Hồi Ký
1940-1945
Trần Văn Giàu
1940-1945
Trần Văn Giàu
Phần thứ năm
TỔNG KHỞI NGHĨA THÀNH CÔNG:
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP BẮT ĐẦU
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP BẮT ĐẦU
(tiếp theo)
12. Ngày 2 tháng 9:
Máu đồng bào bắt đầu chảy ở Sài Gòn
Ngay từ hôm 20 tháng 8, từ Paris, qua làn sóng vô tuyến điện De Gaulle nói với Pháp kiều ở Đông Dương rằng y đã gửi tuần dương hạm Richelieu sang Viễn Đông, tàu đó đang ở đảo Ceylan đợi lệnh nhổ neo đi Sài Gòn.
De Gaulle nói: “Tôi khuyên các người hãy bình tĩnh đợi cơ hội thuận tiện”.
De Gaulle nói: “Tôi khuyên các người hãy bình tĩnh đợi cơ hội thuận tiện”.
Rõ ràng Paris khuyến khích bọn thực dân Pháp ở Đông Dương chuẩn bị hưởng ứng hành động quân sự của Pháp trên xứ thuộc địa cũ này. Chắc De Gaulle cũng có ý đe doạ ta đó. Chúng chuẩn bị xâm lăng thực sự cả ở Nam, rồi Bắc, Trung.
Ngày 27 tháng 8, chiến hạm Greysac đổ quân lên đảo Cát Bà.
Ngày 31 tháng 8, Pháp nhảy dù xuống Phan Thiết, ta bắt và giết 7 tên nhảy dù.
Từ ngày 25 tháng 8 đến cuối tháng, chúng tôi ở Sài Gòn tuy chưa được trực tiếp với một phái viên chính phủ ta từ Hà Nội vô, chưa có mật mã với chính phủ Trung ương nhưng chúng tôi đã được hướng dẫn bởi đài phát thanh Hà Nội. Vì vậy, theo chỉ thị chung, chúng tôi ráo riết chuẩn bị ngày lễ độc lập 2 tháng 9.
Tôi được biết khá sớm, sớm hơn 24, 25 (ngày khởi nghĩa Sài Gòn) rằng Thanh niên Tiền phong ở Tây Ninh bắt được ba thằng tây nhảy dù rồi giao cho nhà chức trách địa phương, nhà chức trách địa phương giao cho Nhật, Nhật đưa cả ba đứa về Sài Gòn ngày 22 tháng 8 và cho ở tử tế trong một cái nhà nhỏ bên cạnh phủ Toàn quyền. (Sau này, mới hay rằng thằng cầm đầu toán lính nhảy dù đó là đại tá Cédile 1, rời Calcutta (Ấn Độ) một lượt với Messmer 2. (Messmer nhảy dù xuống Bắc Bộ). Bọn Cédile đã tận mắt chứng kiến cuộc biểu tình khởi nghĩa sáng 25 tháng 8 ở Sài Gòn. Mấy hôm rày tôi liên tiếp được báo cáo rằng thanh niên ta đã bắt được bọn Pháp nhảy dù ở Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hoà. Chắc có một số nào trốn thoát về Sài Gòn. Tiền quân của quân Anh, Ấn (trong đó chắc có Pháp) đã đáp xuống Tân Sơn Nhứt, nghe đâu có cả mấy sĩ quan tình báo Mỹ tới nữa. Quân Anh nói với quân Nhật thả một số tù binh Pháp. Thực thà mà nói, tôi không đoán được trước là ngày 2 tháng 9 tụi Pháp sẽ có âm mưu khiêu khích cách nào đây; điều chắc chắn nhất là Anh sẽ ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương, vì, nếu Pháp mất Đông Dương, thì Anh sao khỏi mất Ấn Độ, Miến Điện, Ceylan. Tụi thực dân ủng hộ nhau là tất nhiên, Anh phải giúp Pháp chiếm nước ta một lần nữa. Ngoại giao, thương thuyết với những tên “Đồng minh” thực dân Anh này chắc hẳn không đi tới đâu, có chăng, theo dự kiến của Thạch, ta sẽ ra sức lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh, Pháp một bên và Mỹ, Tàu một bên. Sau 25 tháng 8, Cédile (nói là đại diện cho De Gaulle) có đến tìm Thạch, tôi và mở một thứ nói chuyện “vào đề”. Báo Sài Gòn thuật: Chiều ngày 30 tháng 8, Chủ tịch lâm thời Uỷ ban hành chánh Nam Bộ là ông Trần Văn Giàu có triệu tập một cuộc họp báo chí tại dinh hành chánh. Sau khi nói về tổ chức Dân quân cách mạng, ông Giàu cho biết: có đại biểu của De Gaulle nhảy dù xuống Sài Gòn, yêu cầu nói chuyện với Uỷ ban hành chánh. Về việc này, ông Giàu tuyên bố: “Chúng tôi sẵn sàng tiếp chuyện nếu đại biểu của De Gaulle chịu sự thương thuyết trên cơ sở Pháp thừa nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập. Nhưng, nếu đại biểu của De Gaulle đặt sự bàn bạc trên cơ sở khác (Pháp trở lại Đông Dương), thì chúng tôi xin nhường cho súng đạn trả lời”. Rồi không hiểu nghĩ sao, ông Chủ tịch kiêm Uỷ trưởng quân sự Trần Văn Giàu tuyên bố một câu để chấm dứt cuộc họp: “Nếu một phần đất nào của Việt Nam bị mất thì chúng ta phải dùng máu của chúng ta mà đặt lại vấn đề Việt Nam trên tấm thảm xanh quốc tế”. (Trần Tấn Quốc, Sài Gòn Septembre 45).
Cũng vì bọn Anh-Pháp-Mỹ đã bắt đầu có mặt ở Sài Gòn cho nên cuộc biểu tình ngày 2 tháng 9 chẳng những là nhằm để cho đồng bào ta tuyên thệ ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh, tuyên thệ trung thành với độc lập dân tộc, chống mọi cuộc xâm lăng, mà còn nhằm để cho các nước đồng minh Anh, Mỹ, Tàu, Nga thấy rằng tất cả dân tộc Việt Nam cùng một lòng, ai đụng tới độc lập của chúng tôi thì sẽ vấp phải sức chống trả của 25 triệu đồng bào Việt Nam. Cho nên, một mặt cả thành phố treo cờ Đồng Minh chiến thắng, cờ đỏ sao vàng chính giữa, bốn cờ Anh, Mỹ, Tàu, Liên Xô hai bên, mặt khác khẩu hiệu nổi bật nhất viết bằng năm chữ là: “Độc lập hay là chết!”.
Trần Văn Giàu ứng khẩu trên lễ đài 2-9-1945
(khẩu hiệu ở dưới: Độc lập hay là chết!)
(Cũng có lúc người ta nói “Độc lập hay là chết” 3 là do cách mạng Cuba khởi xướng. Đúng là sau này Cuba đã nêu cao khẩu hiệu “Độc lập hay là chết” . Nhưng khẩu hiệu ấy thì nhân dân Việt Nam ở Sài Gòn Nam Bộ đã nêu ra từ ngày 2 tháng 9 năm 1945. Một khẩu hiệu rất tiêu biểu).
Nơi tập trung đồng bào kỳ này cũng lấy đại lộ Norodom 4 là chính (nay đổi tên là đại lộ Cộng Hoà), với đường Blansubé và tất cả các đại lộ Thủ Khoa Huân (Charner), Phan Bội Châu (Bonard). Số người biểu tình sẽ bằng hay đông hơn sáng 25 tháng 8 – nhưng lần này, biểu tình không có vũ trang của quần chúng, chỉ có vũ trang của quân đội, dân quân, tự vệ, công an cảnh sát. Ngày trước (tức mùng 1 tháng 9) tôi có mời họp báo bất thường để cho các báo rõ mục đích của ngày 2 tháng 9 và vài đặc điểm của ngày 2 tháng 9 ở Sài Gòn. Tôi lưu ý các báo đến chỗ cuộc biểu tình ngày 2 tháng 9 thì quần chúng không có vũ trang như ngày 25 tháng 8 vừa qua, nhưng băng cờ nhiều hơn và các khẩu hiệu đều thống nhất, phải giữ trật tự không làm gì rối trật tự, đề phòng khiêu khích của địch và tay sai; có khiêu khích thì ta sẽ đối phó theo sự chỉ huy chung đừng để rối loạn, lại lưu ý tới điều này nữa là lực lượng dân quân cách mạng được biểu diễn không phải là quân chính quy đâu mà mong có quân phục tử tế, vũ khí tân thời và đầy đủ; dân quân là dân quân, “y phục đủ thứ, võ khí thô sơ là phần nhiều”, nhưng phải hiểu rằng sức mạnh của ta không phải ở vũ khí và y phục “lực lượng vô sản của chúng ta chính là sự đoàn kết toàn dân và lòng hy sinh của các chiến sĩ cho Tổ quốc”. Nhà báo Trần Tấn Quốc còn ghi được những lời ấy và nhà báo này không quên nhắc lại mấy trang lịch sử cách mạng thế giới vẻ vang hết sức mà chiến sĩ có công nhất là những anh “quần đùi, áo rách”, Âu, Á, Phi châu đều có nhiều tỷ dụ như vậy.
Tuần hành ở Hà Nội dưới khẩu hiệu Độc lập hay là chết!
Mục đích chính của cuộc biểu tình ngày 2 tháng 9 là nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Hà Nội đọc Tuyên ngôn độc lập. Rồi toàn thể dân biểu tình ở Sài Gòn (cũng như ở các thị xã khác toàn Nam Bộ), sẽ cùng một lúc làm lễ tuyên thệ. Cho nên, nhờ có thời gian khá rộng, chúng tôi đã đặt vô tuyến truyền thanh khắp nơi, nhất là ở đại lộ Cộng Hoà và các đại lộ, yên trí chờ 2 giờ chiều thì bắt đầu.
Tập hợp đông vượt quá mức dự định. Cả thành phố rực rỡ cờ băng. Giờ khai mạc đến. Chào cờ. Quân nhạc cử Quốc tế ca và Thanh niên hành khúc. Nhà báo Trần Tấn Quốc trong sách Sài Gòn Septembre 1945 (sách in tại Sài Gòn năm 1947), còn ghi lại:
“Tại khoảng đại lộ Cộng Hoà, tại đường Blansubé, chung quanh Nhà thờ lớn, các đoàn thể dân chúng đứng có trật tự theo bốn sư đoàn dân quân cách mạng.
“Ta hãy thú thật và nói thẳng ra những gì rạo rực trong lòng ta lúc bấy giờ, trong giờ phút này. Ta có cảm động chăng và có cảm tình gì trong khi ta thấy y phục của dân quân toàn là quần đùi, áo ngắn, người mang giày, người chân không, võ khí thì từ liên thanh nhẹ đến súng hai lòng, từ trường kiếm đến dao găm, trong hàng ngũ ấy có những bạn phóng túng của ta ngày hôm qua, có những cậu thanh niên ở lối xóm, có những nhà buôn vừa giã từ thị trường, có những “con ông cháu cha” của thời trước”.
Dân quân cách mạng Sài Gòn khi ấy đại khái là như vậy đó. Nhưng Trần Tấn Quốc không ghi lại hình ảnh hơn vài ngàn quân chính quy mà gần phân nửa mới tuyển từ Tổng Công đoàn và Thanh niên Tiền phong đi đầu có hàng ngũ chỉnh tề, súng ống khá đủ, quân phục kể cũng tử tế. Mới năm ba ngày tổ chức làm sao mà tốt được? Và đâu có đưa ra biểu diễn hết đâu?
Đúng giờ, cụ Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập, chờ mãi mà không nghe gì. Chờ hơi lâu sốt ruột, đâu đó quần chúng hét lên: “Nó phá rồi! Nó phá rồi!”. (Sau này mới biết rằng hôm ấy đài Hà Nội không phát sóng được). Anh em Xứ uỷ và Uỷ ban hành chánh có mặt trên lễ đài bảo tôi phải nói thay thì mới trấn an quần chúng được. Tôi vạch mấy đầu dòng và ứng khẩu nói (truyền thanh của thành phố hôm ấy rất tốt). Bài nói được các nhà báo tốc ký và đăng trên các báo Sài Gòn, Điện Tín, sáng hôm sau:
“Hỡi quốc dân!
Hỡi đồng bào tận tâm cứu nước!
Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã trở thành một nước độc lập.
Việt Nam từ một đế chế đã trở thành một nước dân chủ cộng hoà.
Việt Nam đương tiến bước trên đường sống, sống danh dự với toàn cầu.
Hôm nay, tuân theo mạng lệnh của chánh phủ trung ương do đồng chí Hồ Chí Minh lãnh đạo, chúng ta làm lễ độc lập, mừng thắng lợi của cách mạng trên cả nước Việt Nam.
Hôm nay, một lần nữa, chúng ta biểu thị cho Đồng minh và cho thế giới, cho bè bạn và cho kẻ thù thấy ý chí của tất cả đồng bào kiên quyết bảo vệ tới cùng quyền độc lập và nền dân chủ của chúng ta.
Mừng thắng lợi, nhưng đồng bào chớ say sưa vì thắng lợi.
Biểu thị ý chí độc lập, nhưng đồng bào chớ lầm tưởng rằng bấy nhiêu lực lượng phô trương ở đây là đủ.
Còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa.
Cần phải cần lao, trọng kỷ luật, kỷ luật nghiêm mật hơn nữa.
Bởi vì Việt Nam yêu quý của chúng ta đương gặp một tình cảnh nguy nan; không khéo lo, nước ta, dân ta, có thể bị tròng lại ách nô lệ.
Bên trong
Một số kẻ phản quốc đương tập hợp lại để làm hậu thuẫn cho quân địch. Chúng nó sẽ bị toà án nhân dân trừng trị thẳng tay. Phải trừng trị thẳng tay bọn mãi quốc cầu vinh, những bọn gây rối cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, gây rối để tạo cho quân địch một cơ hội xâm lăng đất Việt Nam lần nữa.
Bên ngoài
Kẻ địch toan tính một cuộc âm mưu gác lại ách nô lệ trên cổ 25 triệu đồng bào ta. Họ nhảy dù ở Tây Ninh, Biên Hoà. Họ từ Lào đem quân sang. Họ đã bị bắt, bị đánh lùi. Nhưng họ chưa chịu đứng yên đâu. Chúng tôi đã nắm được bằng cớ chắc chắn là họ toan dùng võ lực, thình lình lật đổ chính phủ dân chủ cộng hoà để đặt lại một quan toàn quyền như thuở trước.
Đồng bào!
Ở đây có ai thừa nhận một quan toàn quyền cai trị xứ ta không?
– Không! Không!
Có ai chịu bó tay để cho chế độ thực dân ra mặt hay giấu mặt trở lại không?
– Không! Không!
Thì chúng ta hãy thề cương quyết đứng bên cạnh chánh phủ chống mọi sự xâm lăng, dầu chết cũng cam lòng.
Hỡi các dân tộc trên thế giới đã chiến đấu cho nhân quyền và dân chủ, chống độc tài và phát xít! Dân tộc Việt Nam có quyền sống độc lập, tự do. Độc lập, tự do của chúng tôi không trái với độc lập tự do của bất cứ dân tộc nào khác. Anh, Nga, Mỹ đã chịu đổ máu. Nhờ sự đổ máu đó, nước Pháp mới được giải phóng, thì có lý do gì, nhờ máu của các bạn mà nước Pháp lại tròng ách nô lệ lên nước Việt Nam đã tự giải phóng rồi bằng cuộc chiến đấu chống phát xít bên cạnh Đồng minh?
Từ cựu hoàng đế Bảo Đại đến hàng cùng dân, đồng bào chúng tôi đều chán cái ách nô lệ, đều quyết hy sinh cho độc lập tự do của đất nước Việt Nam.
Chúng tôi không bạo ngược, không khiêu khích. Chúng tôi ôn hoà. Chúng tôi bảo vệ sanh mạng, tài sản của người ngoại quốc. Chúng tôi sẵn sàng kết dây thân ái với bất cứ một nước nào trên hoàn vũ miễn nước ấy thừa nhận quyền sống tự do độc lập của dân tộc Việt Nam.
Hỡi người Pháp!
Các người chớ tưởng tượng rằng dân chúng xứ này trìu mến chế độ thực dân.
Chúng tôi không chịu ách Nhật. Chúng tôi cực lực phản đối ách Pháp cho dầu ách ấy có sơn son phết vàng đi nữa.
Việt Nam dân chủ cộng hoà sẵn sàng ký kết với Cộng hoà Pháp những hiệp ước cộng tác về kinh tế, văn hoá, luôn binh bị nữa, nếu Pháp công khai thừa nhận quyền độc lập của nước chúng tôi.
Nhược bằng các người kể chúng tôi như tôi mọi, thì, liên hiệp với dân chúng Pháp, chúng tôi thề chết, không nhượng bộ trước bất cứ một sự hăm doạ hay khiêu khích nào.
Quốc dân! Hãy sẵn sàng chiến đấu!
Đồng bào! Hễ gặp dịp thì hiến thân cho nước!
Quét sạch những đồ phản quốc, quét sạch thực dân cầm quyền!
Anh em, chị em! Trong lúc phái bộ Đồng minh đến xứ ta, anh em, chị em ta chớ để mất thanh danh của một dân tộc đã từng sống vẻ vang.
Đứng lên!
Độc lập, tự do bắt đầu từ nay!
Tiến lên! Vì độc lập tự do!
Tiến tới mãi! Không một thành luỹ nào ngăn cản nổi ý chí của muôn dân trên đường giải phóng”.
Bài nói ứng khẩu của tôi dầu được hoan nghênh tới đâu nữa làm sao mà thay cho bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kế tôi thì Phạm Ngọc Thạch, thay mặt chính phủ long trọng tuyên thệ trước quốc dân:
- Cương quyết lãnh đạo đồng bào giữ gìn đất nước!
- Vượt qua tất cả khó khăn, nguy hiểm xây đắp nền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam.
Sau Thạch là Nguyễn Lưu, một người lãnh đạo Tổng Công đoàn Nam Bộ, đọc lời thề của nhân dân:
“Chúng tôi, toàn thể nhân dân Việt Nam xin kiên quyết một lòng ủng hộ chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu người Pháp đến xâm lược Việt Nam một lần nữa thì chúng tôi quyết:
– Không đi lính cho Pháp.
– Không làm việc cho Pháp.
– Không bán lương thực cho Pháp.
– Không dẫn đường cho Pháp.
Xin thề!”.
Một triệu người hô to: Xin thề! Xin thề! Nắm tay đưa lên. Dàn quân nhạc nổi lên trong tiếng reo hò vang dội của hàng chục vạn người như một tiếng sấm động kéo dài từ đầu chí cuối đại lộ Cộng hoà một biển người.
Cuộc biểu tình tuần hành bắt đầu thì, thình lình từ gara Jean Comte trước lễ đài, từ nhiều nhà tư nhân và cha cố Pháp xung quanh nhà thờ, súng nổ vang, bọn thực dân Pháp núp sau các cửa hé mở bắn xuống dân chúng biểu tình dưới phố. Sách của Trần Tấn Quốc còn ghi:
“Sau bài diễn văn của ông Trần Văn Giàu, cuộc diễn hành khởi sự. Từ đại lộ Cộng hoà, một tốp đổ xuống đường Ba Lê Công xã (tức Catinat), một tốp quẹo ra đường Yersin (tức Taberd 5) đi có trật tự dưới những biểu ngữ giăng ngang đường viết bằng các thứ chữ: Anh, Mỹ, Nga, Tàu và Việt:
– “Độc lập hay là chết!”.
– “L’Indépendance ou la mort!”.
– “Independence or death!”
– “Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn năm!”.
– “Đả đảo thực dân Pháp!”.
Thình lình súng nổ, nổ trước nhà thờ Đức Bà, nổ trước hãng Jean Comte, và chập sau tiếng nổ đều trong vùng trung tâm thành phố.
Trời đương nắng bỗng sầm tối, mây đen vần vũ, mưa lấm tấm rơi”.
Các đoàn biểu tình tiếp tục đi theo kế hoạch đã định sẵn còn tôi theo ở luôn tại lễ đài để chỉ huy cuộc đàn áp các ổ khiêu khích quân đội, tự vệ, công nhân và thanh niên đã xông lên từng nhà có súng nổ tịch thu súng đạn, bắt bọn bắn lén. Lệnh chung là “bắt mà không giết”. Tất nhiên là trong cơn xung đột lớn, có một số người chết, nhiều người bị thương. Nhiều cuộc xung đột ngoài đường và nhiều người Pháp bị bắt. Đến chiều gần tối thì bọn khiêu khích đều bị đàn áp hết, đầu đuôi mất hơn vài ba giờ chiến đấu, kẻ khiêu khích ở trong nhà cố thủ, nên ta phải chịu tốn ít nhiều công sức, kể cả sinh mạng, đặc biệt của công nhân xung phong và thanh niên tự vệ. Bên phiá ta 47 người chết và bị thương kể luôn đồng bào đi biểu tình; phía Pháp có một số người chết, ít hơn ta, bị thương, non già 1.000 người Pháp bị bắt nhốt ở một số trường học và bót cảnh sát 6.
Trong lúc tôi lo việc trấn áp bọn khiêu khích thì Phạm Ngọc Thạch đi gặp các người có trách nhiệm phía Nhật, Anh, gặp cả thiếu tá Dewey (Mỹ) ở nhà hàng Continental để trình bày nguyên nhân và diễn biến cuộc xung đột mà kẻ chịu trách nhiệm gây ra là bọn thực dân Pháp, chúng muốn có xô xát, đổ máu, và nếu có đổ máu của người Anh thì càng tốt, để chúng có cớ hô lên rằng “Việt Minh không giữ nổi trật tự, buộc quân Anh phải sớm can thiệp bằng cách cướp vũ khí của những người yêu nước Việt Nam ở thành phố Sài Gòn”.
Nội chiều tối ngày 2 tháng 9, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn, Huỳnh Văn Tiểng và một số đồng chí khác đi đến các nơi giam Pháp kiều, cho họ về nhà, về trại. Theo lời Tiểng kể lại với tôi đêm đó thì các ông Tây, bà đầm bị dân quân tự vệ bắt giam đều lo sợ quá chừng, họ khóc, họ lạy, họ cứ tưởng đâu là đã vào tay cái đám dân thuộc địa này thì sẽ bị trả thù, bị đánh đập, giết chết. Họ van xin thảm thiết và mừng quýnh quáng khi được tha về với lời chúc ngủ ngon giấc bằng tiếng Pháp. Còn Anh, Nhật thoả thuận (lỗ miệng) là từ nay không cho bọn Pháp ra đường mang vũ khí.
Bọn tôi không vội mừng. Dàn xếp này chỉ là tạm khi quân Anh, quân Pháp còn ít. Chắc hẳn sẽ còn khiêu khích nữa lớn hơn. Không thể có ổn định. Nhưng bọn tôi không hốt hoảng chút nào, mà bình tĩnh đối phó với một tình hình mỗi ngày thêm căng thẳng. Ngày 4 tháng 9, chúng tôi yêu cầu đồng bào Sài Gòn, nhất là người già và trẻ em, hãy về quê bớt đi càng sớm càng tốt. Trên trời Sài Gòn lúc này, mỗi ngày có máy bay của Anh rải truyền đơn, gây hoang mang trong một phần dân chúng.
Giữa lúc công việc bề bộn, khó khăn thêm, thì anh Hoàng Quốc Việt và anh Cao Hồng Lãnh, đại diện của Trung ương Đảng và của Tổng bộ Việt Minh vào tới Sài Gòn. Tôi mừng quá. Từ mấy năm nay, bọn tôi làm “mò”. Nay anh Ung Văn Khiêm (đi hội nghị Tân Trào) về tới với hai đồng chí Việt, Lãnh, thì còn có viện trợ chính trị nào quý hơn nữa? Tôi nghĩ như vậy. Tôi ghé tai hỏi nhỏ Khiêm, vậy chớ ông Hồ Chí Minh là ai, có phải là Nguyễn Ái Quốc không? Khiêm cười đáp: phải, đúng là Nguyễn Ái Quốc. Mừng hết lớn! Trong lúc đó thì anh Việt bực một chuyện cũng đáng bực thật: khi xe anh Việt qua Xuân Lộc thì anh em ở đó có gởi lên xe hai thằng Tây nhảy dù mới bị ta bắt. Tới Sài Gòn, xe ghé Khám Lớn bỏ hai thằng Tây xuống. Việc làm như vậy, tiện thì có tiện thật mà lễ thì trái lễ. Anh Việt phiền cũng phải lắm chớ!
