rằng tôi là khách. Thực đúng thể, không một ai có thể đến thăm viếng hay du lịch Việt Nam, chỉ những ai là khách của chính phủ mới được vào. Rồi cũng chính Chính phủ lo liệu cho mọi chuyện từ chỗ cư ngụ, ăn ở, phương tiện chuyên chở, đến những đồng tiền tiêu vặt.
Vừa tới thủ đô, tôi đã ngỏ ý với Thể, tôi muốn đổi một ít Đô la thành tiền Hanoi. Bà hỏi: «Để làm gì?.» Để mua vài tấm cạc. «Cạc chúng tôi cho bà». Phòng khi tôi muốn mua vài con tem. «Tem chúng tôi cũng đem tới cho bà» Vậy trường hợp tôi muốn mua gói thuốc lá!
– «Thuốc lá có sẵn trong phòng bà, cùng với trái cây, nếu không đủ thì bà chỉ có việc xin thêm». Tôi đùa, nhấn mạnh thêm với vẻ nhà "tư bản": nếu không có tiền trong túi, tôi đau! Bà ta cầm lấy 50 đôn, nhưng rồi nói ngay: Bàn giấy đổi tiền đóng cửa bây giờ cho tới thứ Hai, và thứ Hai chúng ta sẽ đi về các tỉnh, lại không cần tiền chi cả!
Xin mở ngoặc, không lạ gì ở đây chỉ có tiền đôn là phải đổi. Tôi liên tưởng tới những lính thủy Hoa Kỳ tại Saigon, trong vài tiệm buôn, họ không thể trả bằng tiền đôn, rồi thất vọng, văng tục: Mẹ, cái đồng tiền tốt nhất thế giới!

Chương trình lưu ngụ của chúng tôi được sắp xếp sẵn hết ngay cả những chi tiết nhỏ mà chúng tôi không hề được hỏi ý kiến. Chỉ có một điều tôi xin là được chấp thuận: Gặp Đại tướng Giáp và hai phi công Hoa kỳ. Nếu trường hợp tôi có thể tiếp xúc với ký giả ngoại quốc, họ cũng sẽ cho tôi chỉ thị. Tôi biết có ký giả Nga Sô của tờ Tass, tờ Lavestia, tờ Novosti, ký giả Pháp tờ France Presse và Humanité, hai ký giả người Cuba, nhưng gọi điện thoại và đến bàn giấy họ đều không thể được. Toàn thành phố Hà nội chỉ có 300 điện thoại kể cả những cái không xài được. Tại Métropole chúng tôi ở, phải xin qua người giữ cửa, và người này lại không trả lời hoặc giả vờ không hiểu. Taxi không có, ô tô toàn thuộc về nhà nước, không thể dùng nếu không có phép đặc biệt. Vậy có trốn được Huân tôi cũng không thể đi xa. Liên lạc giữa những ngoại kiều với nhau càng không được. Lúc tôi ngỏ ý với Thể tôi muốn gặp các bạn đồng nghiệp Nga và Pháp, bà ta đớ ra và bảo phải xin phép Bộ Thông tin. Thất vọng quá. Chỉ mỗi 4 giờ đồng hồ là đả đủ cho tôi liên tưởng tới câu chuyện của Kafka và sách Orwell viết. Ấy chết, nếu khám phòng họ sẽ bắt được tôi đang giữ mấy cuộn phim màu. Tốt hơn nên cất một chỗ khác. Hay gửi cho Carmen, Giulia và Mariza giữ giùm, là ba phụ nữ khác phái đoàn. Carmen và Giulia thuộc Cộng sản.

#HoaBinh May 10, 1969 $pageOut $pageIn Phân đoạn 3:
Ngày đăng: Jun. 11, 2024
Những người đàn bà trong chiến tranh by Vương Trí Nhàn
Trích Nhật ký Chiến tranh: Hà Nội – Quảng Trị – Hà Nội 1972 – 1975,

đây là loạt bài đã đăng trên báo Web Tiếng Dân từ ngày Mar. 5, 2024. LTC tôi chép lại nguyên văn không chỉnh sửa bất cứ gì kể cả lỗi chính tả (nếu có)

Vương Trí Nhàn [LTC sơ lược]: sinh năm 1942, là thầy giáo dạy học từ năm 1968 ở Bắc Việt, bị trưng binh lên đường vào đánh miền Nam năm 1970. Là nhân vật Bắc Việt phản tỉnh khá sớm ngay sau khi CSBV cướp được miền Nam black April, nhưng phải khá dè dặt để được an toàn cho dù ông muốn nói ra hết tất cả những gì đã nhận thức được qua cuộc chiến phi nghĩa của miền Bắc. Trở nên bạo dạn hơn kể từ năm 2020 cho tới nay.


Những nữ dân công Thanh Hóa

Kỳ 1

Năm 1972
Ngày 14/7

Về T.70. Có lệnh quay ra. Từ vương quốc của hoang dại, bọn tôi sẽ trở lại vương quốc của sự nhân tạo, cấy trồng. Những chán ngán trong gia đình, những lúng túng trong công việc, và sự không phương hướng trong tình thế chung – sẽ lại đối mặt tất cả. Sau chuyến đi này liệu mình có khác được chút nào?
Lo đường ra. Nghe người ta nói đường ra mà sợ. Địch đánh liên miên. Ngoài kia, cách chỗ tôi đang ngồi viết không xa, những người dân Thanh Hoá, dân công đang ngồi bệt xuống đất nói chuyện. Thanh Hoá, cái tỉnh bè bè ra đó, người đông quá xá, người nào tiếng cũng bè bè, dáng dấp cũng bè bè. Đàn ông, có người 47- 48, thuộc loại đã đi dân công từ cuộc kháng chiến lần trước, đi từ Điện Biên Phủ, và bây giờ họ lại đi. Bốc hàng, cáng thương, cấp dưỡng. Những cái quần bạc phếch, những cái áo vá.
Trông đàn ông xứ Thanh không hiểu sao người nào cũng như từ cổ sơ trở về, đặc vẻ đàn bà, vơ véo đâu được một cái thắt lưng bộ đội, một cái mũ, tự lấy làm bằng lòng lắm rồi. Và họ đã sống như thế, ăn tết như thế.

Vì cái vẻ ốm o của họ, những cô con gái cứ gợi cảm giác sờ sợ, khiến tôi không dám nhìn lâu.

