. .

Friday, May 10, 2019

Chứng Tích bên phía CSBV

collected by Le Tung Chau
ngày khởi đăng Jun. 9, 2024



Trong Post này:
- Miền Bắc Dưới Mắt Nữ Ký Giả Ý Đại Lợi Oriana Fallaci 1969 (từ #2 đến #9)
- Vương Trí Nhàn articles 1972 {Nhật Ký Chiến Tranh bên phía Bắc Việt, và rải rác các tường thuật, nhận định hậu chiến} (từ #10 đến #14)
- Nguyễn Thông articles {Hồi Ức về miền Bắc thời chiến, và rải rác các tường thuật, nhận định hậu chiến} (từ #15 đến #18)
- Bút Ký MỘT NGÀY TẠI HÀ NỘI by Phạm Huấn & Nguyễn Đình Toàn, Diều Hâu xuất bản, Saigon 1973. Tường thuật thực trạng Hà Nội ra sao, Hà Nôi còn gì ... sau gần 20 năm dưới chế độ Cộng Sản, qua chuyến đi Hà Nội để quan sát vụ trao trả tù binh Mỹ ngày 18-2-1973 của Thiếu tá Phạm Huấn, Thiếu tá Đinh Công Chất và Thiếu úy Dương Phục, 3 sĩ quan QLVNCH thành viên của Ban Liên hợp Quân sự 4 bên, lần đầu tiên đặt chân tới Hà Nội kể từ khi CSBV mở cuộc xâm lăng VNCH năm 1954. (#19)
- Thực trạng miền Bắc qua tường trình của các cán binh cộng sản về hồi chánh: retyping các bài phóng sự và đủ loại tin tức phong phú khác đã đăng trên báo chí miền Nam với báo chí phương Tây từ black April 1975 trở về trước. (#20 trở đi ...) .
.
.
đang updating ...

$pageIn Phân đoạn 1:
Ngày đăng: Jun. 9, 2024

Bạn đọc thân mến,

Đại đa số người mình đều bị tình tự mất nước - thảm kịch tháng Tư đen 1975 - chi phối quá nặng, do đó phần lớn thường chỉ bày tỏ sự tiếc nuối miền Nam Tự do đã mất khi bị Cộng sản Bắc Việt [CSBV] cướp vào Apr. 30, 1975, hoặc thậm chí bực tức đổ thừa vung vít tai họa đó cho các giới hữu trách VNCH, mà quên rằng mỗi người dân Nam đều ít nhiều có trách nhiệm trong thảm kịch mất nước.

Thêm nữa, ta phải cần bình tĩnh nhìn lại phía bên kia - tức Bắc Việt,
- a/ Thời Chiến: để khảo xét xem tương quan tình thế giữa 2 miền về mọi mặt, xét xem đất nước, xã hội, con người ngoài Bắc đã diễn ra những gì, như thế nào trong hai mươi năm chiến tranh (như Tự do hay Nô lệ, sung túc hay thiếu đói, văn minh hay lạc hậu v.v...) mà điều này, phần lớn, rất lớn nếu không nói là gần 100% người dân Nam đương thời đều không biết nội tình bên phía CSBV, hoặc biết nhầm - rất nhầm, vô cùng tai hại.
-b/ Hậu chiến: đây là lúc ta càng phải quan sát, ghi nhận để biết rõ khi cướp được miền Nam rồi, thì CSBV làm tiếp, làm được những gì??? Có phải cộng sản đem lại tự do, no ấm, vốn là điều mà chính phủ VNCH lấy làm kim chỉ nam hay không, hay cộng sản chỉ đem lại nghèo đói, lạc hậu, hận thù, tù tội, cướp đoạt, đàn áp, độc tài đảng trị, kinh tế mù lòa ... khiến đất nước tiến sát bờ vực phá sản tan hoang chỉ sau black April chưa tới 10 năm? khiến dân chúng ngao ngán bỏ xứ tìm đường vượt biên 9 phần chết 1 phần sống trên biển cả? khiến đất nước đi vào ngõ cụt từ vật chất đến tinh thần vô phương cứu vãn? Nghĩa là cuộc chiến tranh mà CSBV đứng ra xung phong làm đầu têu cho cộng sản quốc tế rốt cuộc đã hiện nguyên hình là cuộc chiến phi nhân, vô nghĩa, tương tàn mà VNCH đã từng cảnh giác quốc dân lẫn quốc tế biết bao nhiêu lần trước black April là đúng sự thật!
Không kể chi người miền Bắc đại đa số bị bạo quyền CSBV đàn áp và bưng bít hoàn toàn cho nên dẫu chính họ đang ở trong thảm cảnh đui điếc mù lòa về cuộc chiến mà tập đoàn máu Bắc Bộ phủ làm đầu têu, thế nhưng họ cũng chỉ biết rất là ít về thân phận của chính họ, và càng vô cùng mù lòa về những gì xảy ra ở miền Nam cũng như những gì xảy diễn bên ngoài lãnh địa CSBV nói chung!

Còn người miền Nam chúng ta, có diễm phúc hơn họ, được sinh ra và lớn lên trong đất nước Việt Nam Cộng Hòa với nền tảng Tự do - Dân chủ - Tam Quyền Phân Lập, thế thì chúng ta đâu có khó gì để hiểu rõ, biết rõ nội tình Bắc Việt nói chung, hay tâm tư tình cảm nói riêng của từng cán binh cộng sản trong các binh đoàn CSBV bị đưa vào Nam để chịu chết thay - Sinh Bắc Tử Nam - cho mộng nhuộm đỏ Đông Dương của Nga - Tàu đang làm trùm băng đảng Cộng sản quốc tế [ năm 1972 tại Hanoi, trong một cuộc họp, tên đồ tể Lê Duẩn nói: Chúng ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung quốc (trích Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày, Tiếng Quê Hương xb, USA 1987) ]... trừ phi chúng ta ươn lười và thiểu trí.

Trong ý niệm đó, tôi bỏ công sưu lục và kết tập về Post này tất cả những gì khả dĩ phơi bày thực trạng miền Bắc thời cả chiến lẫn hậu chiến, từ những tin tức, tường trình của báo chí và ký giả phương Tây, hay của các nhân vật ngoại quốc có tiếng tăm và uy tín và am hiểu chính đính về cuộc chiến Quốc Cộng tại Việt Nam như Sir Robert Thompson (chuyên viên người Anh quốc về Chống Chiến tranh Du Kích và Dấy Loạn, từng làm Phụ tá cho nhiều đời Tổng Thống Mỹ kể từ thời Kennedy) hay nữ ký giả kỳ cựu người Ý Đại Lợi Oriana Fallaci (từng ra thăm Hanoi năm 1969) ... viết về Bắc Việt trong thời chiến, cho đến các trần thuật sau chiến tranh của vài ba người Bắc Việt thời chiến, nơi các lá thư trong túi áo của cán binh CSBV chết trận khi xâm lăng miền Nam được đăng trên các số nhựt báo miền Nam như Tiền Tuyến, Chính Luận, Hòa Bình, hay cả những tường thuật của vài nhân vật Bắc Việt may mắn sống sót, đôi chục năm sau black April, họ chợt tỉnh và thuật lại trung thực ...

Với nguồn dữ kiện tai mắt đó, có giá trị như thêm mắt thêm tai, thêm một đầu mối khác nữa cho chúng ta có thể khách quan nhận chân đâu là chánh-tà, thật-láo, từ đó ta sẽ thấy được bản tánh tàn ác phi nhân của tà quyền Cộng sản Hanoi, chỉ vì chúng đưa thân làm kiếp tôi đòi cho thế lực cộng sản quốc tế Nga Tàu mà đang tâm chà đạp quê Mẹ và đồng bào, kéo dài thảm cảnh huynh đệ tương tàn cả một chuỗi dài dằng dặc tám chục năm chưa dứt, kéo lê bao tàn phá và oan khốc trên giải đất quê hương Việt Nam hình chữ S này.

Đây là cố gắng của một cá nhân nên không thể nào đầy đủ được cho một công trình như thế, tuy nhiên, mong sao đóng góp này khả dĩ giúp thêm một tay tô rõ sự thật lịch sử Quốc - Cộng của nước mình, đồng thời góp phần đập tan những luận điệu lấp liếm, dối láo, lường gạt, xảo trá, vu vạ, bẻ cong thành thẳng, bôi trắng thành đen của tập đoàn máu Cộng sản Ba Đình. Khi ánh sáng bừng lên thì bóng tối phải bị tiêu ma!

Le Tung Chau
Jun. 9, 2024


$pageOut $pageIn Phân đoạn 2:
Ngày đăng: Jun. 10, 2024

Miền Bắc Dưới Mắt Nữ Ký Giả Ý Oriana Fallaci

Bài gốc của Ký giả Oriana Fallaci đăng trên Tạp chí L'Europeo của Ý Đại Lợi từ số 13 đến số 16 (trải qua 2 tháng 3 và tháng 4) năm 1969. Bản dịch của Cô Long Thành, do nhựt báo Hòa Bình khởi đăng nhiều kỳ trên trang hai kể từ số ra ngày May 3, 1969, cho đến số Jun. 6, 1969 là kết thúc - retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024

Oriana Fallaci, Milan, 1958|© ​Giancolombo/Writer Pictures;

Le Tung Chau ghi chú:

- Oriana Fallaci [1929 – 2006, người Ý Đại Lợi] là 1 female author/writer nổi tiếng, đã xê dịch rất nhiều nơi từ Âu sang Á, chuyên phỏng vấn các nhân vật quan trọng, nguyên thủ quốc gia, và thực hiện các bài phóng sự [non-fiction]. Bà Fallaci là một cây bút năng động đa dạng hơn là 1 ký giả [Journalist] đơn thuần. Bà Fallaci có một sự nghiệp phải nói là đồ sộ chuyên về News –thời sự-, Chính trị Sử quan về cán cân quyền lực & ảnh hưởng quốc tế giữa các khối Tự do và Cộng sản, nhứt là thời Cold War và Vietnam War. Chúng ta sẽ nhận được giá trị của tên tuổi Oriana Fallaci qua thiên phóng sự này, ngoài kiến thức uyên bác cộng với tài diễn đạt, thì nổi trội nhứt vẫn là tâm trí của bà, sự trung thực, yêu nhân bản tính cùng với những suy tưởng thâm trầm, sâu rộng trước thực tế đời sống Lịch sử & Chính trị mà bà đã trải qua với tư cách chứng nhân. Bạn đọc cũng sẽ ghi nhận lối dịch thuật sang Việt ngữ tài tình của dịch giả Cô Long Thành trên nhựt báo Hòa Bình, đã cho ra một bản Việt dịch tuyệt hảo.

- L’Europeo Magazine là tờ Tuần báo của Ý Đại Lợi, thành lập vào Nov. 1945. Đến năm 1995 thì đình bản. Tục bản dưới dạng Tam Cá Nguyệt San trong 2 năm 2001, 2002. Đến năm 2003 thì thành Bán Nguyệt San cho đến năm 2007. Qua năm 2008 thì thành Nguyệt San và kéo đến năm 2013 thì đóng cửa.

Đây là những dòng nhật ký mười hai ngày sống trên Bắc Việt. Tôi đã tới đó lúc còn là tháng Hai, đi qua xứ Cao Miên cùng với phái đoàn phụ nữ Ý, thực không dễ gì mà tới Hà nội được. Chưa từng có một ký giả Ý nào thuộc nhóm độc lập đã có thể đặt chân lên Hà nội và người Bắc Việt cũng thừa biết rằng tôi đã vào ở Saigon ba lần, đã từng theo người Mỹ trong lúc chiến đấu, bận đồng phục của Mỹ, mang theo những giấy tờ của Mỹ. - Oriana Fallaci, May 1969
Oriana Fallaci
Cô là ký giả người Ý đầu tiên đặt chân tới Bắc Việt. - (trang bìa trước Tạp chí L'Europeo số 13, ra ngày Mar. 27, 1969) - collected & translated into Vietnamese by Le Tung Chau, Jun. 2024
Oriana Fallaci ở Bắc Việt.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một thiên phóng sự chưa từng có. Lần đầu tiên, một bài tường thuật trực tiếp của ký giả Ý Đại Lợi trên phần đất Việt Nam phía bên kia. - (trang trong Tạp chí L'Europeo số 13, ra ngày Mar. 27, 1969) - collected & translated into Vietnamese by Le Tung Chau, Jun. 2024
#Hòa Bình May 3, 1969 | Source: Cornell University, Ithaca, New York, US. | digitalized by Vo Phi Hung 2022 | collected and reformatted by Le Tung Chau Jun. 2024

Fallaci in North VietnamL’Europeo Magazine from No. 13, Mar. 27, 1969 to No. 16 Apr. 16, 1969
Miền Bắc Dưới Mắt Nữ Ký Giả Ý Fallaci
Translated into Vietnamese by Cô Long Thành, first post in #HoaBinh May 3, 1969; last post in #HoaBinh Jun 6, 1969
retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024



#HoaBinh May 3, 1969

Le Tung Chau ghi chú:

Thiên Phóng sự này bắt đầu với một đoạn (trích) ký giả Fallaci phỏng vấn Võ Nguyên Giáp. Toàn văn bài phỏng vấn này nằm ở tập sách Interview With History của ký giả Oriana Fallaci, bản dịch (từ Ý ngữ) sang Anh ngữ của John Shepley, gồm 376 trang, do HOUGHTON MIFFLIN COMPANY BOSTON xuất bản năm 1976, từ trang 74 đến trang 87

- Thưa Đại tướng, xin phép hỏi Đại tướng về cuộc hội đàm Paris. Theo Đại tướng, Hòa bình có thể vãn hồi bằng hội đàm Paris hay bằng chiến thắng quân sự như chiến thắng Đại tướng đã đạt được tại Điện Biên Phủ?
- Điện Biên Phủ … Điện Biên Phủ. Sự kiện chúng tôi có mặt tại Paris chứng tỏ thiện chí của chúng tôi, và không thể nói rằng hội đàm Paris vô ích, bởi vì không riêng chúng tôi, mà còn cả MTGP cũng có mặt tại Paris. Thực ra, tại Paris cần phải chuyển đạt trên pham vi ngoại giao những điều xảy ra tại Việt Nam. Như bà biết, Paris là chuyện của các nhà ngoại giao. (Ông ta nói đúng như thế này: « Paris vous savez, madame. Paris c'est une chose pour les diplonates ». Và ông ta đã nói với giọng khinh khỉnh, dằn vặt, nhăn trán, và rồi lắc đầu. Có lẽ tôi đã làm cho ông chán ngấy cả đến danh từ Hội đàm Paris. Trái lại, tiếng Điện Biên Phủ ông nói với giọng đắc chí. Hình như ông ta khoái lặp lại tiếng đó.)
- thưa Đại tướng, có phải Đại tướng đang nói rằng, chiến tranh sẽ không được giải quyết tại Paris? Chiến tranh chỉ có thể giải quyết bằng quân sự thôi, chứ không bao giờ bằng ngoại giao sao? Điện Biên Phủ còn phải tới cho người Mỹ và sẽ tới chăng?
- Điện Biên Phủ, thưa bà, Điện Biên Phủ … Phải, lịch sử không bao giờ tái diễn. Nhưng một đôi lần, cũng tái diễn. Và cũng như chúng tôi đã đánh bại người Pháp bằng quân sự, chúng tôi cũng sẽ đánh bại người Mỹ bằng quân sự. Thưa bà, phải, Điện Biên Phủ của họ còn phải tới, và sẽ tới. Người Mỹ sẽ thua trận hoàn toàn, vào lúc chiên tranh của họ mạnh tới tột độ, và máy móc tối tân của họ xếp thành đống mà không cựa quậy nổi. Chúng tôi sẽ đánh bại họ, nghĩa là vào lúc họ có thêm người. Thêm khí giới, thêm hy vọng thắng lợi. Bởi vì tất cả lực lượng và sự giàu có ấy sẽ thành hòn đá đeo cổ họ. Không thể tránh được.
- Nhưng thưa Đại tướng, nếu tôi không lầm, thì các ông đã thí nghiệm Điện Biên Phủ tại Khe Sanh?
- À không. Khe Sanh chúng tôi đã không muốn và không thể trở thành một Điện Biên Phủ. Khe Sanh đối với chúng tôi không quan trọng gì. Hoặc chỉ quan trọng lúc người Mỹ cho là quan trọng. Bởi vì Khe Sanh là trò ảo thuật của họ. Bà thấy người Mỹ luôn áp dụng cái trò cổ điển đó. Bao lâu còn ở Khe Sanh để bảo vệ uy tín của họ, thì họ nói Khe Sanh quan trọng. Khi bỏ Khe Sanh, họ đã nói Khe Sanh không quan trọng. và rồi, bà không tin chúng tôi đã thắng tại Khe Sanh sao? Tôi bảo thắng, và hư bà biết, các ký giả tò mò lắm? Quá tò mò. Và bởi vì tôi cũng là ký giả, tôi muốn đạo lộn vai trò, xin hỏi một vài câu. «Câu hỏi thứ nhứt: Bà có đồng ý về sự kiện người Mỹ đã thua trận chiến tại miền Bắc không?»
- thưa Đại tướng, tôi có thể nói là thua. Nếu chiến tranh tại miền Bắc chỉ hiểu chuyện oanh tạc thôi, tôi nghĩ người Mỹ đã thua. Vì họ đã không đạt được gì cụ thể, nên họ đã phải nhưng oanh tạc. «Câu hỏi thứ hai: Bà có đồng ý về sự kiện người Mỹ đã thua trận chiến tại miền Nam không?» - thưa Đại tướng, không! Họ đã không thua, hoặc chưa thua. Vì thực ra các ông chưa đuổi được họ đi. Họ đang ở đó. Và họ còn ở đó.

#HoaBinh May 4, 1969

– Bà lầm. Họ còn ở đó nhưng trong những điều kiện nào? Chờ đợi những thất bại mới mà họ đang cố gắng tránh mà không biết làm sao. Những thất bại đang và sẽ còn mang lại cho họ, những hậu quả tai hại, về phương diện kinh tế, chính trị, lịch sử. Họ ở đó khoanh tay bị khóa kín trong chính lực luợng của họ, chỉ hy vọng vào cuộc hội đàm Paris. Và ngay tại đó, họ cũng quá ngoan cố; không chịu từ bỏ lập trường của họ.
- Thưa Đại tướng. Đại tướng bảo tại Paris, người Mỹ ngoan cố. Nhưng người Mỹ cũng bảo các ông như thế. Vậy, Hội đàm này có lợi ich gi?
(Ông làm thinh, bất động. Dường như ông ta muốn nói: không ích gì cả bà ạ). Tôi tiếp lời:
- Thưa Đại tướng, đây chỉ nói hòa bình, nhưng xem ra không ai muốn Hòa bình thực sự. Vậy cuộc hội đàm Paris sẽ kéo dài cho tới khi nào?
«Lâu lắm. Nhất là khi Mỹ không bỏ lập trường của họ. Lâu lắm. Càng lâu vì chúng tôi không bỏ lập trường của chúng tôi, chúng tôi không vội, chúng tôi có kiên nhẫn. Vì trong khi các phái đoàn bàn cãi, thì chúng tôi tiếp tục chiến tranh. Chúng tôi yêu chuộng Hòa bình nhưng không phải Hòa bình với bất cứ điều kiện nào, thứ hòa bình mạo ước. Hòa bình đối với chúng tôi còn có nghĩa là chi khi nào chúng tôi chiến thắng hoàn toàn và Mỹ rút hẳn. Mọi mạo ước sẽ là một hiểm họa nô lệ. Và chúng tôi thà chết không thà nô lệ.»
– Như vậy, thưa Đại tướng, chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu nữa? Dân tội tình này còn phải hy sinh, đau khổ và chết chóc bao lâu nữa?
– Bao lâu cần thiết: 10 năm, 15, 20, 30 năm. Bao lâu chúng tôi chưa đạt được chiến thắng hoàn toàn như lời Hồ chủ tịch đã nói. Phải, dầu 20, dầu 50 năm. Chúng tôi không vội. Chúng tôi không sợ".
(Để trả lời câu hỏi này, ông đứng dậy một lần nữa, và trong khi trả lời, ông không còn là một giáo sự vui vẻ giảng bài, không còn là một chiến lược gia biện bạch nói tiếng Pháp ngon như một khoa trưởng tại Sorbonne, không còn là một chàng trai chưng diện, khoái đàn bà, áo quần ngon nếp, nhà cửa đầy đủ tiện nghi. Mà ông chỉ là một gã cuồng tín múa may lia lịa, mắt đầy căm hờn, mặt đỏ như gấc. Ông làm tôi sợ hơn cả ngàn đạn súng cối, ngàn bom Napalm. Ông đã trở thành như một người khác.
Nhưng khi chúng tôi rời đi, ông trở lại bình thường. Ông đã tiễn chúng tôi tận vườn, và dừng lại, giơ tay vẫy cho tới khi chiếc xe hơi chuyển bánh. Mim cười, yêu đời. Có sĩ quan vây quanh, gồm cả anh chàng có đôi giầy lỏng giây.

Tối thứ bảy:

Trước mắt tôi, có ba tờ giấy nhỏ đánh máy, bản mực than, tôi nhìn đi nhìn lại và không thể tin rằng có thể xảy ra như thế được. Thế mà đã xảy ra thực. Một giờ trước đây, Thể tới và trao cho tôi “bài nào được xuất bản". Bà ta vừa giơ ngón tay trỏ chỉ vào tôi như đế thêm «nếu không, khốn khổ cho bà». «khốn cho bà đó!» Tôi đã cầm lấy, im lặng đọc lại. Dường như không còn những gì mà tôi đã nghe, đã ghi và so đọ với những điều ghi chép của Hổ và Huân. Không có câu nói rằng đây là bản tường thuật cuộc gặp gỡ của tôi với Đại tướng. Các sĩ quan Bộ tư lệnh của Đại tướng đã làm hộ bà bài này. Đại tướng đã chấp thuận. Đại tướng còn bảo bà biết rằng Đại tướng sẽ không công nhận một bài tường thuật nào khác chỉ có bài này.

#HoaBinh May 5, 1969

Ngoài ra không có trả lời về biến cố Tết Mậu Thân! «Điều này xin bà hỏi lại MTGP», không có câu trả lời về cuộc Hội đàm Paris! «là chuyện của các nhà ngoại giao», không có câu trả lời về giải pháp quân sự cho chiến tranh «Điện Biên Phủ còn phải đến với họ», không có... Chỉ có rặt những câu uốn nắn, trống rỗng, và văn sáo, kêu như tuyên truyền. Còn thiếu cả những câu tôi hỏi; kết quả theo mấy tờ này, thì cuộc phỏng vấn diễn ra từ 3 giờ đến 3 giờ 45 chiều đã không hề có, và chỉ là chuyện tôi bày đặt. ĐM, Đại tướng cho chúng tôi là đồ ngu ngốc cả sao ? Τổ Cha Đại tướng! Có lẽ ông đã quên rằng không phải chỉ một mình tôi, lăng nghe ông, mà cùng với tôi còn có ba phụ nữ khác với tai, óc đầy đủ và không điếc đâu! Bởi vì với sĩ quan của ông. với Hổ, với Thể, với Huân, Đại tướng có thể kềm được họ phủ nhận bất cứ lúc nào. Vì họ sống trong lo sợ. Nhưng với Carmen, Giulia, Marisa thì không. Họ không sống trong sợ hãi đâu. Họ đã đọc cả ba tờ giấy đó với cảm giác ngây người và họ đã lắc đầu chua chát: «Mày đừng lấy. Mày phải viết chuyện của mày, câu chuyện thật kia.»
Tôi đáp: Hẳn rồi, chắc rồi. Nhưng tôi cảm thấy buồn man mác. Với nỗi buồn đó, tôi đi dạo, và vô phúc, nếu Thể hoặc Huân, Hồ cản tôi, tôi sẽ bợp ngay nếu ai cố cản tôi lại. Tết đang dâng ngập trời, dân chúng lúc nhúc ngoài đường, bận đồ ngày lễ. Trong công trường nối với khách sạn Métropole, người ta đã dựng một cái bục để diễn trò múa vui: trò bắt được một phi công Mỹ. Phi công có mũi rất dài, quay cuồng như con sâu để xin ăn xá. Các vũ công chĩa lưỡi lê vào lưng. Họ nhãy với lưỡi lê và nón: họ làm thế nào có trời biết. Rồi nhạc hùng hơn, các vũ công đi lui, và trên bục, từ từ hiện ra một lá cờ có khuôn mặt Hồ chí Minh. Gió lay động lá cờ, khuôn má Hồ chi Minn cũng rung theo, Quần chúng vỗ tay hoan hô: dễ dạy thật! Người ta bắt đầu nổ pháo. Và lúc đó tôi liên tưởng tới Tết năm ngoái tai Saigon lúc đám đông cũng như đây; tụ trên dường phố, cũng như đây. Nổ pháo, và bỗng dưng tiếng Canon, liên thanh, súng cối xen lẫn tiếng pháo. Bắt đầu cuộc tấn công mà nay Giáp không nhận là cha đẻ Tôi tự nhủ, biết đâu, cả đây nữa, đêm nay? Sau, tôi lại tự nghĩ: đây không đâu, không xảy ra gì đâu và mọi người đều nghĩ như thế. Tôi dạo dọc theo bờ hồ, dưới những ổ phóng thanh đang sủa những vần thơ của Hồ chí Minh. Và tôi tới Chùa, thấy người Nga và người Tàu đang đợi vào. Dĩ nhiên là họ không nhìn nhau Trong chùa, đang cử hành một nghi lễ tôn giáo. Ông sư bận đồ đen, các bà già Phật tử quỳ lạy sát đất, trán chạm nền. Họ cúng trước tượng Phật bằng đồng nào đồ ăn, thịt chín, rau cỏ, họ tụng kinh dịu dàng và dâng hương VN một trăm năm trước đây. Lúc đó, một tốp con trai tay cầm khăn đỏ bắt đầu chế nhạo mấy Ông Sư, người Tàu cười. Còn người Nga lại cau mày giận dữ.

Giờ đây tôi đang ở trong phòng tôi. Hai chàng Boris của tờ Novosti muốn tôi ở lại cùng uống champagne với họ nhưng tôi muốn nghĩ một mình. Dưới kia vang lên tiếng đùng đùng dữ dội, một làn khói đặc: họ chỉ nổ pháo chơi. Sắp nửa đêm. Và đây là tới nửa đêm. Năm Khỉ qua, năm Gà đã bắt đầu. Tiếng pháo nổ gấp đôi, gấp ba, trở thành 1 tiếng động duy nhất, mênh mông rung cả thành phố. Bạn tưởng đó là tiếng bom Hoa Kỳ oanh tạc. Nhưng sao người VN lại thích những tiếng động đó, sao họ có thể vui chơi khi có tiếng nổ xen vào.

$pageOut
$pageIn
Fallaci in North VietnamL’Europeo Magazine from No. 13, Mar. 27, 1969 to No. 16 Apr. 16, 1969
Miền Bắc Dưới Mắt Ký Giả Fallaci
Translated into Vietnamese by Cô Long Thành, first post in #HoaBinh May 3, 1969; last post in #HoaBinh Jun 6, 1969
Retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024

#HoaBinh May 6, 1969

Hai tuần viếng thăm Bắc Việt của ký giả Oriana Fallici

Fallaci đã làm cách nào để được đi Hanoi?

L.T.S.: Bạn đọc đã có dịp thưởng thức tài phỏng vấn của Oriana Fallaci qua những câu đối thoại giữa nữ ký giả và Tướng Võ Nguyên Giáp. Giờ đây, chắc bạn đọc muốn biết rõ thêm, Fallaci đã làm cách nào để được đi Hanoi.
Chúng tôi mời bạn đọc ngược giòng thời gian, trở lại hồi tháng Ba khi trời Bắc Việt đang giá buốt. Và nghe nữ ký giả Fallaci kể lại những cảm tưởng của nàng.


Trước hết tôi, lo sợ... lo sợ vì ngay khi máy bay vừa hạ cánh xuống phi trường tối om om, hai viên cảnh sát vội bước lên, thâu ngay giấy thông hành và sẽ trả lại lúc tôi ra đi. Đây là những người Bắc Việt đầu tiên mà tôi thấy họ khi họ đang sống. Tại Miền Nam VN tôi có thấy họ, nhưng toàn khi họ đã chết rồi. Tôi còn nhớ họ nằm chồng chất lên nhau trong hầm hố Dakto, thây nát tơi bời nơi thành nội Huế, và thối rữa dưới ánh mặt trời Saigon. Nhìn những thây xác đó tôi có cảm tưởng chỉ có thể thấy được người miền Bắc khi họ đã chết rồi thôi. Chính vì thế mà tôi cảm thấy thương họ, muốn đến tận nơi đây để nhìn họ đang sống, tôi muốn biết xem họ sống thực không. Thì đây, qua luồng sáng của chiếc đèn nho nhỏ, tôi tìm trông khuôn mặt họ, tôi mỉm cười với họ và chào họ Buona Sera (Good evening). Nhưng không ai trong hai viên cảnh sát trả lời, không ai mỉm cười lại với tôi, nét mặt họ trơ trơ như đá, cặp mắt họ còn lạnh hơn cả cái lạnh buốt uà từ cửa vào khi họ giật mở để cho phép chúng tôi bước xuống. Tôi đi tới Ha Noi.

Mùa đông thực giá buốt, nhưng không phải vì mùa đông mà giờ đây tôi phải rét run ; tôi thấy giá buốt là vì hai tròng mắt đanh thép và hận thù của con người trao cho tôi mẫu giấy phải kê khai tất cả những gì tôi mang theo trong mình và trong va-li, cả đến chiếc đồng hồ, bút máy, nhẫn đeo tay và kiềng đeo cổ. Cùng với máy ảnh, tôi còn phải khai mang theo bao nhiêu cuộn phim đen trắng và màu, vì phim đen trắng sau khi chụp phải đem rửa và kiểm duyệt, còn phim màu cấm không được dùng. _ « Tôi chỉ có ba cuộn », tôi khai dối mà lòng sợ như cáy. Tôi cũng lường được cái tai họa sẽ xảy đến nếu họ biết tôi khai dối. Họ biết tôi không phải là Cộng sản, và có thể nhân cái lỗi lầm đầu tiên này, họ thải tôi về với chiếc phi cơ mà tôi vừa xuống.

– « Hãy đem ra đây cả ba cuộn » Tôi đã giao cả ba. Tôi bước lên chiếc xe hơi dẫn và thành phố, qua chiếc cầu đã bị phá hủy vì trúng bom Mỹ, băng ngang nhiều đường phố vắng teo, chỉ gặp thấy vài chiếc xe camion quân sự, cuối cùng tới khách sạn. Chỉ tới đó, tôi mới bớt sợ. Nhưng tôi lại cảm thấy chua chát dày vò lương tâm tôi. Từ phương xa và từ bên kia bờ đại dương, tôi đã yêu họ lắm. Và có lẽ tôi đã yêu họ quá, khóc họ nhiều và lý tưởng hóa họ quá nhiều, Nhưng nay tới gần họ chỉ làm tôi đau lòng.

Đây là những dòng nhật ký mười hai ngày sống trên Bắc Việt. Tôi đã tới đó lúc còn là tháng Hai, đi qua xứ Cao Miên cùng với phái đoàn phụ nữ Ý, thực không dễ gì mà tới Hà nội được. Chưa từng có một ký giả Ý nào thuộc nhóm độc lập đã có thể đặt chân lên Hà nội và người Bắc Việt cũng thừa biết rằng tôi đã vào ở Saigon ba lần, đã từng theo người Mỹ trong lúc chiến đấu, bận đồng phục của Mỹ, mang theo những giấy tờ của Mỹ.

#HoaBinh May 7, 1969

Có lẽ họ còn biết cả chuyện một hôm, tôi cùng đi với một phi công người Mỹ, vô nhân đạo nhất, trong chuyến bay A.37 bỏ bom miền lưu vực, dội xuống những trái bom cháy.
Tưởng không bao giờ được xem thấy Hà Nội, thế nhưng, chiều hôm đó, một chiều thứ Sáu, tôi đã tới phi cảng Hà nội. Và kể từ chiều ngày đó, tôi đã ghi vào cuốn tập tất cả những gì tôi đã nghe, đã thấy, và đã cảm. Cuốn tập dó, đáng lẽ là tài liệu tôi phải khai thác để viết nhiều bài báo. Nhưng khi đọc lại, tôi nghĩ tốt hơn, và trung thành hơn là để nó như đã ghi, cùng lắm là bổ túc với những kỷ niệm và ghi chú khác. Và đây, tôi xin hiến bạn đọc cuốn tập đó, dẫu vẫn biết rằng có kẻ sẽ tức giận, sẽ thích khi không được thích. Nhưng đó cũng là phận kẻ cầm bút phải luôn luôn theo lương tâm hơn là thị hiếu của đa số. Một nghề không sung sướng gì.

Hà Nội tháng Ba

Đêm thứ Sáu: Tôi muốn khai trương ngay cuốn tập. Nó sẽ giúp tôi không quên một chi tiết nào, và tôi thắng được cái cảm giác rờn rợn trong tôi. Thực vậy, tôi đã hiểu ngay rằng tại đây tôi không thể làm việc như hồi ở Saigon, được người Mỹ cho tôi tự do đi lại ngay cả khi nói xấu về họ.
Ở đây, tôi chỉ được thấy những gì họ cho tôi thấy, nghe những gì họ cho tôi nghe, đi những nơi họ cho đi. Chưa kịp liếc thấy Hà nội thì tôi đã bị giao cho hai nữ cán bộ (hộ tống) và họ không lìa tôi bao giờ; dường như tôi là (trò) đùa giữa Mèo và Cáo. Mèo này tên Thể, một bà già quãng hơn 50 tuổi, khuôn trăng tròn trịa, thân hình nở nang, hai con người lúc nào cũng dò xét tôi tận tâm can. Cáo kia tên Huân, lùn khoảng một mét bốn mươi, mảnh mai gầy còm. Trông bà chỉ thấy rõ hàm răng bàn cuốc, dô ra ngoài đến nỗi miệng bà không khép lại được.
Tôi đã khổ nhiều vì hàm răng đó và vì đôi tay bà như gông cùm rắn chắc tựa hàng rào sắt. Đặc biệt là khi bà kéo tôi đay đảy không cho tôi lìa xa bà. Hồi chiều, tôi mới ra trên bè phố. Bà đã đến ngay và bảo:
«Không, không, vào trong đi.» Nhưng bà Huân ơi, tại sao? Tôi muốn dạo phố mấy phút. «Không, không để ngày mai». Nhưng tại sao để ngày mai, bây giờ không được sao? Mới có chín giờ? «Ngày mai» Bà vồ lấy tay tôi lôi vào khách sạn.
Họ cho chúng tôi trọ tại nhà Métropole. Từ năm 1954, họ gọi là khách sạn Thống nhất, nhưng ngoại kiều vẫn gọi là Métropole. Đây là một khách sạn dành cho ngoại kiều, sang nhất thủ đô, còn những khách sạn khác, sức mấy mà biết được.

#HoaBinh May 9, 1969

Le Tung Chau ghi chú:

hiện bộ tài liệu Nhựt báo Hòa Bình của tôi bị khuyết, không có số #HoaBinh May 8, 1969, nhưng đọc tiếp (loạt) bài này trên số #HoaBinh May 9, 1969 thì thấy vẫn liên tục với bài trên số #HoaBinh May 7, 1969

ORIANA FALLACI: Phụ nữ Saigon đẹp nhứt Thế Giới. Còn phụ nữ Hà Nội?

Từ lúc người Pháp xây lên tới giờ, người Việt Nam không hề ngó đến, ngay cả việc sơn trắng lại, có lẽ chẳng bao lâu nữa, nó sẽ tan ra thành từng mảnh. Cửa sổ không đóng nổi, ống dẫn nước không thông, nước nóng không chảy, và đâu đâu cũng bẩn thỉu không tưởng tượng được nhưng không ai khiếu nại gì được. Vì ngoài lý do là một nước chiến tranh họ còn nhắc tôi nhớ rằng tôi là khách. Thực đúng thể, không một ai có thể đến thăm viếng hay du lịch Việt Nam, chỉ những ai là khách của chính phủ mới được vào. Rồi cũng chính Chính phủ lo liệu cho mọi chuyện từ chỗ cư ngụ, ăn ở, phương tiện chuyên chở, đến những đồng tiền tiêu vặt.
Vừa tới thủ đô, tôi đã ngỏ ý với Thể, tôi muốn đổi một ít Đô la thành tiền Hanoi. Bà hỏi: «Để làm gì?.» Để mua vài tấm cạc. «Cạc chúng tôi cho bà». Phòng khi tôi muốn mua vài con tem. «Tem chúng tôi cũng đem tới cho bà» Vậy trường hợp tôi muốn mua gói thuốc lá!
– «Thuốc lá có sẵn trong phòng bà, cùng với trái cây, nếu không đủ thì bà chỉ có việc xin thêm». Tôi đùa, nhấn mạnh thêm với vẻ nhà "tư bản": nếu không có tiền trong túi, tôi đau! Bà ta cầm lấy 50 đôn, nhưng rồi nói ngay: Bàn giấy đổi tiền đóng cửa bây giờ cho tới thứ Hai, và thứ Hai chúng ta sẽ đi về các tỉnh, lại không cần tiền chi cả!
Xin mở ngoặc, không lạ gì ở đây chỉ có tiền đôn là phải đổi. Tôi liên tưởng tới những lính thủy Hoa Kỳ tại Saigon, trong vài tiệm buôn, họ không thể trả bằng tiền đôn, rồi thất vọng, văng tục: Mẹ, cái đồng tiền tốt nhất thế giới!

Chương trình lưu ngụ của chúng tôi được sắp xếp sẵn hết ngay cả những chi tiết nhỏ mà chúng tôi không hề được hỏi ý kiến. Chỉ có một điều tôi xin là được chấp thuận: Gặp Đại tướng Giáp và hai phi công Hoa kỳ. Nếu trường hợp tôi có thể tiếp xúc với ký giả ngoại quốc, họ cũng sẽ cho tôi chỉ thị. Tôi biết có ký giả Nga Sô của tờ Tass, tờ Lavestia, tờ Novosti, ký giả Pháp tờ France Presse và Humanité, hai ký giả người Cuba, nhưng gọi điện thoại và đến bàn giấy họ đều không thể được. Toàn thành phố Hà nội chỉ có 300 điện thoại kể cả những cái không xài được. Tại Métropole chúng tôi ở, phải xin qua người giữ cửa, và người này lại không trả lời hoặc giả vờ không hiểu. Taxi không có, ô tô toàn thuộc về nhà nước, không thể dùng nếu không có phép đặc biệt. Vậy có trốn được Huân tôi cũng không thể đi xa. Liên lạc giữa những ngoại kiều với nhau càng không được. Lúc tôi ngỏ ý với Thể tôi muốn gặp các bạn đồng nghiệp Nga và Pháp, bà ta đớ ra và bảo phải xin phép Bộ Thông tin. Thất vọng quá. Chỉ mỗi 4 giờ đồng hồ là đả đủ cho tôi liên tưởng tới câu chuyện của Kafka và sách Orwell viết. Ấy chết, nếu khám phòng họ sẽ bắt được tôi đang giữ mấy cuộn phim màu. Tốt hơn nên cất một chỗ khác. Hay gửi cho Carmen, Giulia và Mariza giữ giùm, là ba phụ nữ khác phái đoàn. Carmen và Giulia thuộc Cộng sản.

#HoaBinh May 10, 1969

Còn Marija thuộc đảng Xã hội “Đoàn kết vô sản”. Họ phải là những người ít bị nghi ngờ hơn tôi. Mà ngay cả Carmen, Giulia, Marija trông cũng bối rối ngay từ buổi gặp gỡ lần đầu với Hà nội. Carmen đã nói một điều «chúng ta tới nhằm lúc thanh bình, nghĩa là lúc không cần khoan dung» Tôi cho là nói đúng. Có lẽ một năm trước đây khi Hànoi còn bị đảo lộn bởi tiếng còi báo động phòng không, bởi tiếng bom đạn nổ đùng đùng, bởi hoàn cảnh bi đát, tôi sẽ không để ý đến những điều nhỏ mọn và việc anh hùng của họ sẽ mê hoặc tôi. Nhưng nay đã hết bỏ bom thì cũng hết luôn bầu không khí anh hùng, những khuyết điểm hiển nhiên cứ lù lù ra trước mắt.

Nhưng đợi xem, rồi phán đoán. Bây giờ, đi ngủ đã. Vì ngày mai phải thức dậy 6 giờ, và hẹn gặp nhau bảy giờ. Hình như ở đây người ta thức dậy lúc vừa rạng sáng, tựa như trong các tu viện. Mà bất cứ gì tôi thấy từ lúc bước khỏi xuống phi cơ, là tôi nghĩ tới một tu viện. Tôi muốn nói đời hy sinh đó có nghĩa hoàn toàn thiếu tiên nghi, thiếu tươi vui, thiếu vẻ đẹp. Không phải vì chiến tranh. Ở Saigon cũng có chiến tranh. Và xét cho cùng, Saigon còn bi đát hơn Hà nội: bị bom đạn Mỹ, bom đạn mìn của VC, Bắc Việt và cả của Nam Việt Nam, bị tê liệt vì lệnh giới nghiêm, vì chiến đấu trên đường phố. Thế nhưng, tại Saigon dân còn biết cười, biết đánh giá cái hay và phụ nữ Saigon là những phụ nữ duyên dáng nhất thế giới. Còn phụ nữ ở đây, nhìn coi. Bẩn thỉu, biếng chải và quê kệch. Có lẽ họ muốn la lên: Mẹ, chải làm gì, son phấn làm gì khi còn trong hỏa ngục. Có lẽ noi gương Hồ Chí Minh, luôn chôn mình trong 1 thứ phòng kín nơi dinh Chủ tịch với 1 giường nhỏ, 1 cái ghế đẩu, 1 chiếc bàn, 1 cái tủ, và cứ vậy 14 năm nay, chỉ có ba bộ đồ, ba đôi «xăng đan». Hay theo gương một người nào khác … Ở đây, tại Métropole, có đến 50 người Tàu. Các sứ giả hữu quyền đó sống ở nhà phía bên kia vườn, chẳng bao giờ xuất hiện. Nhưng năm phút trước đây, giáp mặt họ tại cầu thang, tôi thấy họ ngang qua. Họ nối nhau theo một hàng, không một nụ cười. Họ mặc đồng phục y hệt như nhau, không nói một tiếng! Trông họ như những Ông dòng đang đi vào nhà thờ để tụng kinh chiều. Chỉ khác là thay vì thánh giá trước ngực, họ lại đeo ảnh ông Mao.

Sáng thứ Bảy

Tôi trốn. Và tôi đã thành công ngay sau khi tiếp kiến bà Nguyễn thị Tập, chủ tịch Hiệp đoàn phụ nữ VN. Là nhân vật cao cấp, nếu chỉ tôi được phỏng vấn bà bằng bốn con mắt. Bà đã mất tất cả con cái vì chiến tranh, người con út chết năm nay tại miền Nam, và bà vẫn cười thản nhiên. Tôi ngờ bà sẽ khoái chí lắm khi hỏi bà sao có thể cười được như thế. Những sau bốn chục phút trong phòng khách, dưới chân dung Hồ chí Minh, cuộc trao đổi hết sức là lộn mửa, chán ngấy vì toàn những hỏi thăm xã giao lấy lệ, nâng chén trà không đường, tôi thấy cần rút lui gấp.

Lúc Huân và Thể đem chúng tôi về khách sạn, họ bị chia trí, phân tâm, chớp thời cơ, tôi dông tuốt về phía bờ Hồ, lén nhập vào bọn thiếu nhi, chúng sờ tôi, lôi tôi và choàng lấy tôi. Sau đó tới một đám đông, họ vây quanh tôi thành một vòng người câm, ngơ ngác nhìn tôi như ngắm một người từ Hỏa Tinh rơi xuống. Hai người dân quân cũng dừng lại, tôi quýnh lên vì đang mang chiếc máy ảnh. Nhưng sau khi nhìn tôi với ác ý, qua cái mũ cối gắn sao đỏ, họ bỏ đi. Bị truy nã và hành hình hết cỡ, uất chí, tôi lại tiếp tục đi.

#HoaBinh May 12, 1969

LTC: Sở dĩ không có báo Hòa Bình ngày May 11, 1969 là vì vào 8 giờ tối ngày May 10, 1969, Việt cộng đặt 10 kylograms chất nổ TNT phá hoại Trạm Biến điện ở góc đường Lê Lai và Bùi Chu thuộc khu vực Công viên Chí Linh gần nhà thờ Huyện Sĩ. Vụ nổ xảy ra và đã làm các con đường Võ Tánh, Bùi Chu, Phạm Ngũ Lão và một phần đường Lê Văn Duyệt tối thui do hỏng điện, vì thế báo Hòa Bình không thể chạy máy in báo, và số báo đề ngày #HoaBinh May 11, 1969 đã không ra lò được. Số báo #HoaBinh May 12, 1969 vẫn kế tục những mục thường xuyên tiếp theo các số trước.


Tôi không thấy gì đổ nát. Những nơi bị bom đạn hẳn là ở miền Ngoại ô, dọc theo đường hỏa xa. Còn trung tâm thành phố, không một ngôi nhà sụp đổ, rạn nứt, những hầm trú là coi như dư thừa. Hàng trăm, hàng ngàn cái Hầm tròn dọc ven đường là hầm trú cá nhân. Trông giống như quan tài hình viên trụ, nắp đậy bên cạnh, lỗ chỗ bên dường như những miệng núi lửa nhỏ trên mặt trăng. Phải cẩn thận lắm mới khỏi rơi vào đó, từ hố này sang hố khác cách nhau chừng 50 centimét.
Tôi đã chụp hình. Một người đàn bà đồng ý xuống đó cho chúng tôi chụp, Đám đông đứng chung quanh không đồng ý lắm. Khi bà lên khỏi hầm, tôi cố nói tiếng Pháp, nhưng bà không hiểu, và một sinh viên công nhân biết chút ít Anh ngữ xen lời. Tôi nói: «Bây giờ không còn bỏ bom nữa, hết rồi!» - Cô đáp: «Đừng tin, sức mấy, người Mỹ nói láo. Chúng tôi sẵn sàng». Tôi nhấn mạnh thêm: «thật mà, hết rồi, hết thực rồi». Cô bĩu môi, có thể hết, có thể không, Giôn Sơn vẫn còn. Gion Son là chỉ Johnson, và ở đây có nghĩa là bom đạn. Trời ơi, những trận bom đạn chắc là những gì ghê gớm lắm, đến nỗi bây giờ họ vào chưa tin là chấm dứt. Từng giờ, từng giờ, ngày cũng như đêm, tuần này sang tuần khác, tháng này sáng tháng khác, mãi mãi. Carmen rất có lý khi nói: Ta phải biết từ 31 tháng 3 năm 1968 trở về trước đã kinh khủng thế nào. Phải, tôi đã biết.
Nhưng tại sao tôi không thể sống lại những cảm xúc đã có hồi tôi còn ở xa? Và tại sao đối với thành phố này, tôi chỉ thấy buồn bã tang tóc, độc điệu ám ảnh?
Để dẫn chứng, tôi không thấy màu sắc gì. Tất cả đều ăn vận cùng màu, đàn ông, đàn bà, cũng như trẻ con. Xanh, như người Tàu. Lúc nào không bận đồ xanh, thì bận đồng phục, màu xám. Vì thế chỉ có màu đỏ của những lá cờ đỏ mới cắt được biển màu xanh và xám đó. Rồi tôi không bao giờ nghe thấy tiếng động đặc biệt, sống động của một thành phố. Không kể vài chiếc Camion, vài chiếc xe điện cọc cạch chở dăm ba mạng, còn toàn là xe đạp. Từng đoàn xe đạp nối đuôi nhau chạy như nước chảy, kêu cót két, chẳng bao giờ bật chuông. Cả xe Camion cũng không bao giờ nhận kèn nên cả thành phố chỉ yên lặng, thứ yên lặng vô nhân đạo, ác nghiệt, không thể chịu đựng nổi; thỉnh thoảng thứ yên lặng đó bị gián đoạn bởi tiếng hát mênh mông, những bài ca kháng chiến. Tôi đã sửng sốt nhìn, cố tìm xem giọng hát từ đâu. Từ khắp nơi, từ mái nhà, từ gốc cây. Những máy, loa phóng thanh, trước đây dùng để báo động phòng không, nay lại dùng để phóng thanh các lệnh, tin tức và thi ca Hồ Chủ tịch, điệu hành quân và lời ca tiếng hát của ca đoàn rống lên như điên. Và khi nó im bặt rồi, lại trở lại tâm trạng chán chường và đau điếng. Tất cả nhà cửa, công thự đều từ thời Pháp để lại.

#HoaBinh May 13, 1969

Người Pháp ra đi, không ai xây thêm gì. Còn tệ hơn nữa, không ai thèm duy trì những gì đã có. Vì thế những công trình đời Tây rất duyên dáng sạch sẽ, bây giờ hết mê, bẩn thỉu và nứt rạn. Dân sống chen với chuột bọ và hít mùi hôi. Đây, nhà hát lớn, trước kia không sao, ngày nay long ốc đến cả cửa chớp. Rạp chiếu bóng, xưa không thua kém gì của chúng ta, nay la 1 tửu quán. Phải chăng vì đàn ông bận đi chiến đấu. Không, đàn bà có thể làm thay đàn ông, chẳng khó gì. Chỉ cần quét một tí, sơn vôi, đóng đinh lại.
Không một tiệm ăn nào. Cũng không có tiệm buôn nào cho ra tiệm. Chỉ một tiệm ăn độc nhất và chính hiệu nhưng lại cấm người Việt, chỉ ngoại kiều mới được lui tới, đa số là người Lào và Cuba, trông như một quán cơm bình dân hạng ba, vào đó đã hết muốn ăn. Còn những tiệm buôn, chỉ một tiệm nhỏ xíu với hai tấm vải và hai tượng các cô làm mẫu, tóc hung kiểu tóc người Pháp hồi năm 1930. Sót lại một tiệm sách, toàn tài liệu tuyên truyền và «Thánh sử» Hồ chí Minh, một chỗ bán tem cho những ai sưu tầm bưu hoa, các đĩa hát cách mạng, và những chân dung Karl Marx. Muốn có quyền mua, phải có Các (các = card = thẻ, phiếu v.v…) mua hàng, và phải mua tại gian hàng Mậu Dịch cao ba tầng. Dọc bờ hồ, có một tiệm nữ trang. Có một loại bạc đẹp nhưng lại không bán, một vài chiếc cà rá và lược chải đầu bằng thép máy bay Hoa Kỳ bị bắn rơi, vài đồ nữ trang khác bằng mai rùa, một đĩa cà phê với bảy hạt đá không quý là bao, một chiếc vòng kiềng bằng hạt ngọc giả và thủy tinh, mà mỏ vịt đã rỉ sét, chưng bày nơi cánh tay thạch cao, giống với tay người Âu châu. Vòng này để trên kệ thủy tinh, đóng kín, giá 6đ - lối 600 lire (5 NF).

Tôi đau khổ như thể chừng một tiếng đồng hồ. Khi trở về khách sạn, hai cán bộ hộ tống tôi đã chực sẵn để nổi cơn tam bành. «Từ bấy đến giờ, bà đã ở đâu? Làm gì? Không có phép, không được!» Huân đưa bàn tay như móng vuốt chộp lấy tôi, tưởng như tôi bị bà cấu.

Tại sao dân này không biết làm bạn với ai, mà cũng không biết giữ lấy bạn? Người bạn đến thăm với lòng kính cẩn, đầy nhân đạo, nhưng vừa mới di động đã bị tố ngay vào mặt.

$pageOut$pageIn
Fallaci in North VietnamL’Europeo Magazine from No. 13, Mar. 27, 1969 to No. 16 Apr. 16, 1969
Miền Bắc Dưới Mắt Ký Giả Fallaci
Translated into Vietnamese by Cô Long Thành, first post in #HoaBinh May 3, 1969; last post in #HoaBinh Jun 6, 1969
Retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024

#HoaBinh May 14, 1969

Hai Cô Gái Miền Nam Ra Bắc

Trưa thứ Bảy

Khiển trách xong, họ dẫn chúng tôi đến dinh Mặt trận Quốc gia Giải phóng. Đi bằng xe tới, dầu chỉ cách Métropole trăm thước thôi. Bà bảo: ở dây, không thể đi bộ, vì «xe đạp nguy hiểm lắm». Tôi hỏi: «Ngay cả trên hè phố sao?» – «Ừ ngay cả trên hè phố». Khổ quá, với họ, tôi chỉ có việc giam mình trong chiếc xe cổ ơi là cổ.
Tòa mặt trận là một biệt thự sạch sẽ, trông hệt Tòa Đại Sứ, có lính gác, có cờ riêng. Người ra tiếp tôi, trạc tuổi trung niên, vẻ thân tình, tên là Nguyên phủ Soái, quê Saigon. Khi Thể bảo tôi biết Saigon lắm, mắt ông liền đẫm lệ. Ông nói: «Xin bà kể cho tôi nghe, nghe nói Saigon bị phá hủy hết. Đồng bào Saigon cực làm sao? Tôi không thấy Saigon từ 12 năm nay.» Nhưng hai nữ hộ tống đã cắt ngang câu chuyện vì không thuộc trong chương trình. Chương trình là phải phỏng vấn hai nữ anh hùng VC được dẫn ra sẵn trước mặt tôi.
Một em gái, mắt hiền như mắt nai, mang tên Hồ thị Thu, và một thiếu nữ mang tên Huỳnh thị Kiến cụt một chân. Chị này bị Mỹ bắt và được dân quân giải thoát. Họ vào chuyện, có chị Huân, Thể và Nguyễn phủ Soái đều tham dự cuộc phỏng vấn, bối rối giải thích những gì tôi hỏi và Kiến trả lời. Xen lời, còn 1 mạng khác khô khan, từ nay hắn theo tôi khắp nơi để thông ngôn: đồng chí Hổ. Như vậy kết số là có 3 mạng hộ tống tôi.

Huỳnh thị Kiến người Quảng Nam, mù chữ, hăm mốt tuổi, mập nộn, quê và rầu mặt. Cùng với các anh, tham gia kháng chiến từ năm 1958, lúc đầu giữ chức điểm báo viên, sau trở thành chiến sĩ dân quân. – Xin chị Kiên thuật lại lần đầu tiên Chị đã giết được một người. – Không những một, mà ba cơ (Kể xem): 1 vào 1954, trên đồi gần Đà Nẵng, vào chín giờ tối, trời mưa tầm tã. Tôi cùng với một cô gái khác, tham gia nhóm ba chục đàn ông. Mỗi người chúng tôi mang 4 lựu đạn. Có thế thôi.
– Chỉ có vậy, chúng tôi trườn tới đỉnh đồi. Tôi chưa bao giờ thấy “thằng Mỹ”, chỉ nghĩ tới “thằng Mỹ” là tôi muốn cho nó bị gãy giò. – Người Mỹ đó thế nào, chị Kiến? – To con, hạng bự, nhiều lông, lông ở mặt, ở cánh tay, ở cả bàn tay. Lông đỏ. Bộ lông đỏ ghê tởm ấy làm tôi sợ, tôi tương cho nó một quả và đã trúng. Hắn la lên, vừa la vừa khóc. Hai thằng khác như hắn chạy đến, chắc để giúp hắn Tôi cố chờ chúng sát gần hắn, rút một quả khác, tôi tương cả ba thằng thế là đi đời, nát ra thành từng mảnh vì tôi đúng gần. –Chị cảm thấy gì khi họ đã nát thành từng mảnh? – «Tôi khoái lắm, muốn cười cho đã.»

«Còn chân cô mất hồi nào?» – «Ba năm sau, gần Hội An» – «Mất trong trường hợp nào, hở chị?» – «Mỹ cưa: Tôi là nạn nhân của bọn Mỹ» Thể nở mặt hả hê! Huân gật gù hả dạ. Soái đắc chí thỏa mãn. – «Họ cưa chân chị thế nào? ¬– «Chúng tra tấn. Tôi té xỉu. Tỉnh dây, giò bay mất rồi.» Kiến ạ, người ta không cưa giò để tra tấn đâu. Cần có một cuộc giải phẫu đàng hoàng mới có thể cưa chân và để khỏi chết vì chảy hết máu! – «Tỉnh dậy thì chị ở đâu?» Thể nhăn mày, Huân ác cảm nhìn tôi. Soái cắn môi. – «Tôi ở trên giường» – «Và chân chị băng rồi à?» – «Vâng, băng rồi» – «Chị ơi, hãy nói thật cho tôi biết: có phải họ bắt được chị lúc chân chị đã bị thương không?» – «Vâng, tôi đã chiến đấu và bị thương ở đó» – «Có thể rằng người ta đã cưa chân chị tại bệnh viện vì không biết làm gì khác?»

#HoaBinh May 15, 1969

– «Nhưng cần nói cho rõ, chị Kiến!»
Tới đây Soái bảo Kiến còn nhiều việc phải làm. Thể nói Kiến mệt. Kiế vâng lời đứng dậy, khệnh khạng với chiếc chân gỗ và tôi không biết gì hơn nữa. Đến phiên em nhỏ.

Hồ Thị Thu, nghĩa là mùa thu, đồng hương với Kiến, cũng mù chữ, nhỏ người, dễ thương, 15 tuổi. Nhưng trông cùng lắm là 12 tuổi, và thực phi lý, mới cỡ đó mà đã đóng đồ du kích lên người. Họ cho em mặc áo xanh sẫm, đội nón VC, đi dép VC, một trong nhiều đồ trang điểm của em, rồi dẫn em đến với tôi. «Thu ơi, em làm gì?» Chị biết không, em đã từng bám sát địch, đề biết địch đi đâu, đem khí giới theo địch đến tận rừng. Họ hạch em: «gái này, mày đi đâu?» Em trả lời: Em di thăm bà về. Họ lại bảo «mày là VC!» Em đáp: đâu có!
Chị biết không, mới đầu, em sợ lắm. Nhưng trong đại hội du kích quân ở rừng, cán bộ đã giải thích cho em hiểu rằng, chiến thắng và giải phóng quê hương, không được sợ! «Thu ơi, em hiểu chiến tranh là gì không» Ồ, chiến tranh là người Mỹ.

– «Thế, Tổ quốc nghĩa là gì?» Ồ, em chẳng biết, em chỉ làm những gì các Bác và Thím bảo em làm, em chẳng hỏi gì, nhưng em chắc tổ quốc là nơi có má em, và em thiếu má từ lâu. Các Bác và Thím tốt lắm, nhưng mà với em cơ!

Các Bác và Thím là những đảng viên Cộng sản. Thu sống với họ từ lúc họ mang Thu ra Hanoi để huấn luyện thành 1 du kích thiện nghệ, rồi lại gửi vào Nam. Rõ là Bác và Thím không đủ cho em nên em cứ đứng sát vào tôi đầy vẻ quyến luyến, đăm đăm nhìn tôi và theo sát tôi. «Thu, em biết nước Ý ở dâu không.» Em biết chứ, ở xa, xa lắm, tận Âu châu, gần Pháp. «Nếu chị đem em qua Ý, má em có chịu không?» Má em sẽ khoái lắm, nếu em không bị bận với chiến tranh. Tôi buột miệng la lên: Chiến tranh tởm quá!? Mọi người đứng đớ ra. Dầu tôi có chửi đổng đi nữa. Với giọng đanh đá, Thể hỏi tôi: "Bà chủ hòa hả?” Barry Zorthian giám đốc JUSPAO ở Saigon đã hỏi tôi cùng một câu hỏi, cùng luận điệu, nhưng Barry Zorthian hỏi xong còn cười và kể tôi là hạng ”lý tưởng ngây ngô”. Thể thì không. Bà ta thích chiến tranh chăng!? Tôi vẫn nghĩ thế. Cũng như tôi vẫn nghi ngờ rằng, người Bắc và Nam thuộc MTGP là không cùng chung một giòng máu Việt. Các bà hộ tống tôi khá là lãnh đạm với Soái, nếu không phải là khinh.
Khi họ bỏ ông, tôi nói với Thể một cách tự nhiên: «Ông ấy cũng là người tử tế đấy chứ!» – Bà ta nhún vai đáp: “Vậy bà thích ‘họ’ rồi à”!

Trời ơi, Huân đang đập cửa, nếu tôi không chạy ra, khéo bà đập bể cửa luôn.

Tôi gặp một ký giả Tiệp Khắc

ĐÊM THỨ BẢY: Một chuyện như mộng: tôi gặp một ký giả Âu châu, người Tiệp Khắc, tên là Milan Syrucek, đã ở đây hai mươi ngày. Lần theo cầu trang, tôi tiến gần anh, tưởng là người Pháp. Khi anh đáp là Praga, tôi mừng quýnh, ôm lấy cổ. Thành bạn ngay, chúng tôi núp kín trong phòng anh đề trao đổi vài cảm nghĩ. – “Milan ạ”. Tôi cũng không biết nói gì với anh! Vì còn sớm quá. «Còn anh, anh nghĩ sao?». – "Tôi nghĩ họ làm chúng ta thất vọng. Vì họ đang lặp lại những sai lầm các nước xã hội chủ nghĩa đã vấp phải, chẳng xét gì về kinh tế, chính trị, tâm lý. Vai trò của họ thật là khó: một đằng là Nga, đằng khác là Tàu. Tàu lại càng lấn hơn: ngay Phía Bắc Hà nội. Tàu đông như kiến. Theo chương trình của chị, có chuyến đi về các tỉnh không?. «Có, Nam Hà.»

#HoaBinh May 16, 1969

«Có, Nam Hà, Thanh Hóa, Ninh Bình». – “Tôi biết mà. Họ vẫn xếp cho các ký giả ngoại quốc theo vòng quanh cổ điển đó. Chẳng thay đổi gì. Vì những tỉnh đó ở phía Nam Hanoi, không có người Tàu"... … – “Nhưng Milan, lính Tàu hay cố vấn Tàu? Sức mấy mà phân biệt được. Lấy cớ là để thiết lập đường hỏa xa từ ranh giới Trung hoa đến Hà nội, và dự trù tương lai phải xuyên tới Saigon. (Tạm gọi là Công nhân Võ trang)!!! «Người Nga thì sao? » – “Người Nga không có nhiều, ít ra là cũng kém Tàu. Lập trường của Nga hãy còn mông lung. Họ cung cấp cho Bắc Việt các ổ hỏa lực phòng không, thiết giáp, võ khí hạng nặng mà vẫn ngán sợ Mỹ rút khỏi miền Nam. Nếu người Mỹ rút, chỉ còn họ cạnh Tàu. Nga ở đây là để canh Tàu.” «Milan, Có bao bao giờ anh nói chuyện với người VN về hội đàm Paris chưa?». – “Có rồi nhưng họ không thích nói đến. Họ cần hội đàm kéo càng lâu có thể, họ không vội tính chuyện hòa bình. Vì Hòa bình có nghĩa là là phải lựa chọn giữa Nga và Tàu, Trái lại chiến tranh giúp họ xử lối quân bình được cả 2 bên." «Chiến tranh càng lâu càng tốt.» Tôi kể cho anh ta nghe chuyện hồi chiều tại Dinh Mặt trận, cả câu tôi buột miệng lúc đó: «Chiến tranh tởm quá». Tôi không còn ngạc nhiên gì nữa. Thật từ thâm tâm họ, họ thích chiến tranh. Nói cách khác, họ quá quen với chiến tranh rồi. Họ đánh nhau từ quá lâu đời. Vì chiến tranh với họ đã thành một mốt sống. Họ thấy khó chịu nếu thiếu chiến tranh. Cô biết không, những lúc ngưng oanh tạc, mức sản xuất tại các xưởng chỉ được có 50% – Có lẽ họ muốn nghỉ một chút đấy Milan. – Không, không phải! Vì thiếu bầu khí anh hùng, mức sản xuất bị sút hẳn: họ cần đến khí anh hùng như cần cơm bữa. Họ như lính thiện nghệ càng gần chết chóc càng liều. Đúng không? – Đúng đấy, Milan nói nhiều chuyện giống tôi nghĩ quá. Chẳng hạn: chuyện chương trình phỏng vấn bắt buộc. Xem, anh ta cũng đã phải phỏng vấn bé Thu và thiếu phụ Kiến. — “Mai mốt, họ lại tổ chức cho cô gặp một linh mục già: Cha Goan Baotixita và Ngài sẽ giải thích cho cô biết Tự do Tôn giáo tại miền Bắc như thế nào ....” Y như rằng.

Linh mục Baotixita

Linh mục Baotixita, chính sở nhà thờ Chánh tòa Donminico, đây là cuộc gặp gỡ thứ hai, loại không xin mà lại "được.”
Lịch mục đợi tôi tại tòa ủy ban công giáo ái quốc và yêu chuộng Hòa Bình Việt Nam, với hai giáo dân sùng kính Đức Mẹ. Ngồi dưới bức hình Hồ chủ tịch to tướng, mặc áo dài đen. Ông nào cũng gầy dơ xương, 79 tuổi. Linh mục cố rít điếu thuốc lá, lộ vè bối rối, có lẽ vì hai giao dân cùng với Huân ghi hết những gì linh mục nói ra. Những điều linh mục nói, hình như đã được lập đi lập lại nhiều lần, rất nhiều lần: Tận kể ra Bắc năm 1954, tức năm người Công giáo di cư vào Nam, ra đây vì ở miền Nam, Pháp bạc đãi người Công giáo, đối xử thậm tệ
– Bạc đãi thế nào, thưa linh muc? – «Họ không cho tự do Tôn giáo.»

#HoaBinh May 17, 1969

– Bằng cách nào thưa linh mục? – «Họ dành lấy những địa vị quan trọng trong hàng giáo phẩm, ngăn cản người VN lên hàng Tổng Giám Mục, cấm tỏ lòng trung thành với vị thủ lĩnh duy nhất rất đáng kính, vị lãnh đạo tối cao là Hồ chí Minh vì cứu tinh dân tộc.» –Vậy linh mục là cộng sản sao?! – «Không phải là cộng sản nhưng đồng ý với người cộng sản, vì công bình xã hội chỉ áp dụng được với cộng sản ngay cả tự do tôn giáo nữa, đúng hơn nữa là chỉ những nước cộng sản mới có tự do tôn giáo», " Linh mục đã viếng thăm và quan sát nhiều nơi như Nga sô, Trung Hoa. Đông Đức, Ba Lan.

Tội nghiệp Linh mục quá. Cứ mỗi tấc thân mình Linh mục, mồ hôi toát ra vì sợ. Sợ còn hiện trên cả đôi mắt đẫm lệ, tiếng khàn, tay run lẩy bẩy đến nỗi không lúc nào đặt đúng điếu thuốc lá vào miệng. Linh mục cũng tuyên bố với tôi: «thời Hồ chí Minh, nhiều công giáo hơn thời Pháp».
– «Bà xem, trước đây miền Bắc một triệu Công giáo, nửa triệu đã di cư, và ngày nay lại vẫn hoàn toàn một triệu». – “A, tin mầng cho Vatican đấy”. Tôi la lên thế. Nhưng Linh mục đáp: – «Vatican không thèm đặt Đại diện tại Hà nội. Người Công giáo Tây Phương phương bị đế quốc Mỹ đầu độc... ở đây, bà cứ tới nhà thờ chánh tòa Tòa thánh Donminico mà xem, lễ 4 giờ sáng và 3 giờ chiều, giáo dân đông như kiến, không ai ngăn cản gì,

Chúng tôi đã đi, cùng với các nữ hộ ống, tôi đã thấy. Đã hẳn không có gì chướng, nhưng cái tôi thấy đần tiên là lá cờ đỏ. Trước nhà thờ chánh tòa, một mô đất, có tượng đức Mẹ, cạnh tượng đức Mẹ là một cột trụ, trên đỉnh trụ, lá cờ đỏ phất phới, lá cờ lớn nhất Hanoi.
Dưới lá cờ đỏ, là nhà Thờ chánh, cánh cửa mở rộng khi có hai Thánh Lễ ban mai, và Lễ chiều nếu là ngày thứ bảy. Nhưng ngay sau lễ, cửa lại đóng, không có lối nào vào nhà thờ để đọc một kinh Kính mầng.