13. Thực dân Anh, Pháp ngày càng lấn lướt
(1) Anh thả lính Pháp lâu nay bị Nhật bắt giam ở Nam Kỳ
Từ Hà Nội, tin ngày 5 tháng 9, cho biết Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa ra tuyên bố hiệu triệu:
“Nhân dân Việt Nam hoan nghênh quân đồng minh kéo vào Việt Nam để tước khí giới quân Nhật, nhưng kiên quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam vì mục đích của họ chỉ là hãm dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa.
Hỡi đồng bào!
Hiện một số quân Pháp đã lọt vào nước ta.
Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh của chính phủ chiến đấu”.
Ở Sài Gòn thì quân Pháp mặc quân phục Anh, rất khó phân biệt Pháp hay Anh; mà có phân biệt được đi nữa, bọn tôi cũng không có cách nào ngăn cản. Quốc sách của Anh đế quốc thực dân là ủng hộ Pháp thực dân đế quốc. Trong mắt chúng, Pháp có trở lại thống trị Việt Nam - Đông Dương thì Anh mới trở lại làm chủ Miến Điện và giữ Ấn Độ được.
Thực ra thì chính phủ Paris đang chuẩn bị quân, tàu cho đủ số, còn ở Sài Gòn thì sẵn có nhiều ngàn lính Pháp lâu nay bị quân Nhật bắt giam từ 9 tháng 3, bây giờ chỉ cần Anh bảo Nhật thả bọn này (và Anh đã bảo) thì Pháp liền có mười mấy ngàn quân Pháp bấy lâu nay như chó sói ở trong lồng, bây giờ lần lượt được sổ lồng thì chúng rất hùng hổ, đi nghênh ngang trên đường Công xã Paris (Catinat), khiêu khích, thoi đá vào người Việt Nam. Về ngoại giao, anh Thạch đến bọn Anh để phản đối việc thả lính Pháp ra làm lộng. Về phần riêng tôi, thì tôi nhờ Tiểng chọn non già 100 Thanh niên Tiền phong cao trên 1m65, nặng trên 60 ký lô, có võ ta, mặc thường phục, tay không, cũng đi dạo trong vùng trung tâm thành phố, đặc biệt là đường Công xã Paris, đường Thủ Khoa Huân, đường Phan Bội Châu (Boulevard Charner, Boulevard Bonard cũ) hễ khi nào gặp tụi Pháp đánh đá đồng bào mình thì nhảy vào bênh, cho tụi Tây một vài miếng hiểm. Rồi cảnh sát ta can thiệp giải hoà. (Nhân dân xem đấu võ cũng sướng mắt). Trung tâm Sài Gòn náo động luôn.
Tất nhiên chúng tôi phải đề phòng cái khả năng (mà không chỉ là khả năng) mấy ngàn quân Pháp được ra khỏi trại giam, ngày nào đó, chắc là gần đây thôi sẽ được vũ trang bằng các loại súng, và khi viện binh Pháp tới Sài Gòn thì chắc không phải chỉ có những cuộc đấu quyền trước Continental, Majestic nữa đâu.
(2) Anh đòi giải tán dân quân, đòi ta nộp vũ khí
Ngày 5 hay 6 tháng 9 (tôi không nhớ rõ), quân Anh ra lệnh cho quân Nhật yêu cầu ta phải:
- Giải tán dân quân.
- Nộp vũ khí của dân quân.
- Cấm biểu tình không xin phép trước với nhà đương cuộc Nhật.
- Cấm thường dân giữ và mang vũ khí (gồm cả dao, gậy).
- Cấm mọi thứ hoạt động phá rối trị an.
Như vậy, quân Anh (và quân Pháp) trước khi có đủ lực lượng để đàn áp ta, thì toan sử dụng quân Nhật để làm việc ấy. Quân Nhật đã đầu hàng rồi thì theo thể thức đầu hàng, phải chịu sự sai khiến của kẻ chiến thắng (là Anh).
Bọn tôi tất nhiên là phải tìm cách đối phó; mà đối phó thì cũng không phải khó khăn gì lắm, vì thứ nhất quân Nhật bị động và thờ ơ với lệnh của Anh, thứ hai là bọn Anh, Pháp chỉ quanh quẩn trung tâm Sài Gòn, không dám đi đâu xa. Cho nên, tụi nó nói giải tán dân quân, đăng báo, rải truyền đơn từ máy bay, nhưng mà dân quân thì cứ tồn tại và tăng cường thêm; trước đây dân quân không có doanh trại nào ở trung tâm Sài Gòn; bây giờ thì dân quân vẫn ở các khu dân cư đông, nhất là ngoại ô, ai dám động tới? Lệnh của Nhật quả có ít nhiều ảnh hưởng đến các giáo phái: một số đơn vị Cao Đài Trần Quang Vinh tan dần như nước đá để ngoài gió; vả lại, không còn được Nhật nuôi nữa thì họ sống sao được? Nhiều nhóm quay về Thánh thất Tây Ninh, còn một số (không nhỏ) đóng ở Bà Chiểu, Tân Bình. Số quân Hoà Hảo thì về Hậu Giang, không phải vì lệnh giải tán của Nhật mà thôi, mà vì Hoà Hảo đang mưu đồ giành chính quyền của ta ở chín tỉnh miền Tây và họ đã công khai yêu cầu đồng chí Nguyễn Văn Tây (Thanh Sơn) trao quyền cho họ (lẽ tất nhiên là Nguyễn Văn Tây phản đối mạnh mẽ), cố thực hiện mưu đồ đó, Hoà Hảo đưa hết người của họ về miền Tây. Tôi có nói với Tiểng một câu tiếng Pháp: “À quelque chose malheur est bon”, mình khỏi mang tiếng giải tán các đơn vị quân sự hay bán quân sự của giáo phái. Rồi cùng thì, ngoài đơn vị của “Thiên bồng đại nguyên soái” Lê Kim Tỵ và “quân sư” Dương Văn Giáo, chỉ còn quân của đám “Huỳnh Long”, họ xin phép lên đóng ở một số vườn cao su Thủ Dầu Một, còn quân của Vũ Tam Anh, Lương Văn Tương thì lên đóng quân ở vùng Biên Hoà, quân của Nguyễn Hoà Hiệp thì rải một vòng cung từ Lái Thiêu xuống Đức Hoà. Trong Sài Gòn những lực lượng vũ trang đều là do bọn tôi trực tiếp nắm: Cộng hoà vệ binh, Quốc gia tự vệ cuộc, Công đoàn xung phong, Thanh niên tự vệ, Cảnh sát; phần lớn lực lượng vũ trang được bố trí từ xa trung tâm thành phố nơi kẻ địch khó tới lui quan sát, khó tính tới việc tập kích hoặc tước vũ khí.
Như vậy, Nhật, Anh không “giải tán” được dân quân. Làm sao giải tán bằng mồm được? Còn như cái đòi hỏi “nộp vũ khí” thì đưa đến kết quả là Nguyễn Văn Trấn với đại ca Nguyễn Thiện Hành gửi cho Nhật mấy chục cây súng mút hư hỏng và mấy trăm viên đạn lép mà ta còn trong kho hay vừa lặn mò mấy tuần nay dưới sông Sài Gòn; một ít súng một lòng, hai lòng đã rỉ; nhiều nhất là gậy tầm vông non. Bọn Nhật, bọn Anh thừa biết là người Việt Nam đời nào chịu nộp vũ khí? Vậy mà tụi Trốt-kýt cứ đồn ầm lên rằng: phe Trần Văn Giàu khuất phục, nộp vũ khí cho Anh, Nhật mà không chịu võ trang cho quần chúng! Cãi với họ là mắc mưu địch. Từ nay ta giữ vũ khí kín đáo hơn ở trong trung tâm thành phố, còn ở Gia Định - Chợ Lớn thì ngoài vòng quan sát của địch, ta muốn làm gì có ai ngăn trở được ta?
(3) Anh chiếm trụ sở của Uỷ ban hành chánh Nam Bộ
Chiến thuật của Anh, Pháp là lấn dần. Theo con mắt của chúng thì hãy chiếm trụ sở của Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ (dinh Thống đốc cũ 7), xem như là không thừa nhận chính quyền cách mạng ở Nam Bộ, xem như là tượng trưng giành lại cho Pháp chủ quyền ở Nam Bộ, làm như vậy là tạm đủ cho chính quyền cách mạng mất thanh thế trước nhân dân, nhưng về phần chúng ta thì không vì lẽ mất một trụ sở mà chính quyền cách mạng lại không kêu gọi kháng chiến được.
Cho nên, ngày 10 tháng 8, trung tá Roe (người Ấn) trao cho Uỷ ban hành chánh Nam Bộ một lá thơ, đại ý nói Uỷ ban của Quân đội Đồng minh đòi trưng dụng trụ sở của Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ và nói sự trưng dụng đó “không có ý nghĩa chính trị”, mà chỉ là việc tạo “phương tiện cho phái bộ chúng tôi làm việc”.
Ý nghĩa chính trị của hành động lấn lướt này quá rõ, nhưng cần gì phải tranh luận về cái ý nghĩa đó với thực dân Anh? Ta cần có thời gian để làm gấp rút một số việc phải làm để ứng phó với tình hình căng thẳng dữ.
Uỷ ban dời qua dinh Đốc lý thành phố, nơi đó Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ đã được thành lập cách nay mới hai tuần thôi. Uỷ ban thông báo cho đồng bào Sài Gòn và Nam Bộ rõ như là để xin sự ủng hộ của đồng bào đối với việc ngoại giao vô cùng tế nhị.
“… Uỷ ban chúng tôi đã nhã nhặn đề nghị cho phái bộ Anh những dinh thự khác. Nhưng rốt cuộc, không cưỡng được, chúng tôi phải dời đi, có bộ phận về dinh Đốc lý như bữa đầu, có bộ phận dời chỗ khác…
Đứng trước cảnh ngộ khó khăn, và sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa, chúng tôi kêu gọi quốc dân nên tỉnh trí, chớ nóng nảy mà hành động vô phương pháp. Đồng bào hãy xiết chặt hàng ngũ trong Việt Minh, xung quanh chánh phủ, đừng làm gì trái với mệnh lệnh của chánh phủ mình, hãy tin chắc rằng bao giờ chúng tôi cũng không quên quyền lợi tối cao của Tổ quốc là độc lập, tự do.
Một lần nữa, đồng bào hãy lặp lại lời thề của mình hôm 2 tháng 9: “Chúng tôi toàn thể dân Việt Nam xin cương quyết một lòng ủng hộ chánh phủ lâm thời của Nước Cộng hoà dân chủ Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu người Pháp đến xâm lược lần nữa thì chúng tôi quyết: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không đưa đường cho Pháp”.
Một lần nữa, chúng tôi, Uỷ ban nhân dân lập lại lời thề: “Cương quyết lãnh đạo quốc dân, giữ gìn đất nước, thực hiện chương trình Việt Minh, hy sinh vượt tất cả các nguy hiểm, cương quyết chống mọi mưu mô xâm lược, dù chết cũng cam lòng”.
Nay quân đội Đồng minh đến, Uỷ ban Đồng minh đến.
Chúng ta hãy tỏ ra cho Đồng minh thấy rằng chúng ta là một dân tộc có kỷ luật, ham hoà bình, yêu tự do, chuộng cần lao, nhưng luôn luôn có thể chết để bênh vực độc lập và tự do cho Tổ quốc.
Chào mừng phái bộ Đồng minh!
Ta cứ tiến trên đường giải phóng!”.
Không phải tôi viết “thông báo” này, nếu tôi viết thì cái giọng sẽ khác một chút.
(4) Bọn thực dân Pháp treo cờ ở sân phủ toàn quyền và tập hợp hát Marseillaise dưới cột cờ
Theo lệnh của Anh, quân Nhật giao phủ Toàn quyền 8 cho Pháp. Bọn Cédile cho rằng chiếm phủ Toàn quyền là tượng trưng cho việc làm chủ lại Nam Kỳ, làm chủ lại Đông Dương.
Sau khi đã nhờ Anh chiếm lại dinh Thống đốc Nam Kỳ thì sáng 13 tháng 9, bọn Pháp long trọng tập hợp nhau trong phủ Toàn quyền cũ (trước do Nhật quản lý), ỏm tỏi hát Marseillaise và xấc xược kéo cờ tam sắc lên. Nhân dân đi đường dừng lại mỗi giây thêm đông, hò hét phản đối, đả đảo thực dân; hàng trăm rồi hàng ngàn thanh niên kéo tới; họ đã vo quần, cởi áo, nắm tay trên song rào sắt, chờ một tiếng hô là nhảy vô sân hạ cờ Pháp xuống. Trong lúc đó, có người báo cáo cho bọn tôi biết sự việc đang diễn ra ở đầu đại lộ Cộng hoà. Anh Thạch lập tức đi can thiệp với Anh, Nhật nói rằng bọn Pháp đang khiêu khích như vậy, nhân dân đang sôi nổi phản đối như vậy, chúng tôi đòi nhà đương cuộc Anh phải bắt Pháp phải hạ cờ ngay, bằng không, bằng chậm trễ, thì chính quyền nhân dân Việt Nam sẽ không chịu trách nhiệm về hậu quả của hành động khiêu khích.
Trong lúc Thạch đi thương thuyết thì chúng tôi phái mấy cán bộ ra tại chỗ để yêu cầu nhân dân, yêu cầu thanh niên bình tĩnh chờ kết quả của cuộc thương lượng của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, chờ lịnh của chúng tôi. Đồng thời, chúng tôi yêu cầu cấp tốc công đoàn và thanh niên hô hào đoàn viên của mình tới tham gia biểu tình thị uy đông hơn nữa, làm áp lực để buộc Pháp phải hạ cờ tam sắc.
Tụi Anh sợ lại gây ra đổ máu như là ngày 2 tháng 9. Lúc này, Anh, Pháp chưa đủ chuẩn bị, vả lại hình như là bọn Pháp cứ làm liều mà không cho Anh hay trước. Cho nên Anh yêu cầu Pháp hạ cờ.
Lúc ấy tôi suy tính, nếu Pháp không chịu hạ cờ thì phải làm sao đây? Chịu để cho cờ Tây bay giữa Sài Gòn hay sao? Đồng ý hay làm ngơ cho thanh niên hàng ngàn người xông vào hạ cờ Tây, thì sao khỏi đổ máu tại sân cờ rồi ai ngăn nổi cuộc đổ máu trên toàn bộ trung tâm Sài Gòn mà lúc này mình chưa có chủ trương, chưa có thể kiểm soát tình hình nếu xung đột lớn nổ ra? Cờ Tây treo lên mà mình bảo thanh niên bó tay thì mình còn nói cho ai nghe nữa? Khó lắm! Khó tính lắm! Tốt hơn hết là tiếp tục khua thêm hàng vạn đồng bào cấp tốc đến bao vây dinh Toàn quyền, hò hét phản đối để làm áp lực. Khi ấy, tôi cũng nghĩ rằng, nếu Pháp không nhượng bộ kéo cờ xuống thì, trong lúc Pháp chưa có đủ số quân để đánh ta, ta có thể chấp nhận một cuộc xung đột đổ máu hay không đổ máu mà Pháp chịu trách nhiệm hoàn toàn, không chối cãi vào đâu được, vả lại Pháp không được sự đồng ý của Anh. Ta hạ cờ Pháp xuống, chắc đổ máu ít nhiều nhưng lòng dân Sài Gòn sẽ ít nhiều thoả mãn và tinh thần chiến đấu của đồng bào sẽ lên cao. Nhưng, rốt cùng, khi ấy, Anh sợ trách nhiệm, yêu cầu Pháp hạ cờ. Khi ấy, đồng bào, số đông đã lên tới mấy vạn, từ từ giải tán, bình luận náo nhiệt về sự thắng lợi của mình. Báo Điện tín đăng bài tường thuật:
“… Thiên hạ bao quanh dinh Toàn quyền với tất cả hậm hực sôi nổi trong khi thấy lá cờ tam sắc thập thò nửa như muốn kéo lên, nửa như ngại ngùng không dám. Rốt cuộc, lá cờ đành phải lửng lơ lưng chừng rũ xuống không khác một lá cờ tang…
“Quần chúng tuy tức giận nhưng vẫn biết giữ kỹ luật, giữ trật tự để tránh cạm bẫy của bọn khiêu khích. Họ mím môi, nén giận chờ đợi cuộc thương thuyết ngoại giao của chánh phủ. Và, kết quả được đúng như mỗi người mong mỏi: cờ tam sắc bị triệt hạ hẳn chiều ngày 13.9.1945”.
(5) Đòi lấy lại quyền quản lý cảng tàu biển, sở Ba Son và kho thuốc đạn (Pyrotechnie)
Hồi khởi nghĩa, chúng ta đã chiếm phần lớn cảng Sài Gòn – phần cảng mà quân đội Nhật chiếm đóng, thì ta không đụng tới. Bây giờ, để chuẩn bị cho việc đổ bộ quân Pháp và cả cho việc bóc lột bằng thương mãi, Pháp xin Anh ra lệnh cho Nhật lấy lại quyền quản lý thương cảng, giao cho Pháp.
Cũng hồi khởi nghĩa, các xưởng Ba Son đều do công nhân ta chiếm và quản lý. Nay Pháp nhờ Anh chiếm lại cho để sửa chữa tàu chiến ọp ẹp của chúng sắp tới Sài Gòn.
Kho thuốc đạn ở đầu cầu Thị Nghè rất quan trọng về mặt quân sự. Trong đó còn nhiều thuốc súng, cùng nhiều đạn đại bác. Pháp muốn qua tay Anh bảo Nhật giao lại cho nó.
Chúng ta ở trong cái thế không thể nào đòi nắm quyền làm chủ, các nơi đó là những cơ sở quân sự mà Anh nói là có quyền buộc quân Nhật phải để nó tiếp quản. Cố giữ thì phải nổ súng với Anh, Ấn và quân Nhật, điều ấy chúng ta chưa muốn, chúng ta còn muốn kéo dài khả năng thương thuyết hoà bình. Nhưng không thể để kẻ địch trở lại một cách thắng lợi toàn vẹn. Bọn tôi chỉ thị cho Tổng Công đoàn cấp tốc gỡ và chở đi những máy móc, vật liệu gì có thể gỡ ra và chở đi được, đem ra các nơi an toàn xa thành phố để sau này xây dựng các binh công xưởng; đem đi đuợc những gì, bao nhiêu, thì tôi chưa được báo cáo. Anh Năm Ngô Văn Dãnh (Ba Son), Lý Văn Sâm (thương cảng) gặp tôi nhiều lần để tính việc lâu dài; mà, thú thật, tuy tôi lo việc quân sự, nhưng tổ chức hậu cần phải thế nào, khi ấy tôi chưa có kế hoạch gì rõ ràng, cho nên cuộc phân tán máy móc và vật liệu khá lộn xộn. Dù sao thì mấy đồng chí bên Tổng Công đoàn đã bắt đầu nghĩ tới việc chuẩn bị một kế hoạch phá hoại rộng lớn, trong đó phá hoại nhà đèn Chợ Quán và kho đạn đầu cầu Thị Nghè; anh em cùng với tôi đã tính rằng ngày nào Pháp chiếm Sài Gòn, chính quyền cách mạng rời khỏi thành phố thì tất cả các cơ sở kinh tế của Pháp sẽ phải ra tro hết. Đó không phải là một ý thoáng qua.
(6) Thực dân Pháp âm thầm mà gấp rút tổ chức lại bộ máy cai trị thuộc địa Nam Kỳ
Tôi được báo cáo của Trương Văn Giàu từ trại “Cộng hoà vệ binh” Chí Hoà, nói có hai thằng cò Tây trước kia chỉ huy ở đó co mo lên yêu cầu gặp những người quản cũ; chúng bị cự tuyệt một cách không lấy gì làm “nhã nhặn”: “Chúng tôi bây giờ thuộc quân đội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nước độc lập, chúng tôi không có quyền tiếp các ông và cũng không muốn tiếp các ông; các ông đừng tới đây nữa!”. Lúc này Trương Văn Giàu đã chuẩn bị để đưa số đông binh lính ra ngoài Phú Lâm, về Gò Công và Tân An, trước và sau sông Vàm Cỏ.
Như vậy là tụi Tây muốn tìm cách nắm lại lính khố xanh cũ.
Anh Nguyễn Văn Trấn, người trực tiếp phụ trách “Quốc gia tự vệ cuộc” cho biết là bọn Pháp đã đưa bác sĩ Nguyễn Văn Thinh và bác sĩ Nguyễn Văn Tung vào ở trong 11e RIC 9 (cơ binh thứ 11) và có bọn đốc phủ, hội đồng lén lút ra vào nơi đó.
Chắc là bọn Pháp đang lo sắp xếp bộ máy cai trị của chúng ở Nam Kỳ. Vừa rồi quân Anh (và quân Nhật) vào Khám Lớn giải thoát cho tên đốc phủ khát máu Nguyễn Văn Tâm. Tâm có thời được gọi là “hùm xám Cai Lậy” đàn áp nhân dân ác liệt lắm. Một số anh em trong đó có tôi, ngay sau khi cách mạng thành công định đưa hắn đi chầu Diêm Vương bằng cách lập ngay một phiên toà đặc biệt ở Cai Lậy gồm những thẩm phán là những nạn nhân của hắn trước kia. Nhưng một số anh em khác “thấm nhuần pháp luật” như anh Phạm Văn Bạch (thay tôi làm chủ tịch và được anh Việt ủng hộ) thì bảo rằng bây giờ ta đã nắm chính quyền rồi thì phải có toà án tử tế, vả lại ta đã chỉ định luật gia Trần Công Tường làm chưởng lý rồi thì để anh ấy liệu định. Chần chờ mấy hôm thì Tâm vuột khỏi tay của chúng ta (quân Anh vào Khám Lớn đưa Tâm ra); các đồng chí phê bình dữ quá, và phê bình dữ là phải; Thinh, Tung, Tâm nhập bọn với nhau. Nguy cơ bù nhìn thấy rõ.
Các anh em bên “Quốc gia tự vệ cuộc” rất cảnh giác, cho nên từ sau 25 tháng 8, đã gấp rút lấy cả ngàn nhân viên mới từ đảng viên, đoàn viên từ công nhân, nông dân trong tổ chức của ta đồng thời “quét” bọn mật thám gian ác cũ ra, mà Pháp đang ra sức tập hợp lại.