– Chỉ đàn bà có chồng mới không phải đi.
– Cho nên khối cô rình rập lấy chồng.
– Không đi ở nhà cũng khổ. Nó đánh chỗ đê phía bắc sông Mã rồi.
– Nghe bảo Hoằng Hoá vừa rồi vẫn hoàn thành nhiệm vụ.
– Nhưng mà mưa này mới gay.
– Thôi sống chết cũng phải làm. Nơi nào khó thì lại kêu gọi đảng viên, đoàn viên. Hết loạt nọ đến loạt kia. Không chừng sinh viên cũng phải về làm ấy chứ.
– Nhà tôi cạnh chỗ bom nổ có độ sào ruộng.
– Quê ta ở cứ liền liền, nhà nọ cạnh nhà kia, không bằng từ đây đến chỗ cái ghế bom bỏ tránh sao nổi.
– Thôi, Bác đã bảo, càng gần thắng lợi càng nhiều gian nan.
Tiếng bom vẫn ầm ì như đã là một thuộc tính của bầu trời này, một thứ đỉa dai dẳng bám vào bầu trời, người ta cố dứt nó ra, không dứt nổi.
Ở cái trạm của tôi, ngày bao nhiêu khách, quây quanh các máy điện thoại. Thông báo về tình hình trên đường. Gặp cấp trên, xin phương tiện, xin ý kiến. Việc nào cũng cập rập. Và mọi người đều có cái vẻ bồn chồn, y như có bao nhiêu sống chết phụ thuộc vào những cuộc đàm thoại đó.

Nhưng rồi ai nấy bình tĩnh trở lại. Không, không phải là bình tĩnh, mà là lì lợm, mặc mẹ mọi thứ.
Đi đâu cũng thấy lính tráng, cũng như cán bộ ăn và mời nhau ăn. Vì một bữa ăn, một gói chè, một suất tiêu chuẩn đường sữa, người ta có thể đi vật nài quản lý hàng ngày trời. Bao nhiêu con người, bao nhiêu ngày tháng bỏ phí. Với những người vừa ở mặt trận ra, lúc này đây, không có gì chuyện quan trọng hơn ăn uống. Ấn tượng chung là một cái gì ườn ra, nhếch nhác, ngán ngẩm, vô cảm.

Trì trệ đã thành một thứ khí hậu, ngay ở cái nơi gần mặt trận này. Nhưng rồi tôi nghĩ – kéo dài mãi ra ngoài kia, cả Hà Nội của tôi, cả cái tạp chí Văn nghệ Quân đội của tôi, đâu đâu cũng cảm giác trì trệ ấy đè nặng, như những buổi chiều miền núi oi bức.

Cái sức mạnh của dân tộc bây giờ là ở sự chịu đựng. Một dân tộc như thế, rồi sẽ ra sao? Sự chịu đựng vô giới hạn, đến độ người nước ngoài chắc không sao hiểu nổi.
Chỉ còn một thứ rành rọt kỳ lạ, mà, bất cứ lúc nào ở trạm này lắng nghe cũng thấy, đêm hôm nghe càng thấy: Tiếng đài phát thanh. Tiếng đài vốn từ đâu vọng về, tức là một cái gì không thật – cái đó đã đành. Có điều cái thứ không thật ấy lại nhắc đi nhắc lại, đều đều thành nhịp điệu đáng sợ, trở thành thật hơn mọi cái có thật khác.
Đêm nằm, người ta dí cả đài vào bên tai tôi, mà tôi không dám kêu và không có quyền kêu. Tất cả mọi người chung quanh đều sống như vậy, tôi không có quyền sống khác. Đáng lý mình cũng phải tập ăn, tập ngủ tập chơi bài, tập lì lợm và chuẩn bị chen vào đội ngũ chiến thắng, tôi tự nhủ. Nhưng lại biết ngay từng ấy việc mình không làm được việc nào cả.

15/7

Gọi là đánh nhau, nhưng có lẽ ở nước nào cũng thế, người ta cầm súng bắn nhau không mấy, mà nhiều nhất, dai dẳng nhất và kinh khủng nhất là những ngày sống gần như chui rúc trong rừng, bên suối, những ngày ôm gối nhìn trời mưa, những ngày chờ đợi.

… Rồi rất lâu nữa, tôi phải xoay vào để hiểu. Cái giá trị của đời sống dân tộc lúc này là ở sự chịu đựng. Trong vật vã chấp nhận, không quên làm dáng, ra oai nhỏ nhen lặt vặt với nhau, để rồi lùi ra xa để nhìn, vẫn thấy vĩ đại. Chắc nhiều người cũng như tôi bắt đầu thấy chán sự vĩ đại kiểu đó, ước ao những sự vĩ đại khác – những sự vĩ đại về phát minh, về sáng tạo chẳng hạn.
Nhưng mà thích hay không thích, giờ đây, mỗi người cũng hoàn toàn chịu sự chi phối của đặc tính cộng đồng, cũng triền miên trong sự chịu đựng và chấp nhận.

… Đêm qua, gần sáng thì trời mưa. Những người dân công ốm đau nằm võng tận ngoài rừng, lại lục tục chạy vào trú tạm ở các lán, các cô gái vừa ấm nồng vừa ướt át đó, run rẩy và lạnh buốt đi trong gió, co ro ngồi nằm nhờ. Một cô, lúc sắp sửa lại đồ đạc ba lô, ngán ngẩm thốt lên:
– Thôi, đã gọi chiến tranh là phải thế.

Đúng quá còn gì! Nhưng chung quanh chỉ im lặng đồng tình chứ không ai nói tiếp, vì còn biết nói gì nữa. Không khí chung càng như chết lặng đi.
Có những câu nói kiểu ấy. Chúng vốn sâu sắc, nhưng vì nhắc lại nhiều lần, nên lại là một sự vô nghĩa. Ví dụ như hôm qua, nghe một cậu bảo “Nếu những thứ đồ đạc của cải chiến tranh này chế ra cho mình dùng, thì đời sống mình nâng cao biết mấy”. Ừ, người nói câu ấy, vừa là thông minh thật, mà cũng là lơ mơ lạc lõng thật.

… Từ chuyện dân công, muốn nói nhiều hơn đến những người đàn bà trong chiến tranh. Có lúc nghĩ, đáng ra đàn bà không nên có mặt ở nơi hòn tên mũi đạn như thế này. Nhưng bây giờ mọi xó rừng, đâu cũng có họ. Mà nghĩ cho cùng, không có đàn bà thì làm sao hiểu được cái tình cảnh mà chúng ta lâm vào, hiểu được cái phần nữ tính với nghĩa chấp nhận, thụ động – nó là số phận chung của mọi người chúng ta trong cuộc chiến hôm nay.
… Người ta nói rằng tất cả sẽ quen đi – trong chiến tranh. Nhưng tôi đã hỏi rất nhiều người rồi. Không ai quen được. Không ai thích được. Một bác sĩ bảo không thể nào thích y học quân sự hơn y học nhân dân… Và dân tộc nào mà thích được chiến tranh?!
Một cộng đồng đau khổ đến nỗi bất cứ sự thật nào nói ra cũng làm người khác đau lòng, người nọ sợ cho người kia, bởi trước hết sợ cho mình.
Một cộng đồng người nào cũng cô đơn, nhưng trước mặt nhau lại phải luôn luôn tỏ ra hồ hởi, lạc quan (cũng như miệng nói lo cho việc chung, nhưng người nào cũng phải lo cho việc của riêng mình). Một dân tộc như vậy, là một sản phẩm của chiến tranh.
… Bị chiến tranh đẩy tới, xâm nhập làm biến dạng cả mày mặt lẫn hồn cốt, rồi người ta sẽ sống trong thời bình thế nào, ví dụ như liệu có thể làm lại cuộc sống bình thường, sống theo những lề luật của thời bình, xây nhà xây cửa, dạy con dạy cái, làm nên một nền văn nghệ của thời bình chẳng hạn? Nhiều lần tôi tự hỏi mà cũng nhiều lần không biết cách trả lời.