Giờ khắc rất khắt khe. Không gì ngăn trở Thánh Lễ cử hành. Phải rồi, vì có đời nào mà chính quyền lại phải mất thời giờ với các cha sở Dominico? Số người dự lễ quãng trên dưới 50 người, đa số là nữ tu già cả kề miệng lỗ.

Xong lễ, tôi muốn tìm tiếp xúc với Linh mục đã hành lễ, mà ngài đã vội khuất dạng như thằn lằn mồng Năm 1 Tôi cố nói chuyện với các Nữ tu, họ già đời đến nỗi thạo tiếng Tây không chê được. Nhưng mới vừa biết được số giáo dân là 300 người, thì Huân đã bắt đầu săn tôi qua hàng ghế và lôi ra ngoài. Tôi bảo Huân: nếu người Công giáo ở đây hưởng tự do từng thấy, sao tôi chỉ được phỏng vấn những người thuộc Ủy ban yêu chuộng Hòa Bình thế? Bà ta chỉ nhe răng. Sau vụ tôi lẫn với Milan, bà không tha tôi nữa. Bà muốn biết rõ trong nửa giờ ấy, tôi ở đâu, với ai và cứ liếc mắt dò xét đau khổ. Trời ơi, lại bà nữa. Vừa mới đóng cửa. bà đã gõ ngay, tục, tục, tọc, tọc, tọc!!! Vâng tôi đây, bà Huân ạ, tôi ra ngay, bà Huân. Tổ Cha nó!.

1 Thằn lằn mùng Năm (tục ngữ miền Trung): Tết mồng 5 tháng Năm không thể tìm đâu ra một con thằn lằn (tục ngữ miền Trung).

$pageOut $pageIn
Fallaci in North VietnamL’Europeo Magazine from No. 13, Mar. 27, 1969 to No. 16 Apr. 16, 1969
Miền Bắc Dưới Mắt Ký Giả Fallaci
Translated into Vietnamese by Cô Long Thành, first post in #HoaBinh May 3, 1969; last post in #HoaBinh Jun 6, 1969
Retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024

LTC: Theo lời Cáo Lỗi của Báo Hòa Bình số ra ngày May 18, 1969 thì bài dịch này tạm gián đoạn một kỳ do dịch giả bị bận việc bất ngờ. Ngày mai, May 19, 1969 sẽ đăng tiếp.

#HoaBinh May 19, 1969

Tôi gặp một chủ bút báo

Sáng Chủ Nhật. Mệt lử... Chiều qua, tôi không ghi gì về nhân vật khó tin, được mời đón tiếp cơm tôi mang theo mấy gói gạo nhỏ và thức ăn địa phương. Chỉ có thể này: vì tôi yêu cầu được tiếp xúc với các ký giả địa phương, nên Thể tới và dẫn theo anh Lưu quí Kỵ, chủ bút một trong năm tờ báo tại Hà nội, Công chức của Đảng. Chủ tịch hội gì đấy tôi không biết. Khoảng từ 40 đến 50 tuổi, bận áo vét xám sơ mi sồi, thắt cà vạt, ngồi kê tay trên gói gạo và cho tôi biết anh có ba chiếc điện thoại trong nhà, xe hơi có tài xế, lương vào hàng Bộ Trưởng. Thật kinh ngạc, tôi nói, anh còn hơn cả nhà tư bản! Anh bỗng phát cơn ho kinh khủng. Hết ho anh trả lời: Các ký giả Hà nội không như những ký giả các nước làm tay sai cho Đế quốc Mỹ, làm việc đến chiến thắng cuối cùng rồi được thưởng cái mà tôi không đáng. Tôi hỏi, thì tôi có can hệ gì? Anh trả lời, tôi lo chuyện tầm phào. Tôi hỏi: những chuyện tầm phào nào? Và tỏ ra thông thạo mọi chuyện, anh ta đáp, như vụ ám sát Kennedy và phóng phi thuyền lên cung trăng. Tôi phản đối, những chuyện đó không có gì là tầm pháo. Trái lại anh cho là tầm phào. «Báo chí Hà nội không nói nhiều, chỉ ba hay bốn hàng là cùng.» Sau đó anh quất tôi một bài tràng giang đại hải về người Bắc Việt anh hùng, đã từng đánh quỵ người Mỹ cũng như là quật Gengis Khan và khi tôi hỏi có anh hùng như người Tiệp Khắc không thì chàng nối xung như thú chép mép. «Bà nên nhớ rằng Bà là khách, và nếu là khách, thì bà chi được để ý đến chúng tôi, cấm hỏi tò mò.» Chàng đứng dậy và chuồn mất, bỏ tôi ở lại.
Huân đưa cái tay như cái kềm kéo tuốt tôi lên tận phòng để chắc dạ là tôi đã đi ngủ.
Dĩ nhiên, để làm Huân chắc dạ, tôi giả vờ đi ngủ. Nhưng vừa khi tôi trù là bà ta đã ngủ, tôi lại bận đồ và đi xuống phòng khách của khách sạn. Bạn đoán xem tôi sẽ gặp ai? Hai ký giả tờ Novosti: Boris Sumeep và Boris Chiumeev.
Chẳng biết họ có hay chuyện Bộ Thông Tin vẫn chưa cho phép tôi lân la với các bạn đồng nghiệp ngoại quốc không. Quái quỷ. Họ đã ở đây 1 năm, và phải ở 3 năm. Khi họ kể, dường như họ rưng rưng khóc: “Cấm làm bạn với người VN, cấm du lịch tự do và phải có phép. Cấm gởi bài vở có kèm hình ảnh". Vậy, các ông không phải là đồng minh của họ à?
– “Phải”
– Này, các ông thấy có gì hay ở đây, trong thành phố này?
– “Có”!
– “Tội cho dân, họ bị chiến tranh đã hơn 20 năm nay rồi”
– “Tội nghiệp!”
– “Các ông đã gặp họ lúc còn bị oanh tạc chứ?”
– Chúng tôi đã thấy! Và khi hay tin Johnson ngừng ném bom, họ vẫn tỉnh bơ! Chúng tôi vội chạy trên đường phố chờ xem cảnh liên hoan ăn mừng. Nhưng chẳng có gì. Chúng tôi tìm một ít người quen và hỏi: Các anh nghe tin chưa? Các anh khoái tỉ chứ? Chẳng có gì, có lẽ đã làm mất lòng họ!
– “Không thề tin được, Boris."
– “Tôi biết không thể tin được, nhưng nó là sự thật?
– Còn cuộc hòa đàm Paris thì sao?”
– Cũng vậy, không quan hệ gì cả!

#HoaBinh May 20, 1969

Tôi gặp một chủ bút báo (tiếp theo)

Nhưng giữa các nước Xã hội chủ nghĩa, họ yêu nhau thế nào? Một loạt tiết lộ bí mật đã làm cho việc lưu ngụ của tôi tại nhà Métropole thêm thú vị. Chẳng hạn tôi chỉ thấy người Tàu qua lại khi không có người Nga dùng bữa trong một phòng riêng để tránh gặp Nga. Và nếu tình cờ họ gặp người Nga, thì người Nga quay phắt lưng lại. Và khôn lắm, khi họ thấy bạn mang dấu hiệu của người này hay người kia.
Để làm vui lòng Carmen và Giulia muốn sưu tầm các dấu hiệu, tôi đã nghĩ ra một trò chơi. Tôi tới người Tàu và tôi xin họ dấu hiệu Mao. Rồi với hình Mao trên bụng, tôi tới người Nga. Cảm thấy gai mắt, họ lấy hình Mao và đưa cho tôi hình Lénine. Rồi với Lénine trước bụng, tôi tới người Cuba. Họ cất Lénine đi, và đưa Castro. Và cứ thế.
Chiều hôm qua... Đây là lại tới, với bộ răng bàn cuốc và cái tay có vuốt. «Đồng chí, Nữ đồng chí» Tôi yêu cầu bà ít nữa hãy bỏ thói gọi tôi bằng tiếng “đồng chí” đi!.
Tái bút: Bà tới bảo tôi phải chuẩn bị sẵn sàng, 20 phút nữa, bà sẽ đem tới tờ báo: Tờ Cứu Quốc ngày 21-4-1968. Khi bà mở trang 6, suýt tí nữa tôi bị ứ máu... Chuyện gì vậy? Một tờ báo ký tên Ô-ri-ana-Phan-la-tri và một hình chụp ký tên giang prô ran cô mo ron do. Bài báo đầu tiên của chúng ta nói về Miền Nam Việt Nam. Những 20 trang đánh máy dày nghịt mà nay chi còn lại có 3, gồm những câu có lợi cho họ. Không những thế, có chỗ, tôi kể người chết trên đồi 875, họ xóa bỏ tất cả những chi tiết nói đến các tử thi người Bắc Việt. Nếu vậy, cứ theo “bằng chứng" này của tôi thì không có một người Bắc Việt nào tại trận Dakto cả và những tử thi tôi nói tới là chuyện tôi tưởng tượng.

Tôi đi thăm bảo tàng viện

Trưa Chủ Nhật: Carmen bảo, “chúng ta ở đây mới ba ngày mà xem ra như đã ba năm rồi." Tôi không nghĩ là cô ta nói sai. Và tôi luôn nghĩ đến Nguyễn văn Sâm, tù binh VC mà tôi đã phỏng vấn tại Saigon. Sâm nói : “Sau đó, tôi lên Hà nội và lưu lại 10 năm để học khủng bố. Những năm đó thật là dài đằng đẵng. Tôi chỉ mong đến Miền Nam và tôi đã buồn chết được. Tôi đã nghĩ tới má tôi lúc tiễn dưa cố dặn tôi: Con đừng lấy gái miền Nam. Tôi sống cô đơn và chẳng ai thèm tới thăm tôi...
Đúng rồi Sâm ạ. Tôi đã tưởng tượng những ngày Chủ nhật của anh tại Hà nội.

Chúng tôi bắt đầu viếng thăm Bảo tàng viện kháng chiến. Trước hết là một cuộn phim về Hồ chí Minh gồm hình ảnh và vài đoạn phim về nhi đồng và chim bồ câu vây lấy Cụ. Rồi tôi diễu một vòng qua các phòng có trưng bày những dụng cụ lịch sử của cụ. Bút máy, gậy, lược, rổ mây cụ đã dùng làm valis. Bức hình hang Bắc bó nơi cụ đã trốn ẩn cho tới năm 1945. Báo chí cụ đã in. Thơ ca cụ sáng tác. Bát gỗ cụ dùng để ăn. Đúng, không có một tượng nào, trường học nào, cây cầu hay nhà thương nào mang tên cụ. Đúng, không có một tượng nào của cụ, chỉ có những bức chân dung nơi công cộng, trên đường phố. #HoaBinh May 21, 1969

Tôi gặp một chủ bút báo (tiếp theo)

Nhưng không đúng tí nào nếu Cụ đã không trở thành như một đối tượng được thần thánh hóa để thờ lạy: Nếu bạn tới xem Bảo tàng viện, bạn sẽ thấy rõ người ta thờ lạy Cụ như tôi thấy đây và còn thêm những chuyện kỳ dị đủ thứ. Chúng với đang buồn chán muốn chết, thì tôi chợt tỉnh lúc Thể đưa ngón tay trỏ chỉ vào cái bẫy Điện Biên Phủ, một loại bánh xe tròn đầy chông, trên đó người Pháp đang kẹt la liệt. «Bà thấy chưa? Thấy chưa?» Bà ta cười và mắt bà sáng lên, niềm vui dữ dội. Rồi với niềm vui đó Bà giải thích cho biết rằng đối với người Mỹ, bây giờ còn có những cái bẫy tinh vi hơn nữa: tổ ong vò vẽ hoặc rắn độc. Không biết sao tôi cảm thấy khó chịu lúc nhìn thấy bức ảnh chú GI mà họ thích thú đặt sau 2 cái đầu VC bị cắt.

Sau Bảo tàng viện này, họ dẫn chúng tôi tới một Bảo tàng viện khác chất chứa những phi cơ Hoa kỳ bi hạ. Sườn Phantom, F105, F4, F100, A 37 được xếp từng hàng trong sân sỏi, trẻ em tới đó chơi dỡn. Tại Hà nội, không có cách giải trí nào khác.
Sau bảo tàng viện thứ hai, họ đem chúng tôi tới xem phòng triển lãm các sản phẩm quốc gia: mũ lính, kén lụa, đay, cải bắp, đường phèn, và khoai lang. Nhờ đấy tôi biết được vài điều về kinh tế xứ này, tôi có sẵn đây những gì đã ghi được nhưng tôi vẫn không tin khi đọc lại. Ví dụ các hạng lương bổng. Dẫu làm nghề gì thì lương tháng chỉ được từ 60 tới 120 đồng. Vì 5 đồòng tương đương với 1 Mỹ kim tức 630 lire, nên lương tháng thay đổi từ 7.560 lire đến 15.120. Những trường hợp bất thường có thể lên tới 150 hay 200 đồng một tháng. Những trường hợp bất thường đó là trường hợp các công chức của đảng, các Bộ trưởng các Diễn viên. Vì thế phương thế duy nhất để kiếm vài đồng bạc là trúng xố số. Xổ số (quốc gia dĩ nhiên) bày bán la liệt trên đường đi. Vé xổ số bày bán với Carte và chân dung Hồ chí Minh. Giá 20 xu tức 24 lire. Vé số trúng cũng được rất ít: 100, 300, 600 tới 1.000đ, là từ 12.000 live tới 120.000 lire Thế nhưng vẫn không đến nỗ gọi là bết nếu tính theo giá sinh hoạt rất thấp ở dây. Sáu, bảy, đồng – chừng 700 lire – thì một công nhân đã có thể thuê nhà ở. Một đồng, nghĩa là 120 lire, một phụ nữ có thể vào tiệm uốn tóc, uốn được một lần 3 đồng, nghĩa là 360 lire, thì bạn trả được bữa ăn trưa đầy đủ. Với 25 đồng bạn mua được 2 chiếc áo theo phiếu mua hàng phát cho bạn 12 tháng một lần.
Phần (phiếu) phát cho mỗi người thực là kham khổ, kể cả ăn uống. Tùy theo nghề nghiệp, người ta phát cho bạn 15 hoặc 18 kilô gạo hàng tháng, hai hay ba chai sữa, một kilô và 200 gam thịt. Nhưng cá thì được mua tự do tại chợ, cá gáy, lươn tôm. Đồ mắm muối, rau sống, hoa quả, trứng và gà cũng thế. Không ai chết đói và người ta còn tỏ ra nài nẵng mời bạn đến nhà, đem đủ thứ bánh kẹo. biscuit, bánh nếp và ép bạn ăn cho thật nhiều, dầu bạn xin với họ: “vừa rồi". Xin lỗi, tôi không thể ăn được nữa, nếu tôi tiếp tục tôi sẽ dau. Ho không muốn hiểu và cũng không muốn ai từ chối của ăn họ mời. Xưa họ đã có hằng thế kỷ đói kém, nạn đói năm 1945 giết non hai triệu người, nên ăn uống đối với họ là một thú vui, khoái chí đê mê, quên hết chết chóc đau khổ của chiến tranh.

#HoaBinh May 22, 1969

Có lẽ Hổ có lý khi nói: “Bà không trông hay lắm”, với bộ mặt ủ rũ, áo vét vét vá chằng chịt, đăng tên vào đảng khoảng từ 20 năm nay, nguyên thuộc mặt trận Việt Minh, chàng tỏ ra thông cảm những lúc tôi giận dữ với Huân và nếu tôi hỏi chàng thì không bao giờ chàng đáp đến nỗi khùng lắm. Tôi đã hỏi chàng : “Này anh Нổ, anh thù người Pháp hay người Mỹ hơn?” Chàng ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp: “Bà coi, đối với người Mỹ, tôi có mặc cảm. Ngay cả lúc tôi còn chiến đấu với Pháp, người Mỹ chẳng có liên quan gì, thế mà tôi đã căm thù người Mỹ hơn người Pháp. Vì tôi tưởng tượng họ to con không thắng nổi, hạng người tay đấm cú cò, vật bạn xuống đất và nghiền bạn nát ra từng mảnh. Hạng người ăn nhiều. Ngay cả lúc đang ném bom, tôi đã tưởng họ đã muốn nuốt chửng chúng tôi. Ghét. Bà hiểu không?”
Tiếc là chàng không có thể nói với chúng tôi nhiều hơn nữa, vì chàng sợ quá. Tôi không nhớ trong dịp nào tôi đã thốt lên: «Trời ơi, hãy cho người ta một chút tự do chứ?!» Chàng rằng mình ngay, và nhìn tôi với cặp mắt van lơn đầy khiếp đảm.

CHIỀU CHỦ NHẬT. Nhưng phải có cái gì tích cực nơi dân này, nơi xứ này chứ, chẳng lẽ ... phải có cái gì đem lại cho tôi cái cảm giác thán phục mà tôi đã có trước đây. Tôi cố tìm và tiếp tục tìm. Thực không hợp lý và cũng không nhân đạo tí nào nếu tất cả làm tôi thất vọng.
Không gì nơi họ làm tôi thích thú! Tôi sẽ gặp được việc tốt người hay, tôi chắc thế. Hoặc là bạn không thể hiểu được tại sao thế giới lại mến dân tộc này và xứ sở này đến thế.
Hay là bạn sẽ không thể hiểu nổi tại sao họ cầm cự được bao năm nay với quân đội mạnh nhất thế giới. Giờ đây, tôi đang cấm cung trong phòng chỉ để ngẫm nghĩ và tự nhủ: có lẽ tôi quá nghiêm khắc trong cuộc viếng thăm lần đầu này. Thế nhưng... sau cái bữa tối họ cho chúng tôi xem phim về những vụ ném bom. Đang khi mấy chiếc Phantom nhào xuống trên nóc nhà, xuống vườn, trên thành phố, ký ức tôi lại hồi tưởng đến ngày chính tôi cũng đã ở trên chiếc máy bay như thế. Nhào xuống tới 7 lần đầu hết 1 quả bom cháy, rồi một bom cháy khác, một quả khác nữa và còn thêm một quả nữa, sau đó một quả bom 500 ký, rồi một quả khác, rồi một tràng liên thanh nổ, hồi đáp lại lại tràng liên thanh của họ, quá khiếp sợ tôi mong họ chết và tôi khỏi rơi xuống đó. Nhớ lại tôi cảm thấy hổ thẹn. Tôi lại yêu họ. Và tôi chỉ yêu họ cho tới khi trên màn ảnh thấy xuất hiện chiếc phi cơ té nhào, hai người dân quân tiến lên, chụp cái nón cháy đội lên đầu tay cầm sào bêu cao đôi ủng cũng đã bị cháy xém. Tiếng Thể cười khoai trá làm tôi buồn chán vô cùng. "Tan ra tro, tan ra tro, chiến thắng sẽ về ta”. Điều này làm tôi không thể đồng ý với bà, với sự cứng cỏi và cuồng tín của bà. Tình đồng loại đối với tôi rất dễ, nhưng đối với bà dường như không thể được. Dưới bom đạn chỉ có bà mà không có tôi.

Không biết nói sao nữa… Ngày mai, chúng tôi sẽ đi về tỉnh nhỏ và lưu lại đó 3, 4 ngày. Có vui hơn Hanoi không? Còn nghi ngờ, tôi vẫn còn cảm thấy sầu muộn gấp đôi.

$pageOut $pageIn
Fallaci in North VietnamL’Europeo Magazine from No. 13, Mar. 27, 1969 to No. 16 Apr. 16, 1969
Miền Bắc Dưới Mắt Ký Giả Fallaci
Translated into Vietnamese by Cô Long Thành, first post in #HoaBinh May 3, 1969; last post in #HoaBinh Jun 6, 1969
Retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024

#HoaBinh May 23, 1969

Phụ nữ tham chiến

HÀ NỘI THÁNG TƯ. Rồi vừa thương hại vừa với uất ức, bạn cảm thấy thế, lúc viếng thăm những tỉnh bị oanh tạc. Vì bạn quên đi cái hệ thống khe khắt mà họ đang sống, chế độ độc đoán mà họ đang bị đóng kín trong đó: khi đưa mắt nhìn đàn bà, trẻ con trong 4 năm trời mang bom trên đầu cũng như những đàn ông, bạn sẽ dễ quên nỗi cụt hứng lúc người ta đối xử với bạn, nỗi thất vọng dày vò bạn khi quan sát những thành phố bị phá thành bình địa, làng mạc tan ra tro, con cái họ bị cút tay chút chân.
Nếu bạn thuộc thế hệ tôi, nghĩa là cái thế hệ nhìn thấy Tử thần từ trời rơi xuống, bán hãy kiểm điểm lương tâm, hãy nhớ đến tiếng còi báo động, tiếng đoàng đoàng, đều căn nhà của bạn chỉ còn lại đống gạch vụn, và những người bạn yêu đang bị vùi dưới đó. Thế nhưng, ngày nay, còn ghê gớm hơn 25 năm trước.
Ngày nay, phi cơ là công trình kiệt tác của kỹ thuật, của cái gọi là trí thông minh con người. Trang bị bằng những dụng cụ kỳ diệu, và nhờ đó, nhìn thấy bạn, dẫu còn khuất trong mây xanh, mang theo những quả đạn hỏa tiễn điều khiển từ xa, những quả bom có gắn cả bộ máy truyền hình cho biết rơi trúng hay không để rồi còn bổ khuyết lần sau. Chúng biết hết mọi chuyện về bạn, không thể tránh được Bạn làm được gì nếu bạn chỉ là một nông dân đồng ruộng? Hãy nghĩ tưởng tới những phi cơ không người lái. Những phi cơ đó tự động cất cánh, tự động hạ cánh làm mọi chuyện tự nó, giống y như chuyện hoang đường! Không có người, thế mà chúng vẫn vẽ bản đồ, chụp hình, kết án tử hình cho bạn.
Chỉ với bộ óc điện tử suy nghĩ tính toán: «Độ góc X, tiếp tuyến Y, tốc độ XY...» đã nhiều lần đánh trúng đích trung tâm điện lực, đoàn xe quân sự. Nhưng ai biết có bao lần rơi phải túp lều tranh hay 1 chiếc cầu tre?

Lúc đầu, họ ngây người, bị tê liệt, và tự hỏi tại sao. Nhưng rồi họ không hỏi nữa, quen đi, và chỉ lo phòng vệ: đào hầm trú ẩn dưới đất, sống với chuột bọ, dùng đạn hỏa lực phòng không. Họ giao cho đàn bà con gái từ 16 tuổi đến 20 tuổi hoặc hơn, lo trông coi các hỏa lực phòng không, vì đàn ông đã ra tiền tuyến tại phương xa. Với lớp cấp tốc 6 ngày tới nay là đã hơn 1 tháng, họ dạy các bà các cô biết nhìn trúng chỗ, biết bắn súng trường, biết xả liên thanh, nã đại bác, và không còn sợ hãi những lúc diều hâu sắt sà xuống.
Bình tĩnh và nã đạn lúc những diều sắt đó nghiêng xuống, không phải là chuyện dễ. cần to gan lắm mới làm được. Những cô gái này có gan lớn. Trong bốn năm họ quất nhào được hàng trăm phi cơ. Và thiên sử hiển hách của họ xây dựng trên những chiếc phi cơ đó. Với người Mỹ, miền Bắc Việt không phải là trận địa với từng mạng một trong hầm trong rãnh, trong rừng thẳm như tại miền Nam. Chiến tranh đã làm tội họ đến thế. Đối với thiếu nhi, chiến đấu không phải là người lính đi tấn công, nhưng có nghĩa là cuộc đấu sức giữa phi cơ và hỏa đạn phòng không. Chiến thắng kẻ thù có nghĩa là chiếc phi cơ đó té nhào, phát hỏa trong ruộng lúa.

#HoaBinh May 24, 1969

Phụ nữ tham chiến (tiếp theo)

Kẻ thù – người phi công – rơi lủng lẳng theo chiếc dù. Người lớn đem in trên tem, ráp thành phim, sáng tác thành bài hát “để các em ca tại học đường, và cho các em tái diễn cảnh ta đánh bại chúng". Không một ai tin là đã ngưng oanh tạc thực sự. Môi người chờ nó tái diễn và cứ tiếp tục sống như thế dưới đất với chuột bọ, hoặc ngắm trời từ các dàn hỏa tiễn «Độ góc X, tiếp tuyến Y, tốc độ XY...» Họ thường tính bằng mắt trần, thành thạo đường bay của chim sắt.

Đây là những giòng nhật ký của tôi trong chuyến hành trình viếng thăm các tỉnh Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hóa. Chỉ ở những tỉnh đó, họ mới đồng ý cho bạn quan sát một vài nơi, theo sau là một đàn "hộ tống" sát sạt. Hình trình kéo dài 4 ngày và tôi không làm sao cởi bỏ được cái âu lo đã cảm thấy tại Hanoi, vì ngay cả lòng thương hại, uất ức cũng không thể làm tôi chịu đựng nổi cái thiếu tự do. Tuy nhiên, cũng may, với một vài người, tôi đã có thể tìm thấy cái thiếu sót tại Hà nội: cuộc tiếp xúc nhân đạo, niềm hy vọng thông cảm, coi nhau như anh em.

Sáng Thứ Hai. Chúng tôi theo Quốc lộ số một. Con đường này xuyên – đúng hơn là đã xuyên – tới Saigon.
Và đây cũng là con dường băng qua những thành phổ bị oanh tạc nhiều nhất, vì dọc theo quốc lộ này, có đường hỏa xa chạy dài, nhiều thảm kịch mới tiếp diễn nếu tái oanh tạc. Máy phút trước đây, một chiếc tàu hỏa chở đầy binh lính võ trang chạy qua. Chạy về miền Nam theo hướng vĩ tuyến 17. Tôi cố chụp hình mà không được vì Thể giơ tay chắn đàng trước máy. Cấm chụp hình lính tráng tàu hỏa, những gì thuộc quân sự. Tôi chỉ nhớ khi gặp.
Cho tới giờ, tôi gặp ít và những gì tôi gặp, trông không nguy hiểm gì. Một xe thiết giáp Sô Viết, một đoàn xe nhà binh nấp dưới rặng cây. Xa camion cũ kỹ, súng Carbin cổ lỗ, đồng phục phai màu và rách đến nửa, nghèo nàn, hỗn độn, mệt mỏi. Ho phải gởi vào Nam loại cừ, còn ở đây quân đội trông tồi tàn nhất thế giới. Nếu so với những gì bạn thấy các đồ binh bị và binh quân mới mẻ của Hoa Kỳ thì bạn phải phát ớn. Và tự hỏi sao Hà nội có thể chịu nổi! Cầm cự thì có! Cắn răng mà chịu, thì có! Nói cho cùng, họ chỉ đối phó với oanh tạc thôi. Lúc xem những quang cảnh này, tôi tự hỏi Mỹ chỉ nhằm những mục tiêu quân sự mà thôi, như người Mỹ vẫn bảo, hay nhắm cả những mục tiêu dân sự như Bắc Việt tố cáo? Không biết sao!. Theo những gì tôi đã quan sát được từ khi chúng tôi ra đi, tôi có thể nói người Mỹ không nói láo. Trên Quốc lộ số một, bom đã rơi rất chính xác, trúng đường hỏa xa, không trúng gì khác. Những toa xe hư hỏng, những kho binh cụ bị cháy, đường rầy cong queo, nhưng không một căn nhà nào bị phá. Chính xác như kim đồng hồ. Trái lại khi tiền gần về Nam Hà, tôi có thể nói người Bắc Việt đã không nói láo. Từ cửa chiếc xe Volga, tôi chỉ trông thấy tàn phế.

#HoaBinh May 25, 1969

Phụ nữ tham chiến (tiếp theo)

Đây, thị xã Nam Hà. Những ngôi nhà cũ kỹ, bẩn thỉu, người Pháp ra đi, không ai để ý săn sóc giữ gìn. Người buôn bán bần cùng. Rồi Thể dẫn chúng tôi tới nơi Bộ Thông tin và Nha tuyên truyền muốn: một khu không còn lại gì ngoài cái mặt tiền ngôi Thánh đường công giáo và một bãi cỏ bị đào một lỗ sâu hoắm, đường kính rộng đến 6, 7 mét.
Thật khó mà tưởng tượng được trước đây đã có gì, có lẽ đây đó trên đường đã có những nhà cửa lác đác. Nguyên vẹn chỉ còn tấm bia do hội đồng thành phố dựng lên. Bà ta bảo: Chúng đã tới đây vào 5g sáng. ngày 14-4-1966 khi chúng tôi đang an giấc. Chết hết, chỉ một em nhỏ sống sót, cả thảy 240 gia đình. Không bố phòng. Một sự kiện là từ tháng 5/1966 đến 3/1968 đã có 140 vụ oanh tạc Nam Hà. 80 phần trăm thành phố bị tiêu hủy hoàn toàn.
Thể đã đoán trước được câu hỏi của tôi, khuôn mặt tròn trĩnh bỗng trở lạnh như đá «không, không có gì là mục tiêu quân sự hết, ngay cả một trại lính nhỏ cũng không có nữa. Chỉ có sở Bông và Lụa» – Nhưng gần đường hỏa xa mà, thưa bà!? Bà ta vờ như không nghe và giới thiệu với tôi một em gái chính ngày đó đã chứng kiến cuộc rượt bắt hai chàng phi công chiếc máy bay F.105. Cách khu này 7 cây số, trong làng Lam Hà.

«Một thằng rơi vào ao, thằng khác rơi vào ruộng lúa. Quần chúng bao vây tức khắc và muốn nhào vô giết ngay. Chúng liền quỳ xuống và chấp tay vái xin thương, xin thương. Năm người dân quân vội cứu thoát chúng: Ba đàn ông, hai đàn bà. Họ đưa chúng đi bình an vô sự. Còn quần chúng thì bất mãn, họ sẽ khoái tỉ nếu giết được chúng.»

Không biết có những vụ oanh tạc để khủng bố hay không, nhưng một điều cần đem ra ánh sáng là nếu một phi công nào nhảy dù xuống thì không hề bị xử ngay tại chỗ, sau khi bị bắt.

Trưa Thứ Hai. Đây là một câu chuyện về oanh tạc. Một bệnh viện trở thành mục tiêu đến 4 lần trong mấy tháng, và không gần đường hỏa xa chút nào, chúng tôi khó chịu hết sức. Trước hết, phải nghĩ tới những chiến cụ tinh xảo, những kiệt tác kỹ thuật: máy truyền hình gắn trong bom... v.v... Các phi công đã không tin dấu Hồng Thập Tự trên mái nhà à? Bây giờ nhà thương được dời đến bên cạnh một ngôi chùa cách thị xã lối 20 cây số, và ai ai cũng thấy những gì hiện ra trên Hồng Thập Tự đó. Thế mà họ cố ngụy trang như một cái làng.

Chúng tôi tới đây sáng nay, sau trạm ngừng tại nhà đoàn kết phụ nữ VN. Tới nhà thương này, phải băng qua con đường mòn dọc theo kênh và ngay lối vào cũng ẩn khuất dưới rặng dừa to lớn không được chụp hình! Ngôi chùa được biến thành nhà thương, và để tụng kinh, sư cụ phải dời tượng Phật phải vào một góc tiếp liền với phòng bào chế. Phòng giải phẫu là phòng ở của các nhân viên, phòng các bệnh nhân đều lấy những phòng của các tu sĩ hoặc những túp lều dựng lên cấp tốc bằng tre quét vôi. Bộ Thông tin và nha tuyên truyền đã biết rõ phải làm gì khi phái bạn tới dây. Và khi cho bạn tiếp xúc với con người hiền dịu và tươi cười, Bác sĩ Nguyễn tích Y. Ông 45 tuổi trước thuộc Việt minh, (ngực đã bị thương vì đạn Tây năm 1950), góa người vợ đầu (đã chết trong một vụ Pháp oanh tạc.)
Là Cha của 4 đứa con mà hình như 3 năm nay ông không hề gặp lại kể từ ngày chúng tản cư với người vợ thứ hai của ông về một tỉnh xa. Quá mệt nhọc, nhưng ông không đến nỗi cuồng tín. Đôi mất rất lương thiện, làm bạn không thể không tin lời ông bình tĩnh quả quyết: «Tôi biết rằng nói ra thì khó tin, nhưng thực sự chính tại Nam Hà, người Mỹ đã oanh tạc các bệnh viện. Tại sao, tôi không được hiểu. Nhưng dân này cứng lắm, họ đã phản ứng ngược lại.»

#HoaBinh May 26, 1969

Phụ nữ tham chiến (tiếp theo)

— Thưa bác sĩ, vậy khi hay tin ngưng oanh tạc thì sao?
— Chúng tôi cảm thấy nhẹ hắn người, nhưng chúng tôi vẫn tỉnh thức. Vì thế, chưng tôi vẫn ở đây...
— Thưa bác sĩ, thực bác sĩ không tin rằng người Mỹ muốn kết liễu chiến tranh sao?
— Không, chúng tôi không tin,
— Bác sĩ không tin người Mỹ đã nhóm hội đàm Paris vì mục đích này sao?
— Không, tôi chẳng tin (tôi còn đợi xem sao đã)
Rồi ông đưa tôi xem một quả bom bi.
Tôi chưa hề thấy một quả bom bi, tôi cũng không hề có một quan niệm gì về nó. Như thế này, một trục màu vàng, dài lối 15 phân, rộng 10, hai chấu chìa ra có một kíp nổ chính giữa đặt bên trong, phía ngoài gồm một giải tròn đầy hạt thép cỡ như hạt tiêu.
Khóa kín chung với những quả khác trong một cái vỏ trông bề ngoài giống một quả bom thường, lớn bé tùy hạng. Tới mục tiêu, vỏ chứa mở ra, bom bi bay tứ tung và nổ trước khi chạm đích, đã lia hàng tăm, hàng ngàn hạt thép có tmn hoạt động tối thiểu 30 mét. Bom bi không xuyên được thép gỗ và tường. Nhưng bom bi làm ra cốt để gây thương tích con người: dùng để trừ khử những đoàn đưa quân phòng không; khi hạt thép đó dụng tới người thì kể như tiêu vì chúng xuyên rất nhanh và sâu đến nỗi không thể kéo ra được.
«Đối với tôi, khi người là mang tới một người bị thương vì bom bi, phải mất công lắm mỗi sáng suốt được. Một vài bác sĩ thì hoảng sợ! Làm gì bây giờ? Bắt đầu từ đâu? Chi còn việc khóc, Trẻ con ở đây đi học bận áo dài bằng rơm và đội nón cũng bằng rơm. Vì chứng thi đã khám phá ra hạt bom bi không xuyên qua đồ dệt bằng rơm, mà nó mắc kẹt trong đó. Mặc như thế, các em chỉ bị thương ở cánh tay và chân thôi, không nặng là bao.» Tôi không biết nghĩ sao nữa! Tôi chỉ biết kể lại y như ông ta đã nói với tôi.

Ông là người tử tế, trông vẻ chân thành. Sau đó ông dẫn chúng tôi vào thăm bệnh viện chật ních người là người. Giulia bị sẩy chân xuống hố và bị thương ở chân. Ông dẫn cô ngay tới phòng cấp cứu, một căn phòng vừa được chiếu sáng nhờ chiếc đèn pha xe đạp, ông đã xức thuốc cho cô rất tử tế. Để làm sáng đèn pha thì một phụ tá đã trèo lên chiếc xe đạp tựa vào sàn và đạp. Tôi than lên: ông luôn làm việc với những điều kiện như thế này sao?. Với cặp mất tinh anh và bỡ ngỡ, bác sĩ nhìn tôi qua miếng vải khử trùng: «Vâng, chắc rồi, thế thì sao?»

CHIỀU THỨ HAI. Nhưng tiếc là không phải ai cũng như ông! Lại trở lại những câu chuyện giống như ở Hà nội!

Sau bệnh viện, họ dẫn về nhà Hội phụ nữ Việt Nam và ở đây chúng tôi có ngay hai giờ học tập về người Mỹ "dã man", nhưng may mà cán bộ trưởng ở đó không thèm nhìn đến tôi. Họ nói với ông là tôi không phải là cộng sản, tôi ở Saigon với người Mỹ, nên ông sầm mặt. Dầu đã quen với nỗi căm hờn của họ, nhưng tôi phải nhận rằng ông làm tôi lúng túng. Mỗi lần gọi tới tên tôi, là họ thêm ngay 1 bài trong chuỗi tràng giang đại hải của họ, mặt lạnh như tiền, mất sắc đầy vẻ nghi kỵ. Tôi đã nói lại chuyện đó với Thể. Bà ta đáp: «Chắc rồi! Bà đến đây như một người thuộc đảng Độc lập. Không được độc lập! Độc lập nghĩa là gì?»

Bà ta càng ngày tỏ ra giận dữ, lại càng theo dõi tôi dường như tôi là một tay mật thám của Tòa Bạch Ốc vậy. Mỗi lần tôi cố tách ra để đi về chiếc cổng lớn của biệt thự bị tàn phá kia, thì bà bảo Huân giơ tay ra cản tôi lại. Tôi chỉ kịp liếc một cái về nghĩa trang người Pháp ở bên nhà thờ trước mặt. Trên mồ mả, họ đã trồng cải bắp. Và rồi, có Huân hộ tống, tôi chỉ có thể dí mũi vào hai cái tiệm dưới hầm, một tiệm thực phẩm, một tiệm hớt tóc. Khi tôi xin họ cho tôi dạo khắp thành nhố, họ bảo tôi sẽ rơi xuống như Giulia. Giulia trở nên trầm trọng hơn chúng tôi tưởng. Đã phải trở về Hanoi. Chỉ còn lại tôi, Carmen và Marisa bị nhồi sọ như vẹt, cốt để chúng tôi về thuật lại cho bà con nghe là tại miền Bắc Việt Nam không chết đói.

Bị ép nghe ca đoàn nhi đồng hát lên những bài hát chiến tranh, cuối cùng lại còn bị dồn vào phòng và phải ngủ ngay. Mới có 8g30 tối; 9 giờ chúng tôi còn nói chuyện. Thể lại giọng nặng như chì, dằn từng tiếng như Mẹ Bề trên điều khiển một ngôi trường vô kỷ luật. Bà bảo chúng tôi phải ngủ ngay.

Và đây tôi đang ở trong một cái phòng tởm lợm với chiếc giường bẩn thỉu không có chiếu, một cái bình để tiểu đêm cũng bẩn dễ sợ! không hiểu tôi bị phạt thế vì tội gì, và bị bắt nếu xuống dưới sân. Trời ơi, tất cả bom đạn trên thế giới cũng không thể làm cho bạn có một tương quan nhân đạo với người ở đây. Tôi mong đừng bao giờ phải bó buộc lựa chọn giữa họ và người sáng chế ra bom bi.

SÁNG THỨ BA - Hừng đông chưa ửng, Mẹ Bề trên đã hiện ra như một bóng ma bên kia chiếc mùng, xếp giường, đánh thức chúng tôi dậy. «Dậy! dậy! Hồi đêm, các bà phải tán phét tới 10 giờ, tôi biết hết!»
Chúng tôi phải ra đi khi trời còn tối om trong giá lạnh. Tiến về Thanh Hóa và cuộc xung đột đầu tiên xảy ra là từ lúc chiếc Volga đang chạy, tôi chụp ổ hỏa lực phòng không trước khi tới cầu Hàm Rồng. Chúng tôi bị chặn lại ngay, bị bao vây và bị giữ cho tới khi người chỉ huy trưởng tới. Ông ta tịch thu cuốn phim, tha cho máy ảnh. Vì thế, một lô hình chụp ở Nam Hà cũng bị tiêu đời luôn. Tổ Cha nó!!!

Số là vùng này nguyên là Xưởng như bệnh viện của bác sĩ Nguyễn tích Y. Ở đây lấy những trại quân sự, xưởng may đường hỏa xa, và cứ mỗi 5 cây số, có 1 ổ hỏa lực phòng không, tối thiểu cũng gồm hàng tá khẩu đại bác 105 ly. Nếu họ có thể làm được thì họ sẽ bịt kín mắt bạn đang khi chở bạn tới Thanh Hóa, lúc nào họ thích cho bạn thấy, họ sẽ cởi băng ra và chỉ cho thấy những đống gạch vụn kèm một bài giải thích về “tụi cướp không gian” trong 2 năm liền đã thả 17 ngàn quả bom và đạn hỏa tiễn, 200 ngàn bom bi, 5 quả bom trúng khu dân cư, đã phá hủy cầu Hàm Rồng, mà ở đó còn ghi chiến công oanh liệt là 47 phi cơ bị hạ.
Nếu như rằng đây là chiếc cầu duy nhất trên sông Chu mà đường lộ và đường hỏa xa phải chạy qua, chính là đường vận chuyển tăng cường về hướng vỹ tuyến 17. Tại sao? Chúng ta có lý! Ai cũng sẵn sàng chửi Mỹ là họ phá hoại nhà thương, nhưng họ lại gọi những người ném bom cầu Hàm Rồng là tụi cướp không gian, thiệt là tôi thấy lạ quá! Chiến tranh là chiến tranh. Đạn súng cối của VC tại Saigon cũng chẳng kém mù quáng hơn bom Mỹ.
Rồi cuộc đụng độ thứ hai xẩy ra tại vùng tiếp cư chúng tôi, ở ngoại ô Thanh Hóa. Không phải chuyện chiến tranh nhưng tôi lại cho là quan trọng. Câu chuyện thế này: phòng tôi ở không có căn buồng vệ sinh nên một lúc nào đó tự nhiên tôi phải tìm nó. Tại góc có một lều gỗ, một rãnh ở giữa tôi đang bước vào thì Huân đến và giơ tay vẫy: «Đồng chí, đồng chí ơi». Bà ta làm tôi đâm ghét vì như tôi bị bắt chộp lúc đang đi nhà vệ sinh, bà lại còn công bố trước 4 người Bắc Việt đang chăm chú nghe. Nên tôi nổi xung và chép mép: “Cái gì? Bà cút đi!”
Lạ quá, thay vì bỏ đi, Huân lại cấu vào cánh tay tôi và lôi ra khỏi cầu tiêu. «Không phải chỗ, không phải chỗ». – Bà nói gì, bỏ ngay tôi ra! — «Không được tiểu ở đây, đàng kia kìa!». Cãi lộn sôi nổi, rồi kết cuộc tôi cũng vào được nhà vệ sinh, nhưng khi tôi bước ra, Huân còn ở đó, hung dữ. Bà ta rủa tôi một bài, với lại hai tay dang dang tờ giấy đã xé nhàu, thiệt khó mà hiểu được bà ta muốn gì. Tôi lại với thông ngôn Hổ, hỏi:

$pageOut $pageIn
Fallaci in North VietnamL’Europeo Magazine from No. 13, Mar. 27, 1969 to No. 16 Apr. 16, 1969
Miền Bắc Dưới Mắt Ký Giả Fallaci
Translated into Vietnamese by Cô Long Thành, first post in #HoaBinh May 3, 1969; last post in #HoaBinh Jun 6, 1969
Retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024

#HoaBinh May 27, 1969

Phụ nữ tham chiến (tiếp theo)

– «Con mẹ chó đẻ này muốn nói gì vậy?» Hổ ngượng đỏ mặt, hắng giọng, rồi lắp bắp – «Đồng chí này, xin lỗi đồng chí này… đồng chí chỉ tiểu tiện thôi» – Ừ thì quan hệ chó gì?» Chàng ta càng đỏ mặt thêm, giải thích, theo lệnh của Bộ Vệ Sinh, tại thôn quê, cấm tiểu và đại làm một, nghĩa là cấm đại tiện và tiểu tiện cùng một lúc. Thế nên mới có một nhà tiểu và một nhà đại, ai đi tiểu tới nhà tiểu, ai đi đại tới nhà đại, cấm đi đại vô nhà tiểu và ngược lại. – «Chèng đéc ơi, tại sao vậy hả?». – «Vì với đại, có thể lấy dùng làm phân bón, nếu lộn với tiểu, thì phân bón không tốt» – « Trời ơi, rủi có ai... tôi muốn nói, làm cả hai thì sao?» Chàng đáp: – «không được, không thể được, cấm ngặt! Phải chia ra để đạt chiến thắng cuối cùng».
Câu nói đó không thoát khỏi óc tôi và làm tôi cứ nghĩ ngợi mãi thôi.

Cho tới lúc họ bó buộc chúng tôi viếng thăm một chỗ khác: Một cái Xưởng dời vào hốc núi, gần cầu Hàm Rồng. Tại đó họ chế tạo những thứ miếng, món đồ xe hơi, chàng bảo, hình như người Mỹ biết được nơi này. Vì từ 1966 đến 1968, quả núi này đã bị ném bom đến 8 lần, một vài quả rơi trúng ngay lối vào động. Họ làm việc suốt 8 giờ theo phiên với nhau. Quãng năm chục trai gái từ 17 đến 22 tuổi. Tôi không hiểu làm sao họ có thể chịu đựng nổi trong đó. Thiếu khí thở, đèn đuốc thì mờ đến nỗi không thể thấy xa quá một mét. Hết mỗi phiên thì bắn một phát súng, và họ phải liệu lò mò mà rút ra như thế. Để qua thời gian thì phương thể duy nhất là hát những bài hát không chiến quen thuộc. Ấy thế mà họ chịu đựng nổi.
Mà có lẽ bạn cho là họ anh hùng, hy sinh, chịu đựng, một thứ anh hùng không thể tránh được. Tôi không dám nghĩ tới phương diện tâm lý mà họ phải gặp lúc hòa bình trở lại, khi đó họ sẽ miễn cưỡng nhận ra cuộc sống thực hoàn toàn khác xa, đơn giản hơn, tầm thường hơn, vui vẻ hơn. Nhất là không dám nghĩ tới nỗi khó khăn mà phụ nữ sẽ chịu: chiến tranh đã bắt họ phải đảm nhận những trách nhiệm của đàn ông, và lúc phải trở về với công việc nội trợ, họ sẽ ra sao? Đàn ông trở về nhà có ném nổi họ vào nhà bếp không? Tôi thắc mắc muốn tìm hiểu. Tôi lại phỏng vấn tiếp theo 2 phụ nữ có gắn huy chương trước ngực. Tôi hiểu được tại sao phi công Mỹ đã giết họ nhiều thế.

Trưa Thứ Ba: Trông họ thật xấu xí, quê kệch. Với bộ ngực lớn bó trong chiếc áo khách xám xanh, quần dài, tóc kẹp phía sau. Họ không bao giờ biết đến chuyện bận chiếc áo đẹp, chải chuốt hoặc trang điểm son phấn dù chỉ có nghĩa là lấy le một tí. Sinh ra trong hoàn cảnh thiếu thốn, lớn lên với một mớ lý thuyết mị dân nhồi sọ, với những câu làm sẵn, và chỉ biết có hai chữ: «Căm thù và nhiệm vụ». Cô gái thứ nhất mang tên Tô thị Đỗ 24 tuổi, kết hôn với một anh lính. Chàng muốn trả ơn cô vì đã được cô tiếp máu cho khi bị thương trên chiếc cầu 18 nhịp. Cô được huy chương vì đã hạ được chiến F.105 tại làng Lạch trường ngày 5-8-1964.

Cô khác tên Nguyễn thị An cũng 24 tuổi, đính hôn với một sinh viên trường thuốc, được tặng huy chương vì đã hạ chiếc A4 đang nghiêng xuống lại làng Hòa Lộc, ngày 23-9-1965. — «Chi Đỗ ơi, xin chị thuật lại xem.» Cô ta ranh mãnh nhìn tôi. — «Đây, tôi xin kể, tôi đã quật được hắn. Hay lắm. Là lần đầu tiên chúng tới đây ném bom. Lúc đó hai giờ chiều. Tám chiếc máy bay. Tôi đã qua lớp huấn luyện cấp tốc chỉ sáu ngày. Tôi theo dõi riết, đợi cho tới lúc nó xuống gần gần và tôi hô “bắn”, và đã bắn trúng. Nó phát hỏa và lái ra biển. Hắn vung dù nhảy xuống. Tức thì cùng với mấy nữ dân quân khác, chúng tôi bơi thuyền đi tìm hắn. Suốt ba ngày chúng tôi không thấy hắn đâu, và khi tìm thấy, thì hắn đã chết. Xác đã chương lên rồi. Tôi khoái lắm. Còn thằng khác, tiếc là tôi đã không giết.» — «Còn thằng khác nữa sao?» — «Vâng, cái thằng mà tôi nã hắn trên cầu Lèn, hắn cũng vung dù nhảy, và rơi gần Quảng Lộc. Chúng tôi tìm thấy ngay. Ớn lắm. Hắn làm tôi hoảng sợ, vì hắn lớn quá, mặt đỏ như gấc, râu bạc, xấu xí lắm cơ. Hắn bận bộ binh phục nhiều túi, có chiếc radio nhỏ xíu: và một chiếc ca nô bằng cao su hơi. Nhìn thấy chúng tôi, hắn giơ tay lên. Có sẵn khí giới trong tay, tôi đã muốn giết hắn ngay. Cả mấy bà nông dân quanh đó cũng muốn mần ngay. Khi họ từ ruộng bước ra, tay liềm tay cuốc xông tới trước mặt hắn» …

#HoaBinh May 28, 1969

Phụ nữ tham chiến (tiếp theo)

– Tôi cũng khoái để họ giết hắn bằng cuốc và liềm, những chính phủ lại không muốn và đảng không cho. Tôi bảo họ vậy, nhưng họ tỏ vẻ giận dữ.
– Có bao giờ, đã có ai giết họ ngay không?
– không biết
– Cô hãy nhớ lại kỹ xem, có thể có thường dân nào đó đã giết họ trước khi nữ dân quân tới chăng?
– Tôi không biết. (Hổ đã phiên dịch như thế, dầu Đỗ nói dài hơn. Và tôi cố tìm nơi khuôn mặt của Hổ lưu nói câu "Tôi không biết có dấu điều gì tôi muốn biết không.” nhưng nét mặt chàng không đổi)…
– Cô biết gì về người Mỹ, ngoài chuyện họ là thù địch?
– Tôi chỉ biết điều đảng nói, và biết rằng họ giàu có lắm, dùng sự giàu có của họ để đi đè bẹp những dân tộc khác, phạm những điều quái gở, như hãm hiếp phụ nữ miền Nam.
– Ai bảo với cô họ hãm hiếp phụ nữ miền Nam?
– Thì chuyện thấy viết trên báo chí hàng ngày. Và cả cấp chỉ huy của đảng cũng nói nữa. Thật đó! Nhất là chúng phải chịu trách nhiệm về cái chết của má tôi. Và cũng chính vì thế mà lúc tôi bắt được chúng, tôi muốn giết chúng ngay.
– Má cô chết lúc nào? – Chết năm 1945, vì nạn đói – Nhưng Mỹ có liên quan gì đâu? Vì lúc đó Mỹ chưa tới mà? – Sao bà lại nói như vậy? Sao vậy? À, tại vì bà không thuộc đảng cộng sản. Có thật là bà không phải Cộng sản không? Mà sao tôi thấy bà làm việc hăng thế mà bà lại không trở thành CS? Rồi tiếp sang một cô khác. – Xin cô Nguyễn thị An kể chuyện của cô cho tôi nghe với. Có bẽn lẽn cười. – Tôi đã dùng súng trường bắn, tôi bắn trúng mũi phi cơ, và phi cơ rơi xuống biển. Tôi và chín phụ nữ khác dùng thuyền chèo tới. Tất cả chúng tôi đều mang súng gắn lưới lê. Thấy chúng tôi, anh ta sợ quá. Chúng tôi kéo anh ta lên thuyền và anh ta té. Rồi anh ta giơ miếng vải mang sau lưng đề bằng nhiều thứ tiếng. «Tôi là một phi công Hoa Kỳ, chính phủ của tôi sẽ bồi thường phí tổn cho những ai nuôi tôi sống v,v., mặt dài, mũi dài, to con và cao, chúng coi đem cân ngay. Bà biết không, nặng tới 94 kí, mà mới 34 tuổi, và không xấu lắm. Nhưng tôi thì tôi cho không phải là người. Tôi căm hờn hắn quá. Tại không thương hắn tí nào. Đáng lẽ tôi đã giết hắn ngay nếu đảng không cấm. – Vậy thưa cô, không bao giờ họ bị giết ngay hay sao? – Tôi không biết. – Nếu cô biết chắc cô cũng không dám nói cho tôi biết được, tôi hiểu, tôi hiểu rồi. – Tôi không biết. – Cô sợ câu hỏi nay sao? – Tôi đâu có sợ gì. Lúc 15 tuổi, tôi có sợ ma, nhưng sau thì thôi, vì ma không có, cũng như không có Chúa Trời. Tôi chỉ sợ mỗi bom Mỹ thôi. Và nếu tôi có chết vì bom, thì cũng chết hiên ngang như một đàn ông chết cho tổ quốc. (Tới đây, tôi cái lộn với Hổ, vì lại có cảm tưởng là chàng đã dịch không đúng câu trả lời. Tôi muốn chàng phải dịch đúng như người ta đã trả lời). – Thôi cô ạ, tôi hỏi chuyện khác nhé. Cô thích bận đồ lính không – Thích chứ, vì làm tôi nhớ đến phục vụ tổ quốc tôi và đảng tôi, Ngay cả má cũng hài lòng thấy tôi bận binh phục. – Không bao giờ cô thích bận quần áo đẹp hay sao? – Có chứ sao không. Ăn mặc đẹp ai mà chả thích! Nhưng đợi khi người Mỹ ra khỏi quê hương chúng tôi, rồi mới ăn mặc đẹp, như đảng đã nói. Khi đó, tôi sẽ chưng diện sang trọng, sẽ trang điểm, tất nhiên tôi sẽ có những áo quần tôi thích. Rồi sẽ kết hôn với hôn phu của tôi.

#HoaBinh May 29, 1969

Phụ nữ tham chiến (tiếp theo)

– Anh là người rất siêng năng và nhiệt thành với đảng. – Thế hiện nay vị hôn phu của cô ở đâu? – Ảnh đang ở Ba Lan. Anh đã đi 3 năm nay, một năm sau khi đính hôn. Anh viết thư cho tôi một tháng một lần; tôi không ghen với các cô gái Ba Lan đâu. Chính vì người Mỹ mà anh ta phải sang học bên đó. Vì thể mà tôi ghét họ và muốn giết họ ngay.

Tôi càng có lý để tin rằng ai trong họ cũng kết thúc như vậy. Trong lòng dân tộc này nỗi căm hờn hàng ngày càng dâng lên và đã thành như một bản năng căm hờn, như thế thì không thể không gây ra chết chóc được. Nếu không phải là những dân quân, thì nông dân hoặc thường dân, trước khi các nữ dân quân tới cứu. Nhưng có ai bao giờ đồng ý đâu? Sau đây tôi sẽ dẫn chứng. Bà Huân bảo họ sẽ cho tôi phỏng vấn một cô gái khác. Tôi muốn biết xem có này còn có trả lời không biết nữa không.

Chiều Thứ Ba. Tôi tự hỏi không biết khi nào họ sẽ dẫn cô ra ngoài? Và tôi không ngờ họ đã dẫn cô ra chiều nay, như một món ăn chính thức dành cho tôi, món ăn địa phương.
Hôm nay, đúng thực như một nhân vật bị cưỡng ép khi họ đem triển làm cho người ngoại quốc xem với một ý nghĩ như khi ta dẫn du khách xem Colosseo. Và không có một phóng viên nào lại không viết một bài về câu chuyện đó. Hồi tháng 11 năm 1966, họ đã gởi cả sang Paris, tôi không nhớ trong cuộc đại hội thanh niên nào, cốt để nêu gương điển hình: ngoài đặc tính của một cô gái thông minh có nhan sắc, cô còn là một trong ít cô gái đẹp nhất tại miền Bắc. Cô cao, nét mặt sắc. Cô được trời phú cho có khuôn mặt tuyệt đẹp, có thể chụp hình làm minh tinh. Nhà phim ảnh Jame Bond mà vớ được sẽ khoái tỉ lắm. Chắc là sẽ đặt cạnh Sean Connery trong phim 007.

Cô 24 tuổi, tên Nguyễn thị Hằng (nghĩa là mặt trăng). Tôi đã đoán ngay được từ đầu, từ lúc cô bước vào, bước đi chững chạc, mặc áo lính, giơ tay chào kiểu các nghệ sĩ muốn gây thiện cảm với các phóng viên nhà báo: chào bạn. Tôi nói nay mà không có hậu ý gì: “trông cô có cảm tình lắm”. Tôi thấy ra được bầu khí độc địa lạnh ngắt của quần chúng. Vì cô khác hẳn. Điều này chứng tỏ rằng cái tánh cá nhân không bao giờ mất hết dù ở một xã hội như thế này. Phải, vẻ đẹp của cô không do đảng mà có, cô vẫn có nét phong lựu, dù ở bất cứ thời nào và chế độ nào. Giá mà sinh dưới thời vua chúa, chắc cô sẽ là một cung nữ. Dưới thời Pháp, thì có lẽ đã là vợ của một chủ ngân hàng. Mà sinh dưới thời Hồ chí Minh thì nàng chỉ là một nữ anh hùng dân quân, với mảnh huy chương trước bộ ngực tròn, không có nịt vú. Có kể đã từng đảm nhận chức chỉ huy dân quân làng, lúc còn hai mươi tuổi. Và thật là bất ngờ, ba phần tư đoàn dân quân tại phần lớn khóa đó là đàn ông, nhiều tuổi hơn nàng.

– Thế chị Hằng, họ đã cư xử với chị thế nào?
– Ồ, bà phải biết tất cả họ đã được đảng huấn luyện nên họ đã quen tùng phục. Tôi, tôi cũng chỉ truyền đạt những mệnh lệnh của đảng thôi.
– Có bao giờ có ai trong bọn họ phải lòng với chị, hoặc ngược lại không? – Một đôi khi bà ạ. Tôi muốn nói là đôi khi tôi biết được ai đã yêu tôi, và tôi cũng đáp lại. Nhưng tôi, thì tôi đã không khuyến khích chàng, vì tôi sợ mất phẩm giá. Làm sao bà có thể chỉ huy bọn đàn ông khi làm những truyện đó? Dĩ nhiên vấn đề vẫn còn và kéo dài trong những giao tiếp giữa đàn ông và đàn bà khó lòng mà dấu nổi. Nhiều bạn nữ dân quân của tôi đã phải giải quyết vấn đề. Như bà biết, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể dẹp tất những tình cảm và tình dục.
Hay quá. Đây là lần đầu tiên tôi thành công trong việc đề cập với người Việt Nam về vấn đề dục tính. Tại đây. "tính dục” đã trở thành như một “tên hủi", không còn ai nói đến nữa. Cả việc đọc lén cũng không được Chế độ cộng sản đã cố tình làm thành như một thứ lý thuyết "thanh giáo". Ngoài phố không bao giờ thấy nam nữ hôn nha; ngay rạp chiếu bóng, cũng không bao giờ thấy một câu chuyện tình. Còn triển làm khỏa thân không nhưng bị kết án mà còn là chuyện không thể có được. Một chiều kia khi tôi ghét Huân hơn thường lệ mà khó tìm được cái gì để báo thù, tôi bèn nói tới phái tính. Cuối câu chuyện, bà ta tỏ ra khó chịu. Trái lại với Hằng thì không.
– Chị Hằng ơi, chị không bao giờ phải lòng với ai sao?
– Cuối cùng thì cũng có chứ. Và tôi đã quên mình là một chỉ huy trưởng, dù xảy ra mọi chuyện như phải xảy ra giữa một thanh niên và một thanh nữ khỏe mạnh.
– Ai thế?
– Một anh lính thuộc đơn vị của tôi, cao như tôi. Bà biết, không dễ gì kiếm được một trai VN cao như tôi. Chúng tôi đã sống với nhau ba năm. Sau đó, chàng bị đổi đi xa, đi vào vỹ tuyến 17. Chàng vẫn viết thư cho tôi. Tôi cũng có ý định kết hôn với chàng.
– Chị Hằng, nay xin chị cho tôi biết chị có thể yêu một anh lính Mỹ được không?
– Với tôi, bà coi, tôi không có thành kiến. Tôi có thể nói với bà ngay kẻo mất công chờ, người Mỹ, tôi ghét họ, ghét chính phủ, chứ không phải nhân dân. Đối với nhân dân Mỹ, tôi cũng thấy có cảm tình lạ. Xét ta họ cũng có nhiều người như chúng tôi. Và không dễ gì có một người Mỹ như chúng tôi. Phải tôi còn có thể nói. Với tôi, tôi cũng không căm thù gì người Pháp. Ở đây người ta đều ghét Pháp, nhưng tôi không cảm thấy thù họ. Tại Paris thì có nhiều bạn. Paris đẹp dữ. Tiếc là tôi chỉ lưu lại đó một tuần thôi.
– Vậy còn những chàng phi công Mỹ tới ném bom, Hằng nghĩ thế nào? – Tôi coi họ như những anh khờ, vâng lời tối mắt mà không suy xét gì lệnh của thượng cấp. Mà xin lỗi, sao họ không thể thưa được là: làng này, tôi không ném bom, bom bi tôi không thể bỏ xuống được. Nhưng rồi tôi cũng không thích cách người ta rượt bắt họ.
– Thế chị có bắt họ không?
– Có, nhưng là chỉ huy những cuộc tiếp cứu họ. Khá nguy hiểm lúc phải chạy ra biển hoặc gần biển, vì người Mỹ cũng đi tìm họ nữa, bà biết không!
– Có bao giờ một phi công bị giết ngay lúc nhảy dù xuống không?
Trông cô ta ‘lúng túng’ – Theo như tôi biết, không... trong tỉnh này, tôi tưởng là không có.
– Thế còn những tỉnh khác?

Nhưng Hổ, viên thông ngôn, đã không dịch câu trả lời thứ hai. Và không có cách nào làm chàng ta dịch ra cả. Chàng chỉ lập lại rằng Hằng đã trả lời là không có phải rồi, cổ đã trả lời là không, nhưng còn câu thứ hai, tôi đang có ý tìm xem cơ mà. Còn Hằng thì hiểu ngay là lúc cắt ngang câu chuyện, nàng quay ra đi và nói: sáng mai chúng ra sẽ tiếp tục câu chuyện.
Nhưng tôi sợ sẽ không gặp lại cô nữa. Sáng mai chúng tôi sẽ đi lúc trời sáng.

Trước đây mấy phút nàng cảm thấy mệt. Vì nàng đã chỉ nuối chửng món ăn trưa đó như thể từ một năm nay nàng không được ăn, vì thế nàng cảm thấy khó tiêu kinh khủng, rồi nàng oẹ ra tất cả. Giờ đây nàng đang sốt rét. Tội nghiệp. Bây giờ tôi lại chìm vào thế giới cuồng tín tang tóc của những người khác, của những người đón chào đảng Cộng sản, suy tôn Hồ chí Minh, những câu dịch nửa chừng, nhà vệ sinh phải tách ra đái một bên, ỉa một bên. Huân vẫn kèm tôi với mảnh giấy «đồng chí ơi, đồng chí ...» Tôi đã dọa đá đít bà nếu bà không bỏ cái thói ấy đi. Nhưng bà không chừa!

Trưa Thứ Tư. Kể chuyện anh hùng mãi rồi cũng chán phè chết đi được. Sáng nay họ dẫn chúng tôi tới một hỏa lực phòng không khác. Ổ này, cũng gồm toàn đàn bà, loại đúng tuổi, chỉ huy bởi một phụ nữ quê ôi là quê. Hình của cô ta in trên lịch, tên là Hoàng thị Mọi 18 tuổi, đã hạ được 2 chiếc phi cơ trong 1 ngày, nhận được cả thư chúc mừng của Hồ chí Minh.
– Lá thư của Bác đã khuyến khích chúng tôi đến nỗi, ngày 2-9-1967 chúng tôi còn hạ thêm hai chiếc khác: A. 42 vì F. 111. Nếu địch còn tới, chúng tôi còn hạ cho mà xem, nhờ ơn Bác đảng đó! – Cô thích bắn máy bay làm phải không?
– Thích chứ, như chơi vậy.

Xong ổ hỏa lực, họ dẫn chúng tôi tới hợp tác xã làng Hòa Lộc, bị oanh tạc 77 lần trong 4 năm. Tòa nhà hợp tác xã chiếm hẳn một chếc villa sung công của một ‘tên địa chủ’. Những nhân viên của hợp tác xã đã sắp hàng đợi chúng tôi trên sân. Khi chúng tôi tới, họ vỗ tay và chúng tôi phải duyệt qua một vòng y như chúng tôi là những tướng tá không bằng! trời ơi, thật là mắc cỡ. Để tránh, tôi chuồn đi, nhưng Huân đã bắt tôi lại và tôi phải buộc lòng duyệt qua mội mình, trong khi họ hô to: “Chiến thắng cuối cùng! Hồ chí Minh". Một đôi lần trong đời, bạn cũng ráng làm những gì bạn không thích.

Xong rồi, nhân viên Hợp tác xã vào trong biệt thự (trước dây là một tòa nhà khang trang đẹp đẽ, còn bây giờ thì buồn ơi là buồn), tất cả ngồi vây quanh chiếc bàn: bên trên tường treo mấy khẩu hiệu về Hồ chí Minh và Nguyễn văn Trỗi, tên VC can đảm bị xử bắn tại Saigon hồi tháng 3 năm 1964. Họ tiếp chúng tôi đầy kẹo bánh và cũng từ những bài «thuyết pháp ...» lê thê về những vụ ném bom, luôn luôn với con số đó, những lời lẽ đó, rút ra từ những trang giấy đánh máy đó, học thuộc lòng, thuộc nhão. Có ba lần tôi định trốn, và cả ba đều bị chặn lại, rồi phải bị cưỡng bách ngồi vào bàn. «Phải cố mà nghe lấy!» Nhưng lần thứ tư, tôi bịa rằng tôi muốn đi cầu tiêu, và tất cả họ đều hài lòng vì nghĩ họ sẽ được phân bón. Họ bảo tôi đứng dậy. Thế nhưng tôi đã chuồn lẹ dông ngay vào phía mấy bụi chuối.

Tới đây thì thiếu, không có số báo #HoaBinh May 30, 1969 [nhằm ngày thứ Sáu] mà không thấy báo Hòa Bình có thông cáo nghỉ 1 ngày hay vì lý do gì khác (thường thì có một số nhựt báo nghỉ ngày Chủ Nhựt).

#HoaBinh May 31, 1969

Phụ nữ tham chiến (tiếp theo)

Tôi gặp và nói chuyện với Nguyễn Xuân Liên. Nàng 22 tuổi, cụt một chân. Bị mất chân tại một cây cầu trong một cuộc oanh tạc. Nhờ có một bà già còn nhớ chút đi Pháp văn, tôi hỏi cô ta:
– Bây giờ có làm gì?
– Tôi lo tiệm thuốc tây.

Tiệm thuốc chỉ là một cái chòi, có một hộp aspirin, một chai si rô thuốc ho, một gói băng keo, một ống kim tiêm, một ít muối Anh quốc. Tôi cảm động... Nếu phải chi họ không kềm chế tôi, thì có lẽ tôi đã tìm ra hàng ngàn lý do để yêu họ.

Chúng tôi lại tiến lên phía Bắc lên tận Ninh Bình, một tỉnh Công giáo bị dội bom 71 lần trong 4 năm. Bắt đầu từ ngày 6-8-1961 và chấm dứt sau ngày 31-3-1968. Chỉ 1 năm, 1967, họ nói đếm được 2.247 phi cơ. Một vài nơi, chỉ còn lại một hòn đá buộc giữ trâu. Có một cuộc oanh tạc, chết đến hơn 100 người.