(7) Tụi Pháp toan “bắt cóc” hay ám sát người phụ trách
Trước khi tụi Anh chiếm trụ sở Uỷ ban Hành chánh (dinh Thống đốc cũ) thì Huỳnh Văn Tiểng, tôi (và vài anh em uỷ viên nữa) ngủ tại trụ sở, trên lầu, trong một cái “lồng” lưới sắt, cái lồng ấy ở giữa một phòng rất lớn. Như vậy, giường không cần mùng, nhưng nằm mà chưa ngủ thì có cảm giác nằm trong một cái quan tài bằng lưới sắt. Trong ngoài trụ sở có canh gác tử tế. Tôi cũng có khi trốn điện thoại vì quá mệt, về ngủ ở nhà in Nguyễn Phú Hữu, gần Chợ Mới. Nhưng từ khi Anh chiếm trụ sở Uỷ ban thì anh Khảm người cầm đầu hội Cao Đài cứu quốc bấy giờ là chánh văn phòng uỷ ban, đưa tôi về ở một cái villa trệt ở đường Chasseloup Laubat 10, nhà này cũng có canh gác tử tế. Tôi hay làm việc khuya. Tôi có ý bảo anh em bảo vệ giúp đẩy bàn giấy của tôi vào một góc, tôi ngồi xoay lưng vào tường, vào góc, để chỉ đối phó có một mặt nếu bị tiến công thình lình, khỏi phải giữ lưng, giữ hông. Trên bàn, bao giờ cũng có cây súng lục “bắn ghen” cán bạc mà Thạch đã trao cho tôi (nói rằng đó là súng tiếp thu của Thống chế Nhật Terauchi) lên đạn sẵn. Đêm thứ hai (hay thứ ba) về ở nhà này, tôi viết lách đến mười giờ hơn bỗng thấy một cánh cửa sổ từ từ mở, như có gió, mà trời thì yên tịnh, lắc rắc mấy hạt mưa trên mái nhà, tôi lại thấy hai bàn tay trắng nhiều lông níu vào khuôn cửa sổ. Tôi chụp khẩu 6/35, nổ mấy phát và la lên: “Có gian!”. Tự vệ chạy tới thì hai thằng Tây vừa tót qua vườn nhà bên cạnh. Cả đêm không ngủ, sáng hôm sau hỏi anh Khảm coi hai nhà bên là của ai thì hoá ra anh Khảm cũng không biết rõ, còn tôi thì cả tin vào tính cẩn thận của anh Khảm, thế mới chết!
Như vậy là tụi Pháp hoặc toan bắt sống tôi, hoặc toan ám sát tôi (chúng sẽ còn tiếp tục cái âm mưu này).
Tôi liền cùng với Tiểng (và anh em trong ban tham mưu) đi vào ở trong Chợ Lớn, một đường nhỏ, đường Ngô Quyền, gần trường Đại học Y Dược ngày nay. Khu vực này chỉ có người Việt và người Tàu. Đi, về xa hơn, nhưng ăn, ở thì an toàn hơn.
14. Nội bộ nhân dân càng lúc càng có cơ chia rẽ
Sự chia rẽ này, hãy nói ngay, một mặt do mâu thuẫn xã hội vốn có, mặt khác do thực dân, tìm cách kích lên.
(1) Biểu tình của nhóm Trốt-kýt tổ chức trước Chợ Mới đòi “võ trang quần chúng”
Từ cuối 1939 (khi chiến tranh bắt đầu) cho đến giữa năm 1945, Sài Gòn chẳng thấy Trốt-kít ở đâu hết. Như mấy con ếch mùa khô, họ rút sâu dưới những hang cua. Mưa xuống, ruộng có chút ít nước, thì mới nghe tiếng huệch huệch; bọn Trốt-kýt mới xuất hiện hồi tháng 7, tháng 8, khi Pháp đã bị Nhật đảo chánh mấy tháng rồi, khi Nhật sắp đầu hàng và khi cách mạng Việt Nam sắp thành công. Ở Sài Gòn, người ta thấy từ khi Nhật đảo chánh, mấy ông Trốt-kýt như Huỳnh Văn Phương, Hồ Vĩnh Ký vào làm chánh phó sở mật thám Nam Kỳ. Nói cho chí đáng, nắm sở mật thám, họ không bắt bọn tôi, cũng không cản trở gì hết tuy họ biết tụi tôi hoạt động ngày càng mạnh. Họ biết anh Thạch làm việc với Đảng Cộng sản mà không nghe nói họ có kẻ vạch gì. Tiểng báo lại rằng, Phương nhắn nói “mấy anh làm gì thì làm, đừng lo sợ đàng này”. Nghe thì nghe vậy, tôi biết rằng Ký, Phương đã tích trữ một số vũ khí đáng kể từ khi có tin Nhật sắp đầu hàng và khi có tin ta sắp giành chính quyền. Sau ngày 25 tháng 8, một số vũ khí đó chuyển từ nhà Ký đi nơi khác, anh em tự vệ theo dõi sát, thì bà Sương vợ ông Ký, vốn là bạn thân của Thạch, đến Thạch, kêu là anh Giàu cho người canh nhà vợ chồng Ký không biết để làm gì. Thạch cự nự với tôi ngay trước mặt bà Sương. Tôi bèn giơ telephone kêu bên Trấn, hỏi:
– Các anh có canh nhà ông Ký, bà Sương không?
– Có!
– Vì lẽ gì?
– Họ đang di chuyển súng đạn mà súng đạn thì chỉ có chính phủ mới có quyền tàng trữ.
– Di chuyển súng đạn à? Nhiều không?
– Xem chừng cũng nhiều, hàng mấy trăm khẩu lớn nhỏ với số đạn khá lớn.
– Nè, có canh gác thì canh gác kín đáo, chớ ngồi thù lù trước cửa người ta như thế bà Ký đang phản đối đấy!
Bà Sương khóc rú lên. Anh Thạch cự nự với tôi càng dữ. Khi bà Sương về thì Thạch sang phòng tôi, trách: “Anh làm cho đàn bà khóc, hay lắm hả?”.
Tôi chỉ cười và nói: “Tụi đệ tứ đang âm mưu gì đó, hãy dè chừng. Tôi không ưng để súng đạn trong tay họ đâu; họ không dùng để đánh Pháp mà để đánh ta đó”.
Trấn và Mai (Dương Bạch Mai) có đặt người trong các nhóm Trốt-kýt, ấy là nghề nghiệp mới của hai anh, trách làm sao được, vả lại Trấn và Mai hồi 1936-1939, đã biết Trốt-kít lắm rồi.
Hôm 25 tháng 8, và hôm 2 tháng 9 có mặt “nhóm Tranh đấu” với huy hiệu “trái đất - sao xẹt”. Họ tập hợp lực lượng mà vẫn chia làm hai ba nhóm, nhóm này không thừa nhận nhóm kia là đệ tứ. Nhưng họ lại thống nhất với nhau trong việc chống Đảng Cộng sản, chống Việt Minh.
Trốt-kýt nhận định rằng:
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 (trên toàn thể nước Việt Nam), là cách mạng tư sản giống như cách mạng tháng Hai năm 1917 ở nước Nga.
- Chính quyền được thành lập từ Cách mạng tháng Tám là chính quyền tiểu tư sản đại diện cho quyền lợi của tư sản, một thứ chính phủ Kerensky.
- Chính quyền kiểu Kerensky thì sẽ thoả hiệp với đế quốc tư bản; cho nên cần biến cuộc cách mạng tư sản thành cuộc cách mạng vô sản, như Lenin và Trotsky đã làm ở nước Nga từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1917.
- Vậy phải đánh đổ chính quyền tư sản của bọn Trần Văn Giàu hiện nay để lập chính quyền công nhân do nhóm Đệ tứ lãnh đạo.
Họ lập luận như vậy. Thật đúng với lý thuyết “cách mạng thường trực”.
Họ ra sức “đào đất dưới chân” bọn tôi; họ tìm cách đâm vào hông tụi tôi.
Lúc này, sau vụ xung đột 2 tháng 9, nhất là sau vụ Tây treo cờ ở phủ Toàn quyền, Anh, Nhật đòi tước vũ khí của dân quân, v.v… thì ai cũng thấy quân Pháp sắp sửa trở lại, nhiều người tán thành thái độ hoà hoãn thương lượng (tranh thủ thời gian để chuẩn bị) của chính quyền (của anh Thạch và tôi), nhưng cũng có một số ít người cho rằng bọn tôi “mềm” quá, thoả hợp quá, họ trách tại sao lại thả bọn Pháp bị bắt chiều 2 tháng 9, sao không đem xử tội chúng vì đã bắn chết người Việt Nam, họ trách tại sao chịu “nộp vũ khí” v.v… Họ đòi thừa lúc Pháp còn chưa đông, đánh úp một trận, tiêu diệt hết thực dân. Có lần, không biết ai, chắc là bọn tay sai của Pháp chớ ai đâu lạ, dán áp phích hàng chục cái ở đường Paul Blanchy 11 từ Tân Định đến Tân Bình, cho biết: “xe tăng của Nga qua giúp cách mạng Việt Nam đã đến Miến Điện rồi!”. Rõ ràng là tụi khiêu khích muốn cho đồng bào ta tin một cách hão huyền, rồi đánh Pháp, trị Anh ngoài đường, gây phản ứng mạnh của Đồng minh, phản ứng có lợi cho Pháp. Bọn tôi biết được, cho người đi gỡ các áp phích lố lăng ấy thì, ở một vài nơi, quần chúng tưởng đâu anh em đi gỡ áp phích đó là Việt gian; suýt có đánh lộn.
Bọn đệ tứ Trốt-kýt lợi dụng tâm lý của dân “muốn đánh” để tuyên truyền cổ động rằng tụi tôi sợ Tây, không dám đánh Tây, đang “thoả hợp” với thực dân. Khẩu hiệu của chúng lúc này là: đòi chính quyền phải kiên quyết chống Pháp; và muốn chống Pháp có hiệu lực thì đòi chính quyền phải “võ trang quần chúng”. Tụi đệ tứ biết chán rằng không có vũ khí (súng đạn) ở đâu để mà phát cho quần chúng; chính phủ cách mạng còn phải đi kiếm từng cây súng, từng viên đạn mà cũng không có bao nhiêu để võ trang cho quân lính cách mạng. Quần chúng chỉ có thể tự võ trang bằng vũ khí thô sơ. Nhưng vấn đề chính của Trốt-kýt là làm cách nào để hạ uy thế của chính quyền, cụ thể nhất là của ông Giàu. Cho nên, tụi nó biểu tình om sòm trước cửa Chợ Mới. Vài trăm người thôi (mà tin được đưa lên báo). Bên anh Hành, anh Tươi (cảnh sát) hỏi tôi phải đối phó cách nào, họ xin phép trị bọn Trốt-kýt ngóc đầu; tôi không đồng ý, chỉ yêu cầu anh em mặc thường phục ra giải thích cho nhân dân: Chính phủ còn chưa có mấy súng đạn thì làm sao võ trang cho quần chúng bằng súng đạn được? Hãy coi chừng bọn khiêu khích làm rối thêm cho chính quyền cách mạng mới thành lập, ngồi chưa nóng ghế… Tụi đệ tứ Trốt-kýt bày ra vụ biểu tình này, bên anh Trấn điểm danh được họ; họ khôn, nhưng làm sao khôn hơn tụi tôi được? Họ không trương cờ và huy hiệu “sao xẹt” của họ, nhưng “thấy của biết người”, giấu thế nào được? Tụi tôi đoán trước rằng tụi đệ tứ Trốt-kýt sớm hay muộn sẽ tìm cách tập hợp lực lượng, làm “quân sư” thầy dùi cho các tổ chức chống Việt Minh, chống Đảng Cộng sản. Quả thật như vậy.
(2) “Minh thệ” – một âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng
Tất cả những ai đã làm chính trị ở xứ này đều biết trước rằng các ông lãnh tụ “Mặt trận quốc gia thống nhất”, phần lớn (phần lớn chớ không phải tất cả) có kỳ thị với Đảng Cộng sản. Bởi vậy, cho dù Việt Minh chủ trương tập hợp toàn thể dân tộc (bao gồm cả tư sản dân tộc và thân hào yêu nước), các ông lãnh tụ quốc gia kia chỉ xin gia nhập Việt Minh vì áp lực của quần chúng phần nào, vì sự an toàn của chính họ chớ không phải chủ yếu vì quyết tâm xây dựng đoàn thể rộng lớn để đánh đổ thực dân, giành độc lập tự do, bảo vệ chính quyền cách mạng. Không quá mười ngày, sau khi khởi nghĩa thành công, thì họ đã âm mưu tập hợp lại chống chính quyền cách mạng. Nếu sau một vài tháng, năm ba tháng Việt Minh tỏ ra bất lực hay đầu hàng thực dân khi ấy bọn kia lập một cuộc “minh thệ” chống Việt Minh thì “còn có lý” – như lời Tiểng nói – đầu này, chính quyền cách mạng chưa có thì giờ để xếp đặt xong cái văn phòng, trong lúc đó thì Anh, Pháp đã bắt đầu tiến công chúng ta đều khắp, thì chúng đã đồng hè lo đánh đổ chính quyền cách mạng rồi! Rõ ràng là họ có ác ý, nếu không phải trực tiếp thì cũng là gián tiếp làm lợi cho địch, làm lợi cho Pháp.
Có quan hệ gì giữa bọn họ với Pháp, Anh trong cái “minh thệ” mà mục đích chúng là đánh đổ chính quyền cách mạng?
Ai, những ai âm mưu đó?
Họ tưởng đâu chúng tôi không biết gì về hành tung của họ. Thật ra thì Trấn, Tiểng và tôi nắm được gần hết âm mưu của họ. Bọn Trốt-kýt đọc sách mà không hiểu sử, cứ nghĩ rằng cách mạng tháng Tám ở Việt Nam là cách mạng tháng Hai năm 1917 của nước Nga, một cuộc cách mạng tư sản đưa giai cấp tư sản và Đảng tiểu tư sản Men-sơ-vích, s.r lên cầm quyền; chúng mưu toan tiếp tục làm cách mạng tư sản bằng cách đánh đổ chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà, đưa Trốt-kýt đệ tứ lên cầm quyền. Nhưng đệ tứ ở Sài Gòn thì yếu quá, vì vậy, đệ tứ Trốt-kýt liên kết với Đảng quốc gia độc lập thân Nhật, với Hoà Hảo (Hoà Hảo đang tính nổi dậy cướp chính quyền ở 9 tỉnh miền Tây Nam Bộ) và với một cánh của Cao Đài. Cuộc họp “minh thệ” của chúng họp ở một nhà ở xóm Cây Quéo, chưa tới ga Xóm Thơm, ở cơ quan quân sự của Cao Đài Dương Văn Giáo. Ký bản “minh thệ” mà chúng tôi (tôi, Tiểng, Trấn) nắm được văn bản ngay trong đêm ký kết, có 13 người, trong đó phần lớn là Trốt-kýt: Huỳnh Văn Phương, Hồ Vĩnh Ký, Phan Văn Chánh, Phan Văn Hùm, bà Sương (vợ của Ký), Trần Văn Thạch, Huỳnh Phú Sổ, Lương Trọng Tường, Lương Văn Giáo, Phan Hiếu Kinh, và ba người nữa tôi không nhớ tên, hình như có Vũ Tam Anh nữa. “Minh thệ” đoàn kết thành một mặt trận, quyết tâm đánh đổ chính quyền hiện giờ. Đêm ấy, khi tôi mới bắt đầu đi ngủ tại dinh Hành chánh Nam Bộ, trời cũng khuya rồi, thì Huỳnh Văn Tiểng đánh thức tôi, đưa bản “minh thệ” cho tôi xem. Tiểng lấy làm tiếc tại sao có những anh Hùm, anh Chánh trong đám âm mưu lật đổ này; Tiểng chưa hiểu rõ bản chất Trốt-kýt. Còn tôi thì biết tụi ấy quá rồi. Chúng tôi có cách đối phó. Cách đối phó hay nhất chưa chắc là bắt họ. Bắt họ khi họ chưa chuyển qua hành động thì có thể dân Sài Gòn không lấy gì làm bằng lòng, nhưng người không hiểu rõ sẽ nói là Cộng sản đệ tam nặng đầu óc bè phái, độc tài. Trong lúc Trấn giám sát sự hoạt động của nhóm này ở Sài Gòn thì Tiểng thi hành lệnh của tôi vào Chợ Quán, nhà của Ký, Sương thu gọn mấy trăm khẩu súng và đạn tích trữ bất hợp pháp từ lâu. Bà Sương tới khóc lóc với anh Thạch. Nhưng làm thế nào được? Ai đi trả lại súng đạn cho đám sắp làm loạn? Không đem bắn ngay đã là may rồi! Anh Hoàng Quốc Việt được tôi báo cáo về vụ “minh thệ” này, anh bán tín bán nghi, có lẽ anh ngờ tôi “bày vẽ”, “bịa đặt”; anh cứ mời mấy tay Trốt-ký “sao xẹt” vào ban ngoại giao, mời Hùm, Sổ vào Uỷ ban nhân dân Nam Bộ. Tôi phản đối không được. Lần này Thạch ủng hộ Việt trong cái việc làm trái nguyên tắc này. Ngay đêm hội nghị mở rộng đưa bọn này vào Uỷ ban thì Hoà Hảo vũ trang nổi lên cố giành chính quyền ở các tỉnh miền Tây.
(3) Nổi loạn của Hoà Hảo
Từ 1942, khi tôi xuống U Minh Thượng (Rạch Giá) thì tôi đã nhờ Châu Văn Giác đi nhiều chuyến qua Long Xuyên nhằm điều tra tình hình hoạt động của Hoà Hảo. Đạo Hoà Hảo, cũng gọi “đạo khùng” là một hiện tượng xã hội kỳ kỳ mang tính chất địa phương ở miền Hậu Giang, bổn đạo rất đông, mê tín rất nặng, có một khuynh hướng chính trị cần được nghiên cứu. Có lẽ, trong số các đảng viên, anh Nhung, bí thư tỉnh uỷ Long Xuyên, người chiến sĩ già hoạt động nhiều năm ở Long Xuyên, là người biết rõ Hoà Hảo hơn ai hết, nắm chắc thực chất của Hoà Hảo. Theo anh Nhung, Hoà Hảo thực ra chủ yếu không phải là một cộng đồng tu hành, mà thực tế là một tổ chức đảng phái theo hình thức tôn giáo nhằm mục đích chính trị. Theo đồng chí Nhung nói, có thể tóm tắt mục đích chính trị của Hoà Hảo là: “Minh vương trị vì” tức là đem lại cho nước Việt Nam độc lập một chính quyền quân chủ có tính chất thần quyền, mà ông vua khai sáng đó không ai khác hơn là Huỳnh Phú Sổ – “hiện thân của Phật Thầy”. Phật Thầy không phải huyền thoại mà là một nhân vật yêu nước của cuối thế kỷ XIX ở Nam Kỳ đã vận động chống Pháp theo một đường lối mà Pháp gọi là “chủ nghĩa dân tộc tôn giáo” (nationalisme religieux), chủ nghĩa dân tộc nhuộm máu Phật giáo này cũng đã từng xuất hiện ở Bắc Kỳ với Vương Quốc Chính, ở Nam Trung Kỳ với Võ Trứ, chớ không riêng gì ở lục tỉnh, duy ở Nam Kỳ thì nó kéo dài nhất, có số dân theo đông nhất, đặc biệt là ở vùng Thất Sơn. Chương trình kế hoạch của Huỳnh Phú Sổ gồm ba bước kế tiếp: thứ nhất lấy chín tỉnh miền Tây Nam Kỳ, thứ hai lấy Nam Kỳ, thứ ba lấy cả Việt Nam, gần như các bước “phục quốc” của Gia Long ngày nọ.
Nhóm Giải Phóng nói rằng “Hoà Hảo là Việt Minh”, thuộc Việt Minh “cũ”. Trong khi đó, không ai không biết rằng, hồi 1943, 1944, 1945, Huỳnh Phú Sổ được sở sen đầm Nhật bảo vệ. Hoà Hảo có gì là Việt Minh đâu? Chẳng qua họ tìm một chiếc thang để leo lên. Trên Sài Gòn, các anh Thâu, Phương, Ký đi gặp Hoà Hảo ở đường Miche cũng tưởng Hoà Hảo là khuynh hướng đệ tứ.
Nhật lật Pháp. Tổng bộ Việt Minh triệu tập Quốc dân đại hội (ở Tân Trào). Trong khi bọn tôi cử Ung Văn Khiêm và Hà Huy Giáp đi dự đại hội quốc dân thì bên “Giải Phóng” gởi một đoàn đại biểu ba người trong đó có một người tên là Nguyễn (hay Lê) Phú Xuân, đại diện cho Hoà Hảo. (Hoà Hảo chịu hết tốn phí cho đoàn này đi Bắc). Yêu cầu mà Phú Xuân mang ra Bắc là: Huỳnh Phú Sổ làm Phó Chủ tịch nước. Xuân lâu nay là người chấp bút làm ra kinh kệ, thi thơ, sấm truyền cho Hoà Hảo, nghĩa là mưu sĩ số một. Yêu sách Hoà Hảo tất nhiên là không dễ đạt (và Phú Xuân bị chính quyền ta bắt trong cuộc nổi loạn của Hoà Hảo sau ngày 2 tháng 9 ở Cần Thơ). Trước cuộc nổi loạn này, Hoà Hảo ở Long Xuyên đòi Tỉnh uỷ Long Xuyên phải nhường chính quyền tỉnh cho Hoà Hảo; lẽ cố nhiên là đồng chí Nhung và Tỉnh uỷ bác bỏ yêu sách đó, chỉ nhận người của họ vào làm phó; ở Cần Thơ cũng vậy. Rồi họ tính to chuyện hơn nổi dậy cả Hậu Giang, bắt đầu ở “Tây đô” Cần Thơ. Hôm Hoà Hảo kéo quân vào đánh úp Cần Thơ, thì Bùi Văn Dự (một lãnh tụ của “Giải Phóng” như Trần Văn Vi), đích thân cầm giấy của Hoà Hảo đưa cho Thanh Sơn (Nguyễn Văn Tây), là uỷ viên Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ, thanh tra chính trị miền Tây. đòi ta giao 9 tỉnh miền Tây Nam bộ cho Hoà Hảo. Lẽ tất nhiên là Thanh Sơn không thể chấp nhận, vả lại anh không có quyền chấp nhận một đòi hỏi lố bịch như vậy.
Đòi hỏi không được, Hoà Hảo dùng đến vũ lực.
Hôm hội nghị Việt Minh mở rộng ở trụ sở Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ nhằm cải tổ Uỷ ban, anh Hoàng Quốc Việt có mời mấy đại biểu Hoà Hảo, và bản thân Huỳnh Phú Sổ đến dự. Trong lúc đang thảo luận ở Sài Gòn thì tín đồ Hoà Hảo kéo nhau hàng vạn vào Cần Thơ toan giành chính quyền bằng vũ lực; họ có đủ thứ vũ khí: kiếm, siêu, đao, có những người mang giáp, đội mão lông trĩ y như hát tuồng! Họ đòi chính quyền cách mạng phải giao hết quyền bính lại cho Hoà Hảo; “lần này không thể không giao được”. Cần Thơ báo tin lên Sài Gòn xin chỉ thị và điện qua cho các tỉnh xung quanh xin tiếp ứng. Lực lượng vũ trang của ta ngăn quân Hoà Hảo phiến loạn lại ở cửa ngõ thị xã, đánh tan phiến loạn một cách dễ dàng. Bùi Văn Dự bị Thanh Sơn bắt, sau đó Dự được anh Hoàng Quốc Việt xin tha.