$pageOut $pageIn Phân đoạn 2:
Ngày đăng: Jun. 12, 2024
Những người đàn bà trong chiến tranh by Vương Trí Nhàn
Trích Nhật ký Chiến tranh: Hà Nội – Quảng Trị – Hà Nội 1972 – 1975,

đây là loạt bài đã đăng trên báo Web Tiếng Dân từ ngày Mar. 5, 2024. LTC tôi chép lại nguyên văn không chỉnh sửa bất cứ gì kể cả lỗi chính tả (nếu có)


Những nữ dân công Thanh Hóa

Kỳ 2
Trích “Nhật ký chiến tranh”, ghi trong những ngày giữa năm 1969 khi tôi theo Phạm Tiến Duật vào Đoàn 500 – một binh đoàn tách ra rồi lại nhập vào 559. Lòng người lúc này còn trong sáng không ai cảm thấy chiến tranh là cả một gánh nặng, nhất là quãng 1972 trở đi như tôi ghi hôm trước, bản thân tôi cũng còn nhiều non dại.

20/5/1969

Nghe Duật giới thiệu Binh Trạm 12. 5 năm nay, lứa Thanh niên Xung phong (TNXP) thứ hai lại gần hết hạn. Năm năm trước, một số cô gái ấy thích chuyển sang bộ đội, bây giờ lại cứ ở TNXP. Một cái cầu độc mộc mà ai cũng phải qua, trước khi bước vào cuộc đời chăng?
Nghe kể về những chuyến xe vượt khẩu và chuyện thường ngày ở binh trạm. Lính bạ cái gì cũng lấy lưỡi lê chọc thử, xem có gì ngon thì ăn, ăn chán thôi. Lấy thuốc lá sợi chống lầy. Duật gặp mấy cậu khoe, em có thứ giấy này làm phong bì, mịn mặt lắm, chỉ tội hơi cưng cứng. Hỏi ra thì là giấy ảnh. Có ai biết đâu? Ở hai đầu mọi thứ đều quý. Chỉ ở giữa lúc vận tải trên vai người lính, nó là một cái gì lẫn đi giữa cát bụi.
Người phụ nữ trên tuyến lửa. Những cô lái xe. Không ai khóc đâu, rất là hiền không bao giờ to tiếng với người khác cả. Chỉ có một lần dây điện chập, các cô khóc, các anh bộ đội trên xe nhảy cả xuống, phải múc cát xúc đất hất vào trong xe mới đỡ.
Duật kể: Một cô lái xe khác, khi xe mình bị xe khác quệt, xuống, rút khoá điện đối phương “Anh chữa cho tôi xong hãy đi”.

***


Nguyệt đi TNXP từ 1965. Mẹ và bố không đồng ý nhưng quyết đi bằng được. Bố dồn tiền vào cho mẹ, bề ngoài bố không cho một xu nào cả, Nguyệt chỉ được bố đưa cho tờ giấy trắng:
– Con đã muốn đi thì bố mẹ cũng không bàn. Bố mẹ chỉ dặn đi thì cố theo chị em, không được đào ngũ về, gia đình mình bây giờ như tờ giấy này này, nếu con làm xấu việc gì thì cũng như là đổ vào đấy mấy giọt mực.

Chuyển sang bộ đội, không hỏi ý kiến gia đình. Nên khi về phép, bố mẹ bù lu bù loa, tưởng là con xấu hổ, gãy chân gãy tay không dám về.
Mẹ bị một mảnh bom vào đầu. Về nhà em gái giận lắm: “Chẳng nhẽ em lại không gọi chị nữa chứ, em gửi bao nhiêu thư vào mà không thấy chị trả lời” Thì ra Nguyệt có nhận được thư, nhưng ý không rõ, tưởng mẹ ốm xoàng thôi. Lên thăm mẹ, thấy mẹ đã lẫn, múa với hát ở ngoài bãi. Có người bảo, con Nguyệt nó về, mẹ chỉ tay ra xa, nó đang tận Quảng Bình kìa mà. Rồi mẹ lại múa lại hát.
Mẹ đã qua 108, 103. Người ta bảo: Giá đồng chí không ở ngành y cơ, ở ngành y thì chúng tôi cũng nói thật, bà cụ không sống được đâu!
Mà sao Nguyệt vẫn cười vẫn kể chuyện, Duật tự hỏi có gì tàn nhẫn quá trong đó nhỉ? Chẳng nhẽ thế nào bây giờ.

Các cô gái ở đội xe, những cô gái trung bình 68kg.
Một cậu nhỏ con nói đùa không hiểu họ có còn là phụ nữ nữa không? Những cô gái thông tin hơi xấu một tí, các cô khu 4 phải tập nói tiếng khu 3 khi trực ở tổng đài (sao qua đài, tiếng người nghe vẫn đáng yêu hơn). Huệ, một cái áo vá, một vẻ gì buồn mà cương nghị. Cô Quý tóc chỉ trùm hết gáy, trông khổ sở và tội nghiệp, vẫn phải cố vui. Chung quanh có người bảo nó mà buồn thì buồn suốt đời.

Ở đây, phụ nữ hay khóc mà vẫn đi sửa đường, đi lấy củi, làm nhà như mọi người.
***


Những cô gái ở cơ quan Đoàn bộ.
Nhuỵ ở 559 ra, mới nghỉ phép về quê lấy chồng, chồng bên y dược dân sự. Trước khi cưới, ở vào tâm trạng như Thuý Kiều, sau quãng đời phong trần, sợ nguời khác coi mình không ra gì.

– Thế là cô coi người ta không ra gì đấy.
– Không phải thế, chính vì em rất tôn trọng bạn em. Em rất quý bạn em, em muốn cuộc đời người ấy hạnh phúc. Em sẵn sàng hỏi vợ cho anh ấy ngay bây giờ. Em bảo dứt khoát: Tuỳ anh đấy, nếu anh không đồng ý thì em cũng sẵn sàng. Anh ấy bảo, bây giờ cô kể tôi nghe ít chuyện 559 nào. Cho người hậu phương cũng được lên tiền phương môt chút. Em nói, nhiệm vụ ở đâu cũng vậy. Không có người hậu phương thì không có người tiền phương.

Thế nhưng một lúc sau, lại thấy cô kể: Em giục anh ấy đi bộ đội rồi. Anh ấy cũng phải rèn luyện đi chứ, khối người ở các trường đại học ra, lúc đi cũng khó khăn ngại ngần đấy.