Chiều Thứ Tư. Tại địa phương nơi chúng tôi trú, đồng chí Phan văn Bổng, thị trưởng «thuyết pháp» chúng tôi gần ba giờ đồng hồ tròn. Ông muốn người ra viết ra hết mọi điều ông ta nói. Rõ là độc tài. Cho nên Hổ phải viết, Marina viết, Huân viết, Carnen viết, Thể nhìn tôi: "Viết đi”. Rồi bà ta ghé nhìn vào cuốn vở của tôi xem tôi có viết hay không. Hình như tại Ninh Bình, phi cơ xuất hiện lần đầu vào ngày 12-7-1961: mục đích là thả dù các thám thính viên Nam Việt Nam. Hôm đó họ bắt được 1 phi công: Phan Thanh Vân, người hiện còn ở tù, bị kết án 20 năm. Lúc ra tòa, anh bảo anh nhảy xuống từ chiếc C.47, cùng đi có một chiếc phi cơ khác chở tướng Nguyễn Cao Kỳ, và một Cố vấn Mỹ. Còn 4 phi công Nam Việt Nam khác cũng bị bắt nửa đêm ngày 7-6-1963, tại Khánh Cường. Trước tòa họ cũng khai giống như vậy, lại còn thêm rằng người Mỹ thả dù họ xuống để trù những vụ oanh tạc tương lai.
– Những phi cơ đầu tiên, không ném bom nhưng thả tiền bạc, máy thâu thanh, quà tặng đủ loại, nhưng chúng tôi nổi tức lên đốt ngay tại chỗ. Thế rồi tới hom đạn ngay.
Phan văn Bổng, nói rằng tại đây không hề có những mục tiêu quân sự. Còn các trẻ em đi học, phải trang bị với chiếc áo giáp và nón bằng rơm để chống bom bi, tay cầm một chai nước để chữa cháy. Thật hay không, ngày mai tôi sẽ khám phá ra. Còn đây chỉ là những bài “thuyết trình" inh ỏi. Tôi muốn họ đừng nói nhảm chướng tai và độc đoán như vậy, đừng dùng lối xuyên tạc để xóa bỏ những cuồng loạn kia. Họ luôn bắt ép bạn phải nghĩ đến những điều họ muốn. Nếu tôi có hỏi, thì họ sẽ trả lời là các phóng viên nhà báo tò mò quá mà, những chi tiết sẽ được các Sử gia nói rõ. Nếu tôi yêu cầu đi dạo thì họ sẽ bảo ban đêm, không thấy được gì.

Bây giờ, tôi đóng kịch chơi.

Tái bút: Tôi đã làm. Họ sửng sốt và để tôi đi ra ngoài với cả dàn hộ tống nữa. Nhưng trước hết, họ bảo tôi đóng bộ đồ con trai, cho tôi đội cả chiếc mũ học sinh. Rồi họ kéo cổ áo Par de Suite lên để che mặt, bốn người vậy quanh tôi: một bên phải, một bên trái, một đàng sau và một đàng trước. “Nếu để trẻ em chúng biết được bà là da trắng mũi cao, chúng sẽ làm bà rơi xuống hố cho mà coi.” Chúng tôi không đi đâu xa, chỉ tới công trường nơi có chiếc máy chiếu ảnh lưu động. Những máy chiếu ảnh chính thức đã bị phá hủy, và vì thế họ đã dựng lên màn ảnh tạm thời khắp nơi để ngay giữa trời. Trẻ em thì ngồi giữa đất, vui vẻ, trên màn ảnh đang diễn lại cảnh một phi cơ có mõm rộng đang từ trời nhào xuống và bị hạ. Phi công nhảy dù xuống, khóc sướt mướt. Đó là một phi công tóc hung có mũi dài và nhọn, như hình nộm dùng làm trò chơi của trẻ em ta vậy. Với họ, tất cả người da trắng đều có mũi nhọn, dài. Rồi bỗng chốc, trẻ em xông tới cào lấy mũi nhọn và đá đít. Chúng đá, và đá mãi …

Trưa Thứ Năm. Chúng tôi cần một thời gian mới chế ngự được nỗi mặc cảm mũi dài và nhọn. Riêng tôi cũng vậy. Nếu tôi là người Ninh Bình chắc tôi sẽ ghét như điên những ai có mũi dài và nhọn, nghĩa là có cái mũi khác với mũi tẹt của tôi.

Tôi đã tới Phạm Tâm, một thị xã nhỏ ven biển. Tôi đã thấy. Và đã phải khóa họng. Có thực là đã có những chiến lược gia ngu khờ ra lệnh cho các phi công ném bom làng Phạm Tâm không? Có thực họ là người Mỹ không? Tôi không biết. Người Mỹ như thế này:
Ông Võ văn Cát ra đồng với con trai đầu mới 16 tuổi, thấy hai chiếc phi cơ nghiêng nhìn xuống. Ông tự nhủ: Chúng sẽ không rơi vào nhà mình đâu. Nhưng rồi ông thấy một quả bom đang rơi đúng vào nhà ông. Chạy về, người vợ không còn nữa. Chỉ thằng nhỏ Cường còn sống sót, khóc la, ba ơi con đau chân trái. Nhưng chân trái đã bay mất rồi. Võ văn Cát kể với giọng danh, dằn từng tiếng, trong khi trên mặt ông lệ chảy ròng ròng.

Một ông già 66 tuổi, khăn đóng trên đầu theo phong lục địa phương, và Thánh giá trước ngực: Công giáo. Như nhiều nơi khác, tại làng Phạm Tâm, năm 1944, ông đã không theo các cha sở bảo phải di cư vào Saigon: Thiên Chúa đã đi vào Nam! Nếu chúng con ở lại, chúng con sẽ mất linh hồn! Mất nhà hay mất linh hồn, đằng nào hơn?
Ông giữ được cả nhà và linh hồn ông ở lại. Nghe chuyện đó, chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Ông từ làng đi bộ tới. Cường chống nạng theo sau.
– Con trưởng tôi, đứa đã ở trong đồng ruộng với tôi hồi đó, đã tình nguyện ra đi, nó bảo nó muốn báo thù cho mẹ và các em. Tôi không thể báo thù ai vì đạo tôi cấm tôi. Nhưng nếu tôi gặp được các phi công đó, không biết rồi tôi có tha thứ họ được không. Ồ, mà có lẽ tôi tha vì nghĩ rằng họ chỉ thi hành thường lệnh, và họ không biết việc họ làm. Nhưng có lẽ là 1 sức mạnh cho tôi, nếu Thiên Chúa tha tội cho tôi.

Bé Cường, nghĩa là “Mạnh”, “Cương quyết", nghe với vẻ dửng dưng, gãi phần cái giò của em còn lại. – Em nhớ gì không Cường?
– Không nhớ gì cả. Em đang ở cạnh má em xay lúa. Rồi lửa đến, nhà cháy.
– Em bước đi có mệt không?
– Ô, mệt lắm. Em ngã luôn. Nhưng mai mốt em sẽ đi được đàng hoàng, vì chân em sẽ mọc lại.
– Mọc lại sao?
– Chứ sao, chắc rồi, vì chân cũng như tàu lá chuối, nếu cắt đi, nó lại mọc ra xanh tươi. Tới mùa Xuân, nó sẽ mọc lại. Và em sẽ chạy được.

Trời đất ơi, đủ rồi, đủ rồi. Tôi thừa biết ngay cả những dàn hỏa tiễn, phóng pháo của họ, cũng không nhân đạo gì hơn bom đạn Mỹ, tôi biết rồi. Nhưng đủ rồi. Tôi không còn so sánh, phán đoán. Tôi cam chịu, nhức nhối trong tìm.

Chúng tôi đang trở về Hà Nội dầu đấy không phải là một an ủi. Nhưng tại Ha nội, tôi đang mong một cuộc gặp gỡ mà tôi cho là quan trọng. Tôi đã xin được phép gặp hai phi công tù binh Mỹ. Tự họ, và họ đã được phái ra đây chiến đấu, bây giờ đang ngồi tù tại đây, tôi đang chờ đợi những câu trả lời mà chưa ai có thể trả lời cho tôi được.

Hà Nội tháng Tư. Đây là chương cuối cùng cuả nhật ký này của tôi tại Ha Nội. Còn chuyện gặp cả hai phi công tù binh Hoa Kỳ thì người Bắc Việt không thích các phóng viên báo chỉ phỏng vấn các tù binh của họ, nhất là bằng Anh ngữ, vì thông ngôn không thể cắt xén sửa đổi gì được.
Tuy nhiên họ không thắng nổi thói huênh hoang hão của họ, muốn khoe với ký giả rằng tù nhân của họ hối cải, được ăn uống đàng hoàng! Canh, thịt, rau, bánh tây. Vì thế họ thuận theo yêu cầu của tôi, có lẽ do họ không tính được tôi muốn biết điều gì quan trọng hơn là “cái lỗi tại tôi", hơn cái bảng kê khai thực phẩm. Cái gì đó, chắc bạn đã biết. Nói đúng hơn, bạn sẽ hiểu nhờ những câu nói của phi công, bạn sẽ nhận thấy được từ cử chỉ của họ. Tôi đã bình tĩnh và có thể nói, bình tĩnh cách lạ thường, tôi nhận thấy hai người khác nhau, họ làm tôi có những phản ứng khác nhau.
Người thứ nhất làm tôi cảm động; người thứ hai thì không. Nhưng cả hai đầu sợ hãi, bị chùy, và bị hạ.
Dĩ nhiên không thể tố cáo ai, tù binh ở đâu cũng bị bạc đãi với những tra tấn đủ thứ. Nhưng có một cực hình còn ghê tởm hơn mọi đòn vọt thể xác, đó là hành hình tâm hồn, tinh thần, phá hủy bộ óc. Cướp lòng tự ái nơi một người, làm tổn thương nhân phẩm, triệt hạ họ xuống đến hạng bù nhìn, thì thật không đáng hưởng Thiên Đàng gì hơn người lý tưởng tại Nam Việt Nam. Phải rồi, trong chiến tranh này, cái ác đều ngang nhau: những quyền sơ đẳng của con người đều bị chà đạp.
Không bên nào của chiến lũy có thể đáp đúng được nguyện vọng của chúng ta. Với một kết luận như vậy dĩ nhiên là chua cay. Tôi kết thúc chứng thư của tôi về miền Bắc Việt. hơn cả một chứng thư, là một xác nhận rằng, nói đến công bình mà thôi, chưa đủ để công bình; nói đến văn minh, không đủ được văn minh; nói đến Nhân bản Chủ nghĩa, không đủ để trở thành nhân bản hơn ai.

Sáng Thứ Hai: Chiều nay, tôi sẽ gặp hai phi công tù binh Mỹ. Hẹn 9 giờ. Họ không nói ở đâu, họ không muốn nói, và như thường lệ, tôi sẽ được xe hơi chở đi, nhưng tôi có cảm tưởng là gặp tại nhà tù Hà nội. Hai chàng Boris của hãng thông tấn Nga Novosti cho rằng, tại đó có nhiều tù binh Mỹ. Tôi tự nhủ, nhiều nghĩa là mấy? Chưa một phóng viên nào biết được con số ngay cả con số phỏng chừng những phi công Mỹ bị bắt cho tới ngày 31-3-1968. Chỉ biết người Bắc Việt huênh hoang: hạ được 3260 chiếc phi cơ!

$pageOut$pageIn
Fallaci in North VietnamL’Europeo Magazine from No. 13, Mar. 27, 1969 to No. 16 Apr. 16, 1969
Miền Bắc Dưới Mắt Ký Giả Fallaci
Translated into Vietnamese by Cô Long Thành, first post in #HoaBinh May 3, 1969; last post in #HoaBinh Jun 6, 1969
Retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024

#HoaBinh Jun. 1, 1969

Phỏng vấn hai Phi công tù binh Mỹ

Tối thứ hai. Đó không phải là nhà tù Hànội. Mà có lẽ một phần của nhà và Hà nội?! Một chiếc biệt thự nhỏ, mà tôi không thể nhận lại được vì trời tối om khi tôi bỏ khách sạn. Để tới đó chúng tôi đã phải mất tới hai mươi phút, nên tôi nghĩ không phải ở trung tâm thành phố. Tuy nhiên, người tài xế xe đã đi lượn nhiều vòng, cốt để tôi khỏi định được vị trí và đôi lúc, hình như đi qua cùng một đường phố đến hai ba lần. Mọi dường phố có nhà ở, nhà biệt thự giống nhau, Kiểu nhà Tây năm, mười năm trước. Biệt thự nhỏ, có vườn, cổng đóng kín.
Tại đây, mấy người lính gác cửa nhà trông ra lối vào, ánh sáng lờ mờ. Nơi lối vào, một sĩ quan đứng đợi sẵn, không chịu cho biết tên tuổi, bảo anh chỉ là một công chức hạng thường. Nhưng tôi tưởng là cao hơn vì thấy mọi người lính trọng quá. Sĩ quan chỉ cho chúng tôi phòng khách nhỏ với một chiếc trường kỷ, hai ghế bành, chúng tôi ngồi trước bàn như thường lệ, có kẹo bánh và trà. Sĩ quan từ chối trả lời bất cứ cạu hỏi nào kể cả câu hai tù binh tên gì? Ông chỉ gắng nói cho tôi biết rằng cả hai được dẫn đến dây vì tôi, và tôi không được nói với họ lâu, vì họ phải trở về chỗ sớm chừng nào có thể. Rồi cả chuyện phỏng vấn họ cũng là cả một vấn đề. Vì họ rất khó tính, tuyệt đối không thể nói chuyện được. Anh thứ nhất không chịu mở miệng; anh thứ hai, thì tấn công bất cứ ai. Nhưng tôi nhất định gặp cho được. Hình như ông ta có dụng ý hết sức muốn làm cho tôi sợ gặp phải hai thú dữ. Ông ta bị mích lòng khi tôi nói với ông đừng lo lắng gì, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Rồi ông cho tôi sang phòng kế cận.
Một phòng nhỏ, lù mù, trang trí với những kiểu ngày Tết, bức bình Hồ chí Minh. Cuối phòng, bức màn chắn ngang đặt ở trong một phòng khách, và mấy bước trước cái màn ấy là một chiếc bàn và một ghế đẩu. Chiếc bàn thứ hai đặt thẳng góc với bàn trước. Một chiếc bàn thứ ba, trái lại, đặt trước mặt, và như thế, nó đặt ngay dưới chân dung Hồ chí Minh. Sĩ quan ngồi vào bàn thứ ba này với hai thuộc hạ. Bàn thứ hai là chúng tôi theo thứ tự: hộ ống Huân, thông ngôn Hổ, hộ tống Thể và cuối cùng là tôi, gần chiếc màn và cạnh chiếc bàn trống. Bầu khí hơi giống như một tòa án đang chờ bị cáo sắp được dẫn vào. Trầm ngâm, lúng túng, tôi quay hỏi người sĩ quan:
– “Tôi muốn được biết chắc là tôi sẽ phỏng vấn bằng Anh ngữ, mà như thế thì không cần đến thông ngôn Hổ”. Sĩ quan đồng ý.
– “Tôi cũng muốn chụp hình anh tù binh”. Sĩ quan gật đầu đồng ý. – “Các tù binh biết tôi làm phóng sự cho báo nào không?” Sĩ quan cười khành khạch ác nghiệt: “các tù binh không biết gì cả đến chuyện sẽ gặp một số ký giả nữa là …“
– “Tại sao?” – “Thưa bà, chuyện đó là thuộc chúng tôi”.
– “Vậy các ông đã nói với họ làm sao?”
– “Họ sẽ gặp một phụ nữ Âu châu”
– “Thế thôi?”
– “Thế thôi”

Vậy thì đây, phụ nữ Âu châu đã sẵn sàng. Lúc đó, sĩ quan ra lệnh cho một người lính chuyển lệnh sang bên kia tấm màn, trong đó tối om đến cả một ngọn đèn cũng không có. Tiếp đó, chiếc màn hé ra và người tù binh bước vào.
Trẻ quá sức, cao, và gầy dễ sợ. Một thứ gầy bệnh tật, tiều tụy. Gầy từ khuôn mặt xanh xao hiền dịu. Hai ống quần dài xám rất rộng, quàng một chiếc khăn trên áo sơ mi ca rô, mang đôi dép Tàu bằng lông và bước đi lòm còm như một cụ già, đầu trĩu xuống giữa hai vai mảnh khảnh. Tay trái giữ lấy cánh tay phải, càng còm thêm hơn nữa. Vẫn không bỏ cầm cánh tay. Anh nhìn quanh quanh, chớp mắt rồi nhìn xuống: hình như ánh sáng ít ỏi đó mà lại làm anh chói mắt. Hẳn nhiên là anh đã bị ở trong bóng tối lâu năm.
Nhưng anh đã cúi chào người sĩ quan ngay, khoanh hai tay chào theo lối của người Việt, cúi đầu, rồi chớm một nụ cười. Tôi đứng dậy chớp ngay, chớp phía phải, tôi giải thích tôi là ai, vì sao tôi đã đến đây. Thực là có khó chuyện trò gì như họ đã nói đâu?
– “Hy vọng là tôi không gây phiền anh"
– Robert Franchot Frishman, Đại Úy Không quân Hoa Kỳ” và bỗng nhiên mắt anh sáng lên một niềm vui khó tả và ấp úng, một tiếng nói nơi cổ sung sướng như một đứa trẻ:
– “Làm phiền tôi, bà ôi!... Tôi phải cảm ơn bà nữa là khác, vì bà đã tới đây, thưa bà. Dường như đã một năm rưỡi nay tôi không hề được nói chuyện với ai, bà ạ. Từ ngày tôi bị hạ đấy bà”.
– “Thưa Đại Úy, Đại Úy bị hạ lúc nào?”
– “Ngày 24-10-1967 trong một phi vụ của tôi ra Bắc Việt. Khởi hành từ phi đội của tôi. Ngày đó trông không khác gì hơn các ngày khác. Tôi cũng đã không nghiêng nhào xuống khi họ bắn trúng. Tôi đang bay và …”
– “Đại Úy có gì nơi cái tay kia vậy?”
– “Tôi bị thương đấy thưa bà. Khốn lắm bà ơi. Họ đã tìm cách sửa lại như trước, vì thế bây giờ tôi có thể cử động được. Bà xem, tôi cử động được cho tới cả ngón tay, nhưng trước đây, nó bị dập nát. Họ đã phải lấy đi một miếng xương, mà hầu như là cả khớp xương. Bà muốn xem chắc? Xin lỗi tôi lấy khăn lấy băng ra” Tôi đang lo anh cởi băng ra. Từ chiếc ống áo sơ mi, thò ra một cánh tay nhỏ mà có lẽ bạn sẽ nói là thiếu ít nhất 20 phân, với một cái thẹo dài. Và khi rờ vào cánh tay đó, ta cảm thấy như không còn xương nữa.
– “Về nhà, có lẽ Đại Úy sẽ được chữa lành hơn và thành công hơn nhỉ?
– “À không, tôi không tưởng thế. Không thể được. Bà biết không, các nhà giải phẫu Bắc Việt làm hay lắm, rất hay, họ rất tử tế, tôi muốn người ta biết đến. Và nói rằng … mà tôi đã kể cho người ta nghe rồi. Bà xem, một viên đạn thấu qua sườn phi cơ, và tôi nghĩ, may quá, Cảm ơn Chúa. Rồi một viên đạn khác trúng tay, tôi không hay rằng tôi đã bị thương, tôi chỉ biết lúc nhìn cánh tay không còn là tay mà là một đống máu. Bà biết không, tôi không cảm thấy đau đớn gì. Thực vậy, tôi tự nhủ: cứ bình tĩnh, cần phải nhảy. Và tôi đẩy ngay yên ghế, bảo sĩ quan kia ngảy trước, vì có một chuyên viên Radar đi bới tôi. Anh ta nhảy rồi … Ôi, tôi không còn nghĩ ngợi gì hết, thưa bà …”
– “Đại Úy không nghĩ gì sao?”
– “Có lẽ có... ừ có... Rồi tôi nhảy, và tôi thấy núi, Và tự nghĩ nếu ghé xuống đó, họ sẽ không bắt được. Tôi đã điều khiển cho chiếc dù rơi xuống đó, nhưng khốn thay, không thành công, gió đưa tôi tới chòm nhà lá. Lúc đó, cánh tay đau nhức nhối, máu chảy, toàn máu... Đàn ông đàn bà trong làng liền chạy ra vây lấy tôi. Họ giận dữ lắm. Dễ hiểu. Họ xông tới tôi và giơ nắm tay. Phải nói là lúc đó tôi sợ kinh khủng và nghĩ: họ sẽ giết tôi. Họ cũng có lý để giết tôi, bà nghĩ phải không? Tôi đã phá làng mạc họ, tôi đã gây ra bao chết chóc và cực khổ cho họ, tôi là người có tội...”

Nói những câu này, anh đưa mắt liếc nhìn về phía người sĩ quan, như để làm cho sĩ quan tin là anh ta hiểu lắm rồi. Nhưng người sĩ quan không đổi thái độ, và ngồi bất động như một quan tòa trên ghế chánh án.

– "Thưa Đại Úy, đây thuốc lá Hoa Kỳ, tôi chỉ còn có bốn điếu, xin biếu Đại Úy hai điếu”
– “Một điếu thuốc lá Hoa Kỳ, tuyệt quá! hay quá! Anh giơ tay trái, cầm lấy với ngón tay thèm thuồng và gầy còm, đồng thời mắt anh gặp phải cặp mắt viên sĩ quan.
– “Dĩ nhiên, tôi không muốn bất lịch sự... tôi muốn nói thuốc Việt Nam tốt hảo hạng, tuyệt... Tôi thích lắm, thích thực. Nhưng thuốc này, đây thuốc này..."
– “Thưa Đại úy, Đại Úy được đối xử như thế nào?
– “Ồ khá lắm, khá lắm. Họ cho chúng tôi dậy lúc 5 giờ sáng, hơi sớm nếu xét cả ngày không có gì làm. Rồi tôi được tắm một cử nước lạnh. Họ cho chúng tôi dùng bữa đầu tiên 10 giờ, hơi trễ vì thức từ 5 giờ sáng. Nhưng tốt hơn là cứ thế, tôi sẽ ăn ngon hơn. Đồ ăn dư dật: Thịt tôm, canh, bánh mì, rồi cà phê. Về ăn uống thì tôi phải nói thể là nhất rồi, họ không thể đối đãi hơn được nữa. Và chiều 5 giờ, họ lại cho chúng tôi ăn"
– “Mà thưa Đại Úy. Tại sao Đại Úy lại gầy như thế? Đại Úy vẫn gầy vậy sao?”
– “À không. Tôi hơi mất ký đó, thưa bà..."
Lúc đó người sĩ quan chồm về phía trước, nhanh nhẩu giở giọng Anh ngữ rất dở: «Đó bà thấy không? Bà thấy chúng tôi đối đãi cách nào không? Nó nói cho bà rồi» Frishman cúi đầu thinh lặng.
– “Hiện Đại Úy ở đâu?”
– “Ồ, thưa bà, bà đừng hỏi tôi điều này. Tôi không thể nói được. Cấm nhất. Tôi sẽ bị làm khổ. Phải rồi, một chỗ xa Hà nội. Ừ, miền quê. Tôi phải đi nhiều giờ mới tới được đây..."
Anh đáp tôi, vừa đáp vừa do dự:
– “Không, tôi không thể nói chúng tôi có bao nhiêu... Không, không nhiều mà cũng không ít... Phải, tôi sống trong một phòng giam, một cái ‘xà lim’, trong đó có một chiếc giường VN như một cái bàn, có tấm nệm rất mỏng... và thế thôi. Một ‘xà lim’ sạch sẽ. Tôi giữ nó sạch".
– “Đại úy làm gì suốt ngày ngoài việc quét dọn phòng?”
– Không làm gì cả. Chúng tôi không được phép làm gì cả.. Tôi xin nói: dầu họ xử với chúng tôi rất tốt, tốt lắm, tuyệt, nhưng đôi khi tôi nghĩ giá mà được làm một việc gì. Đôi khi họ chỉ cho chúng tôi quét lá ngoài dường, một đôi khi thôi. Cực lắm, cực thật, bà biết không, ở thế mà không làm gì cả, từ giờ này sang giờ khác, ngày này ngày khác.... tháng này qua tháng khác. Ước chi tôi có được một cuốn sách. Ô tôi sẽ sướng biết mấy nếu có được một cuốn sách. Còn ở vậy mà không làm gì, thì chỉ có nghĩ ngợi thôi. Nghĩ tới ngày họ bắt tôi, nghĩ tới tuổi thơ ngây, nghĩ tới cha mẹ, tới vợ... Mà bà biết, là đàn ông, nghĩ không thôi là không đủ. Ừ, đôi khi họ cũng trao cho chúng tôi tờ báo Bắc Việt bằng Anh ngữ. Rồi họ đọc tin tức trên máy phóng thanh, bằng Anh ngữ, và vài chuyện khác nữa, khổ cái là đọc tin trong những lúc chúng tôi không buồn nghe nữa...

#HoaBinh Jun. 2, 1969

Phỏng vấn hai Phi công tù binh Mỹ (tiếp theo)

– “Thưa Đại Úy, Đại Úy có cảm thấy họ căm hờn lắm không?”
– “Ồ, có chứ. Nhiều lần. Đồng ý là họ đúng, họ rất có giáo dục Thế nhưng vẫn cảm thấy họ thù, giận. Ừ, Tại sao họ căm thù Hoa Kỳ? Là lẽ tự nhiên. Họ nhìn chúng tôi như quái vật, đồ hư hỏng, độc ác.”
– “Phải Đại Úy tham chiến với tính cách tình nguyện không?”
– “Phải. Bà coi, tôi đã ở Không quân vì tôi khoái bay. Lúc đầu tôi muốn ghi danh học ngành khoa học và tôi đã đậu mảnh bằng Sinh vật học tại Đại học California. Rồi tôi thấy thích bay, và bỏ suất học ngành Sinh vật học, vào Không quân để bay cho thỏa thích. Lúc đó đã có chiến tranh, đôi khi tôi cũng cảm thấy như một bổn phận phải tình nguyện ra đi Người ta bảo tôi: Bob, nếu mày không đi, thì rồi họ cũng sẽ gởi mày đi, nên tốt hơn... Bà nghĩ đúng không? Ý kiến bà thế nào?”
– “Thôi không hề gì, xin Đại Úy cứ tiếp tục, tôi thì chống chiến tranh, thế thôi".
– “Ồ, bà có lý quá, thưa bà. Chiến tranh là chuyện đáng ghét vô cùng. Bây giờ tôi mới biết. Hồi trước không biết. Chúng tôi là người Mỹ, chỉ biết chuyện chiến tranh là chính, có phải không? Chiến tranh với chúng tôi, chỉ những người nào đi đánh trận mới biết và rồi chết tại đó luôn. Chiến tranh luôn là một chuyện xa xôi, đến nỗi lúc có ai chết, thì hình như vẫn còn tưởng là không chết thực. Janet, vợ tôi, cũng nghĩ như bà. Nàng ghét khí giới, ghét đại bác, súng ống, nàng cho đấy là những chuyện tồi bại, kinh tởm. Và thật đau khổ cho nàng lúc tôi tình nguyện ra đi. Ba nàng cũng đã là phi công, và chết trong máy bay của ông, lúc nàng mới hai tuổi. Và vì chúng tôi không có con, nên tôi ra đi bỏ nàng lại một minh. Tôi đã nghĩ rằng tốt hơn là để nàng đau khổ, để nàng lại một mình và tôi dù chưa biết chiến tranh này cho lắm, tôi biết chỉ làm một điều người ta nói với tôi là miền Bắc Việt Nam đi xâm lăng miền Nam và người Mỹ chúng ta không can thiệp chặn đứng chúng lại thì ... Bây giờ tôi biết sự thật. Giờ đây tôi biết là chính chúng tôi, người Mỹ đang xâm lăng Bắc Việt, không thể biện minh được …”
– “Thưa Đại Úy còn một điếu thuộc nữa, cho Đại Úy đây!”
– “Cám ơn bà lắm, cám ơn, cảm ơn lắm. Tôi phải nói là điếu thuốc này khác lắm... Vì như tôi đã nói, một người phải nghĩ ngợi nhiều đến quá khứ khi đang bị ngột vì thèm khát... Thế nhưng hãy nghĩ về tương lai, lúc tôi trở về nhà, nghề lính tráng thế cũng đủ rồi. Ngoài ra, với sự kiện cánh tay này... tôi muốn ghi danh vào Đại học theo khoa chính trị, vì tôi nhận thấy tôi dốt về lịch sử, chính trị, về các ý thức hệ. Và một khi bị xấu số thế này, tôi muốn nói đến chiến tranh, bắt bớ, tù đày, đấy tôi nghĩ cần phải sử dụng nó như một kho tàng dễ phổ biến tinh thần đó ra. Tôi phải dùng cái kinh nghiệm sống này của bản thân tôi tại Việt Nam lúc trở về nhà.....”
– “Thưa Đại Úy, lúc nào thì Đại Úy nghĩ sẽ có thể về nhà?
– “Tôi nghĩ cũng gần lắm rồi. Hòa bình đang tới không phải sao? Tại Paris đang có tiến triển. Xin bà cho tôi biết, có đúng không? Tôi nói: chiến tranh này không thể thắng bằng quân sự, nên cần giải quyết bằng chính trị. Ồ tôi thấy sướng biết mấy, khi được tin ngừng ném bom Bắc Việt. Tôi đã nói, bây giờ, chúng ta hãy trở về nhà, đủ rồi, cuộc chiến bẩn thỉu này. Tôi chắc chắn hòa bình sẽ được vãn hồi cuối năm nay. Và có lẽ khoảng nửa năm sẽ có ngưng chiến, họ sẽ thành công đi đến thiết lập chính phủ Liên Hiệp tại Saigon. Ngay cả đài «Tiếng nói VN» cũng luôn luôn loan tin như vậy. Bà biết, trong phòng tôi có máy phóng thanh.”
– “Thưa Đại Úy, máy phóng thanh đó cho biết những chuyện gì khác nữa không?”
– “Nhiều chuyện lắm. Chẳng hạn tin tức. Nhờ thế tôi biết Nixon thắng. Tin đó làm tôi vui quá vì tôi luôn luôn ủng hộ Nixon. Tôi không bao giờ thích Johnson. Nhóm Dân Chủ tại Chicago nhục thật! Đài «Tiếng nói VN» cũng nói về tin đó. Không biết sao đối với Nixon, tôi coi ông như một người mới, nhưng có lẽ,tôi nhầm và chính trị, tôi chẳng biết mô tả chi cả, vì thế tôi muốn học chính trị. Và có lẽ Nixon sẽ kết thúc bằng cách đem lại hòa bình. Phải không bà? Ông ấy sẽ đưa chúng tôi về. Ông sẽ biết rằng chiến tranh này là lầm? Và chuyện cuộc chiến này là một sai lầm, tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Trước kia thì không... Tôi đã không để ý đến những sai lầm của chúng tôi. Tôi còn nhớ lần chúng tôi tới Nữu Ứớc, cùng với Janel và bà con của nàng. Chúng tôi tới Broadway và tại Times Square, tôi thấy dân chúng biểu tình chống chiến tranh Việt Nam. Tôi đã nói: Họ là tụi khờ dại về ý thức. Chướng quá. Nhưng bây giờ, tôi hiểu họ có lý”
– “Nhưng thưa Đại Úy, máy phóng thanh còn phát những tin tức gì nữa? Họ có cho biết, chẳng hạn tin chuyến bay vòng quanh mặt trăng của các phi hành gia Hoa Kỳ không?
– “Ai? Ở đâu? Phải chuyến bay kỳ diệu nhất của các phi hành gia Nga sô với hai phi thuyền không?”
– “Không, không phải. Chuyến bay của người Mỹ vào dịp sinh nhật với phi thuyền Apollo cơ? Họ đã tới mặt trăng và bay vòng quanh nhiều lần rồi trở về quả đất binh an vô sự. Và ít lâu nữa, sẽ có hai chuyến bay khác, và hè tới, một người Mỹ sẽ đáp xuống mặt trăng lần đầu tiên.”
– “Cái gì? Sao? Chúng tôi, Hoa Kỳ ư? Chu cha! Thực là tin quan trọng, tin kỳ diệu mà bà đã cho tôi!. Bà có chắc không? Tôi nghẹt thở. Tôi choáng đầu, ôi, tôi phải nói một điều, khi tôi thấy nó, tôi cũng đã hài lòng, nhưng cũng hơi nghi ngờ. Tôi tự nhủ: phải có một tờ báo. Nhưng bây giờ bà đã cho tôi cái niềm vui này, cái hân hạnh này... Vậy bà là người Ý mà sống ở Nữu Ước à? Này, khi nào tôi về nhà, chúng ta phải dùng cơm chung chứ?. Tôi, bà và Janet, chúng ta phải ăn uống đàng hoàng như bữa chiều nọ tại Times Square, thịt bê, với khoai tây, cả phó mát trong ngoài, với rượu đỏ, vì đồ ăn Ý ngon lắm, tuyệt nữa là khác... Chúng ta phải ăn mừng ngày tôi trở về, ăn mừng chuyến lên cung trăng của các đồng nghiệp phi hành của tôi, và... “

(Viên sĩ quan lén ra hiệu cho Thể và Thể kéo tay tôi: “Đủ rồi. Tù binh mệt lắm rồi, phải đi).

$pageOut$pageIn
Fallaci in North VietnamL’Europeo Magazine from No. 13, Mar. 27, 1969 to No. 16 Apr. 16, 1969
Miền Bắc Dưới Mắt Ký Giả Fallaci
Translated into Vietnamese by Cô Long Thành, first post in #HoaBinh May 3, 1969; last post in #HoaBinh Jun 6, 1969
Retyping by Le Tung Chau, Jun. 2024

#HoaBinh Jun. 3, 1969

Phỏng vấn hai Phi công tù binh Mỹ (tiếp theo)

– “Thưa Đại Úy, họ bảo Đại Úy mệt”
– “Không, tôi không mệt đâu, tôi sướng lắm. Thưa bà, xin bà nói với họ là tôi không mệt, cũng không buồn ngủ, tôi có thể nói chuyện với bà cả đêm cũng được. Thưa bà, đã một năm rưỡi rồi tôi không nói chuyện với ai. Nhờ bà nói với họ”
– “Không tùy ở tôi Đại Úy ạ. Chúng ta gặp nhau đây đã là một chuyện lạ rồi Đại Úy ạ. À mà sao Đại Úy nói là đã một năm rưỡi nay Đại Úy không nói chuyện với ai. Có phải trong phòng tối, Đại Úy ở một mình? Tôi không thấy một ai khác?
– “Vâng, ở phòng tối, và chỉ khi … “
(sĩ quan: "Được rồi, tù binh mệt”)
– “Thưa bà, cứ để cho họ nói.” Anh đứng dậy. Tôi xin nói thêm một chút, chúng ta cứ tiếp tục nói luôn mồm đi. Tôi 33 tuổi. Sinh nhật, tôi nhận được một gói quà của Janet. Và cách đây một tháng, một lá thư có hình nàng. Thật là một món quà đẹp, tôi luôn mang hình đó với tôi, đây tôi đang mang trên tim tôi đây. Nếu gặp nàng, bà nói với nàng nhé. Bà đã tới California chưa? Rồi chứ? Đây địa chỉ của nàng. Tại Santee, gần San Diego. Ồ, Janet khoái sang Ý lắm, và ...

(Sĩ quan: “Thôi, tù binh mệt”)

– “Và nói quần áo ở Ý tuyệt không đâu bằng, đẹp nhất thế giới. Nhất là đồ ngủ tại Firenza, không đắt. Thưa bà, đừng đi, tôi muốn được nói thêm nữa. Nói chuyện liên miên đừng ngừng bà ạ.”

Mắt của Frishman nhấp nháy lia lịa như đôi cánh bướm điên dại, và anh đã nói là nói không cốt để cho tôi biết tin tức hay để hiểu, mà anh nói để mà nói, để khỏi bị đem về phòng tối nơi có máy phóng thanh. Nhưng viên Sĩ quan không ưng nữa. «Đủ rồi, tù binh mệt rồi.»

– “O K. thưa Đại Úy, Đại Úy phải đi bây giờ, hãy cho tôi địa chỉ Janet nhanh lên đi”
Anh đã cho.
– “Bây giờ xin Đại uý cho chụp tấm hình. Có phiền Đại Úy không?” Anh bảo không. Và anh để cho tôi chụp tự nhiên, rất nhanh. Vì ít ánh sáng quá, anh tới đứng dưới bóng đèn, cái bóng đèn chiếu sáng bức hình Hồ chí Minh. Viên sĩ quan cắn môi, khó chịu, giục giã: «Tù binh phải đi bây giờ»
– “Vâng, tôi đi ngay. Nhưng trước khi đi, tôi xin bà một điều, thưa bà.”
– “Vâng, xin Đại Úy cứ nói.”
– “Nếu bà gặp Janet... đây, bà nói tôi muốn bà nói là... Cánh tay tôi đây. Nhưng Janet không biết gì đâu. Tôi chưa có can đảm cho nàng biết tôi bị thương, và... nàng không biết… Nếu, nếu có thể, bà nhấn mạnh với nàng, rồi giải thích rõ là không thể làm gì hơn. Thiếu xương và xương không mọc ra, nhưng tôi cử động được... và tôi cử động được cả bàn tay, đừng coi tôi như một phế nhân...
– “Được rồi, Đại Úy ạ, tôi sẽ nói. Và chắn chắn cách tay ngắn hơn này không làm giảm đi tình yêu đối với Dại Úy, mà còn trái lại nữa!"
– “Cám ơn bà nhiều. Vậy là tôi thỏa mãn rồi …”

Anh quay mặt tiến về phía chiếc màn nhưng viên sĩ quan ra hiệu dừng lại và chỉ vào đĩa kẹo nói anh có thể lấy bao nhiêu tùy ý.
– “Cám ơn”. Frishman lầm bầm và chỉ lấy một cái.
“Nữa, nữa" Viên sĩ quan nói thêm.
– “Cám ơn”, Frishman lại lầm bầm như thế, cầm thêm một cái khác và chỉ một cái thôi.

«Tất cả, hết đi, cầm hết đi.» Sĩ quan cười với vẻ đại lượng nhưng Frishman từ chối.
Dừng lại với hai chiếc kẹo trong trong tay, anh nhìn chúng với cái nhìn nặng nề làm sao, rồi cúi đầu chào. Rồi đưa mắt buồn bã nhìn tôi lần cuối trước khi khuất dạng. Tôi ngồi lại, tâm can rối bời, đợi người thứ hai.

Người thứ hai vào liền. Tôi biết ngay là lần này có thể không giống như trước. Ông vào với vẻ mặt hài lòng, bước đi vững vàng, nước da rám nắng, không kể đôi dép Tàu, ông ăn bận khá hơn, quần sít sao hơn, áo sơ mi khá thanh lịch. Cúi chào giống hệt như một người Việt Nam thuộc hạ cấp thấp khi vái trước quan lớn từ thế kỷ trước đây. Khoanh tay, người cong hẳn xuống, trán chạm đầu gối. Cúi sâu như vậy đến ba lần.
Cứ mỗi lần, tôi lại cảm thấy như ngượng ngịu, mắc cỡ. Tôi muốn tìm đôi mắt anh như để muốn bảo: “Anh làm gì kỳ vậy?". Nhưng anh chỉ nhìn người sĩ quan. Mỉm cười với sĩ quan, đầy kính trọng với vẻ thân tình. Rồi mới nhìn chúng tôi, hai tay bỏ thẳng xuống:
– “Đại Tá Roger Dean Ingvalson thuộc Không lực Hoa Kỳ.”
Tôi đứng dậy, bắt tay ông.
– “Kính chào Đại Tá, mong rằng cuộc gặp gỡ này không làm phiền Đại Tá. Tôi là một ký giả Ý, và...”
– “Dạ, không phiền gì hết!”. Giọng ông trầm, khô. Không tỏ vẻ ngạc nhiên cũng không cảm động: không thể hiểu được, và còn giống người Việt Nam nữa. Tôi nhìn kỹ hơn, khuôn mặt tròn trĩnh làm tôi liên tưởng tới khuôn mặt Việt Nam. Đôi mắt dường như không thể tin được: có cái kiểu nhìn Á Châu.
– “Thưa Đại tá, Đại tá, bị bắt hồi nào?”
– “Ngày 28-5-1968 tại Quảng Bình. Tôi đang đâm lên với chiếc F.105, sau khi vừa mới nhào xuống lần cuối. Chỉ một mình tôi. Tôi đã cất cánh từ căn cứ Korat Royal tại Thái Lan. Đó là phi vụ ra Bắc Việt lần thứ 81 của tôi". Rồi với một hứng khởi bất thần đầy thán phục, ông nói:
– “Bà nghĩ coi, một chàng trai 16 tuổi đã bắt được tôi, một người dân quân, chính anh đã bảo vệ tôi an toàn, còn dân làng thì giận dữ hết cỡ. Tôi cũng hiểu họ hoàn toàn có lý khi muốn giết tôi ngay lập tức. Nhưng chàng trai đó rất tử tế, đã cứu sống tôi. Tôi lưu lại đó sau 25 ngày, trước khi đem về Hanoi, đó là một kinh nghiệm li kỳ. Chẳng hạn, tôi hiểu được và đánh giá được tinh thần hy sinh cao cả của nhân dân Việt Nam anh hùng, của dân làng anh dũng”
– “Thưa Đại Tá, xin Đại Tá bớt nói về những chuyện đó. Và xin Đại Tá cứ nói tự do. Tôi là một ký giả Ý Đại Lợi đây” (Tôi vội lầm bầm trong răng như vậy, nhưng ông đã không chịu nghe. Và có lẽ ông bị mích lòng)
– “Chuyện gì thưa bà?”

#HoaBinh Jun. 4, 1969

Phỏng vấn hai Phi công tù binh Mỹ (tiếp theo)

– “Không có chuyện gì cả. Thôi không hề gì. Lúc đó Đại Tá có sợ không?”
– “Sợ chứ. Họ đã có thể giết tôi, và theo lẽ thì họ đã làm rồi thì phải. Xét một đàng, thì tôi cũng đáng lắm. Trái lại tôi còn sống đây, họ đối xử với tôi cách kỳ diệu. Họ không hề hành hình tôi, và luôn bảo vệ tôi kỹ càng, cho tôi ăn uống đàng hoàng. Tôi chỉ nghĩ rằng, có cái cơm ăn là phức, thế mà có cả bánh mì đấy bà, không lạ sao? Tôi tự hỏi không tiết họ kiếm đâu ra những của đó: khoai ngọt, đậu, thịt, và mọi sự dồi dào. Tôi không hề đói, không bao giờ.”
– “«Đại Tá trông hăng hái lắm!”.
– “Tôi vẫn hăng hái”.
– “Thưa Đại Tá, đây, xin Đại Tá hút một điếu thuốc Hoa Kỳ!” Tôi đưa cho ông cả hai điếu thuốc, với hy vọng làm ông có thêm hứng chân thành, và cảm động.
– “Chỉ còn lại bốn điếu, thưa Đại Tá. Hai điếu này biếu Đại Tá, còn hai điếu khác tôi đã mời Đại Úy tôi vừa gặp xong".
– “Cám ơn bà.” Ông chịu để tôi mồi thuốc.
– “Nhưng thuốc lá VN tuyệt lắm. Ba không thấy sao? Không đúng sao? Đối với tôi, nó tuyệt lắm. Chúng tôi muốn bao nhiêu cũng được, cả kẹo bánh, lạc, đường, đủ hết ..." Dưới bức hình Hồ chí Minh viên sĩ quan gật gù vẻ đắc chí.
– “Đồng ý. Những ngoài ăn uống ra, Đại Tá làm gì? Đại Tá có được phép làm việc không? Hoặc đọc sách?
– “Làm việc, không được, không được phép. Tôi tập thể dục nhiều đề giữ gìn sức khoẻ. Cần lắm, phải không bà? Đôi khi, tôi được phép ngồi ngoài trời chừng nửa giờ đề phơi nắng chút xíu. Do đó, nước da hơi ngăm đen đây. Còn sách vở thì chúng tôi có đủ báo chí Bắc Việt và Nga sô bằng Anh ngữ. Rồi, qua các ổ phóng thanh, họ đọc tin tức cho chúng tôi nghe cho đỡ cô đơn".
– “Tại sao vậy? Có phải Đại Tá ở một mình trong phòng tối không?
– “Tôi không thể trả lời câu hỏi này". Ông gạt thuốc trên cái đựng tàn tôi đưa cho ông, điếu thuốc dường như còn nguyên vẹn rồi tìm cặp mắt người sĩ quan. – “Tôi có thể nói với bà là một phòng tiện nghi, thoáng khí hơn cả phòng này. Tôi thích giữ cho nó luôn được sạch sê. Có tất cả những gì cần dùng, một chiếc giường Việt Nam, à một chiếc giường cứng, tôi thích thế, và một chiếc ghế...” Sĩ quan lại gật gù hả dạ. Ingvalson mỉm cười với sĩ quan. – “Nhưng thưa Đại Tá, cái ổ phóng thanh ấy của nói gì nữa không... Và tôi nhanh nhẩu nói mau bằng một thứ Anh ngữ mà họ không thể nào hiểu nổi, tôi chen vô: “Xin Đại Tá làm ơn cho tôi được biết Đại Tá sống như thế nào. Đừng nghi ngờ tôi.” Nhưng ông vẫn lì lì, và có lẽ cũng nhận câu đó y như lần trước
– “Họ đọc cho chúng tôi những sách Anh ngữ hay. Như cuốn Gia tài Chua cay, của Schleissinger, Việt Nam Việt Nam của Felix Green, và những cuốn khác của Spich. Những sách nói được là giải thích cho chúng tôi biết tại sao chiến tranh này là một chiến tranh bất công và đáng lẽ chúng tôi không được phép gây ra. Họ còn đọc cho chúng tôi những tin tức quốc tế, nhờ thế chúng tôi biết những gì xảy ra bên Mỹ Châu. Chẳng hạn việc McCarthy đã thất cử Tổng thống, cũng tiếc vì tôi ủng hộ McCarthy. Rồi qua ổ phóng thanh, họ cha chúng tôi nghe nhạc Jazz, nhạc cổ điển và những bài hát do Frank Sinatra. Vậy không tuyệt lắm sao? Một vài bài hát của Sinatra tôi chưa hề nghe vì nó mới ra.”
– “Mà những tin tức tốt, họ có truyền thanh cho các ông không? Ví dụ tin người Mỹ đã tới gần mặt trăng, bay vòng quanh nhiều lần. Và hè này, họ sẽ là những người đầu tiên đáp xuống đó?”
Tôi mong đợi ở câu hỏi này hơn là ở mấy điếu thuốc lá Hoa Kỳ, vì Frishman đã phản ứng cảm kích đến thế. Nhưng với ông, ông chỉ triềng tròng mắt chớp, hé một nụ cười, rồi lịm ngay.
– “Thế à? Tuyệt. Hay, hay lắm. Tôi lấy làm thích như đuợc biết tin này". Chỉ thế, không có gì hơn.
Có lẽ ông đã tự chủ ngay, ấy là một đức tính của các phi công. Cũng có lẽ vì ông có tính lạnh lùng, nghe vậy thôi chứ không bối rối, như kiểu người gốc miền Bắc Mỹ, nên ông đã cho tôi cái cảm tưởng đó. Cũng có thể vì ông sáng trí hơn anh phi công kia, cố chiến đấu để được sống còn, để khỏi bị mất cái đặc ân là đôi khi được phơi nắng nửa giờ và ăn uống dồi dào. Nhưng tôi nghĩ ông sợ mới đúng: sợ hãi đã đâm rễ ở ngay trong từng thớ não của ông. Nhiều người thường can đảm lạ thường đang khi người ta bắn vào mặt họ, nhưng lại nhượng bộ khi người ta không còn bắn nữa. Với Nguyễn văn Sâm, tù binh Việt Cộng, cũng thế.
– “Thưa Đại tá, có thực là Đại Tá bình tĩnh và bằng lòng như vậy không?"
– “Thực chứ sao không? Tôi cho là được lắm. Dĩ nhiên tôi thiếu gia đình, nhưng tôi biết vợ con tôi tự lo được cho gia đình êm ấm, và tôi hy vọng về nhà sớm. Tôi tin tưởng vào hội đàm Paris, tôi nghĩ họ phải đi tới một giải pháp nhờ hội đàm này. Tôi xin nhắc lại, là họ dối xử với tôi tốt lắm. Bà xem, tôi cũng có thể ra khỏi .. nơi tôi ở, và viếng thăm Bảo tàng viện quân đội ngay trong thành phố, và ý thức được những gì đã gây ra cho dân này với bom đạn của chúng tôi. Tốt lắm, đại lượng ghê. Họ đã cho phép chúng tôi ra viếng thăm Bảo tàng viện, họ thực quảng đại.”
– “Theo tôi hiểu, thì nhà tù của Đại Tá ở tại Hà nội. Nếu tôi không nhầm”
– “Tôi không thể trả lời câu hỏi đó”
– “Vậy Đại Tá có thể trả lời câu hỏi này không, cũng như Đại úy Frishman đã trả lời, là Đại Tá phải đi lâu, nhiều giờ mới tới được đây không?”
– “Không! Không". Và hình như ông ta phân tâm.
– “Thưa Đại Tá, tôi rất tiếc là cuộc nói chuyện này đã không được như tôi mong muốn! Đại Tá không nghĩ rằng Đại Tá đã bị thay đổi sau khi bị bắt, rồi phó mặc …”

Và chỉ ở đây, Ingvalson mới có một cử điệu đẹp, khá đẹp, một cử chỉ linh động chứa sẵn lòng tự ái.
– “Không, tôi không tưởng thể. Tôi còn hãnh diện về nước tôi, tôi còn luôn luôn hãnh diện. Tôi không hối hận. Tôi đã gia nhập Không quân hồi 18 tuổi, và nay đã 48 tuổi. Tôi đã tình nguyên gia nhập và không hối hận gì. Tôi là một phi công tham chiến chỉ có mỗi việc ném bom. Tôi đã bị bắt và tôi không hổ thẹn, tôi cũng không cắn rứt lương tâm khi không cần thiết. Tôi đã luôn luôn ý thức có thể xảy đến như thế này: Từ cái ngày mà tôi đặt chân lên Việt Nam, ngày 1-2-1968. Trong 4 tháng, tôi đã chu toàn được 81 phi vụ. Không thể tránh được, trước sau họ sẽ hạ tôi. Nhưng sau khi họ hạ được tôi, tôi mới hiểu những điều trước kia tôi đã không hiểu nổi. Nghĩa là đối với Việt Nam, Hoa Kỳ bất công, và tại Việt Nam, Hoa Kỳ xâm lăng thực sự. Chỉ có thế…"

Viên sĩ quan ra hiệu và Ingvalson như một viên quân sự vâng thượng lệnh.
– “Tôi nghĩ là tôi phải đi bây giờ”
– “OK thưa Đại Tá, xin Đại Tá cho địa chỉ của vợ con Đại Tá?! Chắc họ sẽ sung sướng lắm nếu tôi kể lại cho họ biết tôi đã gặp Đại Tá và Đại Tá vẫn khỏe mạnh".
– “Họ viết thư cho tôi đều đều, và tôi vẫn cho họ tin tức. Cám ơn bà. Bà xem, dịp Sinh nhật, tôi đã có thể gởi cho họ cả thư tín truyền thanh". Ngần ngại một lát ông tiếp:
– “Ai biết họ có nhận được hay không...". Rồi lại do dự một lúc.
– “Nhưng được, đây, địa chỉ nếu bà muốn". Ông đọc cho tôi địa chỉ: Sanford, một thị trấn thuộc York County, tiểu bang Maine, một trong những tiểu bang văn minh nhất Hoa Kỳ.
– “Thưa Đại tá, xin phép dại tá cho chụp một bức hình?”
– “Mời bà”. Rồi đứng nghiêm cứng cáp.
– “Thưa Đại Tá, ở đây không đủ ánh sáng. Xin Đại Tá xích lại gần cái đèn”.
– “Vâng, không dám.” Ông nhích nửa bước, rồi ngồi xuống ngay. – “Thưa Đại Tá, thêm một tý nữa. Xin làm ơn”
– Thôi, đây đủ rồi".
Không đủ và tôi đã chắc là tấm hình không thành. Có lẽ vì ông không muốn, vì hãnh diện, ai biết được. vì ác cảm, hoặc vì muốn chứng minh cho tay sĩ quan Bắc Việt đáng gai mắt kia biết rằng ông đã không muốn cộng tác gì với tôi và ông cũng không tha thiết gì,

Trong cuộc nói chuyện nặng nề ấy, ông đã nhìn sang tay sĩ quan kia nhiều hơn nhìn tôi, trả lời là trả lời cho y chớ không phải cho tôi, và bây giờ, lúc sắp sửa phải đi thì mỉm cười với tay sĩ quan hơn là với tôi. Vừa mỉm cười, vừa cúi chào ba lần, còn sâu hơn cả lúc vào.
Và khi đó, cũng như với Frishman: Take, take, tay sĩ quan giơ ngón tay chỉ về đĩa kẹo.
lngvalson lấy hai cái.
Take, all.
lngvalson đã lấy tất cả. Rồi tay cầm đầy kẹo như một đứa trẻ, cúi chào ba lần nữa. Sâu, sâu và sâu hơn. Mỗi lần ngẩng lên đều mỉm cười, làm tôi như muốn khóc.
– “Họ làm thế là tự ý hay phải theo lệnh?” Tôi phải hỏi tay sĩ quan.
Y phật ý mà đáp rằng một khi đã thành tù binh nước nào thì phải vâng theo tập tục của nước đó.
– “Tôi hiểu rồi. Chính các ông truyền cho họ phải làm thế. Và các ông còn bảo họ phải mỉm cười nữa.” Tôi nói thêm như thế.
Và liền tức thì y mất bình tĩnh, đáp rằng y không thích tôi hỏi như vậy, y không ưng nhiều câu tôi hỏi các tù binh, không thích thái độ của tôi. Câu chuyện kết thúc không đẹp tí nào.

#HoaBinh Jun. 6, 1969

Phỏng vấn hai Phi công tù binh Mỹ (tiếp theo và hết)

Chiều Thứ Ba: Ngày mai chúng tôi ra đi. Cuối cùng, Thể đã đổi cho tôi tiền Mỹ kim và tôi đã có thể mua tem, đĩa hát, dĩ nhiên là loại về chiến tranh.
Buổi trưa, tôi đã dự cuộc phỏng vấn của Giulia với bộ trưởng Giáo dục, Tạ quang Bửu, nhà toán học nổi danh, tốt nghiệp tại Đại học Oxford. Là nhà chính trị sắc sảo, đã dự hội nghị Giơ neo, ông cho nhiều tin tức rất lý thú, chẳng hạn lúc ông giải thích về những vấn đề của sinh viên ông, về VN tương lai: «Các sinh viên du học Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc thật là vô ích. Vì khi trở về nhà, không biết thích nghi với nghèo khổ của nước nhà, không tìm thấy được tiện nghi kỹ thuật mà họ đã quen sống. Trường kỹ thuật Hànọi tân tiến và trang bị đầy đủ chưa từng thấy, ấy là nhờ Nga Sô đã thực hiện tặng cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi không thể sử dụng được vì nó đòi hỏi phải tiêu xài một lượng điện năng quá số, vì thế đã phải đóng cửa. Và quân sự cũng thế. Nga Sô và Trung quốc tặng chúng tôi những khí giới, nhưng là những khí giới tối tân quá, đến nỗi chúng tôi không biết dùng làm sao, phải đem chúng ra dùng theo cách của chúng tôi. Chúng tôi đã đi sau người ta đến 3, 4 thế kỷ. Và trong vài chục năm, sẽ không thể nào đuổi kịp 3, 4 thế kỷ đó.»
Nhưng rồi, ông bắt đầu giải thích cái hệ thống theo đó cố tranh thủ thời gian, và ông lại rơi vào chủ nghĩa giáo điều cổ hủ cố hữu, ai oán tang tóc và căm hờn.
Cứ năm ba phút, ông ta lại nói:
– “Nơi chúng tôi, tất cả đều đặt dưới sự chỉ huy của đảng". Hoặc, – “Đối với chúng tôi, vấn đề căn bản là giáo dục chính trị cho các sinh viên, huấn luyện họ theo chủ nghĩa Mác Lê.”
Có khi lại nói:
– “Phải rồi, vấn đề cấp bách là họ phải tiến bộ về phương diện văn hóa và khoa học, nhưng còn cấp bánh hơn nữa là họ phải tiến bộ về phương diện chính trị, nghĩa là tiến bộ trong giáo thuyết của đảng".
Và lúc đó thì tôi hỏi ông xem tôi có thể tới thăm riêng ông để nói về những chuyện mà tôi còn thắc mắc không, thì ông lạnh lùng đáp:
– “Xin bà đưa cho tôi một tờ giấy kê khai ra những câu hỏi, tôi sẽ hỏi xem đảng có ủy quyền cho tôi được trả lời không.”
Ngay cả với ông, một người có học, có trình độ như thế mà chỉ một tiếp xúc mang thuần tính nhân loại cũng không thể thực hiện được.

Không thể được! Đó là chuyện bi đát nhất của nước này.
Bị khóa kín trong bức tường ý thức hệ, họ chỉ biết dơ tay ra bóp chết mọi nỗ lực đối thoại, tình bạn và yêu thương. Tôi không hiểu tại sao những ký giả đã tới Hà nội từ trước tôi lại không hề kể lại những gì mà chính họ đã phải thấy và phải hiểu. Chẳng lẽ họ sợ phải gạt đi cái thứ chủ nghĩa thức thời, hay sợ phải sa vào hỏa ngục chăng? Có lẽ nào lương tâm họ hèn đến nỗi không tự cho phép mình làm một việc cao đẹp là viết ra sự thật sao?
Dường như ngày nay, sự thật chỉ là được phép viết về người Mỹ, chỉ có thể tố cáo chửi bới người Mỹ, mọi lỗi lầm chỉ quy trách về người Mỹ thôi sao? Ngay cả sự sống và lịch sử cũng đâu có phải chỉ thuộc về có mỗi Tây phương, nơi một bên xấu, còn bên kia nữa, thì không biết gì đến?!
Tội nghiệp Frishman, tội nghiệp lngvalson! Khi các ông chở bom lên đường, tôi đã thương khóc dân Hà nội. Nhưng đêm nay, tôi đã khóc cho các ông.

Tái bút: Nhân chuyện nói về người xấuhỏa ngục

Thể trả lại tôi món quà mà tôi đi biếu bà làm quà Tết để mừng Tết, và trong một lúc có cảm tình, tôi đã tặng bà món đồ duy nhất tôi mang theo: chiếc đồng hồ. Bà nhận rồi, thế mà chiều nay, bà mang trả lại:
– “Bà ạ, đồng hồ thì tôi đã có. Lần sau thì xin bà cho tôi lọ thuốc”. Tôi cứng người ra.

Chiều Thứ Tư: Tôi ghi những giòng này khi đang trên chiếc phi cơ chở chúng tôi sang Cao Miên: chúng tôi đã bỏ Hà nội được 40 phút, đi sớm hơn năm tiếng đồng hồ bởi vì có lý do là những cuồng phong dồn dập từ Canton [ LTC: tức Guangzhou = Quảng Đông, bên Tàu ] tới. Ra đi vội vàng, bất thần. Nhưng nhẹ hẳn người. Tôi đang phỏng vấn Nguyễn phủ Soái, đại diện MTGP thì Thể mặt bự tới bảo tôi cần phải chạy cho kịp ra phi trường. Tôi tưởng như tôi đã mỉm cười được với một nguồn tin hay nhất thế giới, bây giờ nghĩ lại, tôi cũng hơi thẹn, nhất là đối với con người tốt ấy: Nguyễn phủ Soái.

Tôi đã hỏi ông:
– “Tái thống nhất lãnh thổ Việt Nam có nghĩa là gì, nếu trong chương trình của mặt trận có chính phủ này xây dựng trên những quan niệm của chúng ta về Dân chủ, và trong chương trình của Hanoi, Dân chủ có nghĩa là Cộng sản mà không là gì khác???”
Ông đang trả lời với tôi:
– “Tôi biết lắm, ít nữa cũng cần một thế kỳ mới thực hiện nổi thống nhất giang sơn Việt Nam cách hoàn toàn. Tôi chẳng hạn, tôi không phải là Cộng sản, chỉ theo thuyết xã hội thôi, tôi không tin vào chủ nghĩa giáo điều đâu, và … phải hai Việt Nam là chuyện không thể tránh được. Sẽ còn hai Việt Nam ngay cả khi ngoại bang rút đi và ngay cả khi [ họ ] không còn khuất phục chúng tôi, vì họ ...”
Lúc đó Thể tới, và câu chuyện bị bỏ dở. (Lúc chào tôi còn nhớ rõ là mắt ông đầy lệ. Dân tộc này luôn bị mọi người làm tội hành hạ, bị cả chính đồng bào của họ làm.)

Tôi không muốn nói ra và tỏ ra vô ơn với việc họ đã cho tôi ở. Nhưng làm thế thì tôi sẽ không lương thiện. Trong khi chiếc Volga chạy về phía phi trường, Thể đã nói với tôi bằng giọng tố cáo:
– “Tôi biết là bà không ưa chúng tôi",
– “Không phải luôn luôn Thể ạ” Bà đáp:
– “Vậy bà sẽ viết gì?”.... Bà ta tấn công thêm.
– “Là Những gì tôi đã viết vào lương tâm tôi, Thể ạ”.
Bà lặng câm. Và trên sân phi trường, lúc tôi tìm tay bà để nói với bà là không hề gì, ta hãy chia tay nhau cách tốt đẹp, ít nữa là trong giây phát cuối cùng này. Thể dậm chân và la lên như loạn trí:
– “Chiến thắng sẽ về tay chúng tôi (La victoire sera à nous, à nous).
Tôi sực nhớ đến cô giáo dạy tôi trong thời Phát xít: “chiến thắng sẽ về ta, về ta”.

Ước chi chúng ta đừng nói đến chiến thắng, tới những gì phải đoạt được trong chiến tranh, mà hãy chừa ra lúc ban đầu mà nói một tý về con người.
Tôi, mỗi lần tôi nghĩ tới Việt Nam, tôi không muốn nghĩ đến những người làm tôi nhớ đến cô giáo dạy tôi, mà tôi chỉ muốn nghĩ tới những con người như bé Cường đang chờ đợi mùa xuân sang để chân em lại mọc ra cùng với tàu lá chuối. Tôi muốn nghĩ tới bao bác nông phu Võ văn Cát lúc hừng đông đã lội trong bùn lầy ruộng lúa, và từ cánh đồng mênh mông, man mác nhìn trời mây để xem thử có những con rồng sắt còn trở lại làm cho cả gia đình tan hoang hay không. Rồi, tôi còn nhớ là nếu phải đi nhà xí thì phải dùng 2 nơi khác nhau, một cho tiểu và một cho đại, vì Bộ Vệ sinh muốn thế.

Oriana Fallaci
L'Europeo số 16 ra ngày 16-4-1969 tại Milan.
Cô Long Thành dịch.



$pageOut$pageIn Ngày đăng lại: Jul. 11, 2024
Những người đàn bà trong chiến tranh by Vương Trí Nhàn
Trích Nhật ký Chiến tranh: Hà Nội – Quảng Trị – Hà Nội 1972 – 1975,

đây là loạt bài đã đăng trên báo Web Tiếng Dân từ ngày Mar. 5, 2024 trở đi. LTC tôi chép lại nguyên văn không chỉnh sửa bất cứ gì kể cả lỗi chính tả (nếu có)

Vương Trí Nhàn [LTC sơ lược]: sinh năm 1942, là thầy giáo dạy học từ năm 1968 ở Bắc Việt, bị trưng binh lên đường vào đánh miền Nam năm 1970. Là nhân vật Bắc Việt phản tỉnh khá sớm ngay sau khi CSBV cướp được miền Nam black April, nhưng phải khá dè dặt để được an toàn cho dù ông muốn nói ra hết tất cả những gì đã nhận thức được qua cuộc chiến phi nghĩa của miền Bắc. Trở nên bạo dạn hơn kể từ năm 2020 cho tới nay.


Cách mạng: Cái tiếng được nhắc nhiều nhất trong những ngày này, cái tiếng quả thật là tốt đẹp. Nhưng không thiếu trường hợp cái gọi là vậy lại không phải vậy. Nghĩa đã thay mà chữ vẫn cũ.
Vĩ đại: …Hình như cái từ này ngày càng thấy rất ít dùng trong báo chí phương Tây, trong khi nó còn dùng quá nhiều ở châu Á.

Vương Trí Nhàn - (trích) Nhật Ký Quảng Trị, Hè 1972

=> các câu trích trên đây là (LTC) rút ra nơi một trong các trang Web chính thức sau đây của Mr. Vương Trí Nhàn: https://vuongtrinhan.blogspot.com/ | https://httpvuonghaidangblogspotcom.blogspot.com/ | https://vuongtrinhan.wordpress.com/


Kỳ 1: “Những nữ dân công Thanh Hóa
by Vương Trí Nhàn
(đã đăng trên Tiếng Dân ngày 5-3-2024)

Năm 1972
Ngày 14/7

Về T.70. Có lệnh quay ra. Từ vương quốc của hoang dại, bọn tôi sẽ trở lại vương quốc của sự nhân tạo, cấy trồng. Những chán ngán trong gia đình, những lúng túng trong công việc, và sự không phương hướng trong tình thế chung – sẽ lại đối mặt tất cả. Sau chuyến đi này liệu mình có khác được chút nào?
Lo đường ra. Nghe người ta nói đường ra mà sợ. Địch đánh liên miên. Ngoài kia, cách chỗ tôi đang ngồi viết không xa, những người dân Thanh Hoá, dân công đang ngồi bệt xuống đất nói chuyện. Thanh Hoá, cái tỉnh bè bè ra đó, người đông quá xá, người nào tiếng cũng bè bè, dáng dấp cũng bè bè. Đàn ông, có người 47- 48, thuộc loại đã đi dân công từ cuộc kháng chiến lần trước, đi từ Điện Biên Phủ, và bây giờ họ lại đi. Bốc hàng, cáng thương, cấp dưỡng. Những cái quần bạc phếch, những cái áo vá.
Trông đàn ông xứ Thanh không hiểu sao người nào cũng như từ cổ sơ trở về, đặc vẻ đàn bà, vơ véo đâu được một cái thắt lưng bộ đội, một cái mũ, tự lấy làm bằng lòng lắm rồi. Và họ đã sống như thế, ăn tết như thế.

Vì cái vẻ ốm o của họ, những cô con gái cứ gợi cảm giác sờ sợ, khiến tôi không dám nhìn lâu.

– Chỉ đàn bà có chồng mới không phải đi.
– Cho nên khối cô rình rập lấy chồng.
– Không đi ở nhà cũng khổ. Nó đánh chỗ đê phía bắc sông Mã rồi.
– Nghe bảo Hoằng Hoá vừa rồi vẫn hoàn thành nhiệm vụ.
– Nhưng mà mưa này mới gay.
– Thôi sống chết cũng phải làm. Nơi nào khó thì lại kêu gọi đảng viên, đoàn viên. Hết loạt nọ đến loạt kia. Không chừng sinh viên cũng phải về làm ấy chứ.
– Nhà tôi cạnh chỗ bom nổ có độ sào ruộng.
– Quê ta ở cứ liền liền, nhà nọ cạnh nhà kia, không bằng từ đây đến chỗ cái ghế bom bỏ tránh sao nổi.
– Thôi, Bác đã bảo, càng gần thắng lợi càng nhiều gian nan.
Tiếng bom vẫn ầm ì như đã là một thuộc tính của bầu trời này, một thứ đỉa dai dẳng bám vào bầu trời, người ta cố dứt nó ra, không dứt nổi.
Ở cái trạm của tôi, ngày bao nhiêu khách, quây quanh các máy điện thoại. Thông báo về tình hình trên đường. Gặp cấp trên, xin phương tiện, xin ý kiến. Việc nào cũng cập rập. Và mọi người đều có cái vẻ bồn chồn, y như có bao nhiêu sống chết phụ thuộc vào những cuộc đàm thoại đó.

Nhưng rồi ai nấy bình tĩnh trở lại. Không, không phải là bình tĩnh, mà là lì lợm, mặc mẹ mọi thứ.
Đi đâu cũng thấy lính tráng, cũng như cán bộ ăn và mời nhau ăn. Vì một bữa ăn, một gói chè, một suất tiêu chuẩn đường sữa, người ta có thể đi vật nài quản lý hàng ngày trời. Bao nhiêu con người, bao nhiêu ngày tháng bỏ phí. Với những người vừa ở mặt trận ra, lúc này đây, không có gì chuyện quan trọng hơn ăn uống. Ấn tượng chung là một cái gì ườn ra, nhếch nhác, ngán ngẩm, vô cảm.