Trong hội nghị ở Sài Gòn đêm ấy, Ung Văn Khiêm và Huỳnh Phú Sổ cãi nhau dữ dội. Tôi nắm tê-lê-phôn liên lạc với Cần Thơ và các tỉnh, và tôi thông báo từng chặp cho Khiêm. Khiêm đòi Thầy Hoà Hảo phải ra lệnh cho tín đồ giải tán đi, đừng xông vào thị xã Cần Thơ nữa. Thầy Hoà Hảo chưa bằng lòng với chức phó chủ tịch Uỷ ban Nam Bộ, tỏ ra thật ương ngạnh, thầy tin chắc rằng, trong lúc hội nghị ở Sài Gòn tiếp tục thì ở Hậu Giang, chủ yếu là Cần Thơ, hàng vạn tín đồ Hoà Hảo đã giành được chính quyền rồi! Cho nên, Thầy Hoà Hảo lạnh lùng trả lời Ung Văn Khiêm: “Các người cứ giao chính quyền ở 9 tỉnh Hậu Giang thì mọi việc sẽ yên ổn bằng không thì không biết tình hình sẽ đi đến đâu”. Anh Hoàng Quốc Việt thì ra sức giảng hoà. Tôi không rời dây nói ở phòng bên cạnh chỗ họp, nghe kỹ báo cáo tình hình từ Hậu Giang. Tình hình mỗi lúc thêm nguy cấp, không dùng vũ lực cách mạng thì không đánh lui được phản cách mạng; anh em Cần Thơ và các lực lượng vũ trang từ Bạc Liêu đến, từ Vĩnh Long sang, đều nhận thấy như vậy. Tín đồ Hoà Hảo xông tới với gươm đao, súng lửa. Anh em ta đã nổ súng chỉ thiên, nhưng Thầy Hoà Hảo đã bảo với tín đồ: súng Việt Minh bắn sẽ không nổ, nổ sẽ không trúng, trúng sẽ không chết, chết sẽ sống lại do phép lạ của Thầy. Bây giờ súng của Việt Minh bắn nổ và đạn bay vèo vèo trên đầu những người đi cướp chính quyền; một số nhảy xuống sông, số khác chịu tước khí giới, nơi nơi họ đều chạy tán loạn. Thanh Sơn (Tây) bắt nhiều người cầm đầu phiến loạn, trong đó có Nguyễn Phú Xuân và Bùi Văn Dự. Trên Sài Gòn, Huỳnh Phú Sổ bị bắt vì tội chủ trương bạo loạn chống chính quyền cách mạng nhưng được anh Hoàng Quốc Việt ra lệnh thả ngay! Thầy Hoà Hảo thấy mưu đồ lấy chín tỉnh Hậu Giang thất bại nên tẩu thoát, không quên truyền ra rằng Thầy đã “tàng hình”! Chưởng lý Trần Công Tường khám nhà Huỳnh Phú Sổ ở đường Miche, thấy ở trong rương nhiều tang vật không chứng tỏ rằng chủ nhân là kẻ thực sự tu hành mà là một gã đàn ông đa tình. Hàng chục người xem tang vật, trong đó có Huỳnh Văn Tiểng ôm bụng cười; vậy mà anh Việt nghĩ rằng tụi tôi “phao vu”! Điều đáng chú ý là, trong vụ này, Trần Quang Vinh (lãnh tụ Cao Đài Tây Ninh) lại kịch liệt lên án Huỳnh Phú Sổ và Hoà Hảo, Trần Quang Vinh công khai đăng báo thành phố lời lên án đó.
(4) Hoàng Quốc Việt chỉ thị giải tán Thanh niên Tiền phong
Anh Hoàng Quốc Việt đứng về phía của “Giải Phóng”. Anh Việt ở Bắc vào, đại diện cho Trung ương (và cho Tổng Bộ Việt Minh), cùng đi với đại diện của phái “Giải Phóng” đã dự Hội nghị Tân Trào (nhưng vì đi lạc nên không dự); cùng đi với Ung Văn Khiêm, mà Ung Văn Khiêm được xem là của phái “Tiền Phong” tức là phái Trần Văn Giàu. “Phái của Giàu”, phái “Tiền Phong” đã lãnh đạo khởi nghĩa tháng Tám thành công trên toàn bộ các tỉnh Nam Kỳ, không trừ một tỉnh nào, không trừ một quận nào. Nhưng mà Trung ương đã được phe Giải Phóng báo cáo là phe Tiền Phong không theo đường lối của Đảng, tổ chức Thanh niên Tiền phong chớ không tổ chức Thanh niên cứu quốc, tổ chức Tổng Công hội chớ không tổ chức Công nhân cứu quốc, Thanh niên Tiền phong là tổ chức của Nhật, Thanh niên Phạm Ngọc Thạch cũng như là Thanh niên Phan Anh thôi, v.v. và v.v. (chưa kể những chuyện dựng đứng mà ta đã biết). Cho nên, trong lúc anh Việt nghe theo lời của Giải Phóng, đặt lòng tin vào Hoà Hảo mà phe Giải Phóng bênh là Việt Minh “cũ” thì anh lại quyết định giải tán Thanh niên Tiền phong (để rồi cá nhân người Thanh niên Tiền phong nào có tiêu chuẩn sẽ được đưa vào Thanh niên cứu quốc).
Quyết định của Việt gây ra một làn sóng căm phẫn, buồn bã chán nản nữa trong tổ chức Thanh niên Tiền phong toàn Nam Bộ; toàn Nam Bộ khi ấy có hơn một triệu đoàn viên Thanh niên Tiền phong. Cái anh buồn bã, căm phẫn nhất có lẽ là Phạm Ngọc Thạch. Còn tôi, thì lẽ cố nhiên là tôi không tán thành giải tán Thanh niên Tiền phong, tôi cho rằng cứ tổ chức và phát triển Thanh niên cứu quốc đi, còn Thanh niên Tiền phong thì cứ giữ lại đó làm như một Mặt trận thanh niên, ta có thể lấy Thanh niên cứu quốc làm đoàn và lãnh đạo Thanh niên Tiền phong, đến khi nào Thanh niên Tiền phong hết nhiệm vụ, hết tác dụng thì nó chết, chớ việc gì mà phải giải tán một đoàn thể quần chúng rất lớn do Đảng lập ra, một đoàn thể có vai trò quan trọng trước, trong và sau khởi nghĩa tháng Tám? Giải tán Thanh niên Tiền phong có hại, không có lợi. Anh Việt không nghe. Quyết định giải tán phải được thi hành ngay không chậm trễ.
Phải triệu tập một cuộc hội nghị đại biểu lớn của Thanh niên Tiền phong Sài Gòn và các tỉnh. Hơn 500 người dự họp ở phòng họp lớn dinh Đốc lý cũ, tầng dưới, ngoài cửa vô thì phía bên trái. Ai nấy mặt mày ủ rủ vì đã biết lý do mục đích cuộc hội nghị rồi.
Một đồng chí giải thích lý do vì sao Thanh niên Tiền phong phải giải tán. Giải tán rồi thì đoàn viên Thanh niên Tiền phong sẽ lần lượt vào Thanh niên cứu quốc như thế nào. Các đại biểu dĩ nhiên là không ai phản đối Thanh niên cứu quốc nhưng cũng không ai tán thành giải tán Thanh niên Tiền phong, hội nghị kẹt quá! Thủ lãnh tối cao của Thanh niên Tiền phong là Phạm Ngọc Thạch tất nhiên là phải lãnh nhiệm vụ của anh Việt giao cho là chính thức tuyên bố chấm dứt tổ chức Thanh niên Tiền phong. Thạch lên diễn đàn. Ai nấy chờ coi anh nói cách nào hay ho, cho thoả đáng, để sự giải tán được êm ái, xuôi chèo mát mái. Nào dè, Thạch nét mặt giận dữ tuyên bố: “Thanh niên Tiền phong là một tổ chức yêu nước, có công lớn trong cuộc cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở tất cả 20 tỉnh, và trong cuộc đấu tranh mấy tuần nay để củng cố, bảo vệ chính quyền. Thanh niên Tiền phong đã tồn tại vinh quang, Thanh niên Tiền phong đang tồn tại anh hùng, Thanh niên Tiền phong cứ tồn tại, không ai giải tán nó được!”. Tức thì tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô như sấm dậy.
Việt không có mặt ở buổi họp. Tất nhiên, Việt làm sao đoán nổi lời tuyên bố trái cựa của Thạch? Việt đâu có biết con người của Thạch?
Có mặt ở buổi họp tôi nghĩ: nguy rồi! Nếu như thế này thì mâu thuẫn nội bộ của ta lớn quá, không phải chỉ là mâu thuẫn giữa Hoàng Quốc Việt đại biểu Tổng bộ Việt Minh với Phạm Ngọc Thạch, thủ lãnh một triệu Thanh niên Tiền phong Nam Bộ. Hậu quả sẽ ra sao trong cái tình hình đang găng và càng ngày càng găng này? Việt làm sao có thể tha thứ, chịu nhượng Thạch? Thật thà tôi không hiểu, hoàn toàn không hiểu vì lẽ gì Việt lại hấp tấp đến thế?
Thạch nói như vậy. Đại biểu hoan hô Thạch như vậy. Nhưng giải tán Thanh niên Tiền phong là điều đã được quyết định rồi. Người ta ra về bần thần đến cực độ. Anh em có người tự hỏi: chừng nào tới phiên Tổng Công đoàn? Tổng Công đoàn cũng do Xứ uỷ tổ chức, đã có lúc tồn tại và hoạt động dưới danh nghĩa “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp” mới lấy lại tên Tổng Công đoàn mấy ngày trước khởi nghĩa mà cũng không mang tên là “Công nhân cứu quốc” thì sẽ bị giải tán không? Trong 80 ngàn đoàn viên Thanh niên Tiền phong ở Sài Gòn và khoảng 1 triệu Thanh niên Tiền phong Nam Bộ ai có tiêu chuẩn vào Thanh niên cứu quốc (ít hơn rất rất nhiều). Giữa lúc khó khăn lớn như thế này mà gây thêm lo âu, xáo trộn, anh Việt rõ ràng là kém chính trị, hẹp hòi quá 12, nhiều anh em nghĩ vậy, nói như vậy, họ không sai lắm đâu! Sau buổi họp tôi nói nhỏ với Thạch: Anh Việt và cậu “trái cựa” nhau, như vậy thì cậu và cả tôi chắc khó yên ổn ở đất Sài Gòn này.
(5) Việt đổi đồng chí Mười Thinh, chủ tịch Hóc Môn xuống làm chủ tịch Thủ Thừa
Việc giải tán Thanh niên Tiền phong là việc lớn, còn việc sau đây kể ra là chuyện “nhỏ” trong số nhiều việc nhỏ, từa tựa như cách “làm ăn” của Việt khi cầm quyền tối cao ở Nam Bộ. Hóc Môn có tiếng rất xứng đáng là “ổ cộng sản” từ hàng chục năm nay. Mới năm năm trước đó, trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, ở cả vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định chỉ có quận lỵ Hóc Môn là bị quân khởi nghĩa tiến công chiếm lấy phần lớn trong mấy giờ liền trước khi rút lui. Ai nấy tưởng đâu phái Giải phóng của các anh Vi, Dự khi khởi nghĩa đã giành được chính quyền ít nhất là ở Hóc Môn, trong số cả trăm quận của Nam Kỳ. Sự thật là ngay cả ở Hóc Môn – “căn cứ” của Vi, Dự – cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 25 tháng 8 lại do Thanh niên Tiền phong làm gọn và đưa thủ lãnh của mình là Mười Thinh lên làm chủ tịch quận. Mười Thinh là một đảng viên cộng sản lâu năm thuộc hệ thống Xứ uỷ Nam Kỳ (gọi là “Xứ uỷ Tiền Phong”). Phía Giải Phóng không bằng lòng, đi vận động nhờ anh Việt đổi Mười Thinh đi làm chủ tịch quận Thủ Thừa (Tân An), để lại chỗ cho một chủ tịch quận thuộc cánh Vi, Dự.
Kỳ cục thật! Chẳng lẽ anh Việt lại chẳng thấy rằng phía Vi, Dự hoàn toàn không có lấy được một tỉnh, một quận nào trên đất Nam Bộ hay sao? Ít lâu nữa, cái quyết định của anh Việt chuyển Giàu và Thạch ra Bắc, cũng là loại Mười Thinh đi Thủ Thừa đó mà thôi!
Tiếp theo...
Chú thích của mgười biên tập
1 Jean Cédile(1908-1984): sĩ quan chỉ huy những đơn vị "khố xanh" ở các thuộc địa châu Phi, tham gia tổ chức ủng hộ tướng De Gaulle ngay từ đầu. Nhảy dù xuống Tây Ninh với quân hàm thiếu tá. Sau Đông Dương, giải ngũ, tham gia bộ máy thực dân, rồi thực dân kiểu mới ở Châu Phi.
2 Pierre Messmer(1916-2007): thuở trẻ học Trường đào tạo quan chức thuộc địa, xu hướng cực hữu. Tham gia kháng chiến, ủng hộ De Gaulle ngay từ ngày đầu. Được cử vào những chức vụ ở thuộc địa trước khi nhảy dù xuống Tuyên Quang (tháng 8.1945), bị du kích bắt, vượt ngục về Hà Nội. Tham gia phái đoàn Pháp ở Hội nghị Đà Lạt. Những năm 50, làm quan chức thuộc địa ở châu Phi, những năm 1960 làm bộ trưởng quốc phòng (ở cương vị, này, đã cách chức nhà toán học Laurent Schwartz khỏi chức vụ giáo sư Trường Bách Khoa vì ông ủng hộ kháng chiến Algérie). Thủ tướng Pháp từ 1972 đến 1974.
3 Khẩu hiệu “Độc lập hay là chết” (tiếng Anh Independence or Death) cũng là một khẩu hiệu phổ biến ở Hà Nội lúc đó, bên cạnh khẩu hiệu Vietnam To The Vietnamese (Nước Việt Nam của người Việt Nam), mà trẻ em lúc đó ít biết tiếng Anh đọc là … Việt Nam to thế, Việt Nam mẹ sề. Có thể xem thêm bài viết của Dương Trung Quốc “Đại tưóng Võ Nguyên Giáp với nghi thức ngoại giao đầu tiên”
4 Các tên đường nói trong đoạn này:
Norodom: sau này gọi là đại lộ Thống Nhất, nay là Lê Duẩn
Blansubé: Duy Tân, nay là Phạm Ngọc Thạch
Charner: nay là Nguyễn Huệ (tháng 8.1945, được đặt tên là Thủ Khoa Huân, đừng nhầm với đường Thủ Khoa Huân hiện nay tức là Aviateur Garros cũ)
Bonard: nay là đại lộ Lê Lợi (tháng 8.1945 mang tên Phan Bội Châu).
5 Taberd: sau đổi thành Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần.
7 Dinh Thống đốc cũ: nay là Viện bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh (đường Lý Tự Trọng, góc đường Nam Kỳ khởi nghĩa). Từng làm dinh Khâm sai, dinh Thủ hiến, dinh Gia Long, dinh Quốc khách, Dinh tổng thống (1962-63).
8 Phủ toàn quyền: tức là Dinh Norodom, thời “Việt Nam cộng hòa” là Dinh “Độc Lập” (phủ tổng thống), nay là hội trường Thống Nhất.
9 11e RIC (11ème Régiment d'Infanterie Coloniale): Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa số 11. Thành 11e RIC: trại lính sau gọi là "caserne Martin des Pollières, nằm ở giữa các đường Lê Duẩn, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Thị Minh Khai.
10 Chasseloup-Laubat: sau thành đường Hồng Thập Tự, nay Nguyễn Thị Minh Khai.
11 Paul Blanchy: nay là đường Hai Bà Trưng.
Phần
thứ năm
TỔNG KHỞI NGHĨA THÀNH CÔNG:
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP BẮT ĐẦU
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP BẮT ĐẦU
(tiếp theo)
15. Pháp chiếm trung tâm
Sài Gòn bằng vũ lực
(1) Được sự ủng hộ của thực dân Anh,
thực dân Pháp ráo riết
chuẩn bị dùng vũ lực đánh chiếm Sài Gòn
Thiếu tá A. Peter Dewey
Vì Anh và Pháp là hai đế quốc có
nhiều thuộc địa nhất thế giới nên cả hai sát cánh nhau, chống phong
trào giải phóng dân tộc là lẽ dĩ nhiên. Dầu Anh là trong phe “Đồng
minh”, không một ai có thể mơ hồ về điều đó. Pháp sở dĩ ngồi thương
lượng với ta ở Sài Gòn chẳng qua vì chúng nó muốn chờ hoàn thành nốt
công việc chuẩn bị xâm lược của nó ở Sài Gòn, và chờ đại binh của
chúng nó từ Pháp sang Sài Gòn mà thôi; cũng không một ai có thể mơ
hồ về điều này. Và trong mọi cuộc nói chuyện ở Sài Gòn giữa chúng
tôi và đại biểu Pháp, thực dân Pháp luôn luôn bảo: Pháp trở lại
Đông Dương đã, rồi sau sẽ nói chuyện về việc cho Đông Dương tự trị
như De Gaulle đã hứa hẹn. Còn ta thì, trái lại, khẳng định rằng chỉ
có thể thương lượng trên cơ sở nước Pháp công nhận quyền độc lập và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Hai bên có lập trường trái ngược
nhau như vậy; thương lượng không thể đi đến đâu; không đi đến đâu
mà cứ phải thương lượng; Pháp và ta đều hiểu nhau. Mỗi bên đều
“tranh thủ thời gian” để làm việc chuẩn bị đánh. Anh Thạch muốn lợi
dụng mâu thuẫn giữa Anh, Pháp và Mỹ về vấn đề thuộc địa. Ở Sài Gòn
khi ấy, có một đại diện có uy thế của Mỹ là thiếu tá Dewey – em ruột
của quan thống đốc bang New York của nước Mỹ – mà Dewey thì, một hôm
tiếp chuyện với Thạch ở tại dinh Hành chánh Nam Bộ, nói Mỹ không tán
thành để Pháp trở lại Đông Dương như trước, ông ta đề nghị với Thạch
là nên đi Mỹ ít hôm, để nói chuyện thẳng với chính phủ Mỹ. Thạch
cũng ừ à, chờ bàn lại. Thạch hỏi ý tôi; tôi cho rằng thật có mâu
thuẫn giữa Anh, Pháp một bên và Mỹ một bên về vấn đề Đông Dương,
nhưng mâu thuẫn đó không cơ bản, không sâu sắc đâu, cho dù Tổng
thống Roosevelt còn sống đi nữa; dù sao thì ta vẫn có thể tìm cách
lợi dụng mâu thuẫn ấy xem ra sao, nhưng việc đó là thuộc thẩm quyền
của Hà Nội, ở Nam Bộ ta chỉ có thể góp phần mà thôi. Dewey có hôm
bảo là nếu Thạch muốn đi Mỹ thì y có cách bí mật, ví dụ như để Thạch
trong cái valy ngoại giao lớn, đưa lên máy bay, ít hôm lại trở về
bằng cách ấy. Xem chừng cuộc “đi sứ” ly kỳ lắm! Tôi bàn với Thạch
rằng, nói chuyện với Mỹ là chuyện của chính phủ Trung ương. Thạch đi
Mỹ chẳng giải quyết được gì đâu, ở lại Sài Gòn cần thiết hơn. Thạch
và tôi chưa kịp ừ hử gì thì Dewey
1 bị mất tích,
nghe đâu bị trúng đạn khi ông ta mạo hiểm lái xe đến ngã ba Chú Ía
(đường Phú Nhuận đi Gò Vấp).
Bà Nancy Dewey, con gái
thiếu tá P. Dewey, gặp ông Trần Văn Giàu năm 2005 tại Việt Nam.
Cuộc thương lượng với Pháp kéo dài
nhì nhằng. Có lần, trưởng phòng thông tin của đại tá Cédile đến gặp
Phạm Ngọc Thạch (có mặt tôi) y nói thẳng: “Có lẽ các ông quan niệm
rằng độc lập phải giành bằng vũ lực, bằng máu để chứng tỏ là xứng
đáng với độc lập, và để chứng tỏ rằng dân nước các ông biết giành
quyền độc lập ấy; bởi vậy, có lẽ các ông quan niệm rằng dù chưa
biết được thành bại ra sao cũng cứ phải chiến đấu đã; và có lẽ các
ông quan niệm rằng những hành động anh hùng sẽ bảo đảm cho tương
lai, sẽ làm cho dân chúng có ý thức về sức mạnh của mình, tự biết
rằng mình đã trưởng thành; nếu quả như vậy thì không còn cần phải
thương lượng giữa các ông và chúng tôi nữa”. Chừng như hắn doạ cắt
đứt thương lượng, Pháp muốn thử tinh thần chúng tôi. Thạch trả lời
ngắn gọn: “Chính là như vậy! Ông nói đúng, chỉ sai có một điều là
không phải chúng tôi không biết trước thành bại, chúng tôi biết
trước rằng chúng tôi sẽ thắng, nước chúng tôi sẽ giữ được độc lập.”
Quân Pháp tại Sài Gòn mỗi ngày thêm
đông. Sẵn có mười mấy ngàn lính Pháp bị Nhật bắt làm tù binh, nay
được thả ra, được trang bị, tập luyện lại và rất hiếu chiến. Quân
Anh, Ấn cũng càng ngày càng đông thêm.
Một tuần sau vụ xung đột đổ máu ngày
2 tháng 9, thì trưởng phái đoàn kiểm soát quân sự “Đồng minh” Anh là
Gracey đến Sài Gòn xuống Tân Sơn Nhất, với một lực lượng quân sự.
Tiếp theo đó, Gracey ra “bố cáo”:
- Cấm người
Việt Nam mang vũ khí; Việt Nam phải nộp vũ khí.
- Quân đội Đồng minh đã lãnh trách nhiệm gìn giữ trật tự.
- Từ nay lực lượng cảnh sát người Việt Nam là một lực lượng phụ thuộc của quân Anh.
- Cấm tất cả các báo Việt Nam.
- Quân đội Đồng minh đã lãnh trách nhiệm gìn giữ trật tự.
- Từ nay lực lượng cảnh sát người Việt Nam là một lực lượng phụ thuộc của quân Anh.
- Cấm tất cả các báo Việt Nam.
Người 19 tháng 9, họp báo, Cédile lên
chân tuyên bố: “Việt Minh không đại diện cho nhân dân. Việt Minh
bất lực trong việc giữ trật tự, ngăn cướp. Người Pháp thấy cần phải
lập lại trật tự. Và chúng tôi sẽ lập một chính phủ theo tuyên bố 24
tháng 3”.
Thế là rõ.
Người Pháp, người Anh đã ném lá bài xuống chiếu. Nói một cách trắng
ra, họ sẽ dùng vũ lực lập lại chế độ thực dân. Nhà báo P. Devillers
về sau có viết về tình hình lúc này như sau:
“Dưới ảnh hưởng của những người yêu
cầu ông ta phải cương quyết, Cédile dễ dàng nghĩ đến dùng bạo lực.
Cédile sợ điều xấu nhất có thể xảy ra, người Việt thì lúc này sôi
nổi lắm, còn quân Pháp thì chưa lấy gì làm đông, thái độ của Nhật
lại mơ hồ. Tình hình vật chất và tinh thần của phái đoán Pháp rất
tồi: không có văn phòng, không có dây nói, không kéo cờ Pháp lên
được. Cédille có mặc cảm là đang theo đuôi người Anh. Hơn nữa người
Việt bắt đầu phá hoại ở bến tàu biển, ở sân bay Tân Sơn Nhứt, giao
thông với bên ngoài có thể bị nghẽn. Ngày 17 Việt Minh rải truyền
đơn kêu gọi chuẩn bị bãi thị, bãi công. Nổ ra nhiều cuộc xung đột
giữa người Việt với người Pháp trên đường phố. Nhiều người Việt theo
Pháp bị bắt. Tất cả các cuộc thương thuyết với nhà cầm quyền Việt
Nam đều không đem lại kết quả gì, Ủy ban Nam Bộ mỗi lần đều trả lời
bằng cách đề nghị lại là Pháp phải đưa trở về trại những quân lính
Pháp trước khi trả họ về Pháp”.
Mấy lâu nay, có người đề nghị với tôi
là trước sau gì cũng sẽ đánh nhau giữa ta và Pháp, vậy thì ta nên hạ
thủ trước có lợi hơn. Tôi không đồng ý. Hạ thủ trước chỉ có lợi tạm
thời, thắng không quyết định mà có hại về chính trị. Giữa Pháp và
Anh, ta làm sao phân biệt? Vả lại, ngay hồi này lực lượng của ta
đối với Pháp (và Anh) không phải là có ưu thế tuyệt đối. Còn Anh sử
dụng quân Nhật tới mức nào, ai lường trước được hết? Không nên tính
tới chuyện hạ thủ trước mà phải tính đến việc Pháp sẽ thình lình
đánh ta, nhờ sự đồng loã của Anh, thì ta phản ứng tích cực và kịp
thời như thế nào, ngăn chặn và đánh dẹp như thế nào?
Như vậy cả Anh lẫn Pháp vừa bụm miệng
ta, vừa trói tay ta và sắp tiến công đánh ta.