22/5

Từ Hương Đô sang huyện Minh Hoá. Qua những Khe Tang, Khe Ke. Như là đường núi Tây Bắc, đường vòng vèo, đất đỏ. Trông một cái xe đi ban ngày, cứ thấy trơ trọi, một chiếc xe zin lên dốc cũng khốn khổ như một đứa trẻ bị tội.
C này nhiều các cô gái Hà Tây từng đi TNXP – hễ gặp lính chờ xe đi nhờ là hỏi có muốn về Hà Tây không?
Một cậu bên pháo cao xạ vừa ném đá vu vơ, vừa kể, thường những khi đi công tác qua, phải ghé nhờ xe họ nấu hết. Nấu nhà dân mình ăn, chẳng nhẽ con họ đừng? Hà Tây nhiều đứa đẹp. Nhưng toàn những đứa điên tình.
Chiều, ở hang đá. Tiếng bom không hiểu ở đâu, lượn từ núi nọ sang núi kia. Đường lên hang vắt vẻo, lán chính trị ở cao nhất, phía dưới là khu vực tổng đài, một cô gái đang “mách lẻo” đều đều như một con vẹt.

22/5

Gặp Lâm Thao, cô bé ăng ngoong em không ăng cháo đâu, mình bảo một cách ngơ ngẩn: Y như tiếng Sà goòng.

– Em được nhận thì đi thôi, trong lớp chả có ai đi cả… Vào làm cấp dưỡng rồi làm quản lý, cuối tháng không hụt đồng nào, lại thừa được hai chục. Mấy lần định kết nạp đoàn rồi, mà vì ít tuổi quá, không được.

Những ngày làm giao liên ấy – một số người khác kể lại – cô còn cứu được mấy người nằm dưới hầm. Chả biết sợ là gì.

– Em làm y tá, mỗi một mình là phụ nữ. Ngày về đây lấy thuốc không biết đường vòng nào mà đi, cứ đi đường thẳng, lội qua ngầm Lộc Yên ướt hết cả quần áo, người ta cứ cười.
– Hôm nọ được về nhà rồi. Năm ngày, mẹ cho ăn ba con gà, mua cho chục đồng bạc cá, ở đấy sẵn cá lắm. Mẹ em hiền mà thương người lắm. Bà cụ chăm bao nhiêu bộ đội đấy.

Những buổi nói chuyện với các cô gái ở đây, không đâu vào đâu mà làm cho mình hết sức hào hứng. Con gái là thế. Cô Thu y tá sẵn sàng phá những cuộn băng ra, đưa cho mình những cái kim băng xinh nhỏ, rồi tra thuốc đau mắt, rồi cho đôi giày. Cô Hải cũng vậy, thân ngay được, rửa bát hộ một cách hết sức tự nguyện.

23/5

Rừng Trường Sơn là đây. Trên là núi và dưới là khe. Những con suối trường chinh, ngấm ngầm mà hung hãn, gặp núi cản cũng xô cả núi mà đi, đất đỏ đục ngầu rồi cũng trong xanh trở lại.
Đường lượn ven núi, gặp núi thì thành ngầm, rồi đường lại vượt lên, nhìn con suối dưới kia róc rách. Lên cao thì đường gặp núi. Đất sẵn sàng lở. Khi có máy bay lượn, mình theo thói quen, chúi vào bên núi thì một cậu bảo: “Ra ngoài này đi anh, núi lở xuống bây giờ”.
Đứng trên những mỏm đường cao nhất, thấy toàn cảnh trọng điểm, lượn lên lượn xuống. Hút xuống dưới, ba cô thanh niên xung phong đi lủi thủi nhỏ dần. Ngẩng lên cao, mãi kia là đỉnh đồi đất đỏ, những cây cao lớn đổ vật cả xuống, như một người ngã sõng soài, tay ở dưới mà chân ở trên. Cỏ chung quanh đã lên xanh, cây thì vẫn còn trơ một cái màu gỗ nhạt huếch….
Có lúc nghĩ rằng tại sao lại rủ nhau chui vào những miền rừng làm gì nhỉ. Ở đây hoang vắng quá, những ngã ba, những “cua” những trọng điểm không có tên, toàn gọi bằng số, cây số 43 năm trăm, cua 12, trọng điểm 21, ngầm com măng ca, chỉ có một ngầm gọi là Đông phương hồng.

29/5

Những ngày ở Hương Đồng Hương Khê nắng nóng, mần tịt cả người, lúc nào cũng buồn ngủ. Trưa, ăn cơm về, mình nằm lăn ra giường ngủ thiếp đi, thỉnh thoảng chừng nhiều mồ hôi quá lại chợt thức dậy, lấy khăn lau một lượt mồ hôi nhưng không có khăn, lấy luôn cái áo lau mặt. Trong khi đó, Duật và cô Nhót đang tập đánh máy. Duật đến là hấp dẫn, lúc nào cũng có phụ nữ đến với nó, đứa ăn cơm xong đến xin ngụm nước, đứa đến mè nheo cái nọ cái kia.
Những ngày ở đường 12 này, lại chỉ có mưa, nước suối đỏ bẻm. Và hôm nay hiu hiu gió, như một ngày đầu thu, như một thứ rét nàng Bân, như câu thơ Tế Hanh “những ngày vui nghĩ lại thấy ngùi ngùi”. Nhớ các anh ở nhà, nhớ bạn bè, nhớ công việc. Trước lúc đi, Xuân Quỳnh bảo:
– Đi viết thư về… Chính những lúc đi xa độ 1, 2 tháng, một mình, nghĩ cũng buồn lắm.

Cố nhiên, mình lại phải bảo mình rằng ở Hà Nội, nhiều lúc mình vẫn thấy cô quạnh, những lúc chán nản. Hết giờ làm việc là lo đi chơi: “Giờ đến ai thì có nhà nhỉ?”. Đi hết mình, đi hết những nỗi buồn, và thấy con đường xa lắc. Hân bảo, giữa nỗi buồn cô đơn và nỗi buồn một người có vợ, tuỳ anh chọn lấy một.

***


Đến Hương Đô, rất quý các cô gái ở đấy, cô Bàng, cô Nhót. Cô Băng Tâm có con mắt rất sáng và nụ cười dịu dàng. Cô Huệ, cô Xuân bên Tổng đài 500, đeo cái vòng trên cổ, người như dễ thương hẳn lên. Đến Binh trạm bộ, các cô ở đây, cô Thu, cô Nhuệ mến khách và dịu dàng làm sao. Còn ở các đội TNXP thì – sau cái non trẻ vụng dại – sao quá nhiều những con người yên lặng, chậm rãi, mệt mỏi, ẩn giấu đầy dục vọng?
Ông Vũ Cao thường bảo tôi: Cái thằng này bao giờ cũng lý tưởng, sách vở. Xem thằng này với thằng Đỗ Chu, sau này lấy vợ thế nào?
Tôi thì tôi tự nghĩ, vẫn trên con đường hành hương đi tìm phụ nữ. Lại thấy vẳng lên những câu thơ của Aragon:
Chỉ có nàng thôi mới xinh đẹp dịu dàng
Nàng hiện lên như tháng mười đỏ thắm


Hôm nọ bảo với Duật rồi, câu thơ của Drunina “Trong ngây dại của tâm hồn phụ nữ – Em chỉ cần nương tựa xuống vai anh”, có phải chỉ nói về phụ nữ đâu, mỗi người nam giới đều có lúc cảm thấy cần phải nương tựa xuống bên một người phụ nữ nào đó.