Trì trệ đã thành một thứ khí hậu, ngay ở cái nơi gần mặt trận này. Nhưng rồi tôi nghĩ – kéo dài mãi ra ngoài kia, cả Hà Nội của tôi, cả cái tạp chí Văn nghệ Quân đội của tôi, đâu đâu cũng cảm giác trì trệ ấy đè nặng, như những buổi chiều miền núi oi bức.

Cái sức mạnh của dân tộc bây giờ là ở sự chịu đựng. Một dân tộc như thế, rồi sẽ ra sao? Sự chịu đựng vô giới hạn, đến độ người nước ngoài chắc không sao hiểu nổi.
Chỉ còn một thứ rành rọt kỳ lạ, mà, bất cứ lúc nào ở trạm này lắng nghe cũng thấy, đêm hôm nghe càng thấy: Tiếng đài phát thanh. Tiếng đài vốn từ đâu vọng về, tức là một cái gì không thật – cái đó đã đành. Có điều cái thứ không thật ấy lại nhắc đi nhắc lại, đều đều thành nhịp điệu đáng sợ, trở thành thật hơn mọi cái có thật khác.
Đêm nằm, người ta dí cả đài vào bên tai tôi, mà tôi không dám kêu và không có quyền kêu. Tất cả mọi người chung quanh đều sống như vậy, tôi không có quyền sống khác. Đáng lý mình cũng phải tập ăn, tập ngủ tập chơi bài, tập lì lợm và chuẩn bị chen vào đội ngũ chiến thắng, tôi tự nhủ. Nhưng lại biết ngay từng ấy việc mình không làm được việc nào cả.

15/7

Gọi là đánh nhau, nhưng có lẽ ở nước nào cũng thế, người ta cầm súng bắn nhau không mấy, mà nhiều nhất, dai dẳng nhất và kinh khủng nhất là những ngày sống gần như chui rúc trong rừng, bên suối, những ngày ôm gối nhìn trời mưa, những ngày chờ đợi.

… Rồi rất lâu nữa, tôi phải xoay vào để hiểu. Cái giá trị của đời sống dân tộc lúc này là ở sự chịu đựng. Trong vật vã chấp nhận, không quên làm dáng, ra oai nhỏ nhen lặt vặt với nhau, để rồi lùi ra xa để nhìn, vẫn thấy vĩ đại. Chắc nhiều người cũng như tôi bắt đầu thấy chán sự vĩ đại kiểu đó, ước ao những sự vĩ đại khác – những sự vĩ đại về phát minh, về sáng tạo chẳng hạn.
Nhưng mà thích hay không thích, giờ đây, mỗi người cũng hoàn toàn chịu sự chi phối của đặc tính cộng đồng, cũng triền miên trong sự chịu đựng và chấp nhận.

… Đêm qua, gần sáng thì trời mưa. Những người dân công ốm đau nằm võng tận ngoài rừng, lại lục tục chạy vào trú tạm ở các lán, các cô gái vừa ấm nồng vừa ướt át đó, run rẩy và lạnh buốt đi trong gió, co ro ngồi nằm nhờ. Một cô, lúc sắp sửa lại đồ đạc ba lô, ngán ngẩm thốt lên:
– Thôi, đã gọi chiến tranh là phải thế.

Đúng quá còn gì! Nhưng chung quanh chỉ im lặng đồng tình chứ không ai nói tiếp, vì còn biết nói gì nữa. Không khí chung càng như chết lặng đi.
Có những câu nói kiểu ấy. Chúng vốn sâu sắc, nhưng vì nhắc lại nhiều lần, nên lại là một sự vô nghĩa. Ví dụ như hôm qua, nghe một cậu bảo “Nếu những thứ đồ đạc của cải chiến tranh này chế ra cho mình dùng, thì đời sống mình nâng cao biết mấy”. Ừ, người nói câu ấy, vừa là thông minh thật, mà cũng là lơ mơ lạc lõng thật.

… Từ chuyện dân công, muốn nói nhiều hơn đến những người đàn bà trong chiến tranh. Có lúc nghĩ, đáng ra đàn bà không nên có mặt ở nơi hòn tên mũi đạn như thế này. Nhưng bây giờ mọi xó rừng, đâu cũng có họ. Mà nghĩ cho cùng, không có đàn bà thì làm sao hiểu được cái tình cảnh mà chúng ta lâm vào, hiểu được cái phần nữ tính với nghĩa chấp nhận, thụ động – nó là số phận chung của mọi người chúng ta trong cuộc chiến hôm nay.
… Người ta nói rằng tất cả sẽ quen đi – trong chiến tranh. Nhưng tôi đã hỏi rất nhiều người rồi. Không ai quen được. Không ai thích được. Một bác sĩ bảo không thể nào thích y học quân sự hơn y học nhân dân… Và dân tộc nào mà thích được chiến tranh?!
Một cộng đồng đau khổ đến nỗi bất cứ sự thật nào nói ra cũng làm người khác đau lòng, người nọ sợ cho người kia, bởi trước hết sợ cho mình.
Một cộng đồng người nào cũng cô đơn, nhưng trước mặt nhau lại phải luôn luôn tỏ ra hồ hởi, lạc quan (cũng như miệng nói lo cho việc chung, nhưng người nào cũng phải lo cho việc của riêng mình). Một dân tộc như vậy, là một sản phẩm của chiến tranh.
… Bị chiến tranh đẩy tới, xâm nhập làm biến dạng cả mày mặt lẫn hồn cốt, rồi người ta sẽ sống trong thời bình thế nào, ví dụ như liệu có thể làm lại cuộc sống bình thường, sống theo những lề luật của thời bình, xây nhà xây cửa, dạy con dạy cái, làm nên một nền văn nghệ của thời bình chẳng hạn? Nhiều lần tôi tự hỏi mà cũng nhiều lần không biết cách trả lời.

$pageOut $pageIn Ngày đăng: Jul. 12, 2024
Những người đàn bà trong chiến tranh by Vương Trí Nhàn
Trích Nhật ký Chiến tranh: Hà Nội – Quảng Trị – Hà Nội 1972 – 1975,

đây là loạt bài đã đăng trên báo Web Tiếng Dân từ ngày Mar. 5, 2024 trở đi. LTC tôi chép lại nguyên văn không chỉnh sửa bất cứ gì kể cả lỗi chính tả (nếu có)


Kỳ 2: Những cô bộ đội và thanh niên xung phong ở binh trạm 12
by Vương Trí Nhàn
(đã đăng trên Tiếng Dân ngày 6-3-2024)

Trích “Nhật ký chiến tranh”, ghi trong những ngày giữa năm 1969 khi tôi theo Phạm Tiến Duật vào Đoàn 500 – một binh đoàn tách ra rồi lại nhập vào 559. Lòng người lúc này còn trong sáng không ai cảm thấy chiến tranh là cả một gánh nặng, nhất là quãng 1972 trở đi như tôi ghi hôm trước, bản thân tôi cũng còn nhiều non dại.

20/5/1969

Nghe Duật giới thiệu Binh Trạm 12. 5 năm nay, lứa Thanh niên Xung phong (TNXP) thứ hai lại gần hết hạn. Năm năm trước, một số cô gái ấy thích chuyển sang bộ đội, bây giờ lại cứ ở TNXP. Một cái cầu độc mộc mà ai cũng phải qua, trước khi bước vào cuộc đời chăng?
Nghe kể về những chuyến xe vượt khẩu và chuyện thường ngày ở binh trạm. Lính bạ cái gì cũng lấy lưỡi lê chọc thử, xem có gì ngon thì ăn, ăn chán thôi. Lấy thuốc lá sợi chống lầy. Duật gặp mấy cậu khoe, em có thứ giấy này làm phong bì, mịn mặt lắm, chỉ tội hơi cưng cứng. Hỏi ra thì là giấy ảnh. Có ai biết đâu? Ở hai đầu mọi thứ đều quý. Chỉ ở giữa lúc vận tải trên vai người lính, nó là một cái gì lẫn đi giữa cát bụi.
Người phụ nữ trên tuyến lửa. Những cô lái xe. Không ai khóc đâu, rất là hiền không bao giờ to tiếng với người khác cả. Chỉ có một lần dây điện chập, các cô khóc, các anh bộ đội trên xe nhảy cả xuống, phải múc cát xúc đất hất vào trong xe mới đỡ.
Duật kể: Một cô lái xe khác, khi xe mình bị xe khác quệt, xuống, rút khoá điện đối phương “Anh chữa cho tôi xong hãy đi”.

***


Nguyệt đi TNXP từ 1965. Mẹ và bố không đồng ý nhưng quyết đi bằng được. Bố dồn tiền vào cho mẹ, bề ngoài bố không cho một xu nào cả, Nguyệt chỉ được bố đưa cho tờ giấy trắng:
– Con đã muốn đi thì bố mẹ cũng không bàn. Bố mẹ chỉ dặn đi thì cố theo chị em, không được đào ngũ về, gia đình mình bây giờ như tờ giấy này này, nếu con làm xấu việc gì thì cũng như là đổ vào đấy mấy giọt mực.

Chuyển sang bộ đội, không hỏi ý kiến gia đình. Nên khi về phép, bố mẹ bù lu bù loa, tưởng là con xấu hổ, gãy chân gãy tay không dám về.
Mẹ bị một mảnh bom vào đầu. Về nhà em gái giận lắm: “Chẳng nhẽ em lại không gọi chị nữa chứ, em gửi bao nhiêu thư vào mà không thấy chị trả lời” Thì ra Nguyệt có nhận được thư, nhưng ý không rõ, tưởng mẹ ốm xoàng thôi. Lên thăm mẹ, thấy mẹ đã lẫn, múa với hát ở ngoài bãi. Có người bảo, con Nguyệt nó về, mẹ chỉ tay ra xa, nó đang tận Quảng Bình kìa mà. Rồi mẹ lại múa lại hát.
Mẹ đã qua 108, 103. Người ta bảo: Giá đồng chí không ở ngành y cơ, ở ngành y thì chúng tôi cũng nói thật, bà cụ không sống được đâu!
Mà sao Nguyệt vẫn cười vẫn kể chuyện, Duật tự hỏi có gì tàn nhẫn quá trong đó nhỉ? Chẳng nhẽ thế nào bây giờ.

Các cô gái ở đội xe, những cô gái trung bình 68kg.
Một cậu nhỏ con nói đùa không hiểu họ có còn là phụ nữ nữa không? Những cô gái thông tin hơi xấu một tí, các cô khu 4 phải tập nói tiếng khu 3 khi trực ở tổng đài (sao qua đài, tiếng người nghe vẫn đáng yêu hơn). Huệ, một cái áo vá, một vẻ gì buồn mà cương nghị. Cô Quý tóc chỉ trùm hết gáy, trông khổ sở và tội nghiệp, vẫn phải cố vui. Chung quanh có người bảo nó mà buồn thì buồn suốt đời.

Ở đây, phụ nữ hay khóc mà vẫn đi sửa đường, đi lấy củi, làm nhà như mọi người.
***


Những cô gái ở cơ quan Đoàn bộ.
Nhuỵ ở 559 ra, mới nghỉ phép về quê lấy chồng, chồng bên y dược dân sự. Trước khi cưới, ở vào tâm trạng như Thuý Kiều, sau quãng đời phong trần, sợ nguời khác coi mình không ra gì.

– Thế là cô coi người ta không ra gì đấy.
– Không phải thế, chính vì em rất tôn trọng bạn em. Em rất quý bạn em, em muốn cuộc đời người ấy hạnh phúc. Em sẵn sàng hỏi vợ cho anh ấy ngay bây giờ. Em bảo dứt khoát: Tuỳ anh đấy, nếu anh không đồng ý thì em cũng sẵn sàng. Anh ấy bảo, bây giờ cô kể tôi nghe ít chuyện 559 nào. Cho người hậu phương cũng được lên tiền phương môt chút. Em nói, nhiệm vụ ở đâu cũng vậy. Không có người hậu phương thì không có người tiền phương.

Thế nhưng một lúc sau, lại thấy cô kể: Em giục anh ấy đi bộ đội rồi. Anh ấy cũng phải rèn luyện đi chứ, khối người ở các trường đại học ra, lúc đi cũng khó khăn ngại ngần đấy.

22/5

Từ Hương Đô sang huyện Minh Hoá. Qua những Khe Tang, Khe Ke. Như là đường núi Tây Bắc, đường vòng vèo, đất đỏ. Trông một cái xe đi ban ngày, cứ thấy trơ trọi, một chiếc xe zin lên dốc cũng khốn khổ như một đứa trẻ bị tội.
C này nhiều các cô gái Hà Tây từng đi TNXP – hễ gặp lính chờ xe đi nhờ là hỏi có muốn về Hà Tây không?
Một cậu bên pháo cao xạ vừa ném đá vu vơ, vừa kể, thường những khi đi công tác qua, phải ghé nhờ xe họ nấu hết. Nấu nhà dân mình ăn, chẳng nhẽ con họ đừng? Hà Tây nhiều đứa đẹp. Nhưng toàn những đứa điên tình.
Chiều, ở hang đá. Tiếng bom không hiểu ở đâu, lượn từ núi nọ sang núi kia. Đường lên hang vắt vẻo, lán chính trị ở cao nhất, phía dưới là khu vực tổng đài, một cô gái đang “mách lẻo” đều đều như một con vẹt.

22/5

Gặp Lâm Thao, cô bé ăng ngoong em không ăng cháo đâu, mình bảo một cách ngơ ngẩn: Y như tiếng Sà goòng.

– Em được nhận thì đi thôi, trong lớp chả có ai đi cả… Vào làm cấp dưỡng rồi làm quản lý, cuối tháng không hụt đồng nào, lại thừa được hai chục. Mấy lần định kết nạp đoàn rồi, mà vì ít tuổi quá, không được.

Những ngày làm giao liên ấy – một số người khác kể lại – cô còn cứu được mấy người nằm dưới hầm. Chả biết sợ là gì.

– Em làm y tá, mỗi một mình là phụ nữ. Ngày về đây lấy thuốc không biết đường vòng nào mà đi, cứ đi đường thẳng, lội qua ngầm Lộc Yên ướt hết cả quần áo, người ta cứ cười.
– Hôm nọ được về nhà rồi. Năm ngày, mẹ cho ăn ba con gà, mua cho chục đồng bạc cá, ở đấy sẵn cá lắm. Mẹ em hiền mà thương người lắm. Bà cụ chăm bao nhiêu bộ đội đấy.

Những buổi nói chuyện với các cô gái ở đây, không đâu vào đâu mà làm cho mình hết sức hào hứng. Con gái là thế. Cô Thu y tá sẵn sàng phá những cuộn băng ra, đưa cho mình những cái kim băng xinh nhỏ, rồi tra thuốc đau mắt, rồi cho đôi giày. Cô Hải cũng vậy, thân ngay được, rửa bát hộ một cách hết sức tự nguyện.

23/5

Rừng Trường Sơn là đây. Trên là núi và dưới là khe. Những con suối trường chinh, ngấm ngầm mà hung hãn, gặp núi cản cũng xô cả núi mà đi, đất đỏ đục ngầu rồi cũng trong xanh trở lại.
Đường lượn ven núi, gặp núi thì thành ngầm, rồi đường lại vượt lên, nhìn con suối dưới kia róc rách. Lên cao thì đường gặp núi. Đất sẵn sàng lở. Khi có máy bay lượn, mình theo thói quen, chúi vào bên núi thì một cậu bảo: “Ra ngoài này đi anh, núi lở xuống bây giờ”.
Đứng trên những mỏm đường cao nhất, thấy toàn cảnh trọng điểm, lượn lên lượn xuống. Hút xuống dưới, ba cô thanh niên xung phong đi lủi thủi nhỏ dần. Ngẩng lên cao, mãi kia là đỉnh đồi đất đỏ, những cây cao lớn đổ vật cả xuống, như một người ngã sõng soài, tay ở dưới mà chân ở trên. Cỏ chung quanh đã lên xanh, cây thì vẫn còn trơ một cái màu gỗ nhạt huếch….
Có lúc nghĩ rằng tại sao lại rủ nhau chui vào những miền rừng làm gì nhỉ. Ở đây hoang vắng quá, những ngã ba, những “cua” những trọng điểm không có tên, toàn gọi bằng số, cây số 43 năm trăm, cua 12, trọng điểm 21, ngầm com măng ca, chỉ có một ngầm gọi là Đông phương hồng.

29/5

Những ngày ở Hương Đồng Hương Khê nắng nóng, mần tịt cả người, lúc nào cũng buồn ngủ. Trưa, ăn cơm về, mình nằm lăn ra giường ngủ thiếp đi, thỉnh thoảng chừng nhiều mồ hôi quá lại chợt thức dậy, lấy khăn lau một lượt mồ hôi nhưng không có khăn, lấy luôn cái áo lau mặt. Trong khi đó, Duật và cô Nhót đang tập đánh máy. Duật đến là hấp dẫn, lúc nào cũng có phụ nữ đến với nó, đứa ăn cơm xong đến xin ngụm nước, đứa đến mè nheo cái nọ cái kia.
Những ngày ở đường 12 này, lại chỉ có mưa, nước suối đỏ bẻm. Và hôm nay hiu hiu gió, như một ngày đầu thu, như một thứ rét nàng Bân, như câu thơ Tế Hanh “những ngày vui nghĩ lại thấy ngùi ngùi”. Nhớ các anh ở nhà, nhớ bạn bè, nhớ công việc. Trước lúc đi, Xuân Quỳnh bảo:
– Đi viết thư về… Chính những lúc đi xa độ 1, 2 tháng, một mình, nghĩ cũng buồn lắm.

Cố nhiên, mình lại phải bảo mình rằng ở Hà Nội, nhiều lúc mình vẫn thấy cô quạnh, những lúc chán nản. Hết giờ làm việc là lo đi chơi: “Giờ đến ai thì có nhà nhỉ?”. Đi hết mình, đi hết những nỗi buồn, và thấy con đường xa lắc. Hân bảo, giữa nỗi buồn cô đơn và nỗi buồn một người có vợ, tuỳ anh chọn lấy một.

***


Đến Hương Đô, rất quý các cô gái ở đấy, cô Bàng, cô Nhót. Cô Băng Tâm có con mắt rất sáng và nụ cười dịu dàng. Cô Huệ, cô Xuân bên Tổng đài 500, đeo cái vòng trên cổ, người như dễ thương hẳn lên. Đến Binh trạm bộ, các cô ở đây, cô Thu, cô Nhuệ mến khách và dịu dàng làm sao. Còn ở các đội TNXP thì – sau cái non trẻ vụng dại – sao quá nhiều những con người yên lặng, chậm rãi, mệt mỏi, ẩn giấu đầy dục vọng?
Ông Vũ Cao thường bảo tôi: Cái thằng này bao giờ cũng lý tưởng, sách vở. Xem thằng này với thằng Đỗ Chu, sau này lấy vợ thế nào?
Tôi thì tôi tự nghĩ, vẫn trên con đường hành hương đi tìm phụ nữ. Lại thấy vẳng lên những câu thơ của Aragon:
Chỉ có nàng thôi mới xinh đẹp dịu dàng
Nàng hiện lên như tháng mười đỏ thắm


Hôm nọ bảo với Duật rồi, câu thơ của Drunina “Trong ngây dại của tâm hồn phụ nữ – Em chỉ cần nương tựa xuống vai anh”, có phải chỉ nói về phụ nữ đâu, mỗi người nam giới đều có lúc cảm thấy cần phải nương tựa xuống bên một người phụ nữ nào đó.

***


Phát hiện lớn nhất là trong lần trước, thấy con người lớn lên trong chiến tranh. Đi sâu vào tuyến, lần này tôi nghĩ khác đi: Chiến tranh sẽ tạo ra một lớp người mà tất cả thời gian, năng lực, chí hướng là tập trung vào việc giết, phá hoại, làm lấy được, nghe lệnh, trói tình cảm của mình lại, rồi khi cần thì lại bùng lên một cách rất là man dại. Chiến tranh tạo ra lớp người ấy, chiến tranh qua rồi nhưng lớp người ấy còn mãi.

***


Đại đội TNXP: Nhà ở làm hàng ngàn công mà không xong, gian nhà rách nát, tạm bợ, trên căng tăng, dưới căng bạt, chung quanh là đồ lề, những tấm chăn chiếu quét đất tha hồ cho chân người dẫm lên. Bộ đội thì có chuyện công binh dỡ hầm của cao xạ hai bên to tiếng với nhau. Nghe nói có lần phải dùng đến cả cách quăng nhau xuống sông.
Bao nhiêu cô con gái đã vào hoả tuyến này. Ở rừng Lào, con gái phải lấy tay gạt đuổi những con nòng nọc đen đi lấy nước tắm rửa. Một lần đang tắm thì nó đánh rất gần. Mới đầu các cô còn tránh tạm vào một hòn đá. Rồi sau chỉ kịp khoác cái áo lên, cứ thế trở về khu nhà ở.
Những bữa cơm TNXP ở đây, ít thức ăn quá, người ta phải ăn nháo nhào bát đầu cho xong, rồi bát sau thì bắt đầu xoay tí muối. Mỗi người được mua một quả trứng luộc rồi, sau bữa cơm của người nào người ấy giải quyết.
Những cô con gái ngồi giữ kho suốt ngày có người nhờ may vá. Chuẩn một kéo. Đào một kéo. Đến nơi thấy thế, Sát phụ trách hành chính nhì nhèo “Chúng mày cứ lấy hết cả kéo trong kho thế thì còn bảo quản nỗi gì nữa”. Nhưng rồi chính ông ta lại bảo, con gái ở đây nó thiếu vải lắm anh ạ. Bây giờ mỗi đứa, xin lỗi anh, chỉ còn một cái quần phăng với cái quần đen, cái nào cũng tàu tàu cả. Đơn vị thì phát đủ rồi, cơ quan chịu sau. Hôm nọ C3 bị đánh, lại vận động cho lần nữa, ai có 3 thì cho 1. Kết quả là chả ai có gì dùng khi cách nhỡ nữa.

Chao ôi, rồi những đứa con gái này về, sẽ làm nên những công trạng gì, sẽ biết làm gì.

30/5

Suốt một tuần đất Quảng Bình này là mưa, giá ngại thì không còn muốn ra khỏi nhà.
Con đường về anh mưa hút lối
Trắng ngang trời không gian mênh mông
… Thời gian đi không gian dường đứng lại


Chẳng biết nhớ thơ hay nhớ chính con người nói chuyện rất thông minh đó nữa.
Nhưng mà mưa ở đây nó lại càng để lộ ra cái buồn bã cuối chiều của công việc. Đơn vị đến đây từ 27 tết. Nghe các cô ấy kể, lúc đầu chuyển đến để phục vụ xe vào rất nhiều trong dịp tết, cho nên nhà cửa làm chỉ tạm bợ. Đến bây giờ thì mưa xuống, nhà nào cũng kêu dột. Kho dột, chỗ ở dột. Mấy cậu đến làm nhà kho gấp đi khiêng độ chục tấm gianh về dọi lại một chái, dùng độ 3 tấm rồi lại vứt đấy. Những cô gái ở đây cứ làm cho mình luôn nghĩ đến những người ở nhà. Nhạc, cô cấp dưỡng bảo, ở đây chẳng hiểu bao giờ khá hơn. Tôi bảo những trường hợp hai vợ chồng nuôi một đứa con ở Hà Nội, cũng cực nhục lắm. Vậy thì ở đâu vất vả hơn? Hạnh phúc cuộc đời này là cái gì?

3/6

Sang C2 đội 89, vẫn là chuyện các cô TNXP.

Quyên: Mẹ em mất từ năm em được độ một tuổi. Bà ngoại em chỉ được có hai người con gái, mẹ em là chị, lại mất sớm. Bà em mới bảo dì em, rằng mày có thương cháu thì mày về nuôi lấy nó. Mãi lúc đi TNXP em mới biết. Hồi trước, có lần mẹ em đánh em đau quá, em mới bảo con đẻ ra mà còn thế đấy, dì ghẻ con chồng thì còn ác đến đâu. Mẹ em không nói gì nữa, mẹ em chỉ khóc. Hôm em đi, bác em mới gọi bảo rằng đấy là dì mày đấy.
… Chúng em đi từ ngoài kia vào thích lắm. Đi đến đâu cũng hỏi. “Mẹ có cà cho con mấy”. Bà cụ bảo: “Chẳng có cà mùa này. Nỏ có cà, con có ăn ghém thì ăn thôi. Sao mẹ bảo gì, các con cũng vâng thế”. Người khu 4 hiểu hết tiếng người khu 3, nhưng người khu 3 không hiểu tiếng khu 4 đâu. Ở nhà dân, về đến nhà là lục lọi thức ăn. Có lần đi trực về, 4 giờ sáng thì về đến nhà, lục cơm nguội với cá, ăn sạch, đi ngủ, đến 10 giờ mới dậy.
Lúc đầu thức ăn chỉ muối và mì chính. Thế mà cũng đánh hết mấy bát.

***


Giữa khoảng rừng xanh, những thân mốc lá xanh chẳng hạn, bỗng hiện lên màu đỏ của thứ hoa gì đó trong rừng. Màu đỏ ấy không tươi, không thẫm như hoa vông hoa phượng, màu đỏ ấy sặc sỡ và lại tái tái thâm thâm như hoa gạo cuối mùa, như những bông hoa gạo 1, 2 ngày trước khi rơi trên mặt đất. Có thể ví một hiện tượng văn nghệ, một cái gì đó trong văn nghệ với màu hoa đỏ ấy được không. Mình đã nghĩ như thế khi đến thăm đại đội cao xạ.

Chợt nhớ các bạn. Hai người mà mình quý nhất là Đỗ Chu và Xuân Quỳnh. Một người vừa sợ vừa thích là Lưu Quang Vũ. Có thể nằm thượt ra, nói những chuyện nghiêm trang nhất mà cũng ghê gớm nhất bên Lâm Quang Ngọc. Lại có thể rủ rỉ rù rì nói chuyện với Nghiêm Đa Văn.
Nhớ có lần hai đứa cùng tranh nhau nói: Mình và Bằng Việt. Với Lâm, mình nói năng thả cửa. Bùi Bình Thi sẵn sàng tán thành những ý kiến người đối thoại, gật gật đầu rất nhanh và cười ha hả?… Ôi các bạn tôi, mỗi người làm giàu cho tôi một chút, chỉ có tôi nhớ các bạn hay là chính các bạn cũng nhớ tôi.

TNXP và bộ đội, bao giờ thì cũng phải có những đơn vị ấy đi với nhau. Tưởng tượng thiếu một đơn vị thôi, buồn biết mấy. C7 ở tận trong mặt sau của một trái núi. Nội quy: Cấm không được đi chơi tối. Chỉ chiều về, các cô gái lần khân hơn một chút. Gần nhà cũng có suối, nhưng họ kỳ cọ rửa ráy rõ sạch chỗ cái suối ngoài gần đường. Cả bọn như một bày chim lớn. Rồi về qua cửa bộ đội. Đánh tiếng, rúc rích đùa. Các anh bộ đội chừng cũng đã quen, ăn cơm xong, ra hiên nhà ngồi chơi, đợi.
– Mấy khi đi làm về, các o vào uống bát nước.
Cứ thế tán tỉnh nhau đến tắt nắng. Về còn lưu luyến, ở chơi tí nữa, hãy còn sớm em.

***


Ngày mưa – B3 làm cái nhà hậu cần ở dưới nhà nữ. Tất cả cá cô đều đi giày trông cứ nặng nề và hách dịch một cách vô lý. Cô Mai to, chặt sậy làm phên ở giữa nhà, một cậu nói vọng xuống “Không chặt cho đều thì tôi quẳng đi”. Mai to trả lời rất tự hào:
– Mình cứ yên chí, lần này tớ làm cho mình thật đều.
Hễ ai đi qua, Mai lại hét tướng lên ”Không được bước vào chỗ này!” Cô chỉ sợ người ta dẫm vào sậy, chốc nữa vác lên, bẩn hết áo.
Lai, chàng trai mũi tím bầm lại vì nặn trứng cá, hôm nay giời mưa mà diện rất tươm tất, giày thấp cổ có cả bít tất. Lai vác những thanh gỗ bằng cổ tay về lợp hầm. Quá là vô ý, tránh được dưới đất thì lại lấm tiệt các thứ khác ở trên dây thép. Mưa quá. Trung đội trưởng Thự cho anh em nghỉ vào nhà. Tất cả ào vào, làm cho cái nhà lúc trước chỉ có cô Ngần ốm bỗng rộn cả lên.
Từ lâu đã nghe nói con gái ở đây rất chiều con trai, mưa, các cô phơi quần áo hộ cẩn thận. Đi giặt về, Huệ cầm quần áo luôn thể. Con gái là rau tàu bay, con trai là mỳ chính. Chẳng hiểu ai nói câu ấy đầu tiên. Bây giờ vào trú mưa cũng thế. Thự, chàng trai tay vừa vồ đất dưới kia bây giờ dụi dụi tay, tìm chỗ lau. Bỗng nhớ ra có một bình nước uống.
– Anh nào dội hộ tớ một tí.
Nhiều người nhao nhao:
– Lại dội lại dội ông huyện.
– Không để cho ai người ta uống nữa
– Thôi, ra đây cho xong đi nào. Và Nghiện, cô bé hơi xấu ấy dội hộ. Vừa dội, Nghiện vừa nguýt Thự một cách không rõ thế nào. Vừa lúc Nghiện quay đi là Thự giật lấy cái khăn nhuộm màu nguỵ trang trên vai Nghiện. Cô bé nhớ ra thì đã muộn. Thằng con trai la lên: Xong rồi, xong rồi. Thời chiến này, cái gì người ta cũng làm khô làm hộp, rau kho thịt hộp. Vậy thì cái điều người ta làm khô văn nghệ cũng tất nhiên. Gọn, nhẹ – không thể khác được.

***


MẤY GƯƠNG MẶT

Bích Liên C2 D thông tin.

Lần đầu qua cầu Hàm Rồng không dám sang. Cầu chuyển rùng rùng phải nhờ một anh khác dẫn sang. Báo động nhảy cả xuống đầu một anh bộ đội.
Sang Lào, đứng cầm đèn gác đường rồi sang đánh kẻng. Máy bay đến, sợ không dám đánh kẻng chỉ kêu máy bay, máy bay. “Sợ đánh kẻng biệt kích nó nghe”.
Có người rủ đào ngũ. Sợ về trả sổ, trả khăn cho người ta ư? Lúc đi, ăn bao nhiêu cũng không lên cân được, chỉ có 39kg.
Viết thư cho mẹ: Con bé thì đứng vào đâu mà chẳng được. Có hy sinh cũng là vinh dự.
Bé quá, Thu TNXP đi, người ta cứ bảo “con bé này, ở đâu vào”? “Cháu ở TNXP đấy mà”. Người ta phải nhận.
Vào đội mang cơm thì hay đánh đổ, lại phải đi làm. Lên trên lùm bùm Tà Khống. Nhịn ăn, từ 18g hôm nay thì đến 18giờ hôm sau mới có người thay.
Đợi bao giờ được vào bộ đội mới về phép. Thủ trưởng cho đi học y tá cũng không đi. Vào bộ đội được giao anh nuôi, dù ở nhà, chưa biết nấu cơm.
Vào tổng đài, đi chữa dây. Để máy khô, phải cởi áo ra mà bọc máy. Chữa xong lại chập, về lại đi. Mưa rét, chưa ăn cơm. Dây đứt, không biết đứt chỗ nào (đứt ngầm) phải chẻ đôi dây ra thử. Qua sông, đội máy lên đầu.
Mẹ viết thư có cần gì thì mẹ gửi cho. Của mẹ chứ của ai mà sợ thiệt.
Người ta bảo: Nhớn thì mới ốm nhiều, bé thì ốm ít.
Đi làm cấp dưỡng. “Tôi đi hái rau” – Gặp người dân tộc, hãi. Vì thấy người Khùa họ không mặc quần áo gì cả. Khóc từ rừng khóc về nhà. Bị một anh mắng bảo về không về, ở đây khổ cả mày lẫn khổ cả chúng tao.
Đội này có lúc ăn ngày 1kg gạo, có khi ăn măng tươi suốt. Thiếu nước, cạo tinh tre… Có nhiều món không biết các anh ấy làm thế nào thành ăn tạm được. Chị Hiền chết. Lúc “đi” dặn, mày ở nhà có mưa thì thu quần áo vào cho các chị ấy. Cố vài năm thống nhất về cho ăn cam quê tao tha hồ.
Chị ấy chết, vừa hãi, vừa muốn ra xem. Đến nơi thấy chị chẳng còn gì.
Bé quá, gọi mọi người bằng anh chị.
Hôm đăng ký đi, nói với cán bộ:
– Chú chú, cho cháu đi với, các chị ấy bảo tha hồ ăn quả rừng.
– Muốn ăn thì tao bảo nó lấy về cho. Đi làm gì.
Cứ xin đi. Mẹ em vẫn bảo con có vào đấy mới biết. Trong thư mới gửi, mẹ bảo mọi người cho em nó về, chỉ độ 1/2 ngày cũng được. Em bây giờ nó biết làm gì rồi.

***


Kim Liên:

Vùng em quê nghèo tháng 8, nước đến cổ, đói no sao cũng được. Lúc đi, các ông cán bộ hợp tác làm đội trưởng, phó bí thư chi bộ, làm chính trị viên, các ông ấy không tâm lý gì đâu, hơi một tí là các ông ấy mắng cho. Một cậu đi chậm: Gạt thằng ấy nó ra, sống thì sống, chết thì chết, để cho cả đoàn cùng đi.
Vào đến Vinh thì một cậu đào ngũ. Lại gặp một ông bộ đội, thấy nói TNXP đồng hương ông ấy vào hỏi, thổi cơm nấu nước ông ta ăn tử tế. Đến lúc hỏi ra thì thằng em ông ấy đào ngũ, ông ấy khóc mãi. Đến Thái Hòa (Nghĩa Đàn) lại nhiều người đào ngũ nữa (ở đấy nhiều xe, tuần 4 chuyên ra Hà Nội).
Có 5 người trốn, 4 cô với 1 anh. Họ về họ nói, đơn vị qua Hàm Rồng bị đánh hết cả rồi, chỉ có mấy người họ trốn được phải về, ở nhà thấy thế khóc hết nước mắt. Sau có thư gửi về ở nhà mới tin. Bọn trốn về khổ lắm, mất hết cả Đoàn. Mẹ ở nhà viết thư lên. Có chết thì chết, đừng trốn về, xấu hổ cả nhà. Sang Lào – thiếu thốn mọi thứ. Toàn tháo chăn ra làm chỉ. Ăn thì cứ đi nhấm lá rừng, thấy cái gì chua chua là nấu ăn được. Có lần nhấm phải những thứ chát săn cả lưỡi.

Hường:

Bỏ học, nhất định xin đi. Bố đánh. Mẹ giấu sổ hộ tịch. Cứ làm đơn xin đi. Con nói thực, không cho con đi, mai con chết. Trước lúc đi, một trận đòn nên hồn. Bố đánh không khóc vẫn đòi đi. Lúc bố cho đi lại khóc tủi thân. Bố dặn đừng ăn bậy ăn bạ mà khổ. Gửi giấy khen về nhà thì mẹ lại lo. Thế này thì nó ốm mất. Biết thế thu lại, để gửi về sau.
Mẹ sơ tán. Chị đi Phú Thọ… Bố làm không đủ, bảo con xin về. Đơn ở nhà gửi lên bảo ký tên thì giữ đơn lại, rồi viết về nói là gửi rồi.

***


MỘT TỐI CHUNG VUI

Con gái TNXP ngoan hơn con gái bộ đội vì không được chiều. Thu, lặng lẽ ít nói nhưng đâu cũng rí rủm lắm. Chanh láu và hơi xấc. Quý thì rất chiều người và lịch sự, Quyên bên C2 nữa, con mắt và cái cằm như là của con trai, rất nghịch. Nhưng giá hỏi nên viết thư cho ai trước hết, thì tôi sẽ gọi tên Hoa.
Khi tôi đến hôm đầu tiên, em ngồi hơi xa, chỉ cười. Hôm sau, lúc nào nhìn thấy tôi, em cũng cười. Buổi tối ấy tôi lại đến chơi, em đang hát, em nằm đấy mà hát, tiếng hát vỏng vót:

Yêu bao sông nước quê ta,
có những chuyến phà ngày đêm vui hát
Yêu bao bờ bến quê ta…


Ấy là những bài hát của giao thông. Ấy là những bài hát của chính các em. Có lẽ vì thế mà em đã hát rất say mê, như em mới nghĩ ra như vậy. Khi em hát những tình ca, điệu chèo của quê hương Thái Bình, tôi vốn nghe mãi phát chán những điệu chèo hát trên đài rồi mà với em tôi lại thấy duyên quá.
Trong cái buổi tối lờ mờ của trăng đầu tháng rừng già, tôi không nhìn rõ mặt em, chỉ thấy như cả người rạo rực, tôi không muốn ai nói chuyện nữa để lặng cho tôi với tiếng hát. Mặc các cô khác len vào, tôi vẫn nghe rõ tiếng em. Và khi các cô ấy xoay ngọn đèn về phía tôi, tôi hơi xấu hổ vì biết mình đang ngây dại mê thanh mê sắc nhưng cũng vẫn ngồi đấy, cười cái cười tâm lý mà riêng tôi mới có như các bạn ở nhà vẫn giễu.
Mắt ngước ra ngoài trời nhìn đi rất xa, toàn thân tôi như bay lượn theo tiếng hát. Đến khi em và các bạn hát bài “Các cô gái mở đường” thì tôi như ghen với Xuân Giao vì nhạc sĩ đã ghi được một cái nhịp mà nó biết gợi lên bước đi của các em, một thứ bước đi khoan thai rộn ràng rất mực.
Hoa, tôi biết là em không đẹp, nước da hơi đen, và nụ cười hơi phô, nó không hàm tiếu cầm chừng như chính tôi vẫn thích… Hoa! Nhưng tại sao tôi cứ vấn vương về em, muốn bắt lấy cái nhìn và nụ cười của em. Bởi tôi đang đi tìm một người tôi mến yêu. Nhưng tại sao người đó lại rơi vào em nhỉ. Tôi biết viết bức thư đầu tiên cho em như thế nào đây?
Tôi là thằng tằn tiện ít bộc lộ tình cảm, nên tôi cũng rất giàu có, tôi biết sử dụng tình cảm của mình thế nào cho vừa, ơi em xa xôi, ơi em mới quen, ơi em và tiếng hát. Cả cô Lan khôn ngoan mà kín đáo, cả Quyên hay nhìn trộm đợi chờ, cả Huệ hiền và hiểu đời, cả Quý, cả Thuần, cả Nghi có con mắt nhìn thẳng vào người con trai, như van lơn, như cầu khẩn… không ai làm tôi vương vấn như em.

***


Ngày mưa: Ngày các cô gái khâu vá, ngày người ta ngồi nói chuyện về những con đường mà người ta đã làm, những chương đời mà người ta đã vượt.
Ngày mưa để người ta lo nghĩ về công việc trong những ngày sau đó. Ngày mưa là ngày của tình yêu, nó ấp ủ những gì hứa hẹn của hôm sau.
Tại sao các cô gái C2 hay nói những chuyện nhố nhăng? Bởi vì nói những chuyện nghiêm túc bao giờ cũng đồng nghĩa bi quan và thất vọng. Cười nhiều, sự cười nhiều là sản phẩm của những gì hết sức đau khổ.
Buổi tối các cô ngồi ra cửa hát. Tốp ca nữ hát: Các cô gái đi mở đường, do các diễn viên đội văn nghệ C3 và C4 trình bày.
Hoa giới thiệu và hát trước; đến chỗ hết câu này, bắt sang câu khác, khi mấy bạn lí nhí vì quên thì giọng Hoa bao giờ cũng to hơn cả. Đất núi, sân phía trước nhà không rộng, các cô đứng dọc hàng một cô nọ ôm chặt cô kia. Trong nhà nhìn ra, vẫn thấy các cô lắc lư như những diễn viên chuyên nghiệp trên sân khấu. Thật ra đến cả tên bài hát cũng không thuộc các cô chỉ nhớ câu đầu tiên của các bài… Lúng túng mãi rồi trong nhà phải cử một cô đi sang nhà bên cạnh mượn cái đèn bật (bật lửa).
– Anh vào trong nhà chơi, anh Nhàn.
Sau khi yêu cầu tốp ca hát, một bài “chầu văn”, biết rằng các cô hết vốn, tôi vào ngồi trong nhà. Quen tính tôi, các cô mang hai bi đông nước. Lan rót nước:
– Này, Nghi mời nước anh Nhàn đi. Bưng hai tay vào.
Tôi phải trả lời đại khái nói, nghe Lan tâm lý lắm, hôm nay mới biết đấy. (Lúc trước thấy Lan ăn mặc khác tôi đã trêu “Gớm hôm nay cô Lan trông lạ quá”. “Anh cứ nói thế, em chào anh mấy lượt anh có thèm nói lại đâu?”)
Có tiếng người phía dưới, thì ra Phượng trung đội phó. Lâu nay cả trung đội biết rằng Phượng hay nói nghịch. Vừa đến nơi, Phượng đã nói đùa:
– Lên xem các gái hôm nay đã khỏi chưa hay lại thành 35 công nào. Tất cả cười lên một lượt. (Hôm nọ trong lúc lợp nhà, Phượng đã nói đùa: Người ta 30 công nhưng Chanh nó 34 công cơ. 30 công ốm với 4 công người khiêng đi viện).
Mai tồ rót nước mời Phượng: – A à, em Mai hôm nay quý anh Phượng ghê nhỉ. Song Phượng Tuyết Mai được đấy chứ.
Nhưng một cô khác đốp luôn:
– Hôm nay anh Khôi giảng bài cứ định gọi chị Nghiện, chỉ chị Nghiện thôi, thì lại đọc tên anh Phượng. Buồn cười nôn cả ruột.

Hoá ra một câu chuyện nghiêm chỉnh rồi, Nghiện là một bé hơi xấu, nhưng rất yêu Phượng và có lẽ họ cũng đã yêu nhau.
Mục đích Phượng sang là để phân công người.
– Lan ạ, hôm nay tiểu đội mày có mấy người làm sao hả?
– Cũng chẳng nhớ là mấy nữa, Lan cứ hậm hờ. Sáu hay là bảy nhỉ, để em tính đã.
Phượng cũng không cần biết cho chính xác làm gì, ốp luôn. Thôi, mai vẫn cho đi dọn chỗ 35, chỉ để độ hai đứa ra cây số 34 làm nhé. Còn tiểu đội cái Hoa cũng đi làm chỗ cũ, lấy 2 đứa đi gánh tranh.
Chẳng đợi Phượng dứt việc, các tiểu đội trưởng nhao nhao phân việc. Lan gọi với sang chỗ Thoa:
– Chị Thoa ơi, chị Thoa.
Vẫn không thấy nói gì.
– Chị Thoa yêu quý ơi, mai hai chị em mình đi ra cây số 34 nhé.
Ngồi trong bóng tối, chỉ thấy một người quay ngoắt đi. Bấy giờ Lan mới dỗi:
– Thôi, cứ thế là chị tôi nghe thấy rồi đấy. Gớm, chị Thoa em lại không thân với mèo con nữa rồi. Chả trong tiểu đội, Lan ít tuổi hơn một chút. Và khi đùa nhau, khi vật nhau, các cô đều gọi nhau là mèo con cả.
Trong khi mấy cô khác còn đang nhao nhao hỏi — nghĩa là bất chấp tiểu đội trưởng, hỏi luôn trung đội trưởng về mình — “Mai em làm gì Phượng” ”Mai em làm gì anh”, thì Phượng đã xoay sang đùa.
– Còn bọn cái Thu, cái Gái đâu. Mai cái Thu tập họp lại, chờ lên hang Cha lo gánh đá. Cứ chọn thứ đá nào không đổ mồ hôi thì mang về là được.
Và buổi sang phân công việc của Phượng kết thúc một cách vui vẻ. Trông anh chàng lại nhớ những buổi liên hoan có những tay hễ gặp ra, hoá trang trông thiểu não, có khi răng sứt, chân cụt, thất tha thất thểu ra, lúc vào lại còn cà khịa.
– Có thách tôi rút không nào? Tôi rút cho mà xem chứ tưởng, tưởng…
Tài lắm, nhưng chỉ là tài trong phạm vi khe núi góc rừng.
Từ nãy, Hoà và một cô Mai khác, Mai Trần vẫn ngồi tâm sự ngoài hiên. Thì ra cô Mai kia mới về thăm gia đình lên. Cô kể vè hành trình rồi kết luận:
– Đi đến đâu cũng được các anh ấy gửi, anh nọ gửi cho anh kia ấy mà…
Gớm, về đến nhà mất 4 ngày. Con bé Máy nó bị rút hết cả bím, nó cứ quờ quạng như trẻ con. Trời ơi, trời ơi – nói xong lại cười, cười xong lại khóc.
– Ở nhà vui lắm mày ạ. Đi họp thì một gian họp mấy gian xe đạp, nam toàn Phượng hoàng, nữ cũng Phượng hoàng với Thống Nhất. Hôm nọ đội bóng nam Thái Bình đấu với Lương thực Trung ương, nữ Thái Bình đấu với Nam Định, nữ mình được, toàn những 15-3…
– Eo ôi, ngoài ấy diện lắm, toàn áo cổ Nhật Bản.
Tôi hỏi: Thế năm nay Hoà đã về chưa?
– Em sợ đường đi xa lắm, với lại về nhà ai cũng chê gầy với đen, lên đây như chị Mai thì lại gầy và đen hơn lúc chưa đi. Thôi cứ ở lại vậy.

$pageOut$pageIn Hà Nội những ngày hậu chiến đầu tiên, ngày 1-5-1973
by Vương Trí Nhàn
Trích từ Nhật ký Chiến tranh Hà Nội – Quảng Trị – Hà Nội 1972 – 1975
(đã đăng trên Tiếng Dân ngày 15-4-2024)

Đối với đồng bào cả nước, thì thời hậu chiến chỉ bắt đầu từ 30-4-1975, nhưng riêng đối với miền Bắc thì hai năm 1973-1974 đã tạm coi là hòa bình. Hai năm hậu chiến ấy cho phép xã hội như tự sốc lại chính mình, nhìn lại chính mình trên mọi phương diện kinh tế, xã hội, giáo dục.
Một cái gì mất đi là điều ai cũng cảm thấy rất rõ, mỗi khi va chạm với mọi chi tiết của đời sống. Xu thế càng rõ khi có dịp soi vào một cuộc mít tinh. Từ lâu với người Hà Nội những cuộc mít tinh là nơi người ta bộc lộ toàn bộ tính tổ chức và sự nghiêm túc của những vấn đề tư tưởng. Nhưng cuộc mít tinh diễn ra trong ngày 1-5-1973 thì lại mang một màu sắc nhiều phần khác.

Dưới đây là những ghi chép của tôi trong ngày mùng 1 tháng 5 đó.

***

1/5

CON NGƯỜI SỐNG SÓT, THÀNH PHỐ SỐNG SÓT

Hội hè là gì? Là những ngày vui, sau công việc. Là những ngày xả hơi buông thả sau những “chiến dịch” mệt nhoài.
Thử tìm ý nghĩ của đám tham gia duyệt binh. Họ quen tùy tiện buông thả. Mà duyệt binh trước tiên cần trật tự, ý chí, nghị lực. Từ thực tế đánh nhau trở về, người ta dễ xem đây là một việc tội nợ phải làm.
Nhưng rồi máu anh hùng nổi lên, lại nhớ rằng việc đó rất có ý nghĩa. Và người ta cắn răng lại để làm.
Rút cuộc thì cảm giác về một cái gì lớn lắm quay lại chi phối!
Nhờ đi theo phóng viên nhiếp ảnh Đoàn Công Tính, tôi được vào sâu quảng trường, ngay dưới chân khán đài. Tôi nhìn kỹ những nét mặt đi qua quảng trường. Rất ít những nét mặt đẹp. Người chúng ta, không phải là những người để đi duyệt binh. Khuôn mặt thô, nước da xám, mắt tròn, mắt dẹp, cờ ra côm… đủ chuyện. Không có ai đẹp!
Cuối xuân, đầu hè, lá đã bắt đầu xanh sau mưa. Khẩu hiệu đỏ rực các đường phố. Thú thực, tôi hơi ngần ngại khi nhìn đâu cũng bắt gặp cái màu đỏ này. Nó gợi cảm giác hỗn loạn. Nó tượng trưng một sự phá phách.
Sau khi dự lễ để tìm lại một chút bình thản, tôi đi về phía sông, phía cát, phía màu xanh. Nhưng mà vẫn không dứt khỏi ám ảnh về buổi mít tinh vừa có mặt.
Chưa bao giờ tôi chứng kiến một cuộc mít tinh lộn ẩu thế. Người đi dự mít tinh thì ít (mỗi khối phố định lấy 20 người, mà lấy được có 10). Sau này nhìn TV thấy trên quảng trường nhiều chỗ trống. Người đi xem thì đông, họ nằm la liệt mọi ngả đường. Đây là cái cảnh không có trong những đám mít tinh hồi trước năm 1964.
Độ 8h, những người phải đứng thì bỏ về, trong khi người đi xem tràn lên. Như một thứ lũ lụt: Người ta chui vào giữa các khối Công an – bộ đội. Người ta len vào giữa khách nước ngoài. Người vỡ ra từng mảng xô đẩy. Công An, Công An Nhân dân vũ trang, đám trật tự viên, tất cả bất lực. Ở quãng đường Hùng Vương, phía bên phải lễ đài, nơi thoát ra của đoàn người diễu hành, người ta xô lên, đường chỉ còn lại một nửa. Tan nát, lộn ẩu ở phía người diễu hành đi qua, trong khi đó, ở phía sau, không gian rỗng ra.
Đến nỗi người như Tính cũng phải nhận:
– Người ta đã quen với cách sống thời chiến. Lúc này mới hiểu chiến tranh…
Vẫn theo Tính, chắc người đi qua lễ đài cũng chán ngán mệt mỏi. Không có Cụ Hồ để hy vọng chào đón, người ta ngoảnh đi lung tung. Lòng người phân tán quá chừng. Các lãnh tụ cười, vẫy tay chỉ vì nhớ rằng ống kính các nhà quay phim đang chĩa vào mình.
Lúc gần kết thúc, tôi nghe tiếng lao xao: “Thế này thì người nước ngoài cười chết. Khu vực quần chúng trống quá”.
Một giọng hét rất to: “Quân nhạc cử Giải phóng miền Nam”. Khi điệu nhạc Giải phóng miền Nam vừa dứt, lại tiếng lao xao từ khu vực chỉ huy: “Đáng nhẽ ông Đồng phải ra nói trước mọi người”.
Chờ đợi. Rồi ông ấy cũng ra:
– Chúng ta đã cử hành ngày lễ một cách rất thắng lợi (!).
Và ông không quên cái điều thực chất nó khiến ta phải làm mít tinh:
– Chúng ta yêu cầu các nước anh em tiếp tục đồng tình ủng hộ chúng ta về mọi mặt.

Tôi nghĩ bây giờ thì dân họ cũng biết mọi chuyện rồi. Nhưng họ mệt mỏi không thiết gì nữa.
Đêm trên thành phố là khi con người trở về với cái hoang dại. Người ta chú ý đến tất cả những gì chung quanh, một tiếng lá rơi, một ngả đường rộng. Có thể có ai đó đang lo chạy cấp cứu vì vợ đẻ, con đau. Nhưng nói chung những khốn khổ hàng ngày lùi đi rất xa. Cái lối phớt lờ mọi chuyện của những cặp tình nhân được coi là có lý nhất. Trong đêm, tiếng người nói to hơn, tiếng móng xe bò gõ trên đường nhựa, nghe nhộn nhạo hơn. Ở đấy là tất cả những gì đang sống.
Nhớ một ý Xuân Quỳnh nói buổi chiều:
– Giá những người đi duyệt binh kia về cày cuốc, thì được bao nhiêu việc.
Lúc ấy tôi chỉ hùa theo: “Ai mà quay về được nữa. Ở mình bây giờ, những thứ quân sự đã hóa dễ quen hơn dân sự!”.
Lúc này tôi nghĩ lan man thêm. Vậy thì ở mình chỉ những sự phá phách là toàn thắng. Nó ào ào như nước lũ vỡ bờ vô tận, như các dân tộc khác – tự tin, hào hứng, làm ra của cải vô tận và thẳng đường tiến tới văn minh.

***

2/5

HÀ NỘI THAY ĐỔI

Nhớ lại cái phía đời thường của ngày lễ. Công việc được bàn nhiều ở các khu phố là lấp nốt những hố cá nhân. Một mặt thì ở đó chứa chất tất cả những gì cần phải đổ đi, than xỉ, bùn cống.
Mặt khác, cái miệng cống vẫn quẩn lên một lớp váng như một thứ ký ức không chịu tan biến đi cho. Dĩ vãng có mặt trên mỗi đoạn đường chúng ta đi tới.
Là người công dân Hà Nội lúc này nghĩa là gì? Là người thợ may vá chữa quần áo. Là người thợ thiếc nhặt từng ống bơ cũ về làm lại cái đèn, cái ấm đun nước. Là mấy chị phe phẩy lo chạy hàng phục vụ đám dân Hà thành từ nơi sơ tán trở về. Là… cô giáo cũ đi thu nhặt lại đám học sinh… Họ đang là những nhân vật chủ yếu của thành phố!
Người ta mang về các vườn hoa một ít dụng cụ đồ chơi. Và đây quả thật là những “quả nhỏ” của chiến tranh: Những cái khung đồ chơi bằng sắt trông nặng, chắc. Những lớp sơn tạm bợ. Tiếng khung sắt động vào mặt đất xi măng nghe rào rạo một thứ âm thanh xa lạ.
Người ta thích nói tới Hà Nội tài hoa vì đó là cái bề ngoài dễ thấy mà cái phần sâu lắng tìm khó hơn nhiều. Hà Nội dũng cảm vì Hà Nội nghèo khổ. Hà Nội từng trải, lì lợm, vì Hà Nội sống sát mặt đất.
Đã bao nhiêu lần tôi nghe được những người khác nhau nói về Hà Nội. Có những chuyện vui nhất lẫn những chuyện buồn nhất. Và tôi hiểu cộng những cái đó lại, mới là Hà Nội.

Sấu rụng. Lá sấu rơi như mưa, phủ trên mặt đất một lớp dày, người đi lá sấu rụng trên vai, đứa trẻ ngửng mặt hứng lấy chiếc lá không cho nó kịp rơi xuống đất.
Cành sấu không bao giờ trơ lá. Lá sấu già mới rụng đi, lá sấu non đã nẩy, và trong một sớm một chiều, sấu trên đường vẫn xanh um.
Với chúng ta, những sắc phượng đỏ thường gắn liền với thời khắc buổi trưa. Những trưa hè, màu đỏ như lửa loá lên trong nắng, tưởng như nắng quá, ngọn cây là một chất dễ cháy, đã bốc lên thành ngọn lửa. Nhưng lúc này phượng hiện ra kinh sợ đối với tôi bởi hình như đó đã là một thứ phượng khác.
Buổi chiều phố vắng. Bóng tối mùa hè ngập ngừng dâng lên, dâng lên. Không khí trong suốt tối dần. Bóng tối ập cả vào mặt. Trong cái giờ khắc ấy, tôi ngước lên nhìn hàng phượng, thấy màu đỏ đã thẫm lại, tím lại, mà nó vẫn cứ không chịu lẫn đi với màu xanh đã trở thành nhợt nhạt của lá, màu nâu đã hết bản sắc của cành. Tôi nghĩ đến tình yêu của tôi. Tôi lại nghĩ đến những vết thương rơm máu của xã hội này. Tất cả đều là hiện thực.

3/5

Tiếng trẻ con hát lảnh lót bài “Oan ta mê la”. Âm thanh đi lại uốn lượn trên vòm trời, như một tiếng cầu kinh của những tín đồ trung thành (và cái mà nó gợi theo, đấy là chủ nghĩa tự do, một thứ tự do vô dụng nên lang thang vô mục đích).
Những thanh niên nhộn nhạo, ầm ĩ trên đường. Cái quần loe họ mặc, cái áo màu nghệ thối họ khoác trên người. Những chuyến đi suốt đêm, có thể là gần suốt đêm bên nhau. Những trận cười thâu đêm, những tình yêu nồng cháy. Hoà bình là thế, hoà bình phải có những cái ấy, dù đây là một nền hoà bình có thể đổ sập bất cứ lúc nào.

4/5

Thế nào là dấu hiệu của một xã hội suy vi? Người ta, những người dân thường, không ai muốn làm ăn cẩn thận. Còn lại, chỉ những người tốt là khổ.
Đã rõ là xã hội không thể, không làm được cái việc tối thiểu là động viên mọi người làm việc. Mọi người cứ nhớn nhác chờ một cái gì đó. Chờ một may mắn từ trên trời xuống, chờ một phép màu. Chỉ có làm việc (mà ta gọi là sản xuất) thì không ai nghĩ tới.
Một điểm nữa làm tôi kinh sợ: Tôi nhận ra xã hội đang như một dòng họ thoái hóa. Những lớp người sau ngày càng còi cọc đi, so với những lớp người trước. Khôn ranh hơn, năng động hơn mà hóa ra hư hỏng thực sự. Tôi nhớ tới hai chữ đồng huyết. Đây là một khái niệm sinh vật học: Những người khác giới cùng dòng máu phối hợp với nhau, không tạo ra những biến dị tốt – mà chỉ làm sinh thể thoái hóa dần.
Có lẽ trong công tác tư tưởng cũng có những vấn đề tương tự. Tư tưởng, khi không được tiếp xúc với những tư tưởng khác, sinh ra thoái hóa, luẩn quẩn! Và đấy là hiện tượng thấy ở xã hội hôm nay. Chúng tôi có biết được gì ngoài mình?
Xã hội nào cũng có những luật pháp ghi thành văn bản, và những tập tục, thói quen, thậm chí cả những thể chế, những luật pháp quy định những điều được phép và không được phép không ghi thành văn bản.
Xã hội của chúng ta hiện nay, luật pháp thì ngặt, ảo tưởng, hóa ra vớ vẩn, không thực hiện được. Thói quen thì tự do hoành hành, không bị một ràng buộc gì hết. Người ta cho phép mình làm mọi điều trong bóng tối.
Sao tự nhiên, tôi khao khát mọi nền nếp của xã hội trước 1945, một thứ pháp điển mới tới với xã hội Việt Nam từ hồi Tây phương xâm nhập, mà sao quá quen thuộc như tự ngàn đời đã vậy. Những căn nhà yên tĩnh, những khu phố sạch sẽ, những người làm việc với niềm tin lâu dài. Những bài giảng về văn học cổ điển. Phút nhẩn nha khi đọc một áng thơ dịch. Bức tranh treo trên tường.
Lâu nay, xã hội tôi sống nặng về tàn phá mà không xây dựng, nặng về ồn ào ngày lễ, mà không có cái sâu xa của ngày thường. Trong nhà trường, trẻ con biết đến cả những tên tuổi văn học rất là vớ vẩn, nhưng không biết những giá trị lớn.

Đất nước này, người ta chỉ nói tới lịch sử khi cần che giấu cái trống rỗng hiện tại.

Việt Anh (đang dạy toán ở trường Chu Văn An): Tôi cảm thấy thời gian sau này người ta đã bắt đầu chú ý tài năng.
Nhàn: Chưa bao giờ, chưa bao giờ. Ngay cái khái niệm tài năng cho chính xác chưa đặt ra, thì làm sao mà chú ý được.
Việt Anh: Tôi cảm thấy cái hướng nghịch của học sinh bây giờ là phá phách.
Nhàn: Nói phá phách còn nhẹ. Nó là cái mầm của mất lòng tin, mất phương hướng.

Bao giờ cho cuộc sống ổn định lại! Tôi vốn nghiêng về sự bùng phát, sự phá cách chứ không phải rập khuôn theo mẫu. Tôi vốn nghĩ những chuyện hôm nay là chưa từng có trong lịch sử, vậy phải khai mở lấy con đường của mình. Nhưng phải biết cái cũ, kể cả những sự phá cách cũ, thì người ta mới có điểm tựa để nghĩ về cái mới.



Những dấu hiệu của một tư duy trung cổ
by Vương Trí Nhàn
đã đăng trên Tiếng Dân ngày 23-9-2023

Nguyễn Công Hoan trong hồi ký “Đời viết văn của tôi” (1971) có nhiều đoạn tự thú về sự làm bừa, làm bậy đã xẩy ra trong đời mình. Đại khái ông kể là, lúc ra học tiểu học ở Hà Nội cần giấy khai sinh, nhưng ngại về làng bên Bắc Ninh làm tận gốc, liền nhờ ông chủ nhà trọ làm hộ. Ông này bảo hai người bạn làm chứng, rồi kiếm cành cau với vài hào bạc đưa lý trưởng Hàng Trống. Vài ngày sau, ông Kép Tư Bền trong văn chương tương lai có ngay tấm giấy khai sinh và nghiễm nhiên thành người sinh ở Hà Nội.

Câu chuyện được kể ra chỉ cốt để khoe một tình trạng gian dối phổ biến sinh hoạt đương thời. Như một thứ thỏa thuận ngầm, mọi người chia sẻ một cách sống thực, giả tùy tiện. Không ai buồn quan tâm tới sự chính xác của các con số, không muốn và không có nhu cầu hiểu biết chính xác về chính mình cũng như hoàn cảnh quanh mình. Một thứ khinh bạc bất cần đời bao trùm cả xã hội.

Từ đây, không khó khăn gì để nhận ra mầm mống của nhiều thói xấu khác, như cách nghĩ chín bỏ làm mười, bất chấp chuẩn mực, không coi cái gì là thiêng liêng, bịa sai bị tố không chịu nhận, xem thường lẽ phải và pháp luật.

Ngày nay chúng ta còn bắt gặp nó trong những tin tức đưa ra hàng ngày trên báo chí. Nhiều làng làm giả hồ sơ thần tích để xin cấp bằng di sản văn hóa. Nhiều chi tiết ở các vụ án có dấu hiệu bị làm lệch. Hết thể thao khai man tuổi đấu thủ lại đến bóng đá trọng tài bắt thiên vị. Trên các trang mạng thường xuyên có các tin bài dành để tố cáo tiến sĩ rởm, giáo sư rởm.

Đấy là nói trên những sự việc trong đời sống hàng ngày. Nói chi đến những chuyện tầy đình – như ba mươi năm chiến tranh, đã bao người Việt bị chết, trong nạn suy thoái kinh tế hiện nay có bao nhiêu công nhân thất nghiệp, các con số đưa ra khi thấp khi cao và chỉ phụ thuộc vào ý muốn của người có quyền.
Sự cố ý làm sai, nhiều khi đã biến thành gian manh càn rỡ, bất chấp dư luận xã hội.
Thói quen thiếu chính xác trong suy nghĩ đến đây tìm được biến tướng mới là tô vẽ lịch sử, viết lại lịch sử cho vừa mắt vừa tai, miễn là đề cao được mình, do đó có lợi.

Ta hãy trở lại với cội nguồn lịch sử của nó.
Trước khi đề ra các chính sách xã hội ở Đông Dương, người Pháp thường huy động nhiều nhà khoa học đi điều tra nghiên cứu điền dã và tìm hiểu ngược mãi lên tận nếp sống trì trệ đã hình thành nhiều đời trong xã hội Việt.
Trong số này phải kể tới Pierre Gourou (1900—1999). Tình trạng tư duy không có cái gì chính xác của người Việt đồng bằng sông Hồng từng được ông miêu tả tường tận trong cuốn “Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ” (viết năm 1936 và bản dịch ra tiếng Việt in ở Hà Nội lần đầu năm 2003).
Theo cách miêu tả của Gourou, ở các làng xã, “chỉ cần đưa một ít tiền cho chức dịch là có thể nhận được một bản khai sinh hoàn toàn theo ý thích, trong đó ngày tháng năm sinh được ghi phù hợp với nguyện vọng của người xin“.
Sự phổ biến của các hiện tượng tương tự buộc người ta phải kết luận rằng, đây là một biểu hiện của trình độ tư duy và một quan niệm sống.
Nên biết rằng, ngay các vua chúa cũng không bao giờ biết cả nước có bao nhiêu dân, quan chức các cấp không cần biết một làng mà họ thu thuế có bao nhiêu xuất đinh, còn các xã thì bao giờ cũng cố giấu bớt số người phải nộp thuế để trốn thuế được chừng nào hay chừng ấy. Lúc này thói quen đùa bỡn đã đóng vai một nhân tố cản trở sự trưởng thành của xã hội.
Một vài hiện tượng khác được Pierre Gourou ghi nhận cũng khá đắt giá. Ông bảo, đến một làng, khi cần hỏi về lai lịch của làng, người ta chỉ nhận được những câu trả lời rất mơ hồ; nếu như muốn có một sự chính xác thì câu sau thường lại mâu thuẫn với câu trước.
Gần như không làng nào có ý niệm chắc chắn về sự thành lập của làng mình, đi đâu cũng chỉ thấy người ta thề sống thề chết là làng mình có từ cổ xưa, đâu như từ thời Hùng Vương, tức là đã có từ hơn bốn ngàn năm trước.
Gourou chỉ hết ngạc nhiên khi biết rằng một dòng họ có vài ba người thăng quan tiến chức thì thường thuê ngay một nhà nho có tên tuổi viết lại gia phả nhà mình, mà nhà nho ấy thì nghĩ rằng ông ta có nghĩa vụ thêm thắt vào cuốn gia phả ấy nhiều chi tiết cho nó đẹp thêm, và không ai thấy phải thắc mắc về hành động đó cả.
Sự thiếu hiểu biết và nói chung là thiếu ý niệm chính xác về thời gian, không ngăn cản người ta sử dụng độ lùi của thời gian để khoe mẽ.
Cũng về vấn đề thời gian, hai tác giả người Pháp khác là Pierre Huard và Maurice Durand trong “Hiểu biết về Việt Nam” (1954) lưu ý, xã hội Việt xưa chưa biết tới đồng hồ và khái niệm về thời gian “chỉ được kinh qua chứ không được đo”.
Sự lẫn lộn giữa lịch sử và huyền thoại trở thành đương nhiên.
Theo Pierre Huard và Maurice Durand, đây là dấu hiệu của sự tồn tại dai dẳng của kiểu tư duy tiền Descartes thường thấy ở phương Đông.

Trong lúc chờ tìm hiểu thêm về TIỀN DESCARTES, tôi tạm lấy một câu chuyện trong Trạng Quỳnh để minh họa cho khái niệm này.
Theo bản Trạng Quỳnh bán ở sạp báo trước cửa chợ Đồng Xuân, thời gian trước 1954, thì có lần Trạng cho kéo đến trước mặt sứ Tầu một cây gỗ, rồi đề vào đó ba chữ “Hồ bất thực” và bảo hãy giải nghĩa cây đó là cây gì.
– Xin chịu, kính nhờ Trạng giảng hộ.
– “Hồ bất thực” là cáo chẳng ăn. Cáo chẳng ăn thì cáo đói. Cáo đói thì cáo gầy. Cáo gầy là cây gạo. Ngày nay sự lẫn lộn giữa huyền thoại và lịch sử còn được tiếp tục, chẳng hạn với trường hợp “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám”.

Tư duy trung cổ chi phối người Việt suốt những năm chiến tranh. Sang thời hậu chiến, trong khi tuyên bố đi vào hiện đại hóa, nhiều phương diện trong đời sống – trước tiên là trong tư duy – có sự trở lại của thời tiền hiện đại, tức là trước khi người Pháp tổ chức xã hội VN theo mẫu hình của họ thế kỷ XIX.