Sau ngày 2 tháng 9, mỗi lúc Anh, Pháp
càng tăng cường gấp rút sự chuẩn bị quân sự để đánh chiếm lại Sài
Gòn. Nếu kể chỉ trên địa bàn “Sài Gòn” thôi thì số quân Pháp bị Nhật
cầm tù từ 9 tháng 3, cũng đã nhiều lắm rồi, chỉ cần tổ chức lại, vũ
trang lại, trong lúc quân Pháp tập trung ở Ấn Độ, Madagascar lục tục
sang. Đến ngày 22 tháng 9, quân số của Pháp ở Sài Gòn gồm có trung
đoàn thuộc địa số 11 và trung đoàn thuộc địa số 5, cộng với từ 500
đến 1.000 Pháp kiều mới được động viên nhập ngũ. Riêng lính Gourka
(người Ấn) của Anh non già 3.000; và Anh sử dụng 7 tiểu đoàn Nhật
đông 5 nghìn quân.
Ngày 21 tháng 9, Gracey tuyên bố
thiết quân luật; ai có “hành động phá hoại” thì bị tử hình.
Và hôm 22, chúng nó chiếm Khám Lớn.
Trong lúc đó thì Pháp thả tung tất cả mười mấy ngàn lính Pháp, tụi
này ra tay cướp bóc: cướp tiệm vàng Kim Thịnh, cướp tiệm sơn Nguyễn
Sơn Hà, cướp tiệm giày Phú Ký, phá trụ sở Tổng Công đoàn ở số 245
đường La Grandière
2
(2) Ta gấp rút hơn nữa chuẩn bị đối phó với tình thế găng sắp nổ
Hồi chưa làm khởi nghĩa thì ở hội
nghị Chợ Đệm tất cả chúng tôi đã tính trước rằng quân đồng minh sẽ
sớm vào Sài Gòn và miền Nam, chính thức là để giải giáp quân Nhật,
thực tế là để chống phá cách mạng Việt Nam, lập lại chế độ thuộc địa
của Pháp. Quân Anh vào thì trong đó có quân Pháp. Chúng vào mà khởi
nghĩa chưa thành công thì chúng sẽ ngăn khởi nghĩa; chúng vào mà
cách mạng đã thành công rồi thì chúng quyết phá chính quyền cách
mạng cho kỳ được. Đúng như vậy. Không thể khác. Sài Gòn, Nam Bộ đã
khởi nghĩa thành công rồi thì quân Anh, Pháp mới vào tới. Vào tới
thì chúng phá ngay. Chúng bắt đầu phá ngay từ buổi lễ 2 tháng 9.
Ngay từ ngày 2 tháng 9, máu đã đổ trên đường phố Sài Gòn.
Sau ngày 2 tháng 9, nhất là sau khi
Gracey đến Sài Gòn, thì chúng tôi càng tìm hết các cách để theo dõi
hoạt động của Anh, Pháp, Nhật. Theo dõi kỹ thì hết sức khó, song
những hành động của Anh, Pháp từ đó không thể nào không cho chúng
tôi tin chắc rằng địch có kế hoạch sẽ “hạ thủ” sớm để chiếm lại Sài
Gòn. Rất sớm thôi. Cho nên chúng tôi ở Xứ ủy và Ủy ban phải kịp thời
có một loạt hành động đối phó. Nói “đối phó” là nói bị động rồi. Mà
chủ động đánh trước thì, dù là đánh ngay sau 2 tháng 9, lúc địch
chưa chuẩn bị tới đâu, chúng tôi cũng nghĩ rằng không nên; không
nên và không được.
Chuẩn bị đối phó với tình thế găng,
sắp nổ, chúng tôi đã làm gì?
-
Đã “không kèn không trống” đưa các đơn vị quân đội và một số đơn vị dân quân ra ngoại thành trước khi và nhất là từ khi Gracey tuyên bố thiết quân luật.
-
Ta đã ra sức tăng cường các đội xung phong công đoàn thanh niên và “Quốc gia tự vệ cuộc”. Riêng Công đoàn ta lập được hơn 360 tổ, đội; lớn thì gọi là đội, nhỏ thì gọi là tổ. Việc làm này có phần công khai, có phần bí mật; công khai thì một số đội xung phong công đoàn đến tuyên thệ tập thể trước bàn thờ Tổ quốc lập tại trụ sở Tổng Công đoàn đường La Grandière; còn các đội xung phong thanh niên thì tuyên thệ ở trụ sở Charner và nhiều nơi khác; thề hy sinh bảo vệ độc lập của nước nhà; bí mật là tổ chức thành lập Mặt trận nội thành gồm 16 tiểu khu, mỗi tiểu khu gồm một số gần mấy chục đội xung phong, cũng gọi là “ổ đề kháng”, con số này cứ tăng lên mãi.
-
Ta tăng cường chuẩn bị: cứu thương, thuốc men và dầu xăng, dầu lửa để đốt những nơi cần đốt, ta tập trung ở nhiều nơi những cưa, búa, xà beng để làm công tác phá hoại những chỗ đã tính trước.
-
Một Ủy ban kháng chiến được thành lập. Tôi chỉ định Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Lưu phụ trách riêng nội thành Sài Gòn.
-
Mặt trận nội thành trước hết làm nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức bảo vệ cơ quan đoàn thể, chính quyền của ta; nó chỉ huy các tổ chức chiến đấu và các đội xung phong công đoàn và thanh niên. Mặt trận nội thành, có nhiệm vụ hoạt động ở trong thành phố. Còn ngay lúc đó, chúng tôi tổ chức ra 4 mặt trận bao quanh thành phố, cố không cho địch ra khỏi Sài Gòn. Các cầu Thị Nghè, cầu Bông, cầu Chữ Y, cầu Tân Thuận, đường bộ vào Chợ Lớn, ra Bà Quẹo, mỗi đoạn vòng cung đều có bố trí lực lượng của ta
Hơn 10 ngày nay, Tiểng và tôi đêm thì
vào Chợ Lớn, cũng có nhiều ngày làm việc trong đó, để đề phòng địch
ám sát, bắt cóc, hay tập kích của quân thù, nhưng cũng sắp xếp thế
nào để không vắng mặt ở trụ sở.
(3) Một cái bẫy của thực dân
Xế ngày 22 tháng 9, độ chừng 14 giờ,
Thạch qua phòng làm việc của tôi tại trụ sở ủy ban, tự kéo ghề ngồi
(ông này ít khi ngồi nói chuyện lắm), Thạch bảo: “Nè, anh Giàu à,
phái đoàn Pháp cho hai người (có một đảng viên xã hội, đều là quen
biết với Thạch và tôi) tới mời tụi mình ăn cơm tối với họ và cùng họ
tiếp tục thương thuyết; họ nói tướng De Gaulle vừa gửi người đến Sài
Gòn, có chỉ thị mới. “Diner de travail” – Thạch nói bằng tiếng Pháp
– anh Giàu nghĩ thế nào?
– Tụi nó
mời ai?
– Mời anh
(Giàu) với tôi (Thạch).
– Sao không
mời Bạch (chủ tịch mới của ủy ban)?
– Ai biết
đâu?
– Ăn ở đâu?
– Ở trụ sở
phái đoàn Pháp.
– Theo
Thạch thì chúng ta nên đi hay không nên đi?
– Nên đi,
đi xem tụi nó có đề nghị gì mới, chớ không còn nói gì được thêm nữa
với Cédile, vả lại Cédile cũng không có đủ tư cách thương lượng
ngoại giao. Theo anh thì nên đi không?
– Tôi suy
nghĩ đã.
Thạch bảo: hai thằng đem thư mời còn
ở phòng bên chờ trả lời.
Tôi liền nói:
– Đi! Mình
sẽ đi với Thạch. Giữa 4 và 5 giờ (16 và 17 giờ), anh trở qua đây để
chúng ta cùng bàn kế hoạch đi thế nào, nói những gì. Bây giờ tôi lo
tổ chức sự “bảo vệ” đã.
Anh Thạch ra thì tôi gọi Hiền vào;
Hiền là đội trưởng đội bảo vệ, đội này gọi là “thân binh” hay là
“cận vệ”, do Tiểng tổ chức. Tôi dặn Hiền: chiều nay Thạch và tôi đi
ăn cơm tối với tụi Pháp tại trụ sở phái đoàn Pháp; anh thu xếp việc
bảo vệ; qua báo cho anh Thạch biết là tôi nhờ Hiền làm việc ấy.
Việc thu xếp không cần bí mật. Chừng một tiểu đội bảo vệ là vừa. Rồi
tôi tiếp tục làm việc như không có việc gì xảy ra.
Quá 16 giờ một chút, Thạch lại sang
phòng tôi nói:
– Làm gì mà
phải lo việc bảo vệ cho mất công vậy? Thôi, anh bảo tụi Hiền đừng
đi bảo vệ nữa. Tụi mình cứ đến như tôi đến mọi lần, làm rình rang,
tụi nó sẽ cho mình nhát gan. Nào, ta bàn kế hoạch.
– Thạch ơi! Tôi cho rằng tụi mình không nên đi.
– Ủa sao
vậy? Mình hẹn rồi kia mà! Bộ con nít sao mà lát nói có, lát nói
không? Vậy anh bảo Hiền nó chuẩn bị bảo vệ làm gì?
– Tôi không
đi; mà anh cũng không nên đi. Không đi mà cũng không báo trước là
chúng ta sẽ không đến được. Tôi bảo Hiền chuẩn bị công khai để cho
tụi Tây nếu có gián điệp điều tra động tịnh của ta (mà chắc hẳn là
có) thì tụi nó tin chắc rằng tụi mình sẽ tới “phó hội”. Thạch ơi!
Với những tin tức được biết về sự chuẩn bị tác chiến của Pháp, tôi
đoán chắc rằng hôm nay tụi Tây bày tiệc cơm để gài bẫy bắt sống anh
và tôi. Có khi chẳng có cơm nước gì cả, chúng ta vừa đến cửa salon
thì tụi nó sẽ tuyên bố anh và tôi là tù binh của chúng. Anh thấy đó.
Tình hình hai, ba ngày nay găng lắm, găng muốn nổ. Trong một vài hôm
nữa thôi, chắc tụi Tây sẽ dùng võ lực đánh úp chúng ta, chiếm Sài
Gòn. Nếu tụi nó bắt được anh và tôi thì sẽ hết sức trở ngại cho cuộc
kháng chiến của nhân dân ít ra là trong lúc đầu. Không nên để mắc
bẫy địch. Để cho địch bắt sống, xấu hổ lắm. Mấy đêm nay tôi ngủ
trong Chợ Lớn, anh biết chỗ nào rồi. Còn anh, Thạch, tối nay, và từ
nay cũng không nên về Léon Combes nữa. Bây giờ tôi đi nói chuyện với
Xứ ủy, Thành ủy về tình hình có thể xảy ra. Còn Hiền thì kệ nó, nó
cứ làm như tụi mình 19 giờ lên xe, nó chờ mãi đến 20 giờ tối, sẽ có
người báo lại quyết định không đi ăn cơm tối với phái đoàn Pháp,
nghĩa là không đi nộp mạng cho bọn Tây. Nếu đêm nay không xảy ra
biến động gì, thì anh cứ đổ tại tôi gấp rút đi lục tỉnh mà anh sai
hẹn, vả lại chúng mình có viết thư trả lời cho bọn Tây rằng chúng
mình đồng ý với cái “diner de travail” của tụi nó đâu? Tôi thì có
100 lý do khác nhau để giải thích tại sao không về kịp để “hội yến
hồng môn”.
Tôi thấy Thạch không bằng lòng mà
cũng không cản tôi được. Nhưng tình hình thế, ứng xử phải thế, chớ
làm sao được? Giữ chữ tín với bạn là đúng, giữ lời hứa với bọn gài
bẫy mình là dại. Tôi về Chợ Lớn theo đường vòng vèo và bố trí canh
gác từ xa và gần.
(4) Pháp dùng vũ lực chiếm trung tâm Sài Gòn đêm 22 tháng 9
Đúng là tối hôm đó, Pháp xua quân
đánh chiếm:
– Trụ sở Ủy
ban nhân dân Nam Bộ.
– Trụ sở Quốc gia tự vệ cuộc
– Nhà đèn.
– Trụ sở Bưu Điện.
– Đài phát thanh.
– Mấy bót chính.
– Trụ sở Quốc gia tự vệ cuộc
– Nhà đèn.
– Trụ sở Bưu Điện.
– Đài phát thanh.
– Mấy bót chính.
Và lính Pháp đi ba-trui
3 suốt đêm ở
phần chính trung tâm Sài Gòn. Tiếng súng nổ, nổ càng lúc càng nhiều.
Các tiểu đội bảo vệ cơ quan đều chống cự mãnh liệt với địch tới viên
đạn cuối cùng, tự vệ khu phố cũng nổ súng bắn trả bọn ba-trui Pháp
hung hăng. Cả Sài Gòn không ngủ.
Tôi được Tiểng báo tin chiến sự bắt
đầu vào lúc 11 giờ hơn.
Và từ giờ đó, tôi viết lời kêu gọi
kháng chiến và triệu tập gấp cuộc hội nghị liên tịch sáng sớm mai
giữa Tổng bộ Việt Minh, Xứ ủy, Ủy ban nhân dân và Ủy ban kháng
chiến.
(5) Hội nghị đường Cây Mai
Từ Sài Gòn vào Chợ Lớn, đi hết đường
Frère Louis (nay là Nguyễn Trãi) thì tới đường Cây Mai (nay cũng là
Nguyễn Trãi). Hai đường gối đầu nhau ở biên giới hai thành phố của
địa phương Sài Gòn. Đường Frère Louis – Cây Mai là một con đường đã
có từ hồi thời phong kiến, từ thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, đường này
xuất từ cửa Tây thành Gia Định đi xuống Định Tường, Vĩnh Long: một
đoạn của đường thiên lý, đoạn dọc theo một số chùa nổi tiếng, mà
ngôi chùa cuối cùng và nổi tiếng nhất là chùa Cây Mai, nơi gặp gỡ
của thi nhân Gia Định. Cái tên đường Cây Mai có lẽ bắt nguồn ở đó.
Từ ngày Tây chiếm Sài Gòn, phá đại đồn Chí Hoà, thì “chùa Cây Mai”
xây dựng trên một quả đồi cao; chùa bị Pháp phá đi và xây dựng lên
một cái đồn lớn, kiên cố; chùa lần lần bị quên lửng, mà đồn “Cây
Mai” lại nổi danh lần. Tiếng ngâm vịnh của nhà văn im bặt trước
tiếng “tò te” của kèn lính khố đỏ, khố xanh. Hội nghị liên tịch của
chúng tôi mở tại một địa điểm nằm giữa đồn Cây Mai và biên giới Sài
Gòn - Chợ Lớn; cách nhà ở của tôi chừng 50 thước. Nhà tôi lúc đó ở
số 107 (đường Ngô Quyền hiện nay). Nơi họp hội nghị là số 629 đường
Cây Mai (nay là Nguyễn Trãi). Tôi với Tiểng đi bộ từ nhà sang nơi
họp, vừa đi vừa bàn cách in ấn, phát hành lời kêu gọi kháng chiến.
Cuộc họp bắt đầu trước hửng sáng ngày 23 tháng 9. Mục đích cuộc họp
là quyết định kháng chiến, kêu gọi nhân dân Sài Gòn và nhân dân Nam
Bộ đứng lên cầm vũ khí kháng chiến bảo vệ độc lập tự do. Tôi tính
rằng hội nghị sẽ ngắn, gọn, toàn thể sẽ nhất trí dễ dàng. Dự hội
nghị có: Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh (của Tổng bộ), Ung Văn
Khiêm, Nguyễn Văn Nguyễn (của Xứ ủy); Phạm Ngọc Thạch, Ngô Tấn Nhơn
(của Ủy ban nhân dân); Huỳnh Văn Tiểng, Trần Văn Giàu (của ủy ban
kháng chiến).
Tôi báo cáo tình hình: Quân Pháp với
sự đồng ý và hỗ trợ của quân Anh đã chiếm trung tâm Sài Gòn (trụ sở
Uỷ ban, trụ sở Quốc gia tự vệ cuộc, các bót lớn, nhà dây thép…). Các
đội bảo vệ cơ quan và tự vệ khu phố đã chống cự mãnh liệt, lực lượng
vũ trang và nhân dân đang chờ lệnh và trong lúc chờ lệnh, vẫn nổ
súng chặn địch. Như vậy là Pháp đã bắt đầu xâm lược nước ta một lần
nữa. Tôi xin hội nghị quyết định bắt đầu kháng chiến. Tôi yêu cầu
hội nghị thông qua lời kêu gọi kháng chiến đã được viết rồi và cần
được anh em chỉnh lý, bổ sung. Tôi cũng đề nghị Xứ ủy và Ủy ban dời
về một nơi an toàn, tôi đề nghị là ở Cần Đốt, gần thị xã Tân An,
trên đường đi vào Đồng Tháp Mười, Mộc Hoá. Có thể bây giờ tạm dọn về
thị xã Mỹ Tho, nhưng nếu đóng ở đó thì ta dễ bị địch đánh úp bằng
đường sông, bằng tàu chiến như hồi gần 100 năm về trước. Còn về phần
cơ quan chỉ đạo tác chiến thì tôi nói với Xứ ủy và Ủy ban kháng
chiến là dời ngay xuống Chợ Đệm, bên kia cầu Bình Điền.
Tôi rất chủ quan, chủ quan y như hồi
bắt đầu hội nghị Chợ Đệm giữa tháng 8 để quyết định khởi nghĩa. Tôi
những tưởng đâu ý kiến đề nghị của tôi là chí lý, nên sẽ được toàn
thể anh em chấp nhận ngay, chỉ sửa chữa chút đỉnh bản kêu gọi kháng
chiến mà thôi. Chớ làm sao tôi đoán trước được rằng có người, trong
tình hình này, không chịu kêu gọi nhân dân và binh sĩ đứng lên kháng
chiến chống Pháp xâm lược, mà người ấy lại là Hoàng Quốc Việt?
Trước đây, tôi nghe đồn Hà Bá Cang (Hoàng Quốc Việt) sáng suốt.
Nhưng từ ngày 2 tháng 9 đến nay, chỉ trong vòng 20 ngày anh ấy đã
làm tôi thất vọng về tính sáng suốt hư truyền đó; tôi ngạc nhiên,
chưng hửng về một số quyết định kỳ cục của anh. Tôi vừa sôi nổi
nhưng vừa bình tĩnh trình bày xong tình hình và dự án nghị quyết,
thì anh Hoàng Quốc Việt – như cũng đã suy nghĩ từ đêm khi nghe súng
nổ dòn ở trung tâm Sài Gòn – Hoàng Quốc Việt chậm rãi và lạnh lùng
nói:
– Không
được tự tiện ra lệnh kêu gọi kháng chiến, hãy chờ chỉ thị của Hồ Chủ
tịch. Không được nóng vội, hãy chờ chỉ thị của Trung ương Đảng.
Tôi nghe câu ấy như bị không chỉ một
gáo mà một thùng nước lạnh xối trên lưng. Nhưng tôi cố dằn lòng ngồi
im nghe Hoàng Quốc Việt giải thích ý kiến của anh. Ý kiến của anh
Việt thực ra cũng rất đơn giản:
Kêu gọi kháng chiến, dù chỉ kêu gọi
đồng bào Sài Gòn và Nam Bộ thôi, là một điều hệ trọng lắm. Vấn đề
được đặt ra là bắt đầu kháng chiến hay tiếp tục hoà hoãn; là nói
chuyện bằng súng đạn hay tiếp tục thương lượng ở hội nghị? Bây giờ,
trong lúc chúng ta mới nắm chính quyền, tổ chức còn bề bộn, lực
lượng còn ít ỏi, thế bị cô lập, thì ta nên hoà hoãn thương lượng,
không nên đối đầu bằng súng đạn, bằng vũ khí. Nếu nay ta kêu gọi
kháng chiến, máu sẽ đổ thêm nhiều, thì sẽ càng khó thương thượng,
thương lượng không được nữa. Cũng có thể là chúng ta bị bắt buộc,
phải hô hào kháng chiến lấy súng đạn chọi với súng đạn, nhưng phải
chờ lệnh của Hồ Chủ tịch, của Trung ương Đảng mới được; ta không
được tự mình kêu gọi kháng chiến. Nếu gặp trường hợp ở đây ta kêu
gọi kháng chiến mà Hà Nội không đồng ý, không tán thành, thì ta sẽ
tính sao đây? Cho nên phải chờ. Bây giờ chỉ nên kêu gọi tổng bãi
công phản đối xâm lược mà thôi, phải để cửa mở cho sự thương lượng.
Chúng ta hôm nay sẽ đánh điện báo cáo và thỉnh thị với Hồ Chủ tịch,
với Trung ương Đảng. Chúng ta hôm nay cũng sẽ phát lời kêu gọi đồng
bào sẵn sàng đợi lệnh của Chính phủ Trung ương và sẵn sàng chiến đấu
để bảo vệ độc lập tự do. Hoàng Quốc Việt nói như vậy, nói như chỉ
thị của người lãnh đạo có toàn quyền.
Có người, tôi không nhớ là ai, hình
như là Ngô Tấn Nhơn trả lời ngay cho Việt rằng: “Tổng bãi công bây giờ không hại gì
cho Pháp cả; vì Pháp chỉ có vài cơ quan và vài người Việt Nam làm
mướn cho nó; tổng bãi công không ngăn chặn được sự xâm chiếm bằng
võ lực. Nó đánh tới mà ta ngồi chờ lệnh Trung ương chưa biết hôm nào
tới, thì nay ta mất Sài Gòn, mai ta mất Gia Định, mốt ta mất Chợ
Lớn, địch nó có chờ đâu, nó thấy ta chờ nó càng tiến đánh mau hơn,
mạnh hơn; đến khi ta bắt đầu đánh thì địch đã chiếm được lợi thế, ta
càng khó khăn hơn biết mấy!”
Trần Văn Giàu và Huỳnh Văn Tiểng, nhân dịp kỷ
niệm Cách mạng Tháng Tám (2007, ảnh Việt Dũng)
Phạm Ngọc Thạch nói: “Đánh thì cứ đánh, thương thuyết thì
tiếp tục thương thuyết, cái này có “exclure” (Thạch nói nửa
ta nửa Tây) - “bài trừ” cái kia
đâu. Tôi nghe anh Giàu nói ngày xưa Nguyễn Trãi vừa đánh vừa nói,
đánh càng thắng thì nói càng có kết quả. Tụi nó đánh, mình không
đánh lại, mà biểu tụi nó ngồi nói chuyện thì sao được?”
Huỳnh Văn Tiểng cho rằng: “Ta chưa ra lời chính thức kêu gọi
kháng chiến mà tự vệ, dân quân, thanh niên, công đoàn đã bắt đầu
đánh trả quân địch rồi, theo chỉ thị đã truyền sẵn, khi tình thế quá
căng. Cuộc kháng chiến tự động đó chắc chắn sẽ mở rộng thêm, kịch
liệt thêm, cho dầu ta không ra lệnh kháng chiến; đến một lúc, không
xa lắm đâu, nếu ta không kêu gọi kháng chiến thì ta sẽ không lãnh
đạo được phong trào kháng chiến của quần chúng nữa, ta sẽ mất hết uy
tín, quần chúng sẽ chán chê sự do dự của ta, ta còn lãnh đạo được ai
nữa? Địch đánh ta thì ta đánh lại, tất nhiên phải như thế, chờ sao
được? Sao lại chờ? Bảo chờ đợi khác nào là bảo bó tay để cho địch
tha hồ bắt giết, xâm chiếm?”
Nguyễn Văn Nguyễn nói: “Lấy gì mà đánh?
kháng chiến bằng cái gì?” (Câu hỏi giống y như trong hội nghị Chợ Đệm).