***


Phát hiện lớn nhất là trong lần trước, thấy con người lớn lên trong chiến tranh. Đi sâu vào tuyến, lần này tôi nghĩ khác đi: Chiến tranh sẽ tạo ra một lớp người mà tất cả thời gian, năng lực, chí hướng là tập trung vào việc giết, phá hoại, làm lấy được, nghe lệnh, trói tình cảm của mình lại, rồi khi cần thì lại bùng lên một cách rất là man dại. Chiến tranh tạo ra lớp người ấy, chiến tranh qua rồi nhưng lớp người ấy còn mãi.

***


Đại đội TNXP: Nhà ở làm hàng ngàn công mà không xong, gian nhà rách nát, tạm bợ, trên căng tăng, dưới căng bạt, chung quanh là đồ lề, những tấm chăn chiếu quét đất tha hồ cho chân người dẫm lên. Bộ đội thì có chuyện công binh dỡ hầm của cao xạ hai bên to tiếng với nhau. Nghe nói có lần phải dùng đến cả cách quăng nhau xuống sông.
Bao nhiêu cô con gái đã vào hoả tuyến này. Ở rừng Lào, con gái phải lấy tay gạt đuổi những con nòng nọc đen đi lấy nước tắm rửa. Một lần đang tắm thì nó đánh rất gần. Mới đầu các cô còn tránh tạm vào một hòn đá. Rồi sau chỉ kịp khoác cái áo lên, cứ thế trở về khu nhà ở.
Những bữa cơm TNXP ở đây, ít thức ăn quá, người ta phải ăn nháo nhào bát đầu cho xong, rồi bát sau thì bắt đầu xoay tí muối. Mỗi người được mua một quả trứng luộc rồi, sau bữa cơm của người nào người ấy giải quyết.
Những cô con gái ngồi giữ kho suốt ngày có người nhờ may vá. Chuẩn một kéo. Đào một kéo. Đến nơi thấy thế, Sát phụ trách hành chính nhì nhèo “Chúng mày cứ lấy hết cả kéo trong kho thế thì còn bảo quản nỗi gì nữa”. Nhưng rồi chính ông ta lại bảo, con gái ở đây nó thiếu vải lắm anh ạ. Bây giờ mỗi đứa, xin lỗi anh, chỉ còn một cái quần phăng với cái quần đen, cái nào cũng tàu tàu cả. Đơn vị thì phát đủ rồi, cơ quan chịu sau. Hôm nọ C3 bị đánh, lại vận động cho lần nữa, ai có 3 thì cho 1. Kết quả là chả ai có gì dùng khi cách nhỡ nữa.

Chao ôi, rồi những đứa con gái này về, sẽ làm nên những công trạng gì, sẽ biết làm gì.

30/5

Suốt một tuần đất Quảng Bình này là mưa, giá ngại thì không còn muốn ra khỏi nhà.
Con đường về anh mưa hút lối
Trắng ngang trời không gian mênh mông
… Thời gian đi không gian dường đứng lại


Chẳng biết nhớ thơ hay nhớ chính con người nói chuyện rất thông minh đó nữa.
Nhưng mà mưa ở đây nó lại càng để lộ ra cái buồn bã cuối chiều của công việc. Đơn vị đến đây từ 27 tết. Nghe các cô ấy kể, lúc đầu chuyển đến để phục vụ xe vào rất nhiều trong dịp tết, cho nên nhà cửa làm chỉ tạm bợ. Đến bây giờ thì mưa xuống, nhà nào cũng kêu dột. Kho dột, chỗ ở dột. Mấy cậu đến làm nhà kho gấp đi khiêng độ chục tấm gianh về dọi lại một chái, dùng độ 3 tấm rồi lại vứt đấy. Những cô gái ở đây cứ làm cho mình luôn nghĩ đến những người ở nhà. Nhạc, cô cấp dưỡng bảo, ở đây chẳng hiểu bao giờ khá hơn. Tôi bảo những trường hợp hai vợ chồng nuôi một đứa con ở Hà Nội, cũng cực nhục lắm. Vậy thì ở đâu vất vả hơn? Hạnh phúc cuộc đời này là cái gì?

3/6

Sang C2 đội 89, vẫn là chuyện các cô TNXP.

Quyên: Mẹ em mất từ năm em được độ một tuổi. Bà ngoại em chỉ được có hai người con gái, mẹ em là chị, lại mất sớm. Bà em mới bảo dì em, rằng mày có thương cháu thì mày về nuôi lấy nó. Mãi lúc đi TNXP em mới biết. Hồi trước, có lần mẹ em đánh em đau quá, em mới bảo con đẻ ra mà còn thế đấy, dì ghẻ con chồng thì còn ác đến đâu. Mẹ em không nói gì nữa, mẹ em chỉ khóc. Hôm em đi, bác em mới gọi bảo rằng đấy là dì mày đấy.
… Chúng em đi từ ngoài kia vào thích lắm. Đi đến đâu cũng hỏi. “Mẹ có cà cho con mấy”. Bà cụ bảo: “Chẳng có cà mùa này. Nỏ có cà, con có ăn ghém thì ăn thôi. Sao mẹ bảo gì, các con cũng vâng thế”. Người khu 4 hiểu hết tiếng người khu 3, nhưng người khu 3 không hiểu tiếng khu 4 đâu. Ở nhà dân, về đến nhà là lục lọi thức ăn. Có lần đi trực về, 4 giờ sáng thì về đến nhà, lục cơm nguội với cá, ăn sạch, đi ngủ, đến 10 giờ mới dậy.
Lúc đầu thức ăn chỉ muối và mì chính. Thế mà cũng đánh hết mấy bát.

***


Giữa khoảng rừng xanh, những thân mốc lá xanh chẳng hạn, bỗng hiện lên màu đỏ của thứ hoa gì đó trong rừng. Màu đỏ ấy không tươi, không thẫm như hoa vông hoa phượng, màu đỏ ấy sặc sỡ và lại tái tái thâm thâm như hoa gạo cuối mùa, như những bông hoa gạo 1, 2 ngày trước khi rơi trên mặt đất. Có thể ví một hiện tượng văn nghệ, một cái gì đó trong văn nghệ với màu hoa đỏ ấy được không. Mình đã nghĩ như thế khi đến thăm đại đội cao xạ.