$pageOut$pageIn Chuyện đời sống Hà Nội 1979
by Vương Trí Nhàn
đã đăng trên Tiếng Dân ngày 19-2-2024

Lời Dẫn
Mấy năm 1979-1982 quả là đặc biệt trong đời sống xã hội, nên mặc dù chỉ quen ghi chép về các sinh hoạt trong giới văn học, trong năm ấy, đôi lúc – nghĩa là tùy hứng – tôi cũng thường “vào sổ” các sự kiện hàng ngày được nghe được biết trong sổ tay.
Tôi ghi một cách thật gọn và không kèm theo bình luận. Còn chính xác đến đâu thì quả thật không biết và đến nay lại càng không biết.
Lọc lại một số đoạn ghi năm ấy như bạn đọc sẽ đọc dưới đây, tôi hiểu mình thực ra vẫn chỉ làm việc theo hướng suy nghĩ lâu nay, mong từ cái nhỏ hiểu ra cái lớn và lấy quá khứ để giải thích hiện tại.

Chuyện đời sống Hà Nội 1979
by Vương Trí Nhàn

đã đăng trên Tiếng Dân ngày 19-2-2024

4/5

Ngày Phật đản. Những người tu hành vẫn có nét mặt hệt như mặt người ngoài đời mà tôi vẫn gặp. Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở các mặt trận.
Ghi sao cho hết những kinh hãi về xã hội chung quanh. “Sự cuồng nhiệt muốn làm người Việt Nam” – hình như có lúc, một người nước ngoài thấy cung cách sống của những người dân đất này đã thốt lên như vậy. Tôi hiểu lúc nhìn chúng ta sống, một cái gì cuồng dại trong người họ bị đánh thức. Nay tôi cũng đang có cảm giác đó. Ngoài đường, lúc nào cũng ngàn ngạt những người. Những đám đông xếp hàng không nhúc nhích… Cướp giật, phe phẩy… Xa hơn nữa, lính đánh nhau ở Cămpuchia, đánh thắng ghê gớm. Nơi tưởng như đã rệu rã cả, sao người ta vẫn làm được một việc gì đó.
Mỹ bảo có hai vạn người xin di tản trong khi ta nhận có 29 người (?). Ông Lê Đức Thọ than vãn chưa bao giờ ta thấy mất chủ quyền như lúc này. Ông Tố Hữu tuyên bố sẽ cho người đi học về Khoa học xã hội.
Khối Sep tố cáo ta là tự cô lập về chính trị, mà cũng là cơ hội. Ông Tố Hữu sang làm việc không được những người xứng đáng đón tiếp. Có tin ông này sẽ đi làm bí thư thành uỷ Sài Gòn.

5/8

Tàu trên 5 tuyến đường bị tắc. Trừ có tàu Thống Nhất.
Ngành đường sắt giải thích hết than.
Tin vỉa hè: 1F của Hà Nội chuyển sang Bắc Lào làm đường băng máy bay.

V. Anh -giáo viên trường Chu Văn An: Học trò bây giờ lưu manh không thể tưởng. Nhiều giáo viên đang bàn không biết vài năm nữa, có tập họp chúng nó thành lớp được không nữa cơ.
Vấn đề không phải là 1-2 học sinh. Mà là một nếp nghĩ của cả một đám đông ở lớp ở trường.
Tôi hỏi Đăng có phải bọn em cho rằng tất cả người lớn đều xấu phải không?
Đăng bảo nhưng mà người xấu đến 70-80%.

6/8

Báo Nhân Dân đăng tin chính phủ quyết nghị cho tự do kinh doanh mặt hàng nhà nước không quản lý. Giá cả do người bán và người mua tự thu xếp.
Lần đầu tiên có một chính sách kiểu này.
Thời gian gần đây, một tù chính trị nhảy vào Đại sứ quán Anh. Những người phiên dịch ngăn lại, nhưng những người trong ĐSQ bảo đây là đất Anh. Người kia không xin cư trú chính trị, mà chỉ nhờ nước Anh nói với thế giới về tình hình tù chính trị ở ta ra sao.
Ở Sài Gòn, có một số vụ biểu tình đòi nhân quyền. Đài báo thường có tin Toà án nhân dân các tỉnh thành phố xử án bọn tổ chức di tản.
Từ tháng 6/1978, đã có những người miền Bắc trốn ra nước ngoài (nhân vụ Hoa Kiều, làm giấy tờ giả) gửi thư về. Trong số đó, có cả những diễn viên như Giáng Hương ở Đoàn Kịch nói Trung ương.
Khoảng cuối tháng 7 báo Nhân Dân có đăng một mẩu thời sự đại ý nếu cụ Khổng mà sống lại thì cũng phải than rằng các hảo hán đã giết hết các nhân tài rồi.
Trong tháng 7, có đăng bài của Phạm Hồng (?): Trung Hoa hai mặt, trong đó, tố cáo nhiều thói xấu của cái gọi là Chủ nghĩa Cộng sản phương Đông
Một bài báo Tây Đức nói sở dĩ có tình trạng người Việt Nam di tản như hiện nay là do phương Tây quá yếu đuối; chúng ta xuống đường trong những năm chiến tranh Việt Nam cũng vì ta quá yếu đuối; giờ ta phải trả giá cho yếu đuối đó. Người cộng sản bao giờ cũng có tính mục đích rõ rệt.

Nhận xét của một chuyên gia Liên xô về Việt Nam:
– Ở đây, người ta có thể làm việc nào đấy, mà không hiểu tí gì về công việc ấy, không thích thú gì với công việc ấy, không được huấn luyện bao giờ.
– Không ai kiểm tra ai cái gì hết.
– Tất cả mọi người đều biết tình trạng tồi tệ hiện nay, nhưng tất cả đều mặc kệ.

Nhận xét của các chuyên gia cao cấp ở lớp học của các bộ trưởng:
– Giải phóng xong, ta biến cả miền Nam thành kẻ thù.
– Trong những ngày qua, ta gần như coi cả thế giới là kẻ thù.
– Hẳn đến ngày nào đó, cả Liên Xô cũng trở thành kẻ thù của ta luôn thể.

10/8

Ông Phan Hiền thứ trưởng ngoại giao nói trước VTV: Mỹ đòi ta hạn chế người di tản vào một thời gian nào đó. Ta trả lời làm ngay thế nào được. Cũng như một vòi nước hỏng, thì còn cũng phải đợi tính, mới biết bao giờ thì xong chứ.

14/8

Đang có tin đồn: Liên Xô họ bảo những vai trò chủ chốt ở ta còn nhiều phần tử mao-ít. Bài ông Tố Hữu nói ở hội nghị công tác tư tưởng, cũng chỉ nói là chống bọn bành trướng Bắc Kinh mà không nói chống tư tưởng Mao Trạch Đông.
Trong Báo cáo chính trị ở đại hội 4, không hề nói tới nguyên nhân thắng lợi là sự giúp đỡ của các nước anh em. Đó là vì lúc đó, ta cho ta sang rồi, lên cỡ cường quốc, có thể ngồi cùng chiếu với Liên Xô rồi. Khiếp!

Luôn luôn thấy có những câu dặn dò đại loại:
– Anh Đồng bảo đừng có nghĩ thế này là mình biến thành một thứ vườn sau của Liên Xô.
– Anh Tố Hữu bảo ta vào khối Comecom rồi, đã vào thì phải vào cả thể xác lẫn linh hồn. Đừng nên nghĩ rằng như thế là Liên Xô thít thòng lọng vào cổ ta.
Các nước tư bản đang tìm cách đánh vào Đảng ta về mặt văn hoá. Bao nhiêu đảng viên khá Đảng dành cho đi các tư bản, nay nó cắt hết học bổng, viện cớ là ta không bảo đảm nhân quyền.
Ông Tố Hữu bảo tôi không thích mấy bài nói về học sinh đi thi toán gần đây. Có vẻ sô – vanh nước lớn lắm.
Ông Nguyễn Kiên thủng thẳng đế thêm là nước này nhận ra cái đó cũng đã lâu, nhưng từ chỗ nhận ra đến chỗ sửa còn lâu hơn. Từ mấy năm nay, tôi đi họp tuyên huấn, đã nghe phê phán. Rằng ta tuyên truyền rất vụ lợi. Chỉ có những gì thế giới làm có lợi cho ta thì ta tuyên truyền. Phải bỏ lối ấy đi. Thế mà có bỏ được đâu.

Chính Yên (báo Nhân Dân) tâm sự:
– Viết bài tuyên truyền gì bây giờ cũng cảm thấy phạm tội. Đúng là mặc cảm sau một thời viết báo ca ngợi. Tôi thấy nói Mỹ đưa ta về thời đồ đá cũng đúng. Về vật chất nó đưa ta về thời đồ đá. Về tinh thần, nó đưa ta về thời đồ đểu.

Một người hơn 40 tuổi bị chèn xe máy gãy tay, không kêu gì.
– Tôi đã sống qua ba chế độ. Đấy là tôi muốn giữ nguyên bản chất chế độ cũ của tôi, thì tôi để nguyên. Vì tôi vốn mê tín, ở hiền gặp lành. Còn nếu tôi phát huy con người XHCN của tôi, thì tôi đã rạch mặt ăn vạ rồi.

Người Trung quốc về nước. Vùng Trà Cổ giờ gồm nhiều xã dân ở đồng bằng ven biển đi ra thế chỗ. Bước chân con người chệnh choạng trên mảnh đất mới, mảnh đất của nước mình mà nay mình mới biết.
Nhưng đó mới là đám tiền trạm. Đám sau đến Hải Phòng bỗng có lệnh còn phải chờ không được đi vội. Sống tạm bợ, biến thành trộm cướp, ỉa đái ngay ngoài đường.
Hà Nội nghèo, các cửa hàng nhuộm đông nghịt người. Tích kê được nhuộm mua lại mỗi cái 5-6 đồng. Mà toàn hàng cũ mang nhuộm. Có người lấy cả đăng ten rèm cửa ra để làm vải may quần áo.
(Lại nhớ Nguyễn Minh Châu có lần nhận xét ở Quảng Bình, cái nịt vú của đàn bà con gái cũng làm từ vải Tô Châu, tức hàng quân nhu Trung quốc).

Các bệnh viện quá đông người. Bệnh viện St. Paul khoa nhi ba trẻ con một giường, đêm có đứa ngã xuống đất chết luôn. Không có điện, nhiều trẻ bị chết, các bà mẹ trông cả về Lăng Bác mà khóc.
Trong khi đó, một bộ phim vừa được đạo diễn Bạch Diệp làm mang tên Người chưa biết nói. Phim kể về sự săn sóc con trẻ ở chế độ ta. Hàng chục bác sĩ trông nom một người. Trẻ ăn ngon như con nhà phe phẩy. Ngày thay mấy bộ quần áo.
Cuộc sống luôn luôn quá đáng.

Cô Châm kể chuyện sinh viên trên cơ sở II ĐH Sư phạm ở Xuân Hoà:
– Đi tàu, ngồi trên nóc toa. Có lần kéo cái phanh hơi của họ, cả tàu dừng lại.
– Lên lớp, thầy không có phấn. Sinh viên kêu đói, lớp xin nghỉ luôn. – Cơm còn thừa, mang đổi cho dân lấy củi sưởi. Từ trên gác, ròng dây xuống cho bọn trẻ con, nó nhét củi cho mình. Hoặc đổi lấy bưởi.
– Nam sinh viên không có tiền, mua bán trả bằng bút máy. Được mấy cái đầu, sau toàn nắp giả.
– Buổi chiều, sinh viên ngồi hai bên đường rải chiếu ra, uống nước với nhau, như ăn mày.
– Ra chợ, ăn cắp rất thạo. Mấy thằng mặc cả nói loạn lên, một thằng đứng cạnh đấy nhót vào bị.




Chuyện đời sống Hà Nội 1980 (kỳ 1)
by Vương Trí Nhàn
đã đăng trên Tiếng Dân ngày 24-2-2024

8/1

Trứng 1 đồng một quả. Thịt 2,6 đồng/kg. Tất cả các thứ đều lên giá. Giá vàng tăng từ 23,5 lên 30. Xe pơgiô khoảng 5,6 ngàn. Từ 1/1 nhà nước chỉ bán cho mỗi người trong gia đình một kg gạo một tháng. Đầu năm chưa có phiếu, vợ Bằng Việt đẻ, con chưa được cấp phát gì hết.
Ở một khu phố ngoài bãi, điện đột ngột lên cao, hàng loạt nhà bị hỏng đồ điện. Không ai đặt vấn đề đòi bồi thường.
Đăng kể chuyện trên đơn vị: cả B trưởng, A trưởng cũng trốn.
Càng tiếp xúc với những người lớn tuổi, càng nghe họ kể một cách khách quan công việc của họ hồi chiến tranh, tôi càng thấy ngày hôm nay hỏng thế này là tất nhiên, làm sao khác được.
Một ông thợ nề kể đi làm thuê, 10 người có 3 người được tốt, còn toàn là không ra sao. Đầu tiên, có gì chủ cũng mang hết cho thợ. Sau thì xoay thợ. Cũng một phần vì nghèo quá, có gì đã xả láng hết từ đầu.
Báo chí có một vài bài (ở những góc nhỏ) nói chuyện không đổi tiền, giá gạo sụt 1 đồng.

14/1

Ngô Thảo nghe ở đâu về kể ở Thanh Hoá – Nghệ An, khi cán bộ mang phiếu đi đong gạo, thì cửa hàng gạo nhà nước phát cho mỗi người 36 đồng, bảo đi mua gạo ngoài mà ăn. Các trường đại học trung cấp ở hai tỉnh đó, cho sinh viên nghỉ vô thời hạn.

Thanh Hoá, Bỉm Sơn, có một vụ giết người như sau:
Hai người bạn cũ. Một đi học kỹ sư ở nước ngoài về, một ở nhà đi bộ đội, rồi về làm bảo vệ ở một công trường (?)
Anh kỹ sư đến lĩnh hoặc xin gì đó. Người bảo vệ không cho, còn giết luôn cả người kỹ sư kia. Công nhân kéo đến bao vây. Bọn bảo vệ ở trong nhà doạ nếu ai vào sẽ bắn chết.
Bọn công nhân liền lấy đá lấp đầy chung quanh ngôi nhà bọn bảo vệ, chôn sống gần chục người trong đó. Họ làm từ 1 giờ đến 4 giờ thì xong. Công an không dám can thiệp.
Cô Oanh em tôi kể về một bà làm y tá ở Viện Việt Nam – Cu Ba. Bảo bà sang bệnh viện Bạch Mai lấy máu về tiếp cho một bệnh nhân, bà đi.
Đến giữa đường, thấy có một ô tô sang Đông Anh, bà nhảy lên luôn, sang mua một ít khoai tây. Trở về nhà người ta hỏi, bà bảo Bạch Mai không có máu.
Thực ra, chờ bà không thấy về, người ta đã cử một người khác, đi lấy về rồi.
Bà nghe vậy thản nhiên, quay ra, bảo mọi người.
– Có ai chia khoai, lại đây!
Thế là tất cả lại quây cả lại, lấy khoai.
Bà ta khuyên bọn Oanh:
– Các em nên vào đây, người có chết còn không sao. Xin vào làm ở Việt Xô, các ông to chết, mệt lắm. Giá báo Nhân Dân lên 1 hào (từ 15/1). Cà phê đen mậu dịch 1 đồng (năm 1976, hai hào) mỡ hơn 30 đồng một kg.

Ở Hải Phòng ăn cắp ghê gớm. Người ta đổ cả hàng bao đường để lấy mấy miếng vải.
Giá xe đạp ở Hà Nội tăng. Lý do: ở các nước Đông Âu, giá hàng nhiều thứ tăng gấp đôi. Nam Hà, Thái Bình, đời sống khó. Không có dầu để chạy máy. Không có đạm bón cho lúa.

Bên Trung quốc, nay người ta không dùng tới khái niệm xét lại nữa. Lý do:
1/ Việc Liên xô làm, Trung quốc này vẫn làm và còn làm ghê hơn;
2/ Trung quốc không đặt ra vấn đề lý tưởng nữa. Vấn đề đặt ra ở Trung quốc bây giờ là làm gì có ích cho Quốc gia (ai đó hình như W. Durant từng nói, các dân tộc sống thản nhiên bên cạnh hệ tư tưởng).

Ngày chủ nhật 27/1/1980 (10 tháng chạp năm Mùi) Hà Nội 240 đám cưới. Họ sợ sang năm, năm Thân.

Sau khi đẩy lùi chế độ cũ, Lào có nhiều cái làm khác Việt Nam:
– Mở cửa cho hàng Thái Lan qua;
– Vẫn dùng cán bộ của chính quyền trước.
Một người hay xem ti vi về đối ngoại: Mình nói về Comecom luôn đấy. Nhưng có lẽ không nhả cho nó cái gì, nên chả được cái gì.

Tháng giêng, ngày cuối cùng 31, mới được nhận lương. Tiền mới toanh. Lạm phát.

Ở Trung quốc, sinh viên đại học biểu tình chống quân đội, bởi cho là họ được hưởng quá nhiều quyền lợi.

Cách nói đương thời:
Lý tưởng = cái tưởng như có lý.
Lương y là dì ghẻ.

Các cơ quan lập ra một uỷ ban chống tiêu cực. Nói như Xuân Tùng: Đó là những người tiêu sướng.

Câu hỏi của một sĩ quan Pháp khi Đức chiếm đóng Paris: Phải chăng lịch sử lừa dối chúng ta?

Một thượng tá Công an lên đại tá bỏ 4.000 đồng để chiêu đãi. Mở hai két rượu quý, loại rượu Sài Gòn, mua ngoài 250 đồng một chai. Trong số khách đến, có một cô gái Sài Gòn cũ, xinh xắn, nhiều quan khách cứ đòi hôn cô ta. Cô tâm sự với người bạn cùng đi:
– Em cũng không biết các anh là Việt cộng thật hay Việt cộng giả nữa.
Tất cả cười ồ lên, coi là một câu đùa ý vị.

Đạo diễn Ý Fellini:
Người ta bảo với chúng tôi rằng tôi là một dân tộc vĩ đại nhất và hạnh phúc nhất. Chúng tôi tin ở điều đó, kết cục không còn biết gì về các dân tộc khác, cũng như về bản thân mình.

Hiện ở Hà Nội có khoảng 50 gia đình đặc biệt, mỗi gia đình có 400.000 đồng tiền mặt.
Nhân viên đường sắt đi buôn, công an đường sắt lo khám chủ yếu đám nhân viên đó. Cứ một quãng lại phải thay người tăng bo, không cho họ áp tải suốt đường.
Bộ đội như Dũng, trốn về từ 23 tết, dọn nhà, xong chạy lung tung xin việc làm làm lấy tiền tiêu tết. Nó bảo kiếm lấy vài hào (giờ hào để chỉ đồng).

Năm 1980, chỉ nhập đủ dầu để thắp đèn ở nông thôn.
Một sinh viên đói quá, không dám ra đến đường, sợ thấy hàng quà thì thèm.
Các cơ quan thi nhau lấy xăng nhà nước mang bán lấy tiền, đi mua lợn ăn tết.
Ở Nghệ An, ông Trương Kiện đào một cái đập gì đấy, chết mấy chục người, vẫn vào trung ương. Đại hội Đảng bộ tỉnh, số phiếu đứng thứ 37, lại vẫn làm bí thư. Nhưng lúc bầu thường vụ không ai chịu cùng làm thường vụ với ông ta. Trung ương phải thay.

Giải bóng đá hạng A toàn quốc, lần đầu tổ chức, thì xảy ra chuyện xcăng-đan – đội Thể Công tẩy chay. Bắt cầu thủ cắt tóc ngắn, họ không cắt, lại còn tuyên bố: Đào tạo 11 cầu thủ chúng tôi còn khó hơn 11 bí thư tỉnh uỷ.
Người ta tức quá, định tống cả bọn đi biên giới.

Tên một tác phẩm của Ortega y Gasset: Sự Nổi Loạn Của Đám Đông

Giá hàng tết tăng, một cái bánh chưng khoảng 15-20 đồng. Tiền về muộn, mãi mới thấy cán bộ nhà nước xếp hàng đi mua hàng tết, trong khi mấy ngày trước ê hề không ai mua.
Ai đó bảo câu thơ Chào 61 đỉnh cao muôn trượng là để chỉ đời sống không bao giờ lại còn sung sướng vậy!

Nhà Ân, 11 giờ đêm mới có điện, 5 giờ sáng thì tắt.

Rét quá, không làm được việc gì.
Bích (bạn Oanh) kể:
– Cả lớp tích cực. Lao động đạt 300%. Vào Lâm Đồng (đường chim bay cách Đà Lạt 50km). Nước độc hơn nước cống Hà Nội (?), chỉ có một giếng dùng được, cách 5km. Học sinh hư, chỉ mong đuổi học về đi kiếm ăn. Tặng hoa cô giáo 20-11 xong lại đòi lại. Không có đài báo, chỉ có thư. Ra thị trấn nghe đài đã thấy thích.
Xuể: Tôi vào Bảo tàng Nam Đàn… Trong khi tôi co ro trong bộ quần áo rét rất dầy, áo bông khăn len, thì trẻ con cởi chuồng, mặc một áo mỏng, đứng trông xe. Giám đốc Nguyễn Sĩ Thoán gầy như một bóng ma ngồi đó, trong tiếng đều đều của đài, đưa lại bài phát biểu của một ông trên. Đầu giường ông giám đốc là cuốn Không được đụng đến Việt Nam của NXB Quân Đội

Ở Nam Đàn, một vụ mỗi khẩu được chia 7kg thóc. Để ngậm cũng không đủ.
Tôi lên biên giới công tác, ốm. Lính bảo, hàng tháng nay chúng em không có đường, biết chạy đâu ra đường cho anh ăn cháo bây giờ.
Một tay cần vụ ở báo QĐND còn hưởng tiêu chuẩn cao hơn một ông đại tá ở biên giới.
Ông Ph. H, bí thư Nam Hà, 60 tuổi lấy vợ 2, đám cưới tổ chức 10 ngàn (?) xong, tổ chức cho vợ lên Đà Lạt chơi, lấy cớ là đi thăm vùng kinh tế mới. Định sang Campuchia, nhưng bị công an giữ lại. Ông ta làm một ngôi nhà rất đẹp. Dân có ca dao:
Ai về thăm đất Nam Hà
Mà xem con khỉ có nhà bê tông
Khỉ ơi khỉ có biết không
Ta đây là chủ, mà không có nhà.


Nhuận bút bài Một nhành xuân của Tố Hữu (Nhân Dân tết 1980) là 500. Mới đầu bọn Ban văn nghệ định đưa 120 (bằng cách mua lên một đôi gà thiến), nhưng ông Hoàng Tùng bảo cứ 500 và đưa tiền mặt. Rồi lại lên ti vi, lên đài, chỗ nào dùng đều có tiền.
Ông Trần Lâm lên gặp phải mang theo băng ghi âm. Sợ trong khi báo cáo cấp trên, có gì thất thố chăng?
Sau bài viết Một nhành xuân ấy, Đài tiếng nói VN cử một tay biên tập cứng là Trần Mạnh Thường viết bài bình luận. Thường viết xong được khen và người ta định đưa hắn lên tivi. Thường xấu hổ, không muốn. Lãnh đạo bảo, các cậu khiêm tốn thật. Việc mình làm được, không việc gì phải khiêm tốn. Vậy cứ lên tivi đi.
Người ta không thể hiểu là Thường xấu hổ vì những cái đã viết.
Vũ Quần Phương bảo đúng là thế hệ trước không thể hiểu nổi thế hệ sau.

18/3

Giá vàng lên. Một ngàn đồng được hơn hai đồng cân vàng. Giá báo Văn nghệ từ 2 hào lên 3 hào rưỡi. Giá vé máy bay từ 120 lên 220.
Một anh bạn trong cơn mê… nhà, kể rằng để dành được 10.000đ thì giá nhà đã lên 15.000đ. Ma Văn Kháng bảo giờ có tay nhà ở Hà Nội đã đủ, lại đang tính nhà ở Nha Trang để nghỉ.
Đoàn Công Tính bảo, nay là lúc không ở đâu giá ô tô nhà lầu rẻ như nước mình.
Quân kể hai nhận xét của các chuyên gia Đức:
– Ở chúng mày hình như không có luật đi đường. Hình như thằng nào bóp còi to, thằng đó được.
– Nhưng mà tại sao con mắt mọi người vẫn ánh lên một cái gì đấy?
Tôi bảo: Còn gì nữa, đó là lòng ham sống.
Sống ở Hà Nội bụi mù trời, xe đạp kẽo kẹt trên đường vẫn cố đẩy lên, tranh nhau cãi nhau, giành chỗ, xếp hàng, kiếm lấy một cái áo đẹp…
Bên cạnh những lúc chán ngán, nhiều lúc nhiều người vẫn muốn kêu lên:
– Thật may là còn sống còn được làm người.
Muôn năm, muôn năm cuộc sống! Chiến tranh đã lùi xa. Ngày mai ra sao ư – kệ nó!
Một người vào miền Nam kể:
– Một gia đình bình thường, làm cho mậu dịch một sản phẩm nhỏ – ngòi bút viết. Sau ba tháng thu 50 ngàn đồng.
– Một khu công nghệ nhà nước, vốn 700 triệu đồng, nhiều năm lỗ vốn, mãi 1979 mới lãi 3 triệu đồng. Trích ra 25 vạn làm tiền thưởng.
Tết ở Sài Gòn. Người ta buộc vài chục bánh pháo sau xe hon – đa, phóng xe, đốt pháo rầm trời.
Sao khi chuyển sang cái nhà xuất bản Tác phẩm mới này, tôi tự hỏi sao phải nghĩ về VNQĐ lâu thế, như xưa phải nghĩ về mấy bạn gái mình thì yêu mà họ chê mình vậy. Sau nghĩ ra:
– Chỉ vì ở cơ quan dân sự này hàng tháng không được chia mấy cân thịt như cơ quan cũ.
Thuốc lá sợi trộn lẫn nhiều lá sắn, giá thuốc sợi 10, giá lá sắn 4.
Lâm Quang Ngọc kể cả nhà quấn thuốc, một tháng được khoảng 300 đồng.
Ông Kiên kể: Đang đi đường, đến một quãng lội thấy người xúm lại rất đông. Những thanh niên quần bò áo bay cũng đứng lại, mò mẫm. Xe ô tô qua cũng kệ. Tại sao? Vừa có một xe chở đá lửa đi qua, đánh rơi rất nhiều. Đã có người nhặt được.
Một người cháu ông Vũ Tú Nam gãy tay từ Nam Định phải chở lên Hà Nội để vào nhà thương. Vì Nam Định không có bột để bó.
– Tại sao các cửa hàng thiếu mì sợi. Vì xe ô tô không chịu chở loại hàng này. Họ không ăn cắp được.
– Các chuyến xe buýt trong thành phố phục vụ khách rất tận tuỵ. Vì nghề này, người ta bỏ tiền túi rất dễ.
Rau muống 1-1, 2 đồng một bó. Nhà nước không bảo đảm cung cấp hàng cho dân không phải cán bộ. Dân chỉ được phát bìa mua hàng có 3 tháng.
Cách dùng tiền: có gia đình bán hết các phiếu lấy 4.000. Để làm gì? Để cho một tổ hợp sản xuất vay, lấy lãi 10%. Một tháng gia đình thêm 400 cộng với 1.000 tiền lương tạm đủ ăn.

Giá gạo đã lên 9 đồng một kg, ở Vĩnh Phú lên 10 đồng.
Ở Cửa Nam có một thanh niên giết người vì mấy chục bạc.
Lúc xử tử hắn, bố mẹ anh chị em sụt sùi. Hắn giậm chân hét lên “Các ông các bà có im đi không. Sống với chết cũng thế, việc gì mà khóc”.

Ở khu Kim Liên Trung Tự, trước kia những vạt đất giữa các nhà đều cấm tăng gia mà giành làm nơi cho trẻ em chơi.
Nay người ta cuốc bật cả nền gạch lên để trồng rau.

15/4

Tôi đến cơ quan. Ông Vũ Tú Nam ốm. Ông Phó giám đốc Mãi đi lên Vĩnh Phú tính chuyện xin giấy (từ đầu năm tới nay chưa ra một quyển sách nào). Ông Nguyễn Kiên đi Campuchia. Lương tháng 4 chưa có. Nhuận bút, tạm ứng chưa có. Lại Nguyên Ân con ốm mấy ngày, vẫn phải đi Vĩnh Phú.
Xuân Quỳnh kể Vũ có một truyện ngắn được giải, trị giá 100đ. Quỳnh đi vay trước, giả bà Khánh 50đ. Còn 50 đ, về 20 đ mua cây tre để với tấm giấy sơn cũ, chữa lại mái cái lều; để riêng 30đ làm cơm mời thợ.
Đi mua 1, 5 đ cà phê về, con làm đổ, đánh con một trận, sau lại hối hận.
Yến kể Hảo (nhà cô Ch.) vào Sài Gòn lái xe chở hàng sang Campuchia (lính vận tải) không có tiền, vay một người 300 để buôn, trả xong nợ còn 300 lãi gấp đôi. Từ đó cứ đi về đều.
Một thiếu uý mang về cho ông bố ở nhà 200 ngàn đồng. Chắc nhiều nhà văn lại tiếc, sao lại đi viết văn!
Hà kể một phiểu Tôn Đản mỗi tháng được mua theo giá rẻ 3 cân thịt, 3 cân cá, 2 cân đường, 20 quả trứng, 1 tút thuốc. Ngoài ra còn bánh kẹo, rau, xà phòng, dép, vải vóc (Cả nhà có thể bấu xấu vào đấy.)
Phiếu đề ông Thông loại Văn nghệ sĩ tiêu biểu, cỡ ngang thứ trưởng. Những người được phiếu cùng đợt là Xuân Diệu, Tế Hanh, Nguyễn Văn Bổng.

25/4

Xã luận báo Nhân Dân nói đến chuyện ở Hà Đông, một hội trường 800 người đúng lúc đưa vào sử dụng thì bị sụp. May mà do cụ Tôn Đức Thắng chết, người ta tạm không sử dụng mấy hôm, nên không ai việc gì.
Ở Hải Phòng, 1/3 hàng bị ăn cắp.
Công nhân coi kho dùng dao chặt bánh xe đạp của khách gửi về qua cảng, chỉ cốt lấy mấy cái may ô quấn quanh xe. Hiện trên phải đưa lính về thay công nhân.
Tổng kết về các vụ ăn cắp, đẩy hàng trên tàu Thống Nhất: 40% trong nội bộ ngành (nhân viên đường sắt, có cả công an)
30% cán bộ: Chỉ 3% lưu manh chuyên nghiệp.
Ở Hà Nội nghề quấn thuốc lá ế ẩm. Vì… thuốc ngoại rẻ hơn thuốc nội. Bảy hào một điếu More.
Hàng mang từ nước ngoài về. Để rút vàng ra.
Ở Thái Lan, Mỹ bán hàng theo lối bán thật rẻ. Nhưng phải trả bằng vàng. Thế giới người ta đang tích luỹ vàng, sợ chiến tranh lạnh trở lại.
Một ngày ở khoa ngoại bệnh viện St. Paul, đón chừng 40 vụ đâm nhau mà bị thương.
Báo Nhân Dân 10-4 có bài kể: Ban tổ chức hội chùa Hương thường lấy tiền của khách gấp 5 -10 lần giá quy định. Cả một hệ thống tổ chức ở đấy trở thành một thứ cai thầu hung hãn. Có một thuyền học sinh xuống, theo giá vé, không có tiền hối lộ cho họ, họ không chịu chở, lại đuổi các em lên. Các em không lên, hai bên xô đẩy thuyền chìm, họ dùng mãi chèo đánh một em vào gáy chết ngay. Họ giam một cán bộ và một bộ đội trong 8 giờ liền.

14/5

Hình ảnh của một người trên báo chí, sách vở (và cả trong cái gọi là lịch sử nữa) với thực chất của con người đó, chẳng nhẽ lại có thể xa cách nhau đến thế hay sao?
Nixon có loạt bài trên Paris match bản dịch được đăng lại trên Bản tin tham khảo cuối tháng 4.
Chiến tranh thế giới thứ ba đã được chuẩn bị ngay từ đại chiến thế giới thứ hai. Stalin chiếm đất. Tây Âu phụ thuộc Trung Đông. Liên Xô tiến vào đó Afganistan Nam Yemen.
Ở châu Phi, tất cả chính phủ mà Liên xô ủng hộ đều là bọn tham tàn, không đếm xỉa gì đến đời sống trong nước, miễn là họ nghe theo Liên xô, là Liên xô ủng hộ họ.
Nếu để cho các dân tộc tự nguyện lựa chọn, họ sẽ không lựa chọn chủ nghĩa cộng sản.
Các đại sứ luôn luôn than phiền với tôi: người Nga rất hay nói dối. Nói chung là họ hành động không chịu một ràng buộc nào hết. Một châm ngôn quan trọng của Níxon: Không bao giờ nên nghĩ rằng có một việc gì mà mình không bao giờ làm.

Những chuyện hình sự:
Một ông già thấy trộm vào vung dao đuổi trộm, nhặt được mấy ngón tay.
Mấy hôm sau có hai người xưng là công an vào, hỏi han sự việc, mời cụ lên dồn, kể cho rõ. Cụ đi 2 ngày không về.
Cụ bà ở nhà, tự nhiên có một người đến chơi, tự xưng là người quen cũ, lâu lắm mới lại thăm cụ ông.
Chờ mãi không thấy, khách cáo xin phép ra phố một chút, gửi tạm chiếc ba lô. Khách không quay trở lại. Cụ bà bồn chồn, lên báo công an. Công an đến giở ra, trong ba lô: xác ông cụ.
Có khác gì chuyện Thuỷ Hử?

Một người đàn bà, thấy người khác bị móc túi, cố nói to lên, giữ hộ.
Tên ăn cắp lủi mất. Lát sau, có 2 thanh niên lên xe. Hắn chen vào sát chị đàn bà:
– Chị tốt bụng nhỉ!
– Chị thương người quá!
– Nhân hậu ghê cơ!
Hắn đưa tay lên vuốt má người đàn bà. Máu chảy ròng ròng.
Trong những ngón tay hắn, có kẹp mảnh xơ dao lam.

Thịt lợn lên 40đ/1kg
Gạo hôm 1/5, do chuyện cắt gạo, lên 10,5đ-11đ. Nhưng rồi lại tụt 7,5-8đ
Chung quanh chuyện gạo nước, cả xã hội ồn lên vì thèm muốn và bất lực.
Nguyên từ mấy tháng trước, đã thấy nói sẽ phân phối lại lương thực. Chỉ cán bộ nhà nước được ăn 13kg. Ngoài ra người làm ngoài, có gì cung cấp nấy. Vì nhà nước cũng phải đi mua bằng giá ngoài. Đồn rằng đã có đủ loại Nghị quyết chỉ thị Thủ tướng. Tất cả cảm thông. Nhưng chỉ sau khi có quyết định thi hành ở Hà Nội một ngày, phải hoãn ngay. Người ta phản ứng quá.
Ph bảo:
– Thế nào là phe? Bán mấy bao thuốc lá ở đường chăng? Người đó là ai, là mẹ, ta, chị ta. Bọn phe lớn bây giờ nó buôn bằng ô tô cơ. Lấy xe Von-ga đi chở hàng, mới hiệu nghiệm chứ. Cánh phe phẩy vớ vẩn ngoài phố, vợ con cán bộ đó, có việc và bảo đảm đời sống cho họ xem, họ bỏ ngay.
Anh tưởng truy đuổi phe phẩy thế là công bằng à? Còn có một chuyện bất công lớn hơn. Bộ máy xí nghiệp nhà nước nhiều chỗ bất lực, không làm ra sản phẩm cho xã hội. Lương thấp thật, nhưng lại là cao quá, so với kết quả lao động. Rộng hơn chuyện một chính sách – người ta thấy hoang mang, từ nay, đâu là phải trái, sai đúng bây giờ. Chính trên cũng thấy là nhiều chính sách đã sai quá nhưng không sửa được gì. Và từ nay, còn hòng làm được việc gì!
Trên bảo: có 1,5 triệu đảng viên. Có cậu nói quá lên bảo phải đến 0,5 triệu hỏng, đuổi ra khỏi Đảng cũng không tiếc, miễn là đảng trong sạch.
Tôi nghĩ thế còn trình độ? Trong sạch làm sao có thể tách rời trình độ. Vì sự dốt nát đẻ ra không trong sạch. Một người nói: Dân mình tốt quá. Ở nước ngoài thiếu cà phê nó đã biểu tình.
Ông Phương Lựu: một loại dân thíếu cà phê biểu tình, nhưng về vẫn làm ăn hết sức; và một loại dân không nói gì, nhưng về không làm, lười biếng, đục khoét, – anh chọn đằng nào?
Dân Việt Nam có chỗ dữ của nó chứ!

Từ 6/1980 có công văn giấy 1980 giảm 28%

Chuyện gạo:
Cụ Hồ gạo một đồng ba
Cụ Tôn chậm chạp gạo ba bốn đồng
Bây giờ ông Duẩn ông Đồng
Gạo bẩy tám đồng, giá vẫn còn hơn.

Có thể trong năm 1980
– Lặng lẽ cho bộ đội về, vì quân quá đông.
– Không tuyển sinh vào đại học, tuy vẫn tổ chức thi và báo điểm như thường.
Phương Lựu: Cũng phải nghĩ tới chuyện đó đi thì vừa, chứ cứ đào tạo thế này để làm gì?
Một chuyên gia Liên xô hỏi Bộ Văn hoá:
– Hà Nội không có chỗ nào vui chơi công cộng. Vậy thanh niên các anh tán tỉnh nhau ở đâu?
– Tìm hiểu trong lao động.
– Thảo nào mà năng suất lao động của các anh tồi vậy.



Chuyện đời sống Hà Nội 1980 (Kỳ 2)
by Vương Trí Nhàn
đã đăng trên Tiếng Dân ngày 26-2-2024

16/6

Phổ biến một nghị quyết mới, có các nhận định:
– Người ăn lương đã đến mức không thể chịu được nữa.
– Chống tiêu cực, không chống nổi.
– Ta đầu tư vào xây dựng cơ bản quá nhiều. Nhiều công trình đắp chiếu nằm đấy, khi xong cũng đã lạc hậu.
– Sẽ gần như không chiêu sinh đại học thời gian tới. Học sinh hết lớp 10 chuyển về nông thôn, vào vùng B2 cũ, đi xuất khẩu lao động.

Trích từ Cuộc chiến đấu của tôi (Mein Kampf) của Hitler:
“Phải làm sao để cho tất cả những cái được in ra, từ vần vỡ lòng cho trẻ em tập đọc đến tờ báo hàng ngày, làm sao để cho tất cả sân khấu, điện ảnh cho đến một cột áp phích – đều phải phục vụ cho cái sứ mệnh duy nhất và cao cả là lay chuyển những bộ óc sống động của dân tộc chúng ta, cho đến khi lời cầu nguyện nhát sợ mà các Hội những người yêu nước của chúng ta hướng lên trời “Lạy chúa, xin cho chúng con được tự do” trong đầu óc mỗi đứa trò nhỏ nhất, sẽ biến thành lời cầu nguyện chân thành này: “Lạy chúa hãy ban phước lành cho cuộc chiến đấu của chúng con”.

Ông Nguyễn Kiên: Nhà tôi ăn cơm chỉ có tương và cà. Tương có thêm thìa đường.
Một ông chú của Quân ở quê ra:
– Văn nghệ các anh bây giờ toàn trừu tượng.
Báo Nhân dân ngày 17-6 trong mục bạn đọc viết, nêu ba việc:
1. Nhiều người khai man về lương thực.
2. Một xe lửa ra khỏi Vinh 2km thì… đỗ lại để cho con buôn vứt hàng lên tàu. (Hôm nọ, đã có chuyện: nhân viên nhà ga, mang xăng lên tàu, để xăng cạnh bếp, xăng bốc cháy, cả một toa tàu đi đời).
3. Công ty san nền chở thuê cho xí nghiệp Chùa Bộc một số than. Không có tiền lót tay cho lai xe họ không chịu chở. Bàn đưa tiền này cho công ty san nền biến thành tiền thưởng. Công ty này làm một thời gian, lại không chịu, xui lái xe đòi tiền tiếp.
Chị M. hàng xóm kể: Một bà ở cơ quan có một đứa con gái chủ nhật nào cháu cũng dậy sớm, khăn áo chỉnh tề, vào thăm Lăng. Dậy sớm, mệt, bụng đói. Nhưng cố đi để tha bằng được một cái bánh mỳ về nhà gặm ăn, và sung sướng vì đã kiếm ra tiền.
Nhiều nhà, trẻ con rất hay xếp hàng thăm Lăng (phải ăn mặc rất đẹp) cũng là cốt để mua bánh mì rẻ. Ba hào một cái.
Oanh kể: Nhiều người bán máu ở các bệnh viện. Nay máu họ kém quá, bệnh viện không mua nữa, họ cứ ngồi đấy, bắt mua. Vì họ quen tiêu rộng rồi.
Các nghề ở mỏ đều sớm hủy hoại con người. 30 tuổi không lái xe nổi nữa. Người yếu, mắt kém. Năng suất không lên được. Bữa cơm công nghiệp của công nhân nhà nước cho 5 hào. Mua được 5 củ khoai tây luộc.
Hiền con ông Thảo kể lớp nó phá hết bàn ghế rồi. Mang dao bầu đến phá. Phi dao găm cho nứt bảng ra. Khênh bục đi. Bây giờ tất cả lấy dép ra ngồi đất học, thày phải kiễng lên mới viết nổi lên bảng. Mà có lần học trò vẫn dùng gạch ném lên cửa kính, choang lên một tiếng, mảnh vụn bắn cả vào người thầy.
Tôi kể Hiền nghe chuyện ông Kháng đã kể cho tôi mấy hôm trước. Thầy gọi một cậu đọc bài, nó đứng đực ra rồi hạ một câu xanh rờn:
– Thôi ông cho điểm 1 đi, tôi về.
– Lớp cháu cũng thế, Hiền nói.
– Rồi lúc thầy quay ra viết bảng thì ném phấn lên đầu thầy.
– Lớp cháu cũng thế.
– Rồi, sau khi thày xỉ vả cho một hồi, lại viết tiếp thì một tiếng huýt sáo vang lên. Ngoảnh lại hỏi, không ai biết.
– Lớp cháu cũng thế.
Yến kể: có những bọn học sinh bỏ sang Lào. Hoặc bỏ lên biên giới (y như hồi trước 1945), sau lại về. Nhà trường không dám đuổi.
Tôi hỏi Hiền:
– Lớp có kính trọng một thầy nào không?
– Có. Có một thày mới dạy hộ một vài giờ, nhưng chúng nó rất quý, vì khi dạy, thầy bảo: Tôi sẽ dạy các em những điều người ta viết trong sách. Tôi phải làm thế. Còn thực tế ngoài đời như thế nào, các em đã biết.
Nguyễn Minh Châu: Người đời bây giờ, có cái đặc tính là gian manh. Có người càng giàu càng gian manh, có người càng nghèo càng gian manh. Càng lên to càng gian manh, càng bị chèn ép cũng gian manh. Càng trẻ càng gian manh, càng già càng gian manh.

8/7

Ông Nguyên Ngọc (Bí thư Đảng Đoàn Hội) phổ biến một số ý của ông Lê Đức Thọ.
Ta không ngờ khả năng quản lý của ta lại kém đến vậy. Kế hoạch lung tung. Có 7.000 công nhân máy kéo. Mà đi nhập một lúc 70.000 máy (ở các nước, ba công nhân một máy kéo). Nhà máy đường Văn Điển năng suất 20 vạn tấn/năm. thực chất chỉ làm được có vài vạn tấn. Vì không có mía.
Giá thu mua mía 6 xu 2/1kg, rẻ quá người ta không làm. Nhà máy đường trình quy hoạch lên trên 10 năm nay chưa được thông qua. Thuế nông nghiệp thất thu 50%. Giáo trình của trường tài chính 20 năm nay không đổi. Cán bộ (cả trung cao cấp) mệt mỏi, hưởng lạc. Thông thường, hiện nay, cán bộ dưới giỏi hơn cán bộ trên.
Ông Châu ghé tai tôi: Làng tôi, buôn cả đô la. Bọn con gái chỉ huy được cả lái tàu, bắt đỗ đâu, phải đỗ đấy. Về chiến tranh ở Campuchia hiện nay (vẫn lời ông Thọ) ta không thể chủ động như trong chiến tranh giải phóng. Thương vong trên mặt trận Campuchia một ngày tính bằng con số hàng ngàn (?)
Sao con người mà tôi biết được trong sách vở phương Tây ghê gớm thế, mà con người trong cuộc sống của tôi bây giờ vớ vẩn thế.

18-7

– Cơ quan Hội Liên hiệp VHNT không có thuốc phát cho anh em.
– Xà phòng mậu dịch từ 0,7 lên đến 3,5 đồng
Bà Hoàng Thị Đậu theo thuyền vượt biên không thoát, bị bắt về Hà Nội. Người ta báo cho cơ quan cũ đến thăm, không ai dám đến. Ông Phong Lê, bà Vân Thanh, bà Chu Nga xin thế vào xuất ấy. Ông Phạm Huy Thông (Tiếng địch sông Ô) và ông Hoàng Trung Thông (Mà vẫn mênh mông bát ngát tình) đều lớn tiếng phê bình: sao lại nhân đạo chung chung thế. Nhỡ bà Đậu là gián điệp thì sao?

26/7

Mưa bão. Nhiều cây đổ trên các ngả đường. Dân ra cắt ngay, Công ty công viên khỏi phải dọn.
Mất điện 3 ngày liền. Mất luôn cả nước, trong khi đó mưa vẫn to. Có nhà đục ống máng ra, lấy nước. Có lẽ nhà ấy nuôi lợn.
Sau bão, có thông báo: các khu phố cử một ngày có điện, lại một ngày mất điện (không kể hàng ngày cả thành phố cắt từ 5h sáng đến 6 giờ chiều). Thư viện Quốc gia vắng teo, vì không có điện. Ngày hè mà 5h30 chiều thư viện đã đóng cửa.

6/8

Những ngày cả nước “rồ” vì Phạm Tuân:
– Cho Phạm Tuân huân chương Hồ Chí Minh hạng nhất (tướng Giáp chỉ được hạng ba).
– Sẽ làm cho cả nhà cửa.
– Một cô phóng viên bảo Phạm Tuân, anh có thấy không, trong 35 năm từ sau cách mạng tới nay, tám ngày vừa qua là tám ngày vẻ vang nhất của dân tộc.
Tính kể đi tàu từ Sài gòn đến Vĩnh Linh, lúc nào cũng có người mời gọi mua hàng tiền trong túi cứ chực nhảy ra thôi. Còn từ Vĩnh Linh ra đây, không có gì để mua, không có ai mời mua, có tiền đi tìm mua cũng không nổi.
Tính bảo muốn biết nước mình ra sao, hãy đi tàu Thống Nhất một chuyến.

Ông Hạnh đi Liên xô về:
– Chưa bao giờ tình hữu nghị Việt xô gắn bó như hiện nay. Nhưng cũng chưa bao giờ giá trị người Việt Nam ở Liên xô hạ thấp như hiện nay.
Ông Phương Lựu: Ta đi với Liên xô phải thôi. Nhưng vì quá muộn, nên như đi ăn xin. Giá biết mà đi sớm hơn, cái tư thế sẽ đỡ hèn hơn.
Tất cả các điều được ghi trong hiệp ước Việt Xô không được thực hiện. Tại Liên xô chăng? Không, tại ta. Ta không chuyển gì về tổ chức cả.
Quốc (Viện Sử): Chúng ta bây giờ già nhanh vì 3 lý do:
1/ ăn uống kém
2/ không có thông tin. Trong xã hội ta, kẻ có kiến thức không phải là kẻ mở đường cho cuộc sống.
3/ không biết đối thoại (không thể giao tiếp với thế hệ trẻ)
Quân: cứ đà này, 5 năm nữa sẽ ra sao?
Đi hội thảo quốc tế về thanh niên. Trong khi ta còn nói nhiều về lẽ sống thì các nước khác nói nhiều về lối sống, ăn uống xe cộ quần bò áo phông…
Đại biểu Mỹ bảo: Những người quần loe, tóc dài bên tôi phần lớn tham gia chống chiến tranh ở Việt Nam. Đám đi lính lại cắt tóc ngắn.
Khủng hoảng của xã hội Thuỵ Điển là không có mơ ước.
Đăng:
– Lính ăn 5,2 lạng một ngày. Chỉ được hơn 2 lưng, có thằng kêu 2 lưng không làm gì được nữa. Không đủ sức đẩy pháo ra khỏi nhà. Cán bộ cũng cáo ốm. Có mấy chục con lợn, lính giết cả. Để, lấy gì mà nuôi. Nó lại ăn tranh của người mất.
Ngô Thảo đi tàu chợ từ Vinh ra Hà Nội 3 ngày 3 đêm. Vì không có dầu máy. Không ai chịu trách nhiệm hết.

Trên tàu, 70% dân Quỳnh Lưu đi buôn; có một cụ già cũng đi.
– Cụ ở nhà, còn đi làm gì nữa.
– Chủ nhiệm cũ đây. Giờ con làm chủ nhiệm, mẹ đi buôn.
Ở Vĩnh Linh, có phong trào rời làng ra bãi cát, để lấy đất trồng trọt.
Gia đình thương binh liệt sĩ ở thấp nhất; gia đình trung bình ở giữa; cán bộ đảng viên ở trên cùng.
Một ông xây hẳn nhà gạch lên.
Bây giờ, đói, dân bỏ về. Chỉ còn trơ cái xác nhà ông đảng viên kia. Vợ con ông cũng bỏ về nốt (chung quanh không có cây cối nước non gì hết). Ba ngày vợ bới cơm cho ăn một lần.
Cơm ở Vĩnh Linh, tức là khoai.

Chi đoàn không giới thiệu con một đảng viên lên Đảng, vì:
1/ bố nó là thằng tham ô,
2/ là phản động (đề ra nhiều chủ trương sai lầm làm cho dân khổ)
Cả xã Vĩnh Thái (?) bảo nhau vào Minh Hải, Thanh Hải gì đấy làm ăn.
Công trường cầu Thăng Long cứ bỏ đấy, không làm nốt được. Vì không có cán bộ để làm. Cả công trường không có lấy một chỗ uống nước cho công nhân. Chỉ có một vài quán phe phẩy. Công nhân không có gì ăn. Chỉ có ăn cắp. Ăn cắp 10kg xi măng trở lên mới bị bắt. Mà ăn cắp 5kg mới đủ sống.
Vừa rồi Ty công an đã cho bắt mười mấy người. Đại loại, một tay chuyên môn mua quang sọt cho công trường, ăn cắp khoảng 20 vạn.
Ông Hoàng Thế Dũng ở báo Quân đội hồi 63 bị bắt ra sao? Đang làm phó tổng biên tập thì bị xe chắn ngang đường. Bắt đi tù, sau đó 4 năm cho về cạo rỉ ở nhà máy xe đạp, được 4 năm nữa cho về nông thôn.
Gần đây, có người đến bảo ông không làm sao cả. Tự do. 6 tháng mới được phục hồi. Người vợ đã bỏ đi lấy người khác, con đã ly tán cả. Bây giờ về Thư viện quân đội.
Chuẩn bị lấy mấy chục nghìn lương trung tá từ đó đến nay.

Ca vè dân gian:
– Ăn rau muống, uống nước ao, nói chuyện tào lao, bay vào vũ trụ
Bay vào vũ trụ làm chi
Sao không lo gạo lo mì cho dân


Bạn Yến, cậu D. lấy một nguời vợ hơn tuổi. Gia đình không bằng lòng. Cứ lấy, tưởng sống độc lập được. Bây giờ vợ đẻ, cửa mình có mủ, dạ con có mủ, phải tiêm kháng sinh liều cao, người cứ cứng lại, hết sữa, con gửi về cho bà ngoại trông 17 đồng một hộp sữa. Vợ nhớ con khóc mắt sưng húp. D. phờ phạc vì hầu vợ ngày nào cũng phải vào thay rửa cho vợ. Hạnh phúc và điêu tàn.

Báo cáo trong nội bộ:
– Từ đầu năm Hà Nội khoảng 80 vụ các cửa hàng lương thực ăn cắp.
– Phân bón tuồn ra ngoài
– Nhân dân cán bộ hoang mang, 80% đảng viên không làm công tác đảng là công tác quần chúng. Hà Nội định giảm biên chế 20% không làm nổi.

Một chuyên gia về ngoại thương Liên Xô sang Việt Nam:
– Ở đâu buôn lậu ghê nhất?
– Madagasca?
– Việt Nam buôn lậu khác các nước ra sao?
– Nước nào buôn lậu cũng sợ cảnh sát cả. Riêng Việt Nam buôn lậu không sợ cảnh sát.

Tính kể tôi đã thử buôn thuốc. Nghe nói thuốc cảm đắt lắm, trong kia đồng bạc một viên, ngoài này có một hào. Thế là mua một lọ, hơn trăm bạc. Vào kia, không ai mua cả. Hoá ra lỗ.
Ông Hồ Đắc Di bảo chúng ta đã thực sự tổ chức được một tình trạng vô tổ chức thật toàn vẹn.
Ý Nhi:
– Con tôi 5 tuổi đã biết bảo: Hồi trước sướng, má nhỉ.
Sự kiện Ba Lan cuối tháng 7 đầu tháng 8. Bãi công, đòi những người cầm đầu Đảng & nhà nước phải dần dần từ chức hết, kể cả Bí thư thứ nhất.
Không manh động, nên quân đội Liên xô không dám làm gì. Đưa ra 21 yêu sách thì 20 yêu sách rưỡi phải chấp nhận ngay từ đầu.
Bài của ông Kania, dịch in trên báo Nhân Dân ngày 17-9, mở đầu bằng những câu rất hay: Trong suốt cuộc đời theo Đảng của mình chưa bao giờ tôi thấy tình hình đất nước bi đát và phức tạp như thế này.
Kania có một nhận thức rõ ràng, chính xác – dẫu sao, Đảng cũng chỉ là một bộ phận của dân tộc, Đảng không thể thông minh hơn dân tộc được.
Thực ra, toàn bộ tình hình Ba Lan cũng buộc người ta phải đặt vấn đề như vậy. Bản thân hành động tháng 7 vừa rồi, chứng tỏ giai cấp công nhân không chịu nhận Đảng làm giới hạn. Giai cấp công nhân còn thông minh hơn Đảng nhiều.

Giai thoại:
Việt Nam bị Liên hợp quốc đuổi. Nằn nì mãi, nó bắt phải khai lại lý lịch.
Họ và tên: An Nam, tức Việt Nam
– Nghề chuyên môn: đi ăn xin…
– Anh em: Campuchia và Lào nhưng đều vô nghề nghiệp
– Sở trường: đánh nhau
– Mức sống: thấp nhất thế giới.
… Nếu ở lại, xin tích cực đóng góp vào việc thảo nghị quyết.

Một tờ báo Pháp:
Nước Việt Nam luôn luôn nói theo chủ nghĩa xã hội nhưng họ lại hành động như chủ nghĩa đế quốc và sống như chủ nghĩa phong kiến.
Sinh ra trong nghèo đói, hiện nay đất nước đó lại đang hấp hối trong nghèo đói.

Ông tổng thư ký Liên hợp quốc họp báo ở Paris sau chuyến đi Việt Nam. Ở đây, khi lương người nhân viên bình thường, không mua nổi 2kg thịt 1 tháng thì không thể bàn về nhân quyền được. Miền Nam đó là một thuộc địa của Mỹ nhưng Hà Nội là một thành phố chuồng chim.
Nghề của tôi là đọc diễn văn và nhiều lúc tôi chán ngấy việc này. Nhưng ở Việt Nam, nhà cầm quyền được tiếng là kiên cường, không hề có việc gì khác, ngoài việc đọc diễn văn. Họ, trong lúc này, không biết lo cho dân họ việc gì cả. Trước đây ít ngày tôi từng phải tham gia một hội nghị chống di tản. Tôi không thích gì việc di tản. Nhưng đến Việt Nam lần này, tôi hiểu tại sao người ta di tản. Đó là cái cách duy nhất giúp cho người ta tồn tại. Tôi hiểu 25 vạn người Việt Nam đi được nước Mỹ trợ giúp. Tôi muốn người Mỹ làm việc đón tiếp tốt hơn để những người khác có thể tiếp tục di tản.



$pageOut$pageIn Chuyện đời sống Hà Nội 1980 (Kỳ 3)
by Vương Trí Nhàn
đã đăng trên Tiếng Dân ngày 28-2-2024

Hai cán bộ công đoàn Đức sang Việt Nam, vào TP.HCM, quay ra tới sân bay Nội Bài. Xe đi đón hỏng, nằm ở Gia Lâm chữa, bắt họ phải ngồi sân bay chờ mấy tiếng. Về Hà Nội họ chỉ kêu: Cho chúng tôi uống nước. Uống xong họ bỏ về khách sạn, không dự chiêu đãi.
Hai tàu thuỷ chạy đường Quảng Ninh, Hải Phòng, trốn sang Hồng Kông. Thuỷ thủ và công an thông đồng với nhau. Nhiều hành khách bất ngờ được di tản với giá vé 1,2 đồng.
Trận bão số 6 năm 1980 ở Thanh Hoá, sáu huyện bị lụt, nhà cửa mất 80%. Một cái cầu nhỏ, cầu Tào Xuyên, bị nước đe doạ. Người ta phải cho cả một toa tàu chở đá đến để giữ cầu.
Đột xuất kiểm tra xe ô tô Hà Nội – Hải Dương, khoảng 50 vé, thì 17 vé do nhà xe tuồn ra ngoài, bán lãi 15 đồng một vé.
Trần Ninh Hồ được chia nhà, do quen một người cùng làng, làm ở Sở nhà đất Sài Gòn. Tết cả nhà mình đến bỏ bom nhà nó, Trần Ninh Hồ cắt nghĩa.
Ông Ma Văn Kháng đi nhà máy dệt Nam Định về kể: 13.000 công nhân, 1.000 người ăn cắp. Ra cửa, khám nhau như thời Pháp.
Mỗi người chỉ lấy ngày một hay hai con sợi cũng đủ chết. Cái đau nhất là một chiến sĩ thi đua 7 năm liền, giờ ăn cắp. Phải bù cho công nhân bằng cách bán vải bù cho họ, 5 đồng độ 20 mét vải, họ bán ra ngoài./> Mới đầu chủ trương ai ăn cắp và nghỉ bừa, không được mua kiểu đó. Sau họ chỉ đề nghị: Tha cho người nghỉ bừa. Lý do vỡ trận như vậy: Trả lương quá thấp. Vải làm ra, tiền lãi nhiều, lương chỉ đáng vài phần trăm, y như thời Pháp.

Nghe kể, Tỉnh ủy Hà Nam Ninh đánh nhau. Bí thư Tỉnh đi vào Lâm Đồng thăm khu kinh tế, mang theo ba vạn đồng tiền mặt, vài tấn đường, rất nhiều giò, thịt. Phó bí thư đi viện. Ở nhà, ban thường vụ tỉnh uỷ ăn cánh với nhau, cách chức một lúc 11 trưởng ty, gọi đến đàng hoàng, bảo, anh bàn giao (phe Ninh Bình đánh đổ phe Nam Hà); cả chủ tịch tỉnh, tay Soạn, mới lên 13 ngày, cũng phải đi Campuchia.

Thủ tướng Triệu Tử Dương: Có thể sẽ phối hợp sự phát triển kinh tế với sự nghiêm khắc về chính trị, theo kiểu Đài Loan, Nam Triều Tiên.

Ngày 10/10

Đâu cũng thấy tin đồn nhóm diễn viên Vân Khánh trốn đi nước ngoài. Họ lấy cớ đi biểu diễn, xuống Quảng Ninh rồi đi.
Trước đó, hai vợ chồng Vân Khánh giả vờ ly dị. Đến khoản chia gia tài, họ bảo: Thôi, để bán đi, lấy tiền chia cho tiện. Có tiền, họ giải quyết được việc đi khá dễ.
Nghe nói một sinh viên ta từ Liên xô đi tham dự cuộc thi toán quốc tế ở Anh, trốn vào đại sứ quán Anh./> Có người thông cảm: Thôi ai thoát được, may người ấy.
Một bài báo của Tây Đức về Việt Nam có cái tít nhỏ: Một dân tộc lêu lổng.
Một bộ phim của Thuỵ Điển chiếu cho quốc hội của họ hồi trước, đã có nhan đề: Một dân tộc không thể cộng tác. Nay lại có một phim khác mang tên: Một dân tộc không thể khôi phục.

Ông Lê Văn Lương – thường trực ban bí thư – đến hội nghị mừng công của nhà máy sản xuất quạt.
– Các đồng chí có nói thiếu điện và thiếu nguyên vật liệu. Về điện, tôi không biết nói thế nào. Tất cả cười. Ông nghỉ một lúc. Còn về nguyên liệu, các đồng chí chịu khó chạy lấy.
Ma Văn Kháng bảo, y như một ông nông dân.

Những việc liên quan kỷ niệm Nguyễn Trãi.
Ông Võ Nguyên Gíáp nói về Nguyễn Trãi, y như nói về cụ Hồ. Đoạn nói Nguyễn Trãi là nhà văn hoá, chỉ gợi ra được một chuyện Nguyễn Trãi làm văn.

Chọn nhầm ảnh: Nhân viên đưa ra một ảnh hơi mờ. Ông Hoàng Tùng bảo bên Hà Nội mới nói, có cái ảnh rõ lắm, sang lấy về in. Hóa ra ảnh Phan Thanh Giản. Báo phải xin lỗi và gọi chệch là ảnh Dương Khuê. Vì mình xưa nay vẫn ghét Phan Thanh Giản mà.

Một tay tâm thần ở chợ Hôm, cầm dao chém đứt đầu đâu 5, 6 người, bị thương nhiều người khác. Hắn cầm dao đi qua nhiều phố. Cho nên người ta tưởng là có nhiều kẻ đi chém bậy, lại đổ đi lùng một hồi.

Béc-linh-gơ (ĐCS Ý) (1) – Theo tài liệu tham khảo đặc biệt.
Trường hợp Tiệp Khắc – Liên Xô, bỏ qua cơ hội thí nghiệm mở rộng dân chủ trong nội bộ các nước XHCN.
Trong chính trị, không có bản chất với hiện tượng gì. Những điều gì chưa xảy ra thì sẽ xảy ra, đang xảy ra.
Từ nay, ĐCS Ý rút bỏ danh từ chủ nghĩa Mác – Lê. Đảng chỉ thừa nhận lý tưởng và truyền thống văn hoá bắt nguồn từ tư tưởng Mác – Ăng ghen và được đổi mới nhờ các tư tưởng của Lê-nin.
Cái có thể học ở Mỹ là cách làm ăn có hiệu quả, óc mạo hiểm, một khả năng học tập cực lớn.
Nước Mỹ tiến một bước dài trong việc không còn đơn thuần coi triết học như một khoa học nhân văn nữa.
Các nước cộng sản không chỉ là cộng sản. Đó là những quốc gia với những sự xung đột nhau về quyền lợi, những sự kình địch nhau, thù oán nhau, những cách đào tạo về ý thức hệ và những sự cuồng tín riêng.

Giáo hoàng: “Hãy coi chừng nếu tiếp tục sản xuất vũ khí thì rồi cuối cùng, người ta sẽ đem dùng nó đấy”.

Chuyện thất thu:
– Thất thu ở khâu vận tải hành khách trong thành phố khoảng 30%.
– Thất thu ở khâu nhà đất. Nhiều người không nộp tiền nhà. Từ khâu cho ở, đến khâu có hợp đồng, có khi hàng năm.

Đối đáp trên đường:
– Chị làm em mải nhìn, đâm cả vào xe người ta đây này.
– Mày có mê mớ rau muống của tao thì có!

Một người vào nhà Hồng. Bố mẹ Hồng đi vắng. Anh ta chỉ đứng ngoài cửa.
– Thôi, cứ đứng đây cũng được. Vào, cháu nó lại phải trông nhà, phiền ra.

Ngày 27/11

Gạo lên 13 đồng một cân (giải thích – do lương cán bộ vừa được thêm phần phụ trợ). Guốc mỗi đôi lên một đồng. Bác Hòa hàng xóm Thụy Khuê giữ trẻ 70 đồng một tháng.
Ông ngoại cháu Tú kể mỗi sáng mở mắt dậy lại sợ. Đường đường là một ông chủ nhiệm Hậu cần Quân khu muốn gì có nấy, nay về hưu phải trông hai cháu, trong đó có một cháu nhỏ 4 tháng. Lo cho nó từ chai sữa, múi cam.

Hai cán bộ công đoàn Đức sang Việt Nam, vào TP.HCM, quay ra tới sân bay Nội Bài. Xe đi đón hỏng, nằm ở Gia Lâm chữa, bắt họ phải ngồi sân bay chờ mấy tiếng. Về Hà Nội họ chỉ kêu: Cho chúng tôi uống nước. Uống xong họ bỏ về khách sạn, không dự chiêu đãi.

Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ tư, đến ngày cuối cùng vẫn chưa biết ai sẽ làm chính khóa tới. Bọn tổ chức phải làm danh sách, nếu ông Đặng Quốc Bảo tiếp tục, cánh này sẽ làm; nếu người mới cánh kia sẽ làm.
Đại hội chính thức 3 ngày, nếu cả trù bị đâu một tuần. Trở về mỗi đại biểu được: Một bộ quần áo comple, một vali rất nhiều sổ sách.
Trung ương Hội phụ nữ cho mấy chục ngàn. Tổng công đoàn cho 30 ngàn. Quân đội cho một triệu. Thả nào có tiết mục ông Văn Tiến Dũng đến trao cờ cho ông Đặng Quốc Bảo.

Ngày 4/12

Từ khoảng tháng 10 (hay 11), vụ Đặng Thái Sơn nổi lên mạnh mẽ. Dân ai người ta cũng thích, thích hơn cả vụ Phạm Tuân. Có lẽ vì Phạm Tuân là chuyện Tây nó cho, mà đây là tài thật.
Một kiểu nói dân gian: “Chó nó cũng lên vũ trụ được, nữa là người”.
Nhiều người coi hiện tượng Đặng Thái Sơn là tài năng âm nhạc của dân tộc. Bằng Việt bảo, hình như âm nhạc, ta còn có Trần Văn Khê, Nguyễn Thiên Đạo, chứ mọi thứ khác có gì.
Khi nói về các khu vực văn học hay điện ảnh, mình cứ bốc nhau lên, chứ có đâu vào đâu. Còn khu vực âm nhạc mình bị bắt buộc phải theo Tây, cho nên dễ nên người hơn.
Theo Bằng Việt, nghe tiếng nhạc của Đặng Thái Sơn, thấy rõ một người rất tự tin. Và có cái chất riêng của tuổi trẻ. Nó cũng được tới trình độ của những Ginzburg, Oborin, Kogan đấy.
Tôi nhớ hồi mình 20, 22 tuổi. Hình như vào tuổi ấy, con người cảm thấy mình có thể làm được đủ mọi chuyện, chỉ hích một cái, là cả thế giới đổi thay theo (!). Bây giờ thì mất cái đó rồi, chỉ còn lo kiếm sống. Sự khiếp nhược đến quá sớm.
Từ lâu, đã nghe những chuyện xì xào chung quanh Đặng Thái Sơn. Ra có những chuyện xưa nay giấu. Sơn là con ông Đặng Đình Hưng, cho nên lúc được trường nhạc bên Liên Xô nhận, vẫn không được đi. Sau, bà Liên, mẹ Sơn phải lên nói với ông Đồng mới xong. Đến kỳ thi bên Ba Lan, Sơn cũng chưa được chú ý gì. Ở Liên Xô điện về nhà cho đi, Bộ Ngoại giao và Bộ Văn hóa bảo không có tiền.
Sau, ông Natason, thầy giáo của Sơn bảo rằng, nếu không, ông ta bỏ tiền riêng cho Sơn đi. Bên nhà phải đồng ý vậy. Ở Ba Lan, Sơn cũng sống rất khổ.
Người khác đi thi còn có cả gia đình đi theo. Sơn chỉ có một mình. Đến lúc vào kỳ ba, Sơn thiếu cả quần áo đàng hoàng. “Nước mày sao khinh rẻ tài năng vậy”, bà giữ cửa khách sạn bảo vậy.
Vả chăng vấn để bảo vệ người cũng rất quan trọng. Ở một kỳ thi như thế này, trên thế giới, nó hại nhau là chuyện thường. Bà ta phải dặn Sơn l,à nhớ gõ cửa như thế nào mới mở cửa… Để tránh kẻ lạ v.v…
Trần Vũ Mai bảo, căn bản là trong Chopin với tay Sơn này có những khía cạnh rất gần nhau. Gần là ở chỗ nào? Nước mình thường bảo mình anh hùng, nhưng căn bản là đau khổ ghê gớm chứ gì? Đây là chỗ làm cho Sơn gần Chopin đấy. Một thằng thanh niên ở Mỹ, sống sung sướng giàu có, làm sao hiểu được Chopin.