Tôi đáp ngay: “Lấy các lực lượng đã làm khởi nghĩa tháng 8 thắng lợi để làm kháng
chiến đến thành công. Lực lượng này, bây giờ đã to lớn hơn, có tổ
chức hơn, có tinh thần hơn, có vũ trang hơn, được huy động lên thành
phong trào yêu nước cao nhất, đều nhất trước nay và sẽ càng cao hơn,
đều hơn nữa. Vả lại sức kháng Pháp của chúng ta không phải chỉ có
Nam Bộ mà sẽ có cả nước Việt Nam – bọn Pháp đánh chiếm Sài Gòn là để
chiếm lại Nam Bộ, mà đánh chiếm Nam Bộ là chiếm lại cả Việt Nam, như
cách đây gần một thế kỷ, chắc không khác mấy, cho nên kháng chiến
của ta sẽ được cả dân tộc hưởng ứng. Sức mạnh chiến thắng của ta là
ở chỗ đó. Hơn nữa cuộc kháng chiến của chúng ta tất nhiên sẽ được
các dân tộc thuộc địa của Pháp, Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha
v.v… hưởng ứng bằng cách này hay bằng cách khác, kể cả bằng cách
khởi nghĩa. Như vậy, chúng ta sẽ không bị cô lập đâu. Còn nước Pháp
mới bị thua trận, mới khôi phục, làm sao có đủ hơi sức đánh bại cuộc
kháng chiến chắc chắn là lâu dài và quyết liệt của dân tộc ta bắt
đầu ở Sài Gòn, ở Nam Bộ. Còn nhân dân Pháp, nhân dân các nước tư
bản, nhất là còn Liên Xô và các nước cách mạng thành công sẽ ủng hộ
ta về ngoại giao quốc tế. Đó là trả lời cho anh Việt về cái gọi là
“tình thế bị cô lập”. Con mắt biện chứng không những thấy cái hiện
tại mà còn phải thấy sự chuyển biến tương lai của thời cuộc.”
Tôi liền trở lại cái ý kiến ban đầu
của Phạm Ngọc Thạch về việc vừa đánh vừa nói chuyện, (sau này gọi là
đánh và đàm); tôi là thầy giáo, nên tôi đưa ra tỷ dụ lịch sử dài
dòng hơn, chí lý hơn, rành mạch hơn Thạch. Và tôi nói thêm rằng, nếu
Chính phủ và Trung ương không tán thành kháng chiến (mà tôi chắc
chắn rằng Chính phủ và Trung ương nhất định sẽ tán thành) thì, trong
trường hợp đó, Chính phủ và Trung ương có đủ quyền, đủ lý để ra lệnh
đình chỉ kháng chiến, bãi chức những người chủ trương đánh, rồi tiếp
tục thương lượng hoà bình, có sao đâu? Còn như ta mà “chờ”, mà
“đợi” thì sẽ bị kẻ địch tiến công, đánh chiếm càng nhanh, càng
nhiều, tinh thần nhân dân sẽ suy yếu, rời rã, khi ấy ta sẽ lâm vào
chỗ thương lượng trên thế yếu ai chịu trách nhiệm? Nếu không phải là
chính chúng ta đây?
Anh Việt trở lại vấn đề báo cáo thỉnh
thị, về quyền quyết định của Trung ương, của Hồ Chủ tịch trong việc
lớn, rất lớn như kêu gọi kháng chiến. Phải chờ đợi. Không thể khác
được. Thấy rõ là đại đa số anh em dự hội nghị tán thành ý kiến của
tôi, nhưng Việt chính thức là đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, của
Đảng bộ và Trung ương Đảng. Làm sao cãi ý kiến, trái ý kiến anh ấy
được.
Cho nên Phạm Ngọc Thạch đề ra một ý
kiến “nửa chừng”: tổ chức biểu tình lớn chống xâm lược, ngay ở
trung tâm Sài Gòn (Phạm Ngọc Thạch nói rằng anh sẽ tình nguyện dẫn
đầu). Biểu tình tay không. Biểu tình đông như 28 tháng 8, như 2
tháng 9, Pháp sẽ bắn vào đoàn biểu tình. Phóng viên cả nước sẽ đưa
tin lên báo chí, đài phát thanh khắp thế giới sẽ làm ầm lên, gây dư
luận quốc tế rộng lớn bắt buộc Pháp phải ngừng tiến công và phải
ngồi đàm phán.
Có người, tôi quên là ai, in hình của
Ung Văn Khiêm, nói chơi, rằng đề nghị của Thạch “có mùi vị bất bạo
động” của Mahatma Gandhi. Anh em bỏ qua ý kiến của Thạch, một ảo
tưởng. Thật ra trong tình hình lúc bấy giờ, dân Sài Gòn đang tản cư,
ai ở đó mà biểu tình, đồng bào yêu nước đang chờ lệnh đánh giặc,
giết giặc xâm lăng mà ta kêu gọi biểu tình tay không (như thời trước
Godart Brévié
4) thì ai nghe
mình? Mình huy động như hồi 25 tháng 8 và 2 tháng 9 sao nổi? Ảo
tưởng đó chính Thạch cũng thấy ngay.
Cuộc thảo luận tới lúc lình bình như
ở “giáp nước”. Tôi thuyết phục anh Việt không nổi, anh Việt thuyết
phục tôi không nổi. Anh em vài người chẳng nói gì, có lẽ ngại khác ý
với đại biểu của Tổng bộ. Tôi bèn đưa ra cái lập luận cuối cùng của
tôi để phá bế tắc. Hội nghị đã kéo dài hơn một tiếng đồng hồ rồi, mà
bấy giờ một tiếng là lâu quá! Tôi chậm dãi, nhấn từng câu một, từng
tiếng một:
– Các anh!
Địch đánh ta thì ta phải đánh lại, tất nhiên phải như vậy; ta không
đánh lại thì địch càng đánh tới, ta càng mất đất, mất dân, nhứt là
mất uy tín trong dân.
– Ta không
ra lệnh đánh thì dân cũng đánh, đánh thiếu tổ chức, thiếu chỉ huy;
dân đánh mà ta không chịu đánh thì ta làm sao lãnh đạo được dân nữa?
– Ta đánh,
diệt nhiều địch, gây nhiều tổn thất về người, về của cho địch thì
địch mới chịu thương lượng đàng hoàng; ta quyết không để nó thương
lượng trong thế thắng. Kháng chiến không loại trừ thương lượng,
không rấp ngõ thương lượng, kháng chiến càng có hiệu quả thì ta mới
có thế mạnh để thương lượng. Cổ kim đông tây, ở lịch sử ta cũng vậy,
vừa đánh vừa nói chuyện là thường, muốn bao nhiêu tỷ dụ cũng có.
– Tất nhiên
là ta phải báo cáo thỉnh thị. Đừng tưởng rằng, đừng cho rằng ý kiến
của tôi là không cần báo cáo thỉnh thị. Không phải như vậy. Nhưng,
ta không chờ có chỉ thị kháng chiến mới bắt đầu kháng chiến. Trong
tình hình hiện giờ chắc chắn trăm phần trăm là Trung ương Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tán thành kháng chiến. Không thể khác. Nếu ta
chờ lệnh đánh mới đánh thì địch sẽ có lợi thế nhiều quá, ta sẽ mất
thế nhiều quá. Không nên chờ. Phải đánh trả ngay.
Rồi tôi đưa ra cái ý kiến cuối cùng
mà tôi đã nghiền ngẫm nãy giờ, sau khi tôi nghe Việt bảo phải đợi
chỉ thị. Tôi nói, tay nắm chặt dằn xuống bàn như sắp làm một việc gì
có tính chất quyết định số phận của chính mình: “Tướng ở biên cương, cũng như tướng
ở nội địa và ở kinh thành đều phải theo lệnh vua, nguyên tắc là như
vậy. Song, tướng ở biên cương có khi không chờ lệnh vua, trong
trường hợp nếu chờ lệnh vua thì địch lấy mất biên ải, tràn vào nội
địa, cướp của, bắt người, chiếm đất. Tướng biên cương phải biết tự
quyết định theo đường lối bảo vệ đất nước mình. Tướng biên cương
cũng có thể làm khác, thậm chí làm khác lệnh vua trong trường hợp
lệnh vua tới nơi thì tình hình đã khác hẳn, nếu theo lệnh cũ thì hại
cho dân, cho nước, cho vua. Tướng biên cương phải biết quyền biến,
hoặc tử thủ để làm chậm bước tiến của địch, hoặc rút lui để bảo toàn
chủ lực, hoặc phản công để tiêu diệt địch, làm những việc mà trong
lệnh vua không có. Vua sẽ xem xét sau, đúng thì khen, sai thì trị
tôi, thì chém đầu. Tôi bây giờ là tướng biên cương. Tôi thấy có
trách nhiệm phải quyết định, phải quyền biến. Tôi không chấp nhận ý
kiến “đợi lệnh” của đồng chí
Hoàng Quốc Việt – một ý kiến tiêu cực. Tôi quyết định đánh! Đánh
lại ngay. Tôi xin trình với hội nghị lời kêu gọi kháng chiến sau đây
của Ủy ban kháng chiến để các đồng chí chỉnh lý, chuẩn y.”
Tôi liền đọc lời kêu gọi kháng chiến,
bất chấp sự phản đối của Việt (tựa như Phạm Ngọc Thạch đã bất chấp
chỉ thị của Hoàng Quốc Việt giải tán Thanh niên Tiền phong 2 tuần
trước đây). Đa số hội nghị tán thành bản kêu gọi.
Tôi đưa bản “kêu gọi” cho Tiểng đem
đi in ngay ở Chợ Lớn với số lượng lớn để kịp phát hành và dán ngay
buổi sáng. In như thế nào, cái đế dán trên tường, cái để truyền tay,
gửi các ô tô đi lục tỉnh. Tiểng đi ngay.
Việt lên án tôi là vô kỷ luật, vô
chính phủ. Tôi không phải là người thiếu mồm, thiếu chữ để đáp lại
Việt. Về tranh cãi, về lý luận, về đấu khẩu thì Hoàng Quốc Việt còn
xa mới là đối thủ của Trần Văn Giàu. Nhưng đấu khẩu làm gì? Hãy lo
chiến đấu với địch. Khi quyết định kháng chiến ngay, đánh trả ngay,
tôi đã thấy trước rằng “số phận” của tôi đã được quyết định, quyết
định đó ở trong tay Việt.
(Về sau, có người nói rằng tôi đã rút
súng, dằng súng trên bàn họp. Đâu có! Tôi đâu có võ phu đến thế,
nhưng tách dĩa trên bàn có lúc cũng động địa một chút).
Cuối cùng, khi Tiểng đi rồi, tôi nói:
“Tôi làm sai thì cụ Hồ Chí Minh
và chánh phủ sẽ trị tôi, trị tới mức nghiêm khắc nào cũng được, tôi
vui lòng chịu. Tôi làm đúng thì cụ Hồ Chí Minh, chính phủ và lịch sử
sẽ biết cho tôi. Tôi nhận lãnh trách nhiệm”.
Trước cửa nhà họp, hàng chục cán bộ,
nhân dân chí cốt tụ họp sớm giờ mỗi lúc thêm đông, chờ lệnh kháng
chiến.
Hội nghị chấm dứt. Đi ra tôi còn
ngoái lại nói một lần nữa: “Xứ ủy
và ủy ban hãy về Cần Đốt (Tân An);
đừng đi Mỹ Tho nghen; hãy nhớ rằng
Pháp có chiến thuyền xuất kỳ bất ý vào Mỹ Tho bằng ngõ cửa Tiểu như
hồi thế kỷ trước; mình sẽ chạy không kịp.” (Các anh không
nghe lời tôi, không nghe lời thằng thuộc lịch sử).
Chưa đầy 10 giờ sáng ngày 23 thì hàng
chục xe hơi, hàng trăm xe đạp, hàng ngàn đồng bào đua nhau phát lời
kêu gọi kháng chiến khổ nhỏ, chữ nhỏ, dán lời kêu gọi kháng chiến
chữ đậm, khổ lớn, kêu gọi của Ủy ban kháng chiến.
Anh Hoàng Quốc Việt một vài ngày sau
đó, cũng có một bài tuyên cáo lấy danh nghĩa Ủy ban nhân dân. Ai nấy
đều có thể so sánh hai bài. Nói thật, nhân dân không mấy ai để ý tới
bài của Việt dù là phát hành dưới danh nghĩa Ủy ban nhân dân Nam Bộ.
Ít ai để ý đến lời kêu gọi của Việt, mọi người đều hăm hở làm theo
lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ.
Trong cuộc hội nghị đường Cây Mai,
anh Nguyễn Văn Nguyễn rất ít phát biểu ý kiến; ý của anh lơ lửng. Về
sau, năm 1947 hay 1948, khi Nguyễn chết vì bệnh thương hàn ở Liên
khu 5, trên con đường ra Trung ương, người ta thấy trong cái sổ tay
của Nguyễn cái ý kiến trễ tràng mà cần thiết, hữu ích rằng ở hội
nghị đường Cây Mai trong vấn đề đánh hay không đánh, “ý kiến của thằng Giàu là đúng, ý
kiến của anh Việt là sai” (Tôi không được đọc, mà có nhiều
người đã đọc, trong số đó có Thạch, Tiểng, họ kể lại cho tôi).
Nhưng, than ôi! Đã đương đầu với
Việt trong một vấn đề lớn như thế (sau khi đã chống lại Việt ở nhiều
vấn đề quan trọng khác như Thanh niên Tiền phong, Hoà Hảo, đưa
trốtkít vào Ủy ban Nam Bộ, v.v…) thì Việt và tôi làm sao còn có thể
cộng tác được? Một người phải đi. Người phải đi khi ấy chỉ có thể là
tôi (và Phạm Ngọc Thạch), vì Thạch cũng đã đương đầu với Việt trong
vấn đề giải tán Thanh niên Tiền phong và cả vấn đề kêu gọi kháng
chiến). Buồn đời là, khi tôi bị Việt “đưa” ra Bắc thì đã tới Bắc
trước tôi, cái tin sai lầm, nguy hiểm, cái vu cáo trắng trợn là “Giàu bị đưa ra Bắc vì không chịu
kháng chiến”5.
Hay không! Người chủ trương kháng chiến bị tố cáo (ngầm) là không
chịu kháng chiến. Còn người không chịu kháng chiến thì được tiếng
thơm là chủ trương và lãnh đạo kháng chiến! Trời hỡi trời!
Bằng cớ đây, chối cãi sao được? Về
sau người ta viết “sử” nói rằng trong hội nghị Cây Mai, anh Việt ban
đầu không chịu đánh sau rồi thuận theo đa số cũng tán thành đánh.
Đâu có! Đâu có!
16. Hai bản kêu gọi
Mùa thu rồi, ngày hăm ba... Thuốc súng kém, chân đi không mà lòng người giàu lòng vì nước.
Nóp với giáo mang ngang vai nhưng thân trai nào kém oai hùng.
(Tạ Thanh Sơn, Nam Bộ kháng chiến)
(1) Lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ
Đồng bào Nam Bộ!Nhân dân thành phố Sài Gòn!Anh em công nhân, nông dân, thanh niên, tự vệ, dân quân, binh sĩ!Đêm qua, thực dân Pháp đánh chiếm trụ sở chính quyền ta ở trung tâm Sài Gòn.Như vậy là Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta một lần nữa.Ngày 2 tháng 9, đồng bào đã thề quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ độc lập của Tổ quốc:“Độc lập hay là chết!”Hôm nay, Ủy ban kháng chiến kêu gọi:Tất cả đồng bào, già, trẻ, trai, gái hãy cầm võ khí xông lên đánh đuổi quân xâm lược.Ai không có phận sự do Ủy ban kháng chiến giao phó thì hãy lập tức rời khỏi thành phố. Những người còn ở lại thì:– Không làm việc, không đi lính cho Pháp.
– Không đưa đường, không báo tin cho Pháp.
– Không bán lương thực cho Pháp.
– Hãy tìm thực dân Pháp mà diệt.
– Hãy đốt sạch tất cả các sở, xe cộ, tàu bè, kho tàng, nhà máy của Pháp.Sài Gòn bị Pháp chiếm, phải trở thành một Sài Gòn không điện, không nước, không chợ búa, không cửa hàng.Hỡi đồng bào!Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp và tiêu diệt tay sai của chúng.Hỡi anh em binh sĩ, dân quân, tự vệ! Hãy nắm chắc võ khí trong tay, xông lên đánh đuổi thực dân Pháp, cứu nước.Cuộc kháng chiến bắt đầu!Sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam BộTRẦN VĂN GIÀU
Ngay sau khi Pháp dùng vũ lực đánh chiếm trung tâm Sài
Gòn, Ủy ban kháng chiến đã có truyền đơn giải khắp các khu bị người
Pháp chiếm đóng, nhằm làm cho mỗi người Pháp hiểu rõ lập trường của
người Việt Nam yêu nước. Truyền đơn kêu gọi binh lính, viên chức
nhỏ, nhân dân lao động Pháp chớ nên giúp lũ thực dân xâm lược Việt
Nam. Nguyên văn tờ truyền đơn kêu gọi này là:
A
la population française de Saigon
Vous avez avoué: 80 ans de domination ont abouti à la faillite.
La
guerre que nous menons est une guerre de libération semblable à
celle menée par la Résistance Française contre l’Hitlerisme.
Comme vous, nous éliminons tous ceux qui essayent par la force de
nous subjuguer.
Nous ne sommes point des sicaires professionnels. Vos chefs facistes
nous obligent à nous défendre par tous les moyens.
“Tuer tous les Francais” n'est point notre but.
“Exproprier tous les étrangers” n'est point notre programme.
Nous l’avons dit, et nous le répétons: que la France
reconnaisse
officiellement l’indépendance du Vietnam et le gouvernement de
Hồ-Chí-Minh, d'un coup, la vie et les intérêts français seront
sauvegardés.
Si
au contraire, vos chefs persistent à vouloir dominer même une infime
partie de notre Vietnam, nous riposterons jusqu’à l’anéantissement
du dernier ennemi.
Français! Réfléchissez!
Vous avez appris aux événements de Syrie-Lyban. Ne tentez pas une
nouvelle expérience qui ne vous profiterait point.
Un
tract anonyme lancé des avions nous menace de représailles par les
tanks et les bombes.
Nous nous en moquons!
Le
bombardement de Cổ Am n' a pas empêché l’insurrection de Nghệ An.
Et
les massacres de 1940 conduisent tout droit au 25 Août 1945.
Soldats, petits fonctionaires et travailleurs français!
Ne
luttez pas pour les planteurs et les actionnaires de la Banque de
l’Indochine! Petits fils de la Grande Révolution, n'arrachez pas la
liberté à un peuple qui l’a conquise aux prix d'immenses sacrifices.
Pour le Comité de
Résistance
Trần Văn Giàu
Dịch ra tiếng Việt:
Người Pháp ở Sài Gòn hãy nghe đây!
Các
người đã thú nhận: 80 năm thống trị dẫn tới phá sản hoàn toàn.
Cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập của chúng tôi là cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc giống như cuộc kháng chiến của người
Pháp chống quân xâm lược Hitler.
Giống như các người, chúng tôi có quyền và có nhiệm vụ bảo vệ, giải
phóng Tổ quốc chúng tôi.
Giống như các người, chúng tôi tiêu diệt tất cả những ai dùng bạo
lực tròng ách lên cổ chúng tôi.
Chúng tôi không phải là kẻ chuyên nghề giết người. Chính bọn lãnh tụ
phát xít của các người bắt buộc chúng tôi phải tự vệ bằng mọi cách.
“Giết tất cả người Pháp” đâu phải là mục đích của chúng tôi!
“Giành lấy tài sản của tất cả người ngoại quốc”, đâu có trong chương
trình của chúng tôi? Chúng tôi đã nói rồi, chúng tôi nói lại rằng:
nước Pháp hãy chính thức công nhận độc lập của Việt Nam và chính phủ
Hồ Chí Minh, thì, tức khắc, sinh mạng và lợi quyền của người Pháp sẽ
được bảo đảm.
Ngược lại, nếu những người cầm đầu của các người cứ muốn thống trị
nước tôi cho dù là thống trị một phần nhỏ xíu của Việt Nam, thì
chúng tôi sẽ kháng chiến cho đến khi nào kẻ thù cuối cùng bị tiêu
diệt.
Hỡi
người Pháp! Hãy suy nghĩ!
Biến cố ở Syrie-Liban là một bài học cho Pháp. Pháp chớ nên thử
nghiệm một lần nữa, không đem lại lợi ích gì đâu!
Một
tờ truyền đơn nặc danh được máy bay rải xuống, đe doạ sẽ đàn áp
chúng tôi bằng bom và xe tăng.
Chúng tôi cóc sợ!
Pháp ném bom Cổ Am, mà có ngăn được khởi nghĩa Nghệ An nổ ra đâu?
Những vụ thảm sát năm 1940, dắt thẳng đến cuộc khởi nghĩa ngày
25.8.1945!
Hỡi
anh em binh sĩ, viên chức nhỏ và lao động Pháp! Chớ nên chiến đấu
cho lợi ích của bọn chủ đồn điền và bọn chủ nhà băng Đông Dương!
Hỡi các bạn là cháu chắt của cuộc Đại Cách mạng (Pháp)! Các bạn chớ
tước đi quyền tự do của một dân tộc đã hy sinh biết bao nhiêu là
xương máu để giành lại được quyền tự do ấy!
Thay mặt cho Uỷ ban
kháng chiến
Trần Văn Giàu
(2) Tuyên cáo của Hoàng Quốc Việt dưới danh nghĩa Uỷ ban nhân dân Nam Bộ
Tuyên cáo của Uỷ ban nhân
dân Nam Bộ
“Đồng bào Nam Bộ!
Vì
coi quân đội Anh là đại biểu của Đồng minh tới đất nước chúng ta
giải giáp quân đội Nhật để đem lại hoà bình cho dân chúng Đông
Dương, nên chúng tôi, Uỷ ban nhân dân Nam Bộ luôn luôn giúp cho quân
đội Anh làm nhiệm vụ được dễ dãi. Mặc dù có nhiều điều bất mãn, đã
nhiều lần chúng tôi kêu gọi quốc dân nên nén lòng căm giận để chờ
cuộc vận động ngoại giao với Đồng minh trên trường quốc tế. Nhưng do
sự nhân nhượng và dung túng của quân đội Anh, bọn thực dân Pháp đã
làm những điều quá đáng. Đêm 22 tháng 9, chúng nó cùng quân Anh đã
chiếm Sở Bưu điện và Sở Cảnh sát của ta. Sáng hôm 23 tháng 9, quân
Pháp công nhiên cùng quân Anh đến chiếm trụ sở của Uỷ ban nhân dân
Nam Bộ và Quốc gia tự vệ Cuộc. Chúng đã gây nhiều cuộc đổ máu ở
đường phố Sài Gòn. Rõ ràng là quân đội Anh đã cùng bọn Pháp công
nhiên làm sai trách nhiệm của Đồng minh đã uỷ thác cho họ.
Không lẽ chịu nhục hoài, và vì danh dự của dân tộc, chúng ta phải
coi trọng quyền lợi quốc gia, nên chúng tôi phải đánh điện ra cho
Chính phủ Trung ương xin phép kháng chiến. Chúng tôi đã:
1)
Lập Uỷ ban Kháng chiến để lo việc quân sự;
2)
Hạ lệnh tổng đình công và bất hợp tác với Pháp;
3)
Truyền đi lục tỉnh thi hành kế hoạch phá hoại đường giao thông, tiếp
tế để bao vây địch;
4)
Kêu gọi đồng bào tố cáo bọn Việt gian nguy hiểm.
Hỡi
đồng bào thân mến!
Mỗi
lần quân Anh lạm quyền, chúng tôi đã điện ngay cho thủ tướng Anh và
các nước Đồng minh. Chúng ta chịu nhịn nhục đến nay là cùng rồi.
Đồng minh đã hiểu những nguyên nhân sự hành động của ta đối với quân
địch. Các đoàn thanh niên; các đoàn bảo an mau mau cương quyết phấn
đấu. Các giới đồng bào hãy thi hành triệt để kế hoạch phá hoại và
chống quân địch.
Toàn dân hãy đoàn kết bảo vệ quốc gia”.