Chợt nhớ các bạn. Hai người mà mình quý nhất là Đỗ Chu và Xuân Quỳnh. Một người vừa sợ vừa thích là Lưu Quang Vũ. Có thể nằm thượt ra, nói những chuyện nghiêm trang nhất mà cũng ghê gớm nhất bên Lâm Quang Ngọc. Lại có thể rủ rỉ rù rì nói chuyện với Nghiêm Đa Văn.
Nhớ có lần hai đứa cùng tranh nhau nói: Mình và Bằng Việt. Với Lâm, mình nói năng thả cửa. Bùi Bình Thi sẵn sàng tán thành những ý kiến người đối thoại, gật gật đầu rất nhanh và cười ha hả?… Ôi các bạn tôi, mỗi người làm giàu cho tôi một chút, chỉ có tôi nhớ các bạn hay là chính các bạn cũng nhớ tôi.

TNXP và bộ đội, bao giờ thì cũng phải có những đơn vị ấy đi với nhau. Tưởng tượng thiếu một đơn vị thôi, buồn biết mấy. C7 ở tận trong mặt sau của một trái núi. Nội quy: Cấm không được đi chơi tối. Chỉ chiều về, các cô gái lần khân hơn một chút. Gần nhà cũng có suối, nhưng họ kỳ cọ rửa ráy rõ sạch chỗ cái suối ngoài gần đường. Cả bọn như một bày chim lớn. Rồi về qua cửa bộ đội. Đánh tiếng, rúc rích đùa. Các anh bộ đội chừng cũng đã quen, ăn cơm xong, ra hiên nhà ngồi chơi, đợi.
– Mấy khi đi làm về, các o vào uống bát nước.
Cứ thế tán tỉnh nhau đến tắt nắng. Về còn lưu luyến, ở chơi tí nữa, hãy còn sớm em.

***


Ngày mưa – B3 làm cái nhà hậu cần ở dưới nhà nữ. Tất cả cá cô đều đi giày trông cứ nặng nề và hách dịch một cách vô lý. Cô Mai to, chặt sậy làm phên ở giữa nhà, một cậu nói vọng xuống “Không chặt cho đều thì tôi quẳng đi”. Mai to trả lời rất tự hào:
– Mình cứ yên chí, lần này tớ làm cho mình thật đều.
Hễ ai đi qua, Mai lại hét tướng lên ”Không được bước vào chỗ này!” Cô chỉ sợ người ta dẫm vào sậy, chốc nữa vác lên, bẩn hết áo.
Lai, chàng trai mũi tím bầm lại vì nặn trứng cá, hôm nay giời mưa mà diện rất tươm tất, giày thấp cổ có cả bít tất. Lai vác những thanh gỗ bằng cổ tay về lợp hầm. Quá là vô ý, tránh được dưới đất thì lại lấm tiệt các thứ khác ở trên dây thép. Mưa quá. Trung đội trưởng Thự cho anh em nghỉ vào nhà. Tất cả ào vào, làm cho cái nhà lúc trước chỉ có cô Ngần ốm bỗng rộn cả lên.
Từ lâu đã nghe nói con gái ở đây rất chiều con trai, mưa, các cô phơi quần áo hộ cẩn thận. Đi giặt về, Huệ cầm quần áo luôn thể. Con gái là rau tàu bay, con trai là mỳ chính. Chẳng hiểu ai nói câu ấy đầu tiên. Bây giờ vào trú mưa cũng thế. Thự, chàng trai tay vừa vồ đất dưới kia bây giờ dụi dụi tay, tìm chỗ lau. Bỗng nhớ ra có một bình nước uống.
– Anh nào dội hộ tớ một tí.
Nhiều người nhao nhao:
– Lại dội lại dội ông huyện.
– Không để cho ai người ta uống nữa
– Thôi, ra đây cho xong đi nào. Và Nghiện, cô bé hơi xấu ấy dội hộ. Vừa dội, Nghiện vừa nguýt Thự một cách không rõ thế nào. Vừa lúc Nghiện quay đi là Thự giật lấy cái khăn nhuộm màu nguỵ trang trên vai Nghiện. Cô bé nhớ ra thì đã muộn. Thằng con trai la lên: Xong rồi, xong rồi. Thời chiến này, cái gì người ta cũng làm khô làm hộp, rau kho thịt hộp. Vậy thì cái điều người ta làm khô văn nghệ cũng tất nhiên. Gọn, nhẹ – không thể khác được.

***


MẤY GƯƠNG MẶT

Bích Liên C2 D thông tin.

Lần đầu qua cầu Hàm Rồng không dám sang. Cầu chuyển rùng rùng phải nhờ một anh khác dẫn sang. Báo động nhảy cả xuống đầu một anh bộ đội.
Sang Lào, đứng cầm đèn gác đường rồi sang đánh kẻng. Máy bay đến, sợ không dám đánh kẻng chỉ kêu máy bay, máy bay. “Sợ đánh kẻng biệt kích nó nghe”.
Có người rủ đào ngũ. Sợ về trả sổ, trả khăn cho người ta ư? Lúc đi, ăn bao nhiêu cũng không lên cân được, chỉ có 39kg.
Viết thư cho mẹ: Con bé thì đứng vào đâu mà chẳng được. Có hy sinh cũng là vinh dự.
Bé quá, Thu TNXP đi, người ta cứ bảo “con bé này, ở đâu vào”? “Cháu ở TNXP đấy mà”. Người ta phải nhận.
Vào đội mang cơm thì hay đánh đổ, lại phải đi làm. Lên trên lùm bùm Tà Khống. Nhịn ăn, từ 18g hôm nay thì đến 18giờ hôm sau mới có người thay.
Đợi bao giờ được vào bộ đội mới về phép. Thủ trưởng cho đi học y tá cũng không đi. Vào bộ đội được giao anh nuôi, dù ở nhà, chưa biết nấu cơm.
Vào tổng đài, đi chữa dây. Để máy khô, phải cởi áo ra mà bọc máy. Chữa xong lại chập, về lại đi. Mưa rét, chưa ăn cơm. Dây đứt, không biết đứt chỗ nào (đứt ngầm) phải chẻ đôi dây ra thử. Qua sông, đội máy lên đầu.
Mẹ viết thư có cần gì thì mẹ gửi cho. Của mẹ chứ của ai mà sợ thiệt.
Người ta bảo: Nhớn thì mới ốm nhiều, bé thì ốm ít.
Đi làm cấp dưỡng. “Tôi đi hái rau” – Gặp người dân tộc, hãi. Vì thấy người Khùa họ không mặc quần áo gì cả. Khóc từ rừng khóc về nhà. Bị một anh mắng bảo về không về, ở đây khổ cả mày lẫn khổ cả chúng tao.
Đội này có lúc ăn ngày 1kg gạo, có khi ăn măng tươi suốt. Thiếu nước, cạo tinh tre… Có nhiều món không biết các anh ấy làm thế nào thành ăn tạm được. Chị Hiền chết. Lúc “đi” dặn, mày ở nhà có mưa thì thu quần áo vào cho các chị ấy. Cố vài năm thống nhất về cho ăn cam quê tao tha hồ.
Chị ấy chết, vừa hãi, vừa muốn ra xem. Đến nơi thấy chị chẳng còn gì.
Bé quá, gọi mọi người bằng anh chị.
Hôm đăng ký đi, nói với cán bộ:
– Chú chú, cho cháu đi với, các chị ấy bảo tha hồ ăn quả rừng.
– Muốn ăn thì tao bảo nó lấy về cho. Đi làm gì.
Cứ xin đi. Mẹ em vẫn bảo con có vào đấy mới biết. Trong thư mới gửi, mẹ bảo mọi người cho em nó về, chỉ độ 1/2 ngày cũng được. Em bây giờ nó biết làm gì rồi.