Mỡ lên 40đ một cân. Ở Hàng Lược có đám cưới lo cho con gái 20.000đ (Riêng cho con 10.000đ để mua nhà). Mỗi bánh pháo 2,5m.

Cậu Cường gửi cho ông ngoại 100 khăn mặt, mỗi cái bán được hơn mười đồng (bán buôn, bán lẻ có thể 12 đồng).

Ông Kiên, một cán bộ Đoàn cũ, cho rằng, hiện nay ai cũng nhất trí ở chỗ là thanh niên có vấn đề. Thanh niên nó đang lảng ra, không gắn bó với Đảng – Nhà nước gì cả. Nó mê tín rất ghê. Tưởng là nó đùa chơi, nên mặc kệ. Hoá ra nó tin thật. Đang có sự khủng hoảng trên phạm vi toàn xã hội.

Khai tem phiếu 1981: 20 cột mục.

Báo cáo ông Trường Chinh tại kỳ họp Quốc hội 12 đại ý nói, đất nước tuy thống nhất nhưng hai miền vẫn khác nhau. Dân ta không có thói quen tôn trọng pháp luật.
Những đứa trẻ trên đường Hà Nội lấy một cái chổi cùn, đốt lên để sưởi, nhưng reo ầm lên ô–lanh-pích (2), ngọn lửa ô-lanh-pích.
Một chiếc xe đạp phóng bạt tử qua ngã tư. Lúc tôi nhìn theo, thấy một cô gái, đầu để đôi bím kiểu 1960, nhưng mặc quần loe, xách cái túi lưới thưa, trong có tờ tạp chí Xây dựng Đảng.

Tạp chí Kinh tế Viễn Đông 7/12/80 viết: Kinh nghiệm của các nước cộng sản cho thấy nạn tham nhũng khó mà thanh toán nếu không phải là không thể thanh toán được; và theo ý kiến của một số nhà khoa học thì tệ đó thực sự là cần thiết để cho toàn bộ xã hội khỏi bị chế độ quan liêu của bản thân nó bóp nghẹt.

Sự khốn khó của kiếp người.
Cách đây mấy tháng, ở chợ Hôm có một vụ đốt nhà giết người. Hai người hàng xóm ở cùng nhau, cùng là dân phe. A. đổ xăng ra nhà, đốt, cho B. chết + với cả chồng, con + 1 đứa con trong bụng = 4 người.
Người ta ồn lên vì nỗi giết người. Toà xử tử hình. Nhưng tất cả người đi dự phiên tòa xin phạt nhẹ hơn. Ai cũng thương khóc.
A. là một người con gái khoảng 20 tuổi. Người nông thôn, nhưng vì gia đình mẹ chết, bố đi lấy vợ, nên bỏ lên Hà Nội.
Lấy người chồng bây giờ là lấy lẽ. Chồng hiện thời đi cải tạo lao động ở đâu rất xa. Chị ta phải tần tảo nuôi mẹ chồng, nuôi con. Người rất tử tế. Trong khi đó, vẫn là tạm trú ở Hà Nội, vẫn không có hộ tịch.
Đối thủ của chị ta cũng trẻ như chị, cũng dân phe phẩy. Nhưng mụ rất ác. Mụ từng bắt chồng ngồi yên để đánh. Gửi con ở nhà mẹ đẻ, có chút gì đó phải lôi về, mụ riếc móc: Phen này thì ngồi đấy mà há mồm.
Hai nhà đã chửi nhau đánh nhau nhiều phen. Trong phiên toà, A. kể, có những lần đánh nhau, mụ B. cắn đứt đầu vú chị ta. Trông thấy, ai cũng rùng mình.
Bởi vậy, A. nghĩ nếu không giết nó, nó cũng giết mình chết.
Lúc A. đi lùng mua xăng, một ý nghĩ loé ra. Đốt cho nó chết, rồi mình cũng đâm đầu vào đấy chết luôn thể.
Nhưng hỏi mãi, chẳng thấy đâu có bán xăng. May có một người khuyên đến phố Huế, đâu 2,5 đồng một lít.
A. giục mẹ ẵm con đi, một mình ở nhà hành sự. Để thùng xăng cạnh cửa, giả vờ làm cháy cái gì đó, B. chạy ra, ẩy cửa, xăng đổ tung toé. Lửa thiêu chết cả mấy người.
A. thấy cái chết, sợ quá bỏ trốn.
Sáng sớm, ra bến ô tô về quê, có mấy gã con trai tưởng ả là gái làm tiền, trêu, ả bảo, đừng có trêu tao, tao vừa đốt nhà thiêu chết người đây. Công an nghe tiếng bắt lại.
Ra toà, A. chỉ bảo:
– Tôi xin nhận tội chết. Chỉ xin cho con tôi bú một lần cuối cùng.

Sao mà có hơi hướng Dostoievski quá. Xã hội xấu, đẩy người ta vào vòng tội ác. Trần Vũ Mai bảo, chính người tốt người ta mới hay phẫn trước mọi việc bất công và sinh ra làm liều.

Thư làm nhà in kể:
– Em ngày làm cho nhà nước tối thiểu 200, được lĩnh có 1,5 đồng. Một ông khác tính làm ra vài vạn, được lĩnh có 2.000 (một năm). Tham ô ăn cắp kinh khủng. Có thằng thông đồng với bảo vệ, ngày mang ra hàng cân báo (nếu in báo). Hiện nay, thằng nào lấy đến 4 tờ cũng bị bắt. (Giá ngoài, như chị Yên mua, để nhuộm là 4 hào một tờ).

Đọc ở đâu đó “Tôn giáo là một nhân tố góp phần ổn định hoàn cảnh. Sự ổn định này tức là văn hoá”.

_____
Ghi chú của Tiếng Dân:
(1) Béc-linh-gơ: Có lẽ là nhân vật Enrico Berlinguer (1922-1984), Tổng bí thư đảng Cộng sản Italy, nhiệm kỳ 1972-1984.
(2) Ô-lanh-pích: Olympic


Một nước Nhật quá xa xôi!

by Vương Trí Nhàn
đã đăng trên vanhoanghean Thứ 2 24/02/2014


Cộng với những hiểu biết vốn có từ trước năm ngày du lịch bụi ngắn ngủi, đủ để tôi cảm thấy xã hội Nhật, người Nhật là cả một hình ảnh đảo ngược của xã hội Việt, người Việt.

8 - 6 -2013
Xuất phát từ Hà Nội, sau một chuyến bay đêm hơn bốn tiếng đồng hồ, chúng tôi bắt đầu một ngày mới trên chiếc xe từ sân bay Narita về Tokyo. Không khí dịu mát như một ngày cuối thu đầu đông ở đồng bằng sông Hồng, song cái lạnh ở đây lại có khí vị vùng biển bắc, cái cảm giác mà tôi cảm nhận khi đến Leningrad vào năm 1988.
Nhìn chung quanh, thấy khung cảnh thoáng rộng sạch sẽ, cây cối đạm bạc. Ghé lại một trạm bên đường để xe mua xăng, bắt gặp không khí của nước Nhật bình thường, người nào người nấy chăm chú vào công việc.
Có cái lạ là, khi đến Tokyo, tôi cũng lại gặp một khung cảnh vắng lặng như vậy. Không những trên đường người đi bộ thưa thớt mà cả ô tô đi lại cũng ít. Trong khi đó, lại biết rằng Tokyo có đến 20 triệu dân và hàng ngày có đến 40 triệu người lai vãng. Nơi tôi tới chỉ là ngoại ô chăng? Thành phố chính ở đâu? Như đã đoán được thắc mắc của tôi, người hướng dẫn du lịch sớm giải thích, đây chỉ là phần trên mặt đất, còn trong lòng đất có đến bốn thành phố nữa. Ở đó cũng có giao thông, xe điện ngầm, những phố buôn bán; ở đó mặc dù rất đông, nhưng rất trật tự.

Ngày đầu xa lạ
Địa điểm đầu tiên chúng tôi đến tham quan là phía ngoài hoàng cung Nhật. Cũng như mọi người dân nội địa, chúng tôi không được vào tham cung điện chính của hoàng gia, chỉ được đứng và quan sát từ xa và nghe người giới thiệu kể chuyện lại về một cuộc sống rất khổ hạnh của những người sống trong cung điện đó.
Người Nhật quen chấp nhận tình trạng cách ly này bởi họ hiểu những người sống trong hoàng cung phải nhận vai hình mẫu của nước Nhật, có nghĩa phải chịu rất nhiều áp lực. Có những người con gái trong đó cảm thấy thật nhẹ nhõm nếu lấy được người chồng dân thường, ra khỏi hoàng cung, để được sống như mọi người bình thường.
Buổi chiều chúng tôi đến thăm ngôi nhà của Tòa thị chính, ở đây có tháp truyền hình cũ, từ đó có thể nhìn ra cả Tokyo.
Có điều mất vui là ngay trong buổi chiều đầu tiên này, đoàn du lịch chúng tôi đã có một người bỏ trốn. Khi cả đoàn lên tháp rồi lần lượt xuống dần thì anh ta lẩn mất. Sau mới biết, từ Hà Nội anh ta đã chuẩn bị để làm việc này. Cái ba lô còn lại trên xe ô tô của anh nhẹ tênh. Theo sự giải thích của người hướng dẫn, có lẽ đây là một người Việt được bố trí sang Nhật để trộm cắp thuê. Dân Việt có hộ chiếu bên đó, khi phát hiện ăn cắp thì sẽ bị trục xuất khỏi nước Nhật. Nên họ phải thuê những người trong nước sang làm chân rết. Người này có bị tống về thì cũng không mất đầu mối.

Trong lúc vẩn vơ chờ làm các thủ tục, khoảng hơn một tiếng đồng hồ, tôi nhìn quanh khu Tòa thị chính, thấy một không khí vắng vẻ. Nhớ nhất là hình ảnh một cô gái dắt hai con chó đi đường. Cô chăm sóc chúng hết sức cẩn thận. Khi chúng đói lấy thức ăn và theo dõi chúng ăn, bình thản chờ đợi như bà mẹ đang đi chơi với những đứa con thân yêu của mình.

Tâm thế mới của phụ nữ Nhật
Để giải tỏa nỗi chán chường của bọn tôi, người hướng dẫn giới thiệu một tình thế của người dân Nhật mà trước kia chúng tôi không thể tưởng tượng nổi.
Anh cho biết , hiện nay ở nước Nhật có đến 62% người sống độc thân. Nếu nhìn trên đường, chúng ta luôn thấy những người đàn ông chăm chú nhìn về phía trước. Họ buồn, như là một thứ nhân vật phụ của cuộc đời. Còn chính phụ nữ mới là những người đầy sức sống và thách thức.
Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật --từ nhỏ, đã được nghe câu nói ghi nhận sự tận tụy của người phụ nữ Nhật với gia đình.
Sau chiến tranh, khi nước Nhật bắt tay khôi phục kinh tế, người đàn ông tập trung vào công việc của mình và ít khi về nhà trước 7h tối. Mọi việc liên quan tới gia đình và con cái đặt cả lên vai vào người đàn bà. Họ tự nguyện làm như thế cả đời.
Hôm nay đây tôi còn chứng kiến cảnh một đôi ông bà già trên đường; khi tới chỗ nghỉ, người phụ nữ rút chiếc khăn mù xoa trong túi ra mời chồng mình ngồi.
Nay mẫu phụ nữ loại đó chỉ còn thưa thớt.
Bề ngoài người phụ nữ Nhật không tự biểu hiện lộ liễu như người Việt. Màu sắc phần lớn trang phục là màu trắng, màu xám và màu đen. Như đang tự giấu mình đi. Không ai tô son, trát phấn… Nhưng cuộc sống bên trong thì, theo anh hướng dẫn viên, thực sự nồng nhiệt. Khoảng mươi, mười lăm năm gần đây, phụ nữ Nhật nổi loạn, nhiều người không lấy chồng vì không thích phụ thuộc vào gia đình chồng và rất tự lập trong đời sống riêng tư.
Ở Nhật, đời sống tình dục được coi bình thường như cơm ăn nước uống và phụ nữ có phố đèn đỏ của mình. Ở đó, đối tác của họ là những thanh niên mới lớn và lấy việc thỏa mãn nhu cầu phụ nữ làm nghề phụ. Người ta có cách giữ bí mật cho cả hai bên.
Trong túi đàn bà, từ em thanh nữ mới lớn đến đám sồn sồn tuổi trung niên luôn có ca-pốt. Và họ chủ động tìm tới những đối tượng để có thể thỏa mãn những khát khao bất chợt nhưng chính đáng.
Trong các món quà trao nhau nhân ngày lễ tết, chính phụ nữ là màu nóng, còn nam giới được tượng trưng bởi màu lạnh.

9 – 6

Niềm vui với những công việc bình thường
và tính tự lập được rèn từ nhỏ


Buổi sáng chủ nhật, bọn tôi đến khi vui chơi Disney Land nổi tiếng. Ấn tượng lớn nhất, vẫn là những người phụ nữ làm công việc như hướng dẫn người đi tham quan và bảo vệ trật tự chung quanh đó. Những công việc có vẻ tẻ nhạt như thế được người Nhật làm với tất cả niềm vui và sự háo hức khiến người Việt chúng ta gần như không thể hiểu nổi. Đứng bên cạnh những đoàn xe lửa làm theo lối cổ, các nhân viênphục vụ không những ân cần giúp đỡ cho người lên xe, mà còn tình cảm vẫy chào khách lên đường, rồi lại hào hứng đón khách xuống khi hết vòng quay.
Người hướng dẫn du lịch giải thích thêm với chúng tôi, người Nhật rất nghiêm túc trong việc công. Tất cả công chức đi làm đều mặc Âu phục. Với họ, làm công chức không phải chỉ để kiếm tiền mà để phục vụ xã hội, việc làm hợp đạo nghĩa làm người.
Một ấn tượng khác, là trẻ con trên nước Nhật rất ngoan và quen tự lập. Trên đường mỗi trẻ có túi thức ăn riêng, tự lấy thức ăn khi muốn. Thông thường các em đi theo người lớn rất đàng hoàng. Một ngày ở công viên không nghe tiếng khóc nào của bọn trẻ.
Người Nhật có tinh thần tự trọng cao độ. Trong hoàn cảnh nghèo khó, ít khi chấp nhận sự giúp đỡ của người khác mà làm được cái gì thì hưởng cái đó. Điều đó được rèn từ nhỏ. Ở trường nuôi dạy trẻ, từ lúc biết bò, đứa trẻ đã phải tự bò đến bàn thức ăn để lấy thức ăn. Ở lớp lớn hơn, đứa trẻ tự gấp lấy quần áo và lo giữ vệ sinh.

Từ chuyện giao thông tới chuyện pháp luật

Đã hơn chục lần đi theo các đoàn du lịch nước ngoài, tôi thấy trên xe thường người Việt Nam chỉ hay pha trò đùa bỡn, trêu chọc nhau, bàn chuyện ăn uống, nói tục. Đa số người mình đi du lịch để làm dáng, để tiêu tiền, không mấy ai tính chuyện đi để hiểu biết về xứ sở mà mình đặt chân tới. Những người hướng dẫn du lịch Trung quốc chẳng hạn, rất hiểu cái sự tầm thường đó. Trên xe, thể theo yêu cầu của người mình, họ nói những chuyện trong thâm cung bí sử, nhưng toàn thứ vụn vặt gây tò mò. Nói chung trình độ những người hướng dẫn cho các đoàn VN ở các nước gần ta rất thấp. Người có chí chắc đi học tiếng Anh tiếng Đức chứ chả ai chịu học tiếng Việt làm việc với các đoàn Việt. May mắn lần này chúng tôi gặp người hướng dẫn khác hẳn. Anh cũng là người Việt. Sang Nhật học, sau đó nhập quốc tịch Nhật và đưa cả vợ con sang đó. Trong những lúc rỗi trên xe, anh Đức (tôi không biết họ, chỉ nhớ tên) giới thiệu với chúng tôi rất nhiều về đặc sắc của nước Nhật, và điều đó rất cần thiết với những người từ Việt Nam tới.
Ví dụ có lần anh nói về chuyện giao thông trên đường.
Chúng ta biết rằng người Nhật đi lại rất từ tốn và người ta nhường đường nhau khi có việc cần tranh chấp. Trong câu chuyện của mình, anh Đức có lưu ý thêm một điều. Luật pháp được soạn thảo rất tỉ mỉ và nói cho cùng là rất nhân bản. Một mặt nhà nước bố trí cảnh sát theo dõi tốc độ của xe trên đường, nhưng mặt khác, họ cho phép các nhà sản xuất cung cấp cho lái xe các thiết bị cần thiết có khả năng cho biết chỗ nào cảnh sát giao thông đứng bắn tốc độ, để tự động điều chỉnh lại. Tức là người làm luật muốn bảo vệ quyền được đi nhanh hơn của xe cộ trong hoàn cảnh cho phép.
Sự áp đặt luật pháp của những người cầm quyền ở đây cũng là rất mềm dẻo.
Khi có người lái xe phạm lỗi, cảnh sát, từ lúc yêu cầu giữ lại đến lúc lên xe để đặt vấn đề phạt, đều có thái độ lịch sự tôn trọng đối tác, tìm cách thân thiện bàn bạc, chứ không phải một chiều hạch sách rồi muốn bắt người ta thế nào cũng được. Khi không thống nhất được với nhau, họ để dành quyền phán xét cho tòa án,-- cố nhiên đó không phải loại tòa án bao giờ cũng nhăm nhăm bênh cảnh sát như người nước mình. Danh tính của những người bị phạt không bao giờ bị làm lộ.
Tôi cho đó mới là sự tôn trọng, sự khuyến khích người dân sống và làm theo luật pháp một cách hữu hiệu.

Pháp luật -- một bên nặng về răn đe trừng trị
và một bên biết “cận nhân tình”

Có lần đọc cuốn Đông Á – Đông Nam Á - Những vấn đề lịch sử và hiện tại (nxb Thế giới, 2004), thấy ông Vũ Minh Giang (Đại học Quốc gia Hà Nội) nói tới những điểm tương đồng trong tổ chức nhà nước của Việt Nam và Nhật Bản có nhấn mạnh cả hai bên đều chú trọng pháp luật (sách trên tr. 62).
Hôm nay nhớ đến đoạn này bỗng thấy phì cười. Vì sự thật trong khi ở nước người, chính quyền hết sức tôn trọng và đặt mình vào trong pháp luật thì ở mình, pháp luật được soạn ra để áp dụng với dân, chứ nhân viên công quyền đều hiểu ngầm rằng mình là người đứng ngoài. Mà người dân cũng vậy, thấy pháp luật là chuyện phiền phức, song mặc nhiên chấp nhận, lại còn tìm thấy niềm vui trong việc làm ngược pháp luật. Trừng phạt răn đe nặng nề đến độ dã man được xem như một sự cần thiết.
Để hiểu tính mềm dẻo mà chặt chẽ của pháp luật ở Nhật Bản, hãy trở lại câu chuyện về nhu cầu phụ nữ, phố đèn đỏ, mua dâm và bán dâm. Một mặt theo phong tục tập quán cổ, luật nước Nhật cấm tất cả sự tiếp xúc nam nữ ở dạng trần trụi. Thế nhưng đồng thời họ vẫn thấy con người Nhật Bản đã thay đổi, nên các nghị sĩ khi làm luật đã nghĩ ra cách để bảo vệ sự tiếp xúc này, không để dân bị ràng buộc vào luật một cách máy móc. Ví dụ như họ sẽ phạt nếu một trong hai bên không có vật lạ trong người khi tiếp xúc. Mà vật lạ này hiểu theo nghĩa rất rộng, nếu phụ nữ có một vòng đeo tay hoặc người đàn ông có một cái răng giả thì tức là đã không phạm luật. Thế thì còn phạt được ai nữa? Những điều này, theo tôi rất nhân đạo. Còn thuần túy truy bức như ở ta là bất cận nhân tình và sẽ sinh ra gian dối.

Các cửa hàng đồ cũ và thói quen cộng tác trong mọi việc

Nhân khi vào cửa hàng đồ cũ, anh Đức giới thiệu cho chúng tôi biết ở Nhật, loại hàng này có cả một hệ thống phân phối. Những năm 70 – 80 người dân bình thường có thói quen thải loại đồ cũ ra theo hình thức rác và người Việt Nam sang nhặt mang những đồ cũ đó đem về trong nước. Nay họ có ý thức thu gom và phân phối lại. Nhân đây, anh Đức kể về việc tổ chức làm ăn ở xứ này. Là khi có một công việc hợp lí thì nó cũng được phổ biến khắp nước Nhật. Những người cùng ý tưởng tự tổ chức thành những công ty, không có người nào đứng ngoài công ty đó mà có thể cạnh tranh với họ được. Người Việt mình dành được miếng mồi thì ăn lẻ, không ai cộng tác được với nhau, mà chỉ dìm dập nhau, phá nhau. Ở Nhật, nếu một người có sáng kiến chung thì sẽ đưa ra để phục vụ lợi ích chung.

10 – 6

Chung quanh núi Phú Sĩ

Tối hôm qua, ngủ đêm tại khách sạn thuộc khu Hà Khẩu Hồ (tôi đọc theo âm Hán Việt) thuộc khu vực núi Phú Sỹ, chúng tôi có cảm tưởng như lạc vào gia đình người Nhật. Ăn một bữa cơm theo kiểu gia đình người Nhật vẫn ăn. Xong, được bố trí đến khu vực tắm. Nam chung một bên, nữ một bên, nhưng đã xuống tắm phải bỏ hết quần áo. Đêm, được bố trí ngủ lại căn phòng như của người Nhật. Việc xâm nhập sâu vào phong tục ăn ở như thế trong những lần đi các chuyến khác, bọn tôi không có dịp thực hiện.
Sáng dậy, đi quanh hồ, tôi chợt nhận ra rằng nhà cửa ở đây cũng nhô ra thụt vào mà không có lớp lang trật tự như mạn Giang Nam bên Trung Quốc. Vườn hoa ở các gia đình hay các công sở không nổi bật lên vẻ rực rỡ mà trông hơi có vẻ khổ hạnh và chỉ gợi chú ý bởi lùm cây hoặc một tảng đá nào đấy. Tất cả khu vườn quy tụ chung quanh vào vật trung tâm đó. Ngoài ra cây cỏ trong vườn thì kém, cỏ mọc rườm rà, thiếu một sự xử lý công phu. Các công viên chỉ lo tạo ra sự kì bí mà tảng đá có vai trò vật chủ và mối liên hệ giữa đá và cây là nhân tố chính gợi nên một vẻ đẹp.
Ngồi xe lên núi. Các tài liệu du lịch đều nói rằng Phú Sĩ là biểu tượng của đất nước mặt trời mọc. Trước khi lên đến trạm 5 ở độ cao 2000m, chúng tôi phải vượt qua hàng chục cây số rừng. Nhưng khi đến nơi, ngôi miếu trên trạm 5 đó khá đơn sơ. Nói chung, chùa chiền của Nhật không hào nhoáng, lộng lẫy như đền chùa của Trung Quốc. Thu hút du khách nhất là việc đứng ở đấy chiêm ngưỡng cả ngọn núi trong tuyết phủ.
Đối với người Nhật, núi Phú Sỹ là biểu tượng cao nhất của sự thiêng liêng. Người ta theo dõi để không ai có thể lấy đi hòn đất nào chung quanh núi. Đã có những khách nước ngoài đến, định lấy những hòn đất đi và đều bị phát hiện.
Chung quanh núi là khu vực huyền bí, người ta nói có những người Nhật đã đến đây để sống những ngày cuối đời, tức là tự tử ngay trong khu rừng trùng điệp mà mãi về sau người ta mới phát hiện ra. Số người này đang tăng hàng năm.

Ấn tượng sau nửa ngày ròng ngồi ô tô

Từ giã Phú Sỹ, bọn tôi tới Owakudani, nơi có vết tích của miệng núi lửa phun trào cách cây 3000 năm. Sau đó, là chặng đường dài tới Nakoné và Nagoda.
Trước lúc qua Nhật, một người quen cũ đã nói rằng, do du lịch bụi, chắc là bọn tôi không có điều kiện để sử dụng những phương tiện hiện đại nhất như tàu cao tốc và phải di chuyển từ địa điểm nọ đến địa điểm kia bằng ô tô. Ông nói điều đó với sự ái ngại vì ở Nhật số người di chuyển bằng ô tô rất ít. Nhưng đối với tôi, cảm tưởng là được ngồi ô tô đi trên những con đường nhựa nhẵn bóng và hiện đại của nước Nhật cũng đã sung sướng lắm. Nữa là, sau một buổi chiều như thế, lại có may mắn gần như được nhìn gần vào một nước Nhật và hiểu thêm điều người ta hay nói “Xứ này nghèo về tài nguyên và chỉ có một thiên nhiên khắc khổ, nhưng đã chinh phục được thiên nhiên khắc khổ đó để trở thành một xứ giàu có.”

Nhìn một hai ngôi nhà lắt lẻo giữa một triền núi xa, tôi hỏi Đức họ sống ra sao thì được trả lời:
-- Một gia đình Nhật định cư ở đâu thì chính phủ Nhật có trách nhiệm làm đường tới đó, bảo đảm hàng hóa lưu thông tới đó để họ có thể sống bình đẳng với mọi người.
Có một chuyện mà ở nhà tôi đã biết nhưng chưa thấy hết ý nghĩa của nó, đó là việc người Nhật không khai thác tất cả những rừng cây và vùng mỏ cũng khá giàu có của mình. Tất cả những đồ gỗ ở đây đều nhập từ nguồn lâm sản nước ngoài, cũng như các khoáng sản cần thiết cho công nghiệp của họ. Đối chiếu với cách nghĩ Việt Nam, kể ra đây cũng là một sự lạ. Và lạ hơn hết là người Việt chúng ta còn cho chuyện tàn phá tài sản thiên nhiên là chuyện thường, không bán hết đi thì lấy gì mà ăn.

Nông thôn đô thị chung một mặt bằng

Lúc này trước mắt du khách không còn là một nước Nhật của các cao ốc và các khu đô thị thoáng đãng. Vùng đất nằm rải rác giữa núi non và bãi biển không có gì là hấp dẫn và mĩ lệ như các vùng biển của Việt Nam mình. Nhưng ở bất cứ nơi nào có điều kiện thì người nông dân Nhật vẫn cần cù sản xuất. Cảm giác còn lại trong tôi là một nước Nhật giống như một mặt bằng, giữa nông thôn và thành thị gần như không có sự chênh lệch. Nay, là thời, theo Đức kể, người nông dân Nhật làm ruộng bằng cách đi thuê các xí nghiệp nông nghiệp làm cho họ. Và đã có các hãng lớn chuyên làm nông nghiệp phụ trách giúp họ từ việc chọn giống, cày bừa đến bón phân và thu hoạch. Người nông dân chỉ việc ở nhà dùng tiền của mình đầu tư chứng khoán.

Người Nhật đặc biệt lo bảo vệ nguồn lương thực của mình, tạo cho xứ sở một thứ thức ăn không những ngon lành mà còn bảo đảm chuẩn khoa học không gạo nước nào có thể có được. Đã có những thời gian mà chính phủ Nhật do áp lực quốc tế phải nhập một số gạo của các nước khác, khi mang về phân phối cho dân thì không đâu người ta lấy, đến cả cho không cũng không ai nhận. Cuối cùng, số gạo đã mua buộc phải đem đi dùng làm hàng viện trợ cho các nước khác.

Đặt người Việt bên cạnh người Nhật

Cũng nhân thời gian rỗi trên đường xa, Đức kể với tôi về chuyện những người Việt Nam ở Nhật. Đức cho biết thật ra sau 4-1975, số người Việt sang Nhật không phải là ít, nhưng số có thể trụ lại được ở Nhật thì không nhiều và phần lớn là họ phải bỏ qua bên Úc hoặc bên Mĩ làm ăn. Việc du nhập vào cộng đồng Nhật, đòi hỏi sự nỗ lực đặc biệt mà người Việt không quen, chưa kể tiếng Nhật với nhiều người là khó học.
Chưa quen là như thế nào? Dù là mới tiếp xúc với người Nhật và văn hóa Nhật một cách đơn sơ, tôi vẫn có cảm tưởng người Nhật với người Việt Nam như hai đối cực, người nọ là thế giới đảo ngược của người kia.
Người Nhật có tinh thần gắn bó với xã hội, cấu kết với cộng đồng còn người Việt khôn lỏi, chạy vặt.
Người Việt thích phô trương còn người Nhật giấu mình sau vẻ ngoài bình lặng.
Người Việt ồn ào, lắm chuyện coi nơi công cộng là chỗ tự do buông thả còn người Nhật sợ nhất làm phiền người khác cũng như là bị làm phiền.
Bữa qua Miến Điện, tôi nhận ra một điều là không hiểu sao người bên đó có vẻ ít nói, trên đường không có cảnh vừa đi vừa cầm điện thoại tán chuyện. Có thể người Miến Điện không có tiền mua các loại máy mới? Nhưng Nhật là một nước giàu có. Sao dân họ vẫn không có thói nói lắm nói nhiều và xả ra cả khối lượng rác âm thanh ngập ngụa trên mọi ngả đường? Chợt nghĩ chính sự nói lắm nói nhiều nói một cách ba vạ đã giết chết sự suy nghĩ của người mình. Nó làm cho chúng ta thành một xã hội câm nín trước các vấn đề rất lớn đang phải đối mặt.

Xuất khẩu lưu manh

Hôm nay có đến hơn một giờ đồng hồ liền, Đức toàn kể chuyện người Việt sau 4-1975 tràn sang Nhật làm những việc gian dối như cờ bạc trộm cắp ra sao, cảnh sát Nhật đã từng bước đấu trí với người Việt để vô hiệu hóa các đồng bào lưu manh của chúng ta thế nào.
Chuyện đấu trí ấy tôi định ghi mà không sao theo dõi kịp nên đành bỏ. Chỉ nhớ nhất một chi tiết. Có nhiều người Việt sau khi kiếm bẫm bằng con đường bất chính trở ,liền lấy cái vốn thu được từ nước ngoài về làm vốn kinh doanh và trở thành đại gia.

Từ việc này nẩy ra hai ý nghĩ bổ sung:
1/ Ở các xã hội lành mạnh, đám nhà giàu là những người con ưu tú của dân tộc, họ như đầu tầu kéo cả cộng đồng đi theo. Ở một xã hội dở dang rồi biến chất như ở ta, một thời gian dài không công nhận tài sản cá nhân, thì ngược lại, đám nhà giàu phần lớn là đám lưu manh, khoác áo quan chức làm việc lưu manh. Họ phất lên trong chiến tranh bằng cách buôn lậu những hàng quốc cấm xuyên quốc gia. Với những đồng tiền kiếm được bằng các thủ đoạn xấu xa, khi trở về nước làm kinh tế, họ có góp phần thúc đẩy sự làm ăn và vì thế cả người dân lẫn chính quyền hoan nghênh họ. Nhưng lùi xa mà nhìn, thì thấy đóng góp của những người này không thấm là bao so với sự phá hoại những nguyên tắc đạo đức, tức những tác hại lâu dài, mà họ mang lại.
2/ Ngoài số đại gia trên, hiện còn không ít người Việt, đang sống vất va vất vưởng theo kiểu ăn cắp vặt, buôn lậu, làm thuê làm mướn ở xứ người.

Nhớ hồi chống Mỹ trong đầu mọi người dân luôn được nung nấu cái ý nghĩ Ta chiến đấu thế này không phải chỉ vì ta. Ta đang chiến đấu cho cả thế giới. Ta đang trở thành lương tâm nhân loại…
Kỳ cục thế mà ai cũng tưởng thật và ai cũng thích.
Được những tư tưởng kiểu đó quấn chặt vào đầu, nhiều người Việt sau tháng 4-75 ra nước ngoài, tự cho phép mình làm tất cả những việc xấu xa nhất, bất chấp luật pháp nước sở tại và những nguyên tắc đạo đức thông thường. Một cuộc xuất khẩu thói lưu manh đã kéo dài chưa biết bao giờ chấm dứt.

11 – 6

Thăm các di tích lịch sử

Tham quan chùa Thanh Thủy. Ấn tượng nhất không phải là ngôi chùa, mà là cách dựng công trình tôn giáo này. Cách nó bám vào chân hòn núi đá. Cũng lại là một biểu tượng của tinh thần bám trụ của con người vào một thiên nhiên khắc nghiệt.
Buổi chiều tới ngôi Chùa Vàng. Đọc chữ Hán, thấy chính ra chùa này phải gọi là Kim Các tự mới đúng. Tôi thích cả không gian chung quanh chùa và cả cái cách người ta tạo ra ấn tượng đối với người tới tham quan.
Có một điều tôi thấy tin, là những chi tiết người ta trình bày về ngôi chùa, cái giá trị cổ kính của nó. Các di tích ở Việt Nam thường có những bảng giới thiệu rất luộm thuộm, nhiều lúc có cảm tưởng do những người không hiểu biết viết ra.
(Còn nhớ là lần vào Văn miếu năm 2010, khi đọc tiểu sử Khổng Tử, thấy viết là Đức Thánh Khổng "có đến bốn tác phẩm gọi là Tứ Thư". Điều này sai vì bốn tác phẩm đó có tên là Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử. Sao lại nói cuốn Mạnh Tử do Khổng Tử viết được?)

Một niềm tin khác, khi đến thăm các công trình kiến trúc cổ, là cảm thấy chắc chắn nó giống như là ban đầu nó đã được hình thành. Trong một cuốn sách về văn hóa Nhật, tôi đọc thấy người ta nêu lên một nguyên tắc khi trùng tu các công trình lịch sử. Là bất cứ thời nào, muốn làm lại các công trình cũ thì cũng phải làm đúng như cái ban đầu, kể từ hình dáng, các chi tiết trình bày cho đến chất liệu kiến trúc.
Một cách tự nhiên, tôi có cảm tưởng, chúng ta có thể tin được nền sử học Nhật Bản, một niềm tin không thể có đối với nền sử học Việt Nam hiện nay.
Trong số các đoàn nội địa tới tham quan tại các công trình kiến trúc lịch sử, ở đâu tôi cũng gặp những đoàn học sinh do các giáo viên già dẫn đường và giới thiệu. Sau được nghe lại, thấy nói là trong chương trình học phổ thông, tất cả các học sinh có quyền được đi tham quan các di tích có ghi trong sử sách. Chi phí các chuyến đi ấy do nhà nước đài thọ và chỉ những người kinh nghiệm lâu năm trong nghề mới được giao việc hướng dẫn các em.
Tình hình này khiến người ngoại quốc hiểu thêm một điều là tại sao không bao giờ các di tích, các thắng cảnh ở Nhật lại có tình trạng tràn ngập khách tham quan như bên Trung Quốc. Hình như những người lớn tuổi của nước Nhật đã tham quan di tích này từ lúc nhỏ rồi, nếu có tham quan chỉ đi lại thôi. Còn ở Trung Quốc, các di tích thường bị lấp đầy bởi người nông dân của các tỉnh xa xôi mà họ muốn đến với các thắng cảnh. Giống như cánh du lịch bụi Việt Nam chúng ta, lấy đi làm cái mốt, đi chỉ để chứng tỏ rằng mình chẳng kém gì người.

Trở lại với quá khứ của Nhật Bản, tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi mối quan hệ của nước này với Trung Quốc. Một mặt thì cái ảnh hưởng ấy quá rõ và người Nhật không giấu điều này. Ai đó đã nói: “Người Nhật tìm ở Trung Hoa đức trầm tĩnh, vẻ hào hiệp và tính muôn màu muôn vẻ mà họ không thể có”. Mặt khác, suốt trong quá trình lịch sử, người ta cũng bắt gặp nỗ lực của người Nhật hướng theo cái tinh thần "trên cơ sở hoàn thiện mình, dám là mình, vui với mình và không ghen tức với người nước ngoài". Đó lại là điều không thấy ở người Việt, văn hóa Việt.

Người Nhật làm du lịch

Những người tổ chức du lịch đã cố gắng cho chúng tôi biết được nước Nhật ở nhiều cung bậc khác nhau. Ví dụ về giao thông họ có bố trí cho chúng tôi ngoài chuyện thường xuyên ngồi trên ô tô, có lúc đi tàu thủy, có lúc đi tàu cao tốc.
Về ăn uống, ngoài những lối ăn nhanh theo kiểu buffet thì họ thường xuyên cũng cho chúng tôi vào những quán ăn tổ chức theo kiểu truyền thống. Ở đó, bọn tôi ngồi bệt xuống đất, chân đặt lên cái hố được khoét rộng chung cho cả bàn, trên bàn đặt nồi lẩu. Cái thú vị nhất đối với bọn tôi nói ra kể cũng phàm tục song cũng xin kể ra kể đây. Thú vị vì, nhìn vào cái nồi lẩu, thịt không bao giờ thiếu. Khi ăn hết, nếu cần chúng tôi có thể gọi thêm mà không phải trả thêm tiền.
Lúc đầu bọn tôi cũng lo lắng có những món ăn của Nhật không hợp khẩu vị, sau thì thấy cũng thích nghi dễ dàng. Trong các chương trình như là thêm vào buổi chiều hôm nay, có việc chúng tôi đến thăm cửa hàng kimono. Ở đó, khách du lịch vừa có dịp tham quan cả cơ sở người ta đang dệt vải để làm ra kimono, và cũng có một buổi biểu diễn thời trang, trong đó những người Nhật trình bày cách sử dụng trang phục này.
Điều “rất Nhật” ở đây lại chính là cái bề ngoài "không chuyên nghiệp", nó ngay lập tức gợi nên một thoáng thất vọng ở những người Việt thạo đời. Ra vào đi lại trên sân khấu lúc này không phải là những cô gái chuyên môn trình diễn thời trang, mà chỉ những người phụ nữ bình thường, tưởng như họ đang đi ngoài phố, vừa được mời vào.
Phụ nữ Nhật nói chung không đẹp, rất ít khi chúng tôi phải sững sờ cả người như khi sang Trung quốc, bắt gặp các cô gái còn chất quý phái hôm qua. Những cô gái Nhật biểu diễn thời trang ở xưởng làm và bán kimono cũng không thể gọi là đẹp. Họ trình diện trước du khách như những người thông minh, nghiêm túc, tự trọng, có sự cởi mở với người bên ngoài, mà vẫn giữ cho riêng mình đời sống nội tâm. Những bộ trang phục họ mang ra trình diễn hôm đó không phải là những hàng đắt tiền mà đám dân du lịch Việt Nam – những người đang thèm tiêu tiền -- háo hức. Nhưng họ đâu có tính chuyện câu khách. Họ chỉ muốn giới thiệu một nét văn hóa Nhật.

Những dư âm của cuộc động đất

Tiếp tục câu chuyện về người Nhật trong sự so sánh với người Việt Nam. Sự kiện động đất xảy ra cách đây mấy năm vẫn còn trong kí ức người Nhật như chuyện mới xảy ra năm ngoái tháng trước hôm qua. Nhưng, chính lúc đó thì phẩm chất dân tộc của họ được bộc lộ.
Đức nói rằng ở đây đã lâu, song chính anh cũng rất ngạc nhiên vì cách phản ứng của người Nhật với động đất. Ví dụ như, khi Tokyo mất điện, người ta đi bộ về nhà có khi đến hàng vài chục cây số, cái cửa hàng bên đường tung hàng ra để phục vụ người đi lại, mặc dù họ không có tiền. Khách sạn cho người đi đường vào ở nhà và không tính tiền.
Sau đó, tinh thần và nghị lực của người Nhật cũng bộc lộ ở việc sự nhất trí của xã hội trong việc khắc phục hậu quả tai họa. Sau động đất, nhà nước cắt điện một số vùng thì các vùng khác cũng tự động cắt theo giúp nhà nước có được lượng điện dự trữ. Khi đi làm việc, có lệnh chính phủ, công chức không dùng caravat để tránh giặt giũ nhiều, thì người thường cũng tuân theo.
Cả nước bao giờ cũng làm quá hơn so với mức chính phủ yêu cầu. Chỉ có câu khẩu hiệu nêu ra và viết trong các taxi: Nhật Bản hãy cố gắng. Mấy chữ ngắn ngủi thế thôi, mà người Nhật đã hiểu rất nhiều.
Trở lại với ý nghĩ mới hình thành trong tôi mấy ngày nay, hình như với người Việt Nam thì người Nhật ở dạng đảo ngược. Người mình sống trong sự cạnh tranh, phải lấy dối trá làm đầu khi quan hệ với nhau. Trong quan hệ với nhà nước và cộng đồng, càng trục lợi kiếm chác cho cá nhân càng tốt. Ở Nhật, giữa cá nhân và cộng đồng có niềm tin chắc chắn. Luôn luôn người ta tin rằng, những nỗ lực cá nhân của người ta sẽ được xã hội hiểu, những người tự trọng không thể làm khác.

12 – 6

Chuyện quanh những ngôi chùa
Ngày cuối cùng ở Nhật

Mấy hôm trước, chúng tôi đã đi qua những thành phố nổi tiếng của xứ sở này như Kyoto, nhưng dù thế cũng chỉ là lướt qua. Hôm nay cũng vậy, mang tiếng là được đến kinh đô cổ kính của nước Nhật là Nara, nhưng chúng tôi cũng chi được đi qua phố xá một quãng, sau đó được dẫn đến thăm ngôi chùa cổ đọc theo chữ Hán là Đông Đại Tự.
Trên đường phố Nara, bắt gặp những ngôi nhà cổ, loại nhà một tầng mà chắc chắn đã có từ rất lâu đời. Trong việc xử lí những di sản này, chỗ khác của người Nhật vẫn rất rõ. Họ có sự bố trí thế nào để những ngôi nhà cổ rộng rãi hòa hợp tự nhiên với những cao ốc hàng chục tầng bên cạnh,-- việc này gợi cảm giác những người sống trong ngôi nhà cổ là những cư dân lâu đời ở đất này, có thể là họ còn giàu có nữa kia, thì mới được ở trong những ngôi nhà đó.
Còn ở Việt Nam bên cạnh những cao ốc thường khi cũng có những ngôi nhà rách nát, làm hỏng hết cảnh quan chung. Những cuộc đền bù bất minh, hoặc tâm lý thấy ai giàu có là ghen lồng ghen lộn, ì ra ăn vạ…đã là nguyên nhân làm cho cái cũ cái mới không thể chung sống hòa hợp.
Hai bên đường tới Nara, du khách cũng bắt gặp rất nhiều ngôi chùa. Đây là một địa điểm được mệnh danh kinh đô của Phật giáo, đã từng là địa điểm tổ chức Đại hội Phật giáo thế giới.
Nhưng một chuyện buồn lại bắt đầu len vào, khó mà quên được. Đức hướng dẫn viên chỉ hai bên đường và nói rằng ở đây có rất nhiều cửa hàng bán đồ dùng dành cho các nhà sư. Anh kể tiếp, nhiều nhà sư Việt Nam đa đến Nara này, và điều mà người Nhật bản xứ đã sửng sốt là những nhà sư đó đã mua những trang phục đắt tiền nhất toàn loại những nhà sư các nước khác không dám mua.
Đức có người bạn đã đi theo đoàn Phật giáo ấy, chứng kiến cảnh mua bán của các vị sư. Với thói quen của người Sài Gòn, người bạn ấy có hai phản ứng. Một là lập tức tính sẽ tổ chức những của hàng tương tự ở Việt Nam để bán cho giới tu hành hám chuyện làm dáng. Hai là nhiều lúc nghĩ không muốn thành Phật tử nữa bời vì không hiểu vì sao sư mô Việt Nam lại trần tục đến như vậy.

Một chút so sánh và cảm giác về một nước Nhật quá xa xôi

Khi đi trên đất Nhật tôi hay nhớ lại những lần đến các xứ khác.
Du lịch Trung Quốc, đối với tôi như là một chuyến trở về nguồn. Ở đó tôi nhớ không chỉ là những lâu đài tráng lệ hay những viên lâm cổ kính sang trọng – không khí như trong phim Hồng lâu mộng -- mà tôi còn thấy ở đây có những mặt trái, tức cả đời sống cùng cực của người lao động bình thường.
Ở Bắc Kinh, tôi đã vào những ngõ nhỏ mà ở đó người ta , từng cụm dân trong hồ đồng, phải dùng hố xí tập thể, và con đường quanh co là những mái nhà lợp tôn, lợp ngói cổ cái thấp cái cao như những hẻm nhỏ Hà Nội. Tôi cũng thấy người ta buôn gian, bán lận, nói thách, làm hàng giả theo lối làm tiền chém du khách không tiếc tay.
Bởi Việt Nam luôn là Trung quốc bị hạ thấp hẳn xuống thu nhỏ hẳn lại cái tốt bớt dần cái xấu tăng thêm, nên tôi càng hiểu những tệ hại của xứ mình không biết bao giờ mới khắc phục được.
Ngay cả với nước Nga nửa Âu nửa Á, tôi cũng thấy điều gì đó tầm thường dung tục. Hồi còn Liên xô, đó là những đống đất xây dựng ngổn ngang ngay ngoài cửa cách hàng rào sân bay không xa; những phiên chợ nông trường lèo tèo; đám đầu trọc nghênh ngang ngoài đường. Và bây giờ ở nước Nga của Putin, cái tôi còn nhớ khi đọc các bản tin, là những làng xóm vắng vẻ, người đàn ông say rượu, những người đàn bà chỉ lo trau chuốt để bán mình cho các nhà tư sản mới nổi.
Tóm lại thì ở đâu cũng có cái gì đó gần gũi với mình.

Ngược lại, đến với nước Nhật, từ lâu tôi cũng biết là đồng văn đồng chủng, da vàng mũi tẹt, nhưng ấn tượng còn lại thì lại là một cái gì khác hẳn so với những ấn tượng đi Nga đi Trung Quốc.
Tôi thấy xã hội Nhật là một cái gì quá đồng đều và quá hoàn chỉnh, do đó là quá xa xôi, người mình không biết bao giờ mới có thể có một xã hội hợp lý như của họ.
Tình thế đó của nước Nhật toát ra không phải từ không khí sinh hoạt của đường phố mà nó thấm vào trong cách sống cách nghĩ của từng con người, cũng như lối sống rời rã, cái năng động hỗn loạn, và tâm lý bèo dạt mây trôi đã thấm vào trong cách tổ chức xã hội của người Việt.
Nhớ lại khoảng thời gian mấy năm 75-76. Quá say sưa vì chiến thắng, người mình có cảm tưởng rằng đã đánh Mĩ được thì làm gì cũng được. Tôi nhớ không phải ở người dân thường mà ở những cấp lãnh đạo cao nhất hồi ấy đã có ngưỡng vọng có ngày Việt Nam sẽ đuổi kịp Nhật. Công thức mà tôi còn nhớ như in là lời truyền miệng như thế này: “Thôi, nói 20 năm thì hơi lạc quan quá, độ 30 năm nữa thì chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật”.

Nhắc lại ảo tưởng đó để hiểu rằng, chiến tranh để đẩy chúng ta chui vào sừng trâu, và ra khỏi chiến tranh chúng ta đã xa lạ với thế giới như thế nào. Ta chẳng hiểu gì về người, mà cũng chẳng hiểu gì về chính mình.
Từ đó, trong cái thế giới hiện đại đang thay đổi từng ngày, ta vẫn nhắm mắt mở, bước đi loạng choạng xiêu vẹo.
Trong sự vội vã điên cuồng lo làm ăn sinh sống, xã hội Việt sau chiến tranh đã trở thành một xã hội mất hết tự tin. Không ai bảo ai, không dám thú nhận, song trong thâm tâm, nhiều người chỉ còn tin rằng sẽ chẳng bao giờ chúng ta theo kịp thiên hạ. Cách sống thời thượng nhất lúc này là có cái gì bòn mót mang bán lấy tiền. Ăn cắp của nhà nước cũng được, lột da nhau cũng được, miễn có tiền. Rồi đi nước ngoài mua sắm những thứ xịn nhất, mới nhất, hiện đại nhất. Rồi lấy đó làm niềm tự hào rằng người mình cũng đang có sự tiến bộ vượt bậc theo kịp các nước trên thế giới.
Mấy năm gần đây, nhờ sự trợ giúp của phía đối tác nước ngoài, các trường đại học ở ta thường mở ra các cuộc hội thảo văn học so sánh, trong đó nhiều báo cáo của giảng viên Việt trình bày như là có một bước tiến song song giữa văn học Nhật Bản hiện đại và văn học VN thế kỷ XX, rồi bước tương đồng giữa văn học Nhật đương đại và văn học Việt Nam hôm nay. Trên một số phương diện khác của đời sống cũng vậy. Một cái gì giống như ảo tưởng đang chi phối cái nhìn người Việt khi chúng ta làm cái việc đối sánh giữa mình với người, và các đồng nghiệp Nhật vì lịch sự cũng không tiện bác bỏ. Thường những lúc nghe vậy, trong tôi có cái cảm giác xót xa như khi thấy người ta xoa đầu mình coi mình là một lũ trẻ con. Trong những ngày du lịch bụi ngắn ngủi này, cái cảm giác xót xa ấy lại trỗi dậy để mà càng cảm thấy nó một cách thấm thía hơn.

$pageOut$pageIn
đây là loạt bài đã đăng trên báo Web Tiếng Dân từ ngày Jan. 19, 2024 trở đi. LTC tôi chép lại nguyên văn không chỉnh sửa bất cứ gì kể cả lỗi chính tả (nếu có)

Nguyễn Thông [LTC sơ lược]: sinh năm 1955 ở Bắc Việt (Hải Phòng), ăn học và lớn lên ở Bắc Việt. 2 năm sau black April thì được đưa vào Nam dạy học, được ít lâu thì sang làm báo lố của VC tại Saigon. Sau khi CSBV cướp được miền Nam black April, thì Nguyễn Thông phản tỉnh có lẽ muộn hơn nhiều trí thức Bắc Việt khác (như Trần Mạnh Hảo, Dương Thu Hương, Vương Trí Nhàn v.v...) và từ khi có Internet, bắt đầu năm 2009 đã từ từ lên tiếng (dè dặt) qua Blogspot [thongcao55]. Trở nên bạo dạn hơn kể từ năm 2020 cho tới nay cả trên Blogspot lẫn Facebook.


Chuyện lương thực, gạo (Kỳ 1)

by Nguyễn Thông
19-1-2024

Ngẫm lại tiếng Việt ta, trải qua năm qua tháng có những từ, những cách nói gần như mất hẳn trong đời sống, nếu muốn tìm hiểu nó chỉ có thể lục tìm ở cuốn từ điển. Ví dụ, cùng nói về ăn, xưa có những từ ghép: ăn dè, ăn mặn, ăn độn, ăn vã… nay chả ai nhắc tới hoặc dùng theo nghĩa từng phổ biến nữa.
Cũng phải thôi, ngôn ngữ là hình chiếu của cuộc sống, nó phản ánh, thể hiện những gì có trong đời thực, nay đời thực không còn thứ ấy thì nó cũng lịm nhạt dần đi, sau biến thành tử ngữ. Khi người ta mặc quần jean, quần Tây thì không ai nhắc tới quần lá tọa, quần dây rút, quần ta. Phải chấp nhận thôi.
Đã kể ra thì cũng nên nói cho rõ. Ăn dè bắt nguồn từ chữ dè, dè sẻn. Chữ ấy thể hiện sự tiết kiệm, chi dùng hạn chế, hoàn toàn trái ngược với sự thả cửa, hoang phí. Ăn dè tức là ăn có mức độ vừa phải, thậm chí tằn tiện, thòm thèm. Cũng không hẳn do quá thiếu thốn thì mới ăn dè, mà có khi ăn hôm nay còn nghĩ tới ngày mai, lo tháng ba ngày tám đói kém, lo hạn hán, lụt lội, chiến tranh, lo cả khi đau yếu bệnh tật có thể đến bất cứ lúc nào. Nếu hoang phí buông tuồng, khi sự ấy xảy ra lấy gì mà sống. Chi bằng cứ dè sẻn, kể từ miếng ăn.
Hồi tôi còn nhỏ, ở miền Bắc những năm thập niên 1950 – 1970, cơm không đủ, luôn đói, thèm cơm, nhiều khi chả ước gì, chỉ ao ước được ăn no. Tuy chưa tới mức phải dè… cơm, nhưng đám trẻ con luôn được người nhớn quán triệt rằng thức ăn (con tôm con cá, miếng thịt, quả trứng) phải ăn dè, có thế mới đủ “phương tiện” tải cơm vào bụng. Gặp nhau ngoài đường, chào hỏi nhau, nếu không bằng câu “đi đâu đấy” thì thường chào “ăn cơm chưa”. Cái đói thường trực đã lặn vào cả câu chào một cách hồn nhiên.
Có lần tôi thử ăn vã (chỉ ăn thức ăn, không kèm cơm) hẳn một con tôm giảo rang để tận hưởng miếng ngon xem nó ngon ra sao nhưng sau đó phải trả giá bởi và (lùa) miếng cơm không vào mồm nó cứ nhạt nhẽo khó nuốt. Người nhớn nhắc nhở ta điều nọ điều kia bằng kinh nghiệm đã trải qua, không phải không có lý của họ.
Thập niên 1980, có lần trà dư tửu hậu sau cuộc giỗ ở quê An Giang, tôi rụt rè nói với ông anh vợ rằng cơm nấu nhiều thế kia, đổ bỏ cho heo, phí lắm. Ổng cười bảo, mình không ăn thì heo nó ăn, gạo lúa ê hề, có thiếu thì chỉ thiếu tiền thôi chứ cơm nhằm nhò gì. Lại bảo, ngoải đói lắm, cơm không đủ no, sao kéo nhau vào giải phóng chúng tôi làm chi cho cực.
Ngược với ăn dè là ăn mặn. Nghĩa đen của ăn mặn là ăn nhiều muối, nhiều mắm. Mắm muối chứa vị mặn, anh nào ăn thứ đó nhiều hơn người khác thì bị chê ăn mặn, ngược với ăn nhạt/lạt. Dân vùng biển thường ăn mặn hơn người những vùng khác, có nhẽ ở biển sẵn muối. Hồi những năm 1960 trở về trước, người vùng núi cao thường ăn rất nhạt bởi muối hiếm, vận chuyển đường sá xa xôi, khó khăn. Ăn nhạt quá thì dễ bị phù, phù thũng, mặt cứ bệu ra, sưng bủng, da dẻ bợt như ngâm trong nước.
Dạo tôi học cấp 2, còn nhớ trong sách trích giảng văn học chọn bài “Bữa cơm thường trong bản nhỏ” của nhà thơ Chế Lan Viên, có câu “Muối lên rừng tay bưng tay đặt/ Bộ đội bác lên rừng công tác em thương”, muối quý lắm, từng hạt muối chẳng khác hạt vàng.
Truyện “Đất nước đứng lên” của nhà văn Nguyên Ngọc viết về anh hùng Núp và dân làng Kông Hoa ở Tây Nguyên trốn lên rừng để đánh Pháp, không có muối phải đốt cả cỏ tranh khô lấy tro ăn thay muối. Nhà văn Nguyên Ngọc nổi danh lẫy lừng từ tác phẩm này. Nó được đưa vào sách “Trích giảng văn học” lớp 10 hệ 10 năm, cứ vài ba năm lại lấy làm đề thi tốt nghiệp, có lẽ chỉ sau “Nhật ký trong tù” và thơ Tố Hữu. Ở Cuba, trùm cộng sản Fidel Castro kết nghĩa anh em với ông Núp sau khi nghe tuyên truyền về cuốn “Đất nước đứng lên”.

(Còn tiếp)

Chuyện lương thực, gạo (kỳ 2)

by Nguyễn Thông
22-1-2024

Giờ thì khác, người ta sợ ăn mặn, dễ bị huyết áp cao, nên đài báo, tivi nhan nhản lời khuyên cần ăn nhạt để bảo vệ sức khỏe. Tất nhiên, kèm theo lời khuyên ấy thường là một vài thứ thực phẩm chức năng giá cực đắt, rất cần cho người bị cao huyết áp hoặc bị bướu cổ, với lời đọc liến thoắng trên tivi, hay in chữ bé tí ti như con kiến trên báo, rằng “sản phẩm này không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh”.
Chả hiểu sao đám báo chí truyền thông quốc doanh công khai thủ đoạn bịp bợm, lừa đảo, dối trá như thế mà nhà cai trị, cụ thể là Ban Tuyên giáo và Bộ Thông tin – Truyền thông vẫn cứ mặc nhiên chấp nhận, không xử lý.
Cạnh cái nghĩa đen ấy thì “ăn mặn” có nghĩa là ăn rất tốn thức ăn. Người lớn sống trải đời nên phần lớn biết điều, ăn uống có chừng mực, ngó trước trông sau, nhưng bọn trẻ con thì thường rắn mặt khó bảo, chúng chỉ cốt thỏa cái mồm. Đứa nào bị nói, bị đánh giá “ăn mặn”, không khác gì được gắn cho tội tham ăn. Người nhớn luôn phải nhắc nhở chúng “ăn trông nồi, ngồi trông hướng” là vậy, để kềm chế cái tính tham ăn hồn nhiên của chúng lại. Kể cũng tội, đang tuổi ăn tuổi nhớn, nhưng do nghèo đói mà miếng ăn cũng bị siết vào quy trình ứng phó sự thiếu thốn, nên mất cả tuổi thơ. Một thời thật buồn.
Còn ăn độn, tôi từng biên hẳn thành bài về chuyện ăn độn, không ít người đã đọc. Bây giờ lương thực ê hề, nước ta xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, chả mấy ai phải ăn độn. Sơn hào hải vị thì có thể thèm, chứ cơm không thiếu. Cô em tôi nuôi con chó và mấy con mèo. Người và chó mèo đều xơi cơm trắng gạo ST25. Đứa em chồng lắc đầu bảo, khiếp, con chó nhà bác cũng sướng. Không phải ăn độn nên không nghĩ tới từ “ăn độn” nữa.

Những năm chưa xa, người ở miền Bắc lấy ăn cơm là chính để mà sống, làm bản vị, nhưng hạt gạo hiếm hoi, chẳng đủ no bụng, đành phải thêm thứ này thứ nọ độn vào nồi cơm. Nhiều khi một phần gạo cõng hai, ba phần độn. Cơm không độn gì gọi là cơm trắng. Cơm kèm khoai sắn hoặc thứ này thứ khác thì gọi là cơm độn. Ăn thứ cơm ấy là ăn độn. Cốt no cái bụng đã, còn ngon để tính sau. Bọn thanh niên nhại bài hát của ông Vũ Trọng Hối, “ta bắc nồi cơm lên sắn nhiều hơn ngô, ngô nhiều hơn khoai, khoai nhiều hơn cơm”.

Suốt tuổi thơ, tuổi thanh niên, tới lúc trưởng thành (từ thập niên 50 tới 70), tôi và phần đông lứa với tôi chỉ thèm ăn, mãi về sau mới ao ước ăn no, gần như không có trong đầu ước muốn ăn ngon. Ăn và mặc là hai nhu cầu chính của con người, thế hệ tôi là nhân chứng lịch sử cho sự gia tăng nội hàm khái niệm: Ăn mặc – ăn no mặc ấm – ăn ngon mặc đẹp. Mất nửa thế kỷ, gần như một đời người mới đạt được.

Ông nhà thơ viết: “Ruộng đoàn tụ nên người thôi chia cắt/ Đêm no ấm giọng chèo khuya khoan nhặt/ Lúa thêm mùa khi lúa chín về ta/ Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác/ Chim cu gần chim cu gáy xa xa”, chỉ là nói phét, sản phẩm của trí tưởng tượng. Đến bây giờ, nhìn lại, ngẫm lại, càng hiểu rằng đám văn nghệ sĩ của đảng ở miền Bắc sau 1954, thời xây dựng chủ nghĩa xã hội, hầu hết chỉ nói phét.
Trong vốn từ cũ có từ “ngũ cốc”. Đây là từ gốc Hán Việt. Cốc, theo từ điển của cụ học giả Đào Duy Anh, là hạt, hạt cây lương thực như lúa, kê, mạch, đậu… Càng về sau, nghĩa của từ “cốc” này càng mở rộng, để chỉ chung lương thực, không hẳn cứ phải hạt. Những cây nào cho ra sản phẩm nuôi được con người đều được xếp vào hạng ngũ cốc. Mà có thể không dừng ở 5 (ngũ) loại, có khi tới thất cốc, cửu cốc. Thành ngữ “tích cốc phòng cơ” có nghĩa là trữ lương thực để phòng khi xảy ra cơ sự thiếu thốn đói kém.

(Còn tiếp)

Chuyện lương thực, gạo (Kỳ 3)
by Nguyễn Thông
29-1-2024

Nói gì thì nói, vùng đồng bằng sông Cửu Long, kể từ tỉnh Long An xuôi về phía tây nam, tới tận mép biển Tây là Kiên Giang và biển Tây Nam là Cà Mau, gồm 12 tỉnh thành, là vựa lúa gạo khổng lồ, đủ sức nuôi cả nước. Đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng miền Trung chả là gì so với vựa gạo khổng lồ này. Vẫn biết phải duy trì vùng miền để thực hiện an ninh lương thực, phòng khi xảy ra chuyện này chuyện nọ nhưng để có bát cơm, cả nước cần phải cảm ơn Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Vậy mà có những năm dài, “bên thắng cuộc” nhìn miền Tây Nam Bộ như vùng sâu vùng xa, chỗ chỉ để khai thác, vơ vét (lương thực, thực phẩm, rau quả, sức lao động…), nơi thí cho thứ gì là ban ân huệ thứ ấy, chứ không quan tâm đầu tư phát triển. Thấy rõ nhất, suốt mấy chục năm, đường sá, nhất là đường cao tốc, ở miền Bắc và miền Trung mở mang ầm ầm, tỏa muôn ngả, hiện đại như Tây, thì ĐBSCL vẫn con quốc lộ 4 cũ, sau đổi thành quốc lộ 1, ì ạch, chật chội, chen chúc, như cái xương sống đã bị thoái hóa. Kể từ năm 2010 đường cao tốc Sài Gòn – Trung Lương ra đời, rồi cầu Mỹ Thuận do Úc giúp đỡ, nối đôi bờ sông Tiền năm 2000, thì ĐBSCL mới thực sự thoát khỏi tình trạng vùng sâu vùng xa bị quên trong sự phát triển chung.

Tôi sinh ra và lớn lên ở nông thôn, đồng bằng Bắc Bộ, vùng duyên hải Hải Phòng, suốt tuổi thơ và tuổi thanh niên lăn lộn với ruộng đất nên hiểu dân miền Bắc làm ra hạt lúa, củ khoai vất vả thế nào. Mỗi hột thóc là một giọt mồ hôi. Thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Ruộng đất ít. Đã thế, nông dân còn bị đè nén trói buộc, mà khổ nạn nhất là cái ách hợp tác xã.
Chính sách công hữu hóa ruộng đất của cộng sản, thực chất là cướp đoạt ruộng đất của nông dân, thu gom về một mối, làm ăn theo phương thức kinh tế tập trung, xóa bỏ hoàn toàn kiểu cá thể, tư hữu… đã giết chết nông nghiệp, nông thôn, nông dân miền Bắc. Nông dân suốt mấy chục năm sống ngắc ngoải ngay trên chính ruộng đất quê hương mình. Họ thành kẻ làm thuê trên ruộng đất của mình đã bị tước đoạt. Hột thóc củ khoai do chính họ trồng trọt cũng bị thu hết, hợp tác xã (thay mặt chính quyền, nhà nước) chỉ chia, bố thí cho họ phần rất nhỏ, đủ tồn tại lay lắt qua ngày. Không một người, một hộ nông dân nào có thể làm giàu, giàu có, 100% luôn, bởi giàu riêng là có tội, là chống lại đường lối của nhà nước trên con đường lớn xã hội chủ nghĩa.

Làm nông nghiệp, cụ thể là trồng lúa, ở miền Bắc rất buồn cười. Nền kinh tế tập trung, theo chỉ đạo, nhất cử nhất động tuân lệnh từ trên, từ trung ương. Việc trồng lúa đã gắn trăm đời, nghìn đời với nông dân, họ có nhiều kinh nghiệm, nhưng nay nhà nước bắt họ lúc thế này, khi thế nọ, sáng đúng chiều sai, nông dân rất khổ.

Hồi thập niên 60, tôi nghe thày bu nói rằng, cán bộ huyện về phổ biến cho cán bộ xã, rồi cán bộ xã quán triệt nông dân, xã viên từ nay phải cấy dày, chấm dứt kiểu cấy thưa. Cấy dày là học cách bên Tàu. Để đỡ lãng phí đất, họ nói vậy. Truyền nhau câu ca “Cấy thưa thừa đất/ Cấy dày thóc chất đầy kho”, kẻ vẽ thành khẩu hiệu ở khắp các bờ tường, bảng tin. Thí điểm được một vài vụ, năng suất kém, khó làm cỏ, bỏ phân, bị dẹp. Lại trở về cấy thưa. Dân gian dí dỏm truyền nhau câu “Cấy thưa thừa thóc/ Cấy dày thì cóc được ăn”.

Cấy là một công đoạn để làm ra hạt gạo. Có thể tóm tắt cái quy trình ấy như thế này: Làm đất, gieo mạ, nhổ mạ, cấy (công đoạn cấy gắn với câu thành ngữ “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, chỉ giao cho đàn bà), tát nước, bỏ phân, làm cỏ, trừ sâu, gặt, đập, phơi thóc, xay giã giần sàng. Có hạt gạo, rõ lắm công đoạn vất vả.
Một dạo, người ta còn hướng dẫn các bà các chị cấy chăng dây cho thẳng hàng thẳng lối, dễ làm cỏ. Đi cấy đã phải gánh mạ còn lách cách đem theo cuộn dây thừng, tới nơi chăng từ bờ này sang bờ kia, ngắm ngắm nghía nghía, cứ như đang làm nghệ thuật. Cấy hết một hàng, lại nhổ dây cắm hàng tiếp. Lúa có hàng lối, trông đẹp thì đẹp thật, nhưng mất thì giờ. Mấy ông nhạc sĩ nghe đám tuyên giáo và phụ trách nông nghiệp ca ngợi phương thức làm ăn hiện đại tiên tiến liền đổ xô về nông thôn, gọi là đi thực tế sáng tác.
Ông An Chung viết bài “Ba cô gái đảm” ca ngợi “Ba cô đi cấy chăng dây/ Ba cánh áo gụ này, ba cây súng trường/ Khi đi trời chưa tan sương/ Khi về nắng chiếu trên đường, trên đường tròn quay”… Ông Thái Cơ còn tả rõ hơn, triết lý hơn “Lửa bom trên đồng làng, mà lúa vẫn thẳng hàng đứng dọc ngang”, đại loại vậy.