Uỷ ban Nhân dân Nam Bộ
Bản tuyên cáo này được đăng trên báo
Cứu Quốc (Hà Nội) ngày 29
tháng 9 năm 1945. Tôi không bịa ra được; Lời kêu gọi của Uỷ ban
kháng chiến cũng được Thạch lược dịch đăng báo tiếng Pháp ở Hà Nội,
được P.Devillers nhắc từng đoạn trong sách
Lịch sử Việt Nam
từ 1940-1952
6, được hàng chục vạn đồng bào đọc, nhớ thuộc lòng.
Vậy ai chủ trương đánh ngay? Ai chủ trương chờ
lệnh?
Thì sao lại truyền rằng ông Giàu vì không chịu
đánh nên “bị triệu ra Bắc”?
Vu cáo này tiếp vu cáo khác, đổ vào đầu tôi. Vu
cáo:
1. Rằng Giàu bán
Deschamps cho Pháp;
2. Rằng Pháp tổ chức cuộc “vượt ngục Tà Lài” cho Giàu và đồng bọn;
3. Rằng Thanh niên Tiền phong do bọn Giàu chủ trương là tổ chức của Nhật Bản.
4. Rằng bọn Giàu không chịu rước chính trị phạm Côn Lôn, sợ anh em họ về thì Giàu mất quyền;
5. Rằng Pháp đánh chiếm Sài Gòn thì Giàu không chịu phát động kháng chiến ngay.
2. Rằng Pháp tổ chức cuộc “vượt ngục Tà Lài” cho Giàu và đồng bọn;
3. Rằng Thanh niên Tiền phong do bọn Giàu chủ trương là tổ chức của Nhật Bản.
4. Rằng bọn Giàu không chịu rước chính trị phạm Côn Lôn, sợ anh em họ về thì Giàu mất quyền;
5. Rằng Pháp đánh chiếm Sài Gòn thì Giàu không chịu phát động kháng chiến ngay.
Trong vòng mấy năm mà chịu bao nhiêu điều vu cáo
tày trời như vậy, chịu đựng sao nổi? Sống sao nổi? Chết đi có
sướng hơn không? Nhưng, nếu chết tức là chịu thua, cái láo sẽ trở
thành cái thiệt.
Chú thích của người biên tập
1 Dewey: Albert Peter Dewey (1916-1945) thiếu tá
tình báo, phụ trách phân đội 404 của OSS (Cơ quan tình báo chiến
lược của Mỹ, được thành lập trong Thế chiến lần thứ nhì) được
gửi tới Sài Gòn tháng 9.1945 để hồi hương quân nhân Mỹ bị Nhật
Bản bắt làm tù binh, theo dõi việc giải giới quân Nhật ở phía
nam vĩ tuyến 16 và theo dõi tình hình Nam Bộ. Peter Dewey tỏ ra
rất nhạy bén, hiểu rõ sức mạnh của phong trào dân tộc qua những
tiếp xúc với các ông Phạm Ngọc Thạch, Trần Văn Giàu, Phạm Văn
Bạch. Sau 20 ngày ở Sài Gòn và hai ngày trước khi chết, Peter
Dewey viết trong báo cáo gửi OSS: “Nam Bộ đang bùng cháy.
Người Pháp và người Anh sẽ bị kết liễu nơi đây và chúng ta
[người Mỹ] cũng sẽ phải rời khỏi Đông Nam Á” (Cochinchina is
burning, the French and British are finished here, and we [the
Americans] ought to clear out of Southeast Asia)
(24.9.1945). Nhận định sáng suốt của viên sĩ quan 29 tuổi này
đối lập với lập trường thực dân của tướng Gracey (chỉ huy phái
bộ Anh) và đại tá Cédile (phái viên Pháp), và của cả chính quyền
Mỹ (lúc đó, tổng thống Harry Truman đã chấp nhận để Pháp trở lại
Đông Dương, tiếp tục chủ trương của Roosevelt trước khi chết).
Cùng ngày 24.9.1945, Gracey quyết định Dewey là “personna non
grata”, phải rời khỏi Việt Nam. Hai ngày sau, trên đường ra sân
bay Tân Sơn Nhất, ông bị bắn chết. Một số người Mỹ nghi rằng đây
là do Anh-Pháp mưu sát, nhưng có nhiều khả năng ông bị du kích
bắn tại một nơi từng có đụng độ với quân Pháp, ông bị hiểu lầm
là Pháp (Gracey cấm không cho Dewey và cộng sự treo cờ Mỹ trên
xe). Dewey là quân nhân Mỹ đầu tiên bị chết và mất tích ở Việt
Nam. Về hoạt động và cái chết của ông, có thể đọc tác phẩm (có
trên mạng,
xem đây) của Archimedes L. A. Patti: Why Viet Nam? Prelude
to American Albatros, University of California Press, Berkeley &
Los Angeles & London, 1980 và bài viết khá đầy đủ của Phan Văn
Hoàng: Bi kịch Albert Peter Dewey trên mạng
Giao Điểm.
-
La Grandière: sau thành Gia Long, nay là Lý Tự Trọng.
-
Charner: Nguyễn Huệ
-
Léon Combes: Sương Nguyệt Ánh
4 Thời Godart Brévié: ám chỉ thời kỳ đấu tranh dân
chủ hợp pháp 1936-1938 ở Sài Gòn. Jules Brévié
(1880-1964): thống đốc Nam Kỳ (1938-1939), đã từng làm thống
đốc Tây Phi thuộc Pháp, sau đó làm bộ trưởng thuộc địa dưới thời
Pétain; sau khi nước Pháp được giải phóng, bị tước các ưu quyền
và huân chương. Justin Godart (1871-1956): chính khách
xã hội cấp tiến, có tư tưởng tiến bộ, bảo vệ quyền lợi người lao
động, bảo vệ nhân quyền, chống đàn áp người Do Thái. Trong thời
kì Mặt trận Bình dân, việc chuẩn bị phái đoàn thanh tra của
Godart (rốt cuộc không bao giờ sang) trở thành cái cớ cho một
cuộc vận động quần chúng lớn ở Đông Dương, đặc biệt ở Nam Kỳ với
nhóm La Lutte (cộng sản và trốt-kít). Năm 1946, J. Godart
tham gia thành lập Hội “France-Vietnam” ủng hộ chính phủ Hồ Chí
Minh.
5 Ở hai phần trước, người đọc đã thấy rõ sự thiểu năng, kém
nhạy bén của nhân vật Hoàng Quốc Việt, mà sự trung kiên và cương
quyết không cần bàn cãi. Việc tung lời đồn ác ý về Trần Văn Giàu
như vậy, không biết do Hoàng Quốc Việt hay do “phe Giải Phóng”
(hay do cả hai), nhưng rõ ràng nó biểu hiện bước đầu của một quá
trình lưu manh hóa. Các nhà sử học sẽ phải nghiên cứu vai trò
của ông Hoàng Quốc Việt với tư cách Trưởng ban Tổ chức Trung
ương Đảng đầu thập niên 1950, trong các cuộc “chỉnh đảng” dưới
ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao, cũng như cuộc cải cách ruộng đất
(bên cạnh Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng…). Đây quả là điển hình
của công thức nổi tiếng nhiệt tình + ngu dốt = tai họa.
Phần
thứ năm
TỔNG KHỞI NGHĨA THÀNH CÔNG:
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP BẮT ĐẦU
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP BẮT ĐẦU
(tiếp theo và hết)
17. Chính phủ
VNDCCH - Hồ Chủ tịch tán thành kháng chiến
Huấn lệnh của Chính phủ lâm
thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
gởi cho nhân dân Nam Bộ
gởi cho nhân dân Nam Bộ
Bốn ngày sau 23 tháng 9, nhân
dân Nam Bộ nhận được Huấn lệnh sau đây của Chính phủ. Nguyên
văn của Huấn lệnh là:
“Hỡi đồng bào Nam Bộ!Lòng cương quyết dũng cảm của nhân dân Nam Bộ chống lại quân đội xâm lăng của Pháp chẳng những đã làm cho đồng bào toàn quốc cảm phục, mà lại đã chứng tỏ cho thế giới đều biết cái quyết tâm độc lập của nhân dân Việt Nam.Hiện nay, đồng bào Nam Bộ đang đi qua những bước khó khăn gay go. Điều đó là một sự dĩ nhiên trên con đường tranh đấu cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Đồng bào phải kiên quyết, phải giữ vững sự tin ở tương lai và lập tức thi hành triệt để những lời thề quả quyết trong ngày độc lập.Hỡi các đồng chí phụ trách! Các đồng chí phải căn cứ theo chính sách tranh thủ hoàn toàn độc lập của chính phủ và điều kiện thực tế của Nam Bộ mà định phương châm hành động cho đúng, làm sao cho giữ gìn được thực lực chính trị và quân sự, đồng thời tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam không chịu ách nô lệ của thực dân Pháp một lần nữa.Trong giờ phút nghiêm trọng này, chính phủ kêu gọi đồng bào yêu quý Nam Bộ phải đoàn kết chặt chẽ muôn người như một, dũng cảm và thận trọng, kiên quyết và trầm tĩnh, nghe theo lời chính phủ để đưa cuộc giải phóng của chúng ta đến thắng lợi cuối cùng”.
Thế là
Chính phủ tán thành chủ trương kháng chiến. Ai nấy đều vô cùng phấn
khởi. Riêng tôi tự hào là đã dám quyết định trong lúc khó khăn nhất,
và quyết định không sai ý cụ Hồ. Lạ đời là Hoàng Quốc Việt giấu mãi
bức điện của Trung ương; không gởi cho tôi, nhưng tôi vẫn biết.
18. Câu chuyện
mười năm kết thúc
(đoạn này viet-studies đã đăng rồi,
nay đăng lại để giữ sự liên tục)
(đoạn này viet-studies đã đăng rồi,
nay đăng lại để giữ sự liên tục)
Việc
gì rồi cũng phải có kết thúc, duy kết thúc hay dở, đúng sai là vấn
đề khác. Một ngày, tôi nhớ đâu là đầu năm 1988, tốt trời, tôi được
Lê Đức Thọ[1]
mời dự buổi chiêu đãi ở T.78[2]
với một số đồng chí. Tôi lấy làm lạ: là bởi vì, ở Hà Nội từ 1954 đến
1976, anh Thọ chưa hề đến nhà riêng tôi, chưa hề gọi tôi lên văn
phòng hay nhà riêng của anh. Còn tôi thì tôi quen cái tánh “mọi rợ”
là chưa bao giờ tự mình đến thăm bất cứ ai có chức, có quyền lớn hơn
tôi – trừ trường hợp duy nhất là cụ Tôn Đức Thắng mà tôi thỉnh
thoảng lên thăm, trước hết là vì anh Hai Thắng cứ vài ba tháng thì
xuống thăm hai vợ chồng tôi một lần.
Bữa
chiêu đãi hôm đó của anh Thọ, có mặt bốn người được mời: chị Năm Bi[3],
Tào Tỵ[4],
Tô Ký[5],
và tôi – Trần Văn Giàu.
Ăn
uống, trò chuyện thân mật. Không có riêng bàn về vấn đề gì cả.
Lúc
buổi tiệc tàn, anh em sắp chia tay, thì tôi xin nói một tâm sự, nói
với Thọ, giữa Bi, Tỵ, Ký:
“Tôi
cảm ơn anh Sáu mời cơm với các bạn đều là quen thân từ lâu. Tôi có
việc tâm sự cần nói với anh Sáu, có các anh chị nghe, nghe tôi và
nghe anh Sáu sẽ nói sau. Các đồng chí cho phép tôi nói lối nói ở
trong tù, tôi và Thọ cùng ở banh 1, khám 8; Côn Lôn những năm
1935/1936. Đồng ý chứ?
– Tao
là Giàu, mày, ở khám 8, banh 1[6],
là Khải, Phan Đình Khải[7];
hôm nay chúng ta nói chuyện thân mật như cách đây mấy mươi năm, khi
còn ở ngoài Côn Lôn. (Tới đây, thì Thọ liền nói với các đồng chí
khách kia: hồi ở khám, ở banh tụi mình gọi nhau bằng mày tao như vậy
đó, không khi nào có thưa anh, thưa chú; hồi ở Côn Lôn chính Giàu
dạy tôi học chủ nghĩa Mác-Lênin, chớ trước đó mình có học gì bao
nhiêu đâu!).
Tôi
nói với Thọ: “Chúng ta là những người quá 70 tuổi, xấp xỉ 80 rồi,
sắp đi theo cụ Hồ rồi. Mấy mươi năm nay, tao chịu những cái hàm oan
mà mày, Khải, mày biết hết, biết rõ trắng đen. Chúng ta đều muốn đi
theo cụ Hồ một cách thanh thản. Vậy lần này, Thọ về Hà Nội hãy có
quyết định rõ, bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương về tất cả
những điều người ta vu cáo cho Giàu, được không?” Thọ hứa, hứa trước
mặt chị Năm Bi, anh Tào Tỵ, chú Ba Tô Ký.
Chủ
khách chia tay nhau trong vui vẻ, thân ái nữa.
Một
tháng sau, ủy viên thường vụ Thành ủy là Bảy Dự[8]
đến nhà tôi, đem cho tôi một bức thơ, mở ra, thấy cái quyết nghị của
Ban Tổ chức Trung ương mà tôi chờ đợi mấy chục năm nay. Người ký tên
không phải là Lê Đức Thọ mà là Nguyễn Đức Tâm, đương chức bí thư phụ
trách tổ chức như Thọ trước đây. Tôi đọc lên cho Dự nghe. Vả lại bức
thư không niêm, chỉ chuyển tải quyết nghị. Chắc ở Trung ương có bản
lưu: bốn việc tố cáo, vu cáo, quyết nghị này cho là không căn cứ;
còn một vụ là Deschamps 1935 thì quyết nghị nói rằng tôi, Giàu, có
chịu trách nhiệm.
Tôi
tuyên bố ngay với Bảy Dự rằng tôi không bằng lòng và tôi sẽ cãi. Dự
bảo với tôi rằng, như thế này thì tốt lắm rồi, cãi làm gì nữa. Tôi
nói lại rằng tôi sẽ nhờ Thành ủy gởi cho Ban Tổ chức một bức thơ để
tỏ rõ lại mọi việc. Tôi đã viết và gởi bức thơ đó, trong ấy không có
gì lạ hơn là hai bức thơ trả lời cho tôi của đồng chí Nguyễn Văn
Trân (Prigorny)[9]
và đồng chí trưởng ban Lịch sử Đảng thành phố – đã chép lại bên trên
và đã photocopy. (Xin xem Phụ lục dưới đây).
Một
tháng sau nữa, tôi được giấy của Ban Tổ chức Trung ương cho đi Liên
Xô nghỉ hè ở Sotchi (Hắc Hải).
Tôi
gởi lại cho Ban Tổ chức cái giấy mời ấy với lời cảm ơn thành thật và
lời cắt nghĩa vì sao tôi không đi nghỉ mát ở Hắc Hải, dù ý thì rất
muốn (mấy chục năm nay tôi chưa được cho đi nghỉ mát ở Liên Xô lần
nào). Tôi trình bày lý do là: Từ năm 1930, tôi để vợ trẻ[10]
của tôi ở nhà một mình, đi mãi, đi miệt, đi làm “cách mạng chuyên
nghiệp”. Từ 1930 đó cho đến sau Genève, tôi chỉ được về nhà hai lần,
một lần hơn tháng, một lần 9 ngày; hoạt động bí mật, ở tù, có vợ mà
bỏ vợ ở nhà mãi; tôi kháng chiến ở Bắc, vợ kháng chiến ở Nam, hai
đứa không ở gần nhau như vậy là gần một phần tư thế kỷ, hết tuổi
trẻ. Nay, hoà bình lập lại, tôi không đi nghỉ hè đâu xa mà không có
vợ tôi cùng đi. Vậy xin gởi lại giấy mời với lời cảm ơn thành thật
chớ không phải là chút hờn mát nào, xin các đồng chí ở tổ chức biết
cho.
Không
tới một tuần sau, Ban Tổ chức Trung ương gởi vào giấy cho vợ tôi
cùng đi nghỉ mát hơn một tháng ở Hắc Hải, viếng Moscou, Lêningrad.
Đó là vào năm 1988 thì phải, tôi nhớ không rõ. Kiểm lại, tôi thấy
trong hơn ba, bốn mươi năm bị hàm oan, tôi không hề rời công tác,
việc gì giao cho dầu nhỏ tôi cũng làm tròn, không giao việc gì thì
tôi viết sách, viết báo, dạy học và tôi đã đạt những thành tựu tôi
mong muốn, giữ vững tư cách đảng viên, giữ vững nhân cách Việt Nam.
19. Chiến
trường Sài Gòn lúc tôi ra đi
Người
trong cuộc kể lại có khi không được khách quan bằng nhà quan sát.
Chúng ta hãy đọc lại quyển sách Sài Gòn Septembre 45
(xuất bản năm 1947 ở Sài Gòn) của nhà báo Trần Tấn Quốc, nhà cầm bút
nổi tiếng của Điện Tín:
“Từ sáng ngày 23 tháng 9, Sài Gòn (nói cho đúng là: trung tâm Sài Gòn), đã chịu dưới quyền kiểm soát của quân đội Pháp và Đồng minh, nhưng về mặt quân sự, Sài Gòn hiện nằm trong vòng vây của dân quân. Theo lệnh của Uỷ ban kháng chiến thì (dân quân) chẳng những chặn đường không cho quân Pháp tiến ra ngoại ô, mà phải nhắm ngay Sài Gòn tập kích. Như vậy, trong nửa tháng đầu (sự thật, còn lâu hơn nữa), Sài Gòn bị cô lập. Lúc bấy giờ tình cảnh của người Pháp ở Sài Gòn ra sao? Họ có bị ảnh hưởng của cuộc phong toả kinh tế và các cuộc tập kích của dân quân chăng?“Muốn biết rõ chuyện trên đây, không gì hơn chúng ta nghe lời thuật của một nhà viết báo Pháp có mặt tại “Sài thành trong vòng vây” (nhà báo Pháp đó viết):“Từ sáng ngày 23 đến trưa ngày ấy, Sài Gòn được yên tĩnh. Nhưng đến xế chiều, tình thế đã biến hẳn. Một bộ phận dân quân Việt Nam tiến theo đường Verdun[11] tràn xuống trung tâm Sài Gòn chiếm chợ Bến Thành, kéo thẳng đến đại lộ Bonard, xả súng bắn. Mặt khác, nhiều bộ đội vượt kinh Tàu Hủ (tức sống cầu Ông Lãnh, arroyo chinois) đổ bộ lên Sài Gòn tiến thẳng về đại lộ La Somme. Trong vài vùng khác, người ta cho hay có những trận đánh. Tiếng súng nổ khắp nơi. Đại tướng Gracey liền triệu tập một cuộc hội họp báo giới. Chúng tôi sống âm thầm, không một ngọn đèn. Trong cảnh tối om ấy, mỗi người đều tự hỏi những gì đã xảy ra và mỗi người đều đặt nhiều câu hỏi hối thúc. Đại tướng Gracey bình rĩnh giải bày rằng ông còn hy vọng một cuộc giải quyết hoà bình.“Ở xa xa, nhiều đám cháy ngùn ngụt đỏ trời. Một cảnh tượng kinh hoàng bao trùm nhà hàng Continental. Rất đông đàn bà và trẻ con Pháp lánh nạn tại nhà hàng, mà nơi đây, không còn một miếng nước, không còn một tia sáng của đèn điện. Ở đây, thỉnh thoảng, lại được tin những người Pháp lẻ loi, vừa bị thiệt mạng. Những tin điện đầu cứ truyền ra, phần thì tiếng súng nổ không ngớt, làm rối loạn tinh thần. Còn Việt Minh hiện giờ họ chiếm đóng tất cả các khu vực ngoại ô. Mặc dù ý muốn của đại tướng Gracey là không gây lớn chuyện, nhưng sự dùng võ lực từ đây không tránh khỏi. Còn đại tá Cédile không ngớt yêu cầu quân tuần tiễu thật đông đi khắp nơi. Ở vùng Tân Định, nhiều tử thi người Pháp nằm sóng sượt. Đêm 25 tháng 9, cả thành phố vẫn không nước, không đèn và không lương thực. Những người Pháp chỉ còn có nước cuối cùng là đi đến các quán cóc dơ dáy của Hoa kiều, mà tại đây người ta còn tìm được vài cặp lạp xưởng và cơm lạt. Trong các quán cóc bẩn thỉu, ngồi bên những anh khu bến tàu, người ta thấy được nhiều vị cựu thượng quan Pháp không còn khó tánh trước sự dơ dáy, ngồi trên chiếc ghế đẩu bằng gỗ, dùng đũa ăn cơm.“Lúc này dân chúng Pháp không sao ngủ được. Họ xao xuyến và mệt mỏi. Đại tá Cédile viết một tờ bố cáo kêu gọi người Việt Nam bình tĩnh khuyên họ trở lại với công việc làm. Song, những chứng chỉ rõ ràng để đáp lại: tất cả người Việt Nam kéo nhau ra khỏi thành phố.“Trong một thành phố tối om mà lúc bấy giờ không khí chiến tranh và cách mạng đương bao trùm, những gia đình phải khóc thêm cho người trong thân quyến vừa tử nạn. Tất cả đều phập phồng lo sợ ở ngày mai…”.
Sau khi trích bài tường thuật
của một nhà báo Pháp, Trần Tấn Quốc viết tiếp:
“Xin nhắc lại, đoạn trên đây là lời thuật của một ký giả Pháp đã từng sống trong lúc Sài Gòn bị bao vây, trong Sài thành sau ngày 23 Septembre.“Càng ngày Sài Gòn càng chìm sâu trong nguy ngập. Trong thành phố chết ấy, người ta khó tìm thấy một người Việt Nam. Súng vẫn nỗ. Dân quân đã bắt đầu dùng chiến thuật du kích, lúc ẩn, lúc hiện, đột nhập thình lình để phá hoại chớp nhoáng và lập tức rút lui trong im lặng. Người ta có thể ví lối đánh này là một chiến thuật xuất quỷ nhập thần. Chẳng những thường dân Pháp phải kinh sợ ngày đêm bởi không thể đoán được Việt quân sẽ xuất hiện giờ nào và chỗ nào, mà cả đến quân đội Pháp, Anh, Ấn cũng không thể ngăn ngừa được. Trước tình thế ấy, quân đội chiếm đóng Sài Gòn chỉ dùng hai phương pháp: một là tự vệ và phản công khi bị tấn công, hai là mở cuộc tảo thanh trong (trung tâm) thành phố.“Ngày 25 tháng 9, một cuộc tàn sát xảy ra tại xóm R. Héraut (khu cư dân Pháp ở Tân Định) mà đến bây giờ thỉnh thoảng một số người Pháp ỏ đây còn nhắc lại để tố cáo một cách nặng nề người Việt Nam. Cơn khủng khiếp chưa qua khỏi trong lòng người (thì) đến tối lại, không biết xuất phát từ nơi nào, Việt quân kéo ngay vào trung tâm thành phố, phóng hoả đốt chợ Bến Thành. Lửa bốc đỏ trời; dân chúng Pháp hoảng hốt bồng bế đến nhà hàng Continental, đến bệnh viện Đồn Đất[12] tị nạn.“Lúc bấy giờ, ban ngày của Sài Gòn thuộc về quyền kiểm soát của quân đội Pháp, Anh, Ấn; ban đêm của Sài Gòn hoàn toàn về tay Việt quân…“Sài Gòn vẫn còn nằm trong tình trạng kinh khủng. Du kích quân luôn luôn đột nhập tấn công các đồn lính trong châu thành. Không ngày nào không có đám cháy. Đêm đêm súng càng nổ vang, lửa bốc đỏ trời…“Cuối tháng 9, tình hình chưa có gì thay đổi. Về mặt quân sự, vòng vây Sài Gòn thêm thắt chặt. Ở đây các đường nối liền Sài Gòn và vùng ngoại ô đều có trận đánh dữ dội. Đánh ở cầu Bông, đánh ở cầu Kiệu, đánh ở Khánh Hội. Đánh khắp nơi. Người ta đồn sắp có lệnh tấn công. Rồi người ta đồn sắp thương thuyết…“… Hôm nay 10 tháng 10, truyền đơn và bố cáo rải khắp vùng ngoại ô với hai khẩu hiệu:- Chừng nào Sài Gòn hoá ra tro tàn, quân Pháp mới chiếm được Sài Gòn.- Chừng nào Nam Bộ biến thành sa mạc, dân Pháp mới chiếm được Nam Bộ.“Xế ngày 10 tháng 10, một trận kịch chiến xảy ra cách trung tâm Sài Gòn 3km về phía Tây Bắc, một đoàn lính Gourkas bị dân quân tập kích, nhiều sĩ quan, binh sĩ Anh, Ấn bị thiệt mạng. Chiều lại, nhiều bộ đội dân quân ở Xóm Chiếu tràn qua Sài Gòn, hiệp với du kích cảm tử quân trong thành phố đột kích bót cảnh sát quận Nhì ở đường Boresse. Tối đến, súng nổ đều, dữ dội nhất là ở phía bắc Sài Gòn; dân quân thừa đêm tràn qua cầu Bông, cầu Kiệu đột nhập Sài Gòn công kích các nơi đồn trú của quân Pháp ở vùng Đakao. Sáng ngày sau, súng vẫn nổ…”.