***


Kim Liên:

Vùng em quê nghèo tháng 8, nước đến cổ, đói no sao cũng được. Lúc đi, các ông cán bộ hợp tác làm đội trưởng, phó bí thư chi bộ, làm chính trị viên, các ông ấy không tâm lý gì đâu, hơi một tí là các ông ấy mắng cho. Một cậu đi chậm: Gạt thằng ấy nó ra, sống thì sống, chết thì chết, để cho cả đoàn cùng đi.
Vào đến Vinh thì một cậu đào ngũ. Lại gặp một ông bộ đội, thấy nói TNXP đồng hương ông ấy vào hỏi, thổi cơm nấu nước ông ta ăn tử tế. Đến lúc hỏi ra thì thằng em ông ấy đào ngũ, ông ấy khóc mãi. Đến Thái Hòa (Nghĩa Đàn) lại nhiều người đào ngũ nữa (ở đấy nhiều xe, tuần 4 chuyên ra Hà Nội).
Có 5 người trốn, 4 cô với 1 anh. Họ về họ nói, đơn vị qua Hàm Rồng bị đánh hết cả rồi, chỉ có mấy người họ trốn được phải về, ở nhà thấy thế khóc hết nước mắt. Sau có thư gửi về ở nhà mới tin. Bọn trốn về khổ lắm, mất hết cả Đoàn. Mẹ ở nhà viết thư lên. Có chết thì chết, đừng trốn về, xấu hổ cả nhà. Sang Lào – thiếu thốn mọi thứ. Toàn tháo chăn ra làm chỉ. Ăn thì cứ đi nhấm lá rừng, thấy cái gì chua chua là nấu ăn được. Có lần nhấm phải những thứ chát săn cả lưỡi.

Hường:

Bỏ học, nhất định xin đi. Bố đánh. Mẹ giấu sổ hộ tịch. Cứ làm đơn xin đi. Con nói thực, không cho con đi, mai con chết. Trước lúc đi, một trận đòn nên hồn. Bố đánh không khóc vẫn đòi đi. Lúc bố cho đi lại khóc tủi thân. Bố dặn đừng ăn bậy ăn bạ mà khổ. Gửi giấy khen về nhà thì mẹ lại lo. Thế này thì nó ốm mất. Biết thế thu lại, để gửi về sau.
Mẹ sơ tán. Chị đi Phú Thọ… Bố làm không đủ, bảo con xin về. Đơn ở nhà gửi lên bảo ký tên thì giữ đơn lại, rồi viết về nói là gửi rồi.

***


MỘT TỐI CHUNG VUI

Con gái TNXP ngoan hơn con gái bộ đội vì không được chiều. Thu, lặng lẽ ít nói nhưng đâu cũng rí rủm lắm. Chanh láu và hơi xấc. Quý thì rất chiều người và lịch sự, Quyên bên C2 nữa, con mắt và cái cằm như là của con trai, rất nghịch. Nhưng giá hỏi nên viết thư cho ai trước hết, thì tôi sẽ gọi tên Hoa.
Khi tôi đến hôm đầu tiên, em ngồi hơi xa, chỉ cười. Hôm sau, lúc nào nhìn thấy tôi, em cũng cười. Buổi tối ấy tôi lại đến chơi, em đang hát, em nằm đấy mà hát, tiếng hát vỏng vót:

Yêu bao sông nước quê ta,
có những chuyến phà ngày đêm vui hát
Yêu bao bờ bến quê ta…


Ấy là những bài hát của giao thông. Ấy là những bài hát của chính các em. Có lẽ vì thế mà em đã hát rất say mê, như em mới nghĩ ra như vậy. Khi em hát những tình ca, điệu chèo của quê hương Thái Bình, tôi vốn nghe mãi phát chán những điệu chèo hát trên đài rồi mà với em tôi lại thấy duyên quá.
Trong cái buổi tối lờ mờ của trăng đầu tháng rừng già, tôi không nhìn rõ mặt em, chỉ thấy như cả người rạo rực, tôi không muốn ai nói chuyện nữa để lặng cho tôi với tiếng hát. Mặc các cô khác len vào, tôi vẫn nghe rõ tiếng em. Và khi các cô ấy xoay ngọn đèn về phía tôi, tôi hơi xấu hổ vì biết mình đang ngây dại mê thanh mê sắc nhưng cũng vẫn ngồi đấy, cười cái cười tâm lý mà riêng tôi mới có như các bạn ở nhà vẫn giễu.
Mắt ngước ra ngoài trời nhìn đi rất xa, toàn thân tôi như bay lượn theo tiếng hát. Đến khi em và các bạn hát bài “Các cô gái mở đường” thì tôi như ghen với Xuân Giao vì nhạc sĩ đã ghi được một cái nhịp mà nó biết gợi lên bước đi của các em, một thứ bước đi khoan thai rộn ràng rất mực.
Hoa, tôi biết là em không đẹp, nước da hơi đen, và nụ cười hơi phô, nó không hàm tiếu cầm chừng như chính tôi vẫn thích… Hoa! Nhưng tại sao tôi cứ vấn vương về em, muốn bắt lấy cái nhìn và nụ cười của em. Bởi tôi đang đi tìm một người tôi mến yêu. Nhưng tại sao người đó lại rơi vào em nhỉ. Tôi biết viết bức thư đầu tiên cho em như thế nào đây?
Tôi là thằng tằn tiện ít bộc lộ tình cảm, nên tôi cũng rất giàu có, tôi biết sử dụng tình cảm của mình thế nào cho vừa, ơi em xa xôi, ơi em mới quen, ơi em và tiếng hát. Cả cô Lan khôn ngoan mà kín đáo, cả Quyên hay nhìn trộm đợi chờ, cả Huệ hiền và hiểu đời, cả Quý, cả Thuần, cả Nghi có con mắt nhìn thẳng vào người con trai, như van lơn, như cầu khẩn… không ai làm tôi vương vấn như em.