Văn nghệ sĩ theo đảng thì đảng bảo gì mà chả làm. Tôi là con nông dân, sau đó từng là nông dân thực thụ, chứng kiến những gì xảy ra trong làm ăn nông nghiệp kiểu hợp tác xã ở quê mình, nay có thể chốt lại rằng, chỉ tinh những cải tiến cải lùi, chả có tác dụng gì lâu bền, làm quê nhà suốt bao năm, nghèo đói xác xơ.
(Còn tiếp)




$pageOut$pageIn Chuyện lương thực, gạo (kỳ 4)
by Nguyễn Thông
1-2-2024

Năm 1977, tôi vào miền Nam nhận việc. Nhiều lần ngang dọc miền Tây Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long, thấy sự làm ruộng, trồng lúa, làm ra hạt gạo khác hẳn ngoài Bắc. Ruộng đồng bát ngát, phì nhiêu, thời tiết khí hậu cực kỳ thuận lợi, người trồng lúa làm ruộng cứ như chơi.
Vẫn biết, vẫn hiểu, có được vậy là do điều kiện “trời cho”, nhưng càng thèm sự nhẹ nhàng, thong thả ấy, lại càng thương thày bu mình, bà con mình nông thôn ngoài quê mình. Ở đây chả gieo mạ nhổ mạ, cấy kiếc chi sất, cứ căn vào con nước mà sạ lúa, cũng chẳng phải tát nước làm cỏ gì.
Tôi hỏi ông cậu vợ, ở xã Bình Phước Xuân, cù lao Giêng (huyện Chợ Mới, An Giang), sao không gieo mạ mà cấy cho đỡ tốn thóc giống? Ông cười, ai mà bày vẽ bây ơi, đờn bà trong này chỉ đi gặt thôi, đâu biết cấy, chẳng mạ miếc chi hết. Ngay bọn thanh niên kia, khi cần thì kêu nó kéo dây chạy máy bơm tưới rẫy, thuê máy gặt, chúng đâu biết nhổ mạ tát nước như bọn bay ngoài đó, rảnh thì kéo nhau đi cà phê đàn đúm nghe cải lương vọng cổ Bạch Tuyết, Thanh Sang, Út Trà Ôn thôi. Ổng vừa nói vừa chỉ tay vào thằng con cùng tuổi tôi, nó cười đắc chí. Tôi thầm nghĩ, chắc tuổi thơ nó sướng hơn mình nhiều, dù cũng ở nông thôn, chỉ khác là nông thôn miền Nam hay miền Bắc.
Vậy nhưng, ngay những điều ông cậu kể, vào lúc kể ấy, cũng đã thành ký ức. Ông chỉ nhớ lại ngày đã qua. Người ta đang thực hiện rốt ráo việc ép nông dân miền Nam vô tập đoàn (một dạng hợp tác xã quy mô nhỏ) để sau đó triển khai hợp tác hóa như miền Bắc. Cả nước phải cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội cho khí thế. Cán bộ thì hăng hái, dân không mặn mà, nhưng cả hai đều đâu có ngờ họ đang lùi về nghèo đói, cho tới tận bây giờ.

Nhớ lại hồi thập niên 80, giờ vẫn khiếp. Vựa lúa gạo Đồng bằng Sông Cửu Long sau năm 1975, tuy bị đòn chí mạng của làm ăn mô hình tập đoàn – hợp tác xã nông nghiệp kiểu miền Bắc do chế độ mới áp đặt nhưng vẫn tồn tại, vẫn cung cấp gạo cho cả nước. Đùng một cái, chính quyền ban bố lệnh “ngăn sông cấm chợ”, cấm mọi hàng hóa lưu thông giữa các tỉnh thành, kể cả gạo.
Ông anh vợ tôi kể, lúa thu hoạch xong chất đầy nhà, gạo xay xát xong để cả đống nhưng chả ma nào tới mua, không bán được cho ai. Lúa gạo ế, nên không có tiền. Ngồi trên đống lúa mà vẫn khổ. Rõ ràng gạo do nhà mình làm ra nhưng muốn đem đi đâu thì phải lên xã xin cấp cho cái giấy, họ đồng ý mới được đem, mà mỗi lần cũng chỉ mười lăm, hai mươi ký. Lên Sài Gòn thăm ông anh cả bộ đội quân khu 7, cả nhà trên ấy đang đói rã họng, ăn bo bo, củ mì, mỗi lần đi tiếp tế là một lần xin giấy.
Có lần nghe ông em kể lể nỗi đoạn trường chuyển gạo, ông anh cả sĩ quan có súng, cáu tiết bảo, tao mà gặp chúng nó, tao bắn bỏ, muốn ra sao thì ra. Suốt gần chục năm trời, tình trạng ngăn sông cấm chợ không chỉ khiến Sài Gòn sống dở chết dở, mà còn làm cả miền Tây Nam Bộ vốn no đủ, sung túc, ngày càng nghèo đói, lụi tàn.

Đã nhắc tới chuyện Bắc – Nam thì cũng nên biên thêm điều này: Cách gọi, đặt tên về lúa gạo ở hai miền. Miền Bắc gọi tên khá tỉ mỉ, rạch ròi. Lúa thì có lúa tẻ, lúa nếp, từ đó có gạo tẻ, gạo nếp. Trước khi cấy lúa thì có cây mạ, được gieo mọc lên từ hột thóc. “Mạ non bầm cấy mấy đon/ Ruột gan bầm lại thương con mấy lần”. Theo thời tiết miền Bắc, có hai vụ, lúa mùa và lúa chiêm. Lúa mùa vào mùa hè – mùa thu, còn gọi là vụ hè thu; lúa chiêm vào mùa đông – mùa xuân nên có tên vụ đông xuân. “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”.
Khoảng thời gian giữa các vụ, khi thóc vụ trước đã cạn mà thóc vụ sau chưa có, tháng 3 và tháng 8 (ta) thì có thành ngữ tháng ba ngày tám, còn có tên giáp hạt. Lúc ấy, đói lắm. Nông dân, nhất là thời xã viên hợp tác xã, rất sợ giáp hạt. Lúa cấy được khoảng tháng rưỡi thì làm đòng. Đòng là bông lúa non ngậm sữa. Đám chúng tôi hồi bé hay lẻn ra đồng trộm đòng đòng để ăn, nhai cả lá non lẫn hột thóc non. Biết vậy là bậy nhưng một phần đòng đòng rất… ngon (như ta ăn rau sống vậy), phần vì đói quá.

(Còn tiếp)

Chuyện lương thực, gạo (kỳ 5)

by Nguyễn Thông
6-2-2014
Như đã nói trong bài trước, suốt thời gian dài mấy chục năm ở miền Bắc, bảng xếp hạng “ngũ cốc” (năm thứ được coi là lương thực chính chứ không hẳn chỉ là hạt) gồm có lúa, ngô, khoai, sắn, đỗ (đậu). Có những đận, hai loại củ là khoai và sắn còn đánh bạt cả gạo trong bữa cơm gia đình.
Bao nhiêu thóc gạo làm ra, chính quyền dồn hết cho chiến trường để nuôi lính, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Trên đài Tiếng nói Việt Nam ngày nào cũng ra rả “Hạt thóc là hạt thóc vàng, nuôi chiến sĩ, thóc lên đường. Thóc thêm nhiều, thêm chiến thắng. Đồng thâm canh, lúa ngô nhiều là ta thắng to. A, chuyển thóc về kho, xóm làng làm xong nghĩa vụ, thêm thắm tình tiền tuyến hậu phương. Thóc ra đi, ta thỏa tình hậu phương. Thóc lên xe, ta mở đường hành quân” (Đỗ Nhuận).
Do hoàn cảnh chiến tranh, nền nông nghiệp lạc hậu, những thứ phục vụ nông nghiệp như máy móc, phân bón, giống má, kỹ thuật canh tác, nhân lực… đều thiếu thốn nên sản lượng lúa rất thấp, mỗi hecta chỉ cho vài tấn thóc. Ông nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý năm 1967 viết “Bài ca năm tấn” chẳng qua cũng nghe hơi bắc nồi chõ, do báo chí và tuyên giáo tuyên truyền vống lên, chứ khi đó lấy đâu ra 5 tấn. Tỉnh Thái Bình được ca ngợi là điển hình 5 tấn nhưng thực tế vẫn đói rài đói rạc.

Anh họ tôi, năm 1969 dạy ở trường sư phạm 10 + 3 Thái Bình, lúc đang còn sơ tán ở huyện Quỳnh Côi. Có lần, tôi mò sang chơi, ông anh tiếp bằng cơm nhà ăn tập thể của trường, độn bột mì, lại còn bảo Thái Bình 5 tấn “được tiếng khen ho hen cả đời”. Gạo thiếu trầm trọng, phần lớn được dồn ra tiền tuyến nuôi quân “ăn no đánh thắng”, vì vậy dân chúng nơi hậu phương, nhất là nông dân, ăn độn quanh năm.
Làm nông nghiệp, đánh vật với đất, một nắng hai sương, là lực lượng chính làm ra hạt thóc hạt gạo nhưng phải nói thẳng rằng nông dân lúc nào cũng thèm cơm. Gạo, bột mì do các nước anh em Liên Xô, Trung Quốc… viện trợ chỉ để nuôi lính và dân thành thị cày đường nhựa. Nông dân, cụ thể là đám thiếu nhi, thanh niên nông thôn chúng tôi hồi ấy, cùng với ông bà, thày bu mình, chỉ rặt ăn ngô, khoai, sắn, đỗ.
Gọi “ngũ cốc” cho sang chứ thực ra chỉ có tứ cốc, nồi cơm chạy qua hàng cốc gạo, và thứ “cốc” phổ biến nhất, phải xơi hằng ngày chính là khoai lang. Có khi còn ăn khoai cả vỏ, đến nỗi người đời truyền nhau chuyện nhiều đứa trẻ con ị phân còn nguyên cả vỏ khoai.
Làng quê tôi vùng duyên hải Hải Phòng, nằm lọt giữa hai dòng sông Văn Úc và Đa Độ, nghe người nhớn kể lại thì thuở xưa là vùng đất bãi bồi. Hồi tôi còn tuổi thiếu nhi thập niên 60 vẫn thấy làng mình có nhiều đầm nước sâu, dẫn nước từ sông Văn Úc vào tận cổng chùa Trà Phương, gần thành phủ. Đầm rộng mênh mông, cá tôm nhiều. Đi học về, tranh thủ buổi trưa vác cái dậm ra đầm là có lưng giỏ hoặc “dính đầy đít giỏ” tôm trứng, tép, cá bống mũn…
Bác Ỷ tôi chiều chiều vác chiếc cần câu dử làm bằng cả cây dùng (một loại trong họ tre nứa) dài thườn thượt 7 – 8 mét ra bờ đầm. Móc mồi là con chuồn lửa hoặc châu chấu vào lưỡi câu, dử dử vài nhát là cá giói đã lao tới tranh nhau đớp. Hôm nào bác cũng kết thúc cuộc câu dử với một xâu dài cá béo về khoe với bác gái. Có hôm giật trúng con cá giói to quá, bác kéo lên không nổi, phải kêu bọn trẻ con vào nhà cụ Hàn gần đó mượn cái rổ sề, xúc con cá đem lên. Trên đời tôi chưa thấy thứ cá nào ngon như cá giói đầm. Kho với dưa chua ngon béo không thể tả.
Cái đầm này, ông em rể tôi mày mò đọc những tư liệu cổ, cho biết nó vốn là một phần sông và bờ bãi sông Văn Úc, nối tuốt lên tận Dương Kinh là kinh đô trại của nhà Mạc cách đó năm, bảy cây số. Thời xưa thuyền bè dập dìu, trên bến dưới thuyền, những dịp lễ tết, hội hè đông vui chả kém chốn kinh thành. Sau thời thế thay đổi, bãi bể nương dâu, chiến tranh, lại cộng thêm sự tàn phá của con người, nhất là từ khi người ta lập ra hợp tác xã nông nghiệp, khung cảnh cổ kính cứ lụi tàn hoang phế dần, chỉ còn trơ lại chùa Trà Phương cô độc giữa đám nhà mái bằng mái ngói lộn xộn xung quanh.

(Còn tiếp)

Chuyện lương thực, gạo (Kỳ 6)

by Nguyễn Thông
5-3-2024

Con người ta để sống được phải có ăn. Ăn là “nhiệm vụ” hàng đầu. Người đời đã tổng kết tứ khoái, thì ăn chiếm vị trí số 1. Các cụ xưa từng kết luận một cách rất triết học “dĩ thực vi tiên” (lấy ăn làm đầu, làm trước hết). Cũng có dị bản câu này là “dĩ thực vi thiên” (lấy ăn làm trời). Dân chỉ sợ trời chứ chả sợ đứa nào, ăn cũng ngang trời, không có ăn thì đói bỏ mẹ, rã họng, chết.
Ở một nước có truyền thống nông nghiệp, còn được ca tụng là “văn minh lúa nước”, trong những thứ bỏ vào mồm, gọi chung thành lương thực thực phẩm, thì gạo ở vị trí hàng đầu, số 1. Bữa cơm (nấu từ gạo) trở thành hình ảnh quen thuộc không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt. Lu gạo, thùng gạo, hũ gạo, chum thóc, cót thóc, những thứ liên quan tới lúa gạo như cái liềm, cái néo, thúng mủng giần sàng, cối xay cối giã, đôi đũa cả… hầu như nhà nông dân nào cũng có. Những hộ ngoài phố thì quen với sổ gạo, tem phiếu mua lương thực. Bây giờ, muốn nhìn thấy chúng, chỉ có cách đến ngó những bảo tàng… cổ vật, bảo tàng về thời bao cấp.

Miền Bắc cuối thập niên 50, khoảng năm 1958 – 1959 chính quyền bày cho nông dân cách làm ăn tập thể, ban đầu là các tổ đổi công. Vài ba nhà, năm bảy nhà, hợp với nhau thành một tổ, tự quản, cùng chia sớt đỡ đần nhau việc này việc nọ, cày bừa cấy hái thu hoạch. Lúa nhà ai nhà nấy hưởng. Khi ấy tôi còn bé tí. Cứ như thày tôi kể sau này, thì tổ đổi công giúp nông dân làm ruộng dễ chịu hơn so với khi cá thể, nhất là hồi còn chiến tranh (chống Pháp). Cứ nghĩ chính quyền mới “chơi được”, ai dè, đang yên đang lành, đang phấn khởi, đùng một cái các bố hô hào làm ăn lớn, sản xuất lớn tiến lên chủ nghĩa xã hội, lập hợp tác xã nông nghiệp. Tổ đổi công tan vỡ, tất cả các hộ buộc phải góp ruộng góp trâu vào hợp tác xã. Nhà nào chùng chình chưa chịu vào, khốn khổ đủ điều với họ. Cái ngu của cộng sản xứ này là cứ thấy Liên Xô, Trung Quốc làm thế nào thì bắt chước bằng được, bất kể nó tai hại ra sao. Hợp tác xã nông nghiệp là ví dụ rõ nhất.

Tôi còn nhớ khi đó thanh niên hay hát một bài kể anh bộ đội vệ quốc được giải ngũ về quê nhà. Anh mơ ước “Đến nay mai đây thành nông trường/ Đời vui lên phơi phới”. Về sau thì biết nó là bài “Mời anh đến thăm quê tôi” của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, được ca sĩ Quốc Hương hát trên đài suốt ngày. Bọn thanh niên còn chế thành “Mời anh đến thăm quê tôi/ Mà xem mấy chú cao bồi/ Chiều lại chiều đi tán gái/ Sờ vào ...ồn nó đái ra tay”. Tôi mới học lớp i tờ, cũng bắt chước hát chứ đâu có hiểu gì, thày tôi trừng mắt mắng, a, mấy thằng ranh, điều hay chả học, chỉ học cái nhố nhăng, tôi và anh Tân con bác Ỷ chạy chí chết.

Hợp tác xã, nông trang, nông trường, công xã, đại công xã là tương lai xán lạn của nông thôn (nhân đây xin nhắc, xán lạn chứ không phải sán lạn, sáng lạn; xán lạn là rực rỡ, chói lọi). Cán bộ từ trên xuống dưới đều hỉ hả vậy. Nói theo kiểu bây giờ, hạnh phúc trong tầm tay. Nhưng thực tế cho thấy, tất cả chỉ là ảo tưởng, vẽ vời, ngu dốt, lừa dối, duy ý chí.
Kể từ khi có hợp tác xã, vĩnh biệt những bữa cơm no, nồi cơm gạo trắng. Lại quay về thời ăn độn, càng ngày độn càng nhiều. Anh tôi bảo, chỉ có thoát ly đi làm cán bộ mới được ăn cơm trắng, ăn no thôi.




$pageOut$pageIn Tết, lại nhớ xuân Mậu Thân 1968
by Nguyễn Thông Kỳ 1
11-2-2024

Đời người, có những thứ, dù không phải của riêng mình, nhưng không thể quên, không bao giờ quên. Tết Mậu Thân 1968 là dạng vậy.

Tại đang ngày tết, hôm nay mùng 2 Tết Giáp Thìn 2024, nên cái ký ức muốn đào sâu chôn chặt, vùi nó cho quên đi, lại thò ra. Đã 56 năm, gần một đời người theo chuẩn “lục thập hoa giáp”, tôi vẫn còn nhớ những gì liên quan tới nó, dù khi ấy mình còn hơi be bé.

Năm 1968, tôi đang học lớp 7 (hệ 10 năm). Đã biết làm văn nghị luận. Thầy giáo văn Ngô Minh Phất chuyên dạy văn lớp 7 trường cấp 2 Thụy Hương, cứ mỗi năm có thơ cụ Hồ chúc tết lại lấy bài đó bắt học trò làm bài phân tích tác phẩm hoặc bình giảng.

Cụ Hồ có thói quen làm thơ chúc tết, kể từ thời chống Pháp chứ chẳng phải chỉ sau này. Đó là các năm Bính Tuất 1946, Đinh Hợi 1947, Mậu Tý 1948, Kỷ Sửu 1949, Canh Dần 1950, Tân Mão 1951, Nhâm Thìn 1952, Quý Tỵ 1953, Giáp Ngọ 1954. Khi hòa bình và chiến tranh Bắc – Nam, vẫn có, như Bính Thân 1956, Kỷ Hợi 1959, Canh Tý 1960, Tân Sửu 1961, Nhâm Dần 1962, Giáp Thìn 1964, Ất Tỵ 1965, Bính Ngọ 1966, Đinh Mùi 1967, Mậu Thân 1968, và Kỷ Dậu 1969.

Có nhiều công trình tìm hiểu, nghiên cứu, ca ngợi thơ chúc tết của cụ Hồ. Thôi thì ăn cơm chúa múa tối ngày, không có gì lạ. Chứ nói thẳng nói thật, thì nó chỉ là dạng vần vè, nôm na, nhỉnh hơn khẩu hiệu tí ti. Chính cụ tác giả cũng từng thừa nhận trong bài chúc tết năm Giáp Thìn 1964: “Mấy lời thân ái nôm na/ Vừa là kêu gọi, vừa là mừng xuân”, chứ không phải tôi bịa, cố ý hạ thấp.

Người khác mà viết “thơ” vậy, có khi bị các nhà phê bình dạng Như Phong, Hoài Thanh, Hà Xuân Trường, hoặc các nhà thơ chuyên nghiệp như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu nện tơi tả, chết chứ đùa.
Thực ra, bài năm 1964 này có thể coi là bài hay nhất trong đám “thơ chúc tết” của cụ, mà nhiều người biết, trong đó có mấy câu “Bắc Nam như cội với cành/ Anh em ruột thịt, đấu tranh một lòng/ Rồi đây thống nhất thành công/ Bắc Nam ta sẽ về trong một nhà” (cũng có bản chép “Bắc Nam ta lại vui trong một nhà”).

Về sau thì tôi hiểu, một phần ông cụ thích làm thơ, nên chúc tết cũng ra vẻ thơ phú tí cho nó văn nghệ, một phần ở cương vị ấy, được giao trách nhiệm rồi, buộc phải có vài lời trước quốc dân đồng bào, chứ có khi không thích lắm. Bằng chứng là một số năm không có thơ chúc tết, ví dụ năm 1955, Tết Ất Mùi, lại chính là cái năm bu tôi đẻ ra tôi. Trong di sản thơ chúc tết của cụ Hồ, người ta nhớ nhất, thuộc nhất ba bài cụ viết ba năm cuối đời, tết các năm 1967, 1968, 1969, trong đó đáng lưu ý bài chúc tết – thơ xuân Mậu Thân 1968.

(Còn tiếp)

Tết, lại nhớ xuân Mậu Thân 1968
by Nguyễn Thông
Kỳ 2
13-2-2024

Như thường lệ, đón xuân Mậu Thân 1968, với trọng trách chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quốc gia ở miền Bắc (còn nửa kia là miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, cũng là một nước độc lập tự chủ, có tên Việt Nam Cộng hòa), cụ Hồ lại chúc tết. Như đã nói, ông cụ chúc tết bằng thơ, dù thơ không hay. Cần gì hay, cốt yếu là truyền đạt được mệnh lệnh, mục đích, chỉ tiêu để dân chúng, chiến sĩ thực hiện. Hầu như bài nào cũng vậy.

Cho tới nay, cụ qua đời đã gần 55 năm nhưng chưa thấy nghiên cứu sinh nào làm luận án tiến sĩ về thơ chúc tết của cụ Hồ, tinh dững lạc sang đề tài cầu lông, bóng bàn, hoạt động của hội phụ nữ… Tôi mà là giám đốc học viện quốc gia nào đó, tôi cho 5 – 7 người đồng loạt làm đề tài này luôn, đặc cách thành công luôn, khỏi cần người hướng dẫn, tổ chức bảo vệ.

Bài thơ chúc tết Mậu Thân 1968 như sau: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/ Thắng trận tin vui khắp nước nhà/ Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/ Tiến lên!/Toàn thắng ắt về ta”.

Bài này đã được khá nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, phát hát trên đài suốt ngày, khí thế lắm. Hai bài còn lại trong nhóm ba bài cuối đời của ông cụ cũng có số phận sôi động như vậy. Bài Tết Đinh Mùi 1967 là: “Xuân về xin có một bài ca/ Gửi chúc đồng bào cả nước ta/ Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi/ Tin mừng thắng trận nở như hoa”.

Bài Tết Kỷ Dậu 1969 là một trong ba bài viết theo thể lục bát (Hai bài kia là Tân Mão 1951, Giáp Thìn 1964), và cũng là bài cuối cùng, chấm dứt sự nghiệp thơ chúc tết của tác giả: “Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/ Vì độc lập, vì tự do/ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/ Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào/ Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn”.

Điều dễ thấy nhất ở những bài thơ chúc tết này là hầu hết đều có nội dung đánh nhau, hiếu chiến, sát khí, đánh thế này, đánh thế kia, kẻ thù này, kẻ thù nọ; thắng và thắng, chúc tết nhưng hầu như không nhắc gì tới người lao động, tới hoạt động lao động sản xuất.
Chính ông cụ là người gọi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là “ngụy”, cho nên sau này có những đề nghị phải bỏ từ “ngụy” ấy đi, tôi nói thật, bỏ thế nào được, không ai dám bỏ dù rất cần bỏ, ngoại trừ có Gorbachov Việt. Sự hòa hợp hòa giải nhiều khi vướng phải những thứ rất vớ vẩn.

Thông thường, người ta làm thơ khi tức cảnh sinh tình, hoặc trong hoàn cảnh cụ thể tạo sự rung động, cảm xúc (thời trước các nhà thơ gọi cái ấy là “yên sĩ phi lý thuần” – cảm xúc, cảm hứng sáng tạo) thì sinh thơ. Nhưng cụ Hồ làm thơ theo đơn đặt hàng của tổ chức. Bài thơ chúc tết Mậu Thân 1968 là rõ nhất. Có lẽ cụ viết vào lúc gần cuối năm 1967, hoặc đầu năm 1968, lúc vẫn còn năm cũ Đinh Mùi nhưng chưa sát Tết. Viết xong thì Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức thu âm để phát trong đêm giao thừa. Hồi ấy chưa có đài truyền hình. Tại sao vậy?
Theo lời kể của ông Vũ Kỳ, người giúp việc thân tín của cụ Hồ, nửa năm sau của năm 1967 có nhiều biến động về nội bộ. Trung ương liên tục đưa ông Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để… chữa bệnh. Tháng 9, họ đưa ông sang Bắc Kinh, ở mãi tới đó, tới gần cuối tháng 12 mới chở về. Cụ chưa nóng chỗ ở nhà sàn, đầu tháng 1.1968, tức khi ấy đã đầu tháng chạp, trước Tết Nguyên đán Mậu Thân một tháng, họ lại đưa sang Bắc Kinh.
Cụ trùm sang đó, đàn em ở nhà muốn làm gì thì làm, không cần phải xin ý kiến ý cò, tha hồ họp bàn chuyện đại sự quốc gia. Ông Vũ Kỳ đã kể khá chi tiết chuyện này trên báo quốc doanh. Thơ chúc tết thì cụ đã làm sẵn rồi, chỉ việc phát đúng thời điểm thôi.

Điều khác duy nhất của bài thơ Tết Mậu Thân 1968 so với những bài còn lại, là nó được dùng làm hiệu lệnh tiến công, tổng tiến công trên toàn miền Nam, sau này được gọi bằng cái tên “Tổng tấn công xuân Mậu Thân”.

(Còn tiếp)

Tết, lại nhớ xuân Mậu Thân 1968
by Nguyễn Thông
Kỳ 3
16-2-2024

Theo chính sử của nhà nước này, cuộc tổng tấn công nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 là cuộc tấn công chiến lược nhằm mục đích “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, xóa bỏ hoàn toàn chính quyền Sài Gòn, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, mục đích này đã không đạt, cả hai bên đều chịu nhiều tổn thất nặng nề. Thủ đô Sài Gòn cũng như nhiều đô thị khác ở miền Nam, nhất là Huế, bị tàn phá cực kỳ nghiêm trọng, đổ nát, hoang tàn, người dân bị tai bay vạ gió chết chóc thảm thương. Phe “cách mạng” hao người tốn của, tới mức phải mấy năm sau mới dần hồi phục.
Nhà văn Nguyên Ngọc có kể lại trên báo Nông nghiệp Việt Nam: “Nên nhớ thời đen tối nhất của chiến tranh miền Nam là thời sau Mậu Thân. Bị chúng nó đánh chạy dạt sang tận Campuchia. Đói, chết, rách nát, tan rã, tháo chạy”. Nói gì thì nói, cuộc cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt, anh em một nhà giết nhau thì chả bên nào thắng, như bác Nguyễn Duy viết “phe nào thắng thì nhân dân đều bại”.
Cuộc tổng tấn công nổi dậy Mậu Thân 1968 chính thức mở màn, nổ súng đúng giao thừa 30 tết, mặc dù tết năm nào cũng như năm nào, hai phe đối địch đều công bố thỏa thuận ngừng bắn “để người dân đón xuân vui tết”. Sử “chính thống” và đài báo nhà nước đều nói rõ giờ nổ súng là 0 giờ ngày 30.01.1968, tức bắt đầu mùng 1 Tết Mậu Thân.
Như đã nói, hiệu lệnh nổ súng là bài thơ chúc Tết do ông Hồ đọc trên đài Tiếng nói Việt Nam. Chỉ có điều, như sau này người ta phân tích, cả các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và bộ máy tham mưu, tác chiến của Bắc Việt đã không tính, không tỉ mỉ được một số điều cực kỳ quan trọng.
Về thời gian, trước năm 1967, Việt Nam lấy giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8.8.1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành quyết định đổi lịch, dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn. Vì thế, hai miền Nam – Bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân vào hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29.1 (mùng 1 tháng giêng), trong khi miền Nam vẫn theo lịch cũ là sang ngày 30.1 dương, cũng mùng 1 tháng giêng). Giao thừa khác nhau, lệch nhau hẳn một tiếng đồng hồ, mà miền Bắc lại đón trước, trong khi 1 tiếng đồng hồ sau miền Nam mới giao thừa.
Nếu cứ đồng loạt nổ súng căn vào thơ cụ Hồ thì cũng chả sao, nhưng toàn miền Nam bấy giờ đâu phải chỗ nào, đơn vị nào cũng mở được radio mà chờ hiệu lệnh. Rất nhiều đơn vị cứ căn theo giao thừa, theo giờ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo đài Sài Gòn, theo tiếng pháo miền Nam đón xuân.
Sự “lệch múi giờ” ấy đã gây ra hậu quả cực kỳ tai hại, không tạo ra được cái mà phe cộng sản kỳ vọng “đồng loạt tổng tấn công nổi dậy khiến địch bất ngờ không kịp trở tay”. Ngoại trừ ở thủ đô Sài Gòn, thì yếu tố bất ngờ đã không còn nữa. Mà ngay tại Sài Gòn-Chợ Lớn, nhiều đơn vị phe “cách mạng” cũng ngơ ngác không hiểu vì sao lại nổ súng sớm thế, không như đã được quán triệt, chỉ đạo. Tôi nhớ ông Trần Bạch Đằng từng có bài nói về chuyện này (đã từng đọc, chỉ có điều tìm chưa ra).

Những năm sau, trong nền "văn học cách mạng", cuối thập niên 1970 có cuốn tiểu thuyết “Đất trắng” của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh (còn có bút danh Nguyễn Thành Vân), viết về hậu cuộc tổng tấn công nổi dậy Tết Mậu Thân. Khốc liệt tới mức có cả một đại tá chính ủy sư đoàn chịu chiêu hồi, đầu hàng. Viên thượng tá chính ủy ấy, trong truyện ông Oánh đặt tên Tám Hà[n], nhưng có thực. Xuất bản một thời gian, tác phẩm này bị cấm, bởi “bôi xấu hình ảnh cao đẹp của bộ đội giải phóng”. Chỉ “ta thắng địch thua” chứ làm gì có chuyện đầu hàng.

(Còn tiếp)

$pageOut$pageIn Tết, lại nhớ xuân Mậu Thân 1968

by Nguyễn Thông
Kỳ 4
20-2-2024

Năm xảy ra vụ Mậu Thân 1968, tôi sắp lên lớp 7, anh trai tôi sắp vào lớp 10 (hệ 10 năm). Huyện đội, xã đội đã lập danh sách nhà nọ nhà kia có mấy con trai, đang bao nhiêu tuổi, cứ qua tuổi 16 chạm 17 là gửi trát khám sức khỏe tận tay.
Nhà tôi cả già lẫn trẻ, đàn ông đàn bà có sáu người, chưa ai đi bộ đội. Anh tôi biết tương lai gần của mình là vậy, nên vừa xong lớp 10 thì lên đường ngay. Sau xuân Mậu Thân, chiến trường khát lính chưa từng có, bao nhiêu cũng không đủ. Điều này xảy ra lần thứ 2 khi mùa hè đỏ lửa 1972 ở Quảng Trị. Khi đó, tôi đang lớp 10, cũng chuẩn bị tâm thế như anh mình, nhưng họ xét thực tế nhà có hai trai, đã đi một nên được tạm hoãn. Nhiều bạn cùng lớp 10 với tôi bị đi và mãi mãi không về.

Chiến tranh, bắn giết nhau, chả ai muốn, nhưng phe phái, ý thức hệ đã đẩy con người vào chết chóc. Nói về nó (chiến tranh) có những lời đau xót muôn đời. Tôi cho rằng “hay” nhất là ba câu: Vương Hàn (thế kỷ 8 bên Trung Quốc) viết trong bài “Lương Châu từ” đúc kết “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (xưa nay chiến tranh đi đánh nhau có mấy ai được trở về). 12 thế kỷ sau, thi sĩ Nguyễn Duy, người xứ Thanh, chua chát thốt lên “Nghĩ cho cùng/ Mọi cuộc chiến tranh/ Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”.

Nhưng có lẽ thể hiện đúng bản chất cuộc chiến Bắc – Nam huynh đệ tương tàn là câu “thơ” dân gian “Ba lô con cóc, anh đi em khóc”. Tôi không biết nó có từ bao giờ nhưng sau xuân Mậu Thân 1968 rất phổ biến. Nông thôn, làng quê miền Bắc như trải qua trận cuồng phong, hồng thủy. Xám xịt, u ám, buồn thảm, đàn ông vào chiến trường gần hết, chỉ còn người già, đàn bà và trẻ con. Chinh phu, chinh phụ đều buồn. Kẻ đi người ở đều bi kịch, chỉ những anh mưu mẹo ăn bổng lộc chế độ thì mới cố tình ca ngợi “con đường ra trận là con đường vui” thôi.

Nhân đây cũng nói thêm, cho tới nay có vô vàn cách gọi tên cuộc chiến Bắc – Nam 1954-1975, nhưng càng ngày bản chất của nó càng được chỉ ra đúng như nó vốn có. Rồi có ngày lịch sử sẽ chép lại một cách trung thực chứ không như sử quốc doanh bây giờ.

Tôi tò mò để ý, trong các văn nghệ sĩ, nhà thơ nhà văn, nhà báo, trí thức cấp tiến (bị ông tổng bí thư gán cho cái tội “tự diễn biến, tự chuyển hóa”) có những vị đã nói thẳng về nó, trong số ấy phải kể nhà thơ Bùi Chí Vinh, nhà ngoại giao Nguyễn Đình Bin, nhà báo Huy Đức. Bác Bùi Chí Vinh luôn sổ toẹt gọi nó là cuộc huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Có lẽ tôi cần biên bài ngắn riêng về bác “thẳng tưng”, nghĩa khí đáng khâm phục này.

Sau Mậu Thân 1968, tuổi học cấp 2 cấp 3 thời ấy như anh em tôi đã có thể sàng lọc được thông tin mà nhận biết đúng sai, nhưng sống ở miền Bắc, tất cả chỉ có nguồn duy nhất là bộ máy tuyên truyền của nhà nước, nên họ rót vào tai (qua đài), đập vào mắt (qua báo) thế nào thì đành biết vậy, tin vậy. Phải công nhận điều này: Người cộng sản rất giỏi đánh nhau và tuyên truyền. Không ai giỏi bằng họ, cả hai việc ấy.

(Còn tiếp)

Tết, lại nhớ xuân Mậu Thân 1968
by Nguyễn Thông
Kỳ 5
23-2-2024

Tôi (và chắc nhiều người lứa tôi) còn nhớ, sau “chiến công” Mậu Thân 1968, bộ máy tuyên truyền ở miền Bắc ca tụng dữ lắm. Cứ như đài tiếng nói Việt Nam, như các báo Nhân Dân, Quân đội nhân dân (hồi thập niên 60 chủ yếu là hai tờ này, chứ báo địa phương hoặc báo của các tổ chức, đoàn thể khác đều không đáng kể) thì đây là đòn đánh bất ngờ, choáng váng, kỳ diệu, khiến kẻ thù (Mỹ và ngụy, hồi đó chính quyền Sài Gòn bị chết tên là ngụy) trở tay không kịp. Đài hát suốt ngày, nào là “Tiến về Sài Gòn/ ta quét sạch giặc thù/ tiến về Sài Gòn/ ta tiến về thành đô” (lời bài hát Tiến về Sài Gòn của Huỳnh Minh Siêng (Lưu Hữu Phước). Đoạn này về sau được dân chúng cải lời thành “Tiến về Sài Gòn/ ta chiếm nhà mặt tiền/ tiến về Sài Gòn/ ta chiếm nhà thật toooo”.

Các ông Hồ Bắc, Trọng Bằng, Huy Du, Đỗ Nhuận, Nguyễn Đức Toàn… đều say sưa với chiến thắng, nào là “Ta đang sống những ngày lịch sử/ Ta xốc tới bước trên đầu thù/ Ta phất cao lá cờ thắng lợi trên Sài Gòn” (Sài Gòn quật khởi, Hồ Bắc), “Chào mùa xuân chiến thắng/ khắp nước đang tưng bừng/ Cùng vùng lên ta quyết tiêu diệt giặc Mỹ xâm lăng/ Ta phá tan tành bè lũ tay sai/ Mau tiến tới toàn thắng lợi/ Bão nổi lên rồi” (Bão nổi lên rồi, Trọng Bằng), v.v…

Nhà văn Nguyễn Văn Bổng (bút danh Trần Hiếu Minh) khi ấy tham gia cuộc tổng tấn công Mậu Thân đã liên tục gửi tác phẩm ra ngoài bắc để phát trên đài. Nhà thơ Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến) con cụ Ca Văn Thỉnh, rồi nhà văn Nguyễn Thi (Nguyễn Ngọc Tấn) cũng vậy, bài của họ được đài phát suốt ngày. Đọc xong rồi hát, hát xong lại đọc. Thắng to rồi, giải phóng miền Nam đến nơi rồi, cả người lớn và trẻ con đều bảo vậy.

Tôi nhớ, năm 1969, khi mới vào lớp 8 (hệ 10 năm), đám chúng tôi được thầy Duyên, dạy môn chính trị của Trường cấp 3 Kiến Thụy nói về thắng lợi và ý nghĩa của cuộc “tổng tấn công nổi dậy Mậu Thân 68”, đại loại thầy kể quân ta rất khôn khéo, mưu mẹo, chọn đúng thời điểm giao thừa để nổ súng, hai bên đang thực hiện thỏa thuận ngừng bắn, địch có khôn đằng trời cũng không thể nào ngờ được.

Thầy phân tích, súng nổ trong tiếng pháo tết râm ran, làm sao chúng có thể phân biệt. Chỉ riêng điều này đã cho thấy quân ta giữ thế chủ động hoàn toàn, thầy Duyên chốt lại. Thầy nói tiếp, nhờ có thắng lợi của Mậu Thân 68 mà Mỹ ngụy đã phải bỏ thói ngoan cố, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán hội nghị Paris. Thầy Duyên nói tới đó rồi chỉ tay sang thầy Mạnh dạy tiếng Anh, đây, nói có sách, mách có nhân chứng, ngày mai thầy Mạnh sẽ lên đường đi Ba Lê để phiên dịch.

Chúng tôi biết, thầy Mạnh đã dạy tiếng Anh từ thời Pháp, rất giỏi, cả trường tôi có mỗi mình thầy dạy ngôn ngữ này, trong khi tiếng Nga cả nửa chục thầy cô. Thầy Mạnh đi công tác phiên dịch cho hội nghị, bọn học dở dang tiếng Anh bị chuyển sang học tiếng Trung với lớp tôi, do thầy Dừa và cô Vương Ngọc Bảo, người Hoa, dạy.

Có lần khác, thầy Duyên còn kể cho bọn học trò nghe những chuyện quân giải phóng, nhất là bộ đội đặc công, biệt động đã xuất quỷ nhập thần, thiên biến vạn hóa như thế nào. Không chỉ đánh tan, đánh sập tòa đại sứ Mỹ (như lời thầy kể), cả dinh Độc Lập, biệt động còn đánh những hang ổ Mỹ như nhà hàng Văn Cảnh, Mỹ Cảnh, khách sạn như Victory, Caravelle, cả rạp hát, rạp chiếu phim như Casino, Eden, khiến Mỹ ngụy chết cơ man mà kể…

Thầy như người say chiến thắng, khiến chúng tôi bị say theo, chỉ nghĩ tới “ta thắng địch thua” chứ không bợn thêm điều gì. Sau này thì hiểu, Mỹ chết một thì dân chết mười. Không khác gì quân khủng bố Bin Laden. Hình như bên thắng cuộc cũng lờ mờ hiểu vậy nên dần dà họ không ca ngợi nữa.

Không chỉ thầy Duyên, các cán bộ tuyên giáo, tuyên huấn, tuyên truyền của bộ máy cầm quyền miền Bắc khi ấy đều như thế. Nhưng cũng chính họ đã cầm tờ báo Nhân Dân đọc cho người khác nghe những điều… ngược lại. Báo Nhân Dân số ra ngày 31.01.1968 (nhằm ngày mùng 3 tháng giêng Mậu Thân) tức là chỉ sau lệnh nổ súng khai hỏa mở màn cuộc tổng tấn công do miền Bắc chủ động tiến hành ba ngày, đã đăng bài “Người phát ngôn Bộ Ngoại giao ta và người phát ngôn Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam tố cáo: Mỹ và tay sai trắng trợn phá hoại ngày tết của nhân dân ta”.
Trong bài, phe cộng sản nhấn mạnh “Mọi người đều biết rằng, ngày 17.11.1967, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã công bố lệnh ngừng tiến công quân sự 7 ngày nhân dịp Tết Nguyên đán để nhân dân miền Nam Việt Nam được tổ chức ngày tết của mình, và nhân viên ngụy quyền, ngụy quân được về đoàn tụ với gia đình theo đúng phong tục lâu đời của Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ đã tỏ ra rất ngoan cố, chúng đã hủy bỏ hoàn toàn việc ngừng bắn trong ngày Tết Nguyên đán 1968. Thái độ trơ tráo bỉ ổi của Mỹ trong vấn đề ngừng bắn nhân dịp tết là một sự khiêu khích hết sức trắng trợn. Bộ Ngoại giao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cực lực tố cáo thủ đoạn lật lọng nói trên của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, nghiêm khắc lên án chúng đã chà đạp lên phong tục tập quán của nhân dân Việt Nam” -(hết trích).
Cùng trên trang báo này còn có bài “Bộ mặt tráo trở, xảo quyệt của đế quốc Mỹ và tay sai”, nội dung tương tự vậy.
Cái này, thiên hạ gọi là “gắp lửa bỏ tay người”, rất kinh. Còn bây giờ gọi là “cầm đá ghè chân mình”.
Có nhẽ không cần nói nhiều, bàn nhiều về phe nào âm mưu, lên kế hoạch, chủ động nổ súng trước, xé bỏ thỏa thuận ngừng bắn đã ký kết dịp Tết Mậu Thân 1968, bởi tới nay những góc khuất, giấu giếm, xuyên tạc đã bị bạch hóa, kết luận rõ ràng. Ít nhất cũng còn nhân chứng gần chục triệu người miền Nam, từ Quảng Trị trở vào.
Từ chuyện này, người đời có thể tỉnh táo xem xét lại những chuyện vi phạm hiệp định Geneve 1954, hiệp định Paris 1973 hoặc bất cứ thỏa thuận nào khác, không hẳn như bộ máy tuyên truyền độc quyền đã nhồi nhét vào đầu. Sự tuyên truyền lừa bịp và lịch sử một chiều khiến con người ta ngây ngô và hiểu đời một cách méo mó, thảm hại.

Đã 56 năm trôi qua từ cái đêm giao thừa Tết Mậu Thân kinh hoàng ấy. Rồi các thế hệ sau sẽ dần hiểu để minh định đúng sai, hay dở.
Chợt nhớ câu thơ của thi sĩ Tô Thùy Yên, người đã bị bên thắng cuộc đày ải, giam giữ cầm tù hơn 10 năm trời, dù ban đầu họ chỉ nói rằng “đi học tập cải tạo” một thời gian. Ông đã xóa bỏ hận thù sau chục năm trong địa ngục cộng sản:

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc bể dâu này.


$pageOut$pageIn
ngày đăng (repost): Jul. 20, 2024
MỘT NGÀY TẠI HÀ NỘI
(18-2-1973)

PHẠM HUẤN
NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

MAI CHỬNG TRÌNH BÀY VÀ PHỤ TRÁCH KỸ THUẬT
DIỀU HÂU XUẤT BẢN VÀ GIỮ BẢN QUYỀN
GP Số 607/PTUDV/PHBCNT/KSALP NGÀY 21-3-1973



Tài Liệu đặc biệt của Lê Tùng Châu, đã đăng trên Library này vào March 30, 2009. Được đăng lại một phần cho Post này (on Jul. 20, 2024 with updated full PDF format - downloadable link is available at the bottom).


....Không phải chúng ta chỉ biết đo sự thịnh vượng của một quốc gia bằng những chiếc xe hơi, nhưng quả thật suốt một ngày ở Hà Nội chúng tôi chỉ nhìn thấy độ một chục chiếc xe hơi, hầu hết đều của các phái đoàn ngoại giao ở Hà Nội, còn toàn thể dân Hà Nội đều di chuyển bằng xe đạp, tàu điện hoặc đi bộ. Năm 1954, số xe hơi ở Hà Nội đâu có ít?
Những thiếu nữ yêu kiều, thướt tha của Hà Nội xưa, đã biến hết, chỉ còn lại mấy cô nữ cán bộ mặc đồng phục màu xám nhạt, hoặc những nữ công nhân quần đen bạc, áo cháo lòng. Cả thành phố không có lấy một người mặt áo dài.
Như thế, chẳng phải là nhà chuyên gia về kinh tế, người ta cũng nhận thấy ngay rằng, Hà Nội đã quá nghèo khổ mất rồi. Cả thành phố không lấy một cửa hàng mở cửa. Tất cả sinh hoạt thương mãi của thủ đô tập trung ở một cửa hiệu bách hóa của nhà nước. Một nền kinh tế như thế còn lấy đâu ra cơ hội phát triển?......


- trích bút ký Một Ngày Tại Hà Nội by Phạm Huấn & Nguyễn Đình Toàn, Saigon 1973

Trung Tá PHẠM HUẤN, Hanoi 1973


Front Cover of Pham Huan Mot Ngay Tai Ha Noi third edition by DAT Inc. USA 1987


MỘT NGÀY TẠI HÀ NỘI


(18-2-1973)

PHẠM HUẤN
NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

PHẠM HUẤN
TÁI NGỘ HÀ NỘI SAU
19 NĂM TRONG CHUYẾN HÀNH TRÌNH
ĐẶC BIỆT NGÀY 18 - 2- 1973
VÀ NHỮNG HÌNH ẢNH HÀ NỘI NGÀY NAY


NGUYỄN ĐÌNH TOÀN
HÀ NỘI TRONG KỶ NIỆM
VỚI PHẦN THƠ VĂN, HÌNH ẢNH
CỦA VŨ BẰNG, THẠCH LAM, VŨ HOÀNG CHƯƠNG,
NHẤT TUẤN, NGUYỄN MẠNH CÔN
MAI THẢO, ĐINH HÙNG, TRẦN
QUỐC LỊCH, DƯƠNG NGHIỄM MẬU
HỒ HỮU TƯỜNG, THANH TÂM TUYỀN, NGUYỄN CAO ĐÀM



MỘT NGÀY TẠI HÀ NỘI
MAI CHỬNG TRÌNH BÀY VÀ PHỤ TRÁCH KỸ THUẬT
DIỀU HÂU XUẤT BẢN VÀ GIỮ BẢN QUYỀN
GP Số 607 / PTUDV / PHBCNT / KSALP NGÀY 21-3-1973



Cuốn sách mỏng này được hoàn tất và ấn hành trong một thời gian kỷ lục, chắc chắn nó có những thiếu sót. Nhưng chúng tôi hy vọng nó vẫn đáp ứng được phần nào sự mong đợi của tất cả những ai muốn biết những tin tức xác thực về Hà Nội, sau 19 năm Hà Nội bị đặt dưới sự thống trị của chế độ Cộng Sản Bắc Việt.
Cũng như tất cả những người yêu Hà Nội, tất cả những người Việt Nam yêu nước, mong ước một ngày tổ quốc thống nhất, dù được chỉ định thi hành một công tác với những nhiệm vụ rõ rệt, chúng tôi vẫn cảm thấy một nỗi bồi hồi và sung sướng riêng của một người được trở lại cố hương sau gần hai mươi năm cách biệt.
Cố hương? Vâng, đúng như thế, không còn cái chữ nào khác để chỉ Hà Nội, đối với một triệu người rời bỏ đất Bắc vào năm 1954. Nhưng với cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài gần hai mươi năm đó, với kinh nghiệm của tất cả các nước bị phân chia vì cuộc tranh chấp giữa chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Quốc Gia, ở đâu và người nào phía nào cũng vẫn chỉ muốn coi đó như một cuộc chia cắt tạm thời, song người ta đều hiểu rằng, chưa biết đến bao giờ mới có thể giải quyết được cái tình trạng chia cắt tạm thời ấy, sự tạm thời do đó, tự nó, đã nhuốm tính cách vĩnh viễn.
Chính ở trong các Quốc Gia mà sự mong ước thống nhất bộc phát tích cực nhất -- thường thường là phía Cộng Sản muốn thôn tính nốt phần đất còn lại, phía quốc gia ôn hòa hơn, chỉ làm công việc tự vệ, -- nghĩa là có chiến tranh, mà cuộc chiến tranh tại Việt Nam có thể coi như điển hình, về cả hai phương diện : sự quyết tâm của hai bên và sự thiệt hại do cuộc chiến gây ra, đã chiếm hết những kỷ lục của lịch sử chiến tranh nhân loại.
Miền Nam nhận được sự ủng hộ tích cực và công khai của phe thế giới tự do, miền Bắc cũng nhận được sự viện trợ không kém của phe Cộng Sản, dù kín đáo hơn.
Thỏa ước ngưng bắn – nhưng bắn tại chỗ và nguyên trạng – vừa được các phe tham chiến ký kết, đạt được, sau mười chín năm đánh nhau không ngừng nghỉ, và từ ngày thỏa ước ngưng bắn được chính thức ký kết, sự vi phạm của phe Cộng Sản đã làm cho Ủy Hội Quốc Tế nản chí, thậm chí có phái đoàn phải tuyên bố bất lực, dự định bỏ về nước, như phái đoàn Gia Nã Đại.
Ngưng bắn đã được ký kết nhưng số người chết vì chiến tranh vẫn không giảm.
Một thực trạng tranh chấp như vậy, viễn tượng một ngày hòa bình là cả muôn chung ngàn khó, ngày thống nhất đất nước, gần như chỉ còn là một ảo tưởng.

*********

Tuy nhiên, sự tuyệt vọng quá sớm ấy, hình như chỉ là bài học của cuộc chiến tranh cay đắng đang diễn ra trên đất nước dạy cho chúng ta.
Cuộc trở về Hà Nội ngày 18 tháng 2 năm 1973 vừa qua, của ba sĩ quan VNCH, mà tôi là một, giống như một hy vọng lớn lao, lớn lao nhất ở chỗ hình như cái niềm hy vọng ấy đã thay thế được cho sự tuyệt vọng.
Thật chẳng khác một giấc mơ, khi máy bay đáp xuống phi trường Gia Lâm, chúng tôi với quân phục và huy hiệu của QLVNCH trên người, và bước xuống giữa một rừng sĩ quan và cán bộ Bắc Việt, mà không phải nổ súng và ngược lại, đối với tôi, một người ở trong quân ngũ 17, 18 năm liên tiếp, một sĩ quan với huy hiệu Nhảy Dù trên ngực áo, đã có quá nhiều kinh nghiệm với Cộng Sản, cái giây phút chúng tôi đặt chân xuống Gia Lâm là một giây phút kỳ lạ đáng ghi nhớ.

Ngồi trên chuyến xe di chuyển từ Gia Lâm về Hà Nội, nhìn thấy Hồ Gươm, Tháp Rùa, tôi có trong lòng một nỗi xao xuyến muốn làm ứa lệ.
Tôi biết rằng, nhìn thấy Hà Nội đây, là nhìn thấy bằng một triệu đôi mắt của người xa Hà Nội năm nào. Tôi đang di chuyển an lành trên những đường phố Hà Nội đây, là đòi hỏi bằng xương máu của bao nhiêu bằng hữu, bao nhiêu huynh đệ, bao nhiêu người quen biết và không quen biết, đã chết và còn sống, của 17 triệu dân miền Nam yêu nước đang trông ngóng một ngày hòa bình, thống nhất, nhưng không phải là hòa bình với bất cứ giá nào, thống nhất với bất cứ giá nào.

Tôi hiểu được tại sao con người có tình riêng nhưng không thể tách rời ra khỏi tập thể.

Con đường này, xưa chúng tôi hằng ngày đi qua, cắp sách đến trường. Căn nhà này, xưa, tôi đã ở. Bạn bè tôi xưa, những ai còn, ai mất ? Người yêu tôi xưa bây giờ bao tuổi, bao già ? Tôi có thể gọi tên từng đứa bạn, gọi tên từng người con gái đẹp của Hà Nội khi xưa, tôi có thể chỉ đúng căn nhà họ ở, bây giờ họ còn ở đấy chăng ? Ngồi trên máy bay nhìn xuống, Hà Nội giống như một khuôn mặt kiều diễm, Tháp Rùa chẳng khác cái nốt ruồi của thành phố ! Tôi biết rằng, nếu biết được tôi nghĩ như thế, ai sẽ mỉm cười. Cái cậu con ttrai nhảy chân sáo trên lối đi này khi xưa là tên vẫn còn ẩn núp trong tôi thật sao ? Tôi mừng biết bao, khi nhận ra, vài ba mươi năm liền nghe tiếng nổ, nhìn thấy khói, ngửi mùi tử khí, tai tôi chưa điếc, mắt tôi chưa mờ, mũi tôi vẫn còn phân biệt được những mùi hương phảng phất của sương mù tháng giêng Hà Nội.

Nỗi nhớ thương Hà Nội đã choán ngợp tâm trí đến độ trong khoảnh khắc tôi không còn nhận ra Hà Nội đã không còn là Hà Nội nữa.

Nước hồ vẫn xanh. Tháp Rùa vẫn như tự bao giờ giữ màu vôi cũ kỹ. Nhưng tất cả vẻ đẹp của Hà Nội, màu sắc của Hà Nội đã mất hết. Những người dân tôi nhìn thấy quanh hồ, chỉ còn là những người dân lam lũ, nghèo khổ, quần thâm, áo cánh, cắm cúi đi lại, hoặc đứng đợi những chuyến tàu điện, khăn gói vắt vai, quang gánh xếp bên lề đường, người nào cũng chỉ còn lại trên vẻ mặt một sự âm thầm, tất tưởi, gần như không còn ai có thì giờ hoặc muốn trò chuyện với ai nữa.

Ngày 18 tháng 2 chúng tôi trở về Hà Nội là ngày chủ nhật, nhưng Hà Nội không có một vẻ gì là được nghỉ ngơi cả.

Không phải chúng ta chỉ biết đo sự thịnh vượng của một quốc gia bằng những chiếc xe hơi, nhưng quả thật suốt một ngày ở Hà Nội chúng tôi chỉ nhìn thấy độ một chục chiếc xe hơi, hầu hết đều của các phái đoàn ngoại giao ở Hà Nội, còn toàn thể dân Hà Nội đều di chuyển bằng xe đạp, tàu điện hoặc đi bộ. Năm 1954, số xe hơi ở Hà Nội đâu có ít ?

Những thiếu nữ yêu kiều, thướt tha của Hà Nội xưa, đã biến hết, chỉ còn lại mấy cô nữ cán bộ mặc đồng phục màu xám nhạt, hoặc những nữ công nhân quần đen bạc, áo cháo lòng. Cả thành phố không có lấy một người mặt áo dài.

Như thế, chẳng phải là nhà chuyên gia về kinh tế, người ta cũng nhận thấy ngay rằng, Hà Nội đã quá nghèo khổ mất rồi. Cả thành phố không lấy một cửa hàng mở cửa. Tất cả sinh hoạt thương mãi của thủ đô tập trung ở một cửa hiệu bách hóa của nhà nước. Một nền kinh tế như thế còn lấy đâu ra cơ hội phát triển ?

Khi đi qua công viên Thống Nhất, công viên mới được nhà nước Cộng Sản Bắc Việt lấp một phần hồ Bẩy Mẩu, lập nên sau 1954 và đó cũng là kiến trúc duy nhất tại Hà Nội kể từ 1954 đến giờ, chúng tôi đã nhìn thấy những em bé, trong cái rét tháng giêng ở Hà Nội, cái rét cắt thịt như vậy, nhưng các em chỉ mặc phong phanh có một chiếc áo cánh mỏng hoặc một chiếc áo len cũ, và đi chân đất.
Thấy khách lạ, các em chỉ giương những cặp mắt ngây thơ ngó nhìn, chứ không nói cũng không em nào cười, như bản tính hồn nhiên thường thấy ở các em nhỏ.
Nói chuyện với các cán bộ, sĩ quan Bắc Việt được đề cử đón tiếp phái đoàn tới quan sát và dự lễ trao đổi tù binh tại Hỏa Lò Hà Nội là một việc hết sức chán nản. Đó không phải là những lời nói chuyện. Họ chỉ muốn hỏi, hỏi những câu hỏi đã được học sẵn, vì quanh đi quẩn lại, chỉ có ngần ấy câu hỏi, chốc chốc lại được nghe một người nhắc lại.
Ở khía cạnh nào tôi cũng cảm tưởng như đời sống của người dân miền Bắc đang tự thắt lại.
Khi nỗi nhớ Hà Nội như một kỷ niệm riêng, đã tạm lắng xuống, nhìn Hà Nội như một thủ đô chính trị, đối nghịch với chúng ta, có lẽ tôi nói như vậy không được chính xác lắm đối với tâm trạng của tôi lúc đó, mà phải nói rằng, nhìn Hà Nội như một thủ đô, một căn cứ, nơi những người cầm quyền Cộng Sản đặt cái guồng máy cai trị non một nữa dân tộc chúng ta, tôi cảm thấy ớn lạnh khắp người.
Tôi không biết có bao nhiêu người hiện sống ở miền Bắc thực sự tin theo chủ nghĩa Cộng Sản, nhưng nghĩ đến những người bạn, những người quen, họ hàng thân thích, năm 1954 đã không rời bỏ được Hà Nội để ra đi, vì lý do này hay lý do khác, tôi rùng mình kinh sợ.
Tôi muốn gặp và hỏi thẳng một vài người, nhưng tôi đã không làm được việc ấy. Người ta đã không cho chúng tôi ra khỏi những lộ trình đã được định trước. Mà giả thử người ta có đi được, gặo được những người mình muốn gặp, chúng tôi cũng không dám làm việc này, bởi vì, chúng tôi không thể biết liệu những người ấy có dám nói thật những điều họ nghĩ không, và nhất là sau khi chúng tôi đi khỏi, những người cầm quyền Cộng Sản sẽ làm gì họ?

Không còn phải là những lời tuyên truyền hay đồn đãi nữa, tôi đã về tận nơi, đến tận chốn, đang đứng trên Hà Nội, nhìn Hà Nội bằng chính mắt mình, một nửa ngày ở tại Hà Nội, tôi thấy hơi thở của tôi không còn được điều hòa nữa, tôi nhận ra Hà Nội bằng mỗi đầu cảm giác của mình, bằng linh tính và trí óc của một người đã vào sinh ra tử 17, 18 năm trên khắp mọi chiến trường, chỉ huy và lăn mình vào những chốn tai họa, cạm bẫy đó, tôi có thể quả quyết rằng, Hà Nội không còn là chỗ có thể sống được nữa.

Chủ nghĩa Cộng Sản bị áp đặt lên Hà Nội đã nặng hơn cả không khí người ta thở.

Hà Nội phải được giải thoát khỏi cái bầu không khí nhiễm độc đó.

Đó là một công việc gian nan, lâu dài. Hai mươi năm chưa đủ lâu dài, vậy cái thời gian cần thiết đó, độ bao lâu ? Hai mươi năm quả thật là một thời gian đáng kể đối với một đời người. Nhưng đối với lịch sử lập quốc của một dân tộc có đáng kể chăng?

Chính cái câu hỏi đau đớn đó đã thắp lên như một hy vọng trong cùng tận đáy hồn chúng tôi, khi chúng tôi rời bỏ Hà Nội một lần nữa, trên chiếc phi cơ trở lại Sài Gòn.
Tôi nhớ lại khuôn mặt những sĩ quan Cộng Sản tôi đã gặp tại Hà Nội. Họ có những cung cách đi đứng, nói năng, biểu lộ thái độ một cách tưởng chừng như họ chỉ còn là những con người hình nộm.
Tôi nhớ đến Huế, đến Sài Gòn, đến cái Tết Mậu Thân, đến Đại Lộ Kinh Hoàng, đến những sĩ quan, cán bộ cao cấp của Cộng Sản đã về hồi chánh.
Tôi nhớ đến nụ cười, tôi cho là nụ cười thật sự độc nhất tôi nhìn thấy trong suốt một ngày ở Hà Nội, là nụ cười của cô nữ phục dịch trong một bữa ăn của phái đoàn ở Hà Nội.
Có bao nhiêu nụ cười bị giam giữ trong Hà Nội như thế?
Hà Nội trong thơ văn, Hà Nội trong âm nhạc, Hà Nội trong trí nhớ, một lần nữa lại làm dấy động tâm khảm tôi. Cái Hà Nội thơ mộng tuyệt vời mới chỉ trong vòng hai mươi năm đã bị người ta làm cho biến đi không còn một dấu vết nào đó, liệu còn có một ngày nào có thể sống lại?
Những ý nghĩ không mạch lạc đó đã chiếm trọn đầu óc tôi trong suốt chuyến bay trở lại Sài Gòn.
Tôi cho ấn hành nguyên vẹn bài phỏng vấn của các phóng viên Đài Phát Thanh Sài Gòn ngay khi tôi từ Hà Nội trở về, không sửa chữa một câu nào. Vì đó là những câu nói, câu trả lời hoàn toàn xuất phát từ những xúc động và suy nghĩ thành thật của tôi trong ngày trở lại chốn cũ.
Những tấm hình in trong tập sách này, là quà tặng cho những người yêu Hà Nội, một vài hình ảnh còn sót của Hà Nội, tôi đã đem ra được khỏi Hà Nội.
Tôi rất muốn được ấn hành cuốn sách này đẹp đẽ và đầy đủ, xứng đáng với thành phố nay đã trở thành một biểu tượng của những người đã bỏ Hà Nội, và vì họ đã bỏ Hà Nội cho nên Hà Nội không còn là Hà Nội nữa, cái Hà Nội của họ, họ đã mang theo trong lòng, -- đúng nhứ ý muốn của các anh Mai Thảo, Pham Duy, và Văn Quang đã nói với tôi.

Nhưng cuốn sách này không phải là một tác phẩm văn chương, nó chỉ nhằm đưa đến tay bạn đọc những tin tức và hình ảnh xác thực về một thành phố, một thủ đô chính trị, đã gây ra không biết bao nhiêu đau thương tang tóc trên đất nuớc, sau hai mươi năm bị che kín lần đầu tiên được vén mở lên, chúng tôi nghĩ rằng, những tin tức và hình ảnh ấy chỉ cần được đưa đến tay người đọc một cách nhanh chóng.

Thành phố Hà Nội đẹp, thời tiết Hà Nội đẹp, người Hà Nội đẹp, đẹp cho đến nỗi, hầu như tất cả các văn nghệ sĩ của chúng ta, đã sống ở Hà Nội hay có dịp nhìn thấy Hà Nội, đều không ít thì nhiều không tiếc lời ca ngợi Hà Nội.

Chúng tôi đã xin phép được nhiều vị để trích dẫn một vài điều quý vị ấy viết về Hà Nội, nhân đây chúng tôi cũng xin ngỏ lời xin phép chung quý vị có tác phẩm trích dẫn trong tập sách này mà chúng tôi đã nhiều lần tìm gặp không gặp được, hoặc vì đường xá xa xôi, hoặc vì có người đã mất như thi sĩ Đinh Hùng, chúng tôi tin rằng quý vị cũng vui lòng lượng thứ và cho phép chúng tôi làm công việc này, vì cái ý nghĩa mất, còn của Hà Nội.

Riêng đối với bạn đọc, chúng tôi xin xác định, phần thứ hai của tập sách này là phần văn chương, nghệ thuật nói về Hà Nội, chúng tôi rất tiếc vì khuôn khổ của cuốn sách chúng tôi không thể trích dẫn nhiều hơn các tác phẩm của nhiều tác giả khác nữa. Nhưng bấy nhiêu đây thiết tưởng cũng đủ để quý vị so sánh một Hà Nội xưa và nay.

Sau cùng tôi xin cám ơn nhà văn Nguyễn Đình Toàn và nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Đàm hết sức giúp tôi hoàn thành cuốn sách này.



Sài Gòn, ngày 20 - 2 - 1973
PHẠM HUẤN





PHẠM HUẤN



HÀ NỘI SAU 19 NĂM


Thiếu tá Phạm Huấn, thiếu tá Đinh Công Chất, thiếu úy Dương Phục, 3 sĩ quan QLVNCH đầu tiên, thành viên của ban liên hợp quân sự 4 bên đã đi Hà Nội để quan sát vụ trao trả tù binh Mỹ ngày 18-2-1973. Ba sĩ quan trên là những người đã ở Hà Nội nhiều năm, và nay trở lại Hà Nội để thấy sự tiêu điều, buồn thảm của Hà Nội. Thành phố Hà Nội còn nguyên vẹn, nhưng gần 20 năm dưới chế độ Cộng Sản, Hà Nội 36 phố phường của những ngày trước năm 1954 không còn nữa; hay nói cách khác Hà Nội của chúng ta, của những người không Cộng Sản, đã chết thật.
Thiếu tá Phạm Huấn và thiếu úy Dương Phục trong hơn một giờ đồng hồ đã cho biết rất nhiều hình ảnh của Hà Nội ngày nay trong cuộc mạn đàm với các văn nghệ sĩ. Chương trình này được đài Saigon truyền đi tối thứ hai 19-2-1973. Dưới đây là các chi tiết trong chuyến trở lại Hà Nội của ba người Việt Nam tự do đầu tiên trong cuộc hành trình đặc biệt.
Hà Nội bài hát của Hoàng Dương là Hà Nội 20 năm trước, Hà Nội của một triệu người rời bỏ vào năm 1954, Hà Nội với những tà áo màu tung gió, với những tiếng guốc reo vui. Hà Nội mà những người đứt ruột bỏ đi, đã nuôi nấng một mong ước, giữ chặt một niềm tin, Hoàng Dương đã nói trong bài hát của ông : “hãy tin ngày ấy anh về”. Hà Nội 36 phố phường, Hà Nội mà nhạc sĩ Trần Văn Nhơn của chúng ta đã gọi là “Trái tim của Việt Nam”, Hà Nội mà với mùa thu cuối cùng ta bỏ đi xanh xao như mất máu đó, Hà Nội bây giờ ra sao ? Trong hai mươi năm chiến tranh tàn phá, trong hai mươi năm người Hà Nội bỏ đi, hai mươi năm Hà Nội sống dưới chế độ Cộng Sản cái trái tim của Việt Nam đó đã đập như thế nào, những Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bông, Hàng Gai, Hồ Gươm, Hồ Trúc Bạch, Hồ Bẩy Mẫu có những gì thay đổi. Người Hà Nội bây giờ sinh sống ra sao, trong phóng sự này chúng tôi xin mời quý vị độc giả trở lại Hà Nội, nhìn lại Hà Nội qua những tiết lộ của thiếu tá Phạm Huấn và thiếu úy Dương Phục, hai trong số ba sĩ quan VNCH đầu tiên đã đáp máy bay ra Hà Nội dự cuộc phóng thích tù binh ngày 18-2-1973.