Tình
hình kháng chiến lúc đầu là như vậy, nói cho đúng, sự thật là mười,
ngòi bút tả chỉ được năm, ba thôi. Ngay cả tôi ở Tổng hành dinh Bình
Điền cũng không biết hết các trận đánh và các cuộc phá hoại (anh em
chiến đấu nhiều mà báo cáo ít, cái tốt của người chiến binh cách
mạng, thì nhà báo với tai mắt mình biết làm sao hết được).
Ở các
mặt trận nào có nổ súng đều có tôi đến. Có mấy lần gọi là đi “lược
trận”, nhưng sự thật là tôi muốn có mặt ở nơi này nơi nọ trong khói
lửa, chủ yếu là để cho quân dân thấy tận mặt rằng Uỷ ban kháng chiến
không phải ngày đêm ngồi ở phòng giấy của Bộ Tư lệnh. Một cách làm
cho chiến sĩ và nhân dân thêm tin tưởng, thêm kiên quyết chiến đấu.
Tôi có mặt ở cầu Thị Nghè, cầu Kiệu. Tôi đến thăm các mặt trận đông,
mặt trận tây của thành phố. Tôi đi lập mặt trận nam, hội họp ở nhà
việc làng Đa Phước với các lãnh tụ các nhóm Bình Xuyên, Ba Dương,
Tám Mạnh, Bảy Viễn, Mười Trí và chính uỷ của anh em đó là Bảy Trân -
Prigorni. Kể một chuyện tiếp xúc với một nhóm Bình Xuyên cho vui:
Hôm đó tôi đi tổ chức Uỷ ban kháng chiến miền Đông (ở Biên Hoà) về
đến Bà Quẹo, gặp Mười Trí và toán quân của anh ấy. Họ mời tôi vào
trụ sở để báo cáo. Không biết tại sao mà, khi tôi ngồi nghe báo cáo,
một tay dự họp lăm le một quả lựu đạn nãy giờ, để quả lựu đạn sẩy
tay lăn trên bàn; mọi người đều lập tức “lặn” dưới bàn. Tôi cũng hết
hồn muốn lặn theo, nhưng linh tính bảo tôi trông chừng Mười Trí; tôi
thấy Mười Trí bình tĩnh ngồi yên, cho nên tôi cũng ngồi yên. Lựu đạn
lép! Các anh giang hồ dùng để thử coi người ta có yếu bóng vía
không? May quá. Tôi ngồi yên như Mười Trí. Từ hôm đó, Mười Trí càng
gần tôi. Lần sau, tôi trở lại Bà Quẹo để đi lên Xuân Lộc đón các chi
đội từ Bắc vào tới, do Vũ Đức, Quang Trung, Nam Long chỉ huy, vào
trợ chiến cho đồng bào Sài Gòn Nam Bộ. Gặp lại tôi, Mười Trí mỉm
cười, “xin lỗi” về cái vụ “lơ đễnh” hôm trước.
Quân
Pháp bị bao vây ngặt nghèo trong Sài Gòn. Mà đại quân Pháp do tướng
Leclerc cầm đầu thì chưa tới. Nên Gracey, Cédile yêu cầu ngừng chiến
để thương thuyết. Ta biết chán chúng nó “dục hoãn cầu mưu”, chờ
Leclerc và đại binh Pháp tới. Nhưng, về phần chúng ta, chúng ta cũng
cần có thời giờ để củng cố, chuẩn bị thêm. Đình chiến ít hôm, đại
binh Pháp bắt đầu tới Sài Gòn. Thì cuộc chiến lại tiếp diễn. Bọn
Pháp ở Sài Gòn xem Leclerc như cứu tinh. Quân Pháp có Anh, Ấn và
Nhật tiếp sức bắt đầu phá vòng vây. Chiến sự lại rộ lên một lần nữa.
Súng nổ và lửa cháy càng nhiều hơn.
Chính
lúc này là lúc tôi và Thạch được lệnh của Việt chuyển cho là Chỉnh
phủ Trung ương “mời” chúng tôi ra Hà Nội ngay. Tôi giao quyền cho
đồng chí Tôn Đức Thắng, Thạch để nhiệm vụ đối ngoại cho Việt. Tôi
đâu phải là con “gà rót”[13].
Tôi lại vừa đi rước mấy chi đội của Vũ Đức, Quang Trung, Nam Long từ
Bắc cấp tốc vào chi viện. Vậy mà tôi phải rời chỗ chiến đấu nóng
bỏng để ra Bắc! Hôm tôi từ giã anh em ở Tổng hành dinh (Bình Điền,
Chợ Đệm) phần lớn các đồng chí đều ngạc nhiên, vài anh rưng nước
mắt. Bảy Trân nói khẽ: “Mày biết tích Nhạc Phi về triều không?”.
Tôi đáp: “Sao lại không? Nhưng chắc chắn không đến nỗi nào đâu!”.
Thạch
và tôi lên xe, qua trường đua Phú Thọ, lên ngã tư Bảy Hiền, đến Gò
Vấp, vẫn nghe tiếng súng nổ đều. Lên tới cầu Biên Hoà, dừng xe ngó
về thành phố, vẫn thấy Sài Gòn cháy đỏ rực từ mấy tuần rày. Kẻ địch
hãy còn bị bao vây quân sự và kinh tế trong Sài Gòn, hẳn không phải
vì bọn tôi có tài năng đặc biệt gì mà vì toàn dân kháng chiến, vì
đại quân Pháp chưa tới đủ. Chúng đang tới. Nam Bộ sắp bị tiến công
lớn, sẽ gặp khó khăn nhiều, mà mình thì lại phải rời chiến trường.
Buồn thay!
Trần
Văn Giàu và Phạm Ngọc Thạch phải rời Sài Gòn. Đứng trên cầu Biên
Hoà, ba tuần sau nổ súng, đêm nay vẫn còn thấy Sài Gòn rực cháy lửa
đấu tranh kháng chiến. Gần một tháng rồi quân xâm lược bị bao vây
trong “một Sài Gòn không điện nước, không chợ búa”.
Ra đi
khỏi Sài Gòn trong lúc Sài Gòn và Nam Bộ đang chiến đấu và chắc chắn
là sẽ còn tranh đấu lâu dài, lòng mình không thể không bời bời những
ý nghĩ phức tạp. Một mặt thì tin chắc rằng đảng bộ được củng cố bởi
đồng bào anh em ở Côn Lôn về, sẽ đủ sức đảm đương việc lãnh đạo
kháng chiến, vắng mình chắc không phải là lỗ trống không lấp được,
những mặt khác thì mình có vẻ như “bỏ hàng ngũ”; tôi sẽ bằng lòng
hơn nếu Hoàng Quốc Việt “hạ tầng công tác” tôi, chuyển tôi về một
vùng nhỏ bé xa xôi nào ở Nam Bộ hay là đưa cho tôi một trách nhiệm
mới hoàn toàn, ví dụ lên Cao Miên để giúp gây phong trào kháng chiến
ở đất Chùa Tháp, làm một “appui logistique”[14]
cho Nam Bộ. Đầu này, đi ra Bắc thì “đi dễ khó về” lắm, mà không về
Nam trong chiến tranh thì làm sao cho đồng bào, đồng chí hiểu được
mình? Có thể ngừng xe ở Dầu Dây, để một mình Thạch đi ra Bắc, mình ở
lại Nam Bộ, trở lại vùng Tà Lài, tự mình gây dựng cơ sở, tập hợp lực
lượng, không phải để “cát cứ nhất phương” mà để tạo ra một thứ chiến
khu làm chủ đường số 1, số 20, mà chẳng sớm thì chầy, Pháp và Anh sẽ
đánh chiếm để ra Trung Bộ và lên Tây Nguyên. Lượng sức, có thể làm
được việc ấy. Nhưng làm như vậy là mắc phải kỷ luật Đảng và Nhà
nước. Khó nghĩ quá! Thôi, đi ra Bắc rồi xin trở về Nam, nếu không
được sẽ xin đi Miên, cái appui logistique này cần quá, ai chớ
Võ Nguyên Giáp thì sẽ hiểu tôi ngay. Giáp chắc sẽ đồng ý, và tôi là
người tháo vát, chắc sẽ còn đất dụng võ, đất chùa Tháp đang cần có
phong trào, cần có người, chắc tôi không “thất nghiệp” đâu[15].
Và tôi vẫn còn có thể trả lời cho câu hỏi tất phải có của đồng bào
Sài Gòn và Nam Bộ: “Anh đi đâu, làm gì, mấy năm rồi?” mà
không bị xấu hổ.
Vậy
thì cứ tiếp tục, “an tâm” đi ra Bắc với Phạm Ngọc Thạch.
Việc
chiến đấu, như thế, tạm có phương hướng. Nhưng tâm trí vẫn bời bời
vì một vấn đề khác lâu nay như bị quên lửng: vấn đề gia đình.
Chắc
nay mai thôi, khi Pháp có đủ viện binh, thì chúng nó sẽ đi lên Biên
Hoà và đi xuống Tân An - Mỹ Tho. Chiến tranh sẽ sớm lan ra tới vùng
của gia đình tôi. Thì mẹ già và cô vợ của tôi sẽ lâm vào cảnh nào?
Ví mình còn ở gần đó thì có thể giúp gia đình bằng cách này hay cách
khác. Nhưng mà, chiến tranh đã nổ ra gần cả tháng rồi, tôi có dịp
hai lần đi ô tô ngang nhà, nhà cách lộ chỉ một cây số thôi, mà tôi
không ghé nhà được lần nào, vậy thì, dù không đi ra Bắc, tôi cũng có
ích gì mấy cho gia đình đâu? Tôi ước mong biết mấy được gặp lại mẹ
tôi một lần nữa. Khi cách mạng tháng Tám thành công, tôi chỉ được
rước vợ tôi lên Sài Gòn sau 25 tháng 8, lần đó mẹ tôi không cùng đi,
phải ở nhà giữ nhà, hẹn lần khác, mà lần khác đó không có, chỉ có vợ
tôi lên Sài Gòn vài tuần rồi thì kháng chiến bắt đầu, tôi lại phải
cho người đưa vợ tôi về làng tảng sáng ngày 23. Chừng nào chúng tôi
sẽ được ở chung với nhau nữa? Nhớ hồi tháng 4 năm 1941, tôi mãn tù,
vợ tôi lên trước cửa Khám Lớn đón tôi về nhà, hai đứa tôi ở chung
nhau chỉ được có 9 ngày thì tôi lại bị bắt nữa, đày lên Tà Lài; rồi
tôi vượt ngục, xa nhà mãi cho tới cách mạng tháng Tám. Nay lại xa
nhà nữa, biết đến chừng nào sum họp mong đợi? Mà chiến tranh còn kéo
dài tới bao lâu? Ai biết? Bổn phận làm trai, làm dân, tôi làm được;
giỏi dở tuỳ đồng bào và lịch sử phán cho, không có gì phải suy tư
cho lắm, ít nhất là cho tới nay. Còn bổn phận làm con, làm chồng thì
tôi hoàn toàn không làm được gì. “Được cái này thì mất cái kia”, có
nhất thiết phải như vậy không? Lịch sử cận đại đã chứng minh rằng,
trong nhiều, rất nhiều trường hợp, nhất thiết phải như vậy! Việc
nước trước việc nhà.
Mà tôi
chắc rằng, kháng chiến dù gian lao mấy cũng sẽ thắng lợi, mất mát
mấy rồi cũng còn.
Thân mẫu và
thân phụ tác giả
(Mẹ tôi, tuổi quá 80, đã qua đời
khi tôi còn ở chiến trường Biển Hồ. Vợ tôi vào bưng biền, làm nhân
viên hậu cần cho quân đội, đến 1954 được tập kết ra Bắc).
PHỤ LỤC
Thư của Trần Văn Giàu
gởi cho Ban Tổ chức Thành ủy và Ban Tổ chức Trung ương.
|
Chú thích của người biên tập
[1]
Lúc này, hơn một năm sau Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt
Nam, ông Lê Đức Thọ không còn ở trong Bộ chính trị Trung
ương nữa. Trong những ngày trước Đại hội, ông đã lèo lái mọi
cách để ông Trường Chinh không ở lại tiếp tục làm tổng bí
thư, tạo thêm đà cho cuộc đổi mới (ông Phạm Văn Đồng bị lung
lạc, đã dùng nước mắt để thuyết phục ông Trường Chinh, nhân
danh sự “đoàn kết nội bộ”). Ba người rút ra làm cố vấn Ban
chấp hành Trung ương khóa VI. Với thế lực của bộ máy tổ
chức, an ninh, đối ngoại, quân đội, Lê Đức Thọ tiếp tục nắm
giữ nhiều quyền hạn, cho đến ngày ông mất (tháng 10.1990).
[2]
Khu trụ sở các ban trung ương của ĐCSVN ở thành phố Hồ Chí
Minh (phường 7, quận 3) tiếp giáp các đường Trần Quốc Thảo
và Lý Chính Thắng. T.78 là tên gọi của Cục quản trị, phụ
trách các cơ ngơi của ĐCSVN. Nhà ở “phía nam” của các ủy
viên Bộ chính trị nằm ở đây
[3]
Tức là bà Hồ Thị Bi (Hồ Thị Hoa). Thành lập và chỉ huy “Chi
đội 12” (tiền thân của Trung đoàn 312) đã lập nên những
chiến công hiển hách từ cuối năm 1945 ở vùng Hóc Môn. Lúc
này bà mới tập đọc, tập viết, ký tên BI trông như ba con số
131, nên quân đội Pháp ở vùng này gọi bà là “Madame 131”. Có
thể đọc thêm Nguyên Hùng:
Nam Bộ - Những nhân vật một thời vang bóng.
[4]
Nhà cách mạng lão thành, hoạt động cách mạng từ những năm
1930 ở Bạc Liêu. Làm nghề họa đồ, nên còn có tên là “Họa đồ
Lý”. Có thể đọc tiểu truyện của ông trong Tuyển Tập
Nguyên Hùng: Tà Lài tụ nghĩa (Hồi thứ nhất: Vì
Việc Nghĩa Tào Tỵ Thọ Nạn Tới Gia Định Gặp Bạn Công Trung).
[5]
Thiếu tướng Tô Ký sinh năm 1922 (Wikipédia viết 1919), tại
làng Bình Lý, Hóc Môn (nay là xã anh hùng Bình Mỹ, huyện Củ
Chi). Ông tham gia cách mạng từ năm 12 tuổi, năm 17 tuổi bị
bắt giải đi căng Tà Lài (1940). Đầu năm 1942, ông cùng 7
đồng chí vượt ngục và bị bắt giải lên Bà Rá cho tới ngày
Nhật đảo chính Pháp tháng 3. 1945. Ông là một trong những
người lập Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức
Hòa, sau là Chi đội 12. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được
thăng thiếu tướng, Chính ủy quân khu. Ông mất mùng 2 Tết năm
Kỷ Mão (1999). Theo Nguyên Hùng: Nam Bộ - Những nhân
vật một thời vang bóng (“TIỂU
TƯỚNG” TÔ KÝ CHINH PHỤC “NGƯU MA VƯƠNG”)
[6]
Banh (từ tiếng Pháp bagne): trại giam. Ở Côn
Đảo, có nhiều banh, mỗi banh gồm nhiều khám.
Thời Pháp, có 4 banh: banh 1 (trại Phú Hải), banh 2 (trại
Phú Sơn), banh 3 (trại Phú Thọ), banh 3 phụ (trại Phú
Tường), Chuồng Cọp, Chuồng Bò. Thời Mỹ, thêm trại 5 (Phú
Phong), trại 6 (Phú An), trại 7 (Phú Bình, còn gọi là Chuồng
Cọp Mĩ, phân biệt với Chuồng Cọp Pháp), trại 8 (Phú Hưng).
Tổng cộng 127 phòng giam, 42 xà lim, 504 phòng biệt lập
Chuồng Cọp. Các tên “Phú…” được đặt ra dưới thời Nguyễn Văn
Thiệu sau Hiệp định Paris, khi quần đảo Côn Sơn được gọi tên
là Phú Hải.
[7]
Phan Đình Khải là tên thật của ông Lê Đức Thọ. Cả hai đều
sinh năm 1911: Trần Văn Giàu ngày 6 tháng 9, Lê Đức Thọ ngày
14 tháng 10.
[8]
Bảy Dự: bí danh của Nguyễn Võ Danh, từng giữ chức phó chủ
tịch Ủy ban Nhân dân TP HCM, phó bí thư Thành ủy Đảng bộ TP
HCM của ĐCSVN.
[9]
Tức Bảy Trân (đừng nhầm với Nguyễn Văn Trấn “ông già Chợ
Đệm”), sinh năm 1908, sang Pháp (Marseille) năm 15 tuổi. 19
tuổi, sang Liên Xô học trường Stalin (1927-1930), cùng khóa
Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Trần Phú, Bùi
Lâm, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Ngọc
Danh, Dương Bạch Mai, Trần Đình Long, Bùi Ái. Bí mật về nước
năm 1930. Một trong những đảng viên cộng sản hiếm hoi đã
tranh thủ được cảm tình và sự ủng hộ của đạo Cao Đài và hàng
ngũ Bình Xuyên. Cũng đã từng làm liên lạc giữa bí thư xứ ủy
Trần Văn Giàu với những trí thức yêu nước như Phạm Ngọc
Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Thiều... Xem thêm:
Nguyễn Văn Trân, người cảm hóa giang hồ Bình Xuyên trong
Nguyên Hùng (sách đã dẫn).
[10]
Bà Đỗ Thị Đạo. Khi Trần Văn Giàu bị trục xuất từ Pháp về (19
tuổi, năm 1930), cha mẹ ông buộc phải cưới vợ “cho tròn chữ
hiếu”. Cuốn hồi ký này, ông đề “tặng vợ tôi, bà Đỗ Thị
Đạo, người vợ trung thành, người đàn bà theo đúng truyền
thống Việt Nam và truyền thống gia đình”.
[11]
Đối chiếu tên đường phố Sài Gòn nói tới trong phần này:
Bonard:
nay là đại lộ Lê Lợi
Boresse:
nay là đường Bác sĩ Yersin. Những năm 1920-30, khu này được
gọi là khu Bột Đền (từ chữ Pháp bordel – nhà chứa, nhà thổ),
vì khu này có nhiều nhà chứa.
La Somme:
nay là đại lộ Hàm Nghi
Verdun:
trở thành đường Lê Văn Duyệt, nay là đường Cách mạng Tháng
Tám.
[12]
Bệnh viện Đồn Đất: nay là Bệnh viện Nhi đồng 2. Bệnh
viện này do người Pháp xây từ năm 1867, lần lượt mang tên
Bệnh viện Hải quân, Bệnh viện Quân đội, Bệnh viện Grall. Sau
ngày thống nhất (tháng 7.1976) Pháp chuyển giao cơ sở y tế
này cho chính phủ Việt Nam, trở thành bệnh viện dành cho cán
bộ cao cấp và trung cấp. Năm 1978, bệnh viện dành cho cán bộ
chuyển về Bệnh viện Thống Nhất (Vì Dân cũ), cơ sở Đồn Đất
trở thành Bệnh viện Nhi đồng 2.
[13]
Gà rót: từ lóng của giới chọi gà, chỉ con gà đã bị
thua một lần, sau đó, hễ gặp lại đối thủ là bỏ chạy.
[15]
Ông Trần Văn Giàu đã được cử sang Campuchia và Thái Lan tổ
chức hậu cần cho kháng chiến Nam Bộ, và cũng đã vận động
được nhiều thanh niên Việt kiều ở Thái Lan về nước chiến
đấu. Đầu năm 1947, ông được điều về Việt Bắc làm Tổng giám
đốc Nha thông tin.
[16]
Năm Đông: tức Dương Quang Đông, tức Dương Văn Phúc
(1902-2003). Ông Năm Đông là nhà cách mạng lão thành đã tham
gia Thanh niên Cách mạng đồng chí hội của lãnh lụ Nguyễn Ái
Quốc và sớm hoạt động trong Công hội Đỏ của cụ Tôn Đức
Thắng. Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kì. Trong thời kháng
Pháp, ông là Phó phòng Hàng hải Nam Bộ, phụ trách văn phòng
thường trực của ta ở thủ đô Xiêm quốc, Bangkok. Ông đóng vai
doanh thương có cửa hàng xuất nhập cảng lớn tại thủ đô
Bangkok, mua sắm tàu biển chở súng đạn, hóa chất, máy móc về
nước đánh Tây. Trong cuộc sống đầy gian nguy giữa hàng ngũ
mật vụ Pháp bố trí dày đặc ở Xiêm, dưới cái tên Xiêm là Nai
Chran ông vẫn bình tĩnh làm tròn sứ mạng của mình cho tới
ngày bị phe đảo chính bắt. Xem tiểu sử đầy đủ trong cuốn
Dương Quang Đông xuyên Tây của Nguyên Hùng
(sách đã dẫn). Những năm cuối đời, tuy tuổi cao, ông vẫn lên
tiếng chống tiêu cực và sự lưu manh hóa hàng ngũ đảng (như
tố cáo sự gian trá của tướng Lê Đức Anh).
[17]
Deschamps là đảng viên Đảng cộng sản Pháp, làm thuyền
trưởng. Trong cương vị này, ông làm giao liên giữa hai đảng,
và cung cấp sách báo tài liệu cho ĐCSVN. Deschamps bị bắt
năm 1935 cùng với Trần Văn Giàu. Các nhân chứng ông Giàu kể
trong thư này, và nhiều người khác đều cho biết ai là người
tố giác và khai báo về Deschamps và Trần Văn Giàu (xem
Nguyên Hùng, sách đã dẫn).
[18]
Bảy Huệ tức Ngô Thị Huệ hoạt động cách mạng từ những năm
1930, hai lần tù. Bà kết hôn với ông (Mười Cúc) Nguyễn Văn
Linh (tổng bí thư tương lai) năm 1948. Hai người gặp nhau
lần đầu trước đó ba năm, khi Bảy Huệ thay mặt tỉnh ủy Sóc
Trăng ra đón đoàn tù trở về từ Côn Đảo.
[19]
Ba Nhâm tức Trương Văn Nhâm hay Trương Quang Nhâm. Từng làm
bí thư tỉnh ủy Trà Vinh. Một trong tám người vượt ngục Tà
Lài (đợt 2) năm 1942, cùng với Trần Văn Giàu, Dương Văn Phúc
(tức Dương Quang Đông), Châu Văn Giác, Trần Văn Kiết (Kiệt),
Nguyễn Công Trung, Nguyễn Hoàng Sính (Đức), Tô Ký.
./.
No comments:
Post a Comment
Enter you comment ...