***


Ngày mưa: Ngày các cô gái khâu vá, ngày người ta ngồi nói chuyện về những con đường mà người ta đã làm, những chương đời mà người ta đã vượt.
Ngày mưa để người ta lo nghĩ về công việc trong những ngày sau đó. Ngày mưa là ngày của tình yêu, nó ấp ủ những gì hứa hẹn của hôm sau.
Tại sao các cô gái C2 hay nói những chuyện nhố nhăng? Bởi vì nói những chuyện nghiêm túc bao giờ cũng đồng nghĩa bi quan và thất vọng. Cười nhiều, sự cười nhiều là sản phẩm của những gì hết sức đau khổ.
Buổi tối các cô ngồi ra cửa hát. Tốp ca nữ hát: Các cô gái đi mở đường, do các diễn viên đội văn nghệ C3 và C4 trình bày.
Hoa giới thiệu và hát trước; đến chỗ hết câu này, bắt sang câu khác, khi mấy bạn lí nhí vì quên thì giọng Hoa bao giờ cũng to hơn cả. Đất núi, sân phía trước nhà không rộng, các cô đứng dọc hàng một cô nọ ôm chặt cô kia. Trong nhà nhìn ra, vẫn thấy các cô lắc lư như những diễn viên chuyên nghiệp trên sân khấu. Thật ra đến cả tên bài hát cũng không thuộc các cô chỉ nhớ câu đầu tiên của các bài… Lúng túng mãi rồi trong nhà phải cử một cô đi sang nhà bên cạnh mượn cái đèn bật (bật lửa).
– Anh vào trong nhà chơi, anh Nhàn.
Sau khi yêu cầu tốp ca hát, một bài “chầu văn”, biết rằng các cô hết vốn, tôi vào ngồi trong nhà. Quen tính tôi, các cô mang hai bi đông nước. Lan rót nước:
– Này, Nghi mời nước anh Nhàn đi. Bưng hai tay vào.
Tôi phải trả lời đại khái nói, nghe Lan tâm lý lắm, hôm nay mới biết đấy. (Lúc trước thấy Lan ăn mặc khác tôi đã trêu “Gớm hôm nay cô Lan trông lạ quá”. “Anh cứ nói thế, em chào anh mấy lượt anh có thèm nói lại đâu?”)
Có tiếng người phía dưới, thì ra Phượng trung đội phó. Lâu nay cả trung đội biết rằng Phượng hay nói nghịch. Vừa đến nơi, Phượng đã nói đùa:
– Lên xem các gái hôm nay đã khỏi chưa hay lại thành 35 công nào. Tất cả cười lên một lượt. (Hôm nọ trong lúc lợp nhà, Phượng đã nói đùa: Người ta 30 công nhưng Chanh nó 34 công cơ. 30 công ốm với 4 công người khiêng đi viện).
Mai tồ rót nước mời Phượng: – A à, em Mai hôm nay quý anh Phượng ghê nhỉ. Song Phượng Tuyết Mai được đấy chứ.
Nhưng một cô khác đốp luôn:
– Hôm nay anh Khôi giảng bài cứ định gọi chị Nghiện, chỉ chị Nghiện thôi, thì lại đọc tên anh Phượng. Buồn cười nôn cả ruột.

Hoá ra một câu chuyện nghiêm chỉnh rồi, Nghiện là một bé hơi xấu, nhưng rất yêu Phượng và có lẽ họ cũng đã yêu nhau.
Mục đích Phượng sang là để phân công người.
– Lan ạ, hôm nay tiểu đội mày có mấy người làm sao hả?
– Cũng chẳng nhớ là mấy nữa, Lan cứ hậm hờ. Sáu hay là bảy nhỉ, để em tính đã.
Phượng cũng không cần biết cho chính xác làm gì, ốp luôn. Thôi, mai vẫn cho đi dọn chỗ 35, chỉ để độ hai đứa ra cây số 34 làm nhé. Còn tiểu đội cái Hoa cũng đi làm chỗ cũ, lấy 2 đứa đi gánh tranh.
Chẳng đợi Phượng dứt việc, các tiểu đội trưởng nhao nhao phân việc. Lan gọi với sang chỗ Thoa:
– Chị Thoa ơi, chị Thoa.
Vẫn không thấy nói gì.
– Chị Thoa yêu quý ơi, mai hai chị em mình đi ra cây số 34 nhé.
Ngồi trong bóng tối, chỉ thấy một người quay ngoắt đi. Bấy giờ Lan mới dỗi:
– Thôi, cứ thế là chị tôi nghe thấy rồi đấy. Gớm, chị Thoa em lại không thân với mèo con nữa rồi. Chả trong tiểu đội, Lan ít tuổi hơn một chút. Và khi đùa nhau, khi vật nhau, các cô đều gọi nhau là mèo con cả.
Trong khi mấy cô khác còn đang nhao nhao hỏi — nghĩa là bất chấp tiểu đội trưởng, hỏi luôn trung đội trưởng về mình — “Mai em làm gì Phượng” ”Mai em làm gì anh”, thì Phượng đã xoay sang đùa.
– Còn bọn cái Thu, cái Gái đâu. Mai cái Thu tập họp lại, chờ lên hang Cha lo gánh đá. Cứ chọn thứ đá nào không đổ mồ hôi thì mang về là được.
Và buổi sang phân công việc của Phượng kết thúc một cách vui vẻ. Trông anh chàng lại nhớ những buổi liên hoan có những tay hễ gặp ra, hoá trang trông thiểu não, có khi răng sứt, chân cụt, thất tha thất thểu ra, lúc vào lại còn cà khịa.
– Có thách tôi rút không nào? Tôi rút cho mà xem chứ tưởng, tưởng…
Tài lắm, nhưng chỉ là tài trong phạm vi khe núi góc rừng.
Từ nãy, Hoà và một cô Mai khác, Mai Trần vẫn ngồi tâm sự ngoài hiên. Thì ra cô Mai kia mới về thăm gia đình lên. Cô kể vè hành trình rồi kết luận:
– Đi đến đâu cũng được các anh ấy gửi, anh nọ gửi cho anh kia ấy mà…
Gớm, về đến nhà mất 4 ngày. Con bé Máy nó bị rút hết cả bím, nó cứ quờ quạng như trẻ con. Trời ơi, trời ơi – nói xong lại cười, cười xong lại khóc.
– Ở nhà vui lắm mày ạ. Đi họp thì một gian họp mấy gian xe đạp, nam toàn Phượng hoàng, nữ cũng Phượng hoàng với Thống Nhất. Hôm nọ đội bóng nam Thái Bình đấu với Lương thực Trung ương, nữ Thái Bình đấu với Nam Định, nữ mình được, toàn những 15-3…
– Eo ôi, ngoài ấy diện lắm, toàn áo cổ Nhật Bản.
Tôi hỏi: Thế năm nay Hoà đã về chưa?
– Em sợ đường đi xa lắm, với lại về nhà ai cũng chê gầy với đen, lên đây như chị Mai thì lại gầy và đen hơn lúc chưa đi. Thôi cứ ở lại vậy.

$pageOut $pageIn $pageOut $pageIn $pageOut $pageIn $pageOut các Phần tiếp theo ==>
.

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...