Hỏi : Thưa anh Phạm Huấn, hôm chúa nhật vừa qua, anh là một trong những người Việt Nam tự do đầu tiên đã ở Hà Nội, trở lại Hà Nội, xin anh cho biết cuộc hành trình từ Saigon đi Hà Nội như thế nào và anh đã ghé những đâu ở Hà Nội?
Đáp : Trước hết, tôi phải nói ngay với các anh, đối với những người khác thì chuyến đi vừa qua người ta có thể nói là ra Bắc hay ra Hà Nội, nhưng đối với tôi một người từng sống ở Hà Nội nhiều năm, thì tôi gọi đó là một chuyến trở về Hà Nội. Tôi được lệnh đi vào lúc 10 giờ sáng ngày 17-2-1973, sau khi sửa soạn cũng như thông báo cho một số bạn bè thân của tôi, dù biết trước giờ khởi hành là 5 giờ sáng 18-2-1973, nhưng tôi đã vào căn cứ Tân Sơn Nhất lúc 10 giờ đêm để ngủ tại đó. Khoảng thời gian từ 10 giờ đêm đến 5 giờ sáng tôi chỉ chợp mắt được hơn một tiếng đồng hồ, còn lúc nào cũng trằn trọc nghĩ đến chuyến trở về Hà Nội của mình. Cũng nói thật với các anh đây là chuyến đi đặc biệt, bất ngờ và kỳ thú nhất trong cuộc đời của tôi. 5 giờ sáng thì các phái đoàn tới Tân Sơn Nhất, và đúng 5g30 máy bay cất cánh.
Chúng tôi trở về Hà Nội bằng chiếc C130 của không lực Hoa Kỳ, sau 3 giờ rưỡi bay thì tới phi trường Gia Lâm của Hà Nội. Đây là một chuyến đi rất sớm cho nên những người khác thì đều ngủ, nhưng tôi và hai sĩ quan Việt Nam khác thì hầu như không có phút nào chúng tôi nhắm mắt được, bởi vì, lòng lúc nào cũng bồi hồi xúc động và chỉ mong cho sớm đến Hà Nội.
Chúng tôi đến phi trường Gia Lâm lúc 9 giờ sáng. 9 giờ trong Nam tức là 8 giờ ở ngoài Bắc.
- Khi anh tới phi trường Gia Lâm, anh có thấy phi trường và nhà cửa chung quanh bị hư hại nhiều không ?
- Phi trường Gia Lâm bây giờ, sau những trận mưa bom của HK trước đây, nhà ga chính bị sập một góc cũng như phi đạo đầy những vết bom mới được sửa chữa tạm. Tôi nhìn thấy ở một góc phi trường có vài ba cái máy bay tương tự như loại DC3, tức là C47 của quân đội mình, các máy bay dân sự hầu như không có một cái nào hết. Chúng tôi ở đó khoảng một giờ đồng hồ và đến buổi chiều khi trở lại Gia Lâm dự lễ phóng thích tù binh, cũng không có một máy bay nào khác hơn mấy cái máy bay của Hoa Kỳ, trong đó có một chiếc C141 đón tù binh.
- Từ Gia Lâm anh về Hà Nội bằng xe gì ?
- Chúng tôi di chuyển bằng loại xe bus nhỏ, tương tự như xe Air Việt Nam để chở các phi công và nữ tiếp viên của mình ở Saigon.
- Tôi xin lỗi được cắt ngang câu trả lời của anh để hỏi thêm anh về hình ảnh của thị trấn Gia Lâm tức khu vực mà anh từ phi trường Gia Lâm qua đó lên cầu Long Biên về Hà Nội đó ?
- Thị trấn Gia Lâm hiện bị ảnh hưởng rất nặng sau các vụ không tập phi trường Gia Lâm trước kia, khu vực này hoang tàn sụp đổ. Những thửa ruộng hai bên đường từ thị trấn Gia Lâm về tới Sông Hồng đầy những hố bom, các cơ sở quân sự, theo tôi biết, đã bị tàn phá rất nặng.
- Ở ngay cuối thị trấn Gia Lâm tức là cái dốc nối liền cầu Long Biên, ngày xưa có một nhà máy rượu, thời kỳ người Pháp ở Việt Nam, họ dùng đó làm trụ sở phòng Nhì. Bây giờ nhà máy rượu đó họ làm rượu trở lại hay vẫn là cơ quan Quân Sự và có bị oanh lạc không ?
- Thưa anh, tôi không có nhận rõ, nhưng các sĩ quan Bắc Việt chỉ cho tôi một số cơ sở, họ nói cơ sở dệt, có thể họ nói khác đi chăng (?). Nhưng hầu hết các cơ sở quân sự ở khu vực này đều bị hủy diệt.
- Thưa anh, họ đưa phái đoàn quân sự của mình về Hà Nội thì họ đưa tới đâu ?
- Tôi kể tiếp chặng đường từ Gia Lâm về Hà Nội. Chúng tôi di chuyển bằng loại xe buýt nhỏ, khi tới sông Hồng thì cầu Long Biên ngày xưa của mình đã bị máy bay dội bom sập mất ba, bốn nhịp rồi. Bây giờ có một vài đoạn đã được sửa chữa, tôi thấy những đoạn rất dài vẫn chưa sửa xong. Thành thử ngang sông Hồng Hà _ các anh nhớ sông Hồng rất rộng, bề ngang tới non hai cây số_ họ làm hai cái cầu nổi, cũng như cầu dã chiến của công binh QLVNCH làm để vượt sông trong các cuộc hành quân, một cái đi về Hà Nội và một cái ngược lại. Ngày xưa mỗi lần đi từ Gia Lâm về Hà Nội, chúng mình di chuyển mất mười phút xe chạy, bây giờ thì mất khoảng độ nửa giờ; và con đường từ ở bên kia sông vào thành phố cho đến khi tôi nhìn thấy nhà Bác Cổ, đây là một con đường rất nhỏ, bụi mù và bẩn thỉu.
- Như vậy, họ đưa các anh về nơi trú ngụ bằng đường bờ Sông chứ không phải dốc hàng Đậu ?
- Không phải chúng tôi ra Hà Nội để được đi chơi hay được cư ngụ tại đâu hết. Đây là một chuyến công tác hẳn hoi và chúng tôi chỉ đến địa điểm chính tại Hà Nội tức là Gia Lâm (nơi trao trả tù binh Mỹ) và Hỏa Lò mà chính quyền Hà Nội đặt là khách sạn Hilton của Mỹ để nhốt tù binh tại Hà Nội. Chỉ có 2 địa điểm thôi, nhưng vì tôi, như các anh đều biết, chúng mình ở Hà Nội quá lâu thành thử những con đường, những danh lam thắng cảnh của Hà Nội mình đều nhớ tất cả. Cho nên tôi cũng lợi dụng lúc di chuyển từ Gia Lâm về Hỏa Lò quan sát để biết rõ Hà Nội ngày nay.
- Thế anh đi bằng con đường đó, cây cột Đồng Hồ ở đường bờ sông có còn không ?
- Chỗ đó tôi không được đi qua. Tôi có thể nói ngay với các anh là trung tâm thành phố Hà Nội, ngoài tòa tổng lãnh sự Pháp ở đường Trần Hưng Đạo (Gambetta cũ) là bị sập, còn những đường phố chính mà trước kia mình biết rất sang trọng như đường Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Gia Long, Tràng Tiền, chung quanh hồ Hoàn Kiếm v.v… thì còn nguyên vẹn. Nhưng rất tiếc tôi không hiểu tại sao, thủ đô Hà Nội sau 19 năm dưới chế độ Cộng Sản, bây giờ tiêu điều và xơ xác quá. Không có một kiến trúc nào đặc biệt tại Hà Nội so với trước năm 1954. Tôi tưởng Hà Nội tiêu điều nhưng không ngờ đến quá sức tưởng tượng như tôi nghĩ. Khu trung tâm thành phố như Gia Long, Lý Thường Kiệt, Tràng Tiền ... nhà cửa trông rất là cũ kỹ, không có sửa sang quét vôi gì hết. Tôi có cảm tưởng như đã 10, 15 năm nay không được quét vôi lại. Những con đường đó đi đường nhìn thấy dân chúng phơi quần áo, tôi xin lỗi được tả chân, phơi cả những cái quần đen, những áo màu cháo lòng trên cửa sổ thì còn gì là phố xá, nhà cửa của Hà Nội ?
- Anh có đi ngang qua căn nhà mà anh ở khi xưa không ?
- Tôi có được đi ngang qua căn nhà trước khi di cư vào Nam tôi trọ học, tôi xúc động lắm, muốn khóc được. Còn y hệt nhưng tiêu điều xơ xác hơn nhiều.
- Nói như vậy Hà Nội của ba mươi sáu phố phường thuở xưa bây giờ không còn nữa ?
- Hà Nội thuở xưa bây giờ không còn nữa, so sánh Hà Nội trước năm 1954 với bây giờ, nghĩa là sau 19 năm, sinh hoạt của Hà Nội, quang cảnh của Hà Nội – dù là khu trung tâm thành phố - không bị phá hủy bằng bom đạn, nhưng hiện nay trông tiêu điều và so với trước tôi nghĩ chỉ bằng 2 phần 10. Các anh tưởng tượng một ngày ở Hà Nội, khoảng năm, sáu giờ đồng hồ đi ngoài phố, tôi chỉ đếm được mười hai, mười ba cái xe du lịch loại nhỏ, và theo các sĩ quan Bắc Việt, thì hầu hết là xe của chính quyền Hà Nội. Và tôi cũng không nhìn thấy một thiếu nữ nào mặc áo dài, thiếu nữ duy nhất của miền Bắc mặc áo dài mà tôi nhìn thấy trong ngày công tác ở Hà Nội là cô nữ ký giả gặp ở Gia Lâm. Còn tất cả là quần đen, áo cánh vải thô màu xám, hoặc màu trắng cháo lòng. Cũng như phương tiện di chuyển “văn minh” của Hà Nội bây giờ là những chiếc xe đạp cũ kỹ.
- Những tàu điện thuở xưa có còn hay không ?
- Có, khi đi ngang hồ Hoàn Kiếm tôi chụp được hình 2 cái tàu điện. Đây, các anh có thể nhìn quang cảnh tàu điện. Trời lạnh các anh biết đầu năm miền Bắc của mình “rét tháng ba bà già còn chết rét”, thế mà ngày đầu năm có người đi chân không, mặc áo mỏng manh.
- Cái hình anh chụp đây ở đường Bờ Hồ còn thấy rõ cả nhà Bưu Điện và hình như còn xích lô đạp nữa, chếch sang đây là nhà Godard này, như thế vẫn còn cả, anh chụp bức hình này vào lúc nào mà hình như tôi thấy ở trên hồ Hoàn Kiếm có sương mù nữa.
- Thưa anh, tôi được đi qua hồ Hoàn Kiếm, có lẽ nhờ sự khéo léo của chúng tôi và sự may mắn của 3 sĩ quan QLVNCH sinh trưởng tại miền Bắc muốn được thấy lại hồ Hoàn Kiếm thân yêu của mình ngày xưa. Cho nên khi ăn bữa trưa chung với các phái đoàn, tôi có gạ với một ông trung tá của BV, tôi nói nịnh ông ta : “Trung tá đáng lẽ phải là một nhà ngoại giao mới đúng”. Tại vì ông ta nói rất nhiều, từ lúc chúng tôi rời Saigon cho đến khi tới Gia Lâm, rồi Hỏa Lò trong các phái đoàn chỉ có một mình ông ấy nói nhiều nhất mà thôi. Tôi nói : “Trung tá là một sĩ quan cao cấp của BV không đúng, trung tá phải là một nhà ngoại giao và một nhà ngoại giao rất giỏi mới phải”. Vì thế, mà ông ta ra lệnh cho xe đi một vòng Hồ Gươm. Xe chạy với một tốc độ rất mau nhưng nhờ ngồi sát cửa sổ, mấy bức hình tôi chụp được thấy rõ cả Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc. Và khi thấy tàu điện ở đầu hồ mừng quá, tôi bấm hình liền, anh thấy mấy tấm hình bị hư đó.
- Đó là xe điện chạy từ phía chợ Hôm lên không phải hàng Đào xuống ?
- Vâng đúng như vậy, nhìn hình ảnh hai chiếc xe điện và đồng bào miền Bắc bây giờ các anh thấy có đau xót không. Giữa trung tâm thủ đô Hà Nội, đồng bào toàn quần đen, áo xám chân đất, mong manh, đội nón đi xe đạp. Hà Nội không bao giờ kẹt đường hết, tại vì xe đạp bây giờ vẫn như hồi trước bọn mình đi học; trước mình đi hàng ba, bây giờ họ đi hàng bốn, hàng năm, vì đường xá đâu có xe cộ gì. Chẳng hạn như khi chúng tôi đi qua khách sạn Métropole hồi trước, bây giờ họ gọi là khách sạn Hòa Bình, những con đường rất lớn, như đường Lý Thường Kiệt, đường Ngô Quyền, bây giờ trống trơn, như các anh nhìn mấy bức hình, tôi có chụp bức hình tôi đứng ở giữa ngã tư hai đường đó.
- Đúng như bức hình này, đây là kế cận với khách sạn Phú Gia nếu tôi không lầm, Pharmacie Vũ Đỗ Long, Vũ Đỗ Thìn ngày xưa đó, tức là trước nhà của nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Đàm, bây giờ anh đi ngang đó anh có thấy cái cầu Thê Húc thay đổi ? Đền Ngọc Sơn vẫn như thế, cái cầu có còn sơn màu đỏ không ?
- Nó không có màu gì cả, nó xám theo với thời gian, cũ kỹ … và không là màu gì hết. Tôi đã quan sát kỹ lưỡng cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn nhưng cái nổi bật nhất ở hồ Hoàn Kiếm bây giờ, nói ra thì các anh buồn, nhưng sự thật cái nổi bật nhất ở hồ Hoàn Kiếm bây giờ không phải là Tháp Rùa, mà là cái khẩu hiệu tuyên truyền của nhà nước Cộng Sản, họ làm một cái bảng rất lớn sơn màu đỏ chót viết khẩu hiệu tuyên truyền. Và tại đền Ngọc Sơn cũng thật vắng vẻ, hôm chúng tôi ra là 16 tháng giêng mà không thấy các bà mẹ, các cô gái đi lễ đầu năm như trước kia.
- Thưa anh có lẽ anh chú ý về phía mặt hồ quá, phía tay trái phía rạp xi nê Philarmonique có còn không ?
- Còn nguyên, tôi đã nói với các anh cả khu trung tâm thành phố Hà Nội trừ tòa tổng lãnh sự Pháp, và theo các sĩ quan Bắc Việt, phía sau chợ Hôm, khu Khâm Thiên, các phi trường Bạch Mai, Gia Lâm bị bom mà thôi. Hà Nội vẫn còn đây nhưng buồn nản, Hồ Gươm với những ghế đá từ mấy chục năm về trước nhưng không có một ai ngồi cả.
Trước khi tôi tới Hà Nội, tôi chờ đợi và bị xúc động đến cùng cực khi biết được Hà Nội của mình tiêu điều. Tất nhiên tình cảm của mình để trong lòng, mình thấy đau đớn, cái đau đớn riêng tư của những người đã xa Hà Nội 19, 20 năm, trở về mà thấy thành phố yêu dấu ngày xưa bây giờ tiêu điều xơ xác, rách nát như vậy. Khi trả lời các cán bộ Cộng Sản khi họ đề cao Hà Nội, họ nói : “Một ngày về Hà Nội của các anh, một ngày về Hà Nội huy hoàng. Đây công viên Thống Nhất đẹp như thế này, hy vọng lần sau vợ anh sẽ được ra, anh sẽ dắt vợ con anh trong những buổi sáng chủ nhật hay là những ngày nghỉ ra đây để tâm sự hàn huyên …” Tôi thấy đó là cả một sự tuyên truyền rỗng tuếch không thể nghe được, tất cả Hà Nội bây giờ nói ra càng thêm đau lòng, vì ngay cả cái công viên Thống Nhất trong một sáng chủ nhật đầu năm cũng vắng hoe rất ít người tới.
- Anh đi qua đường phố có cón thấy các cô gái má hồng nữa không ?
- Hết rồi, các anh ạ. Hồi trước không biết các anh học ở trường nào. Tôi học ở trường Chu Văn An, có những buổi “bát” một vài giờ để đi đón các cô nữ sinh Trưng Vương. Bây giờ ngay cả các nữ sinh của hai trường nổi tiếng nhất của Hà Nội ngày trước là trường trung học Trưng Vương, Tây Sơn, theo các sĩ quan Bắc Việt cho biết, Trưng Vương không còn đồng phục áo dài màu lam, và các cô Tây Sơn cũng không còn thướt tha áo dài trắng nữa. Tất cả quần đen, áo cánh.
Trước kia, khi chưa được trở lại Hà Nội tôi tưởng phụ nữ miền Bắc ăn mặc như phụ nữ Trung Cộng đều mặc áo cổ cao hoặc áo ngắn đồng màu. Tôi nghĩ như vậy coi còn gọn ghẽ trông được, ai ngờ bây giờ học mặc quần đen áo cánh màu cháo lòng, hoặc màu xám nhạt vải Nam Định.
- Theo như hình ảnh công viên này thì trước năm 1954 không có, hoặc một công viên khác được sửa đổi đi phải không ?
- Đúng, công viên này là công viên được kiến tạo sau này, với một phần của hồ Bẩy Mẫu, nhưng các anh thấy vắng hoe không có ai hết, chỉ có số cán bộ của họ.
- Trong dịp anh đi ra ngoài đó anh có dịp tiếp xúc với người dân nào hay không ?
- Tôi lạc vào rừng cán bộ của họ từ Gia Lâm cũng như ở Hỏa Lò, lúc nào tôi cũng bị họ vây lấy.
Họ hỏi và đặc biệt nhất là ai cũng hỏi tôi những câu hỏi giống nhau hệt như đã học thuộc lòng trước. Tôi cảnh giác tránh được những chuyện họ gài bẫy tuyên truyền. Cũng như các anh em phóng viên ở Saigon mỗi người có một cái cassette; nhưng họ thì không thẳng thắn như mấy anh em phóng viên đài Saigon đâu. Máy thu bande họ dấu trong áo lạnh, trong áo mưa mặc ngoài. Micrô họ đút túi khi nào bất thình lình mở ra, để thâu lén. Nhưng khi tôi trả lời họ thì với tư cách một người ở Hà Nội, sống ở Hà Nội rất lâu, tôi trả lời họ một cách cởi mở, còn chuyện họ gài tôi để tuyên truyền, để mua chuộc thì tôi đã có chuẩn bị trước, tôi hóa giải ngay. Cũng có thể với cái nghệ thuật cắt xén, các phóng viên đài Hà Nội có thể làm được một vài điều. Chẳng hạn như câu tôi nói : “tôi cũng như nhiều người khác mơ ước được thấy lại Hà Nội, nhưng trở lại đây, thấy thành phố tiêu điều tôi lẻ loi cô độc, và thương Hà Nội ngày xưa của tôi nhiều quá”. Tôi nói với một phóng viên của đài Hà Nội như vậy và tôi hy vọng họ không cắt câu này ra làm hai.
Tôi cũng đã nhiều lần bảo họ đừng tuyên truyền tôi vô ích. Tôi ở trong quân đội 17, 18 năm rồi, tôi biết họ là cán bộ chìm, là những phóng viên của đài Hà Nội, đấy là một bộ máy tuyên truyền rất là ngược ngạo (tôi nói nguyên văn với họ như vậy); trong những cuộc hành quân ở Hạ Lào, hồi đánh nhau lớn ngoài Quảng Trị tôi thỉnh thoảng có vặn đài Hà Nội nghe, để thấy sự thật họ tuyên truyền như thế nào ? Nghe riết rồi chúng tôi muốn đập bể cái máy thu thanh ra.
Các anh nghĩ xem họ tuyên truyền tôi như thế nào ? Họ nói nguyên văn thế này : “Anh có biết sở thú đất nước chúng ta bây giờ có thêm một con thú mới chưa ?”. Tôi chưa hiểu họ định nói gì nhưng vẫn bảo “các anh cứ nói đi”. Họ tiếp : “Đó là xác một chiếc B52 bị bắn rớt ở Hà Nội”. Ai chẳng biết có B52 bị bắn rơi ở Hà Nội, không phải một cái mà là mười mấy cái, nhưng các anh thử tưởng tượng họ nói phi lý như thế này : “B52 đối với dân Hà Nội chẳng ăn thua gì, có khi B¬52 thả cách nhà tôi 50 thước, và cả nửa giờ liền mà tôi không sao hết”. Tôi buồn cười quá và trả lời : “Thôi các anh im đi, mình nói chuyện khác, đừng nói chuyện B52 hay là nói chuyện để tuyên truyền. Tôi ở trong quân đội 17, 18 năm, ít nhất cũng biết tầm ảnh hưởng của bom B52 cả 1, 2 cây số. Tôi đã gặp các sĩ quan tù binh Bắc Việt ở An Lộc, Tây Nguyên, Hạ Lào, Quảng Trị tôi biết họ sợ B52 ¬như thế nào rồi, ở xa cả cây số còn muốn ói máu nữa huống là … “
- Đó là những câu chuyện mà anh tiếp xúc với các cán bộ của họ, trong dịp ở Hà Nội anh có dịp tiếp xúc với một người dân nào hay không ?
- Đây cũng có thể nói là chuyện đau buồn nhất của tôi. Ngoài những câu chuyện với cán bộ Cộng Sản hay là cách đối chọi của tôi với những lối tuyên truyền trắng trợn của họ, thú thực với anh khi đi ngang qua các đường phố, gặp đồng bào miền Bắc của mình, tôi rất vui mừng và biểu lộ sự vui mừng để có một sự thông cảm với họ. Nhưng tất cả những người dân Hà Nội đều cúi gầm mặt xuống khi đoàn xe của chúng tôi đi ngang, mặc dù đoàn xe của chuúng tôi là một đoàn xe rất đặc biệt nhất là trong một ngày chủ nhật ở Hà Nội. Trên lộ trình đi tới Hỏa Lò, có một số trẻ em và các thiếu nữ lam lũ, nếu tôi nói đó là các thiếu nữ đáng yêu nhất của Hà Nội thì sợ các anh buồn, thì họ cũng reo hò, la hét khi thấy đoàn xe đi ngang. Tôi có đủ thông minh để hiểu chuyện này, tôi cũng muốn chờ đợi phản ứng của dân chúng, một nửa hình như họ muốn biểu lộ sự vui mừng khi thấy những người khách lạ tới Hà Nội, một nửa hầu như đã được huấn luyện học tập phải làm như vậy. Họ la hét vậy thôi, tôi cũng không thấy họ có một hành động gì hết, về sau các ông “cớm” chìm của Bắc Việt giải thích rằng đó là dân chúng phẫn uất người Mỹ đã ném bom Bắc Việt nhưng họ cũng chỉ biểu lộ bằng thái độ ôn hòa.
Họ luôn luôn cố gài về vụ đồng bào ta biểu tình chống họ ở Ban Mê Thuột, Huế, v.v… Tôi đã trả lời là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa rất tiếc các vụ đó xảy ra và đã làm mọi cách để ngăn cản các vụ tương tự. Tôi cũng cho họ biết vụ Ban Mê Thuột do các đồng bào di cư chủ xướng, đó là những người từng phải bỏ cả sản nghiệp vào Nam năm 1954 và rồi khi vừa gầy dựng được một chút của cải; nhà cửa, làng mạc của họ lại bị chính các đồng chí của các anh thiêu hủy và tàn phá mặc dầu lệnh ngưng bắn lúc đó đã có hiệu lực.
- Như vậy, rốt cuộc trong chuyến đi đó anh không được nghe một lời nói nào không có tính cách chính trị ?
- Trong một ngày của tôi ở Hà Nội, không được nghe một lời nói chân thật nào của người dân ở đó, nhưng tôi hiểu được một lời nói, được diễn tả bằng một nụ cười của người thiếu nữ chừng 17, 18 tuổi. Trong bữa ăn trưa tôi được gặp cô đó, gọi là nữ phục dịch hay nữ phục vụ gì đó, khi nghe ông sĩ quan Bắc Việt gọi tên và cấp bậc tôi, vô tình tôi ngửng đầu lên thì tôi thấy cô ấy mỉm cười với tôi bằng một nụ cười chân thật
- Anh có nói anh có gặp một nữ ký giả, người mặc áo dài duy nhất ở Hà Nội khi đến phi trường Gia Lâm, cô ấy nói chuyện gì với anh không ?
- Người nữ ký giả áo dài thì không, nhưng một nữ ký giả khác tôi gặp ở Hỏa Lò, cô này mặc áo cánh, và đã nói chuyện với tôi ở Hỏa Lò. Buổi chiều ở phi trường Gia Lâm, cô ta lại hỏi tôi : “trước anh học ở đâu ?”, nghĩa là những câu hỏi y hệt những người khác đã hỏi tôi, cô ta cho biết là làm ở đài phát thanh Hà Nội. Tôi đã trả lời tôi học Chu Văn An. Cô ta hỏi tiếp : “Anh có còn nhớ các thầy cũ ở đây không ?” Tôi đã trả lời : “May quá, thầy của tôi hồi đó là cụ Vũ Ngô Sán, hiệu trưởng trường Chu Văn An, sau khi di cư thầy tôi cũng lại vẫn làm hiệu trưởng trường Chu Văn An ở Saigon; các thầy khác như thầy Bùi Đình Tấn, Hùng Lân, Lê Trung Nhiên … thì cũng đều ở Saigon hết, tôi đâu còn thầy nào ở Hà Nội.” Tôi nói như thế không biết cô ta có buồn tôi không, nhưng tôi thấy mắt cô ấy quắc lên nhìn. Cô ta còn hỏi tôi là đồng bào ta ở trong Nam nghe đài Hà Nội có rõ không ? Tôi trả lời là “các sĩ quan cao cấp như chúng tôi, đôi khi đi trận cũng mở đài Hà Nội để xem các anh chị, ngoài này tuyên truyền như thế nào, nhưng riết rồi thấy các anh các chị toàn nói sai sự thật, thành thử tụi tôi còn ít khi mở huống chi đồng bào, sức mấy mà đồng bào thèm mở. Trong Nam đồng bào nghe đài quốc gia, đài quân đội, hay đồng bào coi truyền hình, mà đồng bào thích tân nhạc, thích cải lương chứ đồng bào không thích tuyên truyền.”
- Anh nói tiếng “sức mấy” thành thử tôi thắc mắc về ngôn ngữ của họ ngoài đó, họ có khác chúng ta không ?
- Ngôn ngữ của họ cũng không có gì khác nhưng có một số từ ngữ họ sửa đổi, chẳng hạn như thăm viếng thì họ gọi là đi tham quan, khai triển vấn đề thì họ gọi là triển khai, đồng ý thì gọi là nhất trí hoặc là, xin lỗi các anh nghe không được …”đồng tình”.
- Nãy giờ anh nói nhiều về quang cảnh trong thành phố, về những nới mà anh đi qua, anh chưa nói đến Hỏa Lò nơi giam tù binh ?
- Đúng ra thì tôi không được phép nói vấn đề này với các anh, nhưng với tư cách người về từ Hà Nội, biết gì nói cái đó, mạn đàm với các anh cũng không có tính cách chính trị hay tuyên truyền gì hết, tôi cũng không đề cao một bên nào thành thử tôi cũng có thể kể chuyện Hỏa Lò cho các anh nghe. Khi chúng tôi vượt qua nhữn “ông” lính Bắc Việt “lỏi tì” chừng 15, 16 tuổi gác cổng. Cửa Hỏa Lò mở ra và gặp một ông “cai ngục”, đúng ra phải gọi là ông đại úy chỉ huy trưởng Hòa Lò. Mặt rất là dữ, ông ta toàn gọi các anh em tù binh Mỹ bằng “chúng nó”, “những thằng tù” hay “những tên tù” chứ không khi nào gọi là tù binh. Ngoài đó họ gọi Hỏa Lò là “khách sạn Hilton” (Hilton là tên hệ thống khách sạn sang trọng nhất của nước Mỹ, tiền phòng mỗi ngày hạng chót 30 đô la)
(Vào lúc này thiếu úy Dương Phục mở cửa bước vào và được mọi người tiếp đón ân cần. Thiếu tá Phạm Huấn ngừng lại vài giây chờ đợi.)
Thiếu tá Phạm Huấn nói tiếp : “có nhiều chuyện bịp lố bịch ở Hỏa Lò, chẳng hạn như sau khi các phái đoàn tới, đại diện Bắc Việt cho biết là 20 tù binh Mỹ được phóng thích hôm nay không chịu về vì lý do họ không muốn phòng thích trước các đồng đội của họ đã bị giam lâu ngày hơn”. Các sĩ quan Mỹ trong ban liên hợp quân sự rất lo lắng, nhưng tôi và thiếu tá Chất nghi ngờ lại có một chút tiểu xảo gì đây, nhưng tôi tin chắc là vào giai đoạn này Bắc Việt không còn dám lật lọng với Mỹ. Cuộc thương thuyết diễn ra trong 1 tiếng 15 phút, và rồi thì 20 tù binh Mỹ đã được thuyết phục.
Tù binh ở Hỏa Lò bị mang ra trình diễn theo lệnh của các sĩ quan Bắc Việt, họ cứ làm như không có sửa soạn gì trước; khi phái đoàn vào thấy cảnh một số tù binh đang tắm truồng, một người cạo râu, một vài người khác đang được lính Bắc Việt hớt tóc. Đây là những cảnh họ trình diễn ai cũng hiểu như vậy cả. Khi phái đoàn vào, viên trung tá Bắc Việt hướng dẫn làm bộ la ông đại úy : “hôm nay phái đoàn đến tại sao không cho chúng nó sửa soạn gì cả?”. Nói như thế rồi ông ta lại tự trả lời ngay : “ừ mà thôi cứ kệ chúng nó, để chúng nó tự nhiên”.
Tù binh Mỹ có một cái gì lo sợ ghê gớm, chắc là sự hành hạ tinh thần và thể xác mà nhà cầm quyền Bắc Việt đã dày vò họ trong những năm tháng địa ngục ở Hà Nội. Qua mắt cáo lưới sắt, khi tôi vào và chào các tù binh, trong một thoáng rất nhanh, tất cả anh em tù binh mắt như có ngấn lệ. Nhưng rồi họ lại cúi gầm xuống ngay. Một sĩ quan trong ủy ban quốc tế có hỏi một sĩ quan tù binh là anh ta được đưa về “Hilton Hà Nội” này từ bao lâu ? Trả lời 2 ngày. Viên cai ngục trừng mắt nhìn người tù binh. Sĩ quan ủy ban quốc tế yêu cầu lặp lại câu trả lời nhưng người tù binh Mỹ không dám lặp lại. Khi trở ra, đi ngang chỗ mấy người tù binh đang tắm khỏa thân gần một hồ nước, tôi đã nghiêm trang nói với họ : “Các anh là những anh hùng của nước Mỹ, các anh đã hy sinh cho sự đứng vững của VNCH và cả thế giới tự do nữa”. Người tù binh Mỹ đang xát xà bông đã đứng nghiêm chào tôi theo quân cách, những giây phút này muôn vàn xúc động.
- Tôi muốn đặt câu hỏi này với anh Dương Phục, anh đi qua những đường phố của Hà Nội anh có thấy một sạp báo nào ở đó không và anh có thấy báo chí được bày bán không ?
- Tôi xin nói ngay là tôi không thấy một sạp báo nào hết trên tất cả những con đường mà tôi đi qua. Về vấn đề báo chí thì qua các cuộc tiếp xúc với những phóng viên nhà nước ở Hà Nội, tôi được biết ngoài đó chỉ có một vài tờ báo chính thức của nhà nước mà thôi.
- Khi anh tiếp xúc với họ anh có đề cập tới những người làm văn học nghệ thuật ở ngoài Bắc không. Những người thuộc lớp cũ như Hoàng Giác, Đoàn Chuẩn, Ngọc Giao … các ca sĩ lớp trước ở đài Hà Nội như Ngọc Bảo, Minh Đỗ, Thanh Hiếu, Thanh Hằng còn không ?
- Chính họ đã hỏi tôi rất nhiều, vì họ cũng biết tôi là phóng viên và đi theo phái đoàn với tư cách sĩ quan báo chí. Tôi đã được nói chuyện với một phóng viên của đài phát thanh Hà Nội, chúng tôi đã nhận ra nhau sau một hồi nói chuyện và biết rằng cùng một nghề. Chúng tôi đã bàn chuyện báo chí, văn học nghệ thuật. Họ có nói rằng họ theo dõi chương trình phát thanh của chúng tôi rất là xít xao, họ biết rõ cả những chương trình nào hay dở, ăn khách … tên ca sĩ và tên các chương trình nổi tiếng của mình. Họ cũng biết tên tuổi một số các nhà văn, nhà báo đang nổi tiếng ở trong Nam, họ cũng hỏi đến một số các nhà văn cũ, những nghệ sĩ cũ như anh Phạm Duy, Chu Tử, Thanh Nam, Mai Thảo, cô Thái Thanh … về tình trạng của những người đó bây giờ ra sao.
Tôi định hỏi họ rất nhiều nhưng họ không để tôi kịp hỏi, đến một chục ông phóng viên của đài Hà Nội đi theo phái đoàn đã vây kín tôi để “truy” liên miên. Họ phỏng vấn tôi đến không kịp trả lời và họ khai thác toàn là vấn đề chính trị. Họ đã thâu băng một cách không đứng đắn, nghĩa là tôi không đồng ý. Nhưng họ đã thu lén, trời lạnh họ dấu máy trong áo mưa, micro dấu dưới áo hay trong túi, cùng nghề tôi nhận ra ngay và tôi bảo họ không nên làm như vậy.
Mới đầu họ rất hòa nhã, hỏi chuyện tôi về vấn đề thân thế, gia đình vợ con, nghe giọng Bắc thì họ hỏi chắc là cũng di cư. Họ hỏi và họ ghi chép đàng hoàng. Mới đầu gặp một người tôi tưởng họ hòa nhã hỏi thăm, nhưng về sau cả chục người khác lại cũng chỉ hỏi tôi những câu hỏi giống nhau từng chữ một. Không thể có sự trùng hợp như thế, nghĩa là họ đã có học tập và sắp xếp.
- Anh là người trẻ nhất trong phái đoàn trở lại Hà Nội, vậy anh có thể cho biết cảm tưởng của anh khi nhìn lại thành phố Hà Nội ?
- Tôi rời xa đất Bắc khi còn quá nhỏ (10 tuổi) cho nên tôi không có nhiều kỷ niệm ở Hà Nội hoặc những kỷ niệm rất là mù mờ tôi không có dịp so sánh chính xác Hà Nội xưa và nay. Nhưng chúng tôi cũng được đọc, được nghe các đàn anh nói về Hà Nội, vì thế khi mà trở về Hà Nội cũng có một nỗi xúc động rất lớn lao; chúng tôi được nghe, được tả một Hà Nội rất óng ả và thơ mộng, thế nhưng mà chúng tôi không nhìn thấy những hình ảnh như vậy, tôi cố ý nhìn mà không thấy một cô gái nào mặc áo dài đi trên đường phố, toàn là quần áo cán bộ hoặc là quần áo cánh.
- Các anh phóng viên đài Hà Nội mà anh tiếp xúc, họ ở lớp tuổi nào ?
- Họ phần đông lớn tuổi, có một anh tôi biết tên là Bội, mới đầu tôi hỏi tên anh ấy không nói, anh hỏi tên tôi, lẽ dĩ nhiên tôi chả có việc gì phải dấu, anh ghi chép tên tuổi tôi đoàng hoàng lắm, chỉ thiếu … số quân thôi. Tôi hỏi tên anh ấy mấy lần anh không nói, tôi bảo nếu anh thấy có gì trở ngại thì tôi cũng không tha thiết để biết quý danh. Về sau tôi biết anh ấy là Bội, tôi nhận ra giọng anh ta, là một chuyên viên trực tiếp truyền thanh như anh Nguyễn Mạnh Tiến của đài Saigon vậy. Tôi đã từng nghe anh ta trực tiếp ttruyền thanh đá banh, cũng như tôi đã từng nghe một phóng sự của anh ấy tường thuật trận đánh Quảng Trị. Anh ta nói nhanh lắm.
Anh đó là cứ đi theo tôi đều đều, anh ta nói cùng nghề mình sẽ gặp nhau trong một dịp khác, anh ta hỏi đủ thứ chuyện và luôn gài vấn đề chính trị vào. Tôi có nói : “chúng ta chỉ gặp nhau trong chốc lát mà thôi, tối nay tôi về Saigon, anh vẫn còn ở Hà Nội, chỉ nên nói những chuyện mưa gió, trời Hà Nội lạnh, nắng Saigon đẹp vậy thôi.”
- Ở ngoài đó họ có đài truyền hình không ?
- Có, họ có đài truyền hình và có gửi người tới làm việc, đó là theo như lời họ nói, nhưng vì họ gửi nhiều người quá tới vây chúng tôi nên cũng có người hớ nói ra cho chúng tôi biết. Chúng tôi có hỏi họ đài truyền hình lập lâu chưa, có bao nhiêu máy của dân chúng. Họ nói mới thành lập và có hằng mấy vạn máy thu hình. Chúng tôi cười mới lập mà sao có nhiều máy thế. Nhưng rồi lại có ông cho biết đài phát hình một ngày có một tiếng đồng hồ và còn trong thời gian trắc nghiệm. Để biết rõ những điều đó chúng tôi quan sát trong thành phố thì chẳng thấy một cái ăng ten nào trên các nóc nhà dân chúng, nếu có máy là phải có ăng ten. Chúng tôi hỏi họ về tiết mục trong chương trình truyền hình thì họ ầm ừ không ai biết, chúng tôi hỏi máy truyền hình của dân chúng hiệu gì, Nhật Bản hay Nga Sô, họ cũng không trả lời được.
Học đã có những thái độ lấp liếm rất buồn cười, chẳng hạn như khi tôi tường thuật vào máy ghi âm quang cảnh thành phố, tôi nói chẳng thấy một bóng áo dài nào trên đường phố, toàn là quần đen áo cánh, thì ngay lúc đó một ông sĩ quan nói chõ vào micro của tôi là ở ngoài này mặc áo cánh cho dễ làm việc, mặc áo cánh nhung không có áo rách. Thật là khôi hài.
- Các anh có thấy các cửa hàng buôn bán, các hàng rong đặc biệt như Sấu Dầm, Phá Sa Lạc Rang của Hà Nội thuở xưa không ?
- Chúng tôi có đi xe phớt ngang cửa hàng bách hóa Hà Nội nhưng không vào, các cửa hàng buôn bán thì hầu như không thấy hay là rất ít, tôi có thấy một vài hàng quán nhưng chỉ kiểu các quán cóc đầu đường của mình ở Saigon. Hàng rong như ngày xưa thì tôi không thấy. Tôi có thấy một vài quán cóc trên đường Lý Thường Kiệt, gần trường Nguyễn Trãi, nhà thủy tạ vẫn còn nguyên.
- Hồi nãy anh Phạm Huấn có nói về chuyến đi thăm anh em tù binh Mỹ ở Hỏa Lò tôi thắc mắc là ở đó có anh em quân đội mình bị bắt giữ hay không ?
- Tôi không thấy bóng dáng một chiến hữu nào của ta bị họ giam giữ ở đó cả.
- Trong ngày trở lại Hà Nội, anh cho biết về thành phố Hà Nội như thế cũng quá đủ, khi anh lên phi cơ nhìn lại thành phố Hà Nội lần cuối cùng anh nghĩ gì. Đây cũng là câu hỏi chót của chúng tôi.
- Đây là một câu hỏi cũng có ý nghĩa tương tự như các cán bộ CSBV hỏi tôi. Tôi cũng thành thực trả lời với họ rằng tôi chờ đợi sự trở về Hà Nội từ mười mấy năm nay. Khi tôi biết được sẽ đi Hà Nội tôi đã trằn trọc suốt đêm không ngủ, cũng như suốt ba tiếng rưỡi đồng hồ trời gần sáng trên máy bay, tôi vẫn từng phút từng phút mong đợi được đến Hà Nội để thấy lại thủ đô yêu dấu khi trước của mình. Nơi tôi đã lớn lên và sống những chuỗi ngày tươi đẹp nhất hồi 17, 18 tuổi. Khi thấy phi trường Gia Lâm đổ nát, tôi vẫn an ủi đây là khu vực quân sự là những mục tiêu oanh tạc, thành thử hoang tàn đổ nát thì cũng không ngạc nhiên, và không thất vọng.
Nhưng thú thực với các anh sau 5, 6 tiếng đồng hồ di chuyển trong thành phố, nhất là xem những phong cảnh mà mình yêu thích ngày xưa tôi thấy đau buồn và cô đơn vô cùng. Trước khi tới Hà Nội đã nhiều lần tôi muốn khóc. Tới Hà Nội như các anh biết, nhiệm vụ và vai trò tôi đã được ấn định rõ ràng, dù có xúc động có thương nhớ Hà Nội ngày xưa của mình tôi vẫn phải che dấu tình cảm đi. Nhưng sau một ngày về Hà Nội nhìn thấy cảnh tiêu điều của thành phố xưa, nhiều lúc vào trong phòng rửa mặt, tôi đã nấc lên để cố dằn những giọt nước mắt trào ra. Tôi nghĩ rằng nếu về Hà Nội để mà nhìn thấy những cảnh tiêu điều xơ xác, những cảnh sống cùng cực của người dân bây giờ, mà tôi thưa với các anh, còn kém những người dân ở Cao Nguyên miền Nam Việt Nam như ở Phú Bổn, Kontum, tôi có nói với họ câu này - cũng để trả lời anh luôn - với nhiệm vụ một quân nhân nếu được chỉ định thì đương nhiên tôi thi hành công tác; còn nếu không, không bao giờ tôi trở về Hà Nội một mình như vậy nữa. Tôi đã trả lời thế và lời nói này đã được các phóng viên đài Hà Nội ghi âm.
“Hà Nội, cái phần thân thể đó của đất nước chúng ta, sau gần hai mươi năm chiến tranh, xa cách, tưởng chừng đã đứt rời khỏi tổ quốc.
Nhưng cuộc trở về Hà Nội của ba sĩ quan QLVNCH như một lời nhắc nhở bàng hoàng rằng Hà Nội vẫn còn, Hà Nội chỉ bị dìm ngập trong bóng tối chứ Hà Nội không mất.

  


Hà Nội còn đó, nhưng Hà Nội ra sao ?
Những hình ảnh của Hà Nội, được mang ra khỏi Hà Nội mới nhất, những bức ảnh chụp Hồ Gươm vào ngày 18 tháng 2 năm 1973 vừa qua, cho thấy rằng Hà Nội còn đó, nhưng Hà Nội đã làm chảy nước mắt tất cả những người nhìn thấy lại Hà Nội.
Hà Nội nghèo, nhưng người ta không thể tưởng tượng Hà Nội có thể nghèo đến thế !
Hà Nội già, nhưng người ta không thể tưởng tượng Hà Nội có thể già đến thế !
Người ta đã làm gì Hà Nội sau gần hai mươi năm đóng kín cửa Hà Nội, để khi chúng ta đẩy được cái cánh cửa quá khứ ra, Hà Nội chỉ còn như một cái xác không hồn như thế ?
Tất cả những lời khoa trương, dối trá cho Hà Nội, không còn che dấu được cho Hà Nội nữa. Bởi vì Hà Nội đã được nhìn tận mắt của một người yêu Hà Nội, muốn biết những sự thật về Hà Nội.
Sự thực là Hà Nội vẫn còn nguyên vẹn, nhưng từ mỗi góc phố, mỗi con đường người ta chừng đều nghe thấy, nhìn thấy, tiếng thở than ngậm ngùi, vẻ điêu linh bạc nhược của Hà Nội.
Những tiên nga Hoàng Dương nói đến trong nhạc của ông hai mươi năm trước đâu ?
Những thanh niên đẹp trai đã khiến Xuân Diệu xưa cả quyết rằng “không gì đẹp bằng đẹp trai” đâu ?
Hơn một trăm bức hình Hà Nội, được mang ra khỏi Hà Nội, không ghi được của Hà Nội một nụ cười !
Người ta nhìn thấy gì trên các khuôn mặt của những người dân đi trên đường phố Hà Nội ?
Cái điều người ta đọc được đầu tiên và cũng làm cho người ta đứt ruột đau đớn là hình như người dân Hà Nội không còn ai có cá tính nữa. Họ cùng mang trên nét mặt một vẻ lạnh lẽo, âm thầm. Không một cô gái nào có nổi một chiếc áo dài. Cũng không một thiếu nữ nào có nổi một đôi giầy. Họ đều mặt quần thâm, áo cánh, áo cánh nâu, áo cánh xám, áo cánh trắng màu cháo lòng, đi dép, thứ dép được cắt bằng lốp xe hơi cũ, quai bằng cao su và thứ dép bằng plastic màu ngà, hoặc đi chân đất. Đàn ông thì hầu hết mặc quần áo đại quân, hay đồng phục cán bộ màu xám. Riêng các thiếu nhi, các em đều phong phanh những chiếc áo vải mỏng, áo len cũ kỹ, dù ai cũng biết rằng, cái rét ở Hà Nội vào tháng giêng còn là cái rét cắt da, cắt thịt, các em phần lớn đi đất, và đất ở miền Bắc vào những ngày chưa hết tết này, phải được ví như những tảng nước đá.
Hà Nội quả thật đã kiệt quệ, đã hết màu sắc, dấu hiệu đầu tiên của những xã hội vui tươi, sung túc.
Các sĩ quan có dịp trở lại cố đô của chúng ta, nói rằng, hai mươi năm mà Hà Nội không có được một kiến trúc nào mới, ngoại trừ một cái công viên, đó là công viên Thống Nhất. Họ đã đi qua nhiều khu phố chính của Hà Nội, nhưng không hề thấy một cửa hàng nào mở cửa, không trông thấy một sạp bán sách báo nào ngoài đường.
Hai mươi sáu năm trước đây, nhạc sĩ Trần Văn Nhơn, từng đảm nhiệm chức vụ nhạc trưởng đài phát thanh Hà Nội, đã phác họa cảnh Hồ Gươm trong một nhạc phẩm của ông, bản Hà Nội 49, không ngờ đó lại cũng là bức chân dung của Hà Nội, của Hồ Gươm năm 1973 nữa :

Khắp chốn nay điêu tàn nhà xiêu đổ một cảnh nát tan
Hồ xanh nay vẫn xanh nhưng liễu xưa hồ đâu tá
Tôi đứng im lặng nhìn, nhìn tháp cũ bóng soi hồ Gươm
Tháp kia sao lạnh lùng như dấu muôn e thẹn căm hờn.

Ba người của Hà Nội ngày trước vừa trở lại Hà Nội, chẳng khác những giọt máu vừa chạy lại được về tim.
Ba giọt máu không đủ làm tươi lại trái tim khô héo, nhưng dù sao cũng đem lại một hy vọng !
Hai mươi năm với những núi xương, sông máu, những người có trách nhiệm với Hà Nội, đã không làm được cho Hà Nội lớn lên, lại làm cho Hà Nội trở thành èo uột, giống như một thành phố hấp hối như thế, đối với bất cứ một người Việt Nam đứng ở đâu đi chăng nữa vẫn là có tội.
Ôi ! “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” câu thơ ấy của Quang Dũng đã trở thành mũi dao đâm vào chính trái tim Hà Nội !
Hết rồi Hà Nội gót son.
Hết rồi Hà Nội, chân trắng ra về lối đẹp hơn của Văn Cao.
Hết rồi Hà Nội bay đến bên em điểm tô quầng mắt. Em tôi ngập ngừng trong tấm áo nhung của Đoàn Chuẩn.
Hà Nội bây giờ là Hà Nội quần thâm áo cháo lòng, Hà Nội chân đất, chân dép nhựa, Hà Nội còng lưng đạp xe đạp.
Hà Nội đã chết!!!

Phụ Lục Ảnh














(All Photos by Phạm Huấn)




Thiếu Nữ Hà Nội (trước khi Miền Bắc rơi vào tay Cộng sản 1954), photo by Cao Đàm



>> Google drive downloadable link [Ấn bản tái bản lần thứ ba tại Hoa Kỳ 1987]





$pageOut$pageIn
Phân đoạn 20:
Ngày đăng: Jul. 19, 2024

LTC: Kể từ #20 này trở đi là gồm:
+ tập hợp các đoạn trích ra trong sách báo miền Nam do tôi retyping cẩn thận nguyên văn.
+ tường thuật, tự sự hoặc hồi ức của các cán binh cộng sản viết ra sau khi đã về hồi chánh với Chánh Nghĩa Quốc Gia VNCH, của một số nhân vật VC hay CSBV may mắn sống sót sau cơn binh lửa, nay họ đã phản tỉnh và viết lại
+ các bản tin về nội tình nghèo đói, lạc hậu, kham khổ vô lường của miền Bắc do báo chí miền Nam thu thập hay do báo giới phương Tây săn lùng mới có được
Tất cả đúc nên một bức tranh toàn cảnh trong đó cả dân chúng lẫn cán bộ cộng sản, cả lớp bị trị lẫn bè lũ cai trị CSBV đều hiểu sai hoàn toàn sự thật về mọi thứ, trên mọi bình diện một cách thê thảm dưới chủ trương bưng bít triệt để và tuyên truyền láo khoét của tập đoàn bạo quyền Bắc Việt; Bức tranh còn bày ra thực trạng rợn người nơi Bắc Việt cả về phần xác lẫn phần hồn mà một người miền Nam Tự Do không thể nào tưởng tượng được, đó là gần như toàn dân Bắc Việt đã bị triệt tiêu cái tôi cá thể, thay vào đó là từng con người biến thành một chiếc đinh ốc vi tri của lịch sử, một thứ bản sao tập thể in hệt nhau, giống nhau như đúc nơi cái lò nhồi sọ một thứ ý hệ vô luân quái đản đầy phi nhân, hiếu sát và căm thù tưởng tượng một cách phi lý, hư vô, quái gở - mà bà Dương Thu Hương đã gọi đó là xã hội trại lính.


Mèo Hoang

Hồi ức của của Trung úy Bác sỹ Cao Vân, cán binh CSBV đã về hồi chánh với chánh nghĩa quốc gia trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972
PHƯƠNG BẮC ghi
trang hai nhựt báo #Tien Tuyen Oct. 12 _ 13, 1971
retyping by Le Tung Chau 2024



#Tien Tuyen Oct. 13, 1971

Đơn vị tôi lên đường đúng vào cuối tiết Thu của đất Bắc. Bắt đầu đi bộ từ Hòa Bình - căn cứ huấn luyện cán binh BV - trước khi cho họ vào Nam “chống Mỹ cứu nước" rồi đột nhập lãnh thổ Việt Lào.
Sau những tháng lặn lội gian khó vượt rừng, xuyên núi.. chúng tôi đã tới miền Nam với đa số mang một số bệnh quái ác trong người như: Sốt rét vì khí núi độc địa, phù thùng vl thiếu Vitamine, Kiết lỵ vì thức ăn kham khổ. Vốn sức khỏe suy giảm nên do đó, tinh thần chiến đấu cũng xuống thấp hẳn đi. Trong hoàn cảnh ấy, những danh từ như: “khắc phục. phần đấu”... được các cán bộ chính trị viên nhai di, nhai lại hòng xoa dịu nỗi nhớ nhà và mầm chán nản này sinh trong hàng ngũ. Đã thế, lại phải luôn luôn lén lút di chuyển. Đào hầm buổi sáng, buổi chiều lại có lệnh rời đi nơi khác ngay nhằm tránh sự phát giác của máy bay. Nhưng nào đâu có thoát khỏi. Chúng tôi phải chịu mấy lần phản lực cơ oanh kích và 3 đêm bị B52 bừa qua. Mặc dù trốn lánh những công sự được ngụy trang vô cùng cẩn thận, nhưng tất cả mọi người. ai ai cũng đợi chờ cái chết khủng khiếp đến với mình. Sau mỗi lần bom nổ như thế. đại đơn vị tôi tan nát thành nhiều mảnh. Chúng tôi chôn những đồng chí xấu số của mình ngay vào chính công sự mà họ vừa trú ẩn.
Cho đến nay, tôi vẫn lấy làm lạ lùng tự hỏi: Làm sao mà mình có thể thoát chết khi mà bom đạn nổ như ngô rang, rải đều trên đầu với những âm thanh làm vỡ màng tai, máu ứa ra từ mắt mũi.,.? Tôi cũng tự hỏi những người “Sinh Bắc, Tử Nam” ấy có lần nào đã nghĩ như tôi: Tại sao lại cứ phải tiếp tục chết một cách vô ích như thế này mà không được sống? Có lẽ, phần đông đã không kịp hỏi trước khi vùi thân dưới lòng đất lạnh.

Tháng 7-1970, đơn vị tôi giáp trận lần đầu trong trường hợp tao ngộ chiến. Ngay từ phút đầu, tôi đã bị thương vì nhiều mảnh M 79 làm tê liệt toàn thân. Vốn bị đánh bất ngờ, lại không nắm vững địa hình, địa vật, nên thủ trưởng đơn vị ra lệnh bỏ lại toàn bộ xác đồng đội và đem theo một số thương binh vội rút chạy về rừng già.
Sau trận đó, tôi được gửi nằm điều trị ở bệnh viện có bí số là “B. 21”
Đến ngày thứ 9, đồng chí Y sĩ Trưởng là Đại úy Bác sỹ Hòa xét rằng mặc dù vết thương chưa khỏi hẳn nhưng vì tôi đã bị mất máu quá nhiều trong lúc chuyển thương, cộng vào đó, vi trùng sốt rét đã hành hạ làm sức khoẻ tôi kiệt quệ nên rất khó phục hồi nhanh chóng. Do vậy, Đảng ủy bệnh viện quyết định chuyên tôi qua trại an dưỡng. Tôi hiểu ngay, sở dĩ có quyết định này là để giải quyết tình trạng thương binh ứ đọng. Đông đến nỗi anh em cụt chân, mất tay phải nằm rải rác cả ở ven bờ suối, bên trên chỉ có tấm vải nhựa che mưa. Vì theo như vết thương của tôi thì ít nhất củng phải 60 ngày nữa mới có thể tiếp tục công tác được.
Chiều hôm ấy, tôi chuyển tới trại an dưỡng có bí số là “B.29”. Tại đây, tôi đã gặp nữ y sĩ Minh Lý, Minh Lý người miền Nam, tính tình hiền dịu. Chân trái đi hơi tập tễnh vì thương tích xa xưa. Đặc biệt, Lý còn có cặp mắt đen và lóng lánh, nên khuôn mặt đượm vẻ buồn da diết của nàng.
Khi mới tiếp nhận tôi, ánh mắt Lý thoáng vẻ ngạc nhiên như dò hỏi. Tôi buột miệng: “Đồng chí thấy lạ khi thấy tôi vào trại an dưỡng này à?”
Minh Lý gật đầu nói: “Vâng ! Vì mặc dù bác sỹ có màu da vàng vọt, tay chân run rẩy và thân hình khô đét như thế này, nhưng bác sỹ vẫn là người đầu tiên đến trại an dưỡng với toàn thân nguyên vẹn.”
Vốn còn đủ tay, chân nên bữa sau, Minh Lý nhờ tôi phụ giúp cho đồng chí những việc lặt vặt khác ở trong trại. Thật là rừng rậm và khủng khiếp khi ngay ở chốn rừng hoang này thấy toàn người què cụt sứt đui... Họ sống như những bầy thú trong các căn lều lợp lá thấp lè tè. Đêm đêm, muỗi rừng bay như ong vỡ tổ quanh những túp lều tranh ẩm thấp. Nơi đây quả là một xã hội của những người bất hạnh, tôi tin rằng, không một chiến sĩ nào có đủ bình tĩnh và can đảm để tiếp tục chiến đấu sau khi đã chứng kiến thế giới của 300 thương binh bị bỏ rơi như vậy?
Về chế độ an dưỡng ở trại này, ngoài số gạo cung cấp bị mắc bệnh “kinh niên thiếu hụt” ra, còn tất cả những ai mà muốn ăn sáng dù mất tay cụt chân cũng phải lê bước ra chân đồi trồng ngô sắn hoặc làm cỏ ở rẫy để tự túc lương thực. Tuy nhiên khó khăn nhất vẫn thực phẩm. Mỗi lần có ai đánh bẫy được con sóc, con chuột... thì hàng mấy trăm con mắt sáng lên như một bầy mèo đói thấy mỡ. Bởi vì khu rừng nào mà chúng tôi đặt chân đến, thì tất cả loài vật cũng chuồn hết mất rồi.

Một lần, Minh Lý được người bạn gái làm giao liên đem cho một con chó. Lý chỉ nuôi nó được 5 ngày thì mất. Bề ngoài. Lý giữ vẻ sinh hoạt tự nhiên, nhưng tôi biết Lý rất đỗi bực mình. Vì thế. chiều hôm sau tôi nói với đồng chí ấy rằng:
– Anh em đều quý mến Lý, nhưng vì lâu quá không có gì ăn nên anh em thèm ăn thịt. Do vậy, họ đã bóp cổ con chó con của Lý.
Lý chỉ buông một câu:
– Tôi biết.
Sau một phút im lặng, Minh Lý bùi ngùi nói thêm:
Tôi biết. Thương một con vật chỉ là vì con vật ấy có trí khôn thì ấy cũng là một loại tình cảm trưởng giả. Tuy nhiên, tôi còn buồn vì tình trạng ở đây các đồng chí thương binh thiếu thốn quá.
Đoạn Lý ngẩng đầu nhìn tôi giây lâu, rồi vừa như an ủi, vừa như báo trước. Đồng chí nói:
– Với tình cảnh ăn uống ở đây, đồng chí Vân còn lâu mới phục hồi được sức khỏe!

Kể từ bữa đó, Lý hay chuyện trò với tôi. Qua những lần Lý tâm sự, tôi được biết rằng nàng lạc lõng vào đây cũng chỉ vì tình cảm gia đình. Em trai Lý trước kia bị dụ hoặc bỏ học mà đi rồi vào chết tại nơi đây. Lý thì đang học, hay tin em thì nàng vào thăm rồi không thể trở về gia đình được nữa. Sau những năm tháng phục vụ tại bệnh viện, Lý học tập được một số kinh nghiệm phục vụ bệnh rồi được Đảng ủy bệnh viện “phong” cho làm y sĩ. Một lần bệnh viện của Lý bị trúng bom, nàng bị thương ở chân nên xin về đây để giúp đỡ thương binh trại an dưỡng này.
Biết Minh Lý là một con người hãy còn giàu tình cảm, nên khi nàng hỏi, tôi mạnh dạn trình bày hoàn cảnh của mình:
— Trường hợp tôi cũng giản dị. Giống như những đồng chí đã “hy sinh cho cách mạng” hay những đồng chí còn sống lây lất như tôi ở trong khu rừng này. Là một học sinh học hết trung học, tôi nhảy vào Đại học y khoa Hanoi một cách khó khăn. Học hết y khoa tôi được lệnh Đảng lên đường “GPMN” với cái chức “Bác sỹ bệnh viện dã chiến” ở Sư đoàn II BV xâm nhập. Tôi đã từ bỏ gia đình rồi trôi giạt vào Nam như hàng trăm ngàn thanh niên miền Bắc khác.
Đồng chí Minh Lý buồn rầu xác nhận với tôi rằng:
— Không phải ai cũng ai cũng muốn rời bỏ gia đình, có đúng không hả đồng chí Trung úy Bác sỹ?
Câu nói của Lý làm tôi chợt thấy mất mát, bâng khuâng. Trong tôi bừng lên một niềm vô cùng tuyệt vọng.
Tiếp đó là những đêm không ngủ. Mỗi lần giật mình thức giấc, tôi vẫn nghĩ: Tại sao mình lại có mặt ở đây? Minh sẽ làm gì ở giữa chốn rừng xanh núi đỏ này?.. Trưởng thành tại quê hương miền Bắc. Thế mà tôi chưa sống vừa với ý muốn mà mình mong được một ngày nào!?
Rồi đây những thằng bạn vì những đứa em tôi sẽ tiếp tục đi vào chết ở những khu rừng giành sẵn cho chúng chăng? Tất cả những ý nghĩ ấy khuấy động trong tối thúc dục tôi đi tìm cho mình một con đường mới lạ...

#Tien Tuyen Oct. 13, 1971

Một hôm. Minh Lý dẫn tôi đến 1 thôn ở mép bìa rừng. Chúng tôi vượt nửa ngày trường đến đây đề tìm kiếm lương ăn cho anh em thương binh trong trại.
Thế mà, ngoài những mái nhà tranh xiêu vẹo ra,trong xóm không có một bóng người. Tôi sửng sốt hỏi Minh Lý:
— Lúc còn ở ngoài Bắc, tôi vẫn được nghe Đài phát thanh và báo chí nói rằng đồng bào miền Nam rất thương và quý “Quân giải phóng". Thế mà sao dân ở đây họ lại bỏ đi đâu hết thế đồng chí Lý?
Ngần ngại một lúc, đoạn đồng chí Lý trả lời tôi:
— Trông thấy các anh mang súng ống về là dân chúng họ vội vã bỏ đi ngay. Tôi cho rằng đồng bào họ không hiểu.
Tôi nói nhanh:
– Vì cũng giống như họ nên tôi hiểu họ. Mãi cho đến bây giờ, tôi cũng chưa hiểu?!
Đôi mắt đen của Lý tròn xoe nhìn xoáy vào tôi. Đoạn mặt Lý quay đi cho khác.
Tôi nghe thấy tiếng thở dài nho nhỏ của Lý trước khi nàng tiếp tục dẫn tôi đi khắp trong xóm. Làng này gồm 4 xóm với trên 200 nóc nhà, thế mà 2 chúng tôi không tìm được một thứ gì có thể ăn được ngoài mấy bụi chuối xác xơ nghiêng ngã. Mệt mỏi chán nản, chúng tôi ngồi nghĩ dưới bóng cây xoài mà ở thân nó có chằng chịt nhưng vết đạn ngang dọc.
Bỗng, một tiếng, hai tiếng rồi nhiều tiếng kêu như con nít khóc làm phá tan bầu không khí nặng nề giữa trưa hè oi ả. Tôi giật mình ngó lại phía phát ra tiếng động và nhận thấy đó là một bầy mèo. Nó thấy người không sợ mà còn tiếp tục tiến lại gan chỗ chúng tôi. Nhìn lũ mèo đủ các thứ màu sặc sỡ, chậm chạp đến bước đến phía chúng tôi. Tôi hỏi nhanh đồng chí Minh Lý:
– Kìa! Chắc đồng chí hay xuống đây nên nó quen à?
Minh Lý khoát tay, trả lời tôi bằng một giọng buồn thảm:
– Vâng. Nó cũng bị bỏ rơi đấy Bác sỹ ạ!
Tất cả đều gầy guộc, xác sơ. Chúng dương những сặр mắt như van xin kêu gào thảm thiết bên chân chúng tôi như đòi ăn, đòi uống...Dường như lâu lắm chúng mới gặp người. Minh Lý nói nhỏ bên tại tôi:
– Đây là toàn bộ số mèo của thôn này. Trong lúc súng nổ, đồng bào đã thu xếp ra đi bỏ chúng lại.
Nhìn bầy mèo tự sinh tự diệt trong cảnh hoang tàn khói lửa này, thấy tội cho chúng bị bỏ quên, phải sống lạc lõng lang thang. Tôi chợt nghĩ ngay đến thân phận chúng tôi, thân phận của những thằng sống sót sau trận ‘giải phóng miền Nam’.
Có lẽ tiếng van xin của lũ mèo làm Lý không chịu nổi. Nàng cúi xuống nhặt viên đá định ném đuổi chúng đi nhưng tôi đã kịp giơ tay ngăn lại. Tôi nói cho Minh Lý biết một ý nghĩ vừa nảy sinh ở trong tôi:
– Hay là chúng ta bắt lũ mèo này mang về.
Đồng chí Lý hồi nhanh tội:
– BS Vân! Đồng chí muốn nuôi mèo à?
Tôi lắc đầu, cười gượng trả lời:
– Lấy gì mà nuôi? Tôi muốn nói là ta mang về cho anh em. Một giây sửng sốt. Đoạn Lý nở nụ cười chua chát trả lời tôi:
– Ý bác sỹ muốn nói là ăn thịt chúng nó phải không?
Tôi mắc cỡ, mặt đỏ bừng trả lời:
– Tôi chưa hề ăn thịt mèo lần nào. Nhưng dù sao thì đó cũng là thịt ăn được. Hơn nữa ở trại ta thì mèo cũng là 1 món ăn đặc biệt…
Minh Lý gân cổ lên phản đối: “Không được đâu bác sỹ, ăn thịt mèo tội chết!”
Tôi chống chế:
– Nhưng nhẹ hơn là ăn thịt chó.
Minh Lý im lặng. Đột nhiên, tôi cảm thấy câu nói của mình vô cùng nhẫn tâm. Đoạn Lý chống tay đứng dậy định bỏ di. Chợt nàng quay lại và bắt gặp bộ mặt bần thần, ngơ ngác của tôi. Có lẻ thấy bộ mặt đó, nên cơn giận của Lý dịu lại. Tôi không hiểu vì ánh mắt cầu khẩn hay vì thân hình khô đét của tôi làm cho đôi mắt Lý thoáng vẻ xót xa thương hại..!
Minh Lý ngập nhừng nhìn tôi một lúc rồi bỏ đi, tôi biết nàng đã nhượng bộ.
Minh Lý quay lưng về phía tôi đi được một đoạn gần chừng 20 thước, thế mà tôi đã dùng gậy đập chết được 13 con mèo lớn nhỏ. Có những con bụng hãy còn phập phồng. Nó mở tròn mắt trút tất cả sự oán hận về phía tôi. Những con sống sót kêu thất thanh chạy toán loạn về các bụi rậm... Nhìn 13 xác mèo máu me bê bết nằm sóng sượt trước mặt, tôi chợt thấy rợn người. Song tôi tự trấn an bằng một ý nghĩa: chúng tao và chúng mày cũng cùng một thân phận, một cảnh ngộ. Nhưng dù sao chúng mày là loài vật thì phải «hy sinh» trước để chúng tao sống thêm chút nữa, Cho đến lúc ấy, tôi mới hiếu rõ tâm trạng của thủ trưởng chúng tôi trong các trận đánh.
Trên đường về trại, Minh Lý cố bước thật nhanh nhưng vì có tật nơi chân nên không bỏ xa tôi là mấy. Ngược lại tôi thì phải vất vả lắm mới tha nổi số xác mèo về trại.
Có lẽ vì nhận ra chúng tôi từ đằng xa, nên khi vừa đặt tới trại, anh em thương binh đã đỡ lấy xác bầy mèo rồi đi làm thịt ngay. Chiều hôm ấy, cặp mắt của 300 thương binh đều long lanh khi có lệnh ăn cơm...
Tối hôm ấy, khi gần đến giờ ngủ, lúc ngang qua phòng làm việc, tôi bắt gặp Lý ngồi ngay trước thềm. Nghe thấy tiếng sụt sùi, tôi lặng lẽ đến ngồi bên cạnh Lý. Hồi lâu mới cất được nên lời, tôi cất tiếng hỏi:
– Đồng chí Lý! Đồng chí hay còn giận tôi à?
Tôi vừa dứt câu, tiếng nấc của Lý lại càng to hơn. Đoạn Lý dương bộ mặt đầm đìa nước mắt về phía tôi rồi nói:
– Không! Tôi không giận anh dâu. Nhưng tôi khổ lắm!
Thấy tôi im lặng, Minh Lý thở dài nói tiếp:
– Tôi biết, tôi còn giữ lại nơi mình những tình cảm mà các anh kết án là tiểu tư sản. Nhưng vì thương các anh quá đến nỗi tôi không chịu được nữa. Có lẽ, tôi phải rời bỏ nơi đây. Tôi đang xin người đến thế tôi.
Tôi ái ngại lên tiếng trong bóng tối:
– Đồng chỉ định làm gì và xin đi đâu?
Minh Lý chậm rãi trả lời tôi:
– Tôi xa gia đình đã 6 năm. Tôi nhớ cha mẹ và các em tôi. Tôi phải về thăm cha mẹ và các em lúc này xem ra sao? Một phút im lặng trôi qua. Tôi hỏi Minh Lý bằng âm thanh vừa đủ nghe:
– Tại sao đồng chí lại nói điều này với tôi?
Minh Lý ghé sát vào tai tôi trả lời từng tiếng một:
– Bởi vì, tôi biết rằng đồng chí cũng giống như tôi. Đồng chí cũng yêu mến gia đình đồng chí và đồng chí thừa hiểu không một lý tưởng nào, một mệnh lệnh nào vượt lên trên niềm hạnh phúc của một gia đình xum họp.
Đây là sự thật. Đây là ý nghĩ thầm kín sâu xa mà có lẽ từ 6 năm nay, cho đến bây giờ Lý mới nói được nên lời.

Trưa hôm sau, lúc sắp đến giờ ăn cơm, đột nhiên cả khu trại như vươn mình nhảy nhót. Những tia xanh, đỏ vàng... cùng sáng lóe lên một lúc. Tảng đá to bằng cái bàn, cây cối, nhà cửa, những con suối nhỏ róc rách suốt đêm ngay sát gần trại cũng đều như điên lên, chúng bay lơ lửng không theo một đường hướng nào nhất định. Tôi bị vất ngửa xuống gầm rồi nằm bất động… khi tỉnh dậy tôi thấy máu ứa ra đằng tai và nhận ra một cục gì vướng ở trong họng Tôi thở ra và nhận thấy là cục máu đã đông như tiết lợn.

... B.52 vừa cày qua đây...

Tôi không hiểu tại sao mình thoát chết? Quanh tôi dường như không còn một dấu hiệu nào của sự sống. Qua khỏi cơn choáng váng vì những tiếng nổ long trời, tôi lao mình về hướng phòng làm việc. Chiếc áo cánh màu tím thường ngày của Lý rách bươm, Lý nằm sóng soài trên bậc thềm ngay chỗ đêm qua tôi ngồi nói chuyện. Đôi mắt đen của Lý vẫn mở và nhìn tôi hừng hừng, ở 2 đuôi mắt có vết máu đã khô biến thành màu đỏ thẫm. Tôi cảm thấy như mình sắp không làm chủ được mình nữa. Tôi nhìn Lý lần cuối cùng, rồi không cần phải suy nghĩ, chân run rẩy dò dẫm tôi lê bước về phía Đông...

Mười hai ngày sau, tôi đã có mặt ở Saigon và nghĩ rằng có lẽ đời mình sẽ không bao giờ phải ăn thịt mèo hoang lần thứ hai nữa.

9-1971

$pageOut $pageIn$pageOut các Phần tiếp theo ==>
.

No comments:

Post a Comment

Enter you comment